You are on page 1of 44

NAN

KINH
Mục Lục
NAN 1
NAN 2
NAN 3
NAN 4
NAN 5
NAN 6
NAN 7
NAN 8
NAN 9
NAN 10
NAN 11
NAN 12
NAN 13
NAN 14
NAN 15
NAN 16
NAN 17
NAN 18
NAN 19
NAN 20
NAN 21
NAN 22
NAN 23
NAN 24
NAN 25
NAN 26
NAN 27
NAN 28
NAN 29
NAN 30
NAN 31
NAN 32
NAN 33
NAN 34
NAN 35
NAN 36
NAN 37
NAN 38
NAN 39
NAN 40
NAN 41
NAN 42
NAN 43
NAN 44
NAN 45
NAN 46
NAN 47
NAN 48
NAN 49
NAN 50
NAN 51
NAN 52
NAN 53
NAN 54
NAN 55
NAN 56
NAN 57
NAN 58
NAN 59
NAN 60
NAN 61
NAN 62
NAN 63
NAN 64
NAN 65
NAN 66
NAN 67
NAN 68
NAN 69
NAN 70
NAN 71
NAN 72
NAN 73
NAN 74
NAN 75
NAN 76
NAN 77
NAN 78
NAN 79
NAN 80
NAN 81

NAN 1

Nhất Nan viết: “Thập nhị kinh giai hữu động mạch. Độc thủ thốn khẩu dĩ
quyết ngũ tạng lục phủ tử sinh cát hung chi pháp hà vị dã ?” - Nhiên: “ Thốn
khẩu giả, mạch chi đại hội, thủ Thái âm chi mạch động dã. Nhân nhất hô,
mạch hành tam thốn, nhất hấp mạch hành tam thốn, hô hấp định tức, mạch
hành lục thốn. Nhân nhất nhật nhất dạ, phàm nhất vạn tam thiên ngũ bạch
tưc, mạch hành ngũ thập độ, chu ư thân , lậu thủy há bách khắc Vinh Vệ hành
Dương nhị thập ngũ độ, hành Âm nhị thập ngũ độ, vi nhất chu dã. Cố ngũ
thập độ phục hội ư thủ Thái âm thốn khẩu giả ngũ tạng lục phủ chi sở chung
thỉ, cố pháp thủ ư Thốn khẩu dã”.
* Điều 1 Nan nói: “12 kinh đều có động mạch nhưng chỉ cần thủ mạch ở
Thốn khẩu để làm phép đoán việc lành dữ, chết sống của ngũ tạng lục phủ
mà thôi. Nói như vậy có nghĩa là gì ?
Thực vậy: “Thốn khẩu là nơi đại hội của mạch, là động mạch của kinh
thủ Thái âm. Con người mỗi lần hô (thở ra) thì mạch hành 3 thốn, mỗi lần
hấp ( thở vào) mạch cũng hành 3 thốn. Hô hấp định tức, mạch hành 6 thốn.
Con người mỗi ngày đêm thở gồm 13.500 tức, mạch hành 50 độ, chu 1 vòng
thân thể, lậu thủy ( nước chảy xuống ) chảy đầy 100 khắc,khí Vinh Vệ vận
hành ở dương phận 25 độ, vận hành ở âm phận cũng 25 độ, thành 1 chu. Cho
nên phép chẩn phải thủ mạch Thốn khẩu”.

NAN 2

Điều 2 Nan ghi: “ Mạch có Xích và có Thốn, nghĩa là thế nào?


Thực vậy, Xích và Thốn là nơi đại yếu hội của mạch. Từ ( vị trí bộ )
Quan cho đến (vị trí bộ) Xích, gọi là ‘Xích nội’, thuộc về phần Âm khí quản
trị. Từ bộ Quan cho đến huyệt Ngư tế gọi là ‘Thốn nội’, thuộc về phần
Dương khí quản trị.
Cho nên tách 1 phần của Thốn làm Xích, tách 1 phần của Xích làm Thốn.
Cho nên, Âm được 1 thốn trong xích nội và Dương được 9 phân trong
Thốn nội. Sự chung thỉ của Xích và Thốn gồm có ‘1 thốn và chín phân’. Đó là
ý nghĩa để gọi tên Xích và Thốn vậy

NAN 3

* Điều 3 Nan ghi: “Mạch có Thái quá, có Bất cập, có Âm Dương tương
thừa, có Phúc, có Dật, có Quan, có Cách, nói thế nghĩa là thế nào ?”
Thực vậy: “Phía trước Quan là nơi động của Dương, mạch phải (dương)
hiện ra 9 phân mà Phù. Nếu quá (mức) thì phép gọi là Thái quá; nếu giảm hơn
thì phép gọi là Bất cập. Nếu nó đi thẳng lên đến huyệt Ngư tế thì gọi là Dật,
là Ngoại quan, Nội cách. Đây là mạch “Âm thừa”.
Phía sau Quan là nơi động của Âm, mạch phải hiện ra 1 thốn mà Trầm.
Nếu quá (mức) thì phép gọi là Thái quá; nếu giảm hơn thì phép gọi là Bất
cập. Nếu nó đi thẳng nhập vào huyệt Xích trạch thì gọi là Phúc, là Nội quan,
Ngoại cách. Đây là mạch “Dương thừa”.
Cho nên nói rằng: “Nếu gặp phải mạch Phúc và mạch Dật thì đó là mạch
thuộc chân tạng. Con người (gặp trường hợp này) không bệnh cũng chết”.

NAN 4

* Điều 4 Nan ghi:“Mạch có cái phép Âm Dương. Nói như vậy nghĩa là thế
nào ?”
Thực vậy: “Thở ra (hô xuất) do Tâm và Phế, hít vào (hấp nhập) do Thận
và Can. Trong khoảng hô và hấp, Tỳ nhận lấy “cốc” và “vị”. Mạch của nó ở
trung (giữa).
Phù thuộc Dương, Trầm thuộc Âm. Đó là ý nghĩa của Âm Dương vậy.
“Nếu Tâm và Phế đều Phù, làm thế nào có thể phân biệt được ?”
Thực vậy: “Phù mà Đại Tán, đó là mạch của Tâm; Phù mà Đoản Sắc, đó
là mạch của Phế”.
“Nếu Thận và Can đều Trầm, làm thế nào có thể phân biệt được ?”
Thực vậy: “Lao mà Trường, đó là mạch của Can; khi đè ngón tay xuống
thấy Nhu, đưa ngón tay lên thấy Thực, đó là mạch của Thận”.
Tỳ thuộc trung châu (bờ đất ở giữa), cho nên mạch của nó ở giữa. Đây là
phép Âm Dương vậy.
Mạch có loại “nhất Âm nhất Dương”, “nhất Âm nhị Dương”, “nhất Âm
tam Dương”, có loại “nhất Dương nhất Âm”, “nhất Dương nhị Âm”, nhất
Dương tam Âm”. Nói như vậy, thốn khẩu có 6 mạch, đều động cả ư ?”
Thực vậy: “Lời nói trên đây, không có ý nói rằng cả 6 mạch đều động, mà
chỉ đề cập đến vấn đề Phù Trầm, Trường Đoản, Hoạt Sắc mà thôi”.
Phù thuộc Dương, Hoạt thuộc Dương, Trường thực Dương; Trầm thuộc
Âm, Đoản thuộc Âm, Sắc thuộc Âm.
Khi nói: “nhất Âm nhất Dương” là nói mạch đến Trầm mà Hoạt; “nhất
Âm nhị Dương” là nói mạch đến Trầm Hoạt mà Trường; “nhất Âm tam
Dương” là nói mạch đến Phù Hoạt mà Trường, có lúc 1 Trầm”.
Khi nói: “nhất Dương nhất Âm” là nói mạch đến Phù mà Sắc; “nhất
Dương nhị Âm” là nói mạch đến Trường mà Trầm Sắc; “nhất Dương tam
Âm” là nói mạch đến Trầm Sắc mà Đoản, có lúc 1 Phù. Tất cả phải dựa vào
tình trạng cụ thể của mạch khí ở mỗi đường kinh để mà gọi tên sự thuận
nghịch của bệnh”.

NAN 5

* Điều 5 Nan ghi: “Mạch có khinh có trọng. Nói thế nghĩa là thế nào ?”
Thực vậy: “Lúc bắt đầu, ta nắm lấy bộ mạch, sức nặng bằng 3 hạt đậu,
như vậy là ta đã đắc được mạch ở phần bì mao, đó là Phế bộ; nếu ta đè nặng
bằng 6 hạt đậu, như vậy là ta đã đắc được mạch ở phần huyết mạch, đó là
Tâm bộ; nếu ta đè nặng bằng 9 hạt đậu, như vậy là ta đã đắc được mạch ở
phần cơ nhục, đó là Tỳ bộ; nếu ta đè nặng bằng 12 hạt đậu, như vậy là ta đắc
được mạch ở phần Cân (Cân bình), đó là Can bộ, nếu ta đè mạnh đến vùng
của cốt, nâng ngón tay lên mạch sẽ đến nhanh, đó là Thận bộ. Cho nên “khinh
trọng là như thế”.

NAN 6

* Điều 6 Nan ghi:“Mạch có Âm thịnh, Dương hư, có Dương thịnh Âm hư.


Nói thế nghĩa là thế nào ?”.
Thực vậy: “Phù mà đi tới tổn Tiểu, Trầm mà đi tới thực Đại, cho nên mới
nói đó là Âm thịnh Dương hư; Trầm mà đi tới tổn Tiểu, Phù mà đi tới thực
Đại, cho nên mới nói đó là Dương thịnh Âm hư. Đây là nói về cái ý Âm
Dương hư thực.

NAN 7

* Điều 7 Nan ghi: “Kinh nói: “Mạch Thiếu dương đến lúc Đại, lúc Tiểu,
lúc Đoản, lúc Trường; mạch Dương minh đến Phù Đại mà Đoản; mạch Thái
dương đến Hồng Đại mà Trường; mạch Thái âm đến Khẩn Đại mà Trường;
mạch Thiếu âm đến Khần Tế mà Vi; mạch Quyết âm đến Trầm Đoản mà
Đôn. Sáu mạch trên đến như vậy là “bình mạch” ư ? Là “bệnh mạch” ư ?
Thực vậy tất cả thuộc “Vượng mạch” vậy.
“Khi đó mỗi kinh vượng bao nhiêu ngày trong tháng nào”.
Thực vậy: “Sau tiết Đông chí, ta có ngày Giáp tý, đó là ngày vượng của
kinh Thiếu dương, sau đó lại tới ngày Giáp tý khác là ngày kinh Dương minh
vượng, sau đó lại tới ngày Giáp tý khác là ngày kinh Thái dương vượng, sau
đó lại tới ngày Giáp tý khác là ngày kinh Thái âm vượng, sau đó lại tới ngày
Giáp tý khác là ngày kinh Thiếu âm vượng, sau đó lại tới ngày Giáp tý khác là
ngày kinh Quyết âm vượng. Mỗi lần vượng là 60 nhật. 6 lần 6 như vậy là 360
nhật, thành 1 tuế. Trên đây là đại yếu của nhật vượng, thời vượng của tam
Âm, tam Dương vậy”.

NAN 8

Điều 8 Nan ghi: “Mạch Thốn khẩu “bình” mà vẫn chết, thế nghĩa là thế
nào ?”.
Thực vậy: “Các đường kinh của 12 kinh mạch đều ràng buộc vào cái
“nguyên: gốc nguồn” của “sinh khí”. Cái gọi là “nguyên” của sinh khí chính là
cái “căn bản: gốc rễ” của 12 kinh, là cái “động khí” trong vùng “thận gian”.
Đây chính là cái “bản” của ngũ tạng lục phủ, là cái “căn” của 12 kinh
mạch, là cái “ cửa” của sự hô hấp, là cái “nguồn” của Tam tiêu. Nó còn có tên
là “vị thần gìn giữ tà khí”. Cho nên, (người xưa) nói rằng “khí” là cái “gốc rễ”
của con người. Khi nào cái “căn: rễ” bị tuyệt thì thân cây và lá cây sẽ bị mục
nát.
Khi nói rằng “mạch Thốn khẩu bình mà vẫn chết”, đó là nói cái “sinh khí”
bị tuyệt một mình ở bên trong vậy

NAN 9

Điều 9 Nan nói: “Làm thế nào để biết 1 cách phân biệt bệnh ở tạng hay ở
phủ ?”.
Thực vậy: “Mạch Sác là bệnh ở phủ, mạch Trì là bệnh ở tạng. Mạch Sác
gây thành nhiệt, mạch Trì gây thành hàn. Các chứng Dương gây thành nhiệt,
các chứng Âm gây thành hàn. Cho nên, ta nhờ đó mà biết 1 cách phân biệt về
bệnh của tạng phủ vậy”.
NAN 10

Điều 10 Nan ghi: “Một mạch có thể thành thập biến. Như vậy có nghĩa là
gì ?”.
Thực vậy: Đây là ý nói về “ngũ tà cương nhu” cùng gặp nhau vậy.
Giả sử như Tâm mạch bị Cấp thậm, đó là tà khí của Can “can: thừa lên”
Tâm; Tâm mạch bị vi Cấp, đó là tà khí của Đởm thừa lên Tiểu trường; Tâm
mạch bị Đại thậm, đó là tà khí của Tâm tự thừa lên mình; Tâm mạch bị vi
Đại, đó là tà khí của Tiểu trường tự thừa lên Tiểu trường; Tâm mạch bị Hoãn
thậm, đó là tà khí của Tỳ thừa lên Tâm; Tâm mạch bị vi Hoãn, đó là tà khí của
Vị thừa lên Tiểu trường; Tâm mạch bị Sắc thậm, đó là tà khí của Phế thừa lên
Tâm; Tâm mạch bị vi Sắc, đó là tà khí của Đại trường thừa lên Tiểu trường;
Tâm mạch bị Trầm thậm, đó là tà khí của Thận thừa lên Tâm; Tâm mạch bị vi
Trầm, đó là tà khí của Bàng quang thừa lên Tiểu trường. Ngũ tạng đều có tà
khí thuộc cương nhu, cho nên mới có việc một mạch mà rồi biến thành thập
biến vậy.

NAN 11

*Điều 11 Nan ghi: “Kinh nói rằng: mạch chưa đầy 50 động mà đã có một
“chỉ”, đó là một tạng không còn khí. Đó là tạng nào ?”
Thực vậy: “Con người khi hít vào, nó đi theo Âm để vào, khi ta thở ra, nó
sẽ theo Dương để ra, nay khi hít vào nó không thể đến Thận chỉ đến Can thì
nó đã quay trở ra, do đó ta biết có một tạng không còn khí, Thận khí bị tận
trước”.

NAN 12

Điều 12 Nan nói: “Kinh nói rằng: Mạch của ngũ tạng đã tuyệt bên trong
mà người thầy dụng châm, ngược lại, làm thực cho bên ngoài; mạch của ngũ
tạng đã tuyệt bên ngoài mà người thầy dụng châm, ngược lại, làm thực cho
bên trong. Làm thế nào để phân biệt được là đang tuyệt trong hay đang tuyệt
ngoài ?”.
Thực vậy: “Khi nói “Mạch của ngũ tạng đã tuyệt bên trong” đó là nói khí
của Thận và Can đã tuyệt ở bên trong, trong lúc đó người thầy thuốcd, ngược
lại, châm bổ cho Tâm và Phế.
Khi nói “Mạch của ngũ tạng đã tuyệt ở bên ngoài”, đó là nói khí (mạch)
của Tâm Phế đã tuyệt ở bên ngoài, trong lúc đó người thầy thuốc, ngược lại,
châm bổ cho Thận và Can. Dương tuyệt lại bổ Âm, Âm tuyệt lại bổ Dương,
đó gọi là thực thêm cho cái đang thực, hư thêm cho cái đang hư, đó là làm tổn
thêm cho cái đang bất túc, làm tăng thêm cho cái đang hữu dư. Như vậy, nếu
người bệnh có bị chết, là do người thầy thuốc đã giết người vậy”.

NAN 13

Điều 13 Nan nói: “Kinh nói rằng: Thấy được sắc diện mà không đắc được
mạch tương ứng, ngược lại chỉ đắc được mạch “tương thắng”, như vậy là
chết. Khi nào đắc được mạch tương sinh, bệnh xem như có thể tự khỏi. Vậy,
làm thế nào để biết được là sắc và mạch phải cùng “tham” và cùng “ứng” với
nhau ?”.
Thực vậy: “Ngũ tạng đều có ngũ sắc, tất cả đều biểu hiện lên trên mặt.
Nó cần phải tương ứng với Thốn khẩu và phần Xích nội.
Giả sử sắc diện hiện lên thanh, mạch của nó phải huyền và cấp; sắc diện
hiện lên xích, mạch của nó phải phù đại mà tán; sắc diện hiện lên hoàng,
mạch của nó phải trung hoãn mà đại; sắc diện hiện lên bạch, mạch của nó
phải phù sắc mà đoản; sắc diện hiện lên hắc, mạch của nó phải trầm sắc mà
hoạt. Đây là các trường hợp mà ngũ sắc và mạch phải cùng tương tham,
tương ứng vậy.
Mạch sác thì nơi bì phu của bộ Xích cũng sác; mạch cấp thì nơi bì phu của
bộ Xích cũng cấp; mạch hoãn thì nơi bì phu của bộ Xích cũng hoãn; mạch sắc
thì nơi bì phu của bộ Xích cũng sắc; mạch hoạt thì nơi bì phu của bộ Xích
cũng hoạt. Ngũ tạng đều có đủ (ngũ) thanh, (ngũ) sắc, (ngũ) xú, (ngũ) vị, tất
cả đều phải tương ứng với nơi Thốn khẩu và Xích nội. Khi nào chúng không
tương ứng là bị bệnh.
Giả sử như sắc diện hiện lên màu thanh, mạch của nó lại là phù sắc mà
đoản, nếu là đại mà hoãn đều gọi là tương thắng; mạch phù đại mà tán, nếu
là tiểu mà hoạt đều gọi là tương sinh. Kinh nói rằng: (người thầy thuốc nào)
chỉ biết có một cách chẩn thì thuộc về hạ công, biết được hai cách chẩn thì
thuộc về trung công, biết được ba cách chẩn thì thuộc về thượng công. Bậc
thượng công thì giải quyết 10 lần được 9, bậc trung công giải quyết 10 lần
được 8, kẻ hạ công giải quyết 10 lần chỉ được 6. Đó là nói về ý nghĩa mà ta
vừa nói trên vậy”.

NAN 14
Điều 14 Nan nói: “Mạch có “tổn”, có “chí”, thế nghĩa là thế nào ?”.
Thực vậy: “Mạch của “chí” gồm có: 1 hô có 2 chí gọi là bình, (1 hô) 3 chí
gọi là ly kinh, (1 hô) 4 chí gọi là đoạt tinh, (1 hô) 5 chí gọi là chết, (1 hô) 6 chí
gọi là mệnh tuyệt, đây là những mạch tử.
Thế nào là mạch “tổn”?
Một hô mạch 1 chí gọi là ly kinh; (2 hô) 1 chí gọi là đoạt tinh; (3 hô) 1 chí
gọi là tử; (4 hô) 1 chí gọi là mệnh tuyệt. Đây gọi là mạch tổn.
Mạch chí đi từ dưới lên trên, mạch tổn đi từ trên rồi xuống dưới. Mạch
tổn gây thành bệnh như thế nào ?
Thực vậy: “Một tổn, tổn ở bì mao, da nhăn, lông rụng. Hai tổn, tổn ở
huyết mạch, huyết mạch bị hư thiểu không còn làm vinh (tươi) cho ngũ tạng,
lục phủ. Ba tổn, tổn ở cơ nhục, cơ nhục bị tiêu hao, gầy còm, việc ăn uống
không còn giúp cho phần cơ nhục và bì phu nữa. Bốn tổn, tổn ở cân, cân bị lơi
lỏng không còn đủ sức để co duỗi và giữ vững thân thể được nữa. Năm tổn,
tổn ở cốt, cốt bị nuy (liệt) không thể ngồi lên khỏi giường được nữa. Khác
với những (tổn bệnh) là bệnh của mạch “chí”.
Nếu bệnh từ trên xuống, đó là bệnh “cốt nuy”, không ngồi lên khỏi
giường nổi, chết. Nếu bệnh từ dưới lên, đó là bệnh da nhăn và lông rụng,
chết.
Phép trị bệnh của mạch “tổn” như thế nào ?
Thực vậy: “Nếu bị tổn ở Phế thì nên “ích” cho Phế khí, bị tổn ở Tâm thì
nên điều khí vinh vệ, bị tổn ở Tỳ thì nên điều hòa sự ăn uống, thích ứng với
cuộc sống ấm lạnh, bị tổn ở Can thì làm lơi hơn phần trung khí, bị tổn ở
Thận thì nên “ích” cho tinh khí. Đây là những phép trị về bệnh “tổn”.
Mạch có loại 1 hô 2 chí, 1 hấp 2 chí; có loại 1 hô 3 chí, 1 hấp 3 chí; có loại
1 hô 4 chí, 1 hấp 4 chí; có loại 1 hô 5 chí, 1 hấp 5 chí; có loại 1 hô 6 chí, 1 hấp
6 chí; có loại 1 hô 1 chí, 1 hấp 1 chí; có loại 2 hô 1 chí, 2 hấp 1 chí; có loại hô
và hấp 2 chí. Mạch thì cứ đến như thế, nhưng làm thế nào phân biệt để biết
được bệnh của nó ?
Thực vậy: “Mạch đến “1 hô 2 chí, 1 hấp 2 chí, không đại không tiểu”, gọi
là bình; “1 hô 3 chí, 1 hấp 3 chí” được xem là đúng lúc bị bệnh; khi nào trước
đại sau tiểu tức bị bệnh đầu thống mắt hoa; khi nào trước tiểu sau đại tức bị
bệnh ngực đầy khí ngắn; khi nào 1 hô 4 chí, 1 hấp 4 chí đó là bệnh muốn trở
nặng thêm; lúc mạch hồng đại là bệnh bứt rứt, đầy; lúc mạch trầm tế là bị
chứng trong bụng bị thống; khi nào mạch hoạt thì khí bị thương bởi nhiệt; khi
mạch sắc tức là trúng bởi vụ và lộ; khi nào 1 hô 5 chí, 1 hấp 5 chí, người bệnh
đang khốn nguy; mạch trầm tế thì ban đêm nặng thêm, mạch phù đại thì ban
ngày nặng thêm, khi nào không đại không tiểu thì tuy đang nguy khốn cũng có
thể trị được, còn nếu như có đại có tiểu thì sẽ khó trị. Khi nào 1 hô 6 chí, 1
hấp 6 chí, đó là tử mạch, khi mạch trầm tế thì chết vào ban đêm, mạch phù
đại thì chết vào ban ngày. Khi nào 1 hô 1 chí, 1 hấp 1 chí thì gọi tên là “tổn”.
Dù cho người bệnh còn có thể đi đứng được, nhưng nên để cho họ nằm trên
giường là hơn. Tại sao vậy ? Bởi vì người bệnh huyết khí đều bất túc; nhất
hô 2 chí, hô hấp 2 chí (1 hấp 2 chí), gọi là vô hồn, mạch vô hồn sẽ chết, con
người dù đi được mà vẫn được gọi là “xác chết biết đi”.
Khi mà thượng bộ còn mạch, hạ bộ không còn mạch, người bệnh đáng
phải thổ mà không thổ được, phải chết. Khi mà thượng bộ không còn mạch,
hạ bộ còn mạch, tuy bị vào tình trạng nguy khốn, nhưng sẽ không bị hại gì.
Tại sao thế ? Vì ví như con người còn bộ Xích, thân cây còn có rễ, cành lá tuy
khô héo nhưng gốc và rễ sẽ tự sinh ra (cành lá). Mạch có gốc rễ, con người có
nguyên khí, nhờ đó mà biết rằng người bệnh này không chết.

NAN 15

Điều 15 Nan nói: “Kinh nói: Mùa xuân mạch huyền, mùa hạ mạch câu,
mùa thu mạch mao, mùa đông mạch thạch. Đó là vượng mạch ư ? Là bệnh
mạch ? (mạch vượng hay mạch sắp bệnh).
Thực vậy: “Mạch huyền, mạch câu, mạch mao, mạch thạch là mạch của
tứ thời. Khi nói mùa xuân mạch huyền, là vì Can thuộc đông phương Mộc, đó
là lúc vạn vật mới sinh ra, chưa có cành lá, vì thế mạch đến “nhu nhược: yếu
đuối, nhẹ” mà trường cho nên gọi là “huyền”.
Khi nói hạ mạch câu, là vì Tâm thuộc nam phương Hỏa, đó là lúc vạn vật
đang lúc thịnh, cành buông ra, lá phủ đầy, tất cae đều buông xuống gãy khúc
như móc câu. Vì thế mạch của nó đến thật nhanh, đi thật chậm, gọi là “câu”.
Khi nói thu mạch mao, là vì Phế thuộc tây phương Kim, đó là lúc vạn vật
đang quay về chỗ “chung: dứt”, hoa lá, cỏ cây đều úa và rụng xuống, chỉ còn
trơ lại có cành giống như những sợi lông mao, vì thế mạch đến khinh hư mà
phù, gọi là “mao”.
Khi nói đông mạch thạch, là vì Thận thuộc bắc phương thủy, đó là lúc vạn
vật đang tàng ẩn. Thời thịnh đông nước ngưng đọng lại như “thạch: đá”, vì
thế mạch đến “trầm nhu mà hoạt”, gọi là “thạch”.
Trên đây là các mạch của tứ thời.
“Nếu như các mạch trên đây có “biến” thì như thế nào ?”.
Thực vậy: “Mạch của mùa xuân là huyền. Khi phản lại là bị bệnh. Vậy
thế nào gọi là “phản” ?”.
Thực vậy: “Khi mạch khí đến “thực, cường”, đó gọi là thái quá, bệnh ở
ngoài. Khi mạch khí đến “hư, vi” đó gọi là bất cập, bệnh ở trung. Khi mạch
khí đến nhẹ nhàng, êm ả như chiếc lá du lướt qua, gọi là bình. Khi (mạch khí
đến) ngày càng thực mà hoạt như cành trúc dài quét qua gọi là bệnh. Khi
(mạch khí đến) gấp mà thẳng cứng, ngày càng cứng mạnh như dây cung mới
được giương căng lên, gọi là “tử”. Mạch của mùa xuân được “vi huyền” thì
gọi là bình. Khi huyền đa mà Vị khí thiểu, gọi là bệnh. Nếu chỉ có huyền mà
Vị khí gọi là tử. Mùa xuân lấy Vị khí làm gốc”.
“Mạch của mùa hạ là câu. Khi “phản” lại là bị bệnh. Vậy thế nào gọi là
phản ?”.
Thực vậy: “Khi mạch khí đến “thực, cường”, đó gọi là thái quá, bệnh ở
ngoài. Khi mạch khí đến “hư, vi” đó gọi là bất cập, bệnh ở trong. Khi mạch
khí đến như xâu chuỗi xoắn nhau ví như chiếc vòng ngọc như ngọc lang can
xô nhau tới, gọi là bình. Khi (mạch khí) sác ngày càng tăng, như con gà nhảy
chân lên, đó là bệnh. Khi (mạch khí đến) như (câu móc) trước gãy khúc lại,
sau cứng thẳng ví như (ta) cầm lấy sợi dây đai có câu móc, gọi là tử. Mạch
của mùa hạ được “vi câu” thì gọi là bình. Khi câu đa mà Vị khí thiểu gọi là
bệnh. Nếu chỉ có “câu” mà không có vị khí gọi là tử. Mùa hạ lấy Vị khí làm
gốc”.
“Mạch của mùa thu là mao. Khi “phản” lại là bị bệnh. Vậy thế nào gọi là
phản ?”.
Thực vậy: “Khi mạch khí đến “thực, cường”, cũng gọi là thái quá, bệnh ở
ngoài. Khi mạch khí đến “hư, vi” đó gọi là bất cập, bệnh ở trong. Khi bệnh
khí đến một cách rậm mát như cái mui xe (che lại), án lên nó sẽ lớn hơn, đó
gọi là bình. Khi mạch khí đến mà không lên, không xuống như ta vuốt lên lông
của gà, gọi là bệnh. Khi ta án lên mạch khí sẽ tiêu, mất dần như gió thổi lên
lông mao, đó là “tử”. Mạch của mùa thu được “vị mao“ gọi là bình. Khi mao
đa mà Vị khí thiểu gọi là bệnh. Nếu chỉ có mao mà không còn Vị khí gọi là
“tử”. Mùa thu lấy Vị khí làm gốc”.
“Mạch của mùa đông là thạch. Khi “phản” lại là bị bệnh. vậy thế nào gọi
là “phản”?”.
Thực vậy: “Khi mạch khí đến “thực, cường”, đó gọi là thái quá, bệnh ở
ngoài. Khi mạch khí đến “hư, vi” đó gọi là bất cập, bệnh ở trong. Mạch khí
đến trên thì đại, dưới thì suông suốt, nhu hoạt (trơn nhuận) như cái mỏ con
chim sẻ, đó gọi là bình. (Mạch đến như tiếng chim sẻ) mổ rồi mổ không
ngừng, (trong lúc đó mạch của Tỳ đến để làm cho) thành gãy nhẹ, gọi là bệnh.
(Khi mạch đến) là đang mở dần mối dây, khi mạch đi như đang bắn một viên
đá, gọi là “tử”. Mạch của mùa đông được “vi thạch” thì gọi là bình. Khi thạch
đa mà Vị khí thiểu gọi là bệnh. Khi thạch đa mà không còn Vị khí gọi là “tử”.
Mùa đông lấy Vị khí làm gốc. Vị là biên của thủy cốc, nó chủ về bẩm thụ khí
của tứ thời, vì thế (tứ thời) đều lấy Vị khí làm gốc, cho nên mới gọi “sự biến
của tứ thời” chính là những điểm “yếu hội” của vấn đề bệnh tật và tử sinh
vậy.
Tỳ đóng vai trung châu (bãi đất ở giữa). Khi nào khí trong người được bình
hòa thì ta không thấy nó hiện ra, chỉ khi nào khí bị suy thì nó mới hiện ra. Khi
mạch hiện ra như chim sẻ đang mổ, như giọt nước đang chảy xuống và chảy
giọt ra ngoài. Đó chính là sự biểu hiện của Tỳ khí đang lúc suy vậy”.

NAN 16

Điều 16 Nan nói: “Mạch có Tam bộ, Cửu hậu, có Âm Dương, có khinh
trọng, có lục thập thủ. Nhất mạch biến thành tứ thời, thời của (Tân Việt
Nhân) cách xa thời của các bậc thánh nhân, mỗi người có vạch ra 1 phép cho
mình, làm thế nào để phân biệt ?”.
Thực vậy: “Mỗi bệnh nào đó về nội chứng và ngoại chứng”.
“Bệnh xảy ra như thế nào ?”.
Thực vậy: “Giả sử ta đắc được (mạch) Can bệnh, ngoại chứng của nó là:
thích sạch sẽ, sắc mặt xanh, thường hay giận dữ; nội chứng của nó là: phía
trái của rún có động khí, án lên thấy cứng hơi đau. Bệnh này làm cho tứ chi bị
đầy, cứng, lung bế, đại tiện khó, chuyển cân. Nếu như có đủ các chứng trên
thì bệnh thuộc Can, nếu không thì không phải.
Giả sử ta đắc được (mạch) của Tâm bệnh, ngoại chứng của nó là : mặt
đỏ, miệng khô, hay cười; nội chứng của nó là: phía trên của rún có động khí,
án lên thấy cứng hơi đau. Bệnh này làm cho Tâm bị bứt rứt, Tâm thống, giữa
lòng bàn tay nhiệt, ói khan. Nếu như có đủ các chứng trên thì bệnh thuộc Tâm,
nếu không thì không phải.
Giả sử ta đắc được (mạch) của Tỳ bệnh, ngoại chứng của nó là: sắc mặt
vàng, hay ợ, hay suy tư, hay thèm ngọt; nội chứng của nó là: ngay giữa rún có
động khí, án lên thấy cứng, hơi đau. Bệnh này làm cho bụng bị trướng mãn, ăn
không tiêu, tay chân nặng, cốt tiết bị đau nhức, trễ lười, thích nằm, tay chân
khó co duỗi. Nếu như có đủ các chứng trên thì bệnh thuộc Tỳ, nếu không thì
không phải.
Giả sử ta đắc được mạch của Phế bệnh, ngoại chứng của nó là: sắc mặt
trắng, hay hách xì, bi sầu không vui, thường muốn khóc; nội chứng của nó là:
phía hữu của rún có động khí, án lên thấy cứng, hơi đau. Bệnh này làm cho ho
suyễn, ớn lạnh, hàn nhiệt. Nếu như có đủ các chứng trên thì bệnh thuộc Phế,
nếu không thì không phải.
Giả sử ta đắc được mạch của Thận bệnh, ngoại chứng của nó là: sắc mặt
đen, hay lo sợ, ngáp; nội chứng của nó là: phía dưới rún có động khí, án lên
thấy cứng, hơi đau. Bệnh này làm cho nghịch khí, vùng thiếu phúc bị cấp
thống, tiêu chảy như chứng “lý cấp hậu trọng”, cẳng chân bị lạnh mà nghịch
khí. Nếu như có đủ các chứng trên thì bệnh thuộc Thận, nếu không thì không
phải.

NAN 17

Điều 17 Nan viết: “Kinh nói rằng: Bệnh, có loại phải chết, có loại không
cần trị mà tự hết, hoặc có loại đau liên miên từ năm này qua tháng khác mà
không khỏi. Vấn đề sinh, tử, tồn, vong này có thể dùng phép “thiết mạch” để
biết được không ?”.
Thực vậy: “Có thể (dùng phép thiết mạch) để biết tất cả (việc tử sinh tồn
vong). Phép chẩn như sau:
Có loại bệnh, người bệnh chỉ muốn nhắm mắt lại mà không muốn thấy ai
cả, mạch đáng lẽ phải đắc được Can mạch: cường cấp mà trường, thế mà,
trái lại, chỉ đắc được mạch Phế: phù đoản mà sắc, phải chết.
Có loại bệnh, người bệnh mở mắt mà khát, dưới Tâm thấy nặng cứng,
mạch đáng lẽ đắc được khẩn thực mà sác, thế mà, trái lại, chỉ đắc được mạch
trầm nhu mà vi, chết.
Có loại bệnh, bệnh nhân phải thổ huyết, lại bị chảy máu ra mũi, mạch
đáng lẽ phải trầm tế, thế mà, trái lại, mạch lại phù đại mà lao, chết.
Có loại bệnh, bệnh nhân nhân phải nói sàm ngôn vọng ngữ, thân mình
đáng lẽ phải nhiệt, mạch đáng lẽ phải hồng đại, thế mà, trái lại, tay chân họ
bị quyết nghịch, mạch trầm tế mà vi, chết.
Có loại bệnh, bệnh nhân bụng bị trướng mà tiêu chảy, mạch đáng lẽ phải
vi tế mà sắc, thế mà, trái lại, mạch lại khẩn đại mà hoạt, chết.

NAN 18

Điều 18 Nan viết: “Mạch có tam bộ, mỗi bộ có tứ kinh. Thủ thì có Thái
âm, Dương minh; Túc thì có Thái dương, Thiếu âm, được xem là thượng và
hạ bộ. Như vậy nghĩa là thế nào ?”.
Thực vậy: “Thủ Thái âm, Dương minh thuộc Kim, Túc Thiếu âm, Thái
dương thuộc Thủy. Kim sinh Thủy, Thủy chảy xuống dưới mà không lên trên
được, vì thế nên (thủy) ở tại hạ bộ.
Kinh Túc Quyết âm, Thiếu dương thuộc Mộc. Nó sinh ra Thủ Thái dương,
Thiếu âm Hỏa. Hỏa bốc lên trên mà không xuống dưới được, vì thế (Hỏa) ở
tại Thượng bộ.
Kinh Thủ Tâm chủ, Thiếu dương Hỏa sinh ra Túc Thái âm, Dương minh
Thổ, Thổ chủ trung cung, cho nên nó ở tại trung bộ.
Trên đây đều là con đường cùng sinh dưỡng cho nhau giữa “tử và mẫu”
của ngũ hành.
“Mạch có tam bộ, cửu hậu, mỗi thứ như vậy làm chủ nơi nào ?”.
Thực vậy: “Tam bộ gồm Thốn, Quan, Xích. Cửu hậu gồm phù, trung,
trầm. Thượng bộ lấy phép ở Thiên, chủ về các bệnh đi ngựïc lên đến đầu.
Trung bộ lấy phép ở Nhân, chủ về các bệnh từ màn cách xuống đến rún. Hạ
bộ lấy phép ở Địa, chủ về các bệnh từ rún xuống đến chân. Nên thẩm định rõ
tam bộ, cửu hậu để châm trị”.
“Con người bệnh lâu ngày bị trầm trệ, tích tụ, có thể dùng phép thiết
mạch để biết không ?”.
Thực vậy: “Khi chúng ta chẩn đoán thấy phía phải hông sườn, có tích khí,
ta đắc được mạch kết của Phế. Mạch kết “Thậm: nặng” thì tích khí nặng,
kết “vi: nhẹ” thì khí vi”.
“Khi chẩn đoán không đắc được mạch của Phế nhưng bên hông sườn
phải vẫn có tích khí, tại sao ?”.
Thực vậy: “Tuy mạch của Phế không thấy hiện ra, nhưng mạch ở tay
phải phải trầm phục”.
“Vấn đề cố và tật bên ngoài cũng chẩn theo phép ấy hay không, hay là
chẩn khác hơn ?”.
Thực vậy: “Mạch “lai” và “khứ” có lúc ngưng 1 “chỉ” không theo 1
thường số nhất định thì gọi là mạch “kết”. Mạch “phục” là mạch vận hành
bên dưới cân; mạch “phù” là mạch vận hành trên cơ nhục, các phép tứ tả hữu,
biểu lý đều như thế cả.
Giả sử như mạch “kết phục” mà bên trong không có tích tụ, mạch “phù
kết” mà bên ngoài không có cố tật, hoặc có tích tụ mà mạch không “kết
phục”, có cố tật mà mạch không “phù kết”. Đây chính là mạch không ứng với
bệnh, bệnh không ứng với mạch, gọi là tử bệnh”.

NAN 19

Điều 19 Nan viết: “Kinh nói rằng: Mạch có nghịch, thuận, nam nữ có lẽ
thường của nó. Vậy mà có khi bị ngược lại, thế là thế nào ?”.
Thực vậy: “Nan (trai) sinh ra ở dần, dần thuộc Mộc, thuộc Dương; nữ
(gái) sinh ra ở thân, thân thuộc Kim, thuộc Âm.
Cho nên, mạch của nam ở tại Quan thượng, mạch của nữ ở tại Quan hạ.
Vì thế bộ Xích của nam “hằng: thường” là nhược, bộ Xích của nữ “hằng” là
thịnh. Đó là lẽ thường. Nếu ngược lại thì nam sẽ đắc được nữ mạch, nữ sẽ
đắc được nam mạch. “Nó sẽ gây thành bệnh như thế nào ?”.
Thực vậy: “Nam đắc nữ mạch gọi là “bất túc”, bệnh ở trong, đắc được
mạch tả thì bệnh xảy ra bên tả, đắc được mạch hữu thì bệnh xảy ra bên hữu,
tùy theo mạch mà ta nói được bệnh (xảy ra ở đâu).
Nữ đắc nam mạch gọi là “thái quá”, bệnh ở tứ chi, đắc được mạch tả thì
bệnh xảy ra bên tả, đến cắt được mạch hữu thì bệnh xảy ra bên hữu, tùy theo
mạch mà ta nói bệnh (xảy ra ở đâu). Đó là ý nghĩa đã nói trên.

NAN 20

Điều 20 Nan viết: “Kinh nói rằng: Mạch có “phục và nặc”. Nó phục nặc ở
tạng nào mới gọi là phục nặc ?”.
Thực vậy: “Đây ý nói Âm Dương cùng thay nhau để thừa lên nhau, để
phục với nhau. Mạch “cư” tại Âm bộ, thế mà, ngược lại, lại thấy Dương
mạch hiện ra. Ta gọi đây là Dương “thừa lên Âm”.
Mạch tuy thường trầm sắc mà đoản, đây gọi là trong Dương đã “phục”
sẵn Âm.
Mạch “cư” tại Dương bộ, thế mà, ngược lại, lại thấy Âm mạch hiện ra.
Ta gọi đây Âm “thừa lên” Dương.
Mạch tuy thường phù hoạt mà trường, đây gọi là trong Âm đã “phục” sẵn
Dương.
Khi bị “trùng Dương” thì bệnh cuồng, khi bị “trùng Âm” thì bệnh điên. Khi
thoát Dương thì trông thấy qủy, khi bị thoát Âm thì mắt bị mù.

NAN 21

Điều 21 Nan viết: “Kinh nói: Con người nếu hình bị bệnh mà mạch không
bệnh thì sống; nếu mạch bệnh mà hình không bệnh là chết. Nói thế nghĩa là
thế nào ?”.
Thực vậy: “Khi nói “con người nếu nói hình bệnh mà mạch không bệnh”
không phải là không có bệnh, ý nói rằng “tức số: số hơi thở” không ứng với
mạch số mà thôi. Đây là nói về “pháp: nguyên lý” lớn.

NAN 22

Điều 22 Nan viết: “Kinh nói: Mạch có “Thị động bệnh” có “Sở sinh bệnh”
thuộc huyết. Khi tà khí ở tại khí thì khí sẽ biến thành “Thị động”, khi tà khí ở
tại huyết thì huyết sẽ biến thành “Sở sinh bệnh”. Khí chủ về chưng bốc lên,
huyết chủ về làm nhuận trơn. Khi mà khí lưu lại không vận hành được, đó là
khí “tiên bệnh”, khi huyết bị ủng trệ không còn nhu nhuận, đó là huyết “hậu
bệnh”. Vì thế trước hết là “Thị động”, sau đến là “Sở sinh bệnh”.

NAN 23

Điều 23 Nan viết: “Độ số của mạch của Thủ. Túc tam Âm, tam Dương có
thể biết được không ?”.
Thực vậy: “Mạch của Thủ tam Dương đi từ tay lên đến đầu dài 5 xích; 5
lần 6 hợp thành 3 trượng. Mạch của Thủ tam Âm đi từ tay đến giữa ngực, dài
3 xích 5 thốn; 3 lần 6 là 1 trượng 8 xích, 5 lần 6 là 3 xích; tất cả hợp lại thành
2 trượng 1 xích.
Mạch của Túc tam Dương đi từ chân lên đến đầu dài 8 xích; 6 lần 8 là 4
trượng 8 xích. Mạch của Túc tam Âm đi từ chân lên đến ngực dài 6 xích 5
thốn; 6 lần 6 là 3 trượng 6 xích, 5 lần 6 là 3 xích, hợp lại tất cả là 3 trượng 9
xích.
Kiểu mạch ở 2 bên chân của con người đi từ chân đến mắt dài 5 xích 7
thốn; 2 lần 7 là 1 trượng 4 xích, 2 lần 5 là 1 xích, hợp tất cả là 1 trượng 5
xích. Đốc mạch và Nhậm mạch, mỗi mạch dài 4 xích 5 thốn, 2 lần 4 là 8 xích,
2 lần 5 là 1 xích, hợp tất cả là 9 xích. Các mạch dài tất cả là 16 trượng 2 xích.
Đây gọi là con số dài ngắn của mạch khí của 12 kinh”.
“Kinh mạch có 12, lạc mạch có 15, chỗ nào là thỉ (bắt đầu), chỗ nào là
cùng (chấm dứt) ?”.
Thực vậy: “Kinh mạch là nơi vận hành của huyết khí, là nơi để cho khí
Âm Dương thông nhau nhằm làm “vinh” cho thân hình. Nó bắt đầu ở Trung
tiêu để rót vào Thủ Thái âm và Thủ Dương minh; từ Dương minh nó rót vào
Túc Dương minh, Túc Thái âm; từ Thái âm nó rót vào Thủ Thiếu âm, Thủ
Thái dương; từ Thái dương nó rót vào Túc Thái dương, Túc Thiếu âm; từ
Thiếu âm nó rót vào Thủ Tâm chủ, Thủ Thiếu dương; từ Thiếu dương nó rót
vào Túc Thiếu dương, Túc Quyết âm; từ Quyết âm nó trở lại để rót vào Thủ
Thái âm, biệt lạc có 15. Tất cả đều nhân vào cái nguồn “như chiếc vòng ngọc
không đầu mối” để xoay chuyển, cùng tưới thắm nhau. Xong nó lại về
“chầu” nơi mạch Thốn khẩu và Nhân nghênh, nhằm định được trăm bệnh và
quyết đoán được việc sống chết”.
Kinh nói: “Biết được rõ ràng là “chung thỉ” thì lẽ nào Âm Dương sẽ được
định, nói thế nghĩa là thế nào ?”.
Thực vậy: “”Thỉ” là cái giềng mối của mạch. Mạch Thốn khẩu và Nhân
nghênh là nơi mà khí của Âm Dương thông nhau vào buổi sáng khiến cho nó
như “chiếc vòng ngọc không đầu mối”, vì thê nên gọi nó là “thỉ”.
“Chung” là nơi tuyệt của mạch của tam Âm tam Dương. Mạch tuyệt là
chết, mỗi cái chết đều có biểu hiện lên bằng “hình mạch”, vì thế gọi đây là
“chung”.

NAN 24

Điều 24 Nan viết: “Tam Âm, tam Dương của Thủ và Túc đã tuyệt thì nó
biểu hiện như thế nào ? ta có thể biết được việc cát hung của chúng không ?”.
Thực vậy: “Khí của kinh Túc Thiếu âm bị tuyệt, tức là cốt bị khô. Khí
Thiếu âm là mạch của mùa đông, nó vận hành ẩn phục (bên dưới) để làm ấm
cốt tủy. Cho nên khi mà cốt tủy không còn ấm tức là cơ nhục không còn bám
vào cốt. Khi mà cốt và nhục không còn gần gũi nhau nữa, cơ nhục sẽ bị teo co
lại. Khi mà nhục bị co và teo sẽ làm cho răng lộ dài ra và khô, tóc không còn
trơn ướt, đó là cốt bị chết trước: Mậu nhật bệnh nặng, kỷ nhật chết”.
Khí của kinh Túc Thái âm bị tuyệt thì mạch không làm vinh cho môi và
miệng. Miệng và môi là cái gốc của cơ nhục. Khi mạch không còn “vinh:
tươi” thì cơ nhục không còn trơn ướt, khi cơ nhục không còn trơn ướt thì
nhục bị “mãn”, cơ nhục bị mãn sẽ làm cho môi bị lật ngược lên, môi bị lật
ngược lên đó là nhục bị chết trước: Giáp nhật bệnh nặng, Ất nhật chết.
Khí của kinh Túc Quyết âm bị tuyệt tức là cân bị teo co lại, dái và lưỡi bị
cuốn lại, Quyết âm là mạch của Can. Can là chỗ hợp của Cân. Cân khí tụ lại
ở Âm khí (bộ sinh dục) để rồi lạc với cuống lưỡi. Vì thế khi mạch không còn
“vinh: tươi” thì cân bị teo một cách nhanh chóng, cân bị teo một cách nhanh
chóng tức là ảnh hưởng đến buồng trứng và lưỡi, làm cho lưỡi bị cuốn buồng
trứng teo. Đây là cân bị chết trước: Canh nhật bệnh nặng, Tân nhật chết.
Khí của Thủ Thái âm bị tuyệt sẽ làm cho bì mao khô. Kinh Thái âm thuộc
Phế, nó hành khí để làm ấm ở bì mao. Vì thế nếu khí không còn vinh thì bì
mao bị khô, bì mao bị khô thì tân dịch sẽ tách rời bì và cốt tiết, khi tân dịch
tách rời bì và cốt tiết thì bì và cốt tiết bị thương, bì và cốt tiết bị thương thì da
bị khô, lông bị rụng. Lông rụng tức là lông bị chết trước: Bính nhật bệnh
nặng, Đinh nhật chết.
Khí của kinh Thủ Thiếu âm bị tuyệt thì mạch không thông, mạch không
thông thì huyết không lưu hành, huyết không lưu hành sắc diện tươi tắn sẽ
không còn, vì thế mặt sẽ đen như màu quả “lê”. Đây là huyết chết trước:
Nhâm nhật bệnh nặng, Qúy nhật chết.
Khí của tam Âm kinh đều tuyệt sẽ làm cho từ mắt bị hoa đến mắt bị mờ
(mù). Mắt mù (mờ) gọi là thất chí, mà thất chí tức là chí chết trước: chết tức
là mắt bị mờ hẳn.
Khí của lục Dương kinh đều tuyệt, đó là Âm và Dương cùng rời nhau. Khi
Âm Dương rời nhau thì tấu lý bị phát tiết “tuyệt hạn: mồ hôi cuối cùng” sẽ
chảy ra, to như hạt châu xâu vào nhau lăn ra mà không chảy đi, đó là khí chết
trước: sáng xem thấy bệnh là chiều chết, chiều xem thấy bệnh là sáng chết”.

NAN 25

Điều 25 Nan viết: “Có 12 kinh, ngũ tạng lục phủ chỉ có 11 thôi. Còn lại 1
kinh phải xếp loại thế nào ?”.
Thực vậy: “Còn lại 1 kinh, đó là biệt mạch Tâm chủ cùng đi với Thủ
Thiếu âm. Kinh Tâm chủ cùng làm biểu lý với Tam tiêu, đều hữu danh mà vô
hình. Vì thế mới nói có 12 kinh”.

NAN 26

Điều 26 Nan viết: “Kinh có 12, lạc có 15. Con số 3 lạc dư ra đó là lạc nào
?”.
Thực vậy: “Có Dương lạc, có Âm lạc, có đại lạc của Tỳ. Dương lạc là
lạc của mạch Dương kiểu, Âm lạc là lạc của Âm kiểu. Vì thế lạc có tất cả là
15 lạc”.

NAN 27

Điều 27 Nan viết: “Mạch, có Kỳ kinh bát mạch, không bị ràng buộc với 12
kinh, nói như thế nghĩa là thế nào ?”.
Thực vậy: “Có mạch Dương duy, có mạch Âm duy, có mạch Dương kiểu,
có mạch Âm kiểu, có mạch Xung, có mạch Đốc, có mạch Nhậm, có mạch
Đới. Phàm bát mạch này đều không ràng buộc với các chính kinh, cho nên gọi
là “Kỳ kinh bát mạch”.
“Kinh có 12, lác có 15, tất cả gồm 27 khí, cùng theo nhau mà lên xuống, tại
sao lại đơn độc có (bát mạch) lại không ràng buộc với các kinh ?”.
Thực vậy: “Bậc thánh nhân xây đựng đồ án, thiết lập các đường lạch
nước, thông lợi thủy đạo nhằm chuẩn bị cho các trường hợp bất thường, trời
mưa xuống làm cho các lạch nước bị tràn ngập. Lúc bấy giờ mưa rào vong
hành, thánh nhân không thể kịp lập đồ á. Đây là lúc mà lạc mạch bị tràn ngập
và các kinh cũng không thể kịp liên hệ nhau”.

NAN 28

Điều 28 Nan viết: “(Như đã nói) Kỳ kinh bát mạch vốn đã không bị ràng
buộc với 12 kinh. Vậy tất cả đã bắt đầu từ đâu ? tiếp nối như thế nào ?”.
Thực vậy: “Đốc mạch khởi lên từ huyệt Hạ cực, nhập vào theo bên trong
cột sống, lên trên đến huyệt Phong phủ, nhập vào não.
Nhậm mạch khởi lên ở dưới huyệt Trung cực, lên đến chòm lông mu, dọc
theo bên trong bụng, lên đến huyệt Quan nguyên, rồi lên đến yết hầu.
Xung mạch khơi2 lên ở huyệt Khí xung, cùng với kinh Dương minh áp
theo vùng rốn lên trên đến giữa ngực để rồi tán rộng ra.
Đới mạch khởi lên ở huyệt Đới mạch nằm dưới sườn cuối, quay quanh 1
vòng thân mình.
Dương Kiểu mạch khởi lên ở giữa gót chân, dọc theo mắt cá ngoài lên đến
trên để nhập vào huyệt Phong trì.
Âm Kiểu mạch cũng khởi lên ở giữa gót chân, dọc theo mắt cá trong, lên
trên đến yết hầu, giao nhau để xuyên qua Xung mạch.
Dương duy mạch và Âm duy mạch ràng buộc và liên lạc toàn thân, nó tràn
ngập và hàm chứa không thể chảy quanh và tưới thấm các kinh. Cho nên,
Dương duy mạch khởi lên ở nơi hội các kinh Dương, Âm duy mạch khởi lên
ở nơi hội của các kinh Âm.
Đây ví với các bậc thánh nhân xây dựng đồ án, thiết lập các đường lạch
nước. Khi các đường lạch nước tràn đầy nó sẽ chảy vào các hồ ao sâu hơn, sẽ
khiến cho thánh nhân không thể làm cho thông được, ví như mạch của con
người bị lớn thịnh lên sẽ nhập vào bát mạch không còn chảy quanh được nữa
và 12 kinh cũng không thể làm cho thông được. Khi nó bị thọ tà khí, bị uẩn súc
làm cho (người bệnh) bị sưng thũng, nhiệt, ta dùng phép biễm xạ.

NAN 29

Điều 29 Nan viết: “Kỳ kinh (bát mạch) gây bệnh như thế nào ?”.
Thực vậy: “Mạch Dương duy ràng buộc với các kinh Dương; Mạch Âm
duy ràng buộc với các kinh Âm. Khi mà Âm Dương không còn tự mình ràng
buộc lấy nhau nó sẽ làm cho bồn chồn như người thất chí, chao đảo không tự
giữ vững lấy mình được”.
Âm kiểu mạch gây bệnh thì phía Dương bị lơi lỏng, phía Âm bị co cấp;
Dương kiểu mạch gây bệnh thì phía Âm bị lơi lỏng, phía Dương bị co cấp.
Xung mạch bây bệnh làm cho nghịch khí và lý cấp.
Đốc mạch gây bệnh làm cho cột sống cứng mà quyết lãnh.
Nhậm mạch gây bệnh làm cho bên trong (thiếu phúc) bị kết tụ. Con trai bị
chứng thất sán, con gái thì bị chứng hà tụ.
Đới mạch gây bệnh làm cho bụng bị đầy, thắt lưng bị chơi vơi như đang
ngồi giữa dòng nước.
Dương duy mạch gây bệnh bị chứng hàn nhiệt; Âm duy mạch gây bệnh
làm cho Tâm bị thống. Trên là Kỳ kinh bát mạch gây thành bệnh”.

NAN 30

Điều 30 Nan viết: “Vinh khí khi vận hành có thường đi theo với vệ khí hay
không ?”.
Thực vậy: “Kinh nói: con người thọ ở cốc khí. (Thủy) cốc khi nhập vào
Vị, sau đó mới truyền đến ngũ tạng lục phủ. Ngũ tạng lục phủ đều nhận lấy
(cốc) khí: phần thanh (của khí) thành “vinh”, phần trọc thành “vệ”. Vinh khí
vận hành trong mạch, vệ khí vận hành ngoài mạch, (tất cả) làm tươi cho toàn
thân không ngừng nghỉ. Vận hành đủ 50 chu rồi trở lại đại hội. Thế là Âm
Dương cùng quán thông nhau như chiếc vòng ngọc không đầu mối. Nhờ đó ta
biết được vinh và vệ cùng đi theo nhau”.

NAN 31

Điều 31 Nan viết: “Tam tiêu bẩm thụ ở đâu ? Sinh ra từ đâu ? Bắt đầu từ
đâu ? Chấm dứt nơi đâu ? Phép trị của nó thường như thế nào ? (Tại nơi nào
?). Ta có thể hiểu được không ?”.
Thực vậy: “Tam tiêu là con đường (vận hành) của thủy cốc, là nơi chung
thỉ của khí.
Thượng tiêu nằm ở dưới Tâm rồi đi xuống dưới cách ở trên thượng khẩu
của Vị. Nó chủ nạp chứ không chủ xuất. “Trị” của nó là vùng Chiên trung,
dưới huyệt Ngọc đường 1 thốn 6 phân, ngay chỗ lõm vào của giữa 2 đầu vú.
Trung tiêu nằm ở Trung hoãn của Vị, không lên, không xuống. Nó chủ về
làm hủ (nát) và thục (chín) thủy cốc. Trị của nó nằm ở bên cạnh của rún.
Hạ tiêu nằm ngay ở chỗ thượng khẩu của Bàng quang. Nó chủ về phân
biệt thanh và trọc. Nó chủ xuất mà không chủ nạp, vì nó có nhiệm vụ truyền
dẫn (ra ngoài). Trị của nó là ở dưới rún 1 thốn, cho nên gọi nó là Tam tiêu.
Phủ của nó ở tại Khí nhai (có bản viết là xung).

NAN 32

Điều 32 Nan viết: “Ngũ tạng đều ngang nhau, nhưng Tâm và Phế lại nằm
riêng ở phía trên màn cách, tại sao ?”.
Thực vậy: “Tâm thuộc về huyết, Phế thuộc về khí, huyết thuộc vinh, khí
thuộc vệ, (cả hai) đều cùng theo nhau để lên xuống, được gọi là vinh vệ, nó
vận hành thông suốt các kinh lạc, mở rộng ra ngoài khắp nơi. Vì thế nên Tâm
Phế phải ở trên màn cách”.

NAN 33

Điều 33 Nan viết: “Can, (sắc) thanh, tượng là Mộc. Phế (sắc) bạch, tượng
Kim. Can đắc thủy thì trầm, Mộc đắc thủy thì phù. Phế đắc thủy thì phù, Kim
đắc thủy thì trầm. Ý của nó thế nào ?”.
Thực vậy: “Can không phải chỉ thuần là Mộc, nó còn là Ất, là giốc, là nhu
của Canh, nếu nói 1 cách to rộng hơn thì đó là (quan hệ) của Âm và Dương,
nếu nói 1 cách hẹp hơn thì đó là (quan hệ) của chồng và vợ. Khi nó bỏ cái khí
“vi Dương” để hút vào cái “vi Âm” thì “ý” của nó là “lạc: vui” với Kim, vả lại
nó vận hành ở “Âm đạo” nhiều hơn, vì thế nó làm cho Can đắc Thủy thì trầm.
Phế không phải chỉ thuần là Kim, nó còn là Tân, là thương, là nhu của
Bính, nếu nói 1 cách to rộng hơn thì đó là (quan hệ) của Âm và Dương, nếu
nói 1 cách hẹp hơn thì đó là (quan hệ) của chồng và vợ. Khi nó bỏ cái khí “vi
Âm” để kết hôn về với Hỏa thì “ý” của nó là “lạc: vui” với Hỏa, vả lại nó
còn vận hành ở Dương đạo nhiều hơn, vì thế nó làm cho Phế đắc Thủy thì
phù.
Phế “thục: chết” thì trở lại trầm, Can “thục: chết” thì trở lại phù, tại sao ?
Cho nên ta biết rằng Tân thì phải quay về với Canh, Ất thì phải quay về với
Giáp

NAN 34

Điều 34 Nan viết: “Ngũ tạng đều có đủ thanh, sắc, xú, vị, có thể hiểu
được không ?”.
Thực vậy: “Có thập biến. Đó là:
Can, sắc thanh, xú của nó là táo (mùi tanh của thịt), vị toan, thanh hô, dịch
khấp.
Tâm, sắc xích, xú của nó là tiêu, vị khổ, thanh ngôn, dịch hãn (mồ hôi).
Tỳ, sắc hoàng, xú của nó là hương, vị cam, thanh ca, dịch diên (nước bọt).
Phế, sắc bạch, xú của nó là tinh (mùi tanh của cá), vị tân, thanh khốc
(khóc), dịch nước mũi.
Thận, sắc hắc, xú của nó là hủ (mục nát, rữa), vị hàm (mặn, thanh thân
(rên rỉ), dịch thóa (nước bọt).
Đây là thanh, sắc, xú, vị của ngũ tạng”.
“Ngũ tạng có thất thần, mỗi thần đều được tàng giữ ở đâu ?”.
Thực vậy: “Tạng là nơi tàng chứa thần khí của con người. Cho nên, Can
tàng hồn, Phế tàng phách, Tâm tàng thần, Tỳ tàng ý và trí, Thận tàng tinh và
chí”.

NAN 35

Điều 35 Nan viết: “Ngũ tạng đều có chỗ (vị trí) của nó. Các phủ đều gần
được bến (tạng),-g lúc đó Tâm và Phế lại riêng mình cách xa với Tiểu trường
và Đại trường. Tại sao vậy ?”.
Thực vậy: “Kinh nói rằng: Tâm thuộc vinh, Phế thuộc vệ, thảy đều thông
hành với Dương khí, cho nên nó được “ở” bên trên. Đại trường và Tiểu
trường có nhiệm vụ truyền Âm khí cho đi xuống dưới, vì thế chúng phải “ở”
phía dưới. Vì thế chúng cùng cách xa nhau. Vả lại, các phủ đều thuộc Dương
khí, phải ở nơi trong sạch. Nay thì Đại trường, Tiểu trường, Vị, và Bàng
quang đều nhận lấy những vật không sạch. Ý đó là thế nào ?”.
Thực vậy: “(Những gì nói về) phủ ở trên có chỗ đúng cũng có chỗ sai.
Kinh nói rằng: Tiểu trường là phủ thọ nhận và chứa đựng, Đại trường là phủ
làm nhiệm vụ truyền đi ra ngoài theo con đường của mình, Đởm là phủ giữ
được sự trong sạch, Vị là phủ chứa thủy cốc, Bàng quang là phủ của tân dịch.
(Như vậy), một phủ không thể có đến 2 cách gọi, điểm sai là đây. Tiểu
trường là phủ của Tâm, Đại trường là phủ của Phế, Vị là phủ của Tỳ, Đởm là
phủ của Can, Bàng quang là phủ của Thận.
Tiểu trường gọi là Xích trường. Đại trường gọi là Bạch trường, Đởm gọi
là Thanh trường, Vị gọi là Hoàng trường, Bàng quang gọi là Hắc trường, (tất
cả do) Hạ tiêu “trị: quản lý”.

NAN 36
Điều 36 Nan viết: “Mỗi tạng đều có một (tạng), chỉ có Thận là có đến 2
(tạng) tại sao thế ?”.
Thực vậy: “Thận có đến 2 tạng, nhưng không phải đều là Thận, bên trái
gọi là Thận, bên phải gọi là Mệnh môn. Mệnh môn là nơi “ở” của thần và
tinh, là nơi ràng buộc của nguyên khí. Ở người con trai, (Mệnh môn) là nơi
tàng giữ tinh khí, ở người con gái, (Mệnh môn) là nơi ràng buộc với việc thụ
thai. Vì thế ta biết Thận có một”.

NAN 37

Điều 37 Nan viết: “Khí của ngũ tạng phát khởi lên từ đâu ? Thông đến
đâu ? Có thể hiểu được không ?”.
Thực vậy: “Ngũ tạng, bên trên nó quan hệ đến cửu khiếu. Cho nên, Phế
khí thông với mũi, mũi được hòa thì biết được mùi vị thúi hay thơm. Can khí
thông với mắt, mắt được hòa thì thấy được màu trắng hay đen. Tỳ khí thông
với miệng, miệng được hòa thì nếm được mùi của cốc khí. Tâm khí thông với
lưỡi, lưỡi được hòa thì nếm được ngũ vị. Thận khí thông với tai, tai được hòa
thì nghe được ngũ âm.
Ngũ tạng bất hòa thì cửu khiếu không thông. Lục phủ bất hòa thì lưu lại
và kết lại thành chứng “ung”.
Tà khí ở tại lục phủ thì Dương mạch bất hòa, Dương mạch bất hòa thì khí
bị lưu lại, khí bị lưu lại thì Dương mạch bị thịnh. Tà khí ở Ngũ tạng thì Âm
mạch bất hòa, Âm mạch bất hòa thì huyết bị lưu lại, huyết bị lưu lại thì Âm
mạch bị thịnh. Âm khí quá thịnh thì dương khí không còn được “doanh” nữa,
gọi là Cách. Dương khí quá thịnh thì Âm khí không còn được “doanh” nữa, gọi
là Quan. Âm Dương đều thịnh không còn cùng “doanh” cho nhau nữa, gọi là
Quan Cách. Quan Cách có nghĩa là không còn sống trọn tuổi của mình nữa,
chết”.
“Kinh nói: Khí độc hành ở ngũ tạng mà không còn doanh ở lục phủ, tại sao
như vậy ?”
Thực vậy: “Sự vận hành của khí ví như dòng nước chảy không được
ngừng lại. Cho nên Âm mạch thì “doanh” ở ngũ tạng, Dương mạch thì
“doanh” ở lục phủ, như chiếc vòng ngọc không đầu mối, không biết đầu mối
sợi tơ ở đâu, dứt rồi bắt đầu trở lại, không bị tình trạng “phúc dật”. Nhân khí
bên trong làm ấm ở tạng phủ, bên ngoài làm trơn nhuận tấu lý”.

NAN 38
Điều 38 Nan viết: “Tạng duy chỉ có 5, phủ lại độc có đến 6, tại sao vậy
?”.
Thực vậy: “Sở dĩ phủ có đến 6, đó là kể đến Tam tiêu, nó là biệt sứ của
nguyên khí, nó chủ trì các khí có danh mà vô hình. Kinh của nó là Thủ Thiếu
dương. Đây là phủ bên ngoài. Vì thế mới nói phủ có đến 6”.

NAN 39

Điều 39 Nan viết: “Kinh nói: Phủ có 5, tạng có 6, thế nghĩa là thế nào ?”.
Thực vậy “(Nói là) lục phủ, nhưng chính là chỉ có ngũ phủ, trong lúc đó
ngũ tạng cũng thành có lục tạng, cũng là Thân có đến 2 tạng, tạng ở bên trái
thuộc Thận, tạng ở bên phải thuộc Mệnh môn. Mệnh môn là chỗ “ở” của tinh
thần. Người con trai dùng nó để tàng chứa tinh khí, người con gái dùng nó để
ràng buộc vấn đề bào thai. Khí của nó thông với Thận, vì thế mới nói tạng
gồm có 6 (tạng)”.
“Phủ có 5 nghĩa là sao ?”.
Thực vậy: “Ngũ tạng, mỗi tạng đều có một phủ, Tam tiêu cũng là một
phủ, nhưng lại không thuộc vào ngũ tạng, vì thế mới nói phủ chỉ có 5 (phủ)”.

NAN 40

Điều 40 Nan viết: “Kinh nói: Can chủ về sắc, Tâm chủ về xú, Tỳ chủ về
vị, Phế chủ về thanh, Thận chủ về dịch. Tỵ (mũi) là nơi biểu hiện của Phế
vậy mà nó lại biết được mùi thơm, thúi (hôi). Nhĩ (tai) là nơi biểu hiện của
Thận vậy mà nó lại nghe được âm thanh. Ý của nó thế nào ?”.
Thực vậy: “Phế thuộc tây phương Kim. Kim được sinh ra ở tỵ, tỵ thuộc
nam phương Hỏa. Hỏa thuộc Tâm, Tâm chủ về xu, vì thế nó khiến cho mũi
biết được mùi thơm hay thúi. Thận thuộc bắc phương Thủy. Thủy được sinh
ra ở thân, thân thuộc tây phương Kim. Kim thuộc Phế, Phế chủ về âm thanh,
vì thế nó khiến cho tai nghe được âm thanh”.

NAN 41

Điều 41 Nan viết: “Chỉ riêng có Can là có đến 2 lá, nó được ứng với gì ?”.
Thực vậy: “Can thuộc đông phương Mộc. Mộc thuộc mùa xuân, (đó là lúc)
vạn vật bắt đầu sinh ra. Ý (của mùa xuân, của Can) không cần phải là người
thân (mới thi ân). Nó (Can) cách Thái âm vẫn rất gần, rời Thái dương không
xa, ví như có “lưỡng Tâm”. Cho nên, nó có 2 lá nhằm ứng với lá của Mộc
vậy”.

NAN 42

Điều 42 Nan viết: “Trường Vị của con người dài hay ngắn, nhận được
thủy cốc nhiều hay ít ?”.
Thực vậy: “Vị to 1 xích 5 thốn, đường kính 5 thốn, dài 2 xích 6 thốn, căng
ngang để chứa thủy cốc được 3 đấu 5 thăng. Bên trong thường phải giữ lại
(thủy cốc); (gồm) cốc 2 đấu, thủy 1 đấu 5 thăng.
Tiểu trường to 2 thốn rưỡi, đường kính 8 phân 1/3, dài 3 trượng 2 xích,
nhận được cốc 2 đấu 4 thăng, thủy được 6 thăng 3 hợp 2/3.
Hồi trường lớn 4 thốn, đường kính 1 thốn rưỡi, dài 2 trượng 1 xích, nhận
được cốc 1 đấu, thủy 7 thăng rưỡi.
Quảng trường to 8 thốn, đường kính 2 thốn rưỡi, dài 2 xích 8 thốn, nhận
được cốc 9 thăng 3 hợp 1/8. Vì thế tính chung Trường và Vị dài 5 trượng 8
xích, 4 thốn, nhập chung thủy cốc 8 đấu 7 thăng 6 hợp 6/8. Đây là con số mà
Trường Vị đo được độ dài ngắn và sức chứa nhận về thủy cốc.
Can cân nặng 4 cân 4 lượng, bên trái có 3 lá, bên phải có 4 lá, tất cả gồm 7
lá.Nó chủ về tàng hồn.
Tâm cân nặng 12 lượng, bên trong có 7 lỗ lớn, 3 lỗ nhỏ (?), chứa đựng tinh
trấp 3 hợp, chủ về tàng thần.
Tỳ cân nặng 2 cân 3 lượng, hình dẹp rộng 3 thốn, dài 5 thốn, có khối mỡ
“tán cao” nặng nửa cân, nó chủ về bọc huyết làm ấm ngũ tạng, chủ về tàng ý.
Phế cân nặng 3 cân 3 lượng, 6 lá 2 lỗ nhĩ, gồm 8 lá, chủ về tàng phách.
Thận có 2 quả, cân nặng 1 cân 1 lượng, chủ về tàng chí.
Đởm nằm trong khoảng dưới là gan ngắn, cân nặng 3 lượng 3 thù, chứa
đựng tinh trấp 3 hợp.
Vị cân nặng 2 cân 2 lượng, quanh co khúc khuỷu, co lại duỗi ra, dài 2 xích
6 thốn, to 1 xích 5 thốn, đường kính 5 thốn, chứa đựng cốc 2 đấu, thủy 1 đấu
5 thăng.
Tiểu trường cân nặng 2 cân 14 lượng, dài 3 trượng 2 xích, rộng 2 thốn
rưỡi, đường kính 8 phân 1/3, cuộn khúc từ phía tả, phần tích chứa cuộn lại
thành 16 khúc, chứa đựng cốc 2 đấu 4 thăng, thủy 6 thăng 3 hợp 2/3.
Đại trường cân nặng 2 cân nặng 2 cân 12 lượng, dài 2 trượng 1 xích, rộng
4 thốn, đường kính 1 thốn rưỡi. Nó cuộn khúc lại từ phía hữu của rún thành
16 khúc, chứa đựng cốc 1 đấu thủy 7 thăng rưỡi.
Bàng quang cân nặng 9 lượng 2 thù rộng bề ngang đến 9 thốn, chứa nước
tiểu đến 9 thăng 9 hợp.
Miệng rộng được 2 thốn rưỡi. Từ môi đến răng dài 9 phân, từ xỉ (răng)
đến phía sau của hội yếm sâu 3 thốn rưỡi, rộng có thể chứa được đến 5 hợp.
Lưỡi nặng 10 lượng, dài 7 thốn rộng 2 thốn rưỡi.
Cửa “yết môn” cân nặng 10 lượng, rộng 2 thốn rưỡi, dài xuống đến Vị 1
xích 6 thốn.
Cửa “hầu lung” cân nặng 12 lượng, rộng 2 thốn, dài 1 xích 2 thốn, 9 tiết
(đốt).
Cửa “giang môn” cân nặng 12 lượng, to 8 thốn, đường kính 2 thốn 2/3, dài
2 xích 8 thốn, chứa đựng cốc 9 thăng 2 hợp 1/8”.

NAN 43

Điều 43 Nan viết: “Con người không ăn uống trong 7 ngày thì phải chết,
tại sao thế ?”
Thực vậy: “Trong Vị của con người thường phải giữ đủ 2 đấu cốc, và 1
đấu 5 thăng thủy. Cho nên một người bình nhân mỗi ngày 2 lần đến cầu tiêu,
mỗi lần như vậy bỏ đi 2 thăng rưỡi, trong ngày là 5 thăng. Trong 7 ngày thì 5
lần 7 là 3 đấu 5 thăng, thế là thủy cốc đều bị ra hết. Vì thế một người bình
nhân, nếu trong 7 ngày mà không ăn uống thì phải chết, đó là vì thủy cốc và
tân dịch đều bị tận (hết), tức là phải chết”.

NAN 44

Điều 44 Nan viết: “Thất xung môn nằm ở đâu ?”.


Thực vậy: “Môi gọi là Phi môn; Răng gọi là Hộ môn; Hội yếm gọi là Hấp
môn; Vị gọi là Bôn môn; miệng dưới của thái dương gọi là U môn; Đại
trường, Tiểu trường gọi chung là Lam môn; hạ cực gọi là Phách môn. Cho nên
gọi tất cả là “thất xung môn”.

NAN 45

Điều 45 Nan viết: “Kinh nói rằng: Có bát hội, ở đâu ?”.
Thực vậy: “Phủ hội ở Thái thương, tạng hội ở nơi sườn cụt, cân hội ở
huyệt Dương Lăng tuyền, tủy hội ở tuyệt cốt, huyệt cốt ở cách du, cốt hội ở
huyệt Đại trữ, mạch hội ở huyệt Thái uyên, khí hội ở Tam tiểu nơi ngoài
đường cân thẳng ngay giữa 2 vú. Khi nhiệt bệnh bên trong, nên thủ các khí
huyệt hội nhau ấy”.

NAN 46

Điều 46 Nan viết: “Người già nằm mà không ngủ được, còn những người
thuộc lớp tuổi thiếu tráng thì nằm ngủ mà không bị thức, tại sao ?”.
Thực vậy: “Những người thuộc lớp tuổi thiếu tráng thì huyết khí thịnh, cơ
nhục còn trơn nhuận, khí đạo còn thông, sự vận hành của vinh và vệ không
mất đi lẽ thường của nó, cho nên ban ngày họ được “tinh: sáng suốt, hợp với
Dương”, ban đêm họ không bị thức (không mất ngủ). Người già thì huyết khí
suy, cơ nhục không còn trơn nhuận, đường vận hành của vinh vệ bị chậm lại,
cho nên ban ngày họ không thể “nhanh nhẹn, sáng suốt”, ban đêm không ngủ
được. Đó là lý do cho biết tại sao người già thì không ngủ được”.

NAN 47

Điều 47 Nan viết: “Chỉ có gương mặt người là có thể chịu được lạnh, tại
sao thế ?”.
Thực vậy: “Đầu của con người là nơi hội của các kinh Dương. Các mạch
của Âm đều lên đến cổ, ngực rồi quay trở xuống, chỉ có mạch Dương lên đến
trên đầu mà thôi. Do đó, nó làm cho gương mặt chịu được lạnh vậy”.

NAN 48

Điều 48 Nan viết: “Con người có tam hư, tam thực, thế nghĩa là thế nào
?”.
Thực vậy: “Có sự hư thực của mạch, có sự hư thực của bệnh, có sự hư
thực của chẩn.
Khi nói “hư thực của mạch”, có nghĩa là nếu nhu thì thuộc hư, nếu khẩn
và lao (cứng) thì thuộc thực.
Khi nói “hư thực của bệnh”, có nghĩa là nếu bệnh từ trong phát ra thì
thuộc hư, nếu bệnh từ ngoài nhập vào thì thuộc thực. Bệnh còn nói chuyện
được thuộc hư, bệnh không còn nói chuyện được thuộc thực. (Bệnh thể) hòa
hoãn thuộc hư, bệnh thể cấp khẩn thuộc thực.
Khi nói “hư thực của phép chẩn”, có nghĩa là nếu vùng bì phu còn nhu
hoãn thuộc hư, nếu vùng bì phu bị căng cứng thuộc thực. Nếu vùng bì phu còn
biết ngứa thì thuộc hư, nếu còn biết thống thì thuộc thực. Nếu (ấn nhẹ) bên
ngoài mà bị thống, nếu (ấn mạnh) vào đến bên trong mà thấy khoan khoái, đó
là ngoài bị thực, trong bị hư. Nếu ấn mạnh mà thấy thống, nếu ấn nhẹ mà
thấy khoan khoái, đó là trong bị thực mà ngoài bị hư. Ta gọi đó là tình trạng
“hư thực” vậy”.

NAN 49

Điều 49 Nan viết: “Có “chính kinh tự bệnh” lại có “ngũ tà làm thương
(thành bệnh)”. làm thế nào để phân biệt được ?”.
Thực vậy: “Kinh nói: Ưu sầu tư lự thì làm thương Tâm. Thân mình bị
lạnh, uống thức lạnh thì làm thương Phế. Sự tức giận làm cho khí nghịch lên
trên mà không xuống được làm thương Can. Ăn uống và lao nhọc thì làm
thương Tỳ. Ngồi lâu ở nơi ẩm thấp, ráng sức ở dưới nước thì làm thương
Thận. Đây là trường hợp tự bệnh của chính kinh”.
“Thế nào là ngũ tà (gây bệnh) ?”.
Thực vậy: “Có “trúng Phong”, có “Thương thử”, có “ăn uống và lao nhọc”,
có “thương hàn”, có “trúng thấp”, ta gọi đây là ngũ tà (gây bệnh)”.
“Giả sử Tâm bệnh. Dựa vào đâu để biết rằng đó là do trúng Phong gây nên
?”.
Thực vậy: “Sắc phải xích”.
“Dựa vào đâu để nói như thế ?”.
“Can chủ về sắc, Can tự nhập vào mình thì sắc thanh, nhập vào Tâm thì
sắc xích, nhập vào Tỳ thì sắc hoàng, nhập vào Phế thì sắc bạch, nhập vào
Thận thì sắc Hắc. Can là tà của Tâm, cho nên ta biết sắc diện phải xích. Khi
phát bệnh thì thân mình nhiệt, dưới sườn bị mãn, thống, mạch phù đại mà
huyền”.
“Dựa vào đâu để biết rằng (Tâm bệnh) là do thương thử gây nên ?”.
Thực vậy: “Phải ghét mùi xú”.
“Dựa vào đâu để nói như thế ?”.
“Tâm chủ về xú. (Tâm) tự nhập vào mình thì gây thành “tiêu” xú, nhập vào
Tỳ thì gây thành “hương” xú, nhập vào Can thì gây thành “táo” xú, nhập vào
Thận thì gây thành “hủ” xú, nhập vào Phế thì gây thành “tinh” xú. Cho nên, ta
biết rằng đó là Tâm bệnh do thương thử mà gây nên thì (bệnh nhân) phải ghét
mùi xú. Khi phát bệnh thì thân mình nhiệt mà bứt rứt, Tâm bị thống, mạch phù
đại mà tán”.
“Dựa vào đâu để biết rằng (Tâm bệnh) là do ăn uống và lao nhọc gây nên
?”.
Thực vậy: “Phải thích vị khổ. Nếu hư thì không thích ăn, nếu thực thì
thèm ăn”.
“Dựa vào đâu để nói như thế ?”.
“Tỳ chủ về vị. (Tỳ) nhập vào Can thành vị toan, nhập vào Tâm thành vị
khổ, nhập vào Phế thành vị tân, nhập vào Thận thành vị hàm, (Tỳ) tự nhập
thành vị ca. Cho nên ta biết rằng tà khí của Tỳ nhập vào Tâm thì gây thành
chứng thích vị khổ. Khi phát bệnh thì thân mình nhiệt mà tay chân nặng, thích
nằm, tứ chi không co duỗi thoải mái, mạch phù đại mà hoãn”.
“Dựa vào đâu để biết rằng (Tâm bệnh) là do thương hàn gây nên ?”
Thực vậy: “(Bệnh nhân) phải nói sàm ngôn vọng ngữ”.
“Dựa vào đâu để nói như thế ?”.
“Phế chủ về thanh (âm). (Phế) nhập vào Can thành hô (kêu, la), nhập vào
Tâm thành ngôn (hay nói), nhập vào Tỳ thành ca (hát), nhập vào Thận thành
thân(rên), (Phế) tự nhập vào mình thành khóc. Cho nên ta biết rằng tà khí của
Phế nhập vào Tâm sẽ gây thành chứng sàm ngôn, vọng ngữ. Khi phát bệnh thì
thân mình nhiệt ớn ớn sợ lạnh, nếu nặng sẽ bị ho suyễn, mạch phù đại mà
sắc”.
“Dựa vào đâu để biết rằng (Tâm bệnh) là do trúng Thấp gây nên?”.
Thực vậy: “(Bệnh nhân) phải ra mồ hôi không ngừng”.
“Dựa vào đâu để nói như thế ?”.
“Thân chủ về Thấp. (Thận) nhập vào Can thành nước mắt, nhập vào Tâm
thành mồ hôi, nhập vào Tỳ thành nước bọt (hoặc chất dịch nhờn), nhập vào
Phế thành nước mũi, (Thận) tự nhập vào mình thành nước bọt (thóa). Cho nên
ta biết rằng khi tà khí của Thận nhập vào Tâm sẽ làm cho bệnh nhân mồ hôi
ra không dứt. Khi phát bệnh thì thân mình nhiệt mà vùng thiếu phúc thống,
cẳng chân bị lạnh mà nghịch, mạch trầm nhu mà đại. Trên đây là những phép
để biết ngũ tà (gây bệnh)”.

NAN 50

Điều 50 Nan viết: “Bệnh có Hư tà, có Thực tà, có Tặc tà, có Vi tà, có
Chính tà. Lấy gì để phân biệt ?”.
Thực vậy: “Đi từ phía sau đến gọi là hư tà; đi từ phía trước đến gọi là
Thực tà; đi từ “sở bất thắng” đến gọi là Tặc tà; đi từ “sở thắng” đến gọi là Vi
tà; tự bệnh gọi là chính tà”.
“Dựa vào đâu để nói như thế ?”.
“Giả sử Tâm bệnh: do trúng phong mà bị bệnh gọi là Hư tà; do thương thử
mà bị bệnh gọi là Chính tà; do ăn uống lao nhọc mà bị bệnh gọi là Thực tà; do
thương hàn mà bị bệnh gọi là Vi tà; do trúng Thấp mà bị bệnh gọi là Tặc tà”.
NAN 51

Điều 51 Nan viết: “Có những bệnh (mà người bệnh) muốn được ấm,
(cũng có những bệnh mà người bệnh) muốn được lạnh, muốn được thấy
người khác, không muốn thấy người khác, (các trường hợp trên) đều không
giống nhau. Như vậy, bệnh ở tại tạng phủ nào ?”.
Thực vậy: “Những bệnh (mà người bệnh) muốn được lạnh và cũng muốn
thấy người khác, đó là bệnh tại phủ. Những bệnh (mà người bệnh) muốn
được ấm và không muốn thấy người khác, đó là bệnh ở tạng”.
“Dựa vào đâu để nói được như vậy ?”.
“Phủ thuộc Dương, bệnh thuộc Dương thì người bệnh muốn được lạnh
và cũng muốn nhìn thấy người khác. Tạng thuộc Âm, bệnh thuộc Âm thì
người bệnh muốn được ấm và chỉ muốn đóng kín cửa lại để ở một mình,
ghét nghe thấy tiếng người khác. Đó là (những biểu hiện) để ta biết được
bệnh của tạng hay của phủ vậy”.

NAN 52

Điều 52 Nan viết: “Cái căn bản của sự phát bệnh của tạng và phủ có đồng
nhau không ?”.
Thực vậy: “Không đồng nhau”.
“Không đồng nhau như thế nào ?”.
Thực vậy: “Tạng bệnh thì dừng lại 1 nơi không di chuyển, chỗ bệnh
không thay đổi chỗ. Phủ bệnh thì dường như là chạy đi nhiều hướng, khi lên,
khi xuống, khi chạy đi nơi này khác, chỗ ở vô thường. Cho nên, dựa vào đó để
ta biết cái căn bản của tạng của phủ bất đồng”.

NAN 53

Điều 53 Nan viết: “Kinh nói: Bệnh do “Thất truyền” thì chết, bệnh do
“gián tạng” thì sống. Đó là nói gì ?”.
Thực vậy: “”thất truyền” có nghĩa là truyền cho cái “sở thắng”. “Gián
tạng” có nghĩa là truyền cho con mình”.
“Nói thế nghĩa là thế nào ?”.
“Giả sử Tâm bệnh truyền lại cho Phế; Phế truyền lại cho Can; Can truyền
lại cho Tỳ; Tỳ truyền lại cho Thận; Thận truyền lại cho Tâm. Đến đây thì một
tạng không thể chịu truyền bệnh đến 2 lần, cho nên gọi là “thất truyền”,
(truyền đến lần thứ 7) thì chết.
Giả sử Tâm truyền bệnh cho Tỳ; Tỳ truyền cho Phế; Phế truyền cho
Thận; Thận truyền cho Can; Can truyền cho Tâm. Đó là lối “mẹ con truyền
nhau”, truyền đến cuối rồi lại bắt đầu trở lại, như chiếc vòng ngọc tròn
không đầu mối. Cho nên gọi nó là “sinh: sống”.

NAN 54

Điều 54 Nan viết: “Tạng bệnh thì khó trị, phủ bệnh lại dễ trị, tại sao thế
?”.
Thực vậy: “Tạng bệnh sở dĩ khó trị là vì nó truyền cho cái “sở thắng”, phủ
bệnh sở dĩ dễ trị là vì nó truyền cho con nó, giống với phép “thất truyền” và
“gián tạng”.

NAN 55

Điều 55 Nan viết: “Bệnh có tích, có tụ, làm thế nào để phân biệt được ?”.
Thực vậy: “Tích thuộc về Âm khí. Tụ thuộc về Dương khí, Do đó mà Âm
khí thì trầm mà phục, Dương khí thì phủ mà động. Khí tích lại gọi tên là Tích,
khí tụ lại gọi tên là Tụ. Cho nên, Tích do ngũ tạng sinh ra, Tụ do lục phủ
thành ra. Tích thuộc Âm khí, khi nó mới bắt đầu phát đều có nơi chỗ rõ ràng,
sự đau nhức không rời chỗ bệnh, nó lên hay xuống đều có chỗ chấm dứt và
bắt đầu, 2 bên tả hữu đều có chỗ tận cùng của nó. Tụ thuộc Dương khí, khi
nó bắt đầu phát đều không có nơi gốc rễ, nó lên xuống đều không có nơi
dừng lại, chỗ đau nhức không nơi nhất định. Ta gọi đó là Tụ. Vì thế ta dùng
những mô tả trên để phân biệt bệnh về Tích và Tụ vậy”.

NAN 56

Điều 56 Nan viết: “Tích của ngũ tạng đều có tên không riêng mình không ?
Nó đắc (bệnh) vào tháng nào, ngày nào ?”.
Thực vậy: “Tích của Can tên gọi là Phì khí, nằm ở dưới hông sườn bên
trái, hình như cái ly úp xuống, có đầu có chân, bệnh lâu không lành sẽ làm cho
người bệnh phát ra chứng ho nghịch, sốt rét năm này qua năm khác không
khỏi. Nó đắc (bệnh) vào Mậu Kỷ nhật của mùa qúy hạ”.
“Dựa vào đâu để nói như thế ?”.
“Phế bệnh truyền cho Can, Can phải truyền cho Tỳ, gặp lúc mùa qúy hạ
Tỳ đang Vượng, mà vượng thì Tỳ sẽ không thọ tà. Thế là Can muốn trả trở lại
cho Phế, Phế không chịu nhận, vì thế mà lưu kết thành chứng Tích. Do đó
chúng ta biết được chứng Phì khí đắc (bệnh) vào Mậu Kỷ nhật của mùa qúy
hạ.
Tích của Tâm tên gọi là Phục lương, khỏi lên từ ở phía trên rún to như
cánh tay, lên trên đến dưới Tâm, bệnh lâu ngày không khỏi, khiến cho người
bệnh bị phiền Tâm. Nó đắc (bệnh) vào Canh Tân nhật của mùa Thu.
“Dựa vào đâu để nói như thế ?”.
“Thận bệnh truyền cho Tâm, Tâm phải truyền cho Phế, gặp lúc mùa thu
Phế đang vượng, mà vượng thì phế sẽ không thọ tà. Thế là Tâm muốn trả trở
lại cho Thận. Thận không chịu nhận, vì thế mà lưu kết thành chứng Tích. Do
đó chúng ta biết được chứng phục lương đắc (bệnh) vào Canh Tân nhật của
mùa thu.
Tích của Tỳ tên gọi là Bĩ khí, nằm ở vùng vị hoãn, to như cái mân, bệnh
lâu không dứt sẽ khiến cho bệnh nhân tứ chi không co duỗi được, phát chứng
hoàng đản, ăn uống không bồi bổ được cho cơ nhục và bì phu. Nó đắc (bệnh)
vào Nhâm Qúy nhật của mùa đông”.
“Dựa vào đâu để nói như thế ?”.
“Can bệnh truyền cho Tỳ, Tỳ phải truyền cho Thận, gặp lúc mùa đông
Thận đang vượng, mà vượng thì Thận sẽ không thọ tà. Thế là Tỳ muốn trả
trở lại cho Can. Can không chịu nhận, vì thế mà lưu kết thành chứng Tích. Do
đó chúng ta biết được chứng Bĩ khí đắc (bệnh) vào Nhâm Qúy nhật của mùa
đông”.
Tích của Phế tên gọi là Tức bôn, nằm ở dưới hông sườn phía hữu, nằm úp
lại to như cái ly, bệnh lâu ngày không dứt sẽ khiến cho bệnh nhân hay bị ớn
ớn hàn nhiệt, ho suyễn phát ra phế ủng. Nó đắc (bệnh) vào Giáp Ất nhật mùa
xuân”.
“Dựa vào đâu để nói như thế ?”.
“Tâm bệnh truyền cho phế, phế phải truyền cho Can, gặp lúc mùa xuân
Can đang vượng, mà vượng thì Can sẽ không thọ tà. Thế là phế muốn trả trở
lại cho Tâm. Tâm không chịu nhận, vì thế mà lưu kết thành chứng Tích. Do đó
chúng ta biết được chứng Tức bôn đắc bệnh vào Giáp Ất nhật của mùa xuân”.
Tích của Thận tên gọi là Bôn độn, nó phát ra ở vùng thiếu phúc, lên trên
đến dưới Tâm, giống như hình trạng của con “đôn : heo con” hoặc lên hoặc
xuống không biết lúc nào, bệnh lâu ngày không dứt sẽ khiến cho bệnh nhân bị
suyễn nghịch, cốt nuy, bị thiếu khíq. Nó đắc bệnh vào Bính Đinh nhật của
mùa hạ’.
“Dựa vào đâu để nói như thế ?”.
“Tỳ bệnh truyền cho Thận, Thận phải truyền cho Tâm, gặp lúc mùa hạ
Tâm đang vượng, mà vượng thì Tâm sẽ không thọ tà. Thế là Thận muốn trả
trở lại cho Tỳ, Tỳ không chịu nhận vì thế lưu kết thành chứng Tích. Do đó
chúng ta biết được chứng Bôn độn đắc bệnh vào Bính Đinh nhật của mùa hạ.
Đây là những phép chẩn quan trọng của ngũ tích”.

NAN 57

Điều 57 Nan viết: “Tiết gồm có bao nhiêu loại ? Có tên gọi hay không ?”.
Thực vậy: “Tiết gồm có 5 loại, tên gọi đều khác nhau, có Vị tiết, có Tỳ
tiết, có Đại trường tiết, có Tiểu trường tiết, có Đại hà tiết, còn gọi là Hậu
trọng.
Vị tiết là chứng mà ăn uống không hóa, phân vàng.
Tỳ tiết là chứng mà bụng bị trướng, mãn, khi đi tiêu thì chảy ra, ăn vào
xong tức thì ói nghịch trở ra.
Đại trường tiết là chứng mà ăn vừa xong thì bụng như bị quẫn bách như
bắt buộc phải tiêu ra ngay, đại tiện ra phân sắc trắng, sôi ruột, đau như cắt.
Tiểu trường tiết là chứng mà tiểu tiện thông, đại tiện ra máu mủ, đau
vùng thiếu phúc.
Đại hà tiết là chứng mà lý cấp hậu trọng, nhiều lần đi đến cầu tiêu nhưng
không thể đại tiện được, giữa dương vật bị đau. Đây là phép lớn để hiểu về
các chứng tiết.

NAN 58

Điều 58 Nan viết: “Thương hàn có mấy loại ? Mạch của nó có biến không
?”.
Thực vậy: “Thương hàn có 5 loại, đó là có trúng phong, có thương hàn, có
thấp ôn, có nhiệt bệnh, có ôn bệnh, mỗi loại có sự biểu hiện hiểm nguy của
nó khác nhau.
Mạch trúng phong thì Dương phù mà hoạt, Âm nhu mà nhược, Mạch thấp
ôn thì Dương nhu mà nhược, Âm tiểu mà cấp. Mạch thương hàn thì Âm
Dương đều thịnh mà khẩn sắc. Mạch nhiệt bệnh thì Âm Dương đều phù, phù
mà lại hoạt, trầm mà lại tán sắc. Mạch ôn bệnh thì vận hành ở các kinh mà
không biết động ở kinh nào, đều phải dựa vào tình hình của kinh đó trong lúc
chẩn để dựa vào đó mà trị”.
“Bệnh thương hàn, có trường hợp cho ra mồ hôi thì khỏi mà cho xổ lại
chết; có trường hợp cho ra mồ hôi thì chết mà cho xổ lại khỏi, tại sao vậy ?”.
Thực vậy: “Khi Dương hư Âm thịnh mà cho ra mồ hôi thì khỏi, cho xổ thì
chết; khi Dương thịnh Âm hư mà cho ra mồ hôi thì chết, cho xổ lại khỏi”.
“Bệnh về hàn nhiệt, sự biểu hiện của nó như thế nào ?”.
Thực vậy: “Bì phu hàn nhiệt làm cho bì phu không thể tiếp xúc được với
chiếu nằm, lông tóc bị khô, mũi khô, không được cho ra mồ hôi; cơ nhục hàn
nhiệt làm cho bì phu bị thống, môi lưỡi bị khô, không được cho ra mồ hôi; cốt
hàn nhiệt bệnh làm cho người bệnh không được an tĩnh, mồ hôi ra không dứt,
gốc răng khô và đau nhức”.

NAN 59

Điều 59 Nan viết: “Bệnh Thuộc cuồng và điên phải phân biệt như thế nào
?”.
Thực vậy: “Bệnh cuồng lúc bắt đầu làm cho bệnh nhân ít chịu những8,
không đói tự cho mình là bậc hiền ở trên cao, tự phân biệt mình là người trí,
tự cho mình là tôn qúy, ngông láo, cười ngây, ham ca nhạc, làm những việc
liều lĩnh.
Bệnh điên tật lúc bắt đầu làm cho bệnh nhân ý không vui, ngó thẳng, té
xuống cứng như xác chết, tất cả 3 bộ mạch Âm Dương đều thịnh”.

NAN 60
Điều 60 Nan viết: “bệnh ở đầu và Tâm có Quyết thống, có Chân thống,
nghĩa là thế nào ?”.
Thực vậy: “Mạch của Thủ tam Dương thọ phong hàn, núp lại, lưu lại
không đi, gọi là Quyết đầu thống, nó nhập để liên hệ với não, gọi là Chân đầu
thống. Khí của ngũ tạng can thiệp vào nhau gọi là Quyết Tâm thống. Khi nào
sự đau nhức nhiều chỉ ở Tâm, tay chân lạnh, gọi là Chân Tâm thống. Khi mà
bị chứng Chân Tâm thống thì buổi sáng phát bệnh, buổi chiều chết, buổi
chiều phát, buổi sáng chết”.

NAN 61

Điều 61 Nan viết: “Kinh nói: Vọng để biết gọi là thần, văn (nghe) để biết
gọi là thánh, vấn (hỏi) để biết gọi là công, thiết mạch để biết gọi là xả. Nói
thế nghĩa là thế nào?”.
Thực vậy: “Khi nói “vọng để biết” ý nói nhờ vọng mà thấy được ngũ sắc,
từ đó biết được bệnh.
Khi nói “văn để biết” ý nói nhờ văn mà nghe được ngũ âm nhằm phân biệt
được bệnh.
Khi nói “vấn để biết” ý nói nhờ vấn mà chúng ta hỏi được người bệnh
thích vị nào trong ngũ vị, từ đó ta biết được bệnh khởi lên từ đâu ? Đang nằm
ở đâu ?
Khi nói “thiết mạch để biết” ý nói nhờ chẩn mạch Thốn khẩu mà biết
được tình trạng hư thực nhằm biết được bệnh, belänh đó đang ở tạng phủ nào
? Kinh đã nói “nhờ ở ngoại mà biết gọi là thánh, nhờ ở nội mà biết gọi là
thần” là như thế!”.

NAN 62

Điều 62 Nan viết: “Các huyệt Tỉnh Vinh... của tạng chỉ có 5, riêng ở phủ
lại có đến 6, nghĩa là thế nào ?”.
Thực vậy: “phủ thuộc Dương. Kinh Tam tiêu vận hành ở các kinh Dương,
cho nên phải đặt thêm 1 du huyệt gọi tên là Nguyên. Như vậy nếu phủ có đến
6 thì đó cũng chỉ vì nó cùng một khí với Tam tiêu mà thôi”.

NAN 63
Điều 63 Nan viết: “Các huyệt Vinh Hợp trong ngũ tạng lục phủ đều lấy
Tỉnh làm huyệt bắt đầu. (Như thế) nghĩa là gì ?”.
Thực vậy: “Tỉnh là mùa xuân, phương đông, lúc vạn vật bắt đầu sinh ra.
Các con sâu kỷ bò ngoằn ngoèo, suyễn tức, sâu quyên bay lên, sâu nhu động
đậy. Các vật phải sống không vật nào không dựa vào mùa xuân để sinh.
Cho nên tính theo tuế thì bắt đầu từ xuân, tính theo nguyệt (có bản viết là
nhật) thì bắt đầu ở Giáp. Vì thế (cổ nhân) lấy huyệt Tỉnh làm huyệt bắt đầu”.

NAN 64

Điều 64 Nan viết: “Thập biến lại nói: Âm Tỉnh Mộc, Dương Tỉnh Kim;
Âm Vinh Hỏa; Dương Vinh Thủy; Âm Du Thổ, Dương Du Mộc; Âm Kinh
Kim, Dương Kinh Hỏa; Âm Hợp Thủy, Dương Hợp Thổ. Âm Dương (giữa 2
đường kinh) đều không đồng nhau. Ý (của sự bất đồng đó) như thế nào ?”.
Thực vậy: “Đây là vấn đề thuộc Cương và Nhu.
Âm Tỉnh thuộc Ất Mộc. Dương Tỉnh thuộc Canh Kim.
Huyệt Tỉnh của đường kinh Dương thuộc Canh và Canh là “cương” của
Ất.
Huyệt Tỉnh của đường kinh Âm thuộc Ất vì Ất là “nhu” của Canh.
Ất thuộc Mộc, cho nên gọi huyệt Tỉnh của đường kinh Âm thuộc Mộc.
Canh thuộc Kim, cho nên gọi huyệt Tỉnh của đường kinh Dương thuộc Kim.
Tất cả các kinh còn lại đều luận trên lẽ đó”.

NAN 65

Điều 65 Nan viết: “Kinh nói: Nơi khí xuất ra gọi là huyệt Tỉnh, nơi khí
nhập vào gọi là huyệt Hợp. Phải hiểu phép ấy như thế nào ?”.
Thực vậy: “Khi nói rằng “Sở xuất vi Tỉnh” thì Tỉnh thuộc đông phương,
thuộc mùa xuân, đây là lúc mà vạn vật “bắt đầu sinh”, cho nên mới nói “Sở
xuất vi Tỉnh”.
Khi nói rằng “Sở nhập vi Hợp” thì hợp thuộc bắc phương, thuộc mùa
đông, lúc đó Dương khí đang nhập vào đang “tàng: ẩn giấu”. Cho nên mới nói
“Sở nhập vi Hợp”.

NAN 66

Điều 66 Nan viết:Huyệt Nguyên của Phế xuất ra ở huyệt Thái Uyên.
Huyệt Nguyên của Tâm xuất ra ở huyệt Đại Lăng. Huyệt Nguyên của Tỳ xuất
ra ở huyệt Thái Bạch. Huyệt Nguyên của Thận xuất ra ở huyệt Thái Khê.
Huyệt Nguyên của Thái âm xuất ra ở huyệt Đoài Cốt. Huyệt Nguyên của
Đởm xuất ra ở huyệt Khâu Khư. Huyệt Nguyên của Vị xuất ra ở huyệt Xung
Dương. Huyệt Nguyên của Tam tiêu xuất ra ở huyệt Dương Trì. Huyệt
Nguyên của Bàng quang xuất ra ở huyệt Kinh Cốt. Huyệt Nguyên của Đại
Trường xuất ra ở huyệt Hợp Cốc. Huyệt Nguyên của Tiểu trường xuất ra ở
huyệt Uyển Cốt”.
“Tất cả 12 kinh đều xem huyệt du như huyệt Nguyên, tại sao thế ?”.
Thực vậy: “Các du huyệt của ngũ hành là nơi vận hành của Tam tiêu, nơi
giữ lại, dừng lại của khí”.
“Các du huyệt vận hành của Tam tiêu đều thuộc huyệt Nguyên, tại sao thế
?”.
Thực vậy: “Vùng động khí nằm dưới rún và giữa 2 Thận là “sinh mạng”
của con người, là “căn bản: gốc rễ” của 12 kinh, cho nên gọi là “Nguyên”.
Tam tiêu là sứ giả đặc biệt của Nguyên khí, chủ về thông hành cả 3 khí, nó
trải qua suốt cả ngũ tạng lục phủ. Huyệt Nguyên chính là cái tên gọi “tôn
qúy” của Tam tiêu, cho nên nơi mà nó qua và dừng lại thì gọi là Nguyên. Ngũ
tạng và lục phủ có bệnh, nên thủ huyệt Nguyên để chữa”.

NAN 67

Điều 67 Nan viết: “Các huyệt mộ của ngũ tạng đều tại Âm, nhưng các
huyệt du lại ở tại Dương, thế là thế nào ?”.
Thực vậy: “Âm bệnh hành ở Dương, Dương bệnh hành ở Âm. Cho nên
làm cho các huyệt mộ tại Âm, du tại Dương”.

NAN 68

Điều 68 Nan viết: “Ngũ tạng lục phủ đều có các huyệt Tỉnh Vinh Du Kinh
Hợp. Các huyệt này chủ trị thế nào ?”.
Thực vậy: “Kinh nói: “Chỗ xuất ra” gọi là Tỉnh, “chỗ lưu” gọi là Vinh,
“chỗ chú” gọi là Du, “chỗ hành” gọi là Kinh, “chỗ nhập vào” gọi là Hợp.
Huyệt Tỉnh chủ về dưới Tâm bị mãn (đầy). Huyệt Vinh chủ về Thân bị nhiệt.
Huyệt Du chủ về tay chân nặng nề, các quan tiết bị đau nhức. Huyệt Kinh
chủ về ho suyễn hàn nhiệt. Huyệt Hợp chủ về nghịch khí và tiêu chảy. Đây là
các bệnh mà huyệt Tỉnh Vinh Du Kinh Hợp đã chủ trong ngũ tạng lục phủ”.

NAN 69

Điều 69 Nan viết: “Kinh nói: Hư thì bổ, thực thì tả, không hư không thực
theo kinh mà thủ (huyệt) châm. Nói thế nghĩa là thế nào ?”.
Thực vậy: “Khi hư thì bổ mẫu, khi thực thì tả tử. Nên châm bổ trước rồi
châm tả sau. Nếu không thực không hư thì dựa vào kinh mà thủ huyệt, đó có
nghĩa là chính kinh tự sinh bệnh, không bị trúng bởi tà khí khác, trường hợp
này nên tự thủ huyệt ở kinh đó. Đó là ý nghĩa “dĩ kinh thủ chi”.

NAN 70

Điều 70 Nan viết: “Kinh ngôn: Xuân hạ châm cạn, thu đông châm sâu, nói
thế nghĩa là thế nào ?”.
Thực vậy: “Mùa xuân và hạ, Dương khí còn ở trên, nhân khí cũng ở trên,
vì thế nên thủ huyệt châm cạn. Mùa thu và đông Dương khí đã xuống dưới,
nhân khí cũng ở dưới, vì thế nên thủ huyệt châm sâu”.
Mùa xuân và hạ châm phải đến khí “nhất âm” mùa thu và đông châm phải
đến khí “nhất dương”. Nói thế là sao ?”.
Thực vậy: “Mùa xuân và hạ ôn, châm ắt phải châm đến khí “nhất âm”, ý
nói lúc đầu mới châm vào phải sâu đến bộ vị của Thận và Can, khi nào đắc
khí thì dẫn khí Âm (lên trên). Mùa thu đông hàn, châm ắt phải châm đến khí
“nhất Dương”, ý nói lúc đầu châm kim vào phải cạn và vùng phù, đó là châm
đến bộ vị của Tâm và Phế, khi nào đắc khí thì đưa sâu kim vào, tức là đưa
Dương khí vào. Đây là ý nghĩa của câu “mùa xuân và hạ phải châm đến khí
nhất Âm, mùa thu và đông phải châm đến khí nhất Dương”.

NAN 71

Điều 71 Nan viết: “Kinh nói: Châm vinh khí (phải làm sao) đừng để làm
thương đến vệ khí; châm vệ khí (phải làm sao) đừng để thương đến vinh khí.
Nói thế là sao ?”.
Thực vậy: “Châm vào vùng Dương khí, phải để kim nằm xiên để châm
vào; châm vùng Âm khí, trước hết dùng tay trái xoa đè xuống nơi huyệt vinh
du mà mình định châm, đợi khi nào khí tán thì mới châm kim vào trong. Đây
gọi là phương pháp “châm vinh đừng làm thương vệ, châm vệ đừng làm
thương vinh”.

NAN 72

Điều 72 Nan viết: “Kinh nói: Nếu có thể biết được khí để châm “nghênh
hoặc tùy”, thì có thể điều được khí. Còn phương pháp để điều khí là ở tại Âm
Dương. Nói vậy là sao ?”.
Thực vậy: “Điều mà chúng ta gọi là phép “nghênh tùy”, tức là ta phải biết
đường lưu hành của vinh vệ, đường vãng lai của kinh mạch. Từ đó ta “tùy
theo” sự nghịch thuận của nó để thủ huyệt châm. Đó gọi là “nghênh tùy”.
Câu “phương pháp điều khí là ở tại Âm Dương” ý nói ta phải biết cả nội
ngoại biểu lý rồi “tùy theo” Âm và Dương để mà điều khí. Đó là ý nghĩa của
câu nói “Điều khí chi phương tất tại Âm Dương”.

NAN 73

Điều 73 Nan viết: “Các huyệt Tỉnh thì phần cơ nhục cạn và mỏng, khí ít
mà bất túc đã tạo ra như thế. Phép châm phải thế nào ?”.
Thực vậy: “Các huyệt Tỉnh thuộc Mộc, các huyệt vinh thuộc Hỏa. Hỏa là
con của Mộc. Nếu châm huyệt Tỉnh thì tả bằng huyệt Vinh. Cho nên Kinh
mới nói: Khi phải bổ thì không thể châm tả, phải tả thì không thể châm bổ.
Đây chính là ý nghĩa đã nói trên”.

NAN 74

Điều 74 Nan viết: “Kinh nói: Mùa xuân châm huyệt Tỉnh, mùa hạ châm
huyệt Vinh, mùa qúy hạ châm huyệt Du, mùa thu châm huyệt Kinh, mùa đông
châm huyệt Hợp. Nói thế là sao ?”.
Thực vậy: “Khi nói mùa xuân châm huyệt Tỉnh, đó là tà khí đang ở tại Can;
mùa hạ châm huyệt Vinh, đó là tà khí đang ở tại Tâm; mùa qúy hạ châm huyệt
Du đó là tà khí đang ở tại Tỳ; mùa thu châm huyệt Kinh đó là tà khí đang ở tại
Phế; mùa đông châm huyệt Hợp đó là tà khí đang ở tại Thận”.
“Can Tâm Tỳ Phế Thận ràng buộc với mùa xuân hạ thu đông, tại sao ?”.
Thực vậy: “Một tạng khi bị bệnh sẽ biểu hiện ra làm 5 dạng khác nhau.
Giả sử Can bệnh, nếu sắc thanh, đó là bệnh ở Can, nếu mùi xú là táo, đó là
bệnh ở Can, nếu thích vị toan, đó là bệnh ở Can, nếu thích “hô”, đó là bệnh ở
Can, nếu hay khóc, đó là bệnh ở Can. Sự biểu hiện của bệnh rất đa dạng,
không thể nói hết được. (Sự vận hành) của từ thời có độ số của chúng, nhưng
đều gắn liền với bốn mùa xuân hạ thu đông. Cho nên, cái lẽ trọng yếu và vi
diệu của phép châm tế nhị như là sợi lông mùa thu vậy”.

NAN 75
Điều 75 Nan viết: “Kinh nói: Đông phương thực, tây phương hư, tả nam
phương, bổ bắc phương. Nói thế là thế nào ?”.
Thực vậy: “Kim Mộc Thủy Hỏa Thổ cần phải đóng vai hỗ tương để làm
bình nhau. Đông phương thuộc Mộc, tây phương thuộc Kim. Mộc muốn thực,
mà Kim phải bình. Hỏa muốn thực, Thổ phải bình. Đông phương thuộc Can,
ta biết Can đang thực, Tây phương đang Phế, ta biết Phế đang hư. Ta tả nam
phương Hỏa, ta bổ bắc phương Thủy Nam phương Hỏa, mà Hỏa là con của
Mộc. Bắc phương Thủy mà Thủy là mẹ của Mộc. Thủy thắng Hỏa, đó là con
có thể làm cho mẹ thực, mẹ có thể làm cho con hư. Cho nên khi ta tả Hỏa bổ
Thủy, đó là ta muốn làm cho Kim không thể bình Mộc. Kinh nói: Nếu không
thể trị được chứng hư thì còn hỏi gì đến điều khác nữa ! Ý nghĩa là như thế
!”.
NAN 76

Điều 76 Nan viết: “Thế nào gọi là bổ tả ? Lúc cần bổ nên thủ khí ở đâu ?
Lúc cần tả, nên loại bỏ khí nơi đâu ?”.
Thực vậy: “Lúc cần bổ nên thủ khí ở vệ khí, lúc cần tả, nên loại bỏ khí ở
vinh khí. Khi nào Dương khí bất túc, Âm khí hữu dư, trước hết nên bổ Dương
khí, sau đến là tả Âm khí. Khi nào Âm khí bất túc, Dương khí hữu dư, trước
hết nên bổ Âm khí, sau là đến tả Dương khí. Làm thế nào để cho vinh vệ
được thông hành, đó mới là con đường quan yếu (của phép bổ tả)”.

NAN 77

Điều 77 Nan viết: “Kinh nói: Thầy thuốc giỏi (thượng công) (là bậc thầy
biết) trị: tìm hiểu, nghiên cứu phép trị những trường hợp chưa bệnh. Thầy
thuốc bậc trung chỉ biết trị những trường hợp đã bệnh. Nói thế nghĩa là thế
nào ?”.
Thực vậy: “Khi nói trị vị bệnh có nghĩa là thấy bệnh của Can thì biết là
Can sẽ truyền cho Tỳ, vì thế trước hết nên thực cho Tỳ khí, nhằm đừng để
cho Tỳ phải nhận lấy tà khí của Can. Đó là ý nghĩa trị vị bệnh. Khi nói thầy
thuốc bậc trung chỉ biết trị cái đã bệnh là muốn nói (bậc người này) khi thấy
Can bệnh họ không hiểu rằng (có sự) tương truyền (từ Can sang cho Tỳ), họ
chỉ nhất Tâm: một lòng chuyên chú lo trị Can mà thôi. Đó gọi là trị dã bệnh”.

NAN 78
Điều 78 Nan viết: “Phép châm có bổ, có tả. Nói thế nghĩa là thế nào ?”.
Thực vậy: “Phép bổ và tả không chỉ nhất thiết chỉ là hô và hấp để nhổ
kim ra và đưa kim vào mà thôi.
Thực vậy, người biết phép châm dựa vào tay trái, kẻ không biết phép
châm chỉ dựa vào tay mặt. Gặp lúc phải châm, trước hết ta dùng tay trái áp đè
lên nơi huyệt vinh hoặc du mà ta phải châm, rồi dùng phép ấn, phép dùng
móng bấm nặng hoặc nhẹ, lúc khí đến mà hình trạng của khí như mạch động,
ngày lúc đó châm kim vào. Khi đắc khí; ta đưa kim đi sâu hơn, đó gọi là bổ.
Khi nào ta lắc kim để làm kim lỏng rồi rút kim ra, gọi là tả. Trường hợp
không thấy có đắc khí, ta áp dụng phép châm ngoài và trong của nam và nữ.
Nếu vẫn không đắc khí, ta gọi đó là chết mười phần, không trị được”.
NAN 79

Điều 79 Nan viết: “Kinh nói: Khí nghịch mà ta dùng phép đoạt, làm sao
tránh khỏi sẽ gây cho khí bị hư thêm ? (Khi khí đã ra đi) mà ta rượt theo để
thêm cho nó làm sao tránh khỏi gây cho khí bị thực thêm ? Khi nói đến hư và
thực là muốn nói đến một cái gì được như mất. Khi nói đến thực và hư là
muốn nói đến một cái gì như có như không có. Nói thế nghĩa là thế nào ?”.
Thực vậy: “Khi nói “nghênh nhi đoạt chi” là nói đến tả tử, khi nói “tùy nhi
tế chi” là nói đến bổ mẫu.
Giả sử Tâm bị bệnh, ta tả huyệt Du của kinh Thủ Tâm chủ, đó là ta dùng
phép “nghênh nhi đoạt chi”. Khi ta bổ huyệt Tỉnh của Thủ Tâm chủ, đó là ta
dùng phép “tùy nhi tế chi”.
Cái gọi là thực và hư, đó là ý nói đến lao và nhu. Khí đến lao thực gọi là
đắc, khí đến nhu hư, gọi là thất. Cho nên mới nói “như được như mất...”.

NAN 80

Điều 80 Nan viết: “Kinh nói có khi nhận thấy để mà châm kim vào, có lúc
nhận thấy để mà rút kim ra. Nói thế nghĩa là thế nào ?”.
Thực vậy: “Điều gọi là “có lúc nhận thấy để mà châm kim vào...”, ý nói
tay trái nhận thấy có khí đến để mà châm kim vào. Khi châm vào xong, lúc nào
thấy khí tận thì rút kim ra. Đó là ý nghĩa câu “hữu kiến nhi nhập, hữu kiến nhi
xuất” vậy”.

NAN 81

Điều 81 Nan viết: “Kinh nói: Đừng (chữa bệnh bằng cách) làm thực thêm
cái đang thực, đừng làm hư thêm cái đang hư, đừng tổn cái đang bất túc để ích
( thêm) thêm cái đang hữu dư. Đó do mạch của Thốn khẩu ư ? Hay do sắp bị
bệnh mà tự bị hư thực ? Vấn đề tổn hay ích phải như thế nào ?”.
Thực vậy: “Đây không nói đến mạch của Thốn khẩu, mà chỉ nói đến bệnh
rồi bị hư thực. Giả sử Can thực mà Phế hư, Can thuộc Mộc, Phế thuộc Kim.
Kim và Mộc phải được cùng làm cho bình nhau và ta phải biết Kim thì bình
Mộc. Giả sử Phế thực mà Can hư, hơi thiếu khí, người dụng châm không tả
Can và ngược lại thêm (trùng) cho Phế, cho nên cũng gọi là 'thực thêm cái
thực, hư thêm cái đang hư', tổn cái bất túc, thêm cho cái hữu dư. Đây là hành
động tai hại của bậc thầy 'trung công' vậy”.
Hết

( Nguồn Y Học Cổ Truyền Việt Nam -eBook Created By H2203 )

You might also like