Professional Documents
Culture Documents
Bài 1
Bài 1
MỤC TIÊU
1. Phân tích được chức năng của hệ thống kinh lạc và tác dụng chữa bệnh của đường kinh
và huyệt.
2. Nêu được nội dung các nghiên cứu về sự hiện diện của huyệt và đường kinh.
3. Mô tả được vòng tuần hoàn của 12 đường kinh chính và sự thịnh suy của khí huyết trong
ngày ở từng đường kinh chính.
4. Phân tích được cách sử dụng đường kinh và huyệt theo quy ước quốc tế.
正经- zhengjing - chính kinh, “正” được dịch là “chính” (các kinh chính), nhưng cũng được
hiểu là “thẳng” và “trực tiếp”.
Thái: nghĩa là lớn hơn, cao nhất. Chỉ các hoạt động của dương khí, âm khí trong các kinh thái
dương và thái âm phát triển và đạt đến mức độ tối đa. Tại đây, chúng đạt được mức độ cực đại và
bắt đầu giảm xuống.
Thiếu: nghĩa là ít hoặc nhỏ hơn. Chỉ âm khí hoặc dương khí trong các kinh thiếu dương và
thiếu âm ít hơn so với trong các kinh thái dương hoặc thái âm.
Minh: có nghĩa là trong sạch, tươi sáng, rạng rỡ, tỏa sáng. Tuy nhiên không ngụ ý chỉ dương khí
trong dương minh kinh nhiều nhất. Tố Vấn - Thiên chí chân yếu đại luận viết: “lưỡng dương tương
hợp cố viết minh” ngụ ý dương minh là sự hợp lại của dương khí.
Quyết: có nghĩa là “tuyệt đối”, “cuối cùng”, “cạn kiệt”, và cũng có nghĩa là “đảo ngược”. Âm
khí trong kinh quyết âm đại diện cho giai đoạn cuối của Âm; nơi Âm chuyển đổi thành Dương.
Cấu tạo tên đường kinh bao gồm:
- Bản chất của khí (Âm hoặc Dương) đi trong kinh.
- Tính chất hoặc cường độ (thái, thiếu, quyết, minh) của khí Âm hoặc Dương.
- Đầu mút mà đường kinh bắt đầu hoặc kết thúc. Do đó, các kinh Âm hoặc
Dương bắt đầu hoặc kết thúc tại tay mang tên của các kinh chính tay (thủ kinh
chính). Các kinh Âm và Dương kết thúc hoặc bắt đầu tại chân mang tên của các
kinh chính chân (túc kinh chính).
2.2.2. Sự phân chia âm dương và phân bố ở tay chân của 12 kinh chính
Mười hai đường kinh chính được phân thành 2 loại là kinh âm và kinh dương. Các kinh này
đi dọc theo chiều dài cơ thể và phân bố đồng đều giữa tay và chân.
Ba kinh âm ở tay gồm kinh Thủ thái âm Phế, kinh Thủ thiếu âm Tâm và kinh Thủ quyết âm
Tâm bào.
Ba kinh dương ở tay gồm kinh Thủ dương minh Đại trường, kinh Thủ thái dương Tiểu trường
và kinh Thủ thiếu dương Tam tiêu.
Ba kinh âm ở chân gồm kinh Túc thái âm Tỳ, kinh Túc thiếu âm Thận và kinh Túc quyết âm
Can.
Ba kinh dương ở chân gồm kinh Túc dương minh Vị, kinh Túc thái dương Bàng quang và
kinh Túc thiếu dương Đởm.
2.2.3. Sự liên quan giữa đường kinh chính và tạng phủ
Mỗi đường kinh chính đều có mối quan hệ trực thuộc với 1 tạng hoặc 1 phủ nhất định. Tên
của đường kinh được đặt theo tên của tạng phủ mà nó trực thuộc. Các kinh âm có quan hệ với tạng,
các kinh dương có quan hệ với phủ.
Các đường kinh chính cũng có mối liên lạc với tạng hoặc phủ có quan hệ biểu lý với tạng
phủ mà nó quan hệ. Các cặp đường kinh trực thuộc các cặp tạng phủ có quan hệ biểu lý sẽ có
mối quan hệ biểu lý với nhau. Các cặp đường kinh có quan hệ biểu lý gồm Phế – Đại trường,
Tâm – Tiểu trường, Tâm bào – Tam tiêu, Tỳ – Vị, Can – Đởm, Thận – Bàng quang.
2.2.4. Lộ trình của đường kinh chính
Mỗi kinh chính đều có vùng phân bố nhất định ở bên ngoài và lộ trình bên trong để liên hệ
với các tạng phủ.
Trên lộ trình của mỗi2 đường kinh đều có những phân nhánh để nối liền với kinh có quan hệ
biểu lý với nó.
Lộ trình của 12 đường kinh chính đi theo một vòng khép kín liên tục qua từng đường kinh.
Khí huyết đi trong đường kinh theo nguyên tắc “âm thăng dương giáng”. Để cho âm dương
và khí huyết được vận hành một cách điều hòa, liên tục khắp cơ thể thì chiều di chuyển trong 12
kinh chính tuân theo quy tắc sau đây:
- Kinh âm ở tay đi từ ngực lên đến bàn ngón tay
- Kinh dương ở tay đi từ ngón tay xuống vai rồi qua vùng đầu mặt
- Kinh dương ở chân từ vùng đầu mặt đi qua vùng thân mình xuống bàn ngón
chân
- Kinh âm ở chân đi từ chân lên vùng bụng ngực.
Theo quy tắc “âm nội dương ngoại”. Hoàng Đế Nội kinh - Linh khu có viết các kinh chính
khi đi bên ngoài da thì đường kinh dương ở tay sẽ đi ở mặt ngoài của chi trên, kinh âm ở tay sẽ đi
ở phần mặt trong của chi trên (theo mô hình kinh lạc). Nhưng do trong mô hình kinh lạc 2 tay giơ
lên và hướng phần lòng bàn tay vào trong khác với tư thế tay trong giải phẫu là hai tay xuôi lòng
bàn tay hướng ra phía trước nên vị trí theo quy ước giải phẫu sẽ thay đổi. Hiện nay ta thống nhất
việc xác định vị trí kinh lạc theo mô hình giải phẫu như sau: các đường kinh dương ở tay đi dọc
theo phần mặt sau của chi trên bao gồm phần da bao phủ các cơ duỗi và phần mu bàn tay, các
đường kinh âm ở tay đi dọc theo mặt trước của chi trên bao gồm phần da bao phủ các cơ gấp và
phần lòng bàn tay.
Hình 1.2. Sơ đồ vị trí nông sâu và mối quan hệ của hệ thống thông kinh lạc
2.2.5. Huyệt trên đường kinh
Trên 12 đường kinh chính và mạch Nhâm, mạch Đốc có các huyệt. Huyệt được xem như là
nơi khí huyết tập trung nhiều nhất trên cơ thể. Huyệt trên 12 đường kinh chính cùng với huyệt trên
2 mạch Nhâm Đốc đóng vai trò chủ đạo trong các phương pháp điều trị không dùng thuốc. Thông
qua việc tác động trực tiếp vào các huyệt này mà các phương pháp điều trị Y học cổ truyền phát
huy tác dụng.
2.2.5.1. Huyệt đầu và huyệt cuối của lục kinh
Huyệt kết: là huyệt mà ở đó khí cực thịnh nhất. Đây là huyệt kết nối đường kinh ở
tay và đường kinh ở chân.
Huyệt kết của ba kinh dương: Đây là huyệt liên kết các đường kinh dương ở tay hoặc
chân và thuộc vùng đầu.
Huyệt kết của ba kinh âm: đây là huyệt liên kết các đường kinh âm ở tay hoặc chân
và thuộc vùng ngực hoặc bụng.
1
循经取穴Tìm huyệt theo đường kinh: chọn huyệt điều trị theo biện chứng kinh lạc
2
经脉所通, 主治所及Kinh mạch đi qua nơi nào thì điều trị bệnh nơi đó
3
Kinh đồng danh: thủ túc thái dương, thủ túc thiếu dương, thủ túc dương minh, thủ túc thái âm, thủ túc thiếu âm,
thủ túc quyết âm. Kinh đồng danh được gọi là đồng khí.
4
Linh khu - Thiên kinh cân: “以痛为腧”
Do không có huyệt được xác định nên điều trị chỉ dựa vào chức năng liên lạc giữa tạng phủ
và các đường kinh của hệ kinh biệt. Phương pháp này thường được thực hiện gián tiếp thông qua
tác động trên huyệt của 12 kinh chính.
Ví dụ 1: đường vận hành của kinh chính Thủ Quyết âm Tâm bào không đến hầu họng nhưng
huyệt Giản sử và Đại lăng lại có thể điều trị đau họng. Bởi vì đường kinh biệt của Thủ Quyết âm
Tâm bào có phân nhánh đến hầu họng.
Ví dụ 2: bệnh trĩ thuộc kinh Túc Thái dương Bàng quang, nhưng đường vận hành của kinh
chính này không đến hậu môn, nhưng kinh biệt của kinh Túc Thái dương Bàng quang có nhánh
vào hậu môn, nên chọn huyệt Thừa sơn để điều trị trĩ.
Hình 1.4. Ảnh chụp ngón tay bằng kỹ thuật chụp ảnh Kirlian
Dùng dòng điện cao tần có điện áp cao cho qua cơ thể sinh vật, người ta kiểm tra được tính
dẫn điện cao tần của cơ thể bằng kỹ thuật quang phổ (hay kỹ thuật chụp ảnh của Kirlian). Kết quả
có nhiều điểm phát quang sáng chói (khác hẳn những vùng xung quanh) phù hợp với vị trí của
huyệt.
Hiện tượng phát quang trong hiệu ứng Kirlian thay đổi nhịp điệu giữa ngày và đêm (cực đại
lúc 2 giờ sáng, cực tiểu lúc 12 giờ trưa), giữa trước và sau điều trị bệnh (bệnh thuộc hư chứng thì
trước điều trị phát quang kém, sau điều trị phát quang nhiều hơn).
Hình 1.5. Đường vận hành của các kinh âm và kinh dương
Khí huyết vận hành trong các kinh mạch, kinh sau tiếp kinh trước và tạo thành một đường
tuần hoàn kín đi khắp cơ thể. Bắt đầu là ở kinh Phế và kết thúc là ở kinh Can, sau đó tiếp tục
chuyển sang kinh Phế để bắt đầu vòng tuần hoàn mới.
5.3. Sự thịnh suy của khí huyết trong từng đường kinh trong ngày5
Từ 3 giờ đến 5 giờ: giờ Dần (giờ của Phế).
Từ 5 giờ đến 7 giờ: giờ Mão (giờ của Đại trường).
Từ 7 giờ đến 9 giờ: giờ Thìn (giờ của Vị).
Từ 9 giờ đến 11 giờ: giờ Tỵ (giờ của Tỳ).
Từ 11 giờ đến 13 giờ: giờ Ngọ (giờ của Tâm).
Từ 13 giờ đến 15 giờ: giờ Mùi (giờ của Tiểu trường).
Từ 15 giờ đến 17 giờ: giờ Thân (giờ của Bàng quang).
Từ 17 giờ đến 19 giờ: giờ Dậu (giờ của Thận).
Từ 19 giờ đến 21 giờ: giờ Tuất (giờ của Tâm bào).
Từ 21 giờ đến 23 giờ: giờ Hợi (giờ của Tam tiêu).
Từ 23 giờ đến 1 giờ: giờ Tý (giờ của Đởm).
Từ 1 giờ đến 3 giờ: giờ Sửu (giờ của Can).
6. CÁCH SỬ DỤNG TÊN ĐƯỜNG KINH VÀ HUYỆT VỊ THEO QUY ƯỚC QUỐC TẾ
Hiện nay khoa châm cứu phát triển rộng rãi khắp nơi, không chỉ ở các nước phương Đông mà
ở cả các nước phương Tây. Trong “Hội nghị quốc tế nghiên cứu khoa Y học Đông phương và khoa
Châm cứu” các nước đã thống nhất về việc đánh số đường kinh và huyệt vị theo danh pháp quốc
tế để tiện lợi cho việc trao đổi thông tin và hợp tác về ngành Châm cứu.
- Các đường kinh được thống nhất bằng tên theo số thứ tự La mã, hoặc là bằng tiếng Anh,
tiếng Pháp.
- Các huyệt trên đường kinh được đánh số từ 1 ở nơi bắt đầu đường kinh.
- Ký hiệu của 1 huyệt gồm tên đường kinh viết tắt và số thứ tự của huyệt.
Ví dụ: huyệt Trung phủ là huyệt đầu tiên của đường kinh Phế, ký hiệu là I-1 (hoặc Phế-1, P-
1, L-1).
5
Cách nhớ giờ thịnh của 12 kinh chính: “Phế dần, đại mão, vị thìn cung/Tỳ tị, Tâm ngọ, Tiểu mùi trung/Thân Bàng,
dậu Thận, Tâm bào tuất/Hợi Tam, tý Đảm, sửu Can thông”
Bảng 1.6. Tên các đường kinh theo quy ước quốc tế
Tên
Tên Tiếng Việt Tên Tiếng Pháp Tên Tiếng Anh Tên Tiếng Trung
La Mã
Kinh Thái âm Phế Méridien des Poumons Lung meridian (L)
I 手太阴肺经
(P)
Kinh Dương minh Méridien du Gros Large Intestine
II 手阳明大肠经
Đại trường Intestin (GI) meridian (LI)
Kinh Dương minh Vị Méridien de l'Estomac Stomach meridian
III 足阳明胃经
(E) (ST)
Kinh Thái âm Tỳ Méridien de la Rate- Spleen meridian
IV 足太阴脾经
Pancréas (Rp) (SP)
V Kinh Thiếu âm Tâm Méridien du Coeur (C) Heart meridian (H) 手少阴心经
Kinh Thái dương Méridien de la l'Intestin Small intestine
VI Tiểu trường grêle (IG) meridian (SI) 手太阳小肠经