Professional Documents
Culture Documents
Cụ thể:
+ TT HCM là hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những
vấn đề cơ bản của Cách mạng Việt Nam, từ đó phản ánh những
vấn đề có tính quy luật của Cách mạng Việt Nam.
+ Tư tưởng Hồ Chí Minh là hệ thống quan điểm toàn diện và sâu
sắc về mục tiêu xây dựng về một đất nước Việt Nam hòa bình và
thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, góp phần xứng đáng
vào sự nghiệp cách mạng thế giới. Để đạt mục tiêu đó, con đường
độc lập của dân tộc Việt Nam là độc lập dân tộc gắn liền với chủ
nghĩa xã hội.
+ Mục tiêu và con đường này đúng theo lý luận Mác- Lênin; khẳng
định vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam và sự quản lý
của Nhà nước cách mạng, xác định lực lượng cách mạng là toàn
thể nhân dân Việt Nam yêu nước, xây dựng con người Việt Nam
có năng lực và phẩm chất đạo đức cách mạng; kết hợp sức mạnh
dân tộc với sức mạnh thời đại trên cơ sở quan hệ quốc tế hòa
bình, hữu nghị, hợp tác cùng phát triển; với phương pháp cách
mạng phù hợp.
- Ý nghĩa học tập: Đối với sinh viên, đội ngũ trí thức tương lai của nước
nhà, việc học tập tư tưởng Hồ Chí Minh có ý nghĩa đặc biệt quan trọng,
nhất là trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa. hiện đại hóa đất nước,
gắn liền với phát triển kinh tế tri thức, hội nhập vào đời sống toàn cầu.
Cụ thể:
(1) Nâng cao năng lực tư duy Lý luận và phương pháp công tác
+ Tư tưởng Hồ Chí Minh soi đường cho Đảng và nhân dân Việt Nam trên
con đường thực hiện mục tiêu: dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng,
dân chủ, văn minh.
+ Thông qua việc làm rõ và truyền thụ nội dung hệ thống quan điểm của
Hồ Chí Minh về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, làm cho
sinh viên nâng cao nhận thức về vai trò, vị trí tư tưởng Hồ Chí Minh đối
với đời sống cách mạng Việt Nam; làm cho tư tưởng của Người ngày
càng giữ vai trò chủ đạo trong đời sống tinh thần của thế hệ trẻ nước ta.
+ Thông qua học tập nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh để bồi dưỡng,
củng cố cho sinh viên, thanh niên lập trường, quan điểm cách mạng trên
nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; kiên định mục
tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội; tích cực, chủ động
đấu tranh phê phán những quan điểm sai trái, bảo vệ chủ nghĩa Mác
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương, chính sách của
Đảng, Nhà nước ta; biết vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào giải quyết
các vấn đề đặt ra trong cuộc sống.
(2) Bồi dưỡng phẩm chất đạo đức, rèn luyện bản lĩnh chính trị.
+ Học tập TTHCM góp phần giáo dục đạo đức, tư cách, phẩm chất cách
mạng, biết sống ở đời và làm người hợp đạo lý, yêu cái tốt, cái thiện,
ghét cái ác, cái xấu; nâng cao lòng tự hào về Người, về ĐCS Việt Nam, tự
nguyện “sống, chiến đấu, lao động, học tập theo gương Bác Hồ vĩ đại”.
+ Trên cơ sở kiến thức đã được học, sinh viên vận dụng vào cuộc sống, tu
dưỡng, rèn luyện bản thân, hoàn thành tốt chức trách của mình, đóng
góp thiết thực và hiệu quả cho sự nghiệp cách mạng, con đường cách
mạng mà Hồ Chí Minh và Đảng ta đã lựa chọn. Đối với sinh viên, giáo
dục tư tưởng, văn hóa, đạo đức Hồ Chí Minh là giáo dục lý luận sống,
đạo làm người, hoàn thiện nhân cách cá nhân, trang bị cho họ trí tuệ và
phương pháp tư duy biện chứng để họ trở thành những chiến sĩ đi tiên
phong trong sự nghiệp bảo vệ, xây dựng một nước Việt Nam đàng
hoàng hơn, to đẹp hơn như mong muốn và khát vọng của Hồ Chí Minh.
- Bối cảnh lịch sử Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX
+ Chính quyền nhà Nguyễn từng bước khuất phục, ký kết các hiệp ước
đầu hàng, thừa nhận nền bảo hộ của thực dân Pháp.
+ Các cuộc khởi nghĩa khẩu hiệu "Cần vương" do các sĩ phu, văn thân lãnh
đạo cuối cùng đã thất bại.
+ Xã hội biến chuyển và phân hóa, giai cấp công nhân, tầng lớp tiểu tư
sản và tư sản bắt đầu xuất hiện.
+ Phong trào yêu nước của nhân dân ta chuyển dần sang xu hướng
+ Các sĩ phu Nho học có tư tưởng tiến bộ như: Phan Bội Châu, Phan Châu
Trinh vận động cuộc đấu tranh yêu nước chống Pháp với những chủ
trương cầu ngoại viện, dùng bạo lực để khôi phục độc lập, khai thông
dân trí, ... đều thất bại.
+ Khởi nghĩa của người anh hùng Hoàng Hoa Thám thì vẫn mang nặng
"cốt cách phong kiến", chưa phải là lối thoát rõ ràng, hướng đi đúng đắn.
+ CNTB từ giai đoạn cạnh tranh tự do chuyển sang giai đoạn độc quyền
đã xác lập quyền thống trị của chúng trên phạm vi toàn thế giới. Chủ
nghĩa đế quốc đã trở thành kẻ thù chung của các dân tộc thuộc địa.
+ Sự bóc lột tư bản chủ nghĩa ở các nước thuộc địa đã làm xuất hiện thêm
các giai cấp, tầng lớp xã hội mới, trong đó tiêu biểu là giai cấp công
+ Cao trào mới của CM Tháng Mười Nga năm 1917 thắng lợi, lật đổ nhà
nước tư sản, giành quyền về tay giai cấp vô sản. Chính cuộc cách mạng
vĩ đại này đã làm "thức tỉnh các dân tộc châu Á", nêu một tấm gương
sáng về sự giải phóng các dân tộc bị áp bức, mở ra trước mắt họ thời
đại cách mạng chống đế quốc, thời đại giải phóng dân tộc".
+ Từ sau CMT10 Nga, với sự ra đời của Quốc tế Cộng sản (3/1919).
phong trào công nhân trong các nước tư bản chủ nghĩa phương Tây và
phong trào giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa phương Đông càng
có quan hệ mật thiết với nhau hơn trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù
chung là chủ nghĩa đế quốc.
- Giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam
Dân tộc Việt Nam trong hàng ngàn năm lịch sử dựng nước và giữ nước đã tạo
lập cho mình một nền văn hóa riêng, phong phú và bền vững với những truyền
thống tốt đẹp và cao quý.
+ Chủ nghĩa yêu nước với ý chí bất khuất, tự lực, tự cường để dựng nước
và giữ nước tồn tại trong suốt lịch sử của dân tộc. Đồng thời, trong quá
trình dựng nước, giữ nước, tinh thần đoàn kết và ý thức dân chủ cũng
xuất hiện. Tinh thần đoàn kết và ý thức dân chủ làm cho mối quan hệ Cá
nhân - Gia đình - Làng - Nước ngày càng trở nên bền chặt và nương tựa
vào nhau để sinh tồn và phát triển.
+ Tinh thần nhân nghĩa, truyền thống đoàn kết, tương thân, tương ái.
Truyền thống này cũng hình thành cùng với sự hình thành dân tộc, từ
hoàn cảnh và nhu cầu đấu tranh quyết liệt với thiên nhiên và với giặc
ngoại xâm. Bước sang thế kỷ XX, mặc dù xã hội Việt Nam đã có sự biến
đổi sâu sắc về cơ cấu giai cấp – xã hội, nhưng truyền thống này vẫn bền
vững. Hồ Chí Minh đã kế thừa, phát huy sức mạnh của truyền thống
nhân nghĩa, đoàn kết, tương thân tương ái thể hiện tập trung trong bốn
chữ “đồng” (đồng tình, đồng sức, đồng lòng, đồng minh).
+ Dân tộc Việt Nam là một dân tộc có truyền thống lạc quan, yêu đời. Tinh
thần lạc quan đó có cơ sở từ niềm tin vào sức mạnh của bản thân mình,
tin vào sự tất thắng của chân lý, chính nghĩa. Hồ Chí Minh là hiện thân
của truyền thống lạc quan đó.
+ Dân tộc Việt Nam là dân tộc cần cù, dũng cảm, thông minh, sáng tạo,
ham học hỏi và mở rộng cửa đón nhận tinh hoa văn hóa của nhân loại.
Người việt Nam từ xưa đã rất xa lạ với đầu óc hẹp hòi, thủ cựu, thói bài
ngoại cực đoan. Trên cơ sở giữ vững bản sắc của dân tộc, nhân dân ta
đã biết chọn lọc, tiếp thu, cải biến những cái hay, cái tốt, cái đẹp của
người thành những giá trị riêng của mình. Hồ Chí Minh là hình ảnh sinh
động và trọn vẹn của truyền thống đó.
● Nho giáo. Nho giáo có những yếu tố duy tâm, lạc hậu, nhưng nho giáo
cũng có nhiều yếu tố tích cực, nên có ảnh hưởng khá lâu dài trong lịch
sử. Đó là triết lý hành động, tư tưởng nhập thế, hành đạo, giúp đời; lý
tưởng về một xã hội bình trị; triết lý nhân sinh: tu thân dưỡng tính góp
phần đề cao văn hóa, lễ giáo, đề cao tinh thần hiếu học. Hồ Chí Minh đã
khai thác nho giáo, lựa chọn những yếu tố tích cực, phù hợp để phục vụ
cho nhiệm vụ cách mạng. Người dẫn lời của Lênin: “Chỉ có những người
cách mạng chân chính mới thu hái được những điều hiểu biết quý báu
của các đời trước để lại”.
● Phật giáo. Phật giáo là một trong những tôn giáo du nhập vào Việt Nam
khá sớm. Những mặt tích cực của Phật giáo đã để lại những dấu ấn sâu
sắc trong tư duy, hành động, cách ứng xử của con người Việt Nam. Phật
giáo có tư tưởng vị tha, từ bi, bác ái, cứu khổ, cứu nạn, thương người
như thể thương thân; xây dựng nếp sống có đạo đức, trong sạch, giản
dị, chăm lo làm điều thiện; đề cao tinh thần bình đẳng, tinh thần dân
chủ chất phác chống lại mọi phân biệt đẳng cấp. Phật giáo Thiền tông
coi trọng lao động, chống lười biếng. Phật giáo vào Việt Nam, gặp chủ
nghĩa yêu nước, ý chí độc lập, tự chủ đã hình thành nên Thiền phái trúc
lâm Việt Nam, chủ trương không xa đời mà sống gắn bó với nhân dân,
với đất nước, tham gia vào cộng đồng, vào cuộc đấu tranh của nhân dân
chống kẻ thù dân tộc. Phật giáo Việt Nam đã đi vào đời sống tinh thần
dân tộc và nhân dân lao động, để lại dấu ấn sâu sắc trong tư tưởng Hồ
Chí Minh.
● Hồ Chí Minh cũng nghiên cứu và thấu hiểu tư tưởng của các nhà tư
tưởng phương Đông như Lão tử, Mặc tử, Quản tử... Khi đã trở thành
người mácxít, Hồ Chí Minh vẫn tìm hiểu thêm về chủ nghĩa Tam dân của
Tôn Trung Sơn. Hồ Chí Minh đã biết khai thác những yếu tố tích cực của
tư tưởng và văn hóa phương Đông để phục vụ cho sự nghiệp cách mạng
của Người.
● Ngay từ khi còn học ở Trường tiểu học Đông Ba rồi vào Trường Quốc
học Huế, HCM đã làm quen với văn hóa Pháp. Đặc biệt, Người rất ham
mê môn lịch sử, và say sưa tìm hiểu cuộc Đại cách mạng Pháp 1789.
● Khi xuất dương, Người đã từng sang Mỹ, đến sống ở New York, làm thuê
ở Bruclin và thường đến thăm khu Haclem của người da đen. Người
thường suy nghĩ về tự do, độc lập, quyền sống của con người... được
ghi trong Tuyên ngôn độc lập 1776 của nước Mỹ.
● Đến Pháp, Hồ Chí Minh được tiếp xúc trực tiếp với tác phẩm của các
nhà tư tưởng khai sáng như tinh thần pháp luật của Môngtétxkiơ,
khế ước xã hội của Rútxô... Tư tưởng dân chủ của các nhà khai sáng
đã có ảnh hưởng lớn tới tư tưởng của Người.
● Hồ Chí Minh hình thành phong cách dân chủ của mình từ trong cuộc
sống thực tiễn. Người học được cách làm việc dân chủ trong cách sinh
hoạt khoa học ở Câu lạc bộ Phôbua (Faubourg), trong sinh hoạt chính trị
của Đảng xã hội Pháp.
=> Nói tóm lại, trên hành trình cứu nước, Hồ Chí Minh đã tự biết làm giàu
trí tuệ của mình bằng vốn trí tuệ của thời đại, Đông và Tây vừa tiếp thu, vừa
gạn lọc để từ tầm cao tri thức nhân loại mà suy nghĩ, lựa chọn, kế thừa và
đổi mới, vận dụng và phát triển.
+ Chủ nghĩa Mác — Lênin: là cơ sở thế giới quan và phương pháp luận
● Tác động của mối quan hệ biện chứng giữa cá nhân với dân tộc và thời
đại đã đưa HCM đến với CN Mác – Lênin, từ người yêu tước trở
thành người cộng sản. Nhờ có thế giới quan và phương pháp luận của
CN Mác – Lênin, HCM đã hấp thụ và chuyển hóa được những nhân tố
tích cực và tiến bộ của truyền thống dân tộc cũng như của tư tưởng –
văn hóa nhân loại để tạo nên hệ thống tư tưởng của mình. Vì vậy, tư
tưởng HCM thuộc hệ tư tưởng Mác – Lênin, những phạm trù cơ bản của
tư tưởng Hồ Chí Minh nằm trong những phạm trù cơ bản của lý luận
mác – Lênin.
● Sở dĩ HCM đã lựa chọn các nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác –
Lênin, vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác – Lênin trên một
loạt luận điểm cơ bản hình thành nên tư tưởng Hồ Chí Minh có nguyên
nhân sâu xa là:
★ Khi đi tìm đường cứu nước, ở tuổi 20, Hồ Chí Minh đã đến nhiều
nước thuộc địa và nhiều nước tư bản đế quốc. Trong khoảng thời
gian đó, Hồ Chí Minh được bổ sung thêm những nhận thức mới về
những gì ẩn dấu đằng sau các từ Tự do, Bình đẳng, Bác ái.
★ Khoảng cuối năm 1917, khi trở lại Pari, Hồ Chí Minh đã làm quen
với nhiều nhà hoạt động chính trị, xã hội của nước Pháp và nhiều
nước trên thế giới. Năm 1919, Hồ Chí Minh tham gia Đảng Xã hội
Pháp (SFIO), một đảng tiến bộ lúc bấy giờ thuộc Quốc tế II. Hồ
Chí Minh đã có một vốn học vấn chắc chắn, một năng lực trí tuệ
sắc sảo. Nhờ vậy Người quan sát, phân tích, tổng kết một cách
độc lập tự chủ và sáng tạo; không rơi vào sao chép, giáo điều,
rập khuôn; tiếp thu và vận dụng CN Mác – Lênin một cách sáng
tạo, phù hợp với hoàn cảnh và điều kiện cụ thể của Việt Nam.
★ Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác – Lênin là để tìm đường cứu
nước, giải phóng dân tộc, tức là từ nhu cầu thực tiễn của cách
mạng Việt Nam.Chính Người đã viết: “Lúc đầu, chính là chủ nghĩa
yêu nước, chứ chưa phải chủ nghĩa cộng sản đã đưa tôi tin theo
Lênin ,tin theo Quốc tế III”. Nhờ Lênin, người đã tìm thấy “Con
đường giải phóng chúng ta” và từ Lênin, Người đã trở lại nghiên
cứu Mác sâu sắc hơn.
★ Hồ Chí Minh đã tiếp thu lý luận Mác – Lênin theo phương pháp
nhận thức mácxít, cốt nắm lấy cái tinh thần, cái bản chất chứ
không tự trói buộc trong cái vỏ ngôn từ. Người vận dụng lập
trường, quan điểm và phương pháp của chủ nghĩa Mác – Lênin
để tự tìm ra những chủ trương, giải pháp, đối sách phù hợp với
từng hoàn cảnh cụ thể, từng thời kỳ cụ thể của cách mạng VN
chứ không đi tìm những kết luận có sẵn trong sách vở kinh điển.
2. Nêu các giai đoạn hình thành và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh. Chọn
1 giai đoạn mà bạn thấy ấn tượng/thích nhất và trình bày.
Thời kỳ 2 Tìm kiếm và xác định con đường giải phóng dân tộc
- Hồ Chí Minh đến nhiều nước trên thế giới để tìm hiểu, khảo sát, lựa chọn
con đường cứu nước. (rời nước tới Pháp 1911, tới Mỹ 1912-1913, sang
Anh 1913-1917, trở lại Pháp 1913-1917).
- Qua cuộc hành trình này, ở Người hình thành một nhận thức mới:
Nhân dân lao động các nước, trong đó có giai cấp công nhân, đều bị bóc
lột có thể là bạn của nhau; còn chủ nghĩa đế quốc, bọn thực dân ở đâu
cũng là kẻ bóc lột, là kẻ thù của nhân dân lao động.
Hồ Chí Minh đã tìm thấy và xác định rõ phương hướng đấu tranh giải
phóng dân tộc Việt Nam theo con đường cách mạng vô sản qua nghiên
cứu “Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề
thuộc địa” vào tháng 7-1920. Người đã "cảm động, phấn khởi, sáng tỏ,
tin tưởng., vui mừng đến phát khóc. Bác khẳng định con đường cứu
nước của mình: giải phóng dân tộc bằng con đường cách mạng vô sản,
gắn giải phóng dân tộc với giải phóng giai cấp vô sản.
- Tháng 12-1920, đại hội lần thứ 18 của Đảng Xã hội Pháp, Bác bỏ phiếu
tán thành Quốc Tế Cộng Sản, tham gia sáng lập ĐCS Pháp, Bác trở
thành người cộng sản đầu tiên của Việt Nam.
=> Đánh dấu bước ngoặt trong quá trình phát triển tư tưởng và cuộc đời
hoạt động cách mạng của Người - chủ nghĩa yêu nước chân chính đã
gặp chủ nghĩa quốc tế vô sản chân chính.
- Cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải đi theo con đường
cách mạng vô sản
+ Rút bài học từ sự thất bại của các con đường cứu nước trước đó:
● Con đường cứu nước theo lập trường phong kiến: phong trào
Cần vương, khởi nghĩa nông dân Yên Thế.
● Con đường cứu nước theo lập trường tư sản: Phan Bội Châu,
Phan Chu Trinh.
● Khủng hoảng về đường lối cứu nước: các phong trào yêu nước
theo nhiều xu hướng chính trị khác nhau đều bị thất bại > VN
khủng hoảng về đường lối cứu nước.
+ Cách mạng tư sản là không triệt để
=> Đều là những cuộc cách mạng không đến nơi, bởi vì: “tiếng là cộng
hòa và dân chủ, kỳ thực trong thì nó tước lục công nông, ngoài thì nó áp
bức thuộc địa”.
● CM Tháng Mười Nga (1917) là một tấm gương sáng về việc giải
phóng các dân tộc thuộc địa.
● Lý luận cách mạng của Lênin và Quốc tế Cộng sản bênh vực
quyền lợi cho các dân tộc bị áp bức và đề ra phương hướng mới
để giải phóng dân tộc, đó là con đường CM vô sản.
● “Chỉ có giải phóng giai cấp vô sản thì mới giải phóng được dân
tộc; cả hai cuộc giải phóng này chỉ có thể là sự nghiệp của chủ
nghĩa cộng sản và cách mạng thế giới”. “Muốn cứu nước và giải
phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách
mạng vô sản”.
- Cách mạng giải phóng dân tộc trong thời đại mới phải do Đảng Cộng
sản lãnh đạo
+ Cách mạng trước hết phải có Đảng
● Muốn làm cách mệnh trước hết phải có Đảng cách mệnh.
● Tiểu tư sản, trí thức, trung nông: lôi kéo họ về phe vô sản giai
cấp;
+ Đồng minh của cách mạng: Tiểu tư sản, tư sản dân tộc và một bộ
phận giai cấp địa chủ .
- Cách mạng giải phóng dân tộc cần được tiến hành chủ động, sáng tạo
và có khả năng giành thắng lợi trước cách mạng vô sản ở chính quốc:
+ CM giải phóng dân tộc cần được tiến hành chủ động, sáng tạo.
● Sức sống của chủ nghĩa tư bản chủ yếu tập trung ở các nước thuộc
địa (cung cấp nguyên vật liệu, nhân công rẻ mạt và tiêu thụ hàng
hoá cho chính quốc).
● Khả năng cách mạng to lớn của nhân dân các dân tộc thuộc địa.
● Chủ nghĩa dân tộc là một động lực lớn.
● CN dân tộc chân chính “là một bộ phận của tinh thần quốc tế”
● Công cuộc giải phóng nhân dân thuộc địa chỉ có thể thực hiện
được bằng sự nỗ lực tự giải phóng: Người chủ trương phát huy sự
nỗ lực chủ quan của dân tộc, tránh tư tưởng bị động trông chờ
vào sự giúp đỡ của bên ngoài.
+ Quan hệ của CM thuộc địa với cách mạng vô sản ở chính quốc.
● Cùng chống kẻ thù chung là chủ nghĩa đế quốc: CM giải phóng dân
tộc ở thuộc địa và CMVS ở chính quốc có quan hệ mật thiết với
nhau, tác động qua lại lẫn nhau.
● Quan hệ bình đẳng với cách mạng vô sản: CM giải phóng dân tộc,
quan hệ bình đẳng, không lệ thuộc vào CMVS.
● Cách mạng GPDT ở thuộc địa có thể giành thắng lợi trước CMVS ở
chính quốc: đây là một luận điểm sáng tạo, có giá trị lý luận và
thực tiễn của Hồ Chí Minh, một cống hiến quan trọng của Người
vào kho tàng lý luận của Chủ nghĩa Mác – Lênin.
- Cách mạng giải phóng dân tộc phải được tiến hành bằng con đường
cách mạng bạo lực cách mạng
+ Quan điểm về bạo lực cách mạng
● Tính tất yếu: Muốn chống lại bạo lực phản cách mạng của các thế
lực đế quốc cần phải sử dụng bạo lực cách mạng.
● Bạo lực cách mạng là bạo lực của quần chúng.
● Hình thức: gồm cả đấu tranh chính trị và đấu tranh vũ trang.
chủ. Nhà nước là của dân, do dân và vì dân, dựa trên khối đại đoàn kết
toàn dân mà nòng cốt là liên minh công - nông - trí thức, do Đảng cộng
+ Mọi quyền lực trong xã hội đều tập trung trong tay nhân dân. Hồ Chí
Minh coi nhân dân có vị trí tối thượng trong mọi cấu tạo quyền lực, nhân
- Thứ hai, về kinh tế: có nền kinh tế phát triển cao dựa trên LLSX hiện đại
và chế độ công hữu về TLSX chủ yếu.
+ Để có được một xã hội giàu mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, điều
tiên quyết là xã hội đó phải có một nền kinh tế phát triển.
+ Lực lượng sản xuất hiện đại quyết định việc nâng cao năng suất của nền
sản xuất - yếu tố quy định sự phát triển lên trình độ cao của phương
thức sản xuất mới.
+ Quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa tiến bộ phù hợp để thúc đẩy lực
lượng sản xuất phát triển.
- Thứ ba, về văn hóa, đạo đức và các quan hệ xã hội: XH XHCN có trình độ
phát triển cao về văn hóa, đạo đức, đảm bảo sự công bằng, hợp lý trong
các quan hệ xã hội.
+ Xã hội không còn chế độ người bóc lột người, con người được tôn trọng,
được đảm bảo đối xử công bằng, bình đẳng, các dân tộc đoàn kết, gắn
bó với nhau.
+ Về quan hệ lợi ích, chỉ có CNXH mới “Chú ý xem xét những lợi ích cá
nhân đúng đắn và đảm bảo cho nó được thỏa mãn” , “chỉ ở trong chế độ
xã hội chủ nghĩa thì mỗi người mới có điều kiện để cải thiện đời sống
riêng của minh, phát huy tính cách riêng, sở trường riêng” .
+ Chủ nghĩa xã hội là cơ sở, là tiền đề để tiến tới chế độ xã hội hòa bình,
đoàn kết, ấm no, tự do, hạnh phúc, bình đẳng, bác ái, không còn phân
biệt chủng tộc, những người lao động hiểu nhau và thương yêu nhau.
+ Quyền bình đẳng trước pháp luật cho mọi công dân; các cộng đồng
người đoàn kết chặt chẽ trên cơ sở bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ.
- Thứ tư, về chủ thể xây dựng CNXH: CNXH là công trình tập thể của nhân
dân dưới sự lãnh đạo của ĐCS.
+ Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là nhà nước quản lý và điều hành
đất nước và xã hội bằng pháp luật thể hiện quyền lợi và ý chí của nhân
dân; vì vậy, là nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.
+ Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân với nền tảng là liên minh
giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức.
+ Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân
dân, vì nhân dân không thể nào khác là dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng
sản - đảng mang bản chất, lý tưởng, nội dung xã hội chủ nghĩa, là đảng
thực hiện mục tiêu và lý tưởng xã hội chủ nghĩa.
Theo Hồ Chí Minh, tập trung dân chủ là nguyên tắc tổ chức của Đảng.
Đây là nguyên tắc cơ bản nhất trong việc xây dựng Đảng thành một tổ
chức chặt chẽ. Người cho rằng, “tập trung” và “dân chủ” có mối quan hệ
Dân chủ để đi đến tập trung, là cơ sở của tập trung chứ không phải là
dân chủ theo kiểu phân tán, tuỳ tiện, vô tổ chức. Tập trung là tập trung
trên cơ sở dân chủ chứ không phải là tập trung quan liêu theo kiểu độc
Về tập trung, Người nhấn mạnh: phải thống nhất về tư tưởng, tổ chức và
hành động. Do đó, thiểu số phải phục tùng đa số, cấp dưới phục tùng
cấp trên, mọi đảng viên phải chấp hành vô điều kiện nghị quyết của
Đảng. Từ đó làm cho “Đảng ta tuy nhiều người nhưng khi tiến đánh thì
chỉ như một người”. Còn dân chủ, Người khẳng định, đó là “của quý báu
nhất của nhân dân”, là thành quả của cách mạng. Người viết: “Chế độ ta
là chế độ dân chủ, tư tưởng phải được tự do. Tự do là thế nào? Đối với
mọi vấn đề, mọi người tự do bày tỏ ý kiến của mình, góp phần tìm ra
chân lý. Đó là một quyền lợi mà cũng là một nghĩa vụ của mọi người. Khi
mọi người đã phát biểu ý kiến, đã tìm thấy chân lý, lúc đó quyền tự do tư
Theo Hồ Chí Minh đây là nguyên tắc lãnh đạo của Đảng. Người khẳng
định lãnh đạo không tập thể thì sẽ đi đến cái tệ bao biện, độc đoán, chủ
quan. Kết quả là hỏng việc. Phụ trách không do cá nhân thì sẽ đi đến cái
tệ bừa bãi, lộn xộn, vô chính phủ. Kết quả cũng là hỏng việc. Thể lãnh
đạo và cá nhân phụ trách phải luôn luôn đi đôi với nhau”.
Hồ Chí Minh rất coi trọng nguyên tắc này. Người coi đây là nguyên tắc
sinh hoạt của Đảng, là luật phát triển của Đảng. Người khẳng định đây
vũ khí để rèn luyện đảng viên, nhằm làm cho mỗi người tốt hơn, tiến bộ
hơn và tăng cường đoàn kết nội bộ hơn. Đó cũng là vũ khí để nâng cao
trình độ lãnh đạo của Đảng, giúp Đảng làm tròn trách nhiệm trước giai
Để rèn luyện đảng viên và toàn Đảng một cách hiệu quả, Hồ Chí Minh
yêu cầu mỗi đảng viên, mỗi cấp bộ đảng phải thực hiện tự phê bình và
phê bình một cách thường xuyên, liên tục, thẳng thắn, chân thành và “có
Người rất coi trọng việc xây dựng một kỷ luật nghiêm minh và tự giác
trong Đảng để tạo nên sức mạnh to lớn của Đảng. Tính nghiêm minh
của kỷ luật Đảng đòi hỏi mọi tổ chức đảng, mọi đảng viên đều phải bình
đẳng trước Điều lệ Đảng, trước pháp luật của Nhà nước, trước mọi quyết
định của Đảng. Đồng thời, đảng ta là một tổ chức gồm những người tự
nguyện phấn đấu cho lý tưởng cộng sản chủ nghĩa cho nên tự giác là
một yêu cầu bắt buộc đối với mọi tổ chức Đảng và đảng viên. Người
viết: “Kỷ luật này là do lòng tự giác của đảng viên về nhiệm vụ của họ
Yêu cầu cao nhất của kỷ luật Đảng là chấp hành các chủ trương, nghị
quyết của Đảng, Điều lệ Đảng, tuân thủ các nguyên tắc tổ chức, lãnh đạo
Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến việc xây dựng sự đoàn kết, thống
nhất trong Đảng. Người khẳng định: “Đoàn kết là một truyền thống cực
kỳ quý báu của Đảng và của dân ta. Các đồng chí từ Trung ương đến
các chi bộ cần phải giữ gìn sự đoàn kết, nhất trí của Đảng như giữ gìn
Để xây dựng sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng, Người thường nêu
những yêu cầu như: phải dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác –
Lênin, Cương lĩnh, Điều lệ Đảng, đường lối, quan điểm của Đảng, nghị
quyết của tổ chức Đảng các cấp; mở rộng dân chủ nội bộ, thường xuyên
thực hiện tự phê bình và phê bình; thường xuyên tu dưỡng đạo đức CM.
- Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, Nhà nước của dân là Nhà nước được tổ chức
sao cho tất cả quyền lực trong nước là của toàn thể nhân dân. Điều 1 Hiến
Pháp năm 1946, do Người làm Trưởng ban soạn thảo, đã khẳng định rõ:
“Nước Việt Nam là một nước dân chủ cộng hoà. Tất cả quyền bính trong
nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam, không phân biệt nòi giống, gái
trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo”.
- Quyền lực trong nước là của toàn thể nhân dân, theo Hồ Chí Minh, phải
được thể hiện ở chỗ:
+ “Dân làm chủ và dân là chủ”. Dân có quyền làm bất cứ việc gì mà
pháp luật không cấm, đồng thời có nghĩa vụ tuân theo pháp luật.
+ “Những việc quan hệ đến vận mệnh quốc gia sẽ đưa ra nhân dân
phúc quyết” (Điều 32 – Hiến pháp 1946).
+ Sau khi giành được chính quyền, dân uỷ quyền cho các đại diện do
mình bầu ra. Đồng thời, dân có quyền bãi miễn đại biểu quốc hội,
đại biểu hội đồng nhân dân nếu những đại biểu ấy tỏ ra không xứng
đáng với sự tín nhiệm của nhân dân.
- Yêu cầu đối với Nhà nước của dân là:
+ Phải bằng mọi nỗ lực hình thành được các thiết chế dân chủ để
thực thi quyền làm chủ của nhân dân.
+ Các vị đại diện của dân, do dân cử ra phải xác định rõ mình chỉ là
thừa uỷ quyền của dân, là “công bộc” của dân.
- Do dân lựa chọn, bầu ra rừ những đại biểu của mình vào các cơ quan
quyền lực của Nhà nước.
- Do dân ủng hộ, giúp đỡ, đóng thuế để Nhà nước chi tiêu hoạt động.
- Theo Hồ Chí Minh, Nhà nước vì dân là Nhà nước phục vụ lợi ích và nguyện
vọng của nhân dân, không có đặc quyền, đặc lợi, thực sự trong sạch, cần,
kiệm, liêm, chính. Như vậy, theo quan niệm của Hồ Chí Minh, chỉ có một
Nhà nước thực sự của dân, do dân tổ chức, xây dựng và kiểm soát trên
thực tế mới có thể là Nhà nước vì dân.
- Người cho rằng, trong Nhà nước vì dân, dân là chủ, là người được phục vụ
thì cán bộ nhà nước, từ chủ tịch trở xuống đều là công bộc của dân, làm
đầy tớ cho dân. Để làm tốt vai trò của mình, xứng đáng với sự tín nhiệm
của nhân dân, Hồ Chí Minh yêu cầu cán bộ nhà nước phải:
+ “Việc gì có lợi cho dân, ta phải hết sức làm. Việc gì hại đến dân, ta
phải hết sức tránh”.
+ Là người đầy tớ phục vụ nhân dân, cán bộ nhà nước phải đồng thời
là người lãnh đạo, người hướng dẫn nhân dân.
TTHCM về đoàn kết dân tộc: hình thức, nguyên tắc tổ chức
Mặt trận Dân tộc thống nhất và vận dụng trong giai đoạn hiện nay
a) Hình thức tổ chức của đoàn kết dân tộc là Mặt trận dân tộc thống nhất
- Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, đại đoàn kết dân tộc không thể chỉ dừng lại ở
quan niệm, ở những lời kêu gọi, những lời hiệu triệu mà phải trở thành một
chiến lược cách mạng, phải trở thành khẩu hiệu hành động của toàn Đảng,
toàn dân tộc. Nó phải biến thành sức mạnh vật chất, trở thành lực lượng vật
chất có tổ chức. Tổ chức đó chính là mặt trận dân tộc thống nhất.
- Toàn dân tộc chỉ trở thành lực lượng to lớn, có sức mạnh vô địch trong đấu
tranh bảo vệ và xây dựng Tổ quốc khi được tập hợp, tổ chức lại thành một
khối vững chắc, được giác ngộ về mục tiêu chiến đấu chung và hoạt động
theo một đường lối chính trị đúng đắn. Nếu không được như vậy, thì quần
chúng nhân dân dù có đông tới hàng triệu, hàng trăm triệu con người cũng
chỉ là một số đông không có sức mạnh. Thất bại của các tổ chức yêu nước
và giải phóng dân tộc ở VN trước khi Đảng ta ra đời đã chứng minh rất rõ
điều này.
- Mặt trận dân tộc thống nhất ở từng thời kỳ, giai đoạn có thể khác nhau,
song tựu chung lại đó là tổ chức chính trị - xã hội rộng lớn của nhân dân
Việt Nam, nơi quy tụ, tập hợp đông đảo các giai cấp, tầng lớp, dân tộc, tôn
giáo, đảng phái, các tổ chức và cá nhân yêu nước ở trong và ngoài nước,
phấn đấu vì mục tiêu chung là độc lập dân tộc, thống nhất của Tổ quốc, tự
b) Một số nguyên tắc cơ bản về xây dựng và hoạt động của Mặt trận dân tộc
thống nhất
- Mặt trận dân tộc thống nhất phải được xây dựng trên nền tảng khối liên
minh công - nông - trí thức, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng.
=> Đây là nguyên tắc cốt lõi của chiến lược đại đoàn kết dân tộc.
+ Liên minh công, nông, tri thức là nền tảng cho khối đại đoàn kết dân tộc
vì họ là người trực tiếp sản xuất ra của cải vật chất cho xã hội, là các giai
cấp đông đảo nhất, bị áp bức bóc lột nặng nề nhất và chí khí cách mạng
của họ cũng chắc chắn, bền bỉ hơn các tầng lớp khác.
+ Hồ Chí Minh coi quan hệ giữa Mặt trận đoàn kết dân tộc và liên minh
công, nông, trí thức là mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp. Mối quan
hệ biện chứng đó tạo ra sức mạnh to lớn cho cách mạng mà không kẻ
+ Đảng phải lãnh đạo Mặt trận thống nhất vì chỉ có Đảng mới vạch ra
đường lối đúng đắn để lôi kéo, tập hợp quần chúng nhân dân vào khối đại
+ Hồ Chí Minh luôn xác định, mối quan hệ giữa Đảng và Mặt trận là mối
quan hệ máu thịt. Không có Mặt trận, Đảng không có lực lượng không
thể thực hiện được những nhiệm vụ cách mạng; Không có sự lãnh đạo
của Đảng, Mặt trận không thể hình thành, phát triển và không có phương
+ Đảng Cộng sản Việt Nam vừa là một thành viên của Mặt trận dân tộc
thống nhất vì Đảng ra đời là kết quả của cuộc đấu tranh của dân tộc và
giai cấp, Đảng là sản phẩm của sự kết hợp CN Mác - Lênin và phong trào
nhân dân lao động. Do vậy, ĐCS VN là đại biểu cho lợi ích, trí tuệ, danh
+ Để lãnh đạo được mặt trận, ĐCS Việt Nam phải có chính sách Mặt trận
đúng đắn, phù hợp với từng giai đoạn, từng thời kỳ cách mạng, phù hợp
với quyền lợi và nguyện vọng của đại đa số nhân dân. Đảng phải dùng
phương pháp giáo dục, thuyết phục, nêu gương, lấy lòng chân thành
- Mặt trận dân tộc thống nhất phải hoạt động trên cơ sở bảo đảm lợi ích tối
cao của dân tộc, quyền lợi cơ bản của các tầng lớp nhân dân.
+ Mặt trận chỉ có thể thực hiện được mục tiêu đoàn kết khi có sự nhất trí
về mục tiêu và lợi ích. Theo Hồ Chí Minh thì chỉ có thể thực hiện đoàn
kết khi có chung một mục đích, một số phận. Nếu không suy nghĩ như
nhau, nếu không có chung một mục đích, chung một số phận thì cộ kêu
gọi đoàn kết thế nào đi nữa, đoàn kết vần không thể nào có được.
+ Trên cơ sở xác định lợi ích chung tối cao của dân tộc còn phải xác định
những quyền lợi cơ bản của các tầng lớp nhân dân trong Mặt trận. Quyền
lợi cơ bản đó được xác định cụ thể hóa trong từng giai đoạn, trên các
- Mặt trận dân tộc thống nhất phải hoạt động theo nguyên tắc hiệp thương
dân chủ bảo đảm đoàn kết ngày càng rộng rãi và bền vững
+ Mặt trận dân tộc thống nhất là tổ chức chính trị - xã hội rộng lớn của cả
dân tộc, bao gồm nhiều giai cấp, tầng lớp, đảng phái, dân tộc. tôn giáo
● Tất cả mọi vấn đề của Mặt trận đều phải được đem ra để tất cả
các thành viên cùng nhau bàn bạc công khai để đi đến nhất trí.
● Đảng là lực lượng lãnh đạo mặt trận, nhưng mọi chủ trương,
chính sách phải trình bày trước Mặt trận, cùng với các thành
viên khác của Mặt trận bàn bạc, hiệp thương để đi đến thống nhất.
● Phải đứng vững trên lập trường giai cấp công nhân
● Giải quyết hài hòa quan hệ giữa lợi ích dân tộc và ích lợi giai cấp,
lợi ích chung và lợi ích riêng, lợi ích lâu dài và lợi ích trước
mắt.
● Phải thấm nhuần lợi ích chung, tôn trọng lợi ích riêng.
+ Hồ Chí Minh chỉ rõ, nếu làm tốt hiệp thương dân chủ sẽ củng cố được
mối quan hệ bền chặt, đồng thuận nhằm thực hiện mục tiêu 4 đồng:
- Mặt trận dân tộc thống nhất là khối đoàn kết chặt chẽ lâu dài, đoàn kết
+ Mặt trận là một tập hợp nhiều giai tầng, dân tộc, tôn giáo, đảng phái,
bên cạnh những chung thì vẫn sẽ có những khác biệt, cục bộ.
+ Hiệp thương dân chủ để thu hẹp những nhân tố khác biệt, cục bộ, nhân
lên những nhân tố tích cực, nhân tố chung, đi đến thống nhất, đoàn kết.
● Phải lấy cái chung để hạn chế cái riêng, ”cầu đồng, tồn dị”.
● Đoàn kết phải gắn với đấu tranh.
● Phải có tấm lòng khoan dung, độ lượng, nhân ái .
● Phải nêu cao tự phê bình và phê bình.
c) Liên hệ ngày nay (cái này khum rõ nữa, nhiều tài liệu tham khảo)
- Phát huy truyền thống yêu nước, lòng tự hào dân tộc, ý chí tự lực tự cường,
đoàn kết mọi người Việt Nam nhằm mục tiêu giữ vững độc lập thống nhất
chủ quyền quốc gia toàn vẹn lãnh thổ, thực hiện thắng lợi sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, vì dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công
bằng, văn minh; sự nghiệp hòa bình, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới.
- Xây dựng Nhà nước nhằm phục vụ nhân nhân, nơi thể hiện ý chí, nguyện
vọng, tập hợp khối đại đoàn kết toàn dân, phát huy quyền làm chủ của nhân
dân, nơi hiệp thương, phối hợp và thống nhất hành động của các thành viên.
- Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong giai đoạn hiện nay có nhiệm vụ:
+ Tập hợp, xây dựng, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc.
+ Thực hiện dân chủ, tăng cường đồng thuận xã hội.
+ Đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng, hợp pháp của nhân dân.
+ Giám sát và phản biện xã hội.
+ Tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước.
+ Hoạt động đối ngoại nhân dân, góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
- Ngoài ra, để thực hiện tốt Mặt trận đoàn kết dân tộc, cần phải:
+ Một là, thường xuyên làm tốt công tác tuyên truyền, giáo dục cho
mọi người dân về tinh thần đoàn kết của dân tộc.
+ Hai là, đa dạng hoá các nội dung, hình thức, phương pháp khơi dậy
+ Ba là, phát huy vai trò, trách nhiệm của đội ngũ cán bộ cơ sở trong
hướng dẫn, đồng hành cùng với nhân dân tham gia vào các hoạt động
chung của xã hội.
1. TTHCM về khái niệm văn hóa và vai trò của văn hóa
a. Quan niệm của Hồ Chí Minh về văn hoá.
- Khi bị giam trong nhà tù của Tưởng Giới Thạch 8/1943, Bác đưa ra quan
niệm:
“Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo
và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn
giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hằng ngày về
mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát
minh đó tức là văn hóa”.
Giá trị vật chất + Giá trị tinh thần = Văn hóa HCM
=> Nhằm đáp ứng sự sinh tồn cũng là mục đích sống của loài người
- Nghĩa rộng: Tất cả các sản phẩm tạo ra trong đời sống sinh hoạt của
con người đều được coi là văn hóa: văn hóa vật chất (ăn, mặc, ở) và văn
hóa tinh thần (phong tục, tập quán, lối sống).
- Nghĩa hẹp: Trong mối quan hệ với kinh tế, thuộc kiến trúc thượng
tầng.
- Hẹp hơn: Liên quan đến giáo dục, chỉ khi người dân có hiểu biết thì văn
hóa mới phát triển.
- Tiếp cận văn hóa theo phương thức sản xuất công cụ sinh hoạt.
=> Quan niệm về văn hóa vị nhân sinh: văn hóa phải vì con người. Bác nói
“nền văn hóa Việt Nam phải lấy hạnh phúc của nhân dân làm cơ sở”.
b. Quan điểm của Hồ Chí Minh về vai trò của văn hóa
Văn hóa là mục tiêu, động lực của sự nghiệp cách mạng
Mục tiêu của cách mạng Việt Nam là độc lập dân tộc gắn liền chủ nghĩa
xã hội, cùng với chính trị, kinh tế, xã hội, văn hoá nằm trong mục tiêu
chung của toàn bộ tiến trình cách mạng Việt Nam.
+ Hiện nay nước ta đề ra mục tiêu chiến lược phát triển văn hóa đất
nước với các mục tiêu dài hạn để phát triển toàn diện kinh tế -
chính trị - văn hóa - xã hội (các mục tiêu phát triển 2030).
+ Tư tưởng HCM có sự tương đồng với các mục tiêu phát triển của
TG (8 mục tiêu phát triển của LHQ).
Tất cả các động lực phát triển đất nước đều được xem xét dưới góc độ
văn hoá. Các góc độ cụ thể:
+ Văn hóa chính trị: là động lực có ý nghĩa soi đường cho quốc dân
đi, lãnh đạo quốc dân thực hiện độc lập, tự chủ, tự cường. Liên
quan đến xây dựng con người với hệ tư tưởng chính trị gắn với văn
hóa dân tộc, phục vụ nhân dân => Xây dựng Đảng.
+ Văn hóa giáo dục: xây dựng con người vừa có đức vừa có tài “học
để làm việc, làm người, làm cán bộ” => Diệt giặc dốt => 1945,
phong trào xóa nạn mù chữ, mở lớp “bình dân học vụ”, bổ túc văn
hóa”. “một dân tộc dốt
+ Văn hóa văn nghệ: góp phần giáo dục lòng yêu nước, lý tưởng,
+ Văn hóa đạo đức: Rèn về lối sống, phẩm chất, đạo làm người. Xây
dựng đức tính và phẩm chất Cần -Kiệm - Liêm - Chính.
+ Văn hóa pháp luật: đảm bảo cho xã hội thượng tôn pháp luật, dân
chủ được phát huy.
- “Văn hóa, nghệ thuật cũng là 1 mặt trận. Ace là chiến sĩ trên mặt trận ấy”.
- Những người thuộc lĩnh vực văn hóa đều là chiến sĩ. Giá trị mà họ đem
lại gắn liền với lợi ích của nhân dân, vì nhân dân mà phục vụ.
- Những người làm nghệ thuật nhằm phục vụ cho nhân dân có những
danh hiệu cao quý như nghệ sĩ ưu tú, nghệ sĩ nhân dân.
- Để làm tròn nhiệm vụ, các chiến sĩ nghệ thuật phải:
+ Có lập trường tư tưởng vững vàng
- Văn hóa xuất phát từ thực tiễn, phản ánh cuộc sống ,khát vọng của
quần chúng nhân dân, phục vụ nhân dân. Văn hóa quần chúng nhân
nhân:”Từ trong quần chúng mà ra. Về sâu trong quần chúng”.
- Nếu như văn hóa tư sản nói chung là văn hóa chính trị - làm cái gì cũng
là để kiếm tiền. Văn hóa theo Bác là văn hóa quần chúng, phục vụ nhân
dân, gần gũi với đời sống nhân dân. Cần phải để nhân dân tham gia vào
văn hóa, nghệ thuật, thể dục, thể thao để phục vụ quần chúng thì đó mới
là văn hóa.
2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về những nguyên tắc xây dựng đạo đức mới, liên hệ
với sinh viên hiện nay.
Tư tưởng HCM về những nguyên tắc xây dựng đạo đức mới
- Nói phải đi đôi với làm, phải nêu gương về đạo đức
+ Trong suốt cuộc đời hoạt động của mình, Hồ Chí Minh luôn luôn nêu
gương sáng về đạo đức, Người nói ít làm nhiều, có nhiều vấn đề về đạo
đức Người làm mà không nói, phải đi sâu nghiên cứu hành vi đạo đức
của Người mới thấy được bản chất sâu xa của tư tưởng đạo đức HCM.
+ Đối với cán bộ đảng viên Hồ Chí Minh nêu: "... Trước mặt quần chúng
không phải ta cứ viết lên trán hai chữ cộng sản mà được họ yêu mến.
Quần chúng chỉ yêu mến những người có tư cách, đạo đức muốn hướng
dẫn nhân dân mình phải làm mực thước cho người ta bắt chước".
+ Trong cuốn đường cách mệnh, khi nói về tư cách người cách mệnh
HCM viết: "Nói thì phải làm" "Có lòng bày vẽ cho người" hay trong tác
phẩm nâng cao đạo đức CM quét sạch chủ nghĩa cá nhân, HCM yêu
cầu Đảng cần thực hiện "Đảng viên đi trước, làng nước theo sau" .
+ Những tấm gương về đạo đức phải được hiểu theo cả nghĩa rộng và
nghĩa hẹp, có tấm gương chung và riêng, lớn nhỏ, xa gần. Một nền đạo
đức mới chỉ được xây dựng trên một nền rộng lớn, vững chắc, những
phẩm chất chuẩn mực đạo đức đã trở thành hành vi đạo đức hàng
ngày phổ biến trong toàn xã hội mà những tấm gương đạo đức của
những người tiêu biểu, người tốt việc tốt có ý nghĩa thúc đẩy quá trình
đó.
+ Tấm gương đạo đức của Hồ Chí Minh là tấm gương chung cho cả dân
tộc, cho các thế hệ mai mãi về sau. Nhưng còn nhiều tấm gương của
các vị anh hùng, chiến sỹ thi đua những tấm gương của những người
tiêu biểu cho từng ngành, từng cấp, những tấm gương "Người tốt việc
tốt" rất gần gũi trong đời thường có ở mọi lúc mọi nơi mà chúng ta
không thể coi thường. Về vấn đề này Hồ Chí Minh đã nói: "Người tốt,
việc tốt nhiều lắm ở đâu cũng có. Ngành nào, giới nào, địa phương nào,
lứa tuổi nào cũng có".
+ Theo Hồ Chí Minh trong đời sống hàng ngày cái tốt, cái xấu, đạo đức, phi
đạo đức luôn luôn đan xen lẫn nhau. Chính vì vậy vừa phải xây dựng đạo
đức mới, vừa phải chống cái phi đạo đức.
+ Muốn xây phải chống, chống nhằm mục đích cho xây. Cũng vì vậy Hồ
Chí Minh căn dặn toàn Đảng: "Phải cương quyết quét sạch chủ nghĩa cá
nhân nâng cao đạo đức cách mạng bồi dưỡng tư tưởng tập thể, tinh thần
đoàn kết, tính tổ chức và kỷ luật".
+ Việc xây dựng đạo đức mới trước hết phải được tiến hành bằng việc
giáo dục những phẩm chất, chuẩn mực đạo đức từ trong gia đình, nhà
trường, xã hội nhất là trong những tập thể gắn với hoạt động mỗi người.
Vấn đề quan trọng trong việc giáo dục đạo đức là phải khơi dậy ý thức
đạo đức lành mạnh ở mọi người để mọi người tự giác nhận thức được
trách nhiệm đạo đức của mình và thực hiện.
+ Khi xây dựng, bồi dưỡng phẩm chất đạo đức mới phải gắn liền chống lại
cái xấu, cái sai, cái vô đạo đức thường diễn ra hàng ngày.
+ Để xây và chống cần phát huy vai trò của dư luận xã hội, tạo ra phong
trào quần chúng rộng rãi biểu dương cái tốt, phê phán cái xấu. Người đã
phát động cuộc thi đua “3 xây. 3 chống”, viết sách “người tốt, việc
nhân trở thành con người ngăn cản cách mạng, cho dân, cho nước. Tu
dưỡng đạo đức phải gắn với thực tiễn bền bỉ trong mọi lúc mọi nơi, mọi
hoàn cảnh, có như vậy mới phân biệt được đạo đức mới khác với đạo
đức cũ.
+ Theo quan điểm của Hồ Chí Minh thì mỗi con người đều có cái tốt, cái
xấu vấn đề là không tự lừa dối mình mà nhìn thẳng vào mình thấy rõ cái
tốt, cái thiện để phát huy, thấy cái xấu, cái ác để khắc phục. Vì vậy việc tu
dưỡng rèn luyện phải được thực hiện trong hoạt động thực tiễn.
+ Hồ Chí Minh là một tấm gương suốt đời tự rèn luyện và trở thành tấm
gương tuyệt vời về con người mới. Những đức tính quý báu của người
không phải là bẩm sinh có được mà do quá trình tu dưỡng rèn luyện học
tập, từng bước hấp thụ tinh hoa đạo đức dân tộc và nhân loại mà đã trở
thành tư tưởng bất tử.
Liên hệ: Sinh viên học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh
Trong thời đại hiện nay, đứng trước nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa và hội nhập quốc tế, tư tưởng và đạo đức của người Việt đã bị tác
động bởi một làn sóng mới.
Tích cực: Là cơ hội để chúng ta phát huy những giá trị tốt đẹp truyền thống
của dân tộc như tình yêu nước, tình người, tinh thần đoàn kết, cần cù, … Cùng
với đó là sự học hỏi và hội nhập với những kiến thức mới. Sinh viên có cơ hội
để phát triển toàn diện về cả tài và đức
Tiêu cực: Nhiều sinh viên cũng bị ảnh hưởng bởi những yếu tố thời đại và du
nhập như lối sống thực dụng, chạy theo danh lợi, không nhận thức được những
thông tin và hành động trái chiều, phản động, … Từ đó biểu hiện lối sống tiêu
cực, thiếu trách nhiệm, thờ ô, buông thả bản thân, gian lận trong thi cử,…
Sinh viên ngày nay cần phải: (chỗ này bịa ra nha, tóm ý ngắn quá rồi)
-Trung với nước, tình người, luôn đấu tranh giải phóng dân tộc và giai cấp.
-Học tập, tiết kiệm, trung thực, công bằng, không thiên vị, giữ gìn quyền riêng tư,
sống đơn giản và khiêm tốn.
-Tin tưởng sức mạnh của nhân dân, tôn trọng, phục vụ nhân dân hết lòng, để đất
nước thực sự thuộc về dân, do dân và vì dân.
-Sống nhân hậu, vị tha, yêu thương và chia sẻ với mọi người.
-Có ý chí và nghị lực, quyết tâm vượt qua khó khăn để đạt được những mục tiêu
trong cuộc sống.
-Nói đôi với làm, tu dưỡng suốt đời bằng cách đấu tranh với những cái xấu và
rèn luyện đạo đức kiên trì.