You are on page 1of 21

TRƯỜNG ĐẠI HỌC DUY TÂN

KHOA KHOA HỌC XÃ HỘI & NHÂN VĂN

BÀI TIỂU LUẬN

MÔN HỌC: KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÁC-LÊNIN

ĐỀ TÀI: LỊCH SỬ RA ĐỜI VÀ PHÁT TRIỂN CỦA KINH TẾ CHÍNH TRỊ


MÁC-LÊNIN. Ý NGHĨA CỦA VIỆC NGHIÊN CỨU KINH TẾ CHÍNH TRỊ
MÁC-LÊNIN.

GVHD: THS.NGUYỄN THỊ HẢI LÊN


LỚP: POS 151 V
DANH SÁCH THÀNH VIÊN NHÓM 15B1:
Trần Thúy Hiền - 26205136328
Nguyễn Hữu Khánh My - 26205132718
Cao Nữ Ái Nhi - 26205134340
Lê Thảo Nhi - 26205130256
Nguyễn Thị Thảo Oanh - 25205128984
Trương Thị Mỹ Tâm - 26205134509
Trần Thị Thu Thảo - 26205123582

NĂM HỌC 2022-2023


STT HỌ VÀ TÊN MSSV NỘI DUNG PHÂN TÍCH %
Ý nghĩa của việc nghiên
cứu Kinh tế Chính trị
1 Trần Thúy Hiền 26205136328 100%
Mác – Lênin đối với thực
tiễn Việt Nam
Thuật ngữ Kinh tế Chính
2 Cao Nữ Ái Nhi 26205134340 trị Mác – Lênin 100%
Lời mở đầu và kết luận
Vai trò của C. Mác và Ph.
Ăngghen và V.I. Lênin
3 Lê Thảo Nhi 26205130256 đối với sự phát triển của 100%
Kinh tế Chính trị Mác –
Lênin
Mục đích của nghiên cứu
4 Nguyễn Thị Thảo Oanh 25205128984 của Kinh tế Chính trị Mác 100%
– Lenin
Kết quả của sự hình thành
5 Trương Thị Mỹ Tâm 26205134509 Kinh tế Chính trị Mác – 100%
Lênin
Vai trò của C. Mác và Ph.
Ăngghen và V.I. Lênin
6 Trần Thị Thu Thảo 26205123582 đối với sự phát triển của 100%
Kinh tế Chính trị Mác –
Lênin
Chức năng của Kinh tế
7 Nguyễn Hữu Khánh My 26205132718 100%
chính trị Mác – Lênin
PHÂN CHIA CÔNG VIỆC GIỮA CÁC THÀNH VIÊN TRONG NHÓM

2
Mục lục

3
Lời mở đầu
Trong dòng chảy tư tưởng kinh tế của nhân loại kể từ thời kỳ cổ đại cho tới ngày nay, do
đặc thù về trình độ phát triển ứng với mỗi giai đoạn lịch sử, mỗi nền sản xuất xã hội đã
hình thành nhiều tư tưởng, trường phái lý luận về kinh tế khác nhau. Mặc dù có sự đa
dạng về nội hàm lý luận, nội dung tiếp cận và đối tượng nghiên cứu riêng phản ánh trình
độ nhận thức, lập trường tư tưởng và quan điểm lợi ích của mỗi trường phái, song khoa
học kinh tế nói chung và khoa học kinh tế chính trị nói riêng đều có điểm chung ở chỗ
chúng là kết quả của quá trình không ngừng hoàn thiện. Các phạm trù, khái niệm khoa
học với tư cách là kết quả nghiên cứu và phát triển khoa học kinh tế chính trị ở giai đoạn
sau đều có sự kế thừa một cách sáng tạo trên cơ sở những tiền đề lý luận đã được khám
phá ở giai đoạn trước đó, đồng thời, dựa trên cơ sở kết quả tổng kết thực tiễn kinh tế - xã
hội đang diễn ra. .

Trước năm 1986, đất nước ta đã gặp rất nhiều khó khăn bởi một nền kinh tế trì trreje,
một hệ thống quản lí yếu kém cũng là do một phần không nhận thức đúng và đầy đủ về
mối quan hệ giữa vật chất và ý thức. Vấn đè này được nhận thức đúng sau Đại hội VII,
và quả nhiên giành nhiều thắng lợi sau khi đã chuyển nền kinh tế từ cơ chế quan liêu bao
cấp sang cơ chế thị trừng có sựu quản kí của nhà nước theo định hướng xã hội chủ
nghĩa.

Nội dung chính của tiểu luận được chia làm 2 chương:
Chương 1: Khái quát lịch sử ra đời và phát triển của Kinh tế Chính trị Mác – Lênin
Chương 2: Ý nghĩa của việc nghiên cứu Kinh tế chính trị Mác – Lênin đối với thực
tiễn Việt Nam
Song do khuôn khổ có hạn nên em không thể đề cập tới một cách đầy đủ tất cả các khía
cạnh của vấn đề, em rất mong có được sự đóng góp ý kiến khoa học của cô để cho bài
tiểu luận này được thêm phần hoàn thiện hơn.

Chúng em xin chân thành cảm ơn!

4
Chương 1: Khái quát lịch sử ra đời và phát triển của Kinh tế Chính trị Mác – Lênin

1.1. Thuật ngữ Kinh tế chính trị Mác – Lênin

Trong dòng chảy tư tường kinh tế của nhân loại kể từ thời kỳ cổ đại cho tới ngày nay, do
đặc thù trình độ phát triển ứng với mỗi giai đoạn lịch sử, mỗi nền sản xuất xã hội mà hình
thành nhiều tư tưởng, trường phái lý luận về kinh tế khác nhau.

Mặc dù có sự đa dạng về nội hàm lý luận, nội dung tiếp cận và đối tượng nghiên cứu
riêng phản ánh trình độ nhận thức, lập trường tư tưởng và quan điểm lợi ích của mỗi
trường phái, song khoa học kinh tế nói chung và khoa học kinh tế chính trị nói riêng đều
có điểm chung ở chỗ: là kết quả của quá trình không ngừng hoàn thiện. Các phạm trù,
khái niệm khoa học với tư cách là kết quả nghiên cứu và phát triển khoa học kinh tế
chính trị ở giai đoạn sau đều có sự kế thừa một cách sáng tạo trên cơ sở nhũng tiền đề lý
luận đã được khám phá ở giai đoạn trước đó, đồng thời, dựa trên cơ sở kết quả tổng kết
thực tiễn kinh tế của xã hội đang diễn ra. Kinh tế chính trị Mác - Lênin, một trong những
môn khoa học kinh tế chính trị của nhân loại, được hình thành và phát triền theo logic
lịch sử như vậy.

Thuật ngữ khoa học kinh tế chính trị dược xuất hiện ở châu Âu năm 1615 trong tác phẩm
Chuyên luận về kinh tế chính trị của nhà kinh tế người Pháp tên là A. Montchretien.
Trong tác phẩm này, tác giả đề xuất môn khoa học mới - môn kinh tế chỉnh trị. Tuy
nhiên, tác phẩm này mới chỉ là phác thảo về môn học kinh tế chính trị. Tới thế kỷ XVIII,
với sự xuất hiện hệ thống lý luận của nhà kinh tế học người Anh tên là A.Smith, kinh tế
chính trị chính thức trở thành môn học với các phạm trù, khái niệm chuyên ngành. Từ đó,
kinh tế chính không ngừng được bổ sung, phát triển cho đến hiện nay.

1.2. Kết quả của sự hình thành Kinh tế chính trị Mác – Lênin

Quá trình phát triển của khoa học kinh tế chính trị được khái quát qua hai thời kỳ lịch sử
như sau:

Thứ nhất, từ thời cổ đại đến thế kỷ XVIII:


+ Những tư tưởng kinh tế thời cổ, trung đại (từ thời cổ đại đến thế kỷ XV)
+ Chủ nghĩa trọng thương ( Thế kỷ XV đến TK XVII ở Anh, Pháp, Italia)

5
+ Chủ nghĩa trọng nông- Pháp ( giữa thế kỷ XVII đến đầu thế kỷ XVIII)
+ Kinh tế chính trị tư sản cổ điển Anh ( giữa thế kỷ XVII đến cuối thế kỷ XVIII)

Thứ hai, từ sau thế kỷ XVIII đến nay.

Trong thời kỳ cổ đại, trung đại (từ thế kỷ XV về trước), trình độ phát triển của các nền
sản xuất còn lạc hậu, chưa có đầy đủ những tiền đề cần thiết cho sự hình thành các lý
luận chuyên về kinh tế. Các tư tưởng kinh tế thường được thấy trong các tác phẩm triết
học, luận lý.

Sang thế kỷ XV, phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa hình thành trong lòng các quốc
gia Tây Âu và dần thay thế phương thức sản xuất phong kiến. Trình độ mới của sản xuất
xã hội đã trở thành tiền đề cho sự phát triển lý luận kinh tế chính trị.

Chủ nghĩa trọng thương được ghi nhận là hệ thống lý luận kinh tế chính trị bước đầu
nghiên cứu về nền sản xuất tư bản chủ nghĩa.
Chủ nghĩa trọng thương hình thành và phát triển trong giai đoạn từ giữa thế kỷ XV đến
giữa thế kỷ XVII ở Tây Âu với các nhà kinh tế tiêu biểu ở các nước như Willian Stafford
(Anh), Gasparo Scaruffi (ý) Antonso Serra; Thomas Mun (Anh) A.Montchrétien (Pháp).
Trong thời kỳ này, tư bản thương nghiệp có vai trò thống trị nền kinh tế. Do vậy, chủ
nghĩa trọng thương dành trọng tâm vào nghiên cứu lĩnh vực lưu thông. Chủ nghĩa trọng
thương đã khái quát đúng mục đích của các nhà tư bản là tìm kiếm lợi nhuận. Tuy nhiên,
chủ nghĩa trọng thương lý giải thiếu tính khoa học khi cho rằng nguồn gốc của lợi nhuận
là từ thương nghiệp, thông qua việc mua rẻ, bán đắt.
Sự phát triển của chủ nghĩa tư bản trong thời kỳ từ nửa cuối thế kỷ XVII đến nửa đầu thế
kỷ XVIII đã làm cho các quan điểm của chủ nghĩa trọng thương trở nên không còn phù
hợp. Lĩnh vực lý luận kinh tế chính trị trong thời kỳ này được bổ sung bởi sự hình thành,
phát triển của chủ nghĩa trọng nông ở nước Pháp với các đại biểu tiêu biểu như Pierr
Boisguillebert, Francoiç Quesney, Jacques Turgot.

Chủ nghĩa trọng nông hướng việc nghiên cứu vào lĩnh vực sản xuất; từ đó đạt được bước
tiến về mặt lý luận so với chủ nghĩa trọng thương khi luận giải về nhiều phạm trù kinh tế
như giá trị, sản phẩm ròng, tư bản, tiền lương, lợi nhuận, tái sản xuất. Đây là những đóng
góp quan trọng vào lý luận kinh tế chính trị của chủ nghĩa trọng nông. Tuy vậy, lý luận
của chủ nghĩa trọng nông cũng không vượt qua được hạn chế lịch sử khi cho rằng chỉ có
nông nghiệp mới là sản xuất, từ đó lý giải các khía cạnh lý luận dựa trên cơ sở đặc trưng
sản xuất của lĩnh vực nông nghiệp. Sự phát triển của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa trong

6
thời kỳ tiếp theo đã làm cho chủ nghĩa trọng nông trở nên lạc hậu và dần nhường vị trí
cho lý luận kinh tế chính trị cổ điển Anh.
Kinh tế chính trị cổ điển Anh được hình thành và phát triển từ cuối thế kỷ XVIII đến nửa
đầu thế kỷ XIX, mở đầu là các quan điểm lý luận của William Petty, tiếp đến là A. Smith
và kết thúc ở hệ thống lý luận có nhiều giá trị khoa học của David Ricardo.
Kinh tế chính trị cổ điển Anh nghiên cứu các quan hệ kinh tế trong quá trình tái sản xuất,
trình bày một cách hệ thống các phạm trù kinh tế chính trị như phân công lao động, hàng
hóa, giá trị, tiền tệ, giá cả, giá cả thị trường, tiền lương, lợi nhuận, lợi tức, địa tô, tư bản...
để rút ra các quy luật kinh tế. Lý luận kinh tế chính trị cổ điển Anh đã rút ra kết luận giá
trị là do hao phí lao động tạo ra, giá trị khác với của cải... Đó là những đóng góp khoa
học rất lớn của các đại biểu kinh tế chính trị cổ điển Anh vào lĩnh vực lý luận kinh tế
chính trị của nhân loại, thể hiện sự phát triển vượt bậc so với hệ thống lý luận của chủ
nghĩa trọng nông.
Như vậy, kinh tế chính trị là môn khoa học kinh tế nghiên cứu các quan hệ kinh tế để tìm
ra các quy luật chi phối sự vận động của các hiện tượng và quá trình hoạt động kinh tế
của con người tương ứng với những trình độ phát triển nhất định của nền sản xuất xã hội.
Kể từ sau những công trình nghiên cứu của A. Smith, lý luận kinh tế chính trị chia thành
hai dòng chính:
- Dòng lý thuyết khai thác các luận điểm của A. Smith khái quát dựa trên các quan sát
mang tính tâm lý, hành vi để xây dựng thành các lý thuyết kinh tế mới; không tiếp tục đi
sâu vào phân tích, luận giải các quan hệ xã hội trong nền sản xuất. Từ đó, tạo cơ sở cho
việc xây dựng các lý thuyết kinh tế về hành vi của người tiêu dùng, người sản xuất hoặc
các đại lượng lớn của nền kinh tế. Dòng lý thuyết này không ngừng được bổ sung và phát
triển bởi rất nhiều nhà kinh tế và nhiều trường phái lý thuyết ở các quốc gia châu Âu, Bắc
Mỹ cho đến ngày nay.
- Dòng lý thuyết thể hiện từ D. Ricardo, kế thừa những giá trị trong lý luận khoa học của
A. Smith, tiếp tục bổ sung, hoàn chỉnh nội dung luận giải về các phạm trù kinh tế chính
trị, đi sâu phân tích các quan hệ xã hội trong nền sản xuất, tạo ra những giá trị lý luận
khoa học chuẩn xác. C. Mác (1818 - 1883) đã kế thừa trực tiếp những thành quả lý luận
khoa học đó của D. Ricardo để phát triển thành lý luận kinh tế chính trị mang tên ông về
phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa.
Dựa trên sự kế thừa một cách có phê phán lý luận kinh tế chính trị cổ điển, trực tiếp là
của D. Ricardo, C. Mác đã xây dựng hệ thống lý luận kinh tế chính trị mang tính cách
mạng, khoa học, toàn diện về nền sản xuất tư bản chủ nghĩa, tìm ra những quy luật kinh
tế chi phối sự hình thành, phát triển và luận chứng vai trò lịch sử của phương thức sản

7
xuất tư bản chủ nghĩa. Cùng với C. Mác, Ph. Ăngghen (1820 - 1895) cũng là người có
công lao vĩ đại trong việc công bố lý luận kinh tế chính trị, một trong ba bộ phận cấu
thành của chủ nghĩa Mác.
Lý luận kinh tế chính trị của C. Mác và Ph. Ăngghen được thể hiện tập trung và cô đọng
nhất trong bộ Tư bản. Trong bộ Tư bản, C. Mác trình bày một cách khoa học và chỉnh thể
các phạm trù cơ bản của nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa như: hàng hóa, tiền tệ, tư
bản, giá trị thặng dư, tích lũy, tuần hoàn, chu chuyển, lợi nhuận, lợi tức, địa tô, cạnh
tranh..., rút ra các quy luật kinh tế cơ bản cũng như các quan hệ xã hội giữa các giai cấp
trong nền kinh tế thị trường dưới bối cảnh nền sản xuất tư bản chủ nghĩa. C. Mác đã tạo
ra bước nhảy vọt về lý luận khoa học so với D. Ricardo khi phát hiện ra tính hai mặt của
lao động sản xuất hàng hóa, tạo tiền đề cho việc luận giải một cách khoa học về lý luận
giá trị thặng dư.
Sau khi C. Mác và Ph. Ăngghen qua đời, V.I. Lênin tiếp tục kế thừa, bổ sung, phát triển
lý luận kinh tế chính trị theo phương pháp luận của C. Mác và có nhiều đóng góp khoa
học rất lớn; trong đó, nổi bật là kết quả nghiên cứu chỉ ra những đặc điểm kinh tế của độc
quyền, độc quyền nhà nước trong chủ nghĩa tư bản giai đoạn cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ
XX, những vấn đề kinh tế chính trị của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội... Với ý nghĩa
đó, lý thuyết kinh tế chính trị này được định danh với tên gọi kinh tế chính trị Mác -
Lênin.
Sau khi V.I. Lênin qua đời, các nhà nghiên cứu kinh tế của các đảng cộng sản trên thế
giới tiếp tục nghiên cứu, bổ sung và phát triển kinh tế chính trị Mác - Lênin cho đến ngày
nay. Cùng với lý luận của các đảng cộng sản, hiện nay, trên thế giới có rất nhiều nhà kinh
tế nghiên cứu kinh tế chính trị theo cách tiếp cận của kinh tế chính trị của C. Mác với
nhiều công trình được công bố trên khắp thế giới

1.3. Vai trò của C. Mác và Ph. Ăngghen và V.I. Lênin đối với sự phát triển của
Kinh tế chính trị Mác – Lênin

Vai trò của chính trị đối với sự phát triển kinh tế
Trước hết, vai trò của chính trị đối với sự phát triển kinh tế được thể hiện qua mối quan
hệ giữa kiến trúc thượng tầng với cơ sở hạ tầng.
Vai trò của kiến thức thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng nói chung có tác động hai mặt
của nó. Nếu kiến trúc thượng tầng có tác động thuận chiều cùng với sự vận động của
những quy luật kinh tế khách quan, thì kiến trúc thượng tầng sẽ có ảnh hưởng và vai trò

8
tích cực trong việc thúc đẩy sự phát triển ngày càng nhanh của kết cấu kinh tế - xã hội và
ngược lại.
Các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác - Lênin đã phân tích về vai trò của chính trị đối với sự
phát triển kinh tế như sau: Tác động của quyền lực nhà nước đối với sự phát triển kinh tế
có thể có ba loại. Nó có thể tác động cùng hướng - khi ấy sự phát triển diễn ra nhanh hơn;
nó có thể tác động ngược lại sự phát triển kinh tế - khi ấy thì hiện nay ở mỗi dân tộc lớn,
nó sẽ tan vỡ sau một thời gian nhất định, hoặc là có thể cản trở sự phát triển kinh tế ở
những hướng nào đó và thúc đẩy ở những hướng khác. Trường hợp này dẫn đến một
trong hai trường hợp nêu trên.
Tuy nhiên, rõ ràng là trong trường hợp thứ hai và thứ ba, quyền lực chính trị có thể gây
tác hại lớn cho sự phát triển kinh tế và có thể gây ra sự lãng phí to lớn về sức lực và vật
chất. Ăngghen đã phân tích rõ vai trò và ảnh hưởng của nhà nước thông qua hình tượng
của bạo lực như sau: sau khi bạo lực chính trị đã trở thành độc lập đối với xã hội, sau khi
đã từ đày tớ trở thành người chủ rồi, thì nó có thể tác động theo hai chiều hướng. Hoặc nó
tác động theo hai ý nghĩa và chiều hướng của sự phát triển kinh tế có tính quy luật. Như
thế giữa bạo lực chính trị và sự phát triển kinh tế không có sự xung đột nào và sự phát
triển kinh tế được đẩy mạnh hơn. Hoặc nó chống lại sự phát triển kinh tế và khi đó trừ
một vài ngoại lệ ra, thường thường nó chịu sức ép của sự phát triển kinh tế.
Trong mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị, vai trò quyết định thuộc về các quan hệ kinh
tế như đã trình bày ở trên. Tuy nhiên, chính trị cũng có tính độc lập tương đối trong mối
quan hệ với kinh tế. Tính độc lập tương đối đó biểu hiện ra thông qua tác động trở lại của
chính trị đối với kinh tế. “Tất cả các chính phủ, ngay cả những chính phủ chuyên chế
nhất... có thể đẩy nhanh hoặc làm chậm sự phát triển kinh tế cùng với những hệ quả về
chính trị và pháp luật bắt nguồn từ sự phát triển kinh tế ấy, song rút cục họ vẫn phải tuân
theo sự phát triển ấy”.
Thứ hai, vai trò của chính trị đối với sự phát triển kinh tế còn thể hiện trong mối quan hệ
giữa quyền lực chính trị và lợi ích kinh tế.
Khi xem xét mối quan hệ giữa lợi ích kinh tế và quyền lực chính trị Mác và Ăngghen đã
chỉ ra rằng lợi ích kinh tế quy định quyền lực chính trị và một khi nó đã tồn tại như một
thực thể hiện hữu thì quyền lực chính trị lại tác động rất lớn đến kinh tế. Tính quy định
của lợi ích kinh tế đối với quyền lực chính trị được thể hiện qua những điểm sau:
Một là, lợi ích kinh tế là sự phản ánh và biểu hiện trực tiếp của quan hệ sản xuất, mà
trong xã hội thì quan hệ sản xuất là quan hệ cơ bản, chi phối các quan hệ xã hội còn lại,
trong đó có quan hệ về tương quan lực lượng chính trị.

9
Hai là, cơ sở và nội dung của quyền lực chính trị là lợi ích kinh tế. Theo các nhà kinh
điển mácxít thì đằng sau những hành động chính trị là sự thúc đẩy của lợi ích vật chất, để
thoả mãn những lợi ích kinh tế thì quyền lực chính trị chỉ được sử dụng làm phương tiện
đơn thuần.
Ba là, sự vận động, phát triển của lợi ích kinh tế quy định sự phát triển và vận động của
quyền lực chính trị. Song với tư cách là nhà duy vật biện chứng, Mác không bao giờ quan
niệm mối quan hệ giữa lợi ích kinh tế và quyền lực chính trị là mối quan hệ một chiều.
Hai nhân tố lợi ích kinh tế và quyền lực chính trị luôn luôn tác động qua lại lẫn nhau.
Mác chỉ rõ rằng, quyền lực chính trị có thể tác động tới kinh tế theo ba cách thức: thúc
đẩy mạnh mẽ sự phát triển kinh tế; thúc đẩy ở mặt này, kìm hãm ở mặt khác; kìm hãm sự
phát triển kinh tế. Ông kết luận: sự vận động của kinh tế chịu ảnh hưởng một bên là sự
vận động của quyền lực nhà nước, còn một bên là của lực lượng đối lập sinh ra đồng thời
với quyền lực ấy. Chính vì vậy, trong chính trị vấn đề quyền lực chính trị (biểu hiện tập
trung ở quyền lực nhà nước) là một mục tiêu trọng tâm trực tiếp mà giai cấp nào, nhóm
xã hội nào cũng muốn nắm và chi phối. Vì nắm được quyền lực chính trị là nắm được
công cụ cơ bản, trọng yếu để giải quyết quan hệ lợi ích với các giai cấp khác, nhóm xã
hội khác theo hướng có lợi cho giai cấp mình, nhóm xã hội mình. Do đó tác động của
chính trị đối với kinh tế thể hiện ở sự tác động của quyền lực chính trị đối với kinh tế.
Thứ ba, vai trò của chính trị đối với sự phát triển kinh tế thể hiện qua vai trò lãnh đạo của
đảng chính trị đối với đời sống xã hội.
Khi phân tích, nhận xét đánh giá về hệ quả của cuộc đấu tranh giai cấp trong xã hội, các
nhà kinh điển mácxít đã đi đến kết luận rằng: trong cuộc đấu tranh giai cấp ấy nhất định
sẽ dẫn đến việc hình thành các đảng chính trị và các đảng chính trị đó sẽ đóng vai trò
quan trọng trong đời sống xã hội. Đảng chính trị là tổ chức có mục đích chính trị rõ ràng,
có tổ chức chặt chẽ, tập hợp lôi cuốn quần chúng cùng hành động chung để đạt mục đích
đề ra. Mác đã chỉ ra rằng, trong xã hội có giai cấp, giai cấp nào giành được quyền lực
chính trị sẽ trở thành giai cấp thống trị và thực hiện vai trò lãnh đạo xã hội.
Mác và Ăngghen đã chỉ ra rằng, trong việc nhận thức và giải quyết quan hệ chính trị với
kinh tế, bên cạnh việc ý thức tới vị trí và lợi ích của giai cấp cầm quyền thì yêu cầu cơ
bản, nền tảng trước hết mà đảng chính trị cầm quyền phải hướng tới là: quan hệ và sự tác
động của chính trị đối với kinh tế, phải vì mục tiêu phát triển sức sản xuất, phát triển xã
hội, tạo ra những điều kiện vật chất của một xã hội mới. Đối với đảng chính trị tiến bộ là
đại diện cho lợi ích của toàn thể nhân dân lao động thì chủ trương, đường lối chính sách
phát triển đất nước của nó phù hợp với quy luật phát triển chung của xã hội, nên vai trò
thúc đẩy xã hội tiến lên là vô cùng to lớn. Đối với đảng chính trị phản tiến bộ thì vai trò
của nó đối với xã hội chỉ là sự kìm hãm.

10
Do đó, đường lối, chủ trương, chính sách, các biện pháp chính trị của đảng cầm quyền có
vai trò đặc biệt quan trọng trong phát triển kinh tế. Như Lênin đã phân tích: “Trong một
nước tiểu nông... trao đổi... sự phát triển của kinh tế nhỏ là một sự phát triển tiểu tư sản,
một sự phát triển lên chủ nghĩa tư bản... nếu tìm cách ngăn cấm, triệt để chặn đứng mọi
sự phát triển của trao đổi tư nhân... tức là của chủ nghĩa tư bản, một sự phát triển không
thể tránh được khi có hàng triệu người sản xuất nhỏ. Chính sách ấy là một sự dại dột và
tự sát đối với một đảng nào muốn áp dụng nó. Dại dột, vì về phương diện kinh tế, chính
sách ấy là không thể nào thực hiện được; tự sát, vì những đảng nào định thi hành một
chính sách như thế, nhất định sẽ bị phá sản”.
C.Mác đánh giá cao vai trò tích cực của đảng của giai cấp vô sản đối với sự phát triển xã
hội nói chung và phát triển kinh tế nói riêng. Thứ nhất, theo Mác, đảng của giai cấp vô
sản lãnh đạo cuộc đấu tranh chính trị thực chất là lãnh đạo sự nghiệp giải phóng kinh tế.
Trong Điều lệ tạm thời của Hội liên hiệp công nhân quốc tế do Mác soạn thảo viết: “...
việc giải phóng giai cấp công nhân về mặt kinh tế là mục tiêu vĩ đại mà bất kỳ phong trào
chính trị nào cũng đều phải phục tùng với tư cách là một thủ đoạn”. Thứ hai, Đảng của
giai cấp vô sản luôn có đường lối, chính sách hợp lý. Cơ sở của đường lối, chính sách đấu
tranh của chính đảng cách mạng của giai cấp vô sản là lợi ích cách mạng của giai cấp vô
sản, đồng thời có tính toán một cách khách quan đến tất cả mọi quan hệ xã hội. Thứ ba,
sách lược đúng đắn của đảng cộng sản đã thu hút được đông đảo quần chúng nhân dân
tham gia vào quá trình phát triển xã hội nhằm mục đích phát triển kinh tế đem lại đời
sống ấm no cho nhân dân...
Dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị,
Hồ Chí Minh và Đảng ta nhận thấy rõ vai trò to lớn của chính trị trong phát triển kinh tế,
đã vận dụng sáng tạo những quan điểm đó vào thực tế của Việt Nam. Đảng ta luôn đặt
mối quan hệ giữa chính trị và kinh tế là mối quan hệ trọng tâm trong quá trình phát triển
đất nước, giữ vững ổn định chính trị để phát triển kinh tế, phát triển kinh tế để giữ vững
ổn định chính trị đã trở thành nguyên tắc trong quá trình Đảng lãnh đạo tiến trình cách
mạng nước ta. Điều đó được thể hiện rõ nhất trong đường lối đổi mới của Đảng và thực
tiễn qua hơn 25 năm đổi mới đất nước đã chứng minh điều đó

11
Chương 2: Ý nghĩa của việc nghiên cứu Kinh tế chính trị Mác – Lênin đối với thực
tiễn Việt Nam

2.1. Mục đích của nghiên cứu của Kinh tế Chính trị Mác – Lenin

Mục đích nghiên cứu ở cấp độ cao nhất của kinh tế chính trị Mác - Lênin là nhằm phát
hiện ra các quy luật chi phối quan hệ giữa người với người trong sản xuất và trao đổi. Từ
đó, giúp cho các chủ thể trong xã hội vận dụng các quy luật ấy, tạo động lực để không
ngừng sáng tạo, góp phần thúc đẩy văn minh và sự phát triển toàn diện của xã hội thông
qua việc giải quyết các quan hệ lợi ích. Mục đích xuyên suốt của kinh tế chính trị Mác -
Lênin không chỉ hướng đến việc thúc đẩy sự giàu có, mà còn hướng tới cung cấp cơ sở
khoa học góp phần thúc đẩy trình độ văn minh và phát triển toàn diện của xã hội. Kinh tế
chính trị Mác - Lênin không phải là khoa học về kinh tế hàng hóa tư bản chủ nghĩa. Các
hiện tượng kinh tế đều bị chi phối bởi những lực lượng khách quan, đó là các quy luật
kinh tế. Quy luật kinh tế là những mối liên hệ phản ánh bản chất, khách quan, lặp đi lặp
lại của các hiện tượng và quá trình kinh tế trong nền sản xuất xã hội tương ứng với những
trình độ phát triển nhất định của nền sản xuất xã hội ấy.
Tương tự như các quy luật xã hội khác, sự tác động và phát huy vai trò của quy luật kinh
tế đối với sản xuất và trao đổi thông qua các hoạt động của con người trong xã hội với
những động cơ lợi ích khác nhau.
Quy luật kinh tế tác động vào các động cơ lợi ích và quan hệ lợi ích của con người, từ đó
điều chỉnh hành vi của họ. Khi vận dụng đúng các quy luật kinh tế, sẽ tạo ra các quan hệ
lợi ích kinh tế khách quan, đúng đắn tạo động lực thúc đẩy sự sáng tạo của con người
trong xã hội. Thông qua đó thúc đẩy sự giàu có và văn minh của xã hội.
Giữa quy luật kinh tế và chính sách kinh tế có sự phân biệt. Chính sách kinh tế cũng tác
động vào các quan hệ lợi ích, nhưng sự tác động đó mang tính chủ quan.
Quy luật kinh tế tồn tại khác quan, không phụ thuộc vào ý chí của con người, con người
không thể thủ tiêu quy luật kinh tế, nhưng có thể nhận thức và vận dụng quy luật kinh tế
để phục vụ lợi ích của mình. Khi vận dụng không phù hợp, con người phải thay đổi hành
vi của mình chứ không thay đổi được quy luật.
Chính sách kinh tế là sản phẩm chủ quan của con người được hình thành trên cơ sở vận
dụng các quy luật kinh tế. Chính sách kinh tế vì thế có thể phù hợp, hoặc không phù hợp
với quy luật kinh tế khác quan. Khi chính sách không phù hợp, chủ thể ban hành chính
sách có thể ban hành chính sách khác để thay thế.

12
Giá trị khoa học của kinh tế chính trị Mác - Lênin thể hiện ở chỗ phát hiện ra những
nguyên lý và quy luật chi phối các quan hệ lợi ích giữa con người với con người trong
sản xuất và trao đổi. Kết quả nghiên cứu của kinh tế chính trị Mác - Lênin tạo cơ sở lý
luận khoa học cho việc xây dựng đường lối, chính sách phát triển kinh tế - xã hội của một
quốc gia phù hợp với những giai đoạn phát triển nhất định. Đường lối, chính sách phản
ánh đặc trưng chế độ chính trị, định hướng con đường phát triển của quốc gia đó. Sẽ là
thiếu khách quan nếu đối lập cực đoan kinh tế chính trị Mác - Lênin với các khoa học
kinh tế khác. Tương tự, sẽ rất khó có được tầm nhìn khi phủ định giá trị của kinh tế chính
trị Mác - Lênin đối với phát triển.
Vì vậy, cần nắm vững những nguyên lý của kinh tế chính trị Mác - Lênin để có cơ sở lý
luận khoa học cho việc giải quyết những mối quan hệ lợi ích trong quá trình phát triển đất
nước cũng như hoạt động gắn với đời sống của mỗi con người.

2.2. Chức năng của Kinh tế chính trị Mác – Lênin

2.2.1. Chức năng nhận thức


Kinh tế chính trị Mác - Lênin cung cấp những tri thức về sự vận động của các quan hệ
sản xuất, về sự tác động lẫn nhau giữa quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất và kiến
trúc thượng tầng, về những quy luật kinh tế của xã hội trong những trình độ phát triển
khác nhau của xã hội. Đó là chìa khoá để nhận thức lịch sử phát triển của sản xuất vật
chất và lịch sử phát triển của xã hội loài người nói chung, về chủ nghĩa tư bản nói riêng
để giải thích các hiện tượng và quá trình kinh tế đang diễn ra trong thực tiễn; phân tích
nguyên nhân và dự báo triển vọng, chiều hướng phát triển kinh tế và xã hội.
Những tri thức do kinh tế chính trị cung cấp là cơ sở khoa học để đề ra đường lối, chính
sách kinh tế tác động vào hoạt động kinh tế, định hướng cho sự phát triển kinh tế và cũng
là cơ sở nhận thức sâu sắc đường lối, chính sách kinh tế

2.2.2. Chức năng thực tiễn


Trên cơ sở nhận thức mở rộng, phong phú, trở nên sâu sắc do được tiếp nhận những tri
thức là kết quả nghiên cứu của kinh tế chính trị Mác – Lênin, người lao động cũng như
những nhà thu hoạch định chính sách hình thành năng lực, kỹ năng vận dụng các quy luật
kinh tế vào trong thực tiễn hoạt động lao động cũng như quản trị quốc gia của mình
Việc vận dụng đúng các quy luật kinh tế khách quan thông quan điều chỉnh hành vi cá
nhân hoặc các chính sách kinh tế sẽ góp phần thúc đẩy nền kinh tế - xã hội phát triển theo

13
hướng tiến bộ. Kinh tế chính trị Mác – Lênin, theo nghĩa đó, thực hiện chức năng cải tại
thực tiễn, thúc đẩy văn minh của xã hội. Kinh tế chính trị tham gia đắc lựuc và sự hình
thành phương pháp luận, cơ sở khoa học để giải quyết hài hòa các quan hệ lợi ích trong
quá trình phát triển, tạo động lực thúc đẩy từng cá nhân và toàn xã hội sáng tạo, từ dods
cả thiện không ngừng đời sống vật chất, tinh thần của toàn xã hội.
Đối với sinh viên nói riêng, kinh tế chính trị Mác – Lênin là cơ sở khoa học lý luận để
nhận diện và định vị vai trò, trách nhiệm sáng tạo cao cả của mình. Từ đó mà xây dựng tư
duy và tầm nhìn, kỹ năng thực hiện các hoạt động kinh tế - xã hội trên mọi lĩnh vực
ngành nghề của đời sống xã hội phù hợp với quy luật khách quan. Thông qua đó đóng
góp xứng đáng vào sự phát triển chung của xã hội.

2.2.3. Chức năng tư tưởng

Trên cơ sở nhận thức khoa học về quy luật vận động và phát triển của chủ nghĩa tư bản,
kinh tế chính trị Mác - Lênin đã góp phần đắc lực xây dựng thế giới quan cách mạng và
niềm tin sâu sắc của người học vào cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân nhằm xoá bỏ
áp bức bóc lột giai cấp và dân tộc, xây dựng xã hội mới - xã hội xã hội chủ nghĩa, làm
cho niềm tin có một căn cứ khoa học vững chắc đủ sức vượt qua khó khăn, kể cả những
thất bại tạm thời trong quá trình phát triển của cách mạng. Kinh tế chính trị Mác - Lênin,
cùng với các bộ phận hợp thành khác của chủ nghĩa Mác - Lênin, là vũ khí tư tưởng của
giai cấp công nhân và nhân dân lao động trong cuộc đấu tranh chống áp bức bóc lột, xây
dựng chế độ xã hội mới.

2.2.4. Chức năng phương pháp luận


Mỗi môn khoa học kinh tế có hệ thống phạm trù, khái niệm khoa học riêng song
để hiểu một cách sâu sắc bản chất thấy được sự gắn kết một cách biện chứng giữa kinh tế
với chính trị thì cần phải dựa trên cơ sở am hiểu nền tàng lý luận từ kinh tế chính trị.
Kinh tế chính trị Mác-Lênin thể hiện chức năng phương pháp luận, nền tảng lý luận khoa
học cho việc tiếp cân các khoa học kinh tế khác

Kinh tế chính trị là nền tảng lý luận cho một tổ hợp các khoa học kinh tế, trong đó có các
khoa học kinh tế ngành, như kinh tế công nghiệp, nông nghiệp, xây dựng, vận tải, lao
động, tài chính, lưu thông tiền tệ và tín dụng... Ngoài ra, nó còn là cơ sở lý luận cho một
loạt khoa học kinh tế nằm giáp ranh giữa các tri thức ngành khác nhau, như địa lý kinh tế,
nhân khẩu học... Đối với các khoa học kinh tế nói trên, kinh tế chính trị thực hiện chức

14
năng phương pháp luận, nghĩa là cung cấp nền tảng lý luận khoa học, mang tính đảng cho
các môn khoa học kinh tế cụ thể.

2.3. Ý nghĩa của việc nghiên cứu Kinh tế chính trị Mác – Lênin đối với thực tiễn
Việt Nam

2.3.1. Ý nghĩa của việc nghiên cứu Kinh tế chính trị Mác – Lênin:

Kinh tế chính trị có ý nghĩa quan trọng trong đời sống xã hội. Học tập môn kinh tế chính
trị giúp cho người học hiểu được bản chất của các hiện tượng và quá trình kinh tế, nắm
được các quy luật kinh tế chi phối sự vận động và phát triển kinh tế; phát triển lý luận
kinh tế và vận dụng lý luận đó vào thực tế, hành động theo quy luật, tránh bệnh chủ quan,
giáo điều, duy ý chí.
Kinh tế chính trị cung cấp các luận cứ khoa học làm cơ sở cho sự hình thành đường lối,
chiến lược phát triển kinh tế, xã hội và các chính sách, biện pháp kinh tế cụ thể phù hợp
với yêu cầu của các quy luật khách quan và điều kiện cụ thể của đất nước ở từng thời kỳ
nhất định.
Học tập kinh tế chính trị, nắm được các phạm trù và quy luật kinh tế, là cơ sở cho người
học hình thành tư duy kinh tế, không những cần thiết cho các nhà quản lý vĩ mô mà còn
rất cần cho quản lý sản xuất kinh doanh ở các doanh nghiệp của mọi tầng lớp dân cư, ở
tất cả các thành phần kinh tế.
Nắm vững kiến thức kinh tế chính trị, người học có khả năng hiểu được một cách sâu sắc
các đường lối, chiến lược phát triển kinh tế của đất nước và các chính sách kinh tế cụ thể
của Đảng và Nhà nước ta, tạo niềm tin có cơ sở khoa học vào đường lối, chiến lược,
chính sách đó.
Học tập kinh tế chính trị, hiểu được sự thay đổi của các phương thức sản xuất, các hình
thái kinh tế – xã hội là tất yếu khách quan, là quy luật của lịch sử, giúp người học có
niềm tin sâu sắc vào con đường xã hội chủ nghĩa mà Đảng Cộng sản Việt Nam và nhân
dân ta đã lựa chọn là phù hợp với quy luật khách quan, đi tới mục tiêu dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh trên đất nước.

2.3.2. Ý nghĩa của việc nghiên cứu Kinh tế chính trị Mác – Lênin đối với thực tiễn
Việt Nam

Trong các tác phẩm của mình, cũng giống như C. Mác và Ph. Ăng-ghen, V.I. Lê-nin chưa
nêu ra định nghĩa hoàn chỉnh về kinh tế và chính trị, song căn cứ vào những tư tưởng của
ông, có thể hiểu kinh tế là tổng thể các hoạt động sản xuất của một cộng đồng người, một

15
nước, liên quan đến các quá trình sản xuất, trao đổi, phân phối và tiêu dùng các sản phẩm
xã hội. Còn chính trị bao gồm hệ tư tưởng chính trị, các thiết chế chính trị cũng như
những mối quan hệ giữa các giai cấp, các dân tộc, các tập đoàn xã hội. Trên cơ sở kế thừa
quan điểm của C. Mác và Ph. Ăng-ghen, V.I. Lê-nin đã cụ thể hóa hơn khái niệm chính
trị bằng các luận điểm: “Chính trị là cuộc đấu tranh giữa các giai cấp; chính trị là
thái độ của giai cấp vô sản đang đấu tranh tự giải phóng mình chống giai cấp tư sản
toàn thế giới”; hay “Chính trị là sự tham gia vào những công việc của nhà nước, là
việc vạch hướng đi cho nhà nước, việc xác định những hình thức, nhiệm vụ, nội
dung hoạt động của nhà nước”. Như vậy, theo quan điểm của V.I. Lê-nin, chính trị là
nội dung và phương hướng hoạt động của nhà nước; là sự phản ánh những quan hệ giữa
các giai cấp, các quốc gia, dân tộc.

Khi phân tích bản chất của nhà nước vô sản, V.I. Lê-nin chỉ ra rằng, kinh tế quyết định
chính trị là vì, dù đã nắm trong tay chính quyền nhà nước, giai cấp vô sản vẫn phải căn cứ
vào nhu cầu phát triển khách quan của kinh tế để xác định phương hướng hoạt động của
bộ máy chính trị, của cả hệ thống chính trị và lúc này kinh tế cũng quyết định tính chất,
quy mô, mức độ và khả năng ảnh hưởng của bộ máy chính trị đối với sự phát triển tiếp
theo của kinh tế. Sự quyết định và chi phối của kinh tế đối với chính trị lúc này thường
thông qua việc xác lập các chính sách, đường lối, cơ cấu và bộ máy tổ chức thực hiện các
nhiệm vụ kinh tế, xã hội và chính trị. Theo nghĩa đó, “chính trị là sự thể hiện tập trung
của kinh tế”. Từ đó, V.I. Lê-nin đưa ra một nguyên tắc có tính phương pháp luận khi xem
xét mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị là, cần phải xem xét các vấn đề chính trị dựa
trên một nền tảng kinh tế nhất định, bởi lẽ “Bất cứ một vấn đề chính trị nào cũng có thể là
một vấn đề tổ chức, và ngược lại... Không thể tách những vấn đề tổ chức khỏi những vấn
đề chính trị được. Chính trị tức là kinh tế được cô đọng lại”.

Đảng Cộng sản Việt Nam nhận thức và giải quyết mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị
trong thời kỳ đổi mới

Từ khi tiến hành công cuộc đổi mới đất nước (năm 1986) đến nay, trên cơ sở nhận thức
lý luận của chủ nghĩa Mác - Lê-nin nói chung, quan điểm của V.I. Lê-nin nói riêng về
mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị, Đảng ta chủ trương đổi mới toàn diện trên tất cả
các lĩnh vực của đời sống xã hội, trong đó có đổi mới cả kinh tế lẫn chính trị. Qua hơn 30
năm tiến hành công cuộc đổi mới, trong nhận thức và thực tiễn giải quyết mối quan hệ
giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị ở Việt Nam đã có nhiều biến chuyển theo hướng
ngày càng sáng rõ hơn, hợp lý hơn.

Từ Hội nghị Trung ương 2 khóa VII (năm 1991) đến nay, tình hình đã cho phép và đòi
hỏi phải đổi mới căn bản về chính trị. Tuy nhiên, trong đổi mới chính trị, Đảng ta khẳng
16
định có những vấn đề thuộc về nguyên tắc là: Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư
tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động; kiên trì mục tiêu
độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội và thực hiện chế độ chính trị nhất nguyên,
một đảng lãnh đạo, đó là Đảng Cộng sản Việt Nam. Tập trung đổi mới tổ chức và phương
thức hoạt động của hệ thống chính trị; các khâu khác của hệ thống đó được tiến hành đổi
mới thận trọng và từng bước. Đặc biệt, chính trị là lĩnh vực tác động trực tiếp đến các
mối quan hệ phức tạp và nhạy cảm trong xã hội, bởi vậy, Đảng đã chủ động chỉ đạo:
“việc đổi mới trong hệ thống chính trị nhất thiết phải trên cơ sở nghiên cứu và chuẩn bị
rất nghiêm túc, không cho phép gây mất ổn định chính trị, dẫn đến sự rối loạn”. Đây là
một chủ trương đúng và trúng, bảo đảm giữ vững ổn định chính trị - một tiền đề tiên
quyết cho sự phát triển của đời sống kinh tế - xã hội.

Về quan điểm, Đảng ta chủ trương “Kết hợp chặt chẽ ngay từ đầu đổi mới kinh tế với
đổi mới chính trị, lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm, đồng thời từng bước đổi mới
chính trị”. Kế thừa tinh thần của các kỳ đại hội trước, tại Đại hội XII, Đảng ta nhấn
mạnh mục tiêu và nhiệm vụ phát triển đất nước trong 5 năm tới là: “Đổi mới mạnh mẽ,
toàn diện và đồng bộ, có bước đi phù hợp trên các lĩnh vực, nhất là giữa kinh tế và chính
trị”.

Khái niệm “đổi mới kinh tế” qua các văn kiện của Đảng được hiểu là quá trình chuyển
đổi nền kinh tế từ cơ chế tập trung, bao cấp chủ yếu dựa trên chế độ sở hữu toàn dân và
sở hữu tập thể sang nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị
trường, có sự quản lý của Nhà nước, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, theo
định hướng xã hội chủ nghĩa. Đó là bước chuyển từ nền kinh tế cơ bản là “khép kín” sang
nền kinh tế “mở” đối với khu vực và thế giới, kết hợp tăng trưởng kinh tế với phát triển
văn hóa, thực hiện công bằng xã hội, bảo vệ môi trường sinh thái và từng bước đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

Khái niệm “đổi mới chính trị” qua các văn kiện của Đảng được hiểu là quá trình đổi mới
tư duy chính trị về chủ nghĩa xã hội; đổi mới cơ cấu tổ chức và cơ chế vận hành của hệ
thống chính trị, trước hết là đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng; đổi mới, nâng cao
hiệu quả quản lý của Nhà nước xã hội chủ nghĩa nhằm giữ vững ổn định chính trị để xây
dựng chế độ xã hội chủ nghĩa ngày càng vững mạnh; thực hiện tốt nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa nhằm phát huy đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân trong quá trình xây dựng Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và phát triển kinh tế - xã hội dưới sự lãnh đạo của
Đảng Cộng sản Việt Nam.

Thực tiễn đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị ở Việt Nam sau hơn 30 năm dưới sự lãnh
đạo của Đảng đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử.
17
Về đổi mới kinh tế, nhờ thực hiện chủ trương “lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm”, tập
trung giải quyết những vấn đề cấp thiết của nhân dân về sản xuất và đời sống, giải phóng
sức sản xuất, hình thành và phát huy vai trò của hệ thống động lực..., nước ta đã thoát
khỏi tình trạng trì trệ và khủng hoảng về kinh tế - xã hội vốn kéo dài nhiều năm; hơn thế,
còn tiếp tục duy trì được tốc độ tăng trưởng kinh tế khá cao, ổn định và liên tục, mở rộng
các quan hệ hợp tác kinh tế với nhiều quốc gia và tổ chức kinh tế quốc tế..., tạo môi
trường thuận lợi để thu hút đầu tư nước ngoài, nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường
quốc tế. Nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần với sự đa dạng của các hình thức sở hữu,
các hình thức phân phối, trong đó lấy phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế
là chủ yếu, cũng như mô hình quản lý theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
được xác lập và bước đầu vận hành thông suốt.

Về đổi mới chính trị, việc đổi mới về thể chế, tổ chức, nội dung và phương thức hoạt
động được thực hiện đồng bộ trong các cơ quan đảng, nhà nước và các tổ chức chính trị -
xã hội theo hướng dân chủ hóa; khắc phục và loại bỏ cơ chế tập trung, quan liêu, hành
chính, mệnh lệnh, xơ cứng, giáo điều, tách rời và cản trở sự phát triển của kinh tế. Đánh
giá ảnh hưởng tích cực của đổi mới chính trị đối với kinh tế, Đảng ta từng khẳng định:
“Những kết quả của đổi mới hệ thống chính trị, từ đổi mới tư duy, chính sách, pháp luật
đến tổ chức hoạt động của bộ máy nhà nước tuy mới là bước đầu, song đã tạo nền tảng
vững chắc cho đổi mới và phát triển kinh tế - xã hội, giữ vững quốc phòng, an ninh”(10).

Như vậy, với việc kết hợp chặt chẽ ngay từ đầu đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị, lấy
đổi mới kinh tế làm trọng tâm, đồng thời từng bước đổi mới chính trị, chúng ta vừa thúc
đẩy được nền kinh tế của đất nước phát triển theo quy luật khách quan, vừa tạo nên sự
năng động, tích cực trong tư duy, tư tưởng và đời sống tinh thần nói chung của xã hội,
làm cho con người được thực sự tự do và có điều kiện phát huy tính chủ động, sáng tạo
của mình. Hai quá trình đó có quan hệ biện chứng với nhau, tạo nên sức mạnh giúp chúng
ta có cơ sở thực hiện thành công sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước.

Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, quá trình đổi mới đất nước nói chung và đổi mới
kinh tế, đổi mới chính trị ở nước ta nói riêng vẫn còn những bất cập, hạn chế. Bàn về vấn
đề này, tại Đại hội XII, Đảng ta nhận định: Nền kinh tế nước ta tuy đã có những bước
tăng trưởng nhưng còn chậm và chưa bền vững, chưa tương xứng với tiềm năng hiện có.
“Nền kinh tế chủ yếu vẫn phát triển theo chiều rộng, tăng trưởng kinh tế còn phụ thuộc
nhiều vào các yếu tố về vốn, tài nguyên, lao động trình độ thấp, chưa dựa nhiều vào tri
thức, khoa học và công nghệ, lao động có kỹ năng”. Ngoài ra, đổi mới chính trị còn chậm
và hiệu quả còn thấp: “Tổ chức bộ máy của Đảng và toàn hệ thống chính trị còn cồng
kềnh, nhiều tầng nấc; chức năng, nhiệm vụ ở một số tổ chức còn chồng chéo; hiệu lực,

18
hiệu quả hoạt động của nhiều tổ chức trong hệ thống chính trị chưa đáp ứng được yêu
cầu, nhiệm vụ,... Việc kiện toàn tổ chức, bộ máy các cơ quan, tổ chức nhà nước, các tổ
chức chính trị - xã hội gắn với tinh giản biên chế, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ,
công chức kết quả còn thấp. Số lượng cán bộ, công chức không những không giảm mà lại
tăng...”(12).

Xuất phát từ thực tiễn đó, để tiếp tục đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị có hiệu quả, cần
nắm vững những nguyên tắc có tính phương pháp luận như sau:

Thứ nhất, nhận thức đúng vấn đề có tính quy luật là, mọi sự biến đổi của chính trị đều là
sự phản ánh sự biến đổi của kinh tế, do kinh tế quyết định. Vì vậy, phải xuất phát từ đổi
mới kinh tế mà tiến tới đổi mới chính trị; hay nói cách khác, phải xuất phát từ thực tiễn
xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa mà đổi mới chính trị cho
phù hợp. Đồng thời, cũng cần tích cực đổi mới chính trị, phát huy vai trò định hướng, dẫn
dắt của chính trị đối với kinh tế thông qua các cơ chế, chính sách phù hợp. Tuy nhiên,
chính trị là lĩnh vực nhạy cảm và phức tạp nên đổi mới chính trị phải thận trọng, có bước
đi phù hợp, tiến hành từng bước.

Thứ hai, đặt mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị trong các mối quan hệ
khác của quá trình đổi mới. Tại Đại hội XII, Đảng ta đã coi mối quan hệ giữa đổi mới
kinh tế và đổi mới chính trị là một trong 9 mối quan hệ cơ bản của quá trình đổi mới. Tuy
các mối quan hệ đó có nội dung, bản chất khác nhau nhưng giữa chúng lại có mối quan
hệ biện chứng với nhau. Do đó, cần kết hợp hài hòa việc giải quyết mối quan hệ giữa đổi
mới kinh tế và đổi mới chính trị với các mối quan hệ khác. Vì kinh tế và chính trị là hai
lĩnh vực cơ bản của đời sống xã hội nên việc giải quyết mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế
và đổi mới chính trị là điều kiện giải quyết các mối quan hệ khác.

Thứ ba, giải quyết mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị gắn với điều
kiện lịch sử - cụ thể. Không phải ngẫu nhiên mà trong suốt hơn 30 năm đổi mới, quan
điểm về đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị từng bước được điều chỉnh cho phù hợp với
từng giai đoạn lịch sử nhất định. Sự vận động của thực tiễn ở mỗi giai đoạn đã đặt ra cho
Đảng ta yêu cầu phải có những điều chỉnh cho phù hợp. Trong giai đoạn hiện nay, giải
quyết mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị cần được đặt trong bối cảnh
mới - tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức
và hội nhập quốc tế trong thời đại Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Từ đó, có những
chủ trương, chính sách cho phù hợp với đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị

19
KẾT LUẬN

Kinh tế chính trị Mác – Lênin là môn khoa học được bắt nguồi từ sự kế thừa những kết
quả khoa học của kinh tế chính trị nhân loại, do C.Mác – Ph. Ăngghen sáng lập, được
V.I. Lênin và các đảng cộng sản, công nhân quốc tế bổ sung phát triển cho đến ngày nay.
Kinh tế chính trị Mác - Lênin nghiên cứu các quan hệ xã hội giữa con người với con
người trong sản xuất và trao đổi trong một phương thức sản xuất xã hội gắn với lực
lượng sản xuất và kiến trúc thượng tầng tương ứng của phương thức sản xuất xã hội đó.

Kinh tế chính trị Mác - Lênin là một trong những dòng lý thuyết kinh tế chính trị nằm
trong dòng chảy tư tưởng kinh tế phát triển liên tục trên thế giới, được hình thành, xây
dựng bởi C. Mác, Ph.Ăngghen và V.I. Lênin, dựa trên cơ sở kế thừa và phát triển những
giá trị khoa học kinh tế chính trị của nhân loại trước đó, trực tiếp là những giá trị khoa
học của kinh tế chính trị tư sản cổ điển Anh. Kinh tế chính trị Mác - Lênin có quá trình
phát triển không ngừng kể từ giữa thế kỷ XIX đến nay. Kinh tế chính trị Mác - Lênin là
một môn khoa học trong hệ thống các môn khoa học kinh tế của nhân loại

Việt Nam đang trong thời kỳ xây dựng và phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ
nghĩa, vì thế việc hiểu và nắm rõ các bản chất cũng như khái niệm liên quan đến những
quy luật quan trọng trong nền kinh tế thị trường là điều cần thiết. Hơn nữa môn học
chính trị Mác-Lênin còn giúp chúng ta tạo được nền tảng cơ bản cho nhiều bộ môn kinh
tế khác. Giúp làm rõ các cơ sở lý luận thực tiễn liên quan đến vấn đề nghiên cứu. Qua đó

20
phân tích được các yếu tố ảnh hưởng đến tình hình an ninh kinh tế quốc gia trong bối
cảnh toàn cầu hóa hiện đại hóa..

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. ThS .Nguyễn Thị Hải Lên, Giáo trình Kinh tế chính trị Mác – Lênin. Đại học Duy Tân
( năm học 2022 – 2023 )

2. Đại học Sư Phạm Hà Nội, Giáo trình Kinh tế chính trị Mác – Lênin ( dành cho bậc đại
học – không chuyên lý luận chính trị)

3. TS. Lê Thị Chiên, Viện Triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh; Tạp chí
điện tử “ Lý luận chính trị ”; “Về mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị trong quan điểm
của V.I. Lê-nin và ý nghĩa đối với Việt Nam hiện nay.”

4. TS. Lê Thị Thanh Hà, Viện Triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh,;
Cổng thông tin điện tử “ Bộ Tài chính”; “Quan điểm của C. Mác về mối quan hệ giữa
kinh tế và chính trị.”

5. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
1996, tr. 71

6. Văn kiện Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII, Nxb. Chính trị
quốc gia, Hà Nội, 1997, tr. 38

7. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà
Nội, 2016, tr. 84, 193 - 194

21

You might also like