You are on page 1of 87

PHẦN B: NỘI DUNG ĐỀ TÀI

CHƯƠNG 1: LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN ĐÈN CHIẾU SÁNG TRÊN


Ô TÔ

1.1 KHÁI QUÁT:

Theo các số liệu thống kê ngày nay, mặc dù công nghệ chiếu sáng trên xe hơi đã
phát triển rất nhiều, và hầu hết các tuyến đường đều đã được trang bị đèn đường chiếu
sáng, tăng độ an toàn cho xe lưu thông vào ban đêm nhưng tỉ lệ số vụ tai nạn xe vào ban
đêm lên đến 40 % trong khi mật độ xe lưu thông vào ban đêm chỉ bằng 1/5 mật độ xe
lưu thông vào ban ngày, chính vì những đòi hỏi phải tăng tính an toàn cho người điều
khiển xe vào ban đêm mà công nghệ chiếu sáng trên xe đã rất được quan tâm và chú
trọng nghiên cứu, phát triển.

Ai cũng thấy được tầm quan trọng của đèn chiếu sáng trên xe hơi khi vận hành
trong bóng tối. Ra đời đồng thời với xe hơi, đèn pha đã trải qua 120 năm lịch sử từ
những chiếc khổng lồ cổ lỗ tới Bi-Xenon hay LED ngày nay.

Bắt đầu từ chiếc đèn thuở sơ khai có cấu tạo khổng lồ đến những chiếc Bilux (hai
bóng) hình parabol của thập niên 1950-1960, đèn pha đã cải thiện đến 85% hiệu quả
chiếu sáng. Sau đó là sự xuất hiện của đèn cốt (low-beam) chiếu sáng trong khoảng 100
m và đèn Bi-Xenon với khoảng cách quan sát an toàn 180 m hiện nay. Lịch sử đèn pha
bắt đầu cùng thời với xe hơi khi Gottlieb Daimler và Karl Benz giới thiệu chiếc xe hơi
đầu tiên năm 1886. Qua từng giai đoạn, do yêu cầu đòi hỏi khác nhau của thực tế khi lái
xe vào ban đêm, trong thời tiết xấu, các đèn pha liên tục được cải tiến và phát triển với
nhiều loại khác nhau.

1.2 ĐÈN XE TRƯỚC THỜI KỲ SỬ DỤNG ĐÈN ĐIỆN:

Chiếc xe hơi đầu tiên được ra đời vào năm 1886, cùng thời đó thì Thomas
Edinson cũng chỉ mới phát minh ra bóng đèn sợi đốt, tuy nhiên bóng đèn sợi đốt
lúc đó không được sử dụng để chiếu sáng trên xe hơi vì nguồn điện để thắp sáng bóng
đèn là Accu thì lại không đáp ứng được về dung lượng trong khi máy phát điện một
chiều còn quá cồng kềnh và chưa được ứng dụng trên xe hơi. Vì vậy vào những năm
cuối thế kỷ 19 người ta muốn lái xe ra đường vào ban đêm thì phải mang theo những
chiếc đèn lồng, đèn măng sông, … là những chiếc đèn được sử dụng để thắp sáng trong
nhà. Tuy nhiên những chiếc đèn này với ánh sáng leo lét không thể đáp ứng về chiếu
sáng cho xe. Vì vậy những nhà sản xuất xe hơi và những nhà khoa học đã bắt tay nghiên
cứu các loại đèn có khả năng chiếu xa và vùng chiếu rộng để lắp đặt trên xe.

Ban đầu người ta đã nghĩ ra cách hướng chùm ánh sáng về phía trước mặt đường
bằng cách sử dụng các gương cầu mà ngày nay phát triển thành chóa đèn, tạo ra những
chùm ánh sáng song song, vì vậy cải thiện đáng kể khả năng chiếu xa.

Ngoài các loại đèn nến thông thường, tài xế còn sử dụng đèn xăng và
acetylene để chiếu sáng con đường phía trước được xa hơn. Đèn pha sử
dụng acetylene được biết đến nhiều hơn so với các các đèn dùng khí carbua
(đất đèn) bởi chúng ít tốn kém hơn. Với đèn sử dụng khí carbua, người ta phải
đốt 35 lít gas để thắp sáng đèn trong một giờ. Các nhà sản xuất thường lắp một bình
chứa khí gas bên ngoài xe để mọi người không phải ngửi mùi khó chịu của carbua.

Ngay từ những năm đầu tiên của lịch sử đèn pha, một vấn đề luôn ám ảnh những
nhà chế tạo xe hơi đến tận ngày nay, đó là khi họ cố gắng tạo loại đèn pha có khả năng
chiếu sáng càng xa càng tốt thì nó có thể gây lóa mắt cho tài xế đi trên xe ngược chiều.
Để tránh hiện tượng này, năm 1908 các nhà thiết kế đã đưa ra ý tưởng hạ thấp ngọn lửa
acetylene ra khỏi tiêu điểm ống kính mỗi khi gặp xe ngược chiều bằng cách sử dụng sợi
dây điều khiển. Mặc dù cách làm này được ứng dụng nhanh chóng nhưng tương lai cho
đèn pha acetylene không còn. Xe hơi ngày một nhanh hơn khiến đèn gas trở nên lỗi
thời.

Hình 1.1: Đèn carbua gắn trên xe đạp


1.3 ĐÈN SỢI ĐỐT ĐƯỢC SỬ DỤNG VÀ PHỔ BIẾN TRÊN XE HƠI: (thời kỳ 1910 –
1960)

Với sự phát triển của bóng đèn sợi tóc và sự ra đời các loại máy phát điện gọn nhẹ
có thể nắp đặt trên xe hơi thì vào năm 1910 các loại bóng đèn sợi tóc đầu tiên được sử
dụng để chiếu sáng trên xe hơi.

Năm 1913, công ty điện Bosch, Đức, đã có cách tiếp cận hợp lý đối với vấn đề này
và đưa ra sản phẩm "Bosch Light". Đây là hệ thống tích hợp đèn pha, máy phát điện
một chiều và bộ điều chỉnh để tránh gây phiền phức cho khách hàng nếu mua các phần
tử rời rạc. Tuy nhiên, vẫn xuất hiện những tranh cãi xung quanh đèn pha sử dụng điện
hiện đại và các đèn pha thế hệ cũ sử dụng gas. Một giải pháp mới là kết hợp đèn pha
chạy bằng nhiên liệu với đèn pha điện. Các loại đèn pha này cùng tồn tại cho đến sau
chiến tranh thế giới lần thứ nhất. Năm 1920, điện chiếm ưu thế không chỉ trong đèn pha
mà còn trong cả công nghệ chế tạo xe hơi.

• Đèn cốt (low - beam) ra đời cũng trong thời kỳ này:


Lái xe trong đêm vẫn bị ảnh hưởng bởi vấn đề rất cũ là gây chói mắt của những
chiếc xe đi ngược chiều. Các kỹ sư đã cố gắng rất nhiều nhằm giải quyết vấn đề này
bằng cách sử dụng thiết bị chống lóa mắt và tìm ra phương pháp lắp đặt đèn pha. Hai
đèn chiếu riêng biệt với hai chùm ánh sáng mang lại hiệu quả cao hơn (pha và cốt).

• Bóng đèn bilux - giải pháp tất cả trong một:


Năm 1924, chuyên gia về đèn Osram đưa ra giải pháp kỹ thuật mới nhằm giảm
chói mắt cho xe đi ngược chiều là dùng bóng đèn có hai sợi đốt, kết hợp cả chùm pha và
cốt trên cùng một gương phản xạ. Thay vì phải dùng 2 nguồn sáng với hai chóa đèn
riêng biệt cho 2 chế độ chiếu xa và chiếu gần.

• Đèn cốt không đối xứng - sáng hơn phía bên phải:
Năm 1957, đèn cốt không đối xứng xuất hiện. Loại đèn này có cường độ sáng cao
hơn phía bên tay phải, nơi hay có người đi bộ và xe đạp mà lái xe thường rất khó phát
hiện trong đêm. Và được chính quyền Đức chính thức công nhận việc sử dụng đèn cốt
không đối xứng trên xe ôtô.

1.4 ĐÈN HALOGEN RA ĐỜI VÀ ĐƯỢC SỬ DỤNG PHỔ BIẾN TRÊN XE HƠI (thời kỳ
1960 – 1990):
Hình 1.2: Đèn Hallogen

Chỉ một vài năm sau, ngành công nghiệp ôtô chứng kiến sự xâm nhập và chiếm ưu
thế của đèn sử dụng khí halogen (gồm các khí Flo, Clo). Một trong những ưu điểm lớn
nhất của công nghệ này là hiệu quả chiếu sáng và tuổi thọ làm việc cao. Trong khi đó,
đối với các đèn sợi đốt thông thường, kim loại bốc hơi từ các sợi đốt tập trung trên bề
mặt kính làm xám đen. Khí Halogen có tác dụng làm hạn chế sự bốc hơi của kim loại từ
sợi đốt làm cho bóng đèn trở nên sáng. Ngoài ra nó cũng giúp đốt nóng sợi đốt một cách
mạnh mẽ và cho nguồn ánh sáng tốt hơn.

• Đèn pha chiếu ánh sáng từ các thấu kính:


Công nghệ chiếu sáng tiếp tục được phát triển xa hơn bằng giải pháp thay đổi hình
dạng của đèn pha và gương phản xạ. Đầu những năm 1960, các đèn pha hình chữ nhật
bắt đầu xuất hiện trên đường phố. Năm 1983, đèn pha đánh dấu sự phát triển mang tính
quyết định nhờ cách thức chiếu ánh sáng lên trên mặt đường theo nguyên lý của các đèn
slide. Sự khác nhau mang tính quyết định nằm ở gương phản xạ. Nó không phải là một
gương parabol mà là gương ellipsoid với ba trục chuyển động nên tạo ra nhiều ánh sáng
hơn.

Đèn pha chiếu tạo ra một chùm sáng dạng nón với một điểm hội tụ xác định rất
gần với bề mặt phản xạ. Các thấu kính thông thường sẽ được thay thế bằng các thấu
kính hội tụ với một vùng chỉ vài cm2 tập trung chùm sáng.

Các nhà thiết kế xe hơi rất ngạc nhiên với công nghệ đèn pha mới. Ngay lập tức họ
thiết kế các đèn pha cực kỳ gọn nhẹ và cực mỏng với các kính hội tụ đặt nghiêng. Các
đèn pha dùng phương pháp chiếu này mang đến nhiều ưu điểm như sự phân bố ánh
sáng, giảm một cách đáng kể sự lóa do sương mù, mưa và tuyết.
1.5 ĐÈN XENON RA ĐỜI VÀ ĐƯỢC SỬ DỤNG PHỔ BIẾN TRÊN XE HƠI (thời kỳ
1990 – nay):

Hình 1.3: Bộ đèn xenon và bộ tăng áp

Năm 1991 đèn pha Xenon ra đời. Nguồn sáng của đèn này gồm khí Xenon và một
lượng nhỏ muối kim loại. Bằng cách sử dụng bộ tăng áp (Ballast) tạo ra những xung
ngắn với điện áp lên đến 28.000 Volt, các quầng plasma sẽ xuất hiện giữa các cực của
đèn. Đèn Xenon được sử dụng từ năm 1995 và bắt đầu thay thế các bóng đèn sợi đốt
thông thường. Ưu điển lớn nhất của Xenon là chúng chỉ tiêu thụ 35 W nhưng lại có
cường độ ánh sáng gấp 2 lần so với những chiếc đèn halogen công suất 55W.

• Đèn BI - Xenon ra đời:

Hình 1.4: Công nghệ chiếu sáng Bi -Xenon


Khi đèn Xenon ra đời người ta lại phải sử dụng bộ đèn chiếu có 2 choá, một choá
cho đèn pha và một choá cho đèn cốt, vì Xenon chỉ có một tim.

Vào năm 1998 bóng đèn Xenon 2 chế độ Pha – cốt xuất hiện, cũng tương tự như
bóng đèn 2 tim, đèn Xenon 2 chế độ pha cốt bố trí 2 bóng đèn Xenon sát nhau nhưng 2
tim đèn đặt được bố trí lệch nhau, nên ánh sáng phát ra từ các tim đèn này qua phản xạ
của gương cầu cho những luồng sáng có góc chiếu khác nhau.

Một kiểu Xenon 2 chế độ Pha – Cốt khác là sử dụng một bóng đèn Xenon, nhưng
vị trí tim đèn của bóng đèn Xenon có thể thay đổi dịch chuyển được, dịch ra ở vị trí
ngay tiêu cự cho chế độ pha, và thụt vào ở vị trí sau tiêu cự cho chế độ cốt, vì vậy nó
được gọi thông dụng là đèn Xenon thụt thò.

Dưới đây là hình minh hoạ của một loại xenon “thụt thò” như vậy

Hình 1.5: Vị trí tim đèn Xenon thay đổi ở các chế độ pha – cốt khác nhau

Sự ra đời của đèn Xenon, Bi - Xenon đánh dấu một bước ngoặt mới của lịch sử
phát triển đèn xe, gắn với sự ra đời của đèn Xenon, thời kì này các nhà sản xuất đưa ra
nhiều phát minh để tăng tính tiện ích, an toàn và hiệu quả chiếu sáng của đèn xe.
Hình 1.6: Bộ đèn Bi – Xenon của xe Audi Avant

• Công nghệ đèn pha với tiêu điểm biến đổi:

Một trong những điểm mới trong công nghệ xe hơi xuất hiện năm 1995 với cặp
đèn pha đôi. Đèn pha đôi được thiết kế riêng rẽ hai chức năng pha và cốt cho phép các
gương phản xạ có thể định dạng một cách tối ưu nhất theo từng nhiệm vụ cụ thể của
chúng.

Máy tính giúp các gương có thể định dạng với trường chiếu sáng lớn nhất và sự
phân bố ánh sáng tối ưu. Máy tính chia bề mặt của gương phản xạ thành hàng nghìn
phần tử gương nhỏ xíu, gương sẽ chuyển động xung quanh và định hình lại cho đến khi
nào có được một vị trí tối ưu nhất. Điều này tạo ra nguồn sáng tốt hơn và chiếu sáng xa
hơn.

1.6 ĐÈN PHA CÔNG NGHỆ ĐI-ỐT PHÁT QUANG LED

Trong những năm gần đây công nghệ đèn pha ôtô ra đời loại đèn pha sử dụng công
nghệ đi-ốt phát quang LED.
Hình 1.7: Đèn pha sử dụng LED

Tuổi thọ lên tới 100 nghìn giờ, có thể sử dụng với nguồn điện công suất nhỏ, hoạt
động tốt trong mọi điều kiện thời tiết, tiết kiệm điện năng là những ưu điểm của đèn
LED.

Đèn LED an toàn hơn khi sử dụng do có điện thế thấp (đèn LED chỉ 3 volt), hiệu
quả tiết kiệm năng lượng cao hơn theo tính toán cùng một thời gian sử dụng mức tiêu
thụ điện ít hơn gần 10 lần so với đèn thường, thân thiện hơn đối với môi trường trong
quá trình phát sáng lượng nhiệt tỏa ra rất thấp.

Đèn LED (Light emitting diodes - đèn đi-ốt phát quang) đang trở nên phổ biến
dưới vai trò đèn pha hoặc đèn hậu.

Hình 1.8: Đèn pha (trái) và đèn hậu (phải) dạng mành của Hella tại Frankfurt

Ưu điểm của nó là khối lượng nhẹ, tuổi thọ cao, cường độ sáng lớn và rất thời
trang. Ánh sáng của LED khá lạnh (mang ít nhiệt) nên những chiếc xe thiết kế dựa vào
LED thường mang dáng vẻ trừu tượng, viễn tưởng và huyền bí.

● Đèn pha thông minh sử dụng công nghệ công nghệ Đi-ốt phát quang
Hệ thống chiếu sáng chủ động AFS (Adaptive Front Lighting System), có khả
năng điều khiển chùm sáng đèn pha theo góc lái, đã được biết tới với công nghệ đèn
thông minh chiếu sáng chủ động trên đèn pha Bi - Xenon tự xoay. Tuy nhiên, hầu hết
các hệ thống AFS hiện thời sử dụng một nguồn sáng nên khi vào cua, phần ngược với
hướng rẽ không được chiếu sáng và đó là một trong những nhược điểm quan trọng nhất.

Hệ thống AFS mới với công nghệ đèn Led nhờ sự nhỏ gọn của những bóng đèn
Led dễ dàng bố trí đã tích hợp hai nguồn sáng độc lập: Một bóng đèn halogen công suất
cao có chức năng sinh chùm sáng chính giống như trên các dòng xe thông dụng và đèn
này không thay đổi theo góc cua. Nguồn sáng thứ hai là hàng đèn đi-ốt phát quang
LED, chịu trách nhiệm chiếu sáng tức thời, nghĩa là chỉ bật khi xe chuẩn bị vào cua.
Dàn đèn LED hoạt động theo nguyên lý của công nghệ AFS và hướng các chùm sáng
đều nhau tới bề mặt đường.

Hình 1.9: Công nghệ đèn LED thông minh trên chiếc Volkswagen Golf V

CHƯƠNG 2: TỔNG QUAN VỀ HỆ THỐNG CHIẾU SÁNG – TÍN


HIỆU TRÊN XE
2.1 KHÁI QUÁT VỀ HỆ THỐNG ĐÈN CHIẾU SÁNG VÀ HỆ THỐNG ĐÈN
TÍN HIỆU TRÊN XE

Phân loại các loại đèn sử dụng trên xe gồm có các loại đèn chiếu sáng và đèn tín
hiệu, thông báo.

a. Hệ thống đèn chiếu sáng tín hiệu bao gồm các đèn xi nhan sử dụng khi báo rẽ hoặc
báo nguy, đèn kích thước để báo kích thước xe, đèn phanh báo khi đạp phanh, …

b. Hệ thống đèn chiếu sáng: Bao gồm các đèn đầu gồm đèn chiếu gần và đèn chiếu xa
được sử dụng để chiếu sáng vào ban đêm đáp ứng được khả năng quan sát cho người lái
xe. Các yêu cầu về chiếu sáng của đèn đầu như: Cường độ chiếu sáng, vùng chiếu sáng,
góc chiếu sáng, giới hạn chiếu sáng sẽ được nói rõ ở phần sau. Ngoài ra chế độ flash của
đèn đầu được dùng như đèn báo tín hiệu cho người lái xe ngược chiều. Bên cạnh đó
còn có đèn sương mù để chiếu sáng khi thời tiết có nhiều sương mù, …

Hệ thống chiếu sáng và tín hiệu có các bộ phận sau đây:

1. Đèn đầu, đèn sương mù phía trước

2. Cụm đèn phía sau, đèn sương mù phía sau

3. Công tắc điều khiển đèn và độ sáng: Công tắc đèn xi nhan, công tắc đèn sương
mù phía trước và phía sau

4. Đèn xi nhan và đèn báo nguy

5. Công tắc đèn báo nguy hiểm

6. Bộ nhấp nháy đèn xi nhan

7. Cảm biến báo hư hỏng đèn

8. Relay tổ hợp

9. Cảm biến điều khiển đèn tự động

10. Công tắc điều khiển góc chiếu sáng đèn đầu

11. Bộ chấp hành điều khiển góc chiếu sáng đèn đầu

12. Đèn trong xe

13. Công tắc cửa

14. Đèn chiếu sáng khoá điện.


Hình 2.1: Vị trí của các bộ phận trong hệ thống chiếu sáng và tín hiệu

2.2 TỔNG QUAN HỆ THỐNG CHIẾU SÁNG

2.2.1 Hệ thống đèn đầu:

Hệ thống đèn đầu là hệ thống đèn chiếu sáng cơ bản, là hệ thống quan trọng nhất
trong các hệ thống đèn trên xe, với các nhiệm vụ đảm bảo điều kiện lái xe cho người
điều khiển vào ban đêm, đảm bảo an toàn giao thông. Hệ thống đèn đầu phải có những
thông số kỹ thuật theo những tiêu chuẩn nhất định, đảm bảo cường độ sáng lớn nhưng
không làm chóa mắt người đi ngược chiều, công suất chiếu sáng khi chiếu gần là 35 –
40W, chiếu xa là từ 45 – 70W, ở chế độ chiếu gần vùng chiếu sáng là từ 50 – 75m, chiếu
xa từ 180 – 250m.

2.2.1.1 Tổng quan các loại bóng đèn đầu:

a. Bóng đèn dây tóc:


Hình 2.2: Bóng đèn loại dây tóc

Cấu tạo bóng đèn dây tóc gồm vỏ bóng đèn làm bằng thủy tinh, bên trong có chứa
dây điện trở volfram. Dây volfram khi được đặt vào một mức điện áp nhất định và được
nung nóng lên đến nhiệt độ 23000C sẽ sinh ra luồng ánh sáng trắng. Ở nhiệt độ thấp hơn
ánh sáng sinh ra sẽ yếu hơn, và ngược lại nhưng nếu cung cấp điện áp đặt vào hai đầu
dây volfram lớn quá điện áp định mức, nhiệt độ điện trở volfram quá lớn làm cho dây
volfram bốc hơi nhanh gây hiện tượng đen bóng đèn và đốt cháy dây tóc, dây tóc bị đứt.
Trong bóng đèn người ta hút hết không khí ra để tạo môi trường chân không hạn chế
hiện tượng oxy hóa dây điện trở volfram làm dây volfram dễ bị đốt cháy.

Để dây tóc bóng đèn đầu có thể phát sáng ở nhiệt độ cao hơn, có thể đặt vào bóng
đèn một điện áp cao hơn, người ta bơm vào bóng đèn khí trơ Argon với áp suất thấp.
Với cách này cường độ chiếu sáng của bóng đèn đầu sẽ tăng thêm được khoảng 40%.

b. Bóng đèn halogen:

Thạch anh
Dây tóc tim c ốt

Phần che
Dây tóc tim pha

Hình 2.3: Bóng đèn halogen

Với bóng đèn dây tóc trong quá trình hoạt động để sinh ra ánh sáng thì dây điện trở
volfram phải được nung nóng lên đến 2300 0C điều này làm dây tóc bay hơi và bị đốt
cháy. Sự bay hơi của dây tóc làm vỏ thủy tinh bị đen làm giảm cường độ chiếu sáng.
Dây điện trở bị đốt cháy làm giảm tuổi thọ của bóng đèn.

Với sự ra đời của bóng đèn halogen sẽ khắc phục được hiện tượng bay hơi của dây
volfram làm đen bóng thủy tinh và nâng cao tuổi thọ nhờ dây Volfram không bị bay hơi.
Đèn halogen chứa khí halogen như iode hoặc brôm, các chất khí này là chất xúc tác cho
quá trình thăng hoa ở dây volfram; khí halogen kết với volfram bay hơi ở dạng khí
thành iodur volfram, hỗn hợp khí này không bám vào thủy tinh như đèn dây tóc bình
thường khi bị nung nóng đến nhiệt độ bay hơi mà sự thăng hoa sẽ mang hỗn hợp iodur
volfram trở về vùng khí nhiệt độ cao xung quanh tim đèn (ở nhiệt độ cao trên 1450 0C)
lúc đó nó sẽ tách lại thành 2 chất: Volfram bám trở lại tim đèn và các phần tử khí
halogen được giải phóng trở về dạng khí, tiếp tục khi nhiệt độ dây volfram lại được
nung nóng đến nhiệt độ bay hơi nó sẽ tiếp tục kết hợp với halogen thăng hoa và sau đó
volfram lại trở lại tim đèn, quá trình này lặp lại liên tục. Điều này không chỉ ngăn chặn
sự đổi màu bóng đèn mà còn giữ cho tim đèn luôn hoạt động ở điều kiện tốt trong một
thời gian dài.

Vỏ bóng đèn halogen được làm từ thạch anh nhờ vậy nó có thể chịu được nhiệt độ
cao và áp suất rất cao từ 5 – 7 bar, nhiệt độ vỏ bóng đèn halogen phải hoạt động được ở
nhiệt độ cao hơn 2500C. Ở nhiệt độ này khí halogen mới bốc hơi. Sử dụng đèn halogen
có cường độ sáng, tuổi thọ cao hơn bóng đèn dây tóc thường và dây tóc bóng đèn
halogen có thể được chế tạo có đường kính nhỏ hơn so với các bóng đèn dây tóc vì vậy
có thể điều chỉnh tiêu cự bóng đèn dễ dàng chính xác hơn.

c. Đèn Xenon:

Hình 2.4: Bóng đèn Xenon

• Nguyên lý hoạt động:


Nguyên lý hoạt động của đèn Xenon giống như hiện tượng sét phóng điện xảy ra
trong tự nhiên khi trời mưa. Những tia sét phóng điện giữa những đám mây tích điện và
bề mặt trái đất sinh ra những luồng ánh sáng cường độ cao trong không trung, đây là ý
tưởng manh nha cho những nhà chế tạo nảy ra ý tưởng sản xuất ra đèn Xenon có thể
sinh ra ánh sáng cường độ cao thay thế cho những thế hệ đèn dây tóc và halogen ngày
càng trở nên già cỗi.

Năm 1992, nhà sản xuất bóng đèn xe hơi hàng đầu thế giới Hella giới thiệu bóng
đèn Xenon đầu tiên, sản xuất theo công nghệ phóng điện cường độ cao - High Intensity
Discharge (HID). Đèn xenon lúc này chủ yếu chỉ dùng cho chế độ đèn cốt, vì bóng đèn
Xenon chỉ có một chế độ không giống như đèn sợi tóc có thể có hai tim, chóa đèn dùng
cho đèn xenon phải có chóa đèn pha và chóa đèn cốt riêng biệt.

Năm 1999, đèn Bi – Xenon ra đời khắc phục được khuyết điểm này của đèn
Xenon, nó có thể tạo ra ánh sáng pha và cốt từ một luồng ánh sáng, phát ra ánh sáng
giống nhau cho pha và cốt. Tiết kiệm năng lượng hơn.

• Về cấu tạo:

- Đèn Xenon theo nguyên lý phóng điện cường độ cao giữa hai bản cực để sinh ra luồng
sáng vì vậy không có dây điện trở volfram như đèn sợi đốt và đèn halogen, thay vào đó
là hai bản điện cực đặt trong ống huỳnh quang, ống huỳnh quang này bên trong có chứa
khí Xenon hoàn toàn tinh khiết, thủy ngân và các muối kim loại halogen. Khi đóng
nguồn điện đặt vào hai đầu của hai điện cực này một điện áp lớn hơn điện áp đánh
thủng (lớn hơn 25000 V) xuất hiện sẽ xảy ra hiện tượng phóng điện giữa các bản cực do
các hạt electron phóng ra va đập với các nguyên tử kim loại của bản đối diện giải phóng
năng lượng tạo ra ánh sáng. Sự phóng điện cũng kích thích các phân tử khí trơ Xenon
lên mức năng lượng cao, sau khi bị kích thích các phân tử khí Xenon sẽ giải phóng năng
lượng để trở về trạng thái bình thường, bức xạ ra ánh sáng theo định luật bức xạ điện từ.
Màu của ánh sáng phát ra (hay bước sóng của bức xạ) phụ thuộc vào mức độ chênh lệch
năng lượng của electron và vào tính chất hóa học của muối kim loại được dùng trong
bầu khí Xenon. Vỏ đèn Xenon được làm từ thủy tinh thạch anh có thể chịu được nhiệt
độ và áp suất rất cao.
- Do sự phóng điện sinh ra luồng sáng chỉ xảy ra giữa các bản cực đèn Xenon khi đặt vào
nó một điện áo cao trên 25000 V nên để có thể tạo ra được điện thế cao như vậy, hệ
thống cần có một bộ khởi động (ignitor). Ngoài ra, để duy trì tia hồ quang, một chấn lưu
(ballast) sẽ cung cấp điện áp khoảng 85 V trong suốt quá trình đèn hoạt động, đây vừa là
bộ xử lý của đèn Xenon vừa làm nhiệm vụ tăng áp cho bóng đèn.

Hình 2.5: Sơ đồ cấu tạo của đèn Xenon

• Ánh sáng của đèn Xenon phát ra:

Tùy thuộc vào tính chất hóa học của loại muối kim loại chứa bên trong mà ánh
sáng của đèn Xenon phát ra cũng khác nhau. Độ Kelvin và Lumens là 2 đại lượng đặc
trưng cho màu sắc (độ trắng) và độ sáng của đèn sẽ phát ra.
Hình 2.6: Dãy màu mà đèn Xenon phát ra

- Ở 4300 K đèn tạo ra khoảng 3100 Lm, nó tạo ra lượng ánh sáng nhiều hơn gấp 3 lần của
loại đèn Halogen và tạo ra nhiệt độ màu sáng nhất, ánh sáng có màu trắng hoàn toàn và
sẽ chuyển sang hơi vàng nhạt khi phản xạ đồng nhất trên đường. Loại đèn này được
dùng ở trên các loại xe sử dụng nhiều về đêm và đi đường đồi núi nhằm tối ưu tầm nhìn.

- Ở 6000 K đèn tạo ra khoảng 2900 Lm, nó tạo ra lượng ánh sáng nhiều hơn gấp 3 lần của
loại đèn Halogen và mỏng hơn so với ở 4300 K. Mặc dù phát ra ánh sáng ít hơn, nhưng
phát ra ánh sáng trắng hơn với màu xanh nhạt.

- Ở 8000 K đèn tạo ra khoảng 2500 Lm, nó tạo ra lượng ánh sáng nhiều hơn gấp 3 lần của
loại đèn Halogen và mỏng hơn và phát ra ánh sáng ít hơn đồng thời xanh hơn so với ở
6000 K. Đây là một trong những màu được lựa chọn sử dụng ở trên xe.

- Ở 10000 K đèn tạo ra khoảng 2300 Lm, nó tạo ra lượng ánh sáng nhiều hơn gấp 2 lần
của loại đèn Halogen. Ở 10000 K phát ra dãy ánh sáng xanh thẩm đến tím sau đó
chuyển sang xanh đậm hơn so với 8000 K.

- Ở 12000 K đèn tạo ra khoảng 2000 Lm, nó tạo ra lượng ánh sáng nhiều hơn gấp 2 lần
của loại đèn Halogen. Đây là nhiệt độ màu có màu xanh thẩm tím và màu đậm hơn so
với 10000 K. Sản phẩm này được được khách hàng sử dụng vì phát ra ánh sáng tối ưu
và lạ mắt nhất.

• Các loại chân đế bóng đèn Xenon:

Chân đế tiêu chuẩn của loại đèn này có dạng tròn là D2S, D2R hoặc dạng chân đế
vuông là D1S, D1R. Trong đó:

- D2S: Là loại bóng dùng cho các chóa đèn có màng chắn lóa (ký tự S lấy từ chữ shield -
tấm chắn) và có thấu kính giúp gom ánh sáng không làm chói xe lưu thông ngược chiều.
Hình 2.7: Cấu tạo chóa và bóng đèn D2S

- D2R: Là loại bóng có sẵn màng chắn dùng cho các chóa đèn chỉ có mặt phản xạ (ký tự
R lấy từ chữ reflector - vật phản xạ). Có 1 lớp màu đen, để ngăn ánh sáng trực tiếp làm
chói mắt xe ngược chiều.

Hình 2.8: Cấu tạo chóa và bóng đèn D2R

- D1S: Là loại bóng dùng cho các chóa đèn có màng chắn lóa và có thấu kính giúp gom
được nhiều ánh sáng hơn (được tích hợp bộ khởi động).

Hình 2.9: Cấu tạo bóng đèn D1S

- D1R: Là loại bóng có sẵn màng chắn dùng cho các chóa đèn chỉ có mặt phản xạ. Có 1
lớp màu đen, để ngăn ánh sáng trực tiếp làm chói mắt xe ngược chiều (được tích hợp bộ
khởi động).
Hình 2.10: Cấu tạo bóng đèn D1R

Đối với từng loại bóng đèn thì bộ ballast sẽ được thiết kế riêng phù hợp để phù
hợp với từng loại chân đế.

Hình 2.11: Ballast đèn D1 Hình 2.12: Ballast đèn D2

• Phương pháp lắp ráp đối với từng loại bóng đèn:

- Đối với bóng D2:

- Đối với bóng D1:

Hình 2.13: Sơ đồ kết nối 2 loại đèn D2 và D1với Ballast

• Lợi ích của đèn Xenon:


- Đầu tiên, tuổi thọ của đèn Xenon cao gấp 10 lần đèn halogen và đèn sợi đốt, do dây
điện trở volfram của đèn halogen và sợi đốt rất dễ đứt do bị va đập hoặc hao mòn trong
quá trình sử dụng, còn đèn Xenon chỉ đơn giản gồm hai bản cực phóng điện, được cố
định bởi lớp vỏ thạch anh, chỉ có thể hư nếu bóng đèn bị vỡ. Trung bình đèn halogen chỉ
có thời gian sử dụng từ 300 – 1000 giờ, còn đèn Xenon là 3000 giờ.

- Thứ hai là ánh sáng do đèn Xenon sinh ra là loại ánh sáng trắng xanh rất giống ánh sáng
ban ngày trong khi đèn halogen chỉ sinh ra ánh sáng màu vàng, điều này có ý nghĩa giúp
người điều khiển xe dễ dàng quan sát khi lái xe với hình ảnh thật hơn, rõ nét hơn. Vì
vậy với công nghệ sinh ra luồng sáng cường độ cao (HID) đặc biệt có ý nghĩa tăng tính
an toàn khi lái xe ban đêm.

- Theo các nghiên cứu để có thể phản ứng và xử lý các chướng ngại vật khi đang lái xe
với tốc độ 100km/h người lái xe phải quan sát được các tín hiệu giao thông trước đó 70
m, vì vậy để đảm bảo an toàn chúng ta cần ít nhất 2,5 giây để phản xạ trước các biến cố
xảy ra trên đường. Đèn Xenon với chùm ánh sáng dài, tầm quan sát rộng có thể đáp ứng
được những yêu cầu này.

- Một ưu điểm nữa của đèn Xenon là tiết kiệm năng lượng hơn so với đèn sợi đốt do
không phải tốn năng lượng để đốt nóng dây tóc nên tiêu thụ chỉ bằng 1/3 so với đèn sợi
đốt, đèn halogen. Mà cường độ sáng lại cao hơn gấp 2 - 3 lần, một bóng Xenon 35 W
cho độ sáng tương đương bóng halogen 100 W.

Hình 2.14: Hiệu quả của hai loại đèn trên đường
Hãng Hella đã có một bước phát triển xa hơn. Từ năm 1999, hệ thống đèn Bi-
Xenon được sử dụng, nó có thể sinh ra tia sáng cốt và pha từ cùng một nguồn sáng.
Thuận lợi là tiêu thụ năng lượng giảm hơn nữa mở ra những khả năng mới cho các nhà
thiết kế, phát ra ánh sáng giống nhau cho pha và cốt.

• Mạch nguyên lý hoạt động đèn Xenon:

Hình 2.15: Sơ đồ khối hệ thống đèn Xenon

Hình 2.16: Mạch điện điều khiển đèn đầu Xenon

- Hoạt động của bộ ECU điều khiển đèn:

ECU điều khiển đèn (bộ Ballast) là bộ điều khiển điện tử trung tâm của các bóng
đèn phóng điện cao áp, bộ Ballast thực hiện việc điều khiển tối ưu dòng điện cung cấp
cho các bóng đèn để đảm bảo cường độ đèn phát sáng liên tục, ổn định. Cung cấp dòng
khởi động với cường độ và điện áp cao, đảm bảo đèn khởi động nhanh. Bộ Ballast còn
được trang bị chức năng an toàn để ngăn chặn ảnh hưởng của điện áp cao.

- Hoạt động của chức năng an toàn bộ ECU điều khiển đèn:

ECU điều khiển đèn xác định được các sai hỏng xảy ra và kích hoạt chức năng an
toàn theo các điều kiện sau đây.

+ Tự ngắt nếu điện áp đặt vào bộ ballast không nằm trong khoảng điện áp hoạt động (9 -
16V), và tự đóng trở lại nếu điện áp hoạt động được điều chỉnh lại nằm trong vùng điện
áp hoạt động.

+ Tự động ngắt điện nếu điện áp ra sai hoặc đèn cao áp nhấp nháy.Nếu xảy ra hiện tượng
này trước tiên phải kiểm tra những hư hỏng trong đường dây và cầu chì sau đó thay đèn
cao áp nếu vẫn không sáng thì phải thay bộ Ballast.

+ Ngắt điện nếu không có bóng đèn hay bóng đèn cao áp cháy: Nếu không có bóng đèn
hay đèn cao áp cháy thì mạch điện không được khép kín, bộ Ballast sẽ nhận biết được
và tự động ngắt điện.

2.2.1.2. Cấu tạo chóa đèn:

Chức năng của gương phản chiếu là định hướng lại các tia sáng, tia sáng phát ra từ
bóng đèn sau khi phản xạ qua chóa đèn sẽ tạo ra chùm tia sáng song song đưa tia sáng
đi rất xa từ đầu xe, nhờ vậy mà đèn chiếu sáng được khoảng cách lên đến 300m.

Gương phản chiếu thường có hình dạng parabol, bề mặt được đánh bóng và tráng
gương (sơn lên một lớp vật liệu phản xạ như bạc hay nhôm). Để chùm tia phản xạ sau
khi qua chóa đèn là chùm tia song song thì dây tóc đèn phải được đặt ở vị trí chính xác
ngay tiêu điểm của chóa đèn. Nếu tim đèn đặt ở các vị trí ngoài tiêu điểm sẽ làm tia
sáng đi lệch hướng, có thể làm lóa mắt người điều khiển xe ngược chiều.

Trên các loại xe đời mới ngày nay thường sử dụng loại chóa đèn có hình chữ nhật,
loại chóa đèn này bố trí gương phản chiếu theo phương ngang, nó có tác dụng tăng vùng
sáng theo chiều rộng và giảm vùng sáng phía trên gây lóa mắt người đi xe ngược chiều.
Hình 2.17: Chóa đèn hình chữ nhật

Cách bố trí tim đèn được chia làm 3 loại: loại tim đèn đặt trước tiêu cự, loại tim
đèn đặt ngay tiêu cự và tim đèn đặt sau tiêu cự.

Hình 2.18: Cách bố trí tim đèn

Khác với cách bố trí dây tóc ở đèn pha, dây tóc ở đèn cốt gồm có dạng thẳng được
bố trí phía trước tiêu cự của chóa đèn, hơi cao hơn trục quang học và song song với trục
quang học, bên dưới có miếng phản chiếu nhỏ ngăn không cho các chùm ánh sáng phản
chiếu làm loá mắt người đi xe ngược chiều. Dây tóc ánh sáng cốt có công suất nhỏ hơn
dây tóc ánh sáng pha khoảng 30-40%. Hiện nay miếng phản chiếu nhỏ bị cắt phần bên
trái một góc 150, nên phía phải của đường được chiếu sáng rộng và xa hơn phía trái.

Đèn chiếu sáng hiện nay có 2 hệ là: Hệ châu Âu và hệ Mỹ.

a. Hệ châu Âu:

Hình 2.19: Đèn hệ châu Âu

Hình dạng loại đèn thuộc hệ Châu Âu thường có hình tròn, hình chữ nhật hoặc
hình tứ giác. Các đèn này thường có in số “2” trên kính. Ưu điểm của đèn kiểu Châu Âu
là có thể thay đổi được loại bóng đèn và thay đổi cả các loại thấu kính khác nhau phù
hợp với đường viền ngoài của xe.

Đối với hệ này thì hai dây tóc ánh sáng xa và gần có hình dạng giống nhau và đều
được bố trí ngay tại tiêu cự của chóa đèn, nhưng dây tóc ánh sáng xa được đặt tại tiêu
điểm của chóa đèn, dây tóc ánh sáng gần nằm lệch phía trên mặt phẳng trục quang học
để cường độ chùm tia sáng phản chiếu xuống dưới mạnh hơn.

b. Hệ Mỹ:

Hình 2.20: Đèn hệ Mỹ

Đèn kiểu Mỹ luôn luôn có dạng hình tròn, đèn đuợc chế tạo theo kiểu bịt kín vì
vậy không thể thay thế được các loại thấu kính đèn, kể cả khi chúng cùng một loại.

Hiện nay hệ Mỹ còn sử dụng hệ chiếu sáng gồm 4 đèn cùng bật một lúc khi ở chế
độ đèn pha, hai đèn phía trong (chiếu xa) lắp bóng đèn một dây tóc với công suất 37,5W
ở vị trí trên tiêu cự của chóa, hai đèn phía bên ngoài lắp bóng đèn hai dây tóc, một dây
tóc chiếu xa, một dây tóc chiếu gần, dây tóc chiếu sáng xa có công suất 35,7W nằm tại
tiêu cự của chóa, dây tóc chiếu sáng gần 50W lắp ngoài tiêu cự của chóa. Như vậy khi
bật ánh sáng xa thì 4 đèn sáng với công suất 150W, khi chiếu gần thì công suất là 100W.
2.2.1.3. Sơ đồ và hoạt động của một số loại mạch điện hệ thống đèn trên xe:

Mạch điện hệ thống đèn trên xe chia làm hai loại chính: Loại có sử dụng relay cho
các công tắc đèn đầu, công tắc chuyển pha-cốt, và loại không sử dụng relay.

a. Loại không sử dụng relay:

Hình 2.21: Hệ thống đèn đầu không có relay điều khiển

• Chế độ chiếu gần: (Low- Beam)

Khi công tắc điều khiển đèn ở vị trí HEAD và công tắc điều chỉnh pha-cốt ở vị trí
Low, có dòng điện đi từ ⊕ accu  dây đèn cốt của bóng đèn đầu  chân low của công
tắc chuyển pha-cốt  mass. Đèn cốt sáng.

• Chế độ chiếu xa: (High – Beam)

Khi công tắc điều khiển đèn ở vị trí HEAD đồng thời công tắc pha-cốt ở vị trí High
thì sẽ có dòng điện đi từ ⊕ accu  dây pha của bóng đèn đầu  chân High của công tắc
chuyển pha cốt  mass, đồng thời có dòng điện từ ⊕ accu  đèn báo pha trên bảng táp -
lô  mass. Đèn pha và đèn báo pha sáng.

• Chế độ Flash:
Khi công tắc điều chỉnh pha - cốt ở vị trí flash, có dòng từ ⊕ Accu  dây pha của
bóng đèn đầu đồng thời có dòng  đèn báo pha ở táp - lô  chân flash của công tắc pha -
cốt  mass. Đèn báo pha và đèn pha sáng.

b.Loại sử dụng relay:

• Sơ đồ công tắc điều khiển đèn loại dương chờ :

Hình 2.22: Sơ đồ công tắc điều khiển đèn đầu loại dương chờ

• Hoạt động:

Khi bật công tắc LCS (Light Control Switch) ở vị trí Tail: Sẽ có dòng điện đi từ:
⊕ accu  cuộn dây realy W1  chân A2  chân A11  mass,  đóng tiếp điểm 2,3. Cho
dòng ⊕ accu  cọc 2,3  cầu chì tail  đèn tail mass, đèn đờmi sáng.

Khi bật công tắc LCS sang vị trí HEAD thì mạch đèn đờmi vẫn sáng bình
thường, đồng thời có dòng từ: ⊕ accu  W2  A13  A11  mass, relay đóng 2 tiếp điểm
3’ và 4’

- Nếu công tắc điều chỉnh pha – cốt ở vị trí LOW sẽ có dòng qua tiếp điểm 3’ và 4’  dây
cốt của bóng đèn đầu, về chân A3  A9  mass. Đèn cốt sáng.

- Nếu công tắc điều chỉnh pha – cốt ở vị trí HIGH, sẽ có dòng qua tiếp điểm 3’ và 4’ dây
pha của bóng đèn đầu, về chân A12  AA9  mass, đèn pha sáng. Lúc này đèn báo pha
trên táp-lô sáng được là nhờ dây cốt của bóng đèn đầu lúc này đóng vai trò như một dây
dẫn đưa dòng điện đến đèn báo pha (với công suất rất nhỏ (<5 W) và về mass.

- Khi bật công tắc ở chế độ Flash: Sẽ có dòng qua cuộn dây W2 qua chân A14 công tắc
pha – cốt về mass, đóng tiếp điểm 4’,3’ cho dòng điện từ dương accu qua tiếp điểm
4’,3’ qua dây HIGH bóng đèn đầu về chân A12 của công tắc pha-cốt và về mass, lúc này
đèn báo pha cũng sáng như chế độ HIGH.

Ta có thể dùng relay 5 chân để thay cho công tắc chuyển đổi pha cốt, nếu vậy thì
công tắc sẽ bền hơn vì lúc này dòng qua công tắc là rất bé phải qua cuộn dây của relay.

• Sơ đồ công tắc điều khiển đèn loại âm chờ

Hình 2.23: Sơ đồ mạch điều khiển đèn kiểu âm chờ

Tương tự hoạt động của loại sơ đồ mạch điện hệ thống đèn chiếu sáng loại dương
chờ có relay:

- Khi công tắc đèn đầu bật, sẽ có dòng qua cuộn dây relay W2  chân A2 công tắc đèn
đầu  mass, đóng tiếp điểm 3,4.

- Khi công tắc chuyển đổi pha-cốt ở vị trí LOW, tiếp điểm 4,5 của relay pha - cốt đóng,
cho dòng điện đến dây Low của bóng đèn đầu  mass, đèn cốt sáng.

- Khi công tắc chuyển đổi pha - cốt ở vị trí HIGH, có dòng qua cuộn dây relay W3  chân
A12 của công tắc pha - cốt  mass, đóng tiếp điểm 3,4 relay pha-cốt, cho dòng qua tiếp
điểm 3,4  dây High của bóng đèn đầu  mass, đèn pha sáng, đồng thời có dòng qua
đèn báo pha  mass, đèn báo pha trên táp - lô sáng.

- Ở chế độ Flash: Tiếp điểm 3,4 của relay đèn đầu đóng do có dòng  cuộn dây relay W2
 chân A14 công tắc chuyển pha-cốt về mass, tiếp điểm 3,4 của relay pha - cốt đóng do
có dòng  cuộn dây relay pha - cốt W3  chân A12 của relay điều khiển pha - cốt về
mass, cho dòng điện đến dây HIGH của bóng đèn đầu  mass, đèn pha sáng, đồng thời
đèn báo pha trên táp - lô cũng hoạt động như chế độ bật đèn pha.

2.2.2 Hệ thống đèn hậu:

Giống như hệ thống đèn đầu, đèn hậu cũng có hai loại bao gồm hệ thống đèn hậu
có sử dụng relay và hệ thống đèn hậu không sử dụng relay:
Hình 2.24: Hệ thống đèn hậu

• Loại không sử dụng relay:

Khi công tắc điều khiển đèn được vặn về vị trí “TAIL”, thì các đèn hậu bật sáng.

• Loại có sử dụng relay đèn hậu:

Khi công tắc điều khiển đèn vặn về vị trí “TAIL”, có dòng điện đi qua cuộn dây
của relay đèn hậu, đóng tiếp điểm relay, cung cấp dòng điện đến các bóng đèn tail. Đèn
tail sáng.

2.2.3 Hệ thống đèn sương mù:

Bao gồm đèn sương mù phía trước và đèn sương mù phía sau

2.2.3.1. Đèn sương mù phía trước (Fog lamps):

Trong điều kiện sương mù, nếu sử dụng đèn đầu chính có thể tạo ra vùng ánh sáng
chói phía trước gây trở ngại cho các xe đối diện và người đi đường. Nếu sử dụng đèn
sương mù sẽ giảm được tình trạng này. Dòng cung cấp cho đèn sương mù thường được
lấy sau relay đèn kích thước.

• Nguyên lý hoạt động của đèn sương mù phía trước:

Đèn sương mù phía trước hoạt động khi công tắc điều khiển đèn ở vị trí TAIL hoặc
HEAD. Khi công tắc đèn sương mù phía trước được bật ON, sẽ có dòng điện đi qua
cuộn dây relay đèn sương mù phía trước, đóng tiếp điểm relay đèn sương mù, có dòng
điện qua bóng đèn sương mù phía trước, đèn sương mù phía trước bật sáng.

Hình 2.25: Hoạt động của hệ thống đèn sương mù trước

2.2.3.2. Đèn sương mù phía sau (Rear fog guard):

Đèn này dùng để báo hiệu cho các xe phía sau nhận biết trong điều kiện tầm nhìn
hạn chế. Dòng cung cấp cho đèn này được lấy sau đèn cốt (Dipped beam). Một đèn báo
được gắn vào tableau để báo hiệu cho tài xế khi đèn sương mù phía sau hoạt động.

• Nguyên lý hoạt động của đèn sương mù phía sau :

Đèn sương mù phía sau cũng hoạt động khi công tắc điều khiển đèn ở vị trí TAIL
hoặc HEAD giống như đèn sương mù phía trước.
Hình 2.26: Hoạt động của hệ thống sương mù sau

2.3 TỔNG QUAN HỆ THỐNG TÍN HIỆU:

2.3.1 Hệ thống đèn xinhan có công tắc hazard rời:

Hình 2.27: Mạch điện hệ thống đèn xi nhan có công tắc hazard rời

Mạch điện hệ thống đèn xinhan bao gồm bộ nháy Flasher, bộ công tắc xinhan và
công tắc báo nguy Hazard.

- Khi bật công tắc xi nhan, lúc này công tắc Hazard phải ở bật Off, sẽ có dòng điện từ
công tắc máy đến bộ Flasher do chân B1 thông với chân F trong công tắc Hazard, chân
L của bộ nháy Flasher được đấu đến công tắc xinhan, tùy vào công tắc xinhan lúc đó bật
Off hay turn left, turn right mà sẽ có dòng điện đến cung cấp cho các bóng đèn xinhan
trái hoặc phải hay không.

- Khi công tắc xi nhan bật On, sẽ có dòng điện từ Accu đến bộ Flasher do chân F thông
với chân B2, trong công tắc Hazard, mặt khác các chân TB, TL, TR, R1 cũng thông với
nhau đưa tín hiệu Hazard từ chân L đến các bóng đèn xinhan, bóng đèn kích thước.

2.3.2 Hệ thống đèn xi nhan có công tắc hazard tổ hợp:

Hình 2.28: Mạch điện hệ thống đèn xi nhan có công tắc hazard tổ hợp

Khi công tắc xi nhan bật Off, dòng điện từ công tắc máy qua chân G1, G3 đến bộ
Flasher phát tín hiệu Flash chờ ở đó.

Khi công tắc xinhan bật On (Righ hay Left) tín hiệu flash từ chân L bộ Flasher đến
chân G4 rồi qua chân G6 đến các bóng đèn xinhan bên phải (nếu bật Righ) hoặc qua
chân G5 đến các bóng đèn xinhan bên trái (nếu bật Left).

2.3.3 Hệ thống đèn xi nhan điều khiển tích hợp:

a. Nguyên lý hoạt động của mạch đèn xi nhan điều khiển tích hợp:

Ở mạch đèn xinhan điều khiển tích hợp không có bộ nháy Flasher mà thay vào đó
là một IC điều khiển, vừa phát ra tín hiệu Flash vừa lấy tín hiệu công tắc xinhan và công
tắc Hazard để điều khiển đóng mở các relay, bật tắt các bóng đèn xinhan.
Để tránh trường hợp người lái xe vì bất cẩn phát tín hiệu hướng báo rẽ sai, do công
tắc xinhan bật không đúng cũng như quên tắt công tắc xinhan, người ta bố trí các đèn
LED báo rẽ trái và phải trên táp – lô, các đèn LED báo rẽ này được mắc song song với
các bóng đèn xi nhan nhờ vậy các đèn LED này sẽ sáng lên khi ta bật công tắc xinhan
trái hay phải tương ứng. Ngoài ra một số xe có trang bị thêm IC nhạc phát ra âm thanh
khi bật công tắc xinhan.

Hình 2.29: Mạch điện hệ thống đèn xinhan điều khiển bằng bộ tích hợp

Hoạt động của mạch điện hệ thống cảnh báo đèn xinhan được hoạt động như sau:

Mạch điện gồm một IC điều khiển, 2 transistor điều khiển và 2 relay đèn xinhan.

b.Rẽ sang trái :

Khi công tắc đèn xi nhan bật Turn Left, cực EL của IC xử lý tín hiệu báo rẽ được
tiếp đất, IC điều khiển sẽ phát tín hiệu dẫn transistor điều khiển relay rẽ trái, đóng tiếp
điểm relay, cấp dòng điện từ +B qua tiếp điểm relay trái qua các bóng đèn xinhan trái và
qua bóng đèn báo rẽ xinhan trái trên táp – lô, các bóng đèn xinhan trái sáng, và đèn báo
rẽ trái trên táp – lô cũng sẽ sáng.

c. Rẽ sang phải:

Khi công tắc đèn xinhan bật Turn Right, cực ER của IC xử lý tín hiệu báo rẽ được
tiếp đất, IC điều khiển sẽ phát tín hiệu dẫn transistor điều khiển relay rẽ phải, đóng tiếp
điểm relay, cấp dòng điện từ +B qua tiếp điểm relay phải qua các bóng đèn xinhan phải
và qua bóng đèn báo rẽ xinhan phải trên táp – lô, các bóng đèn xinhan phải sáng, và đèn
báo rẽ phải trên táp – lô cũng sẽ sáng.
Nếu một bóng đèn xinhan bị cháy, thì IC điều khiển sẽ phát ra tần số nhấp nháy nhiều
lên để thông báo cho người lái biết.

d. Bật công tắc Hazard:

Khi bật công tắc Hazard, cực EHW của IC điều khiển được tiếp mát. IC điều khiển
phát tín hiệu dẫn cả hai transistor điều khiển relay trái và phải. Dòng điện từ + B qua
các tiếp điểm relay đi tới cả hai cực LL và LR và tất cả các đèn xinhan và đèn báo rẽ
đều sáng.

CHƯƠNG 3: GIỚI THIỆU HỆ THỐNG ĐÈN THÔNG MINH

Những năm gần đây cùng với sự phổ biến rộng rãi của đèn Xenon, hệ thống đèn
chiếu sáng góc cua đã dần được đưa vào sử dụng trên các xe đời mới.

Xuất phát từ thực tế, người ta tìm cách khắc phục hiện tượng thiếu ánh sáng khi xe
vào cua hoặc chạy trên những con đường khúc khuỷu, khi đó đèn chiếu sáng thông
thường không đảm nhận được việc chiếu sáng ở những góc gần bên phải hoặc bên trái
của chiếc xe, tình trạng cũng tương tự khi người ta chạy trên những cung đường hẹp và
không thẳng .... Việc thường xuyên đối mặt với những vùng tối đột ngột xuất hiện trước
mũi xe làm cho người lái cực kỳ căng thẳng, khả năng gây tai nạn cũng cao đơn giản là
do không kịp nhìn thấy mặt đường trong các khúc quanh tối tăm. Các nhà sản xuất đã
tìm ra các giải pháp để thay đổi vùng chiếu sáng của xe tùy theo điều kiện đường xá,
tiêu biểu là các hệ thống đèn liếc tĩnh và đèn liếc động được trình bày dưới đây.

3.1 HỆ THỐNG ĐÈN LIẾC TĨNH

3.1.1 Giới thiệu hệ thống:

Hình 3.1: Hiệu quả chiếu sáng đối với hệ thống đèn liếc tĩnh

Hệ thống đèn liếc tĩnh, thực chất của nó là bố trí nguồn sáng phụ bên cạnh đèn cốt
thông thường, nguồn sáng phụ này có nhiệm vụ chiếu sáng góc cua khi xe vào cua mà
vùng sáng của đèn cốt không chiếu tới, như trên hình vẽ bên trên, vùng sáng
Abblendlicht là vùng sáng phụ của đèn chiếu sáng góc cua được bố trí bên cạnh đèn cốt.

Việc bật tắt đèn chiếu sáng góc cua được dựa vào 3 yếu tố để đảm bảo rằng, đèn
này chỉ được kích hoạt khi vào cua gấp hoặc rẽ phải, rẽ trái, 3 yếu tố đó là:

- Góc đánh tay lái

- Tình trạng của đèn Signal (bật hoặc tắt)

- Tốc độ xe chạy

Giới thiệu các chế độ hoạt động của đèn chiếu sáng góc cua chủ động tĩnh.

Hình 3.2: Đèn chiếu sáng Hình 3.3: Đèn chiếu sáng góc
góc cua tắt khi đi cua sẽ bật lên cùng với
thẳng đèn xi nhan
So
Hình 3.4: Đèn chiếu sáng góc Hình 3.5: Cả hai đèn chiếu sáng
với hệ cua tự động bật lên khi ôm góc cua sẽ bật lên khi
thống cua với tốc độ dưới 40 gặp sương mù hay lùi xe chiếu
Km/h
sáng góc
cua động thì hệ thống chiếu sáng góc cua tĩnh có ưu điểm hơn ở chỗ vùng chiếu sáng
của hệ thống chiếu sáng góc cua tĩnh có góc chiếu rộng hơn. Một ưu điểm khác làm cho
hệ thống chiếu sáng góc cua tĩnh trở nên thông dụng hơn là giá thành thấp hơn và nó có
thể lắp thêm cho những xe đời cũ hoặc những xe không trang bị hệ thống chiếu sáng
góc cua một cách dễ dàng, chỉ cần thay thế đèn sương mù trên xe bằng hai đèn chiếu
sáng góc cua và lắp đặt bộ điều khiển cùng các cảm biến, giắc cắm, … Nhưng nhược
điểm của hệ thống này là chiếu sáng không linh hoạt bằng hệ thống chiếu sáng góc cua
động.

Hiện trên thị trường có nhiều loại xe cao cấp được trang bị bộ đèn chiếu sáng góc
cua tĩnh, tiêu biểu là các hãng xe của Đức như BMW, MERCEDES, …dưới đây là chiếc
BMW thuộc 3 serie E 46 được trang bị đèn liếc tĩnh của Hella.
Hình 3.6: Đèn liếc tĩnh bố trí trên xe và các chế độ hoạt động

Trên thị trường Việt Nam, sản phẩm đèn liếc tĩnh Hella Dyna View EVO 2 của nhà
sản xuất Hella đang được phân phối rộng rãi với giá bán lẻ là 760$.

Đây là bộ đèn liếc tĩnh được lắp thêm cho những xe không trang bị hệ thống đèn
chiếu sáng góc cua.

Hình 3.7: Hệ thống đèn chiếu sáng góc cua tĩnh

của Hella – Hella Dyna view EVO2

Hệ thống DynaView Evo2 bao gồm hai bộ đèn chiếu sáng, Bộ điều khiển trung
tâm IntelliBeam, các cảm biến, hệ thống dây nối, phụ kiện lắp đặt.
Với sự phát triển của công nghệ bán dẫn, các nhà sản xuất cũng đang có xu hướng
sử dụng đèn led siêu sáng như hình thức sử dụng đèn chiếu phụ bổ sung luồng sáng khi
xe vào cua.

Hình 3.8: Công nghệ đèn LED thông minh trên chiếc Volkswagen Golf V
3.1.2 Nguyên lý điều khiển hệ thống đèn liếc tĩnh:

Hình 3.9: Hệ thống đèn liếc tĩnh của hãng Hella

Cấu tạo chung của một hệ thống đèn liếc tĩnh bao gồm:

- 2 đèn chiếu sáng góc cua được bố trí cạnh đèn cốt.

- Bộ điều khiển trung tâm.

- Các cảm biến.

Hệ thống đèn chiếu sáng góc cua tĩnh được điều khiển bởi bộ điều khiển trung tâm,
bộ điều khiển trung tâm này lấy tín hiệu từ các cảm biến góc bẻ lái, cảm biến tốc độ, và
tín hiệu đèn xi nhan, tự động nhận dạng các điều kiện vận hành của xe và sẽ bật đèn
chiếu sáng góc cua để bổ sung cho đèn cốt. Cụ thể hơn, bộ điều khiển trung tâm sẽ ngay
lập tức kích hoạt đèn chiếu sáng góc cua khi bật công tắc đèn xi nhan (công tắc xi nhan
bên trái bật thì đèn kích hoạt đèn chiếu sáng góc cua bên trái và tương tự khi bật công
tắc xi nhan bên phải) hoặc khi xe chạy dưới 40km/h, bộ điều khiển trung tâm sẽ kích
hoạt các đèn chiếu sáng góc cua khi vào cua với góc cua gấp (cua xe bên nào thì đèn
chiếu sáng góc cua bên đó được kích hoạt). Bộ điều khiển trung tâm sẽ liên tục nhận các
tín hiệu cảm biến đưa về và xử lý để điều khiển đáp ứng về điều kiện chiếu sáng, vùng
chiếu sáng của xe sẽ luôn chủ động theo góc cua của điều kiện đường xá.

Khi sử dụng hệ thống đèn chiếu sáng góc cua, việc bật tắt đột ngột các đèn chiếu
sáng góc cua có thể làm loá mắt hoặc làm “giật mình” người điều khiển xe đối diện khi
các vùng sáng của đèn chiếu sáng góc cua bất ngờ xuất hiện, để tránh hiện tượng này, hệ
thống chiếu sáng góc cua sử dụng hệ thống đệm dimme, điều khiển việc sáng - tắt của
các đèn chiếu sáng góc cua một cách từ từ, ánh sáng của đèn chiếu sáng góc cua dần
tăng và dần giảm trong ít giây thời gian.

Trong điều kiện thời tiết xấu, đèn chiếu sáng góc cua cả hai bên có thể được bật
lên để trở thành đèn sương mù, tạo ra tầm quan sát tối ưu. Thêm vào đó, khi cài số lùi
thì đèn cả hai bên sẽ được bật lên để chiếu sáng dọc theo thân xe.

3.2 HỆ THỐNG ĐÈN CHIẾU SÁNG GÓC CUA ĐỘNG

3.2.1 Giới thiệu hệ thống:

Khác với hệ thống đèn liếc tĩnh, với hệ thống đèn liếc động, để thay đổi vùng chiếu
sáng người ta chỉ cần sử dụng một nguồn sáng (không sử dụng thêm đèn chiếu phụ như
hệ thống đèn chiếu sáng góc cua tĩnh), nói rõ hơn là thay vì khi vào cua thì bật thêm đèn
chiếu phụ bổ sung ánh sáng theo góc cua thì người ta sử dụng chính nguồn sáng của
bóng đèn cốt để làm điều này. Đèn cốt thay đổi vùng chiếu sáng theo góc cua, như hình
minh họa dưới đây:
Vùng sáng xe có Vùng sáng xe không

đèn liếc động có đèn liếc động

Hình 3.10: Sự khác biệt của xe có trang bị đèn liếc động,

khi đi trên cung đường cong.

Với hệ thống đèn liếc động sự thay đổi vùng chiếu sáng có mức độ liếc uyển
chuyển hơn hệ thống đèn liếc tĩnh, và có thể kích hoạt ở những cung đường hơi cong,
cũng như chuyển làn, làm cho việc sử dụng đèn liếc hoàn hảo hơn một cách rõ rệt ...

Sở dĩ sử dụng nguồn sáng của bóng đèn cốt để thay đổi vùng chiếu theo góc cua là
vì với cung đường cong thường người ta chỉ sử dụng đèn cốt và ngược lại nếu sử dụng
đèn pha mà sự thay đổi vùng chiếu sáng không kịp thời có thể làm ảnh hưởng đến tầm
quan sát của người đi ngược chiều.

Việc thay đổi vùng chiếu sáng của đèn cốt được thực hiện dựa vào 2 tín hiệu để
đảm bảo rằng ánh sáng đèn cốt thay đổi theo cung đường và thay đổi kịp thời:

- Tín hiệu cảm biến góc lái.

- Tín hiệu cảm biến tốc độ.


Hình 3.11: Vùng chiếu sáng đèn cốt thay đổi khi xe chạy trên cung đường cong

Hệ thống đèn chiếu sáng góc cua động chỉ có thể thay đổi góc của vùng chiếu sáng
150 qua mỗi bên, chính vì vậy hiệu quả lớn nhất của hệ thống này là khi xe chạy trên
những cung đường cong (với góc thay đổi 15 0 qua mỗi bên là đã đáp ứng được cho các
cung đường có độ cong lớn), còn khi xe rẽ trái hoặc rẽ phải thì vùng chiếu sáng của hệ
thống đèn liếc động chưa đáp ứng được. Hiện nay người ta phối hợp cả hệ thống đèn
liếc động và liếc tĩnh trên xe, hệ thống liếc động được kích hoạt trên những cung đường
cong, còn hệ thống đèn liếc tĩnh chỉ được kích hoạt khi xe rẽ trái hoặc phải, hoặc trên
những cung đường có bán kính cong nhỏ. Vấn đề này được nói rõ hơn ở mục sau.

Hình 3.12: Góc điều chỉnh của đèn liếc động

đủ cho các cung đường có độ cong gắt.


Hệ thống đèn liếc động còn chưa được phổ biến lắm trên trị trường, hiện tại nó
được lắp trên các xe đời mới hạng sang, vì giá thành còn khá cao.

Ở Việt Nam, hệ thống đèn liếc động chỉ được thấy trên các xe nhập khẩu nguyên
chiếc hạng sang, các dòng xe lắp ráp tại Việt Nam đều chưa được trang bị hệ thống này.
Lý do một phần là ở Việt Nam vấn đề an toàn cho người sử dụng chưa được quan tâm
đúng mức mà đặt trên hết là giảm giá thành để tiếp cận người tiêu dùng cũng như mục
đích lợi nhuận của các hãng nên các hệ thống an toàn tiêu chuẩn cho người lái xe ở các
nước phát triển như Air Bag, ABS, AFS… còn ít được thấy, hoặc chỉ thấy trên các dòng
xe hạng sang cho giới thượng lưu.

Hình 3.13: Hệ thống đèn liếc động được trang bị trên xe Lesux.

3.2.2 Nguyên lý điều khiển đèn chiếu sáng góc cua động:

Nhìn chung cấu tạo cơ cấu chấp hành của hệ thống đèn liếc động phức tạp và đa
dạng, người ta đưa ra nhiều giải pháp để có thể thay đổi góc chiếu sáng của bóng đèn
cốt, nhưng tiêu biểu hiện nay là loại dựa trên hiện tượng khúc xạ ánh sáng. Dưới đây
trình bày cấu tạo về loại hệ thống chiếu sáng góc cua động tiêu biểu đó.

Hệ thống đèn liếc động loại này gồm phần dẫn động của cơ cấu đảo tròng hoạt động
nhờ một động cơ Servo, động cơ servo này điều khiển vùng chiếu sáng của đèn pha dao
động 150 chuyển góc sang mỗi bên, tùy theo góc thay đổi vôlăng.
Hình 3.14: Cấu tạo hệ thống đèn liếc động

Bản chất là một cụm Xenon được bố trí thêm các cơ cấu dẫn động gồm một động
cơ servo và các cơ phận khác để dịch chuyển hướng của ống chiếu sáng, dẫn đến thay
đổi góc chiếu sáng.

Với mục đích phổ thông hóa hệ thống đèn liếc động, người ta thiết kế nhiều loại
cơ cấu đèn liếc động đơn giản có tính lắp lẫn cao.

Hình 3.15: Các modul cơ cấu đèn liếc động lắp thêm

Các cơ cấu đèn liếc động này độc lập với nguồn sáng được sử dụng, bất luận
Xenon, Bi - Xenon hay Halogen vì vậy ta có thể lắp thêm các cơ cấu đèn liếc động cho
các hệ thống đèn đầu chưa trang bị hệ thống đèn liếc, các cơ cấu đèn liếc ngày nay được
cung cấp rời với vài hệ tiêu chuẩn cụ thể cho từng dòng xe, nhờ vậy đa phần có thể tự
trang bị thêm hệ thống đèn liếc mà không cần chiếc xe phải có những thay đổi nghiêm
trọng.

Cấu tạo cơ cấu chấp hành của hệ thống đèn liếc động tuy đa dạng nhưng đều sử
dụng động cơ servo để dẫn động nên việc điều khiển cơ cấu chấp hành nhìn chung cũng
là điều khiển động cơ Servo dựa trên các tín hiệu cảm biến góc cua và cảm biến tốc độ.

Về hệ thống điều khiển của hệ thống đèn liếc động tương tự như hệ thống đèn liếc
tĩnh, bộ điều khiển trung tâm nhận các tín hiệu từ cảm biến góc cua và cảm biến tốc độ,
phân tích các giá trị góc cua và tốc độ lái xe để xác định góc điều chỉnh vùng chiếu sáng
và tốc độ đáp ứng, đưa tín hiệu điều chỉnh motor servor theo các góc xác định về các
bên trái hoặc phải tuỳ theo góc cua.

Với những tính toán phù hợp dựa trên giá trị tốc độ tức thời, Đèn liếc động có tốc
độ liếc nhanh hay chậm hoàn toàn thích ứng với tốc độ xe chạy, khi ôm cua nhanh, đèn
liếc nhanh, khi chạy chậm thì đèn liếc chậm, nhờ đó, đối với người lái, nguồn sáng luôn
luôn như gắn chặt với chiếc xe, cố định và hài hòa.

3.2.3 Cơ sở tính toán góc điều chỉnh vùng chiếu sáng:

Tính toán hiệu quả chiếu sáng khi sử dụng hệ thống chiếu sáng góc cua động
khi xe đi trên cung đường có bán kính cong R:
Hình 3.16: Điều chỉnh góc chiếu sáng theo cung đường

Ở hình minh họa phía trên, ta thấy rằng với xe không có trang bị hệ thống chiếu
sáng góc cua động thì vùng chiếu sáng của nó là vùng áng sáng trắng như trên hình vẽ,
vùng chiếu sáng này chỉ thích hợp khi xe chạy thẳng theo phương ngang của xe, còn với
cung đường có bán kính cong R như trên hình thì nó chỉ chiếu sáng được khoảng cách
30m, với khoảng quan sát như vậy người lái sẽ không kịp phản ứng và xử lý chướng
ngại vật. Nhờ hệ thống chiếu sáng góc cua động, tự nhận biết bán kính cong của cung
đường, nó điều chỉnh vùng chiếu sáng của bóng đèn đi một góc γ, góc γ này tương
đương bằng với góc δ hợp bởi tiếp tuyến của cung đường với phương ngang của xe.
Nhờ vậy tầm quan sát của người lái được tăng thêm 25m như trên hình (55m so với
30m). Với tầm quan sát tăng thêm 25m này người lái xe sẽ có thêm 1,5s để quan sát và
xử lý chướng ngại vật nếu lúc đó xe chạy với tốc độ 60km/h.

Tính toán góc điều chỉnh vùng chiếu sáng khi xe đi trên cung đường có bán
kính cong R:

Như đã nói, điều chỉnh góc chiếu sáng để nhắm đến mục đích sao cho vùng chiếu
sáng luôn bám theo cung đường xe chạy và chiếu sáng được khoảng quan sát an toàn
của người lái (khoảng cách đủ để ngưới điều khiển xe nhận biết chướng ngại vật và
phản ứng kịp thời, đảm bảo an toàn).

Việc điều chỉnh góc chiếu sáng là tuỳ thuộc vào bán kính cong của cung đường xe
đang chạy, khi xe đang chạy trên đường thẳng thì bán kính cong của cung đường lúc đó
là vô cùng, nên góc điều chỉnh là 0 0. Xe chạy trên cung đường có bán kính cong càng
nhỏ thì góc điều chỉnh vùng chiếu sáng càng phải lớn.

Nhờ một cảm biến lực ly tâm được bố trí trên xe, đi kèm với hệ thống đèn liếc
động nên có thể xác định được bán kính cong của cung đường một cách dễ dàng. Dựa
trên quan hệ giữa giá trị của lực ly tâm với bán kính cong cung đường và vận tốc xe
chạy lúc đó.

Từ bán kính cong của cung đường xác định giá trị góc quay vòng của xe như sau:
Hình 3.17: Tính toán góc cua vòng α, β

Theo tính toán thiết kế trong Ô tô, để xe quay vòng không trượt thì 2 bánh xe phải
có cùng tâm quay vòng (tâm O, như hình vẽ phía dưới) thoả mãn biểu thức quan hệ giữa
các góc quay vòng của 2 bánh xe: cotg β – cotg α = B/L.

Bán kính quay vòng R của xe cũng chính là bán kính của cung đường xe chạy.

Vậy với bán kính cong của cung đường bằng quan hệ hình học ta hoàn toàn có thể
xác định được giá trị góc quay vòng α, β của 2 bánh xe theo điều kiện xe quay vòng
không trượt khi biết được chiều dài cơ sở và bề rộng của xe :

L L
B B
R+ R−
2 2
( tg α = ; tg β = ).

Việc điều chỉnh góc chiếu sáng được lấy tín hiệu theo góc quay vòng β của bánh
xe phía bên trong. Góc quay vòng β của bánh xe bên trong tuỳ theo góc đánh lái nhưng
chỉ nằm trong khoảng (0; 330) đối với xe du lịch. Hệ thống đèn liếc động được kích hoạt
chỉ khi góc quay vòng β của bánh xe bên trong lớn hơn 5 0, và góc điều chỉnh vùng chiếu
sáng thay đổi theo giá trị của góc β. Khi góc góc quay vòng β của bánh xe bên trong đạt
giá trị 200 thì góc điều chỉnh vùng chiếu sáng là lớn nhất.

Như vậy hoàn toàn có thể xác định giá trị điều chỉnh góc chiếu sáng khi biết được
bán kính cong của cung đường.

Điều chỉnh góc chiếu sáng theo tốc độ của xe:


Để người quan sát luôn có từ 3 - 4s để quan sát và xử lý chướng ngại vật thì ứng
với tốc độ xe chạy nhanh đèn sẽ “liếc” nhanh hơn, xe chạy chậm đèn “liếc” chậm hơn,
tức là phải thay đổi tốc độ quay của motor servor theo dải tốc độ xe. Việc tính toán tốc
độ điều chỉnh được tính toán dựa trên khả năng đáp ứng về tốc độ của motor servor.

3.3 XU HƯỚNG PHÁT TRIỂN CỦA HỆ THỐNG CHIẾU SÁNG CHỦ ĐỘNG

Hệ thống chiếu sáng chủ động (adaptive front lighting system – AFS) nằm trong
lĩnh vực an toàn chủ động đang được rất quan tâm và chú trọng nghiên cứu, ứng dụng
nhằm cải thiện mức độ thân thiện, an toàn và tăng tính tiện ích cho người lái xe. Giảm
thiểu tối đa khả năng rủi ro mà người điều khiển xe có thể gặp phải vì những lí do khách
quan do quan sát hạn chế vào ban đêm, giúp người lái xe không phải quá căng thẳng khi
lái xe ban đêm do phải quan sát tập trung cao độ và liên tục.

Đối với hệ thống chiếu sáng góc cua hiện nay, người ta bố trí cả hệ thông đèn
chiếu sáng góc cua tĩnh và đèn chiếu sáng góc cua động, 2 hệ thống này bổ khuyết cho
nhau, hệ thống đèn liếc tĩnh thì đáp ứng tốt đòi hỏi về vùng chiếu sáng khi xe rẽ trái
hoặc phải, còn hệ thống đèn liếc động đáp ứng tốt vùng chiếu sáng khi xe ôm cua một
cách uyển chuyển, linh động.
Hình 3.18: Xe bố trí cả hệ thống chiếu sáng góc cua tĩnh và động.

Trong khái niệm hệ thống chiếu sáng chủ động hiện nay không chỉ đơn thuần là
thay đổi vùng chiếu sáng chủ động theo góc cua. Các nhà sản xuất hướng tới chiếu sáng
chủ động là phải tương thích, điều chỉnh luồng sáng theo điều kiện đường xá, không chỉ
về góc cua, mà cả về không gian xe đang chạy.

Nhờ việc sử dụng một hệ thống thấu kính có thể thay đổi dịch chuyển tâm sáng từ
nguồn tới thấu kính và sắp xếp hệ thống chắn sáng, nguồn sáng trong ôtô còn có thể
điều chỉnh gần xa, tỏa rộng hay thu hẹp, tăng hay giảm cường độ sáng, việc điều khiển
các chế độ chiếu sáng dựa trên các tín hiệu tốc độ, góc lái, tải trọng… mà các cảm biến
đưa về mạch điều khiển, mạch điều khiển sẽ xư lý thông tin và phát các tín hiệu điều
khiển các cơ cấu chấp hành theo các chương trình lập trình sẵn.

Dưới đây là các chế độ xe chạy trong điều kiện địa hình đường xá khác nhau:

- Trong điều kiện xe chạy trên đường nông thôn: Mặc dù mật độ phương tiện giao thông
không đông đúc nhưng do tình trạng đường xá xấu và không có hệ thống chiếu sáng
giao thông nên hệ thống chiếu sáng chủ động - AFS điều chỉnh luồng ánh sáng mở rộng
về hai bên, cường độ sáng tương đối lớn.

Hình 3.19: Xe có sử dụng hệ thống AFS

và không sử dụng AFS ở đường nông thôn

- Trong điều kiện xe chạy trong thành phố, mật độ xe đông đúc, khoảng cách giữa các
thành phần giao thông gần nhau, nhiều cua hẹp, gãy khúc, hệ thống AFS điều chỉnh ánh
sáng ngoài việc chuyển hướng thì còn phải hạ thấp, mở rộng về hai bên, cường độ sáng
vừa phải:
Hình 3.20: Ngoài việc chiếu sáng theo các ngõ rẽ trong thành phố…

Hình 3.21: …Vùng chiếu sáng phải mở rộng về hai bên và hạ thấp

- Khi xe chạy trên xa lộ: Lúc này xe có tốc độ cao đèn phải hoạt động ở một chế độ khác:
chiếu xa hơn vì yêu cầu về tầm nhìn xa hơn, mạnh hơn vì xe chạy trong không gain tối
hơn, nhưng phải hạ tầm sáng bên phía đối diện để không làm chói xe chạy ngược chiều,
không ảnh hưởng người vượt bên trái.

Hình 3.22: Trên đường xa lộ

Ngày nay với sự phát triển của kỹ thuật định vị toàn cầu, các nhà sản xuất đang
tính tới việc kết hợp hệ thống định vị với hệ thống chiếu sáng, tức là: hệ thống định vị
với các bản đồ chi tiết được cài đặt sẽ xác định chính xác tình trạng cung đường người
lái đã chọn, bao gồm cả các ngã rẽ hay cua vòng, kết hợp với tốc độ xe đang chạy, hệ
thống điều khiển sẽ thay đổi, đáp ứng vùng chiếu sáng tùy theo điều kiện địa hình và sự
thay đổi này nhanh chậm là tùy theo tốc độ của xe.

Việc sử dụng hệ thống định vị toàn cầu sẽ cho phép xe chiếu sáng chủ động hoàn
toàn.

CHƯƠNG 4: THIẾT KẾ CHẾ TẠO MÔ HÌNH CHIẾU SÁNG


THÔNG MINH

4.1 Ý TƯỞNG THIẾT KẾ:

4.1.1 Ý tưởng về hệ thống chiếu sáng hiện đại:


Đáp ứng là một mô hình với đầy đủ các chức năng của một hệ thống chiếu sáng –
tín hiệu hiện đại, bao gồm:

- Chức năng chiếu sáng chế độ pha – cốt hiện đại: sử dụng đèn chiếu sáng cao áp với bộ
đèn xenon cho chế độ đèn chiếu xa, đèn halogen cho chế độ đèn chiếu gần.
- Chức năng đèn tín hiệu: đầy đủ chế độ báo rẽ, báo phanh, kích thước…
4.1.2 Ý tưởng về hệ thống chiếu sáng thông minh:
4.1.2.1 Ý tưởng thiết kế hệ thống chiếu sáng góc cua tĩnh:

Ý tưởng ban đầu là hệ thống góc cua tĩnh của mô hình sẽ được thiết kế với đầy đủ
các chế độ hoạt động của một hệ thống chiếu sáng góc cua tĩnh đang được sản xuất và
sử dụng trên thị trường, tiêu biểu là bộ đèn liếc tĩnh Hella Dyna View EVO2 của hãng
Hella.

Trên mô hình bên cạnh 2 đèn cốt sẽ được bố trí thêm 2 đèn phụ để chiếu sáng bổ
sung cho đèn cốt khi xe vào cua. Hai đèn chiếu này được điều khiển bởi bộ điều khiển
trung tâm, dựa theo các tín hiệu cảm biến tốc độ, cảm biến góc lái, và các tín hiệu bật
đèn xi nhan đưa về. và có các chế độ hoạt động theo các tiêu chuẩn của các bộ đèn liếc
tĩnh đang được sử dụng trong thực tế

Các chế độ đó được minh hoạ dưới hình vẽ sau:


a. b. c. d.

Hình 4.1: Các chế độ hoạt động của đèn chiếu sáng góc cua tĩnh

Hình 4.1a. đèn chiếu sáng góc cua tắt khi xe đi thẳng.

Hình 4.1b. đèn chiếu sáng góc cua bật lên cùng đèn xi nhan.

Hình 4.1c. đèn chiếu sáng góc cua bật lên khi đi trên cung đường cong.

Hình 4.1d. đèn chiếu sáng góc cua bật lên khi xe đi lùi hoặc trong điều kiện sương mù.

Nguyên lý, chức năng, và hoạt động của hệ thống đèn liếc tĩnh trong thực tế được
trình bày kỹ hơn ở chương 3 của đề tài phần “Hệ thống đèn liếc tĩnh”.

- Dựa trên những tiêu chuẩn đó nhóm làm đề tài đưa ra các ý tưởng thiết kế hệ thống
chiếu sáng góc cua tĩnh trên mô hình, đó là:
+ Hệ thống chiếu sáng góc cua tĩnh được thiết kế chỉ kích hoạt khi có tín hiệu
đèn cốt được bật.

+ Đèn chiếu sáng góc cua chỉ được bật khi cảm biến tốc độ đưa về bộ điều
khiển trung tâm cho thấy xe đang chạy với tốc độ dưới 40km/h, và cảm biến góc lái cho
thấy xe đang vào cua với góc cua của xe lớn hơn 12 0 điều này đảm bảo cho thấy xe đang
chạy tốc độ chậm để chuẩn bị vào cua , tuy nhiên đèn liếc tĩnh cũng được bật ngay lập
tức nếu có tín hiệu bật xi nhan, đèn chiếu phụ khi xe vào cua bên trái sẽ sáng khi xe vào
cua bên trái và ngược lại đèn bên phải sẽ sáng khi xe vào cua bên phải.

+ Mặt khác trên mô hình còn bố trí nút kích hoạt cả 2 đèn liếc tĩnh ở chế độ
sương mù hoặc chạy lùi.

- Để thực hiện được các ý tưởng này, một board mạch điều khiển trung tâm được thiết kế,
trong đó sử dụng vi điều khiển AVR để lập trình, xử lý các thông tin tín hiệu góc lái, tốc
độ, tín hiệu đèn cốt, đèn xi nhan và điều khiển đóng ngắt các relay điều khiển đèn chiếu
sáng góc cua tĩnh.
4.1.2.2 Ý tưởng thiết kế hệ thống góc cua động:

Trên thực tế cấu tạo của hệ thống đèn liếc động khá đa dạng, nhưng phổ biến nhất
hiện nay là hệ thống đèn liếc động thay đổi góc chiếu sáng của đèn pha nhờ hiện tượng
khúc xạ ánh sáng, bên trong choá đèn bố trí những tấm chắn phía trước bóng đèn, với
những tấm chắn khác nhau, luồng ánh sáng đi qua tấm chắn sẽ có góc khúc xạ khác
nhau, vì vậy có thể thay đổi vùng chiếu sáng theo góc đánh lái.

Hình 4.2: Cấu tạo một bộ đèn liếc động

Để xoay các tấm chắn, người ta sử dụng một động cơ Servo, được bộ điều khiển
trung tâm điều khiển tự động qua việc xử lý các tín hiệu từ cảm biến góc đánh lái và
cảm biến tốc độ. Cấu tạo của bộ đèn liếc này khá phức tạp và có giá thành không hề rẻ
nên hiện tại bây giờ nó cũng chỉ mới được nắp trên các dòng xe hạng sang.

Cấu tạo, nguyên lý và hoạt động của đèn liếc động đã được giới thiệu kỹ hơn ở
chương 3.

Nếu hệ thống chiếu sáng góc cua động của mô hình được thiết kế theo phương án
này, thì phải trang bị một bộ đèn liếc động chuyên dụng được mua về với giá thị trường
hiện nay khoảng 1000 $ vì khó có thể tự thết kế được bộ đèn có bố trí các tấm chắn ánh
sáng bên trong choá, cũng như động cơ servo xoay choá đèn và các cơ cấu dẫn động
khác. Vì vậy mô hình chọn hướng thiết kế hệ thống chiếu sáng góc cua động sao cho đạt
được mục đích: “thay đổi vùng chiếu sáng của đèn cốt theo góc đánh lái vôlăng”.
Để thay đổi được vùng chiếu sáng của đèn cốt theo góc chiếu sáng của vô lăng, đề
tài chọn giải pháp thiết kế board mạch điều khiển động cơ servo xoay choá đèn cốt dựa
trên các tín hiệu bật đèn cốt, góc xoay vô lăng và tín hiệu tốc độ.

Các bước thiết kế và phương pháp thiết kế sẽ được nói rõ hơn ở mục 4.2.3.2 phần
thiết kế hệ thống chiếu sáng góc cua động.

4.1.2.3 Ý tưởng thiết kế hệ thống tự động bật đèn đầu và hệ thống tự


động chuyển Pha – Cốt:

Trên mô hình ngoài việc thiết kế các hệ thống chiếu sáng chủ động đáp ứng theo
góc cua còn được trang bị thêm hệ thống bật đèn tự động và hệ thống tự động chuyển
Pha – Cốt.

a. Ý tưởng thiết kế hệ thống tự động bật đèn đầu:


Hệ thống tự động bật đèn đầu ra đời nhằm mục đích tăng tính tiện ích và giảm các
thao tác cho người lái xe khi điều khiển xe.

Nguyên lý hoạt động của hệ thống khá đơn giản, với các xe có trang bị hệ thống
này, cảm biến ánh sáng được đặt ngay trên nắp ca pô và đưa tín hiệu về một mạch điều
khiển.

Hình 4.3: Bố trí cảm biến ánh sáng trên xe

Khi nhận tín hiệu từ cảm biến ánh sáng đưa tới mạch điều khiển cho thấy ánh sáng
môi trường chung quanh yếu đi, không đảm bảo đủ điều kiện ánh sáng cho phép để lái
xe, mạch điều khiển này sẽ đóng relay tự động mở đèn đầu.

Hệ thống tự động mở đèn đầu trên mô hình cũng được trang bị một cảm biến ánh
sáng và thiết kế một board mạch, điều khiển relay tự động mở đèn đầu như trong thực
tế.
b. Ý tưởng thiết kế hệ thống tự động chuyển pha - cốt:

Khi đang đi trên xa lộ hoặc đường vắng chúng ta thường bật đèn đầu ở chế độ đèn
pha, nhưng sử dụng đèn chiếu xa sẽ gây khó chịu, làm loá mắt, hạn chế khả năng quan
sát của tài xế xe đi ngược chiều và người ta thường phải chuyển chế độ đèn pha về chế
độ đèn cốt khi có xe ngược chiều để đảm bảo an toàn và cũng như thể hiện một thái độ
lịch sự khi đi đường. Nhằm tăng khả năng quan sát cho người đi đối diện, tăng độ an
toàn, giảm thao tác và tăng tính tiện ích cũng như giúp người điều khiển xe tập trung
hơn vào việc lái xe, hệ thống chuyển đổi pha – cốt được ra đời.

Hình 4.4: Bật chế độ đèn pha có thể gây choá mắt cho người đi ngược chiều

Việc nhận biết có xe đi ngược chiều để thay đổi chế độ pha – cốt nhờ một cảm
biến ánh sáng được đặt phía trước đầu xe, khi có xe đi ngược chiều và rọi ánh sáng vào
cảm biến ánh sáng, tín hiệu điện áp từ cảm biến ánh sáng sẽ đưa về mạch điều khiển,
mạch điều khiển sẽ đóng relay tự động chuyển pha – cốt.

Trên mô hình được bố trí một cảm biến ánh sáng ở phía trước, và sử dụng một
mạch điều khiển để đóng ngắt relay tự động chuyển pha – cốt. Các bước thiết kế và hoạt
động của hệ thống trên mô hình sẽ được nói rõ hơn trong phần sau.

4.2 CÁC BƯỚC THIẾT KẾ:

4.2.1 Thiết kế mô hình cơ bản:


Hình 4.5: Mô hình cơ bản của hệ thống

- Mô hình cơ bản của hệ thống bao gồm:


+ Khung mô hình.

+ Hệ thống đèn đầu.

+ Hệ thống đèn đuôi.

+ Cụm vô lăng và công tắc điều khiển đèn.

4.2.1.1 Khung mô hình:

Khung giá đỡ là bộ phận đầu tiên được thiết, được thiết kế đơn giản và gọn nhất có
thể.
Kết cấu khung được làm bằng sắt ống chữ nhật loại 4x4. Kích thước:

+ Chiều cao 70 cm.

+ Chiều rộng 80 cm.

+ Chiều dài 80 cm.

Hình 4.6 Thiết kế khung mô hình

4.2.1.2 Hệ thống đèn đầu:

Hệ thống đèn đầu của mô hình bao gồm:

- Cụm đèn pha.


- Cụm đèn cốt.
- Cụm đèn sương mù.
- Cụm đèn xi nhan phía trước.

- Cụm đèn đầu gồm đèn pha, đèn cốt, và đèn xi nhan trước.
Hình 4.7: Cụm đèn đầu nhìn từ phía trước

- Đèn cốt của mô hình được trang bị đèn Xenon

Hình 4.8: Đèn chiếu gần được trang bị đèn xenon

Ngoài ra mô hình còn trang bị hệ thống đèn sương mù phía trước.

Hình 4.9: Đèn sương mù

4.2.1.3 Hệ thống đèn đuôi:

Hệ thống đèn đuôi của mô hình bao gồm:


- Cụm đèn kích thước.
- Cụm đèn báo phanh.
- Cụm đèn xinhan phía sau.

Hình 4.10: Cụm đèn đuôi

Hình 4.11: Bố trí hệ thống đèn hậu trên mô hình

Hình 4.12: Đèn báo phanh sáng khi đạp phanh


4.2.1.4 Cụm vô lăng và công tắc điều khiển:

Hình 4.13: Cụm vô lăng và cống tắc điều khiển trên mô hình

Hình 4.14:Vô lăng. Hình 4.15: Công tắc máy

Ngoài ra trên mô hình còn được bố trí các bộ phận khác như công tắc phanh, bàn
đạp phanh, các relay, bộ nháy flash, …
Hình 4.16: Bàn đạp phanh Hình 4.17: Bố trí các relay và bộ nháy flash
trên mô hình

4.2.2 Thiết kế hệ thống chiếu sáng tín hiệu trên mô hình

Hệ thống chiếu sáng - tín hiệu được thiết kế với đầy đủ chức năng:

- Chức năng đèn chiếu sáng với hệ thống đèn chiếu xa, hệ thống đèn chiếu gần. Trong đó
hệ thống đèn chiếu gần được trang bị đèn xenon.
- Chức năng đèn tín hiệu với đèn kích thước, đèn báo phanh, đèn xi nhan.

Hình 4.18: Mô hình hệ thống chiếu sáng tín - hiệu


Các bộ phận của hệ thống chiếu sáng – tín hiệu trên mô hình chủ yếu đã được trình
bày ở phần 4.2.1, phần này chủ yếu xét các nguyên lý và hoạt động của:

- Sơ đồ mạch điện hệ thống chiếu sáng (pha – cốt) trên mô hình:


- Sơ đồ mạch điện đèn báo rẽ, báo phanh:
4.2.2.1 Sơ đồ và hoạt động của mạch điện hệ thống chiếu sáng trên mô
hình:

a. Sơ đồ

Hình 4.19: Mạch điện hệ thống đèn trên mô hình

b. Hoạt động của sơ đồ hệ thống đèn đầu, đèn đuôi:


Hoạt động của hệ thống tương đối đơn giản, công tắc LCS điều khiển chiếu sáng
đèn đầu và đèn đuôi.

- Công tắc đèn Tail bật: chân A2 sẽ được nối với chân A11 của công tắc LCS, có dòng
điện từ dương ACCU qua cuộn dây W1 qua chân A2 qua chân A11 về mass. Relay điều
khiển đèn đuôi đóng tiếp điểm 2 – 3, có dòng điện từ dương ACCU qua tiếp điểm 2 – 3
qua đèn đuôi, đèn đuôi sáng (đèn kích thước)
- Công tắc đèn Head bật, đồng thời công tắc pha - cốt ở vị trí Low, chân A2 cũng được
nối với chân A11, nên đèn đuôi (đèn kích thước) cũng sáng. Đồng thời chân A13 cũng
được nối với chân A11, có dòng qua cuộn dây W2 qua tiếp điểm A13 về mass, relay
điều khiển đèn đầu đóng tiếp điểm 3’ – 4’. Lúc này tiếp điểm thường đóng 4 – 5 cũng
đang được nối với nhau do công tắc điều khiển pha cốt đang ở vị trí Low nên không có
dòng qua cuộn dây điều khiển pha – cốt. Vì vậy có dòng điện từ dương Accu qua tiếp
điểm 3’ – 4’, qua tiếp điểm 4 – 5 đến bộ tăng áp ballast về mass. Bộ tăng áp ballast
phóng dòng điện cao áp qua bóng đèn xenon, đèn Low được thắp sáng.
- Công tắc đèn Head bật, đồng thời công tắc pha – cốt ở vị trí High, công tắc đèn Head
bật nên đèn đuôi cũng được thắp sáng đồng thời tiếp điểm 3’ – 4’ đóng, công tắc pha –
cốt ở vị trí High nên chân A12 được nối với chân A9, có dòng điện qua cuộn dây relay
điều khiển pha – cốt qua chân A12 về mass, relay điều khiển pha – cốt đóng tiếp điểm 3
– 4. Vì vậy có dòng từ dương Accu qua tiếp điểm 3’ – 4’ qua tiếp điểm 3 - 4 qua đèn pha
về mass, đèn pha sáng.
- Khi đá đèn Flash mà không bật đèn Head, chân A13 được nối với chân A14 nối với
chân A12, chân A9 về mass. Có dòng điện qua cuộn dây relay điều khiển đèn đầu qua
chân A13 về mass, đóng tiếp điểm 3’ – 4’, đồng thời có dòng điện qua relay điều khiển
pha – cốt về chân A12 về mass, đóng tiếp điểm 3 – 4. Lúc này có dòng điện từ dương
Accu qua tiếp điểm 3’ – 4’ qua tiếp điểm 3 – 4 đến bóng đèn High về mass, đèn High
sáng.

4.2.2.2 Sơ đồ mạch điện và hoạt động đèn báo rẽ, báo phanh trên mô
hình:

a. Đèn báo rẽ
Hình 4.20: Mạch điện xi nhan trên mô hình

Hoạt động: Chân B của bộ nháy flash được mắc trực tiếp vào công tắc máy, chân
E được nối xuống mass, vì vậy khi công tắc máy bật thì tín hiệu flash được đưa ra ở
chân tín hiệu L, nếu bật công tắc xinhan trái thì sẽ có tín hiệu flash đến đèn báo rẽ trái ở
phía trước và phía sau, tương tự bật xi nhan phải sẽ có tín hiệu flash đến đèn xi nhan
phải ở phía trước và phía sau.

b. Đèn báo phanh


Mạch điện báo phanh rất đơn giản, khi đạp bàn đạp phanh cũng là đóng công tắc
đèn báo phanh, cấp dòng điện cho đèn, đèn báo phanh sáng.

Hình 4.21: Mạch điện đèn báo phanh

4.2.3 Thiết kế hệ thống chiếu sáng góc cua:

4.2.3.1 Thiết kế hệ thống chiếu sáng góc cua tĩnh

a. Thiết kế mô hình:
Như các phương án thiết kế đã được trình bày trong phần 4.1.2.1 – Ý tưởng thiết
kế hệ thống chiếu sáng góc cua tĩnh. Trên mô hình như hình vẽ ở phía dưới, bên cạnh 2
đèn cốt được bố trí lắp thêm 2 đèn phụ để chiếu sáng bổ sung cho đèn cốt khi xe vào
cua.

Hình 4.22: Bố trí đèn chiếu phụ khi xe vào cua trên mô hình

Hai đèn chiếu này được điều khiển bởi bộ điều khiển trung tâm, dựa theo các tín
hiệu cảm biến tốc độ, cảm biến góc lái, và các tín hiệu bật đèn xi nhan đưa về.

b. Nguyên lý điều khiển đèn liếc tĩnh:


Đèn liếc tĩnh hoạt động dựa trên các tín hiệu cảm biến góc lái, cảm biến tốc độ và
các tín hiệu đèn xi nhan trái, phải, tín hiệu đèn cốt bật.

Nguyên lý hoạt động của hệ thống chiếu sáng góc cua tĩnh trên mô hình như sau:

- Đèn liếc tĩnh được kích hoạt khi có tín hiêu đèn cốt bật, tín hiệu tốc độ cho thấy xe đang
chạy với tốc độ dưới 40 Km/h, và cảm biến góc lái cho thấy góc vôlăng quay được 1/3
vòng trở lên (ứng với cung đường có bán kính cua vòng nhỏ hơn 40 m – vô lăng trên
mô hình được thiết kế đánh lái hết cỡ về một phía được 2 vòng ứng với góc quay vòng β
của bánh dẫn hướng bên trong khoảng 32o).
- Đèn liếc tĩnh được kích hoạt ngay lập tức khi đèn cốt đang bật mà có tín hiệu đèn xi
nhan được bật. Đèn xi nhan bên nào sáng thì đèn chiếu sáng góc cua tĩnh bên đó sẽ
sáng.
c. Thiết kế mạch điện nguyên lý điều khiển đèn liếc tĩnh:
Bộ điều khiển trung tâm thực chất là một board mạch điều khiển relay có nhiệm
vụ đóng, mở các relay điều khiển 2 đèn chiếu sáng góc cua. Mạch điều khiển relay này
bao gồm một vi điều khiển AVR và các linh kiện khác, được lập trình sẵn để xử lý
thông tin các tín hiệu cảm biến đưa về và xuất tín hiệu điều khiển relay điều khiển 2 đèn
chiếu sáng góc cua.

Board mạch điều khiển trung tâm được thiết kế theo nguyên lý như sau:

Hình 4.23: Mạch nguyên lý điều khiển đèn liếc tĩnh

d. Hoạt động
Việc điều khiển đóng ngắt các đèn chiếu sáng góc cua được thực hiện theo các
nguyên lý :

• Hệ thống đèn chiếu sáng góc cua tĩnh được kích hoạt khi đèn cốt bật, Tín hiệu tốc
độ dưới 40 Km/h và góc đánh lái lớn hơn 20o
Giống như hệ thống đèn liếc tĩnh trong thực tế, hệ thống đèn chiếu sáng góc cua
của mô hình cũng được kích hoạt khi có tín hiệu đèn cốt bật, tín hiệu tốc độ cho thấy
“xe chạy” dưới 40 Km/h và góc đánh lái đủ lớn.

Để có tín hiệu tốc độ và tín hiệu góc đánh lái đưa về cho mạch điều khiển trung
tâm xử lý tín hiệu và kích hoạt hệ thống đèn chiếu sáng góc cua tĩnh, Mô hình được
thiết kế theo phương án sau:
+ Tạo tín hiệu của cảm biến tốc độ xe:

Như đã nói ở trên Hệ thống đèn chiếu sáng góc cua trong thực tế chỉ được kích
hoạt khi tốc độ xe dưới 40 Km/h, vì vậy cần phải tạo ra tín hiệu cảm biến tốc độ đưa về
mạch điều khiển trung tâm xử lý thông tin, để tạo ra tín hiệu cảm biến tốc độ, trên mô
hình được bố trí một động cơ DC và sử dụng encoder để đo tốc độ quay của động cơ.
Tốc độ của động cơ DC có thể thay đổi được nhờ mạch điều xung IC 555, mạch điều
xung sử dụng một biến trở để thay đổi độ dài của xung, từ đó điều khiển được tốc độ
động cơ.
CV
TR

Ñoä
ng cô DC
GND

VCC

IC 555
5V
DC
TH

Bieá
n
trôû

12V
Hình 4.24: Mạch điều xung động cơ

Sử dụng một encoder để xác định tốc độ quay của động cơ DC (tốc độ của động cơ
DC được điều chỉnh bằng một biến trở được thiết kế trên mô hình), và giả định tốc độ
của xe tỉ lệ với tốc độ quay của động cơ DC. Số xung nhiều nhất mà encoder đếm được
trong một giá trị thời gian sẽ ứng với tốc độ lớn nhất của xe, vì vậy ta hoàn toàn có thể
thiết kế một board mạch hiển thị tốc độ giả định này bằng led.

Trên mô hình được thiết kế một “đồng hồ công tơ mét” hiển thị tốc độ xe bằng led.
Hình 4.25: Đồng hồ công tơ mét trên mô hình

Nhờ giải thuật này, khi đồng hồ công tơ mét hiển thị tốc độ xe là 40 Km/h, vi điều
khiển lúc đó sẽ nhận biết được và cho kích hoạt hệ thống chiếu sáng góc cua tĩnh.

Trong thực tế đề tài sử dụng động cơ DC có tốc độ cao nhất là 360 vòng / phút.
Biến trở để điều xung động cơ có giá trị điện trở cao nhất là 10 K Ohm. Đĩa encoder có
60 rãnh.

Khi vặn biến trở về 0 Ohm, thì tốc độ động cơ đo được là 360 vòng / phút – tương
ứng 6 vòng/ 1s, nên trong một giây số xung tối đa mà encorde đếm được và đưa về cho
vi điều khiển là 360 xung.

Mô hình đề tài bố trí 2 led 7 đoạn để giả đồng hồ công tơ mét nên giá trị lớn nhất
mà “đồng hồ công tơ mét” này hiển thị được là 99 km/h.Vì vậy ứng với số xung lớn
nhất mà encorde có thể đếm được trong một giá trị thời gian sẽ được mặc định là tốc độ
tối đa 99 km/h.

Sau khi tính toán ta thấy khi tốc độ giả định được hiển thị trên led 7 đoạn là 40
km/h thì số xung encorde đếm được vào khoảng là 160 xung/ giây, ở tốc độ này tính
ngược lại sẽ biết được giá trị biến trở lúc đó vào khoảng 4.44 K Ohm.
Hình 4.26: Động cơ DC trang bị Encorde để giả tín hiệu tốc độ trên mô hình

Hệ thống đèn liếc tĩnh của mô hình được thiết kế theo các tiêu chuẩn của hệ thống
đèn liếc tĩnh trong thực tế, vì vậy chỉ khi vi điều khiển đếm được số xung nhỏ hơn 160
xung / giây thì hệ thống mới hoạt động, tương ứng với giá trị điện trở của biến trở điều
xung động cơ DC lớn hơn 4.44 K Ohm.

+ Cảm biến góc lái:

Trong thực tế Hệ thống đèn chiếu sáng góc cua trên xe sử dụng cảm biến lực ly
tâm để xác định góc cua của xe, khi xe cua vòng sẽ xuất hiện lực ly tâm, góc cua càng
gấp lực ly tâm xuất hiện càng lớn, nhờ vậy có thể xác định được bán kính cong của
cung đường xe đang chạy. Trên mô hình, vì chỉ có góc xoay vô lăng là thể hiện góc
đánh lái nên không thể sử dụng cảm biến lực ly tâm để xác định góc đánh lái, thay vào
đó mô hình được bố trí một biến trở công nghiệp (loại 10 Kohm, có thể xoay được 10
vòng) gắn trên vô lăng để xác định góc xoay của vô lăng, giá trị điện trở của biến trở
thay đổi theo góc xoay tương ứng.
Hình 4.27: Biến trở công nghiệp Hình 4.28: Biến trở được bố trí

dưới gầm của mô hình

Ở vị trí góc đánh lái là 0 thì giá trị điện trở là 5K Ohm, khi đánh lái hết cỡ về bên
phải thì giá trị điện trở là 10 K Ohm, khi đánh lái hết cỡ về bên trái thì giá trị điện trở là
0 Ohm.

Tín hieä
u ñieä
n aù
p ñöa veà

Bieá
n trôû
+

Hình 4.29: Cấu tạo biến trở

Vô lăng trên mô hình được thiết kế đánh lái hết cỡ về một phía được 2 vòng, trong
thực tế thì số vòng quay lớn nhất của vô lăng trên từng loai xe là khác nhau, có xe vô
lăng đánh hết cỡ về một phía được 1,5 vòng, có xe được 2.5 vòng. Khi vô lăng đánh lái
hết cỡ giả thiết là lúc đó góc quay vòng β của bánh dẫn hướng bên trong khi đó đạt
khoảng 320 (đối với các xe du lịch thì góc quay vòng lớn nhất của bánh phía trong dao
động trong khoảng này). Từ đó ta có thể tính toán với từng góc quay của vô lăng tương
ứng với mỗi góc quay vòng của bánh xe, và tính ra bánh kính cong của cung đường mà
xe đang chay.

Khi sử dụng biến trở để xác định góc quay của vô lăng, giá trị điện trở của biến trở
thay đổi theo góc đánh lái làm cho giá trị điện áp rơi trên nó cũng thay đổi, tín hiệu điện
áp này được đưa về bộ chuyển đổi xung – số ADC của vi điều khiển.

Nhờ vậy vi điều khiển có thể nhớ được các giá trị điện áp ứng với vị trí vô lăng ở
chính giữa và các vị trí vô lăng cho phép kích hoạt đèn chiếu sáng góc cua.

• Hệ thống chiếu sáng góc cua tĩnh được kích hoạt ngay lập tức khi đèn cốt bật và có
tín hiệu đèn xi nhan.
- Giống như hệ thống đèn liếc tĩnh trong thực tế hệ thống chiếu sáng góc cua tĩnh của mô
hình được thiết kế bật đèn chiếu sáng góc cua ngay lập tức khi có tín hiệu đèn xi nhan
và tín hiệu đèn cốt đang bật.
- Khi đèn xi nhan được bật sẽ có tín hiệu điện áp đưa về vi điều khiển và vi điều khiển sẽ
ngay lập tức đóng relay điều khiển đèn chiếu sáng góc cua trái nếu xi nhan bên trái bật,
hoặc relay điều khiển đèn chiếu sáng góc cua phải nếu xi nhan bên phải được bật

Hình 4.30: Đèn chiếu sáng góc cua bên trái bật cùng đèn xi nhan trái

Hình 4.31: Đèn chiếu sáng góc cua bên phải bật cùng đèn xi nhan phải
4.2.3.2 Thiết kế hệ thống chiếu sáng góc cua động:

a. Thiết kế cơ cấu chấp hành:


Việc chọn phương án thiết kế hệ thống chiếu sáng góc cua động ở đề tài đã được
trình bày ở phần 4.1.2.2 – Ý tưởng thiết kế hệ thống chiếu sáng góc cua động.

- Choá đèn cốt được cắt rời ra khỏi bộ đèn đầu, và được xoay bởi một đông cơ servo:

Hình 4.32. Cắt rời choá đèn cốt

- Thiết kế trục xoay của choá đèn cốt trong vỏ đèn đầu:
Hình 4.32: Choá đèn cốt xoay về bên phải Hình 4.33: Choá đèn cốt xoay về
bên trái khi vô lăng đánh về bên phải khi vô lăng đánh về bên trái

- Bố trí động cơ servo xoay choá đèn cốt trên mô hình:

Động cơ Servo xoay choá đèn cơ cấu dẫn động

Hình 4.34: Bố trí Servo xoay choá đèn trên mô hình

b. Nguyên lý điều khiển:


• Tính toán góc xoay choá đèn theo góc xoay vô lăng:
Hệ thống chiếu sáng góc cua động trên mô hình được thiết kế hoạt động khi có tín
hiệu đèn cốt đang bật và có góc quay vô lăng lớn hơn 1/3 vòng.

Như đã trình bày ở phần “cơ sở tính toán góc điều chỉnh vùng chiếu sáng góc cua
động” ở chương 3, không khó để nhận biết bán kính cong của cung đường xe đang chạy
và tính toán ra góc điều chỉnh vùng chiếu sáng. Trên mô hình không trang bị cảm biến
lực ly tâm như thực tế để xác định bán kính cong của cung đường mà sử dụng một biến
trở đưa tín hiệu điện áp về bộ chuyển đổi tín hiệu xung số ADC của vi điều khiển AVR,
nhờ biến trở này ta có thể dễ dàng xác định được góc quay của vô lăng.

Vô lăng trên mô hình được thiết kế đánh lái hết cỡ mỗi bên được 2 vòng ứng với
bánh xe quay vòng bên trong quay được một góc β = 32 0 (gần với góc quay vòng lớn
nhất thực tế của các xe du lịch).
Hệ thống đèn liếc động được kích hoạt khi vô lăng quay được hơn 1/3 vòng tức là
ứng với góc β lớn hơn 50 (góc β0), tương đương với xe du lịch chạy trên cung đường có
bán kính cong nhỏ hơn 40 m. Góc điều chỉnh vùng chiếu sáng được tính toán từ sự thay
đổi của góc β, khi góc β lớn hơn 20 0 thì góc xoay choá đèn là lớn nhất (góc điều chỉnh
vùng chiếu sáng = β - β 0). Với mỗi góc β có thể tính được tương ứng với mỗi góc quay
của vô lăng (vô lăng đánh lái hết cỡ tương đương với βmax), vì vậy thông qua tín hiệu
điện áp từ biến trở đưa về bộ chuyển đổi ADC ta có thể tính toán biết được cần xoay
choá đèn đi một góc bao nhiêu độ.

• Điều khiển choá đèn cũng tức là điều khiển động cơ Servo. Ta xét cấu tạo và
nguyên lý điều khiển của một motor Servo:
Trên mô hình sử dụng Servo loại RC Servo là loại sử dụng vôn kế để xác định vị
trí góc quay. Về cấu tạo, động cơ RC Servo chỉ có 3 dây, bao gồm: một dây dương, một
dây nối mass, một dây điều khiển.RC Servo cũng là loại điều khiển hồi tiếp vòng kín
nhưng nó không sử dụng encoder để xác định vị trí vòng quay như động cơ Servo
thường gặp, động cơ RC Servo có cấu tạo cơ bản như sau

Bao gồm:

+ 1. Động cơ DC.

+ 2. Mạch điều khiển.

+ 3. Biến trở.

+ 4. Bánh răng hộp số.

Hình 4.35: Cấu tạo động cơ RC Servo


Vai trò của biển trở trong động cơ RC Servo có vai trò như một cầu phân áp, khi
trục động cơ RC Servo quay làm xoay biển trở, qua đó làm thay đổi giá trị tín hiệu điện
áp mà biến trở đưa ra.

Hình 4.36: Khi biến trở xoay làm cho tín hiệu điện áp thay đổi thừ 0v- 5v

Về nguyên lý điều khiển, động cơ RC Servo xác định vị trí cần quay tới nhờ độ
rộng xung mà ta đưa tới dây điều khiển của động cơ..

Mạch điều khiển của RC Servo có chức năng so sánh độ rộng xung điều khiển với
tín hiệu điện áp mà biến trở đưa về, Nếu có sự khác biệt (có sai số), nó sẽ tự động điều
chỉnh vị trí của động cơ lại cho đúng, quá trình tự động điều chỉnh này được diễn ra
khép kín đến khi vị trí của động cơ được xác định chính xác (khi sai số giữa độ rộng
xung mà vi điều khiển đưa tới với tín hiệu điện áp của biến trở đưa về bằng 0). Vì vậy
được gọi là điều khiển hồi tiếp khép kín.

Hình 4.37: Điều xung động cơ RC Servo

c. Thiết kế mạch điện nguyên lý điều khiển hệ thống đèn liếc động:
Dựa trên nguyên lý này ta thiết kế mạch điều khiển động cơ RC Servo xoay choá
đèn trên mô hình:

relay ÑEØ
N ÑAÀ
U relay ÑEØ
N PHA - COÁ
T
HI

LOW

Ballast
relay ÑEØ
N ÑUOÂ
I
LOW

A2 A13 A14 A12 SERVO


T H EL HF HU HL XOAY
OFF FLASH ĐÈN
TAIL LOW SERVO
HEAD HI XOAY
ĐÈN
+
CONTROL UNIT

tín hieä
u ñeø
n ñaà
u

caû
m bieá
n toá
c ñoä

caû
m bieá
n goù
c laù
i

Hình 4.38: Sơ đồ nguyên lý điều khiển motor RC Servo

xoay choá đèn thiết kế trên mô hình

Về hệ thống điều khiển của hệ thống đèn liếc động tương tự như hệ thống đèn liếc
tĩnh, bộ điều khiển trung tâm nhận các tín hiệu từ cảm biến góc cua và cảm biến tốc độ,
phân tích các giá trị góc cua và gia tốc đánh lái để xác định góc cua gấp hay không,
phân tích tốc độ xe đang chạy để từ đó xác định góc điều chỉnh vùng chiếu sáng, đưa tín
hiệu điều chỉnh motor servo theo các góc xác định về các bên trái hoặc phải tuỳ theo
góc cua.

Nguyên lý hoạt động của mạch điện điều khiển xoay choá đèn như sau:

- Hệ thống xoay choá đèn chỉ được kích hoạt khi có tín hiệu đèn cốt được bật. Khi tín
hiệu điện áp từ biến trở đưa về mạch điều khiển cho thấy vô lăng được xoay với góc
quay lớn hơn 1/3 vòng, thì motor servo xoay choá đèn cốt được kích hoạt. Từ tín hiệu
điện áp đưa về mạch điều khiển sẽ biết được góc xoay của vô lăng tương ứng với góc
quay vòng β của xe, từ đó đưa ra tín hiệu xung để điều khiển motor RC Servo xoay choá
đèn với giá trị góc xoay thay đổi tương ứng với góc β.
- Việc điều khiển motor RC Servo với tốc độ quay bao nhiêu là tuỳ thuộc vào tín hiệu tốc
độ lúc đó đưa về mạch điều khiển, nếu tín hiệu từ cảm biến tốc độ cho thấy, mạch điều
khiển sẽ điều xung có độ rộng tuỳ thuộc vào tín hiệu tốc độ quay của động cơ.

4.2.4 Thiết kế hệ thống tự động bật đèn đầu và tự động chuyển pha cốt:

4.2.4.1 Thiết kế hệ thống tự động bật đèn đầu:


Hình 4.39: Mạch điện nguyên lý cảm biến bật đèn đầu

Trên mô hình được bố trí một cảm biến ánh sáng bật đèn đầu, thực tế mạch nguyên
lý cảm biến như ở hình trên, gồm một quang trở mắc vào một IC 555. Khi quang trở dẫn
là lúc ánh sáng môi trường xung quanh không đáp ứng đủ điều kiện cho người điều
khiển xe quan sát, do vậy IC 555 nhận tín hiệu điện áp từ quang trở và điều xung dẫn
transistor T, thay đổi giá trị mức tín hiệu điện áp đưa về mạch điều khiển mở đèn đầu.
Nhờ vậy mà mạch điều khiển đèn đầu nhận biết được điều kiện ánh sáng xung quanh.

Hình 4.40: Mạch điện cảm biến ánh sáng bật đèn đầu trên xe
Hình 4.41: Sơ đồ nguyên lý mạch điều khiển hệ thống tự động bật đèn đầu

Hoạt động của hệ thống: Hệ thống đèn đầu chỉ được bật khi ta nối mass cho chân
cuộn dây relay đèn đầu. Bình thường khi bật công tắc đèn đầu ở vị trí Head là nối tắt
chân cuộn dây relay đèn đầu qua chân A13 của công tắc và về mass.
Ở hệ thống tự động bật đèn đầu, một relay (relay bật đèn tự động) được mắc nối
tiếp với cuộn dây relay đèn đầu về mass, khi mạch điều khiển nhận được tín hiệu từ cảm
biến cho thấy cần bổ sung ánh sáng để tăng khả năng quan sát cho người lái xe, mạch
điều khiển sẽ đóng relay bật đèn tự động, relay này sẽ nối tắt cuộn dây relay đèn đầu về
mass, tiếp điểm relay đèn đầu đóng, đèn đầu được bật cho dù ta không bật công tắc đèn
đầu. Khi cảm biến ánh sáng thấy rằng ánh sáng môi trường đã đảm bảo điều kiện lái xe,
relay bật đèn tự động sẽ được ngắt, và nếu công tắc đèn đầu cũng ngắt thì đèn đầu sẽ tự
động tắt.

4.2.4.2 Thiết kế hệ thống tự động chuyển pha – cốt:


Như trình bày ở phần Ý tưởng thiết kế, trên mô hình được bố trí một cảm biến ánh
sáng ở phía trước, thực chất là một quang trở, quang trở này được mắc nối tiếp với một
điện trở tạo thành một cầu phân áp đưa tín hiệu điện áp về mạch điều khiển, như hình vẽ
ở phía dưới.

Tín hieä
u ñieä
n aù
p ñöa veà

Quang trôû

Hình 4.42: Cảm biến ánh sáng

Quang trở này chỉ dẫn khi không có ánh sáng dọi vào nó lúc đó dòng điện sẽ đi
qua điện trở qua quang trở về mass do đó tín hiệu điện áp đưa về ở mức thấp.

Quang trở có điện trở vô cùng khi có ánh sáng dọi vào nó (khi có ánh sáng xe đi
ngược chiều rọi vào), vì vậy điện áp đưa về mạch điều khiển là ở mức cao do dòng điện
qua điện trở và đưa tín hiệu điện áp về mạch điều khiển Nhờ vậy mà vi điều khiển có
thể nhận biết được có xe đi ngược chiều để điều khiển realy chuyển pha - cốt.
Hình 4.43: Sơ đồ nguyên lý mạch điều khiển hệ thống tự động chuyển pha – cốt

Hoạt động của hệ thống: Hệ thống hoạt động khi đèn đầu của xe đang ở chế độ
đèn pha mà có xe đi ngược chiều rọi ánh sáng vào cảm biến ánh sáng.

Relay tự động chuyển pha cốt thực chất là một relay thường đóng. Khi bộ điều
khiển control unit nhận được tín hiệu từ cảm biến ánh sáng cho thấy có ánh sáng ngược
chiều dọi vào, mạch điều khiển sẽ cấp mass cho cuộn dây của relay tự động chuyển pha
– cốt, hút tiếp điểm của relay này mở ra. Làm cho dòng điện đi qua cuộn dây relay đèn
pha – cốt xuống chân A12 bị ngắt, đèn đầu đang ở chế độ pha chuyển sang chế độ cốt.
Khi không có ánh sáng ngược chiều dọi vào cảm biến nữa thì hệ thống lại tự động
chuyển chế độ chiếu sáng trở lại chế độ đèn pha.

4.2.5 Thiết kế mạch điện điều khiển trung tâm:

Ở các phần 4.2.3, 4.2.4 trước đã trình bày các sơ đồ nguyên lý của các mạch điện
điều khiển các hệ thống đèn liếc tĩnh, đèn liếc động, hệ thống tự động bật đèn đầu, hệ
thống tự động chuyển pha – cốt, Trên thực tế mạch điện điều khiển trên mô hình được
thiết kế chung trên một board mạch, gọi là mạch điện điều khiển trung tâm, mạch điện
này điều khiển tích hợp tất cả các hệ thống đã được trình bày ở các phần trước.

Các chế độ hoạt động của mạch điện điều khiển trung tâm được thể hiện rõ ràng
hơn dưới dạng mạch nguyên lý dưới đây:

- Sơ đồ nguyên lý của mạch điện điều khiển trung tâm là tổng hợp tất cả các sơ đồ mạch
điện nguyên lý của các hệ thống đèn liếc tĩnh, đèn liếc động, hệ thống tự động mở đèn,
hệ thống tự động chuyển pha – cốt. Các chế độ hoạt động của nó đã được trình bày kỹ
trong các mục trước đó.
Hình 4.44: Sơ đồ nguyên lý mạch điều khiển

- Mạch điện được thiết kế thực tế:


Hình 4.45: Mạch điện điều khiển trung tâm

Chú thích các ngõ vào và ngõ ra của mạch điều khiển:

từ trái qua phải:

Ngõ vào

Chân số 1 - dây dương Chân số 6 – dây tín hiệu xi nhan phải

Chân số 2 - dây âm Chân số 7 – tín hiệu góc lái

Chân số 3 - dây 5 v Chân số 8 – tín hiệu encoder

Chân số 4 - dây tín hiệu tự động bật đèn Chân số 9 – tín hiệu chuyển pha, cốt

Chân số 5- dây tín hiệu xi nhan trái Chân số 10 – chân chỉnh tốc độ

Ngõ ra

Chân số 11 – chân mass của động cơ

Chân số 12 – chân điều khiển chuyển pha – cốt

Chân số 13 – chân điều khiển mở đèn chiếu sáng góc cua trái

Chân số 14 – chân điều khiển mở đèn chiếu sáng góc cua phải

Chân số 15 – chân điều khiển tự bật đèn đầu


- Trên mạch điều khiển có một vi điều khiển AVR Atmega 8, IC 555 điều xung động cơ
DC, 1 LM 7805 ổn áp nguồn 5v, 2 LM 7805 cấp nguồn 5v cho 2 động cơ servo và các
linh kiện khác…Ngòai ra còn bố trí 2 relay điều khiển đèn chiếu sáng góc cua tĩnh,
relay tự động bật đèn, relay tự động chuyển pha – cốt.
Mạch in:

Hình 4.46: Mạch in

4.3 HƯỚNG DẪN SỬ DỤNG MÔ HÌNH


4.3.1 Khởi động:
Bật công tắc máy ở vị trí Start, khởi động động cơ DC.

Điều chỉnh biến trở điều chỉnh tốc động cơ DC trên bảng điều khiển của mô hình,
quan sát sự thay đổi tốc độ xe giả định hiển thị trên Led 7 đoạn.

Hình 4.47: Khởi động cơ DC


Hình 4.48: Điều chỉnh tốc độ hiện thị trên Led 7 đoạn

4.3.2 Điều khiển hoạt động của hệ thống chiếu sáng chủ động theo góc lái:
4.3.2.1 Điều khiển hoạt động của hệ thống đèn liếc tĩnh:
Đèn liếc tĩnh hoạt động chỉ khi rẽ trái và rẽ phải và xe chạy ở tốc độ dưới 40
Km/h. Kiểm tra hoạt động của hệ thống đèn liếc tĩnh:

Bật công tắc đèn đầu ở chế độ LOW, vặn biến trở điều chỉnh tốc độ để tốc độ
hiển thị trên Led 7 đoạn dưới 40 Km/h. bật công tắc xi nhan trái và phải, quan sát hoạt
động của đèn liếc tĩnh:

Hình 4.49: Đèn chiếu sáng góc cua bên trái bật cùng đèn xi nhan trái

Hình 4.50: Đèn chiếu sáng góc cua bên phải bật cùng đèn xi nhan phải
4.3.2.2 Điều khiển hoạt động của hệ thống đèn liếc động:
Hệ thống đèn liếc động điều chỉnh vùng chiếu sáng theo góc quay vô lăng, khi
công tắc đèn đầu bật ở chế độ LOW.

Hình 4.51: Motor Servo xoay choá đèn theo góc xoay của vô lăng.

4.3.2.3 Điều khiển hệ thống tự động bật đèn đầu:


Hệ thống tự động mở đèn đầu kích hoạt relay mở đèn tự động khi trời tối mà công
tắc đèn đầu đang bật OFF.

Kiểm tra hoạt động của hệ thống mở đèn đầu bằng cách che ánh sáng tới cảm biến
mở đèn đầu

Cảm biến

mở đèn đầu

Hình 4.52: Che cảm biến ánh sáng, đèn đầu sẽ tự động được mở

4.3.2.4 Điều khiển hệ thống tự động chuyển Pha - Cốt:


Hệ thống chuyển đổi pha cốt hoạt động khi Đèn đầu ở chế độ High và có ánh sáng
dọi vào quang trở đặt ở phía trước của mô hình, hệ thống sẽ chuyển chế độ pha về chế
độ cốt.

Kiểm tra hoạt động của hệ thống bằng cách dọi ánh sáng vào quang trở, khi đèn
đầu đang bật Pha sẽ tự động chuyển về Cốt.

Quang trở

Hình 4.53: Chiếu ánh sáng vào quang trở,

đèn đầu đang bật pha sẽ chuyển về chế độ cốt

You might also like