You are on page 1of 27

GIAI ĐOẠN 1939 – 1945

 Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương tháng
11/1939

 Tình hình quốc tế: 9/1929, CTTG thứ 2 bùng nổ sau đó TW Đảng gửi toàn Đảng
một thông báo quan trọng chỉ rõ “Hoàn cảnh Đông Dương sẽ tiếp bước đến
vấn đề dân tộc giải phóng”.

Thời gian: tháng 11/1939

- Địa điểm: Bà Điểm, Hóc Môn

- Chủ trì: Tổng bí thư Nguyễn Văn Cừ

- Nội dung:

+ Nhiệm vụ, mục tiêu trước mắt: đánh đổ đế quốc và tay sai; giải phóng các dân tộc ở
Đông Dương, làm cho Đông Dương hoàn toàn độc lập

+ Khẩu hiệu: tạm gác khẩu hiệu cách mạng ruộng đất, chỉ tịch thu ruộng đất của đế
quốc và địa chủ phản bội quyền lợi dân tộc, chống tô cao, lãi nặng; tạm gác khẩu hiệu
lập chính quyền Xô viết công – nông – binh bằng khẩu hiệu lập chính quyền dân chủ
cộng hòa.

+ Phương pháp đấu tranh: chuyển từ đấu tranh đòi dân sinh, dân chủ sang đấu tranh
trực tiếp đánh đổ chính quyền đế quốc và tay sai; từ hoạt động hợp pháp, nửa hợp
pháp sang hoạt động bí mật, bất hợp pháp.

+ Mặt trận: thành lập Mặt trận Thống nhất dân tộc phản đế Đông Dương(gọi tắt là Mặt
trận phản đế Đông Dương) thay cho Mặt trận Dân chủ Đông Dương, nhằm tập hợp mọi
lực lượng dân tộc chống đế quốc.

- Ý nghĩa:

+ Mở đầu cho quá trình chuyển hướng đấu tranh do Đảng Cộng sản Đông Dương Lãnh
đạo

+ Đưa nhiệm vị giải phóng dân tộc lên hàng đầu


 Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (tháng 5/1941)

- Tình hình chung: NVC và nhiều đồng chí UVTW Đảng sa vào tay giặc

- 9/1940: Quân phiệt Nhật và thực dân Pháp cấu kết và bốc lột nhân dân Đông Dương,
rơi vào cảnh 1 cổ 2 tròng.

- Ngày 28/1/1941, Nguyễn Ái Quốc về nước trực tiếp lãnh đạo cách mạng Việt Nam
sau 30 năm hoạt động ở nước ngoài.

-Từ ngày 10 - 19/5/941, Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung ương Đảng tại Pác
Bó (Cao Bằng) do Nguyễn Ái Quốc chủ trì.

- Hội nghị khẳng định:

+ Giải quyết mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ độc lập dân tộc và cách mạng ruộng đất,
đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu và nhấn mạnh là nhiệm vụ “ bức thiết
nhất”.

+ Tiếp tục tạm gác khẩu hiệu “cách mạng ruộng đất”, chỉ thực hiện khẩu hiệu giảm tô,
giảm tức, chia lại ruộng công.

+ Thành lập chính phủ nhân dân của nước Việt Nam Công hòa Dân chủ.

+ Thành lập Mặt trận Việt Nam độc lập đồng minh (Việt Minh) thay cho Mặt trận thống
nhất phản đế Đông Dương.

+ Thay tên các Hội phản đế thành Hội cứu quốc.


+ Hình thức khởi nghĩa: đi từ khởi nghĩa từng phần lên tổng khởi nghĩa.

- Ý nghĩa:

+ Hoàn chỉnh chủ trương chiến lược giải phóng dân tộc được đề ra tại Hội nghị Ban
Chấp hành Trung ương Đảng tháng 11/1939.

+ Khẳng định lại đường lối cách mạng giải phóng dân tộc đứng đắn trong Cương lĩnh
chính trị đầu tiên của Đảng, đồng thời khắc phục triệt để những hạn chế của Luận
cương Chính trị tháng 10 – 1930.

+ Là sự chuẩn bị về đường lối và phương pháp cách mạng cho thắng lợi của Tổng khởi
nghĩa tháng Tám năm 1945.

 Công cuộc chuẩn bị khởi nghĩa từng phần lên tổng khởi nghĩa
* Xây dựng lực lượng cho cuộc khởi nghĩa vũ trang
Trên cơ sở lực lượng cách mạng được nuôi dưỡng từ trước, bước vào giai đoạn trực
tiếp vận động cứu nước 1939 – 1945, việc chuẩn bị lực lượng mọi mặt được đẩy mạnh.
* Xây dựng lực lượng chính trị
- Vận động quần chúng tham gia xậy dựng các Hội cứu quốc trong Mặt trân Việt Minh.
- Năm 1942, khắp các châu ở Cao Bằng đều có hội Cứu quốc, Ủy ban Việt Minh tỉnh
Cao Bằng và Ủy ban Việt Minh lâm thời liên tỉnh Cao - Bắc - Lạng được thành lập.
- Năm 1943, Đảng đề ra Đề cương văn hóa Việt Nam.
- Năm 1944, thành lập Hội văn hóa cứu quốc và Đảng Dân chủ Việt Nam.
* Xây dựng lực lượng vũ trang
- Một bộ phận lực lượng vũ trang khởi nghĩa Bắc Sơn phát triển thành những đội du
kích, hoạt động ở căn cứu Bắc Sơn - Võ Nhai.
- Năm 1941, đội du kịch Bắc Sơn lớn mạnh, thống nhất thành Trung đội cứu quốc
quân.
- Ngày 15/9/1941, Trung đội cứu quốc quân II ra đời.
* Xây dựng căn cứ địa
- Tháng 11/1940, Bắc Sơn - Võ Nhai được Hội nghị Ban chấp hành Trung ương chủ
trương xây dựng thành khu Căn cứ địa cách mạng.
- Năm 1941, sau khi về nước, Nguyễn Ái Quốc chọn Cao Bằng để xây dựng căn cứ
địa.
=> Đây là hai căn cứ địa đầu tiên của cách mạng nước ta.
b, Gấp rút chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền.

Khởi nghĩa từng phần: Cao trào kháng Nhật cứu nước (từ tháng 3 -> tháng8/1945)
a, Hoàn cảnh lịch sử
- Đầu năm 1945, Hồng quân Liên Xô tiến đánh Béclin - sào huyệt cuối cùng của phát xít Đức,
một loạt các nước châu Âu được giải phóng.
- Mặt trận Châu Á - Thái Bình Dương: quân đồng minh giáng cho Nhật một đòn nặng nề.
- Ở Đông Dương: lực lượng Pháp theo phái ĐờGôn ráo riết hoạt động, chờ phản công Nhật: mâu
thuẫn Nhật - Pháp gay gắt.
- Ngày 9/3/1945, Nhật đảo chính Pháp.
- Ngày 12/3/1945, Ban Thường vụ Trung ương Đảng họp tại làng Đình Bảng (Từ Sơn - Bắc
Ninh) ra chỉ thị: “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”, nhận định:
+ Kẻ thù là: phát xít Nhật và tay sai.
+ Khẩu hiệu: “Đánh đuổi Pháp - Nhật” được thay bằng “Đánh đuổi phát xít Nhật”.
+ Hình thức đấu tranh: bất hợp tác, bãi công, bãi thị, biểu tình, vũ trang, du kích và sẵn sàng
chuyển sang tổng khởi nghĩa khi có điều kiện.
+ Phát động cao trào kháng Nhật cứu nước làm tiền đề cho cuộc Tổng khởi nghĩa.
b, Diễn biến
- Ở căn cứ Cao- Bắc - Lạng, Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân và Cứu quốc quân cùng với
quần chúng giải phóng nhiều xã, châu, huyện.
- Ở Bắc Kì và Trung Kì: phong trào “Phá kho thóc giải quyết nạn đói”, tạo thành phong trào đấu
tranh mạnh mẽ chưa từng có.
- Ở Quảng Ngãi, tù chính trị nhà lao Ba Tơ nổi dậy, thành lập chính quyền cách mạng (11-3), tổ
chức đội du kích Ba Tơ.
c, Ý nghĩa
- Cao trào kháng Nhật cứu nước thể hiện tinh thần nỗ lực đấu tranh giành độc lập của nhân dân
Việt Nam; đồng thời góp sức cùng Đồng minh tiêu diệt chủ nghĩa phát xít.
- Làm cho kẻ thù ngày càng suy yếu, thúc đẩy thời cơ tổng khởi nghĩa mau đến.
- Qua cao trào kháng Nhật, lực lượng cách mạng được tăng cường, trận địa cách mạng được mở
rộng, tạo ra đầy đủ những điều kiện chủ quan cho một cuộc tổng khởi nghĩa.
- Là một cuộc tập dượt vĩ đại, làm cho toàn đảng, toàn dân sẵn sàng, chủ động tiến lên chớp thời
cơ tổng khởi nghĩa => tiền đề cho Cách mạng tháng Tám.

2. Sự chuẩn bị cuối cùng trước ngày Tổng khởi nghĩa.


- Tháng 4/1945, Ban thường vụ Trung ương Đảng triệu tập Hội nghị Quân sự cách
mạng Bắc Kỳ quyết định:
+ Thống nhất các lực lượng vũ trang.
+ Đào tạo cán bộ quân sự và chính trị.
+ Phát triển chiến tranh du kích, xây dựng chiến khu.
- Ngày 16/4/1945, Tổng bộ Việt Minh ra chỉ thị thành lập Ủy ban Dân tộc giải phóng Việt
Nam và Ủy ban Dân tộc giải phóng các cấp.
- Ngày 15/5/1945, Việt Nam cứu quốc quân và Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân
thống nhất thành Việt Nam giải phóng quân.
- Tháng 5/1945, Hồ Chí Minh rời Pác Pó về Tân Trào (Tuyên Quang), chọn Tân Trào
làm trung tâm chỉ đạo phong trào cách mạng cả nước.
- Tháng 6/1945, thành lập khu giải phóng Việt Bắc và Ủy ban lâm thời khu giải phóng.
=> Công cuộc chuẩn bị được gấp rút hoàn thành. Toàn dân tộc đã sẵn sàng đón
chờ thời cơ vùng dậy tiến hành Tổng khởi nghĩa.
3. Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945
a, Nhật đầu hàng đồng minh, lệnh tổng khởi nghĩa được ban bố.
- Đầu tháng 8/1945, quân Đồng minh tiến công châu Á - Thái Bình Dương.
- Ngày 6 và 9/8/1945, Mĩ ném hai quả bom nguyên tử xuống thành phố Hirôsima và
Nagaxaki của Nhật Bản giết hại hàng vạn dân thường.
- Ngày 8/8/1945, Liên Xô tuyên chiến với Nhật Bản.
- Ngày 9/8/1945, Liên Xô tiêu diệt đội quân Quan Đông của Nhật ở Đông Bắc Trung
Quốc.
- Ngày 15/8/1945, Nhật tuyên bố đầu hàng đồng minh không điều kiện.
=> Quân Nhật ở Đông Dương rệu rã, chính phủ Trần Trọng Kim hoang mang.
Điều kiện khách quan cho Tổng khởi nghĩa đã đến.
*Chủ trương của Đảng Cộng sản và Tổng bộ Việt Minh
- Ngày 13/8/1945, Trung ương Đảng và Tổng bộ Việt Minh thành lập Uỷ ban khởi
nghĩa toàn quốc. 23 giờ cùng ngày, Uỷ ban khởi nghĩa toàn quốc ban bố Quân lệnh
số 1, chính thức phát lệnh Tổng khởi nghĩa trong cả nước.
- Từ ngày 14 đến 15/8/1945, Hội nghị toàn quốc của Đảng họp ở Tân Trào, thông qua
kế hoạch lãnh đạo toàn dân tổng khởi nghĩa.
- Từ ngày 16 đến ngày 17/8/1945, Đại hội quốc dân ở Tân Trào tán thành chủ trương
Tổng khởi nghĩa của Đảng, thông qua 10 chính sách của Việt minh, cử ra Uỷ ban giải
phóng dân tộc Việt Nam do Hồ Chí Minh làm chủ tịch.
b. Diễn biến Cách mạng Tháng 8/1945
IV. NƯỚC VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA ĐƯỢC THÀNH LẬP (2/9/1945)
- Ngày 25/8/1945, Chủ tich Hồ Chí Minh cùng Trung ương Đảng và Uỷ ban Dân tộc
giải phóng Việt Nam từ Tân Trào về đến Hà Nội.
- Ngày 28/8/1945, Uỷ ban Dân tộc giải phóng Việt Nam cải tổ thành Chính phủ lâm thời
nước Việt Nam Dân chủ Cộng Hòa.
- Ngày 2/9/1945, tại Quảng trường Ba Đình, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính
phủ lâm thời đọc “Tuyên ngôn độc lập”, trịnh trọng tuyên bố với toàn thể quốc dân và
cả thế giới: Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà thành lập.
- Nội dung của Tuyên ngôn Độc lập.
+ Khẳng định quyền độc lập tự do là quyền thiêng liêng bất khả xâm phạm mà mọi dân
tộc phải được hưởng trong đó có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự
do. “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do, độc lập, và sự thật đã trở thành một nước
tự do, độc lập”
+ Nêu rõ: “Pháp chạy, Nhật hàng, vua Bảo Đại thoái vị. Dân ta đã đánh đổ các xiềng
xích thực dân gần 100 năm nay để xây dựng nên nước Việt Nam độc lập. Dân ta lại
đánh đổ chế độ quân chủ mấy mươi thế kỉ mà lập nên chế độ dân chủ cộng hoà”
+ Khẳng định ý chí sắt đá của nhân dân Việt nam quyết giữ nền độc lập tự do vừa
giành được: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã trở thành
một nước tự do, độc lập. Toàn thể dân Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực
lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do độc lập ấy”.
V. NGUYÊN NHÂN THẮNG LỢI, Ý NGHĨA LỊCH SỬ VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM
CỦA CÁCH MẠNG THÁNG TÁM NĂM 1945
1. Nguyên nhân thắng lợi
a, Nguyên nhân khách quan:
Chiến thắng của quân Đồng minh trong cuộc chiến tranh chống phát xít tạo cơ hội
thuận lợi cho nhân dân Việt Nam đứng lên Tổng khởi nghĩa.
b, Nguyên nhân chủ quan:
- Truyền thống yêu nước của dân tộc Việt Nam.
- Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng và chủ tịch Hồ Chí Minh.
- Quá trình chuẩn bị lâu dài, chu đáo, rút kinh nghiệm qua đấu tranh.
- Trong những ngày khởi nghĩa toàn đảng toàn dân quyết tâm cao. Các cấp chi bộ
Đảng chỉ đạo linh hoạt, sáng tạo, chớp đúng thời cơ phát động quần chúng nổi dậy
giành chính quyền.
2. Ý nghĩa lịch sử
a, Đối với trong nước:
- Mở ra bước ngoặt lớn trong lịch sử dân tộc, phá tan xiềng xích nô lệ của Pháp hơn 80
năm và Nhật gần 5 năm, chấm dứt chế độ phong kiến, lập nên Nhà nước Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa
- Mở đầu kỉ nguyên mới của dân tộc: kỉ nguyên độc lập, tự do, kỉ nguyên nhân dân nắm
chính quyền, làm chủ đất nước.
- Đảng Cộng sản Đông Dương từ chỗ phải hoạt động bí mật, bất hợp pháp, trở thành
một Đảng cầm quyền và hoạt động công khai. Nhân dân Việt Nam từ địa vị nô lệ, bước
lên địa vị người làm chủ đất nước.
b, Đối với thế giới:
- Góp phần vào thắng lợi của cuộc chiến tranh chống chủ nghĩa phát xít; chọc thủng
hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc.
- Cổ vũ các dân tộc thuộc địa trong cuộc đấu tranh tự giải phóng; có ảnh hưởng trực
tiếp đến cách mạng Lào và Campuchia.
3. Bài học kinh nghiệm
– Về chỉ đạo chiến lược: Đảng vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào thực tiễn
Việt Nam, nắm bắt diễn biến tình hình thế giới và trong nước để thay đổi chủ trương
cho phù hợp; giải quyết đúng mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ độc lập dân tộc và cách
mạng ruộng đất, đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu.
– Về xây dựng lực lượng: Tập hợp, tổ chức đoàn kết lực lượng cách mạng trong một
mặt trận dân tộc thống nhất rộng rãi, tạo nên sức mạnh toàn dân, phân hoá và cô lập
cao độ kẻ đế quốc và tay sai để đánh đổ chúng.
– Về phương pháp cách mạng: Sử dụng bạo lực cách mạng của quần chúng, kết hợp
lực lượng chính trị với lực lượng vũ trang, kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ
trang, đi từ khởi nghĩa từng phần và chiến tranh du kích cục bộ ở nông thôn, tiến lên
chớp đúng thời cơ tổng khởi nghĩa ở cả nông thôn và thành thị, đập tan bộ máy chính
quyền của đế quốc và tay sai, thiết lập chính quyền cách mạng.
– Về xây dựng Đảng: Luôn kết hợp giữa tổ chức và đấu tranh, làm cho đảng vững
mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, đủ năng lực và uy tín lãnh đạo cách mạng
thành công

GIAI ĐOẠN 1945 – 1946


I. TÌNH HÌNH NƯỚC TA SAU CÁCH MẠNG THÁNG TÁM 1945
1. Khó khăn
a, Ngoại xâm và nội phản
- Miền Bắc (từ vĩ tuyến 16 trở ra): 20 vạn quân Trung Hoa Dân quốc kéo vào nước ta
theo sau là các đảng phái tay sai như: Việt Nam Quốc dân Đảng (Việt Quốc), Việt Nam
cách mạng đồng chí hội(Việt Cách) hòng giành lại chính quyền.
- Miền Nam (từ vĩ tuyến 16 trở vào Nam): Quân Anh kéo vào, dọn đường cho Pháp trở
lại xâm lược nước ta. Lợi dụng tình hình, bọn phản động ngóc đầu dậy làm tay sai cho
Pháp chống phá cách mạng.
- Trên cả nước còn 6 vạn quân Nhật chờ giải giáp, theo lệnh Anh chống cách mạng.
b, Đối nội
- Chính quyền cách mạng vừa thành lập, chưa được củng cố, lực lượng vũ trang non
yếu.
- Nạn đói cuối 1944 đầu 1945 chưa khắc phục được; nạn lụt lớn làm vỡ đê 9 tỉnh Bắc
Bộ; hạn hán kéo dài.
- Cơ sở công nghiệp chưa phục hồi, hàng hóa khan hiếm, giá cả tăng vọt, đời sống
nhân dân nhiều khó khăn.
- Ngân sách Nhà nước trống rỗng, tiền mất giá của Trung Hoa Dân Quốc tung ra thị
trường, làm tài chính nước ta rối loạn.
- Tàn dư văn hóa lạc hậu của chế độ thực dân, phong kiến để lại hết sức nặng nề, hơn
90% dân số không biết chữ.
=> Đất nước rơi vào tình thế “Ngàn cân treo sợi tóc”.
2.Thuận lợi cơ bản
- Nhân dân đã giành quyền làm chủ, được hưởng quyền lợi do chính quyền cách mạng
mang lại nên phấn khởi và gắn bó với chế độ.
- Cách mạng nước ta có Đảng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng suốt lãnh đạo.
- Hệ thống Xã hội chủ nghĩa đang hình thành, phong trào cách mạng thế giới phát triển.
- Phong trào đấu tranh vì hòa bình, dân chủ phát triển ở nhiều nước tư bản.

II. BƯỚC ĐẦU XÂY DỰNG CHÍNH QUYỀN CÁCH MẠNG, GIẢI QUYẾT NẠN ĐÓI,
NẠN DỐT VÀ KHÓ KHĂN VỀ TÀI CHÍNH
1. Xây dựng chính quyền cách mạng
- Ngày 06/01/1946, hơn 90% cử tri trong cả nước đi bỏ phiếu bầu Quốc hội và đã bầu
ra 333 đại biểu.
- Ngày 02/03/1946, Quốc hội thông qua danh sách Chính phủ liên hiệp kháng chiến do
Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu, lập ra Ban dự thảo Hiến pháp.
- Các địa phương thuộc Bắc Bộ và Trung Bộ bầu cử hội đồng nhân dân các cấp ( tỉnh,
huyện, xã) theo nguyên tắc phổ thông đầu phiếu.
- Ngày 09/11/1946: bản Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
được Quốc hội thông qua.
- Lực lượng vũ trang được xây dựng.
+ Việt Nam giải phóng quân đổi thành Vệ quốc đoàn (9/1945), rồi Quân đội quốc gia
Việt Nam (22/5/1946).
- Cuối năm 1945, lực lượng dân quân tự vệ tăng lên hàng chục vạn người.

Ý NGHĨA CỦA CUỘC TỔNG TUYỂN CỬ ĐẦU TIÊN


- Thắng lợi của cuộc tổng tuyển cử đã tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho Nhà nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa.
- Khẳng định lòng ủng hộ son sắc của cả dân tộc đối với Đảng và Chính phủ cách
mạng trước những âm mưu chia rẽ của bọn đế quốc và tay sai.
- Trên đây là những điều kiện ban đầu để Đảng và Nhà nước vượt qua được tình thế
“ngàn cân treo sợi tóc” lúc bấy giờ.
2. Giải quyết nạn đói
a, Biện pháp trước mắt
- Hồ Chủ Tịch kêu gọi “nhường cơm sẻ áo”, lập “Hũ gạo cứu đói”, tổ chức “Ngày đồng
tâm”.
- Quyên góp, điều hòa thóc gạo giữa các địa phương trong cả nước, nghiêm trị những
kẻ đầu cơ tích trữ, không dùng gạo, ngô, khoai, sắn để nấu rượu.
b, Biện pháp lâu dài
- Tăng gia sản xuất “Tấc đất tấc vàng”, “Không một tấc đất bỏ hoang”.
- Bỏ thuế thân và các thứ thuế vô lý.
- Giảm tô, thuế ruộng đất 25 %, chia lại ruộng đất công.
Kết quả: sản xuất nông nghiệp nhanh chóng được phục hồi, nạn đói bị đẩy lùi.
3. Giải quyết nạn dốt
- Xóa nạn mù chữ là nhiệm vụ cấp bách. Ngày 8/9/1945, Hồ Chủ Tịch ký sắc lệnh lập
Nha Bình dân học vụ, kêu gọi nhân dân xóa nạn mù chữ.
- Từ 9/1945 đến 9/1946, trên toàn quốc gần 76 nghìn lớp học, xóa mù chữ cho hơn 2,5
triệu người.
- Trường học các cấp phổ thông và đại học sớm khai giảng, nội dung và phương pháp
giáo dục được đổi mới theo tinh thần dân tộc dân chủ.
4. Giải quyết khó khăn về tài chính
- Kêu gọi tinh thần tự nguyện đóng góp của nhân dân cả nước qua “Quỹ độc lập” và
“Tuần lễ vàng”, thu được 370 kg vàng, 20 triệu đồng vào “Quỹ độc lập”, 40 triệu đồng
vào “Quỹ đảm phụ quốc phòng”.
- Ngày 23/11/1946. Quốc hội cho lưu hành tiền Việt Nam trong cả nước.

III. ĐẤU TRANH CHỐNG NGOẠI XÂM, NỘI PHẢN, BẢO VỆ CHÍNH QUYỀN CÁCH
MẠNG
1. Kháng chiến chống thực dân Pháp trở lại xâm lược ở Nam Bộ
- Ngay sau khi Nhật đầu hàng Đồng minh, chính phủ Pháp thành lập đạo quân viễn
chinh do tướng Lơcơléc chỉ huy, cử Đácgiăngliơ làm Cao ủy Đông Dương để tái chiếm
Đông Dương.
- Ngày 02/09/1945, nhân dân Sài Gòn - Chợ Lớn tổ chức mít tinh chào mừng “Ngày
Độc lập”, Pháp xả súng vào đám đông là nhiều người chết và bị thương.
- Ngày 6/9/1945 quân Anh vào giải giáp quân Nhật, đến Sai gòn, theo sau là quân
Pháp, yêu cầu ta giải tán lực lượng vũ trang, thả hết tù binh Pháp
- Đêm 22 rạng sáng 23/09/1945, được sự giúp đỡ của quân Anh, Pháp đánh úp trụ sở
Ủy ban nhân dân Nam Bộ và cơ quan tự vệ thành phố Sài Gòn, xâm lược nước ta lần
thứ hai.
Quân dân Nam Bộ nhất tề đứng lên chiến đấu chống quân xâm lược, đột nhập sân bay
tân Sơn Nhất, đốt cháy Tàu Pháp, đánh kho tàng, phá nhà giam.
- Phối hợp với lực lượng vũ trang, nhân dân Sài Gòn phá nguồn tiếp tế của địch, dựng
chướng ngại vật và chiến lũy trên đường phố, … chợ không họp tàu xe ngừng chạy,
điện, nước bị cắt => Quân Pháp bị bao vây trong thành phố.
- Từ 5/10/1945, sau khi có thêm viện binh, Pháp phá vòng vây Sài Gòn – Chợ Lớn, mở
rộng đánh chiếm Nam Bộ và Nam Trung Bộ.
- Đảng, Chính phủ và Hồ Chủ tịch lãnh đạo cả nước chi viện cho Nam Bộ và Nam
Trung bộ kháng chiến, các đoàn quân “Nam tiến” sát cánh cùng nhân dân Nam Trung
Bộ chiến đấu; tổ chức quyên góp giúp nhân dân Nam Bộ và Nam Trung Bộ kháng
chiến.
2. Đấu tranh với Trung hoa Dân Quốc và bọn phản cách mạng ở miền Bắc
a, Đối với quân Trung Hoa Quốc Dân Đảng
- Đảng, Chính phủ và Hồ Chủ tịch chủ trương tạm thời hòa hoãn, tránh xung đột với
quân Trung Hoa Dân Quốc tráng trường hợp một mình phải đối phó với nhiều kẻ thù
cùng một lúc.
- Tháng 3/1946 Quốc hội khóa I đồng ý:
+ Nhượng cho Việt Quốc, Việt cách 70 ghế trong Quốc hội,4 ghế Bộ trưởng trong
Chính phủ liên hiệp, cho Nguyễn Hải Thần (lãnh tụ Việt Cách) giữ chức Phó Chủ tịch
nước.
+ Kinh tế: cung cấp một phần lương thực thực phẩm, phương tiện giao thông vận tải,
nhận tiêu tiền Trung Quốc.
- Ngày 11-11-1945, Đảng cộng sản Đông Dương tuyên bố “tự giải tán” nhưng là tạm
thời rút vào hoạt động bí mật, tiếp tục lãnh đạo chính quyền cách mạng.
=> Nhằm giảm bớt sức ép của kẻ thù, tránh hiểu lầm và đảm bảo lợi ích dân tộc.
b, Đối với các tổ chức phản cách mạng, tay sai.
- Kiên quyết vạch trần âm mưu và hành động chia rẽ, phá hoại của chúng, nếu có đủ
bằng chứng thì trừng trị theo pháp luật.
- Ban hành một số sắc lệnh trấn áp bọn phản cách mạng.
* Ý nghĩa: hạn chế mức thấp nhất các hoạt động chống phá của Trung Hoa Dân Quốc
và tay sai, làm thất bại âm mưu lật đổ chính quyền cách mạng của chúng.
3. Hòa hoãn với Pháp nhằm đẩy quân Trung Hoa Dân Quốc ra khỏi nước ta. Hiệp
định Sơ bộ Việt - Pháp (6/3/1946)
a, Nguyên nhân việc ta hòa hoãn với Pháp (Hoàn cảnh ký Hiệp định Sơ bộ Việt -
Pháp 6/3/1946):
- Sau khi chiếm Nam Bộ, Pháp thực hiện kế hoạch tiến quân ra bắc nhằm thôn tính cả
nước ta.
- Ngày 28/2/1946, Pháp và Trung Hoa Dân Quốc ký “Hiệp ước Hoa – Pháp”
+ Pháp trả lại một số quyền lợi về kinh tế, chính trị cho Trung Hoa Dân Quốc và cho
Trung Quốc vận chuyển hàng hoá qua cảng Hải Phòng miễn thuế.
+ Đổi lại Trung Hoa Dân quốc cho Pháp đưa quân ra Bắc giải giáp quân đội Nhật.
- “Hiệp ước Hoa – Pháp” đã đặt nhân dân ta trước sự lựa chọn:
+ Hoặc cầm súng chiến đấu chống thực dân Pháp.
+ Hoặc hòa hoãn, nhân nhượng Pháp để tránh tình trạng phải đối phó một lúc với nhiều
kẻ thù.
- Ngày 3-3-1946, Ban Thường vụ Trung ương Đảng họp, do Hồ Chí Minh chủ trì, chọn
giải pháp “hòa để tiến”.
b, Nội dung Hiệp định Sơ bộ 6/3/1946
Ngày 6/3/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ ký với đại diện Chính phủ
Pháp bản “Hiệp định Sơ bộ” tại Hà Nội với nội dung:
- Pháp công nhận nước Việt Nam dân chủ cộng hòa là một quốc gia tự do, có Chính
phủ, Nghị viện, quân đội và Tài chính riêng là thành viên của Liên bang Đông Dương
nằm trong khối Liên Hiệp Pháp.
- Chính phủ Việt Nam thỏa thuận cho 15.000 quân Pháp ra miền Bắc thay quân Trung
Hoa Dân Quốc giải giáp quân Nhật, và số quân này sẽ đóng tại những địa điểm quy
định và rút dần trong thời hạn 5 năm.
- Hai bên ngừng xung đột ở miền Nam, tạo thuận lợi đi đến đàm phán chính thức về
vấn đề ngoại giao của Việt Nam, chế độ tương lai của Đông Dương, quyền lợi kinh tế
và văn hóa của người Pháp ở Việt Nam.
c, Ý nghĩa
- Tránh được việc phải đương đầu cùng lúc với nhiều kẻ thù, đẩy được 20 vạn quân
Trung Hoa Dân Quốc và tay sai ra khỏi nước ta.
- Có thêm thời gian hòa bình để củng cố, chuẩn bị mọi mặt cho kháng chiến lâu dài
chống Pháp.
d. Tạm ước Việt – Pháp (14 /9/1946)
- Ta tranh thủ điều kiện hòa bình để ra sức củng cố, xây dựng và phát triển lực lượng
về mọi mặt, chuẩn bị để đối phó với thực dân Pháp.
- Thực dân Pháp liên tiếp vi phạm Hiệp định: Gây xung đột ở Nam Bộ, tìm cách trì hoãn
và phá hoại các cuộc đàm phán, làm cho cuộc đàm phán ở Phôngtennơblô giữa hai
Chính phủ bị thất bại. Nguy cơ bùng nổ chiến tranh đến gần.
- Chủ tịch Hồ Chí Minh ký với Pháp Tạm ước 14/09/1946, nhân nhượng cho Pháp một
số quyền lợi kinh tế, văn hóa, tạo điều kiện cho ta có thêm thời gian xây dựng, củng cố
lực lượng, chuẩn bị vào cuộc kháng chiến toàn quốc chống Pháp lâu dài.

I. KHÁNG CHIẾN TOÀN QUỐC CHỐNG THỰC DÂN PHÁP BÙNG NỔ


1. Thực dân Pháp bội ước và tiến công nước ta
- Sau Hiệp định Sơ bộ 6/3/1946 và Tạm ước 14/9/1946, Pháp vẫn đẩy mạnh chuẩn bị
xâm lược Việt Nam lần hai.
+ Ngày 6/3/1946, Pháp tiến công các phòng tuyến của ta ở Nam Bộ và Nam Trung Bộ.
+ Tháng 11/1946, Pháp khiêu khích ta ở Hải Phòng, Lạng Sơn.
+ Ở Hà Nội, Pháp nổ súng, đốt nhà Thông tin, chiếm đóng Bộ tài chính, tàn sát đẫm
máu ở phố hàng Bún, Yên Ninh.
- Ngày 18/12/1946, Pháp gửi tối hậu thư đòi ta giải tán lực lượng tự vệ chiến đấu để
Pháp giữ gìn trật tự ở Hà Nội, nếu không, chậm nhất sáng 20/12/1946, chúng sẽ hành
động.
2. Đường lối kháng chiến chống Pháp của Đảng
a, Hoàn cảnh
- Ngày 12/12/1946 Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra chỉ thị Toàn dân kháng chiến.
- Ngày 18 và 19/12/1946, Hội nghị bất thường Trung ương Đảng tại Vạn Phúc - Hà
Đông quyết định phát động cả nước kháng chiến.
- 20 giờ ngày 19/12/1946, công nhân nhà máy điện Yên Phụ (Hà Nội) phá máy, cả
thành phố mất điện là tín hiệu tiến công. Hồ Chủ tịch ra “Lời kêu gọi toàn quốc kháng
chiến”.
b, Nội dung cơ bản
- Đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp của Đảng được thể hiện qua 3 văn kiện:
+ Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh (19/12/1946).
+ Chỉ thị Toàn dân kháng chiến của Ban Thường vụ Trung ương Đảng (12/12/1946).
+ Tác phẩm Kháng chiến nhất định thắng lợi (9/1947).
- Trên đây là những văn liện lịch sử về đường lối kháng chiến, nêu rõ tính chất, mục
đích, nội dung và phương châm của cuộc kháng chiến chống Pháp: kháng chiến toàn
dân, toàn diện, trường kỳ, tự lực cánh sinh và tranh thủ sự ủng hộ của quốc tế.
c, Ý nghĩa
- Thấm nhuần tư tưởng chiến tranh nhân dân, mang tính chất chính nghĩa nên được
nhân dân ủng hộ.
- Là ngọn cờ đoàn kết, động viên toàn dân đánh thắng kẻ thù xâm lược.
PHÂN TÍCH ĐƯỜNG LỐI KHÁNG CHIẾN CHỐNG PHÁP
- Kháng chiến toàn dân: “Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ, không
chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc, hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên chống thực
dân Pháp cứu tổ quốc”. Vì lợi ích toàn dân và phải do toàn dân tiến hành.
- Kháng chiến toàn diện: Trên các lĩnh vực chính trị, quân sự, ngoại giao, kinh tế, văn
hoá. Mặt khác ta vừa kháng chiến vừa kiến quốc, xây dựng chế độ dân chủ nhân dân
nên phải kháng chiến toàn diện.
- Tự lực cánh sinh: dựa vào sức mạnh nhân dân, đồng thời tranh thủ sự ủng hộ của
quốc tế
- Kháng chiến trường kỳ: Theo 3 giai đoạn: Phòng ngự, cầm cự và tổng phản công.
Địch mạnh hơn ta, nên ta phải trường kỳ thì mới phát huy được những thuận lợi, khắc
phục những hạn chế của ta. Lực ta còn yếu, địch đang rất mạnh nên ta phải đánh lâu
dài để tiêu hao sinh lực địch, phát triển dần lực lượng của ta, đến lúc ta sẽ mạnh hơn
và đánh bại kẻ thù.
- Tranh thủ sự ủng hộ của quốc tế: đoàn kết với nhân dân các nước thuộc địa trên
thế giới và sự ủng hộ, giúp đỡ của các nước Xã hội chủ nghĩa anh em.

GIAI ĐOẠN 1973 – 1975


- Miền Nam đấu tranh chống địch “bình định – lấn chiếm” tạo thế và lực tiến tới giải
phóng hoàn toàn miền Nam (1973 – 1975) 1. Miền Nam đấu tranh chống địch “bình định –
lấn chiếm”
a. Âm mưu và hành động mới của Mĩ và chính quyền Sài Gòn
– Ngày 29/3/1973, toán lính của Mĩ cuối rút khỏi miền Nam, nhưng Mĩ vẫn theo đuổi mục tiêu
Việt Nam hoá chiến tranh, duy trì một lực lượng hải quân và không quân ở Vịnh Bắc Bộ, Thái
Lan và Guam, để lại ở miền Nam “những người lính không mặc quân phục” cùng các nhân viên
dân sự; đổi tên cơ quan chỉ huy quân sự Mỹ (MACV) thành cơ quan ngoại giao – tuỳ viên quốc
phòng (DAO). Trước ngày ký Hiệp định Pari, Mỹ chuyển giao các căn cứ quân sự Mỹ cho chính
quyền Sài Gòn cùng với viện trợ khẩn cấp một lượng vật chất khổng lồ(1)
– Mĩ dung túng và cùng với chính quyền Sài Gòn phá hoại Hiệp định Paris, nhất là ba vấn đề:
ngừng bắn, thả tù chính trị và thực hiện các quyền tự do dân chủ ở miền Nam. Chính quyền Sài
Gòn tiến hành chiến dịch “tràn ngập lãnh thổ”, mở những cuộc hành quân “bình định – lấn
chiếm” vùng giải phóng.
b. Cuộc chiến đấu chống địch phá hoại Hiệp định Paris
– Tháng 7/1973, Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp Hội nghị lần 21, nhận định kẻ thù vẫn là
đế quốc Mĩ và tập đoàn Nguyễn Văn Thiệu; xác định nhiệm vụ cơ bản của cách mạng miền Nam
là tiếp tục cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân; khẳng định con đường cách mạng bạo lực,
nắm vững chiến lược tiến công, đấu tranh trên ba mặt trận: quân sự, chính trị, ngoại giao.
– Thực hiện nghị quyết 21, cuối năm 1973, quân và dân miền Nam đã chủ động mở các cuộc tiến
công, trọng tâm là đồng bằng Sông Cửu Long và Đông Nam Bộ, giành thắng lợi vang dội ở
Đường 14 – Phước Long (6/1/1975). Trận trinh sát chiến lược Phước Long cho thấy rõ sự suy
yếu của quân đội Sài Gòn và khả năng can thiệp của Mĩ là rất hạn chế.
2. Giải phóng hoàn toàn miền Nam, giành toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc
a. Chủ trương, kế hoạch giải phóng hoàn toàn miền Nam:
– Hội nghị Bộ Chính trị Trung ương Đảng (mở rộng) cuối năm 1974 đầu năm 1975 đề ra chủ
trương, kế hoạch giải phóng hoàn toàn miền Nam trong hai năm 1975 – 1976;
– Hội nghị nhấn mạnh, nếu thời cơ chiến lược đến vào đầu hoặc cuối năm 1975 thì lập tức giải
phóng hoàn toàn miền Nam trong năm 1975, cần phải tranh thủ thời cơ đánh nhanh thắng nhanh
để đỡ thiệt hại về người và của cho nhân dân.
b. Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân năm 1975 * Chiến dịch Tây Nguyên (từ ngày 4/3
đến ngày 24/3/1975)
– Vì sao Bộ Chính trị chọn Tây Nguyên làm hướng tiến công chủ yếu trong năm 1975?
+ Tây Nguyên là địa bàn chiến lược quan trọng nhất ở miền Nam.
+ Đây là nơi địch có sở hở trong chiến lược phòng ngự: do địch nhận định sai hướng tiến công
của ta, địch ít chú ý phòng thủ Tây Nguyên, mà chú trọng vùng chung quanh Sài Gòn và khu vực
Huế
– Đà Nẵng. Lực lượng địch ở Tây Nguyên có Quân đoàn 2, nhưng phải chia ra chiếm giữ nhiều
vị trí. Địch ở Tây Nguyên bố phòng sơ hở, chú trọng Kontum, không chú ý phòng thủ Buôn Ma
Thuột. + Là nơi ta có nhiều lợi thế: địa hình thuận lợi cho việc mở chiến dịch tiến công lớn, có
cơ sở hậu cần vững mạnh, đồng bào Tây Nguyên rât trung thành với cách mạng.
– Diễn biến: + 4/3/1975, quân ta đánh nghi binh ở Plâyku và Kon Tum nhằm thu hút quân địch
vào hướng đó.
+ Ngày 10/3/1975, ta mở cuộc tấn công vào Buôn Ma Thuột và giành thắng lợi.
+ Ngày 12/3/1975, địch phản công chiếm lại Buôn Ma Thuột nhưng không thành.
+ Sau 2 đòn đau nói trên, hệ thống phòng thủ của địch ở Tây Nguyên rung chuyển, quân địch
mất tinh thần, hàng ngũ rối loạn.
+ Ngày 14/3/1975, Nguyễn Văn Thiệu ra lệnh rút toàn bộ lực lượng khỏi Tây Nguyên, về giữ
vùng duyên hải miền Trung. Trên dường rút chạy, chúng bị quân ta truy kích tiêu diệt. Đến ngày
24/3/1975, Tây Nguyên rộng lớn với 60 vạn dân hoàn toàn được giải phóng.
– Ý nghĩa:
+ Mở ra quá trình sụp đổ hoàn toàn của quân đội và chính quyền Sài Gòn.
+ Chuyển cuộc kháng chiến chống Mĩ, cứu nước từ tiến công chiến lược ở Tây Nguyên phát
triển thành tổng tiến công chiến lược trên toàn miền Nam.
* Các chiến dịch giải phóng Huế và Đà Nẵng (từ ngày 21/3 đến ngày 29/3/1975)
– Nhận thấy thời cơ chiến lược đến nhanh và hết sức thuận lợi, ngay khi chiến dịch Tây Nguyên
đang tiếp diễn, Bộ Chính trị có quyết định kịp thời kế hoạch giải phóng Sài Gòn và toàn miền
Nam, trước tiên là mở các chiến dịch giải phóng Huế và Đà Nẵng.
– Diễn biến:
+ Phát hiện địch co cụm ở Huế, ngày 21/3/1975, quân ta đánh chặn các đường rút chạy của
chúng, hình thành thế bao vây thành phố Huế. Ngày 25/3, quân ta tiến vào cố đô Huế, đến hôm
sau thì giải phóng thành phố và toàn tỉnh Thừa Thiên. Cùng thời gian này, ta tổ chức tiến công,
tiêu diệt nhiều vị trí địch ở phía Nam Đà Nẵng như Tam Kì, Chu Lai, Quảng Ngãi, đẩy Đà Nẵng
vào thế bị cô lập.
+ Đà Nẵng, thành phố lớn thứ 2 ở miền Nam, căn cứ quân sự liên hợp hải – lục – không quân lớn
nhất của Mĩ và quân đội Sài Gòn. Ngày 29/3, quân ta từ 3 phía Bắc, nam và Tây tiến công giải
phóng Đà Nẵng, đập tan 10 vạn quân địch.
+ Từ cuối tháng 3 đến tháng 4, nhân dân các tỉnh còn lại ở ven biển miền Trung, Nam Tây
Nguyên và một số tỉnh Nam Bộ nổi dậy đánh địch, giành quyền làm chủ. Các đảo biển miền
Trung lần lượt được giải phóng.
– Ý nghĩa: Chiến thắng Huế – Đà Nẵng gây nên tâm lí tuyệt vọng trong chính quyền Sài Gòn,
đưa cuộc Tổng tiến công và nổi dậy của nhân dân ta tiến lên một bước mới với sức mạnh áp đảo.
* Chiến dịch Hồ Chí Minh (từ ngày 26/4 đến ngày 30/4/1975):
– Sau thắng lợi của các đòn tiến công chiến lược ở Tây Nguyên và Huế – Đà Nẵng, Bộ Chính trị
Trung ương Đảng nhận định: “Thời cơ chiến lược đã đến, ta có điều kiện hoàn thành sớm quyết
tâm giải phóng miền Nam”; quyết định mở cuộc tổng công kích, tổng khởi nghĩa vào Sài Gòn –
Gia Định; nhấn mạnh: “Phải tập trung nhanh nhất lực lượng, binh khí kĩ thuật và vật chất, giải
phóng miền Nam trước mùa mưa”. Ngày 14 – 4 – 1975, chiến dịch giải phóng Sài Gòn – Gia
Định được Bộ Chính trị quyết định mang tên Chiến dịch Hồ Chí Minh.
– Diễn biến:
+ Trước khi bắt đầu chiến dịch giải phóng Sài Gòn ta tiến công Xuân Lộc và Phan Rang.
+ Do các phòng tuyến phòng thủ bị chọc thủng và Phnôm Pênh được giải phóng, nội bộ Mĩ và
chính quyền Sài Gòn càng thêm hoảng loạn. Ngày 18-4-1975, tổng thống Mĩ ra lệnh di tản hết
người Mĩ khỏi Sài Gòn. Ngày 21/4, Nguyễn văn Thiệu từ chức tổng thống.
+ 17h ngày 26/4, năm cánh quân, với lực lượng 5 quân đoàn và tyương đương quân đoàn, nhanh
chóng vượt qua các tuyến phòng thủ vòng ngoài tiến vào trung tâm Sài Gòn, đánh chiếm các cơ
quan đầu não của địch.
+ 10h 45 phút ngày 30/4, xe tăng và bộ binh của ta tiến vào Dinh Độc Lập bắt toàn bộ Chính phủ
Trung ương Sài Gòn, Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng.
+ 11 giờ 30 phút, lá cờ cách mạng tung bay trên nóc Dinh Độc lập, báo hiệu chiến dịch Hồ Chí
Minh toàn thắng.
– Cùng thời gian trên, lực lượng vũ trang và nhân dân các tỉnh còn lại tiến công và nổi dậy, theo
phương thức xã giải phóng xã, huyện giải phóng huyện, tỉnh giải phóng tỉnh. Đến ngày 2/5/1975,
Châu Đốc là tỉnh cuối cùng ở miền Nam được giải phóng.
IV. Nguyên nhân thắng lợi, ý nghĩa lịch sử của cuộc kháng chiến chống Mĩ, cứu nước
(1954 – 1975)
1. Nguyên nhân thắng lợi
– Có sự lãnh đạo của Đảng, với đường lối chính trị, quân sự độc lập, tự chủ, đúng đắn, sáng tạo;
với tư tưởng chiến lược tiến công, phương pháp đấu tranh linh hoạt, kết hợp đấu tranh quân sự –
chính trị – ngoại giao.
– Nhân dân giàu lòng yêu nước, đoàn kết nhất trí, lao động cần cù, chiến đấu dũng cảm vì sự
nghiệp giải phóng miền Nam, xây dựng và bảo vệ miền Bắc, thống nhất đất.
– Có hậu phương miền Bắc, đáp ứng kịp thời các yêu cầu của cuộc chiến đấu ở hai miền.
– Có sự đoàn kết giúp đỡ lẫn nhau của ba dân tộc ở Đông Dương; sự đồng tình, ủng hộ, giúp đỡ
của Liên Xô, Trung Quốc, các nước xã hội chủ nghĩa, các lực lượng dân tộc, dân chủ và hoà bình
trên thế giới, kể cả nhân dân Mĩ.
2. Ý nghĩa lịch sử
– Kết thúc thắng lợi 21 năm chiến đấu chống Mĩ, cứu nước và 30 năm chiến tranh giải phóng dân
tộc, bảo vệ Tổ quốc từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, chấm dứt ách thống trị của chủ
nghĩa đế quốc, hoàn thành cuộc cách mạng dân chủ nhân dân trong cả nước, thống nhất Tổ quốc.
– Mở ra kỉ nguyên mới của lịch sử dân tộc – kỉ nguyên đất nước độc lập, thống nhất, đi lên chủ
nghĩa xã hội.
– Tác động mạnh đến tình hình nước Mĩ và thế giới, là nguồn cổ vũ to lớn đối với phong trào
giải phóng dân tộc thế giới.
– “Mãi mãi mãi được ghi vào lịch sử dân tộc ta như một trong những trang chói lọi nhất, một
biểu tượng sáng ngời về chủ nghĩa anh hùng cách mạng và trí tuệ con người và đi vào lịch sử thế
giới như một chiến công vĩ đại của thế kỷ XX, một sự kiện có tầm quan trọng quốc tế to lớn và
có tính thời đại sâu sắc”.
GIAI ĐOẠN 1975 – 1986

Đảng lãnh đạo công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội 1975 – 1986
1. Khắc phục hậu quả chiến tranh, haonf thành thống nhất đất nước
a. Tình hình đất nước sau Đại thắng mùa Xuân năm 1975
Miền Bắc Miền Nam
Thuận lợi Công cuộc xây dựng Hoàn toàn được giải
CNXH đạt nhiều thành phóng
tựu to lớn
Khó khăn Chiến tranh của Mỹ đã Nhiều di hại của xã hội
để lại hậu quả nặng nề và cũ còn tồn tại, còn lệ
lâu dài thuộc vào viện trợ bên
ngoài.
Chấm dứt tình trạng bị chia cắt hai miền Nam Bắc
Khắc phục lại hậu quả mà chiến tranh để lại, khôi phục và phát triển nền kinh tế
xã hội của hai miền đất nước.
Mở ra thời kì mới “CNXH”: độc lập – tự do – hạnh phúc

b. Nhanh chóng ổn định tình hình các vùng mới giải phóng, bước đầu khắc
phục hậu quả chiến tranh, tiến hành khôi phục kinh tế.
Tại miền Bắc:
Năm 1976, MB cơ bản hoàn thành nhiệm vụ khắc phục hậu quả của chiến tranh, khôi
phục lại nền kinh tế.
Mb còn làm nhiệm vụ quốc tế giúp đỡ Lào Cam trong thời kì mới.
Tại miền Nam
Ngay sau khi được giải phóng, MN lập thành chính quyền CM
Xây dựng vùng kinh tế mới, quốc hữu hoá ngân hàng, đổi tiền
Khôi phục sản xuất nông nghiệp để đáp ứng nhu cầu lâu dài về lương thực cho nhân dân.
c. Hoàn thành thống nhất đất nước về mặt nhà nước
25/4/1976, Đảng mở ra cuộc tổng tuyển cử bầu QH chung cả nước
Tháng 7/1976, QH khoá VI của nước VN thống nhất họp kì đầu tiên quyết định
Thông qua chính sách ĐN, ĐN, CMVN quyết định chuyển hướng sang giai đoạn CM
XHCN
Quốc huy mang dòng chữ CHXHCNVN
Quốc kỳ là nền đỏ sao vàng 5 cánh
Quốc ca là bài Tiến quân ca
Tên nước là CHXHCNVN, thủ đô là Hà Nội
Đổi tên TP SG-GĐ thành TPHCM
Tiến hành bầu cử cơ quan ,chức vụ lãnh đạo nhà nước, Ban dự thảo Hiến Pháp
Ý nghĩa: tạo điều kiện phát huy sức mạnh toàn diện của đất nước, để cả nước đi
lên CNXH, bảo vệ Tổ Quốc và mở rộng quan hệ với các nước trên thế giới.
2. Bước đầu xây dựng CNXH và bảo vệ tổ quốc (1976 – 1985)
2.1 Thực hiện kế hoạc 5 năm 1976 – 1980
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV (12/1976):
Xây dựng một bước CSVC- KT của CNXH, bước đầu hình thành cơ cấu kinh tế mới
trong cả nước mà chủ yêú là công – nông nghiệp.
Cải thiện một bước đời sống vật chất và văn hoá của nhân dân lao động
a. Một số kết quả phát triển KT – XH
Các cơ sở NN, CN, GTVT về cơ bản đã được khôi phục và bước đầu phát triển
Công cuộc cải tạo XHCN được đẩy mạnh trong các vùng mới giải phóng ở
miền Nam
Xoá bỏ những biểu hiện văn hoá phản động của chế độ thực dân, xây dựng nền
văn hoá mới cách mạng
Hệ thống GD từ mầm non, phổ thông đến đại học đều phát triển
b. Những khó khăn và hạn chế
Nền kinh tế còn mất cân đối
SX chậm phát triển, thu nhập và năng suất lao động còn thấp
Nảy sinh nhiều hiện tượng tiêu cực trong Xh
2.2 Thực hiện kế hoạch 5 năm 81-85
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứV 3/1978:
Cơ bản ổn định kinh tế - xã hội, đáp ứng nhu cầu cấp bách của đời sống nhân
dân, giảm nhẹ những mất cân đối nghiêm trọng của nền kinh tế.
a. Một số kết quả phát triển kinh tế - xã hội
NN và CN đã chặn được đà giảm sút của 5 năm trước (1976 – 1980) và có
bước phát triển
Cơ sở VC-KT: hàng trăm công trình lớn, vừa, nhỏ được hoàn thành; dầu mỏ
được khai thác
KH – KT: triển khai, góp phần thúc đẩy sản xuất phát triển
b. Những khó khăn và hạn chế
Mục tiêu cơ bản được ổn định tình kình kinh tế - xã hội vẫn chưa thực hiện
được
Sai lầm khuyết điểm trong lãnh đoạ và quản lý còn chậm khắc phục.

MÔ HÌNH ĐẶC TRƯNG XHCN TRONG CƯƠNG LĨNH NĂM 1991 VÀ


CƯƠNG LĨNH NĂM 2011
a. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH do Đại hội VII
(1991) của Đảng thông qua
Kể từ Đại hội lần thứ VI, đất nước sau hơn 4 năm đổi mới đã cơ bản ổn định nhưng
vẫn chưa ra khỏi khủng hoảng kinh tế xã hội. Công cuộc đổi mới còn nhiều hạn chế,
còn nhiều vấn đề kinh tế xã hội nóng bỏng chưa được giải quyết.
Đại hội lần thứ VII của Đảng họp tại Hà Nội từ ngày 24 đến 27/6/1991. Một trong
những điểm nổi bật của Đại hội là thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời
kỳ quá độ lên CNXH.
Từ thực tiễn cách mạng với những thành công và khuyết điểm, sai lầm, Cương lĩnh rút
ra những bài học lớn:
Một là, nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Đó là bài học xuyên
suốt quá trình cách mạng nước ta. Độc lập dân tộc là điều kiện tiên quyết để thực hiện
chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa xã hội là cơ sở bảo đảm vững chắc cho độc lập dân tộc.
Xây dựng chủ nghĩa xã hội, bảo vệ Tổ quốc vẫn là hai nhiệm vụ chiến lược có quan
hệ hữu cơ với nhau. Toàn Đảng, toàn dân tiếp tục nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc
và chủ nghĩa xã hội, ngọn cờ vinh quang mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trao lại cho thế
hệ hôm nay và các thế hệ mai sau.
Hai là, sự nghiệp cách mạng là của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Chính
nhân dân là người làm nên thắng lợi lịch sử. Toàn bộ hoạt động của Đảng phải xuất
phát từ lợi ích và nguyện vọng chân chính của nhân dân. Sức mạnh của Đảng là ở sự
gắn bó mật thiết với nhân dân. Quan liêu, mệnh lệnh, xa rời nhân dân sẽ đưa đến
những tổn thất không lường được đối với vận mệnh của đất nước.
Ba là, không ngừng củng cố, tăng cường đoàn kết: đoàn kết toàn Đảng, đoàn kết toàn
dân, đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế. Đoàn kết là truyền thống quý báu và là bài
học lớn của cách mạng nước ta.
Bốn là, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh trong nước với sức
mạnh quốc tế. Ngày nay, trước cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới vì hoà bình, độc
lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội, trước sự phát triển vũ bão của cuộc cách mạng
khoa học và công nghệ hiện đại và quá trình quốc tế hoá mạnh mẽ nền kinh tế thế
giới, càng cần phải kết hợp chặt chẽ yếu tố dân tộc với yếu tố quốc tế, yếu tố truyền
thống với yếu tố hiện đại để đưa đất nước tiến lên.
Năm là, sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu bảo đảm thắng lợi của
cách mạng Việt Nam. Đảng không có lợi ích nào khác ngoài việc phụng sự Tổ quốc,
phục vụ nhân dân. Đảng phải nắm vững, vận dụng sáng tạo và góp phần phát triển chủ
nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, không ngừng làm giàu trí tuệ, bản lĩnh
chính trị và năng lực tổ chức của mình để đủ sức giải quyết các vấn đề do thực tiễn
cách mạng đặt ra. Mọi đường lối, chủ trương của Đảng phải xuất phát từ thực tế, tôn
trọng quy luật khách quan. Phải phòng và chống được những nguy cơ lớn: sai lầm về
đường lối, bệnh quan liêu và sự thoái hoá, biến chất của cán bộ, đảng viên
Cương lĩnh đã trình bày xu thế phát triển của thế giới và đặc điểm của thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, từ đó xác định phải tiếp tục nâng cao ý chí tự lực tự
cường, phát huy mọi tiềm năng vật chất và trí tuệ của dân tộc, đồng thời mở rộng
quan hệ hợp tác quốc tế, tìm tòi bước đi, hình thức và biện pháp thích hợp xây dựng
thành công chủ nghĩa xã hội.
Cương lĩnh cũng nêu ra 6 đặc trưng cơ bản của xã hội XHCN mà nhân dân ta xây
dựng:
- Do nhân dân lao động làm chủ.
- Có một nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ
công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu.
- Có nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
- Con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất công, làm theo năng lực, hưởng
theo lao động, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện
cá nhân.
- Các dân tộc trong nước bình đẳng, đoàn kết và giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ.
- Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân tất cả các nước trên thế giới.
Cương lĩnh cũng nêu ra 7 phương hướng cơ bản trong quá trình xây dựng và bảo
vệ tổ quốc Việt Nam XHCN:
Một là, xây dựng Nhà nước xã hội chủ nghĩa, Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì
nhân dân, lấy liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức
làm nền tảng, do đảng cộng sản lãnh đạo.
Hai là, phát triển lực lượng sản xuất, công nghiệp hoá đất nước theo hướng hiện đại
gắn liền với phát triển một nền nông nghiệp toàn diện.
Ba là, phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất, thiết lập từng bước quan hệ
sản xuất xã hội chủ nghĩa từ thấp đến cao với sự đa dạng về hình thức sở hữu. Phát
triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vận
hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Thực hiện nhiều hình thức
phân phối, lấy phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế là chủ yếu.
Bốn là, tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa trên lĩnh vực tư tưởng và văn hoá làm
cho thế giới quan Mác - Lênin và tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh giữ vị trí chỉ đạo
trong đời sống tinh thần xã hội.
Năm là, thực hiện chính sách đại đoàn kết dân tộc, củng cố và mở rộng Mặt trận dân
tộc thống nhất, tập hợp mọi lực lượng phấn đấu vì sự nghiệp dân giàu, nước mạnh.
Thực hiện chính sách đối ngoại hoà bình, hợp tác và hữu nghị với tất cả các nước.
Sáu là, xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc là hai nhiệm vụ chiến lược của
cách mạng Việt Nam.
Bảy là, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức ngang
tầm nhiệm vụ, bảo đảm cho Đảng làm tròn trách nhiệm lãnh đạo sự nghiệp cách mạng
xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Về thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam, Cương lĩnh chỉ rõ đó là một quá trình lâu
dài, trải qua nhiều chặng đường với những định hướng lớn về chính sách kinh tế, xã
hội, quốc phòng-an ninh, đối ngoại. Mục tiêu tổng quát phải đạt tới, khi kết thúc thời
kỳ quá độ là xây dựng xong về cơ bản những cơ sở kinh tế của cnxh, với kiến trúc
thượng tầng về chính trị và tư tưởng, văn hóa phù hợp, làm cho Việt Nam trở thành
một nước XHCN phồn vinh.
Cương lĩnh cũng nêu rõ quan điểm về xây dựng hệ thống chính trị, xây dựng Nhà
nước XHCN của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân; xây dựng Mặt trận Tổ quốc
VN và các đoàn thể nhân dân. Trong hệ thống chính trị, Đảng CSVN là một bộ phận
và là tổ chức lãnh đạo hệ thống đó. Đảng lấy chủ nghĩa Mác – Lê nin và tư tưởng Hồ
Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động, lấy tập trung dân chủ
làm nguyên tắc tổ chức cơ bản. Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về tư tưởng
chính trị và tổ chức.
Mục tiêu tổng quát phải đạt tới khi kết thúc thời kỳ quá độ là xây dựng xong về cơ
bản những cơ sở kinh tế của chủ nghĩa xã hội, với kiến trúc thượng tầng về chính trị
và tư tưởng, văn hoá phù hợp, làm cho nước ta trở thành một nước xã hội chủ nghĩa
phồn vinh.
Quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là quá trình lâu dài, trải qua nhiều chặng
đường. Mục tiêu của chặng đường đầu là: thông qua đổi mới toàn diện, xã hội đạt tới
trạng thái ổn định vững chắc, tạo thế phát triển nhanh ở chặng sau.
Với những nội dung trên, Cương lĩnh năm 1991 đã giải đáp đúng đắn vấn đề cơ bản
nhất của cách mạng Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên CNXH; đặt nền tảng đoàn kết,
thống nhất giữa tư tưởng với hành động, tạo ra sức mạnh tổng hợp đưa Việt Nam tiếp
tục phát triển.
b. Cương lĩnh năm 2011 (bổ sung, phát triển Cương lĩnh năm 1991)
Đại hội lần thứ XI của Đảng (năm 2011) diễn ra trong hoàn cảnh tình hình thế giới
diễn biến phức tạp. Hòa bình hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn, nhưng chiến
tranh cục bộ, xung đột vũ trang, khủng bố, tranh chấp lãnh thổ diễn biến phức tạp.
Thiên tai, dịch bệnh, khủng hoảng kinh tế toàn cầu, ô nhiễm môi trường, biến đổi khí
hậu diễn ra nghiêm trọng trên toàn thế giới. Các thế lực thù địch tiếp tục chống phá,
kích động bạo loạn, đẩy mạnh hoạt động “diễn biến hòa bình” chống phá chế độ ta.
Nội dung nổi bật của Đại hội XI là thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong
thời kỳ quá độ lên CNXH (bổ sung, phát triển năm 2011), trong đó có kết cấu 4 phần
như Cương lĩnh năm 1991 song có bổ sung, phát triển nhận thức mới ở tiêu đề và nội
dung từng phần.
Cương lĩnh khẳng định lại những bài học kinh nghiệm lớn đã được nêu ra trong
Cương lĩnh năm 1991, đồng thời xác định quá độ lên CNXH ở Việt Nam trong bối
cảnh mới diễn biến phức tạp với đặc điểm nổi bật là các nước có chế độ chính trị và
trình độ phát triển khác nhau cùng tồn tại, vừa hợp tác vừa đấu tranh, cạnh tranh gay
gắt vì lợi ích quốc gia, dân tộc. Cuộc đấu tranh của nhân dân các nước vì hòa bình,
độc lập, dân chủ, phát triển và tiến bộ xã hội dù gặp nhiều khó khăn, thách thức nhưng
sẽ có những bước tiến mới. Trong đó, theo quy luật tiến hóa của lịch sử, loài người
nhất định sẽ tiến lên CNXH.
Về mô hình, mục tiêu, phương hướng cơ bản, Cương lĩnh năm 2011 có bổ sung 2 đặc
trưng của CNXH mà nhân ta xây dựng (gồm 8 đặc trưng thay cho 6 đặc trưng);
mục tiêu tổng quát khi kết thúc thời kỳ quá độ ở nước ta là xây dựng được về cơ bản
nền tảng kinh tế của CNXH với kiến trúc thượng tầng về chính trị, tư tưởng, văn hóa
phù hợp, tạo cơ sở để nước ta trở thành một nước XHCN ngày càng phồn vinh, hạnh
phúc. Mục tiêu đến giữa thế kỷ XXI là xây dựng nước ta thành một nước công nghiệp
hiện đại theo định hướng XHCN.
Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) xác định 8 phương hướng cơ bản xây
dựng CNXH ở nước ta: (1) Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước gắn
với phát triển kinh tế tri thức, bảo vệ tài nguyên, môi trường; (2) Phát triển nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; (3) Xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà
bản sắc dân tộc; xây dựng con người, nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện tiến bộ
và công bằng xã hội; (4) Bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia, trật tự,
an toàn xã hội; (5) Thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị,
hợp tác và phát triển; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; (6) Xây dựng nền dân
chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc, tăng cường và mở rộng mặt
trận dân tộc thống nhất; (7) Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của
nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; (8) Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh.
Cương lĩnh cũng xác định những định hướng lớn về phát triển kinh tế, văn hóa,
xã hội, quốc phòng an ninh, đối ngoại trong thời kỳ mới, bao gồm:
Phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN với nhiều hình thức sở hữu, nhiều
thành phần kinh tế, hình thức tổ chức kinh doanh và hình thức phân phối. Các thành
phần kinh tế hoạt động theo pháp luật đều là bộ phận hợp thành quan trọng của nền
kinh tế, bình đẳng trước pháp luật, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành
mạnh. Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. kinh tế tập thể không ngừng được củng
cố và phát triển. kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền
tảng vững chắc cho nền kinh tế quốc dân; kinh tế tư nhân là một trong những động lực
của nền kinh tế. Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài được khuyến khích phát triển.
Xây dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, phát triển toàn diện, thống
nhất trong đa dạng, thấm nhuần sâu sắc tinh thần nhân văn, dân chủ, tiến bộ, trở thành
nền tảng tinh thần vững chắc. Kế thừa và phát huy những truyền thống văn hóa tốt
đẹp của cộng đồng các dân tộc VN, tiếp thu những tinh hoa văn hóa nhân loại, xây
dựng một xã hội dân chủ, công bằng, văn minh, vì lợi ích chân chính và phẩm giá con
người, với trình độ tri thức, đạo đức, thể lực ngày càng cao.
Kết hợp tăng trưởng kinh tế với tiến bộ, khuyến khích tăng thu nhập và làm giàu dựa
vào lao động. Thiết lập hệ thống đồng bộ, đa dạng về bảo hiểm và trợ cấp xã hội; hạn
chế, tiến tới đẩy lùi tội phạm và giảm tác hại của tệ nạn xã hội; bảo đảm quy mô hợp
lý, cân bằng giới tính và chất lượng dân số.
Mục tiêu, nhiệm vụ quốc phòng an ninh là bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền,
thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế
độ XHCN; giữ vững hòa bình, ổn định chính trị, bảo đảm an ninh quốc gia và trật tự,
an toàn xã hội; chủ động ngăn chặn làm thất bại mọi âm mưu và hành động chống phá
của các thế lực thù địch đối với sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta…
Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát
triển; đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế;
nâng cao vị thế của đất nước, vì lợi ích quốc gia, dân tộc, vì một nước Việt Nam
XHCN giàu mạnh; là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng
đồng quốc tế, góp phần vào sự nghiệp hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã
hội trên thế giới.
Về hệ thống chính trị và vai trò lãnh đạo của Đảng, Cương lĩnh xác định bản chất dân
chủ xã hội chủ nghĩa là bản chất của chế độ ta, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của
sự phát triển đất nước; chủ trương xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa;
xác định vị trí, vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Na và các đoàn thể nhân dân; khẳng
định Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng cầm quyền, lãnh đạo Nhà nước và xã hội.
Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị, đồng thời là bộ phận của hệ thống ấy. Để đảm
đương được vai trò lãnh đạo, Đảng phải vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức;
thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn, ra sức nâng cao trình độ trí tuệ, bản lĩnh chính
trị, phẩm chất đạo đức và năng lực lãnh đạo. Giữ vững truyền thống đoàn kết thống
nhất trong Đảng, tăng cường dân chủ và kỷ luật trong hoạt động của Đảng. Thường
xuyên tự phê bình và phê bình, đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa cơ hội,
tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí và mọi hành động chia rẽ, bè phái. Đảng chăm lo
xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên trong sạch, có phẩm chất, năng lực, có sức chiến
đấu cao theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh; quan tâm bồi dưỡng, đào tạo lớp
người kế tục sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc.
Cương lĩnh năm 2011 của Đảng có ý nghĩa quan trọng về lý luận và thực tiễn, là sự
vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh xây dựng đất nước
trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở VN; thể hiện nhận thức mới về CNXH và con
đường đi lên CNXH ở Việt Nam. Cương lĩnh là cơ sở đoàn kết, thống nhất giữa tư
tưởng và hành động của toàn Đảng, toàn dân, là ngọn cờ chiến đấu vì thắng lợi của sự
nghiệp xây dựng đất nước Việt Nam từng bước quá độ lên CNXH.

You might also like