You are on page 1of 8

LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

Câu 1 : Có ý kiến cho rằng sự thành công của cách mạng Tháng 8 chỉ là sự ăn may. Anh chị có quan
điểm như thế nào về vấn đề trên? Trình bày nhận định của Anh Chị về vấn đề trên ?

Cách mạng Tháng Tám năm 1945 ở Việt Nam là cuộc cách mạng giải phóng dân tộc đầu tiên trên thế giới do
giai cấp công nhân lãnh đạo giành được thắng lợi, góp phần cùng Đồng Minh dân chủ quốc tế đánh bại chủ
nghĩa phát xít, kết thúc cuộc Chiến tranh thế giới lần thứ hai, đem lại hòa bình cho toàn thể nhân loại.... Cách
mạng Tháng Tám còn góp phần tích cực vào phong trào giải phóng dân tộc thuộc địa, mở đầu cho kỷ nguyên
độc lập, tự do của các dân tộc bị áp bức trên toàn thế giới.

_ Không thể phủ nhận là Cách mạng Tháng Tám năm 1945 giành thắng lợi trong điều kiện khách quan có
những yếu tố thuận lợi. Cuộc Chiến tranh thế giới thứ hai tạo cho dân tộc ta một cơ hội hết sức thuận lợi: Kẻ
thù của dân tộc ta lúc đó là thực dân Pháp và phát-xít Nhật đã tự loại nhau.Tuy nhiên, dù điều kiện khách
quan có thuận lợi đến đâu mà điều kiện chủ quan chưa chín muồi cho việc chớp thời cơ, phát động khởi
nghĩa, thì cách mạng cũng không thể thành công. Thực tế đã cho thấy, cũng trong hoàn cảnh khách quan
thuận lợi (thắng lợi của Đồng minh và thất bại của phát-xít Nhật), không phải nước nào cũng tiến hành được
một cuộc khởi nghĩa để giành lại độc lập dân tộc.

Tại thời điểm đó, chỉ ở Việt Nam, dưới sự lãnh đạo của Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh, với tinh thần
“Đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”, toàn dân đã tiến hành thắng lợi cuộc Tổng khởi nghĩa lật đổ sự thống
trị của phát-xít Nhật và bọn tay sai, giành lại độc lập, tự do cho dân tộc. Thắng lợi vĩ đại của cuộc Cách mạng
Tháng Tám năm 1945 là kết quả của một quá trình chuẩn bị đầy đủ lực lượng cách mạng của Đảng ta. Đồng
thời, nó cũng là kết quả của việc Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chủ động, tích cực theo dõi tình hình,
dự đoán chính xác thời cơ và kiên quyết lãnh đạo nhân dân đứng lên chớp thời cơ để tiến hành Tổng khởi
nghĩa. Trong hai yếu tố chủ quan và khách quan thì yếu tố chủ quan là động lực chính quyết định đến sự
thành, bại của Cách mạng Tháng Tám năm 1945.

* Nguyên nhân thắng lợi :

+ Nguyên nhân khách quan :Cách mạng tháng Tám được tiến hành trong bối cảnh quốc tế có những thuận lợi
nhất định. Chủ nghĩa phát xít Đức, Ý, Nhật đã bị đánh bại, phong trào đấu tranh giải phóng của các dân tộc
bị áp bức và của các lực lượng tiến bộ trên Thế giới phát triển mạnh.

+ Nguyên nhân chủ quan :

Cách mạng tháng Tám là kết quả tổng hợp của 15 năm đấu tranh của dân tộc ta dưới sự lãnh đạo của Đảng,
đã được rèn luyện qua cao trào 36 – 39 và cao trào vận động giải phóng dân tộc 1939 – 1945. Quần chúng
cách mạng đã được tổ chức lãnh đạo và rèn luyện bằng thực tiễn đấu tranh và trở thành lực lượng chính trị
hùng hậu, có lực lượng vũ trang nhân dân làm nòng cốt.

Sự lãnh đạo đúng đắn, sáng suốt, khéo léo của Đảng; là sự vận dụng và phát triển chủ nghĩa Mác- Lênin
trong điều kiện cụ thể của nước ta một cách đúng đắn, độc lập. Tự chủ và sáng tạo. Đảng có phương pháp,
chiến lược, chiến thuật cách mạng phù hợp, linh hoạt; nhận thức được thời cơ, chủ động đón thời cơ và kiên
quyết chớp thời cơ, tiến hành tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước.

* Sức mạnh dân tộc :

_ Thắng lợi này đã chứng tỏ nghệ thuật lãnh đạo, chỉ đạo chiến lược, tài tình sáng tạo của Đảng và Chủ tịch
Hồ Chí Minh. Đặc biệt là, Đảng ta đã xây dựng và phát huy cao độ sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân
tộc. Đó là, khối đại đoàn kết toàn dân, nòng cốt là liên minh công - nông - trí thức; trên cơ sở lợi ích, nhu
cầu, nguyện vọng của Nhân dân để tổ chức, tập hợp họ vùng lên đấu tranh “lấy sức ta giải phóng cho ta”. Vì
thế, Cách mạng Tháng Tám đã tạo nên một cao trào cách mạng rộng khắp, mạnh mẽ chưa từng thấy với đông
đảo lực lượng tham gia, không phân biệt dân tộc, tôn giáo, giai cấp, tầng lớp, mọi thành phần kinh tế, mọi
giới và mọi thành viên trong đại gia đình dân tộc Việt Nam.

_ Sức mạnh khối đại đoàn kết dân tộc trong tổng khởi nghĩa và Cách mạng Tháng Tám là sức mạnh của toàn
dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam với đường lối cách mạng đúng đắn. Đường lối đó luôn
thể hiện tư tưởng xuyên suốt của Đảng: cách mạng là sự nghiệp của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân.
Như vậy, quan điểm “đem sức ta mà giải phóng cho ta”, một mặt khẳng định sức mạnh nội lực, mặt khác kế
thừa, phát triển tư tưởng “lấy dân là gốc” của dân tộc ta..Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định: Đoàn
kết là một chính sách dân tộc, là phương pháp cách mạng, là nguyên nhân thắng lợi của cách mạng Việt
Nam. Người khẳng định: “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công, thành công, đại thành công”

* Sức mạnh thời đại :

_ Sức mạnh của phe Đồng minh đánh thắng Chủ nghĩa Phát-xít trong chiến tranh thế giới lần thứ hai, trực
tiếp là quân phiệt Nhật Bản, buộc Nhật Bản đầu hàng Đồng minh. Điều đó làm cho Nhật và các thế lực tay
sai ở Đông Dương hoang mang. Quân đội Nhật mất hết tinh thần, tạo cơ hội thuận lợi để nhân dân Việt Nam
đứng lên giành chính quyền.

_ Đảng ta đã kết hợp chặt chẽ sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; trong nước thì vận động, tổ chức
nhân dân đứng lên tổng khởi nghĩa giành chính quyền; ngoài nước thì liên minh với các dân tộc bị áp bức và
giai cấp vô sản ở các nước, tranh thủ sự ủng hộ của nhân dân tiến bộ trên toàn thế giới. Trong quá trình cách
mạng, Đảng ta luôn kiên trì con đường độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội, lấy chủ nghĩa Mác - Lênin
làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của mình. Tổng khởi nghĩa và thắng lợi của Cách mạng
Tháng Tám năm 1945 đã để lại những bài học kinh nghiệm cực kỳ quý báu về đại đoàn kết toàn dân tộc.
=>Như vậy, Cách mạng tháng Tám thắng lợi là kết quả của sự kết hợp khăng khít giữa những nhân tố chủ
quan và điều kiện khách quan thuận lợi (sự chuẩn bị lâu dài và chớp thời cơ của Đảng ta) . Những sự kiện
trên đây đã chứng minh rằng Đảng và nhân dân ta đã chuẩn bị lâu dài, chu đáo cho cuộc Tổng khởi nghĩa
tháng Tám 1945. Nhờ chuẩn bị chu đáo, trong suốt 15 năm kể từ khi có Đảng (1930 – 1945), trực tiếp là từ
1939 đến 1945 nên khi có thời cơ, Cách mạng tháng Tám diễn ra rất mau lẹ chỉ trong vòng 15 ngày, giành
được chính quyền trong cả nước mà ít đổ máu.

Câu 2 : Tại sao nói công nghiệp hóa là nhiệm vụ trung tâm của cả thời kỳ quá độ lên CNXH ?

* Khái niệm : Công nghiệp hóa là quá trình chuyển đổi cơ bản và toàn diện hầu hết các hoạt động sản xuất
từ việc sử dụng sức lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động phổ thông dựa
trên sự phát triển của ngành công nghiệp cơ khí. Ngoài ra, công nghiệp hóa còn được hiểu là quá trình nâng
cao tỷ trọng của công nghiệp trong toàn bộ các ngành kinh tế của một vùng kinh tế hay một nền kinh tế. Đó
là tỷ trọng về lao động, về giá trị gia tăng, về năng suất lao động,...

* Tính tất yếu của công nghiệp hóa :

_ Lý luận :

+ Mỗi phương thức sản xuất xã hội nhất định có một cơ sở vật chất – kỹ thuật tương ứng. Cơ sở vật chất – kỹ
thuật của một xã hội là toàn bộ hệ thống các yếu tố vật chất của lực lượng sản xuất xã hội, phù hợp với trình
độ kỹ thuật (công nghệ) tương ứng mà lực lượng lao động xã hội sử dụng để sản xuất ra của cải vật chất đáp
ứng nhu cầu xã hội.

+ Chỗ dựa để xem xét sự biến đổi của cơ sở vật chất – kỹ thuật của một xã hội là sự biến đổi và phát triển
của lực lượng sản xuất; sự phát triển khoa học – kỹ thuật; tính chất và trình độ của các quan hệ xã hội; đặc
biệt là quan hệ sản xuất thống trị. Nói cơ sở vật chất – kỹ thuật của một phương thức sản xuất nào đó là nói
cơ sở vật chất – kỹ thuật đó đã đạt đến một trình độ nhất định làm đặc trưng cho phương thức sản
xuất đó. Đặc trưng của cơ sở vật chất – kỹ thuật của các phương thức sản xuất trước chủ nghĩa tư bản là dựa
vào công cụ thủ công, nhỏ bé, lạc hậu.

+ Chủ nghĩa xã hội – giai đoạn thấp của phương thức sản xuất mới cao hơn chủ nghĩa tư bản – đòi hỏi một cơ
sở vật chất – kỹ thuật cao hơn trên cả hai mặt: trình độ kỹ thuật và cơ cấu sản xuất, gắn với thành tựu của
cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại. Do vậy, có thể hiểu, cơ sở vật chất – kỹ thuật của chủ nghĩa xã
hội là nền công nghiệp lớn hiện đại, có cơ cấu kinh tế hợp lý, có trình độ xã hội hóa cao dựa trên trình độ
khoa học và công nghệ hiện đại được hình thành một cách có kế hoạch và thống trị trong toàn bộ nền
kinh tế quốc dân.
+ Từ chủ nghĩa tư bản hay từ trước chủ nghĩa tư bản quá độ lên chủ nghĩa xã hội, xây dựng cơ sở vật chất –
kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội là một tất yếu khách quan, một quy luật kinh tế mang tính phổ biến và được
thực hiện thông qua công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

_ Thực tiễn :

+ Việt Nam đi lên chủ nghĩa xã hội từ một nước nông nghiệp lạc hậu, cơ sở vật chất – kỹ thuật thấp kém,
trình độ của lực lượng sản xuất chưa phát triển, quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa mới được thiết lập, chưa
được hoàn thiện. Vì vậy, quá trình công nghiệp hoá chính là quá trình xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật cho
nền kinh tế quốc dân. Mỗi bước tiến của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá là một bước tăng cường cơ
sở vật chất – kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội, phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất và góp phần hoàn thiện
quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa.

+ Trong xu thế khu vực hoá và toàn cầu hoá về kinh tế đang phát triển mạnh mẽ, trong điều kiện cách mạng
khoa học – kỹ thuật và công nghệ hiện đại phát triển rất nhanh chóng; những thuận lợi và khó khăn về khách
quan và chủ quan, có nhiều thời cơ và cũng có nhiều nguy cơ, vừa tạo ra vận hội mới, vừa cản trở, thách thức
nền kinh tế của chúng ta, đan xen với nhau, tác động lẫn nhau. Vì vậy, đất nước chúng ta phải chủ động sáng
tạo nắm lấy thời cơ, phát huy những thuận lợi để đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá, tạo ra thế và lực mới
để vượt qua những khó khăn, đẩy lùi nguy cơ, đưa nền kinh tế tăng trưởng, phát triển bền vững.

Tác dụng của công nghiệp hoá

Từ thập niên 60 của thế kỷ XX, Đảng Cộng sản Việt Nam đã đề ra đường lối công nghiệp hoá và coi công
nghiệp hoá là nhiệm vụ trung tâm xuyên suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Thực tiễn đã chứng minh
quá trình công nghiệp hóa sẽ có những tác dụng to lớn về nhiều mặt trong sự phát triển kinh tế – xã hội của
đất nước, đó là:

_ Công nghiệp hoá ở nước ta trước hết là quá trình thực hiện mục tiêu xây dựng nền kinh tế xã hội chủ nghĩa.
Đó là một quá trình thực hiện chiến lược phát triển kinh tế – xã hội nhằm cải tiến một xã hội nông nghiệp
thành một xã hội công nghiệp, gắn với việc hình thành từng bước quan hệ sản xuất tiến bộ, ngày càng thể
hiện đầy đủ hơn bản chất ưu việt của chế độ xã hội mới xã hội chủ nghĩa. Công nghiệp hoá là cơ sở kinh tế
để củng cố và phát triển khối liên minh vững chắc giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ
trí thức trong sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa. Đặc biệt là góp phần tăng cường quyền lực, sức mạnh
và hiệu quả của bộ máy quản lý kinh tế của Nhà nước.

_ Công nghiệp hoá là quá trình tạo ra những điều kiện vật chất – kỹ thuật cần thiết về con người và khoa học
– công nghệ, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế nhằm huy động và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực để
không ngừng tăng năng suất lao động làm cho nền kinh tế tăng trưởng nhanh, nâng cao đời sống vật chất và
văn hoá cho nhân dân, thực hiện công bằng và tiến bộ xã hội, bảo vệ và cải thiện môi trường sinh thái. Công
nghiệp hoá không những có tác dụng thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng phát triển cao mà còn tạo tiền đề vật
chất để xây dựng, phát triển và hiện đại hoá nền quốc phòng – an Sự nghiệp quốc phòng và an ninh gắn liền
với sự nghiệp phát triển văn hoá, kinh tế, xã hội.

_ Công nghiệp hoá đất nước thúc đẩy sự phân công lao động xã hội phát triển, thúc đẩy quá trình quy hoạch
vùng lãnh thổ hợp lý theo hướng chuyên canh tập trung làm cho quan hệ kinh tế giữa các vùng, các miền trở
nên thống nhất cao hơn. Tạo điều kiện vật chất để xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ vững mạnh trên cơ sở
đó mà thực hiện tốt sự phân công và hợp tác quốc tế. Thành công của sự nghiệp công nghiệp hoá nền kinh tế
quốc dân là nhân tố quyết định sự thắng lợi của con đường xã hội chủ nghĩa mà Đảng và nhân dân ta đã lựa
chọn. Chính vì vậy mà công nghiệp hoá kinh tế được coi là nhiệm vụ trọng tâm trong suốt thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội.

Câu 3 : Chứng minh Văn hóa là sức mạnh nội sinh của dân tộc ?

Việt Nam là quốc gia có nhiều lợi thế, nguồn lực tiềm năng về văn hóa để đẩy mạnh, phát huy trong điều
kiện hiện nay.

_ Thứ nhất, nói tới nguồn lực văn hóa phải nói đến nguồn lực con người, vì con người là nhân tố quan trọng,
là chủ thể sáng tạo ra nền văn hóa. Vẻ đẹp, sức mạnh, trí tuệ của con người Việt Nam là những phẩm chất,
đức tính quý báu cần được phát huy. Trong chiến tranh cách mạng, người Việt Nam từng làm nên những
chiến công vĩ đại, trở thành biểu tượng của hòa bình, lương tâm của thời đại, được bạn bè quốc tế cảm phục,
mến mộ, tự hào. Và trong công cuộc xây dựng đất nước hiện nay, những phẩm chất tốt đẹp về lòng yêu nước,
bản tính cần cù, chịu khó, sự thông minh, hiếu học, nỗ lực sáng tạo không ngừng cùng với tinh thần nhân ái,
khoan dung,… vẫn đang được phát huy, trở thành động lực to lớn để thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển. Bên
cạnh đó, với số dân hơn 90 triệu, chủ yếu ở độ tuổi “lao động vàng”, lực lượng lao động trẻ, năng động, có
tay nghề, chịu khó học hỏi, tiếp thu kinh nghiệm của thế giới,… là những tiềm năng, thế mạnh về nguồn lao
động dồi dào, nhân lực rẻ, thu hút nguồn đầu tư của các doanh nghiệp nước ngoài. Mặt khác, sự gia tăng, lớn
mạnh của đội ngũ những nhà khoa học trẻ, những nhà nghiên cứu có tài đang dần thúc đẩy sự hình thành,
phát triển nền kinh tế tri thức. Nhưng trên hết, những vẻ đẹp về lòng nhân ái, khoan dung, yêu chuộng hòa
bình; cách ứng xử lịch thiệp, trọng tình; vẻ đẹp nhã nhặn, xinh xắn, duyên dáng của những cô gái Việt với
những tà áo dài thướt tha; sự đồng lòng, chung tay giúp đỡ các quốc gia khi gặp hoạn nạn, khó khăn là những
thế mạnh tạo thành nguồn lực “sức mạnh mềm” để thu hút, chinh phục được tình cảm và sự giúp đỡ, quý
mến của các nước anh em.
_ Thứ hai, là đất nước được thiên nhiên ưu đãi, Việt Nam có nhiều phong cảnh và danh thắng được Tổ chức
Giáo dục, Văn hóa và Khoa học của Liên hợp quốc (UNESCO) công nhận là di sản thiên nhiên hàng đầu của
nhân loại như vịnh Hạ Long, động Phong Nha - Kẻ Bàng, bãi đá cổ Sapa; nhiều bãi biển đẹp (như Ngũ Hành
Sơn, Nha Trang), có du lịch sinh thái sông rạch, miệt vườn Nam Bộ độc đáo,… Ngoài ra, chúng ta còn được
thừa hưởng của cha ông một nền văn hóa đa dân tộc, phong phú về thể loại (cả dân gian lẫn bác học, cả văn
chương, hội họa, kiến trúc, lẫn ca múa nhạc), trong đó một số đã được UNESCO công nhận là di sản văn hóa
vật thể và phi vật thể của nhân loại (như kiến trúc cố đô Huế, Tháp Chàm, di tích thánh địa Mỹ Sơn, Nhã
nhạc, Cồng chiêng, Rối nước, Quan họ,…). Những di sản văn hóa vô giá ấy cần tiếp tục được nâng cao, phát
triển, giới thiệu, quảng bá với thế giới. Đây là những điều kiện thuận lợi để chúng ta phát triển du lịch, dịch
vụ - một ngành công nghiệp không khói đang được nhiều quốc gia tận dụng. Việc phát huy tốt giá trị các di
sản văn hóa vật thể và phi vật thể không chỉ khơi dậy truyền thống lịch sử, văn hóa mà còn giúp cho bạn bè
thế giới hiểu sâu về văn hóa, đất nước Việt Nam.

_ Thứ ba, Đảng và Nhà nước ta trong nhiều năm qua đã có nhiều chính sách đầu tư, phát triển cho văn hóa.
Các ngành thông tin truyền thông, báo chí xuất bản không ngừng phát triển; hoạt động sáng tác văn học,
nghệ thuật được quan tâm, chú trọng; ngành điện ảnh, truyền hình không ngừng được đầu tư; đội ngũ những
người làm công tác văn học được quan tâm, đào tạo, bồi dưỡng. Cùng với đó là những đổi mới trong cơ chế
quản lý, hình thành các thiết chế văn hóa nhằm tạo những điều kiện thuận lợi nhất để văn hóa phát triển bền
vững trong sự gắn kết hài hòa với phát triển kinh tế - xã hội.

Trong nhiều năm qua, Đảng, Nhà nước ta đã có nhiều chính sách đầu tư cho phát triển văn hóa, từng bước
đưa các ngành thông tin, truyền thông, báo chí, xuất bản phát triển; quan tâm, chú trọng các hoạt động sáng
tác văn học, nghệ thuật; ngành điện ảnh, truyền hình không ngừng chuyển biến cả về chất và lượng; đội ngũ
những người làm công tác văn hóa được đào tạo, bồi dưỡng thường xuyên. Cùng với đó là những đổi mới
trong cơ chế quản lý, tạo lập khung pháp lý cho các chủ thể trong các hoạt động văn hóa nhằm tạo điều kiện
thuận lợi để văn hóa phát triển bền vững trong sự gắn kết hài hòa với phát triển kinh tế - xã hội.

Câu 4 : Làm thế nào để phát huy sức mạnh tổng hợp của dân tộc ta trong quá trình hội nhập quốc tế.
Giải thích tại sao hoà bình, hợp tác và phát triển là xu thế chung của thế giới hiện nay ?

* Để phát huy sức mạnh tổng hợp của dân tộc ta trong quá trình hội nhập quốc tế cần kết hợp yếu tố nội lực và
yếu tố ngoại lực :

_ Yếu tố nội lực :

Sức mạnh dân tộc chính là yếu tố nội lực ,đó là tổng hợp những lợi thế, những nguồn lực nội sinh của dân
tộc, quốc gia bao hàm toàn bộ các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội; truyền thống và hiện tại. Ngày
nay, sức mạnh dân tộc của nước ta là tổng hợp sức mạnh vật chất và tinh thần, sức mạnh cứng và sức mạnh
mềm; được tạo nên bởi quy mô và chất lượng của dân số cả nước; các nguồn lực tự nhiên khá phong phú (đất
đai, rừng, biển, khoáng sản...); tiềm lực kinh tế và quân sự đã được tăng lên đáng kể sau hơn 35 năm đổi mới
(là nền kinh tế lớn thứ 4 trong ASEAN), vị trí địa - chính trị và địa - kinh tế của đất nước; truyền thống yêu
nước, tự lực, tự cường; nền văn hóa đậm tính nhân văn, cộng đồng; đóng góp của cách mạng Việt Nam đối
với sự nghiệp giải phóng dân tộc, hòa bình và tiến bộ xã hội trên thế giới; sự ổn định chính trị - xã hội; đường
lối đúng đắn của Đảng và sự đồng tình, ủng hộ của các tầng lớp nhân dân; sức mạnh tổng hợp quốc gia và vị
thế chính trị và ngoại giao của Việt Nam trên trường quốc tế.

_ Yếu tố ngoại lực :

Sức mạnh thời đại là các xu thế chính trị, kinh tế, xã hội trên thế giới như: hòa bình, hợp tác và phát triển,
cách mạng khoa học công nghệ, xu thế dân chủ hóa, xu thế phát triển bền vững, tự chủ, xu thế hợp tác và liên
kết kinh tế. Bên cạnh đó, sức mạnh của thời đại ngày này còn là sức mạnh của cộng đồng quốc tế ngày càng
đồng thuận trong kiến tạo, củng cố một trật tự thế giới dựa trên luật lệ, đa cực, đa trung tâm, dân chủ, công
bằng, bình đẳng, sức mạnh của hàng trăm quốc gia phấn đấu hoàn thành các mục tiêu phát triển thiên niên kỷ
(MDG); sức mạnh của thế giới văn minh trong kỷ nguyên của cách mạng khoa học công nghệ, kinh tế tri
thức, toàn cầu hóa...

Quan điểm về kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại của Đảng và của Chủ tịch Hồ Chí Minh xuất
phát từ quan điểm mácxít về giải quyết mâu thuẫn, về mối quan hệ biện chứng, tác động qua lại giữa các yếu
tố bên trong và yếu tố bên ngoài. Vận dụng quan điểm mácxít và tư duy biện chứng, Chủ tịch Hồ Chí Minh
luôn coi trọng việc kết hợp giữa các yếu tố bên trong và bên ngoài, đặt Việt Nam là một phần của thế giới,
xuôi theo dòng chảy lịch sử của thế giới. Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh là đánh giá, quan sát toàn
diện “nhìn cho rộng, suy cho kỹ”. Trong hai yếu tố bên trong và bên ngoài, Hồ Chí Minh đã từng căn dặn:
“Cái gốc, cái điểm mấu chốt về chính trị, quân sự, kinh tế, nội chính, ngoại giao của ta là tự lực cánh sinh”.
Trong khi sức mạnh dân tộc đóng vai trò quyết định thì sức mạnh thời đại giữ vai trò tạo điều kiện thuận lợi.
Như vậy, các yếu tố nội sinh cũng chính là nguồn lực chính, là gốc rễ cho sức mạnh của dân tộc, vì vậy phải
luôn được phát huy để đảm bảo tính độc lập, tự chủ để vững mạnh.

*Tại sao hoà bình, hợp tác và phát triển là xu thế chung của thế giới hiện nay ?

_ Thứ nhất, hòa bình, hợp tác và phát triển là nguyện vọng và là đòi hỏi bức thiết, là xu hướng chung của
mọi quốc gia, dân tộc trên thế giới. Nhân loại đã phải trải qua hai cuộc chiến tranh thế giới thảm khốc,
“Chiến tranh lạnh” và chạy đua vũ trang đã nhiều lần đẩy thế giới đến bên bờ cuộc chiến tranh hủy diệt. Sau
khi Chiến tranh lạnh kết thúc, hàng loạt vấn đề tác động không nhỏ đến môi trường kinh tế, chính trị, an ninh
quốc tế, như tranh chấp chủ quyền, lãnh thổ và tài nguyên, xung đột tôn giáo, sắc tộc, hoạt động khủng bố,
chủ nghĩa dân túy, chiến tranh cục bộ, chiến tranh mạng... tiếp tục diễn ra gay gắt, đe dọa nền hòa bình của
các nước trên thế giới. Vì vậy, hòa bình và phát triển là vấn đề trung tâm của thời đại và là một nội dung cốt
lõi trong chiến lược của mọi quốc gia trên thế giới, với mong muốn đẩy lùi chiến tranh, thiết lập một thế giới
hòa bình, dân chủ và văn minh. Hòa bình là điều kiện tiên quyết cho sự ổn định, hợp tác và phát triển của
mọi quốc gia - dân tộc và hợp tác là phương thức để phát triển và đạt tới hòa bình. Thế giới cần hòa bình,
nhân loại cần hợp tác, quốc gia cần phát triển, xã hội cần tiến bộ, tất cả đã trở thành xu thế phát triển khách
quan. Đúng như Đảng ta đã khẳng định: “Thế giới đang trải qua những biến động to lớn, diễn biến nhanh
chóng, phức tạp, khó dự báo. Hòa bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn, song đang đứng trước nhiều
trở ngại, khó khăn”.

_ Hiện nay, nếu như toàn cầu hóa không còn là một xu hướng nữa mà đã là một quá trình vận động mạnh mẽ
của thế giới, thì hội nhập quốc tế đang là lực hấp dẫn, đang lôi cuốn đối với mọi quốc gia. Dưới tác động của
toàn cầu hóa, nhu cầu hội nhập quốc tế cũng xuất hiện. Đảng Cộng sản Việt Nam xác định, hội nhập quốc tế
là sự nghiệp của toàn dân và của cả hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng. Hội nhập quốc tế trên cơ
sở phát huy tối đa nội lực; gắn kết chặt chẽ và thúc đẩy quá trình hoàn thiện thể chế, nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực, hiện đại hóa kết cấu hạ tầng, nâng cao sức mạnh tổng hợp và năng lực cạnh tranh quốc gia;
gắn kết chặt chẽ với việc tăng cường mức độ liên kết giữa các vùng, miền, khu vực trong nước. Bên cạnh đó,
xu thế chủ đạo hiện nay là các nước vừa hợp tác, vừa đấu tranh, vừa liên kết, vừa cạnh tranh, cùng tồn tại và
giải quyết các vấn đề tranh chấp bằng phương thức hòa bình, tránh đối đầu.

You might also like