Professional Documents
Culture Documents
Ô nhiễm môi trường nước là việc nguồn nước tại các ao, hồ, sông, suối, kênh, rạch,
mạch nước ngầm, biển…. chứa các chất độc hại với hàm lượng cao gây nguy hiểm
cho sức khỏe của con người và động thực vật.
3.2.3. Xây dựng và hoàn thiện hệ thống chế tài xử lý pháp luật về môi trường
Không ngừng đổi mới văn bản chính sách
Dấu ấn quản lý tài nguyên nước không ngừng được tăng cường và đã có những
bước tiến quan trọng mà việc cải cách ngành nước với việc thành lập Bộ TN&MT
để thực hiện chức năng quản lý Nhà nước về tài nguyên nước, tách chức năng quản
lý khỏi chức năng cung cấp các dịch vụ về nước là một bước đột phá hết sức quan
trọng.
Ngày 8/5/2003, Bộ trưởng Bộ TN&MT đã ban hành Quyết định số 600/2003/QĐ-
BTNMT quy định, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Cục
Quản lý tài nguyên nước. Theo đó, Cục Quản lý tài nguyên nước là đơn vị trực
thuộc Bộ TN&MT có chức năng giúp Bộ trưởng thực hiện nhiệm vụ quản lý Nhà
nước về tài nguyên nước. Xuất phát điểm từ những ngày đầu chỉ có 13 cán bộ
chuyển từ Bộ NN&PTNT sang, đến nay, tổng số cán bộ, công chức, viên chức của
Cục là 143 người, trong đó, có 46 công chức, 76 viên chức, 83 đảng viên với 7 Chi
bộ trực thuộc Đảng bộ. Đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức và người lao động
của Cục đa phần là cán bộ trẻ, năng động, được đào tạo bài bản, luôn được trau dồi
kiến thức chuyên môn nghiệp vụ và kỹ năng lãnh đạo, quản lý để hoàn thành tốt
các nhiệm vụ được giao.
Với những nỗ lực cao nhất, cùng với sự đoàn kết, đồng tâm của các cán bộ, công
chức và người lao động trong Cục, đến nay, hệ thống văn bản quy phạm pháp luật
về tài nguyên nước đã tương đối hoàn chỉnh, tạo lập hành lang pháp lý đầy đủ,
đồng bộ, thống nhất quản lý tài nguyên nước từ Trung ương đến địa phương.
Tại cấp Trung ương, đến nay, đã có 63 văn bản được ban hành để quy định chi tiết,
hướng dẫn thi hành và triển khai Luật, trong đó, có 12 Nghị định (4 Nghị định sửa
đổi, bổ sung), 16 Quyết định của Thủ tướng Chính phủ và 35 Thông tư của Bộ
trưởng Bộ TN&MT. Tại các địa phương, đến nay, đã có 54 tỉnh, thành phố ban
hành được 357 văn bản hướng dẫn, thi hành Luật Tài nguyên nước 2012 và các
quy định của Nghị định, Quyết định của Thủ tướng Chính phủ.
Đoàn kiểm tra của Cục Quản lý tài nguyên nước đi kiểm tra tại nhà máy nước Cầu
Đỏ (Đà Nẵng) tháng 11/2019.
Nguồn: https://monre.gov.vn/Pages/bao-ve-tai-nguyen-nuoc-cho-phat-trien-ben-
vung.aspx
Tập trung quản lý hiệu quả tài nguyên “vàng trắng”
Cục Quản lý tài nguyên nước cho biết, bảo vệ, khai thác, sử dụng tài nguyên nước,
phòng chống và khắc phục hậu quả, tác hại do nước gây ra đã được tuân theo chiến
lược, quy hoạch tài nguyên nước. Tài nguyên nước được quản lý bảo đảm, bảo vệ,
khai thác, sử dụng hợp lý tiết kiệm, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững
kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng an ninh.
Hiện nay, cả nước đã có khoảng hơn 24 nghìn công trình khai thác, sử dụng nước
và xả nước thải vào nguồn nước đã được quản lý từ Trung ương đến địa phương
thông qua biện pháp, công cụ cấp phép. Trong đó, Bộ TN&MT đã cấp 1.787 Giấy
phép tài nguyên nước cho các tổ chức và cá nhân. Ở địa phương, theo số liệu báo
cáo, tại 54 tỉnh đã cấp 23.794 Giấy phép tài nguyên nước cho các tổ chức và cá
nhân.
Tài nguyên nước đóng góp cho nguồn thu ngân sách của Nhà nước thông qua số
thu thuế, tiền cấp quyền khai thác, sử dụng nước của các tổ chức, cá nhân. Triển
khai thi hành Nghị định số 82/2017/NĐ-CP của Chính phủ về tiền cấp quyền khai
thác tài nguyên nước, Cục Quản lý tài nguyên nước đã thẩm định, trình Bộ phê
duyệt cho 774 công trình với tổng số tiền khoảng 11.500 tỷ đồng, tạo nguồn thu
cho ngân sách Nhà nước và làm thay đổi nhận thức của cộng đồng đối với hoạt
động khai thác, sử dụng tài nguyên nước theo hướng sử dụng tiết kiệm, hiệu quả
hơn.
Cục Quản lý tài nguyên nước đã chủ trì xây dựng, trình Thủ tướng Chính phủ ban
hành 11 Quy trình vận hành liên hồ chứa trên các lưu vực sông phải xây dựng quy
trình bao gồm các lưu vực sông: Ba, Vu Gia - Thu Bồn, Sê San, Srepok, Mã, Cả,
Kôn - Hà Thanh, Trà Khúc, sông Hồng, Đồng Nai và lưu vực sông Hương. Cùng
với đó, Cục đã trình Bộ để Bộ trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Danh mục lưu
vực sông gồm 392 sông liên tỉnh làm căn cứ để triển khai các hoạt động quản lý
lưu vực sông, phân công, phân cấp quản lý; Bộ đã ban hành Danh mục lưu vực
sông nội tỉnh gồm trên 3.045 sông nội tỉnh; danh mục nguồn nước liên tỉnh, nguồn
nước liên quốc gia (nguồn nước mặt) gồm 735 sông, suối, kênh, rạch, hồ chứa;
công bố giá trị dòng chảy tối thiểu ở hạ lưu các hồ chứa, đập dâng của các công
trình thủy lợi, thủy điện đối với 555 hồ chứa, đập dâng của 511 công trình thủy lợi,
thủy điện.
Hợp tác quốc tế song phương, đa phương, hội nhập kinh tế trong lĩnh vực tài
nguyên nước được mở rộng, đẩy mạnh. Năm 2014, Cục Quản lý tài nguyên nước
đã hoàn thiện hồ sơ gia nhập Công ước để trình Chủ tịch nước quyết định việc gia
nhập Công ước về Luật Sử dụng các nguồn nước liên quốc gia cho mục đích phi
giao thông thủy. Việc gia nhập Công ước của Việt Nam vào đầu năm 2014, với tư
cách là thành viên thứ 35, đã chính thức đưa Công ước về Luật Sử dụng các nguồn
nước liên quốc gia cho mục đích phi giao thông thủy sau 17 năm thông qua. Cục
luôn tích cực, chủ động tìm kiếm các nguồn tài trợ quốc tế phục vụ cho công tác
xây dựng thể chế, tăng cường năng lực cho hoạt động quản lý tài nguyên nước.
Đến nay, có khoảng 15 dự án quốc tế về tài nguyên nước đã và đang thực hiện.
Trải qua quá trình xây dựng và phát triển trong gần 20 năm, lĩnh vực tài nguyên
nước đã và đang từng bước khẳng định vị thế, vai trò của lĩnh vực quản lý nguồn
tài nguyên thiên nhiên quý giá, có tầm quan trọng đặc biệt đối với sự phát triển bền
vững của mỗi quốc gia, mỗi vùng lưu vực sông và mỗi địa phương.