You are on page 1of 6

C1 – SGK 12:

Tiêu chí Nội dung

Tiền đề - Tiền đề kinh tế: phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa ra
đời và phát triển mạnh ở Tây Âu và Bắc Mỹ. Tuy nhiên, sự
phát triển này gặp phải nhiều rào cản từ phía nhà nước phong
kiến hoặc chính sách cai trị hà khắc của chính quyền thực
dân.

- Tiền đề chính trị: chính sách cai trị của nhà nước phong
kiến hoặc chính quyền thực dân đã gây sự bất mãn cho các
tầng lớp nhân dân.

- Tiền đề xã hội: bên cạnh giai cấp phong kiến và nông dân,
trong xã hội các nước Âu - Mỹ đã xuất hiện những giai cấp và
tầng lớp mới như tư sản, quý tộc mới.... Họ đại diện cho
phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa và có mâu thuẫn với
giai cấp phong kiến hoặc chủ nghĩa thực dân.

- Tiền đề tư tưởng: Các trào lưu tư tưởng của giai cấp tư


sản phê phán những giáo lí lạc hậu quan điểm lỗi thời của giai
cấp phong kiến và đề xuất những tư tưởng mới tiến bộ thúc
đẩy xã hội phát triển.

Mục tiêu - Lật đổ chế độ phong kiến, thực dân cùng tàn tích của nó, tạo
điều kiện cho sự phát triển của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa.

- Thiết lập nền thống trị của giai cấp tư sản, mở đường cho sự
phát triển của chủ nghĩa tư bản.

Nhiệm vụ - Nhiệm vụ dân tộc: xóa bỏ tình trạng phong kiến cát cứ,
đánh đuổi thực dân, giải phóng dân tộc, thống nhất thị trường,
tạo thành một quốc gia dân tộc gồm đầy đủ bốn yếu tố lãnh
thổ chung, ngôn ngữ chung, nền văn hóa chung và nền kinh
tế chung.

- Nhiệm vụ dân chủ thể hiện thông qua việc: xóa bỏ chế độ
phong kiến chuyên chế, xác lập nền dân chủ tư sản, mỗi
người dân đều có quyền tự do chính trị, tự do kinh doanh và
có quyền tư hữu.

Lãnh đạo - Lãnh đạo cách mạng là giai cấp tư sản và các giai cấp, tầng
lớp đại diện cho phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa.

Động lực - Động lực cách mạng là những giai cấp, tầng lớp tiến hành
cách mạng, bao gồm lực lượng lãnh đạo và quần chúng nhân
dân (nông dân, công nhân, thị dân, nô lệ,…).

Kết quả - Các cuộc cách mạng tư sản đều giành thắng lợi, lật đổ chế
độ phong kiến, thực dân và thiết lập chế độ tư bản chủ nghĩa.

- Do điều kiện lịch sử ở mỗi nước khác nhau nên mức độ


thắng lợi của các cuộc cách mạng tư sản cũng khác nhau.

Ý nghĩa - Cách mạng tư sản thắng lợi đã đặt dấu mốc cho sự ra đời
của chế độ tư bản chủ nghĩa.

- Các bản tuyên ngôn, hiến pháp được công bố trong hoặc
sau cách mạng mang tư tưởng tiến bộ về dân tộc, quyền con
người, quyền công dân. Do đó, góp phần thúc đẩy mạnh mẽ
các cuộc cách mạng chống phong kiến và phong trào đấu
tranh giải phóng dân tộc ở Á - Phi - Mĩ Latinh.

C2 – SGK 12:

Tư liệu về Ô-li-vơ Crôm-oen (lãnh đạo cách mạng tư sản Anh)

+ Ô-li-vơ Crôm-oen (1599 - 1658) là đại diện tiêu biểu cho tầng lớp quý tộc
mới, có nhiều công lao đưa cuộc cách mạng đến thắng lợi và đã nắm quyền
độc tài quân sự trong những năm 1653 - 1658.

+ Năm 1640, Ô. Crôm-oen được bầu làm đại biểu Quốc hội. Trong Quốc hội,
ông đã hăng hái chống lại nhà Vua và Giáo hội Anh. Khi cách mạng Anh nổ
ra (1642), ông đã tổ chức đạo quân kiểu mới, làm hạt nhân cho quân đội của
Quốc hội. Dưới sự lãnh đạo của Ô. Crôm-oen, quân đội Quốc hội đã đánh
bại quân đội của nhà vua.

+ Sau khi vua Sác-lơ I bị xử tử (1649), chế độ Cộng hoà được thiết lập.
Chính phủ Cộng hoà đã phái Crôm-oen mang quân đội sang chinh phục và
đàn áp những cuộc khởi nghĩa của nhân dân Ai-len.

+ Năm 1650, Crôm-oen dẫn quân đội lên Xcốt-len và mau chóng thu được
thắng lợi. Hai năm sau, Crôm-oen lại tiến hành chiến tranh với Hà Lan, buộc
nước này phải chấp nhận Luật Hàng hải của Anh. Khi trong nước xảy ra
nhiều biến động do quần chúng lớp dưới không thoả mãn với những chính
sách của Chính phủ Cộng hoà, bọn sĩ quan cao cấp và bọn đại tư sản ở
Luân Đôn đã ủng hộ Crôm-oen thực hiện chế độ độc tài quân sự.

+ Năm 1653, Hội đồng Sĩ quan bầu Crôm-oen làm người đứng đầu Chính
phủ và phong cho ông chức vụ suốt đời làm bảo hộ công. Lúc đầu, Crôm-
oen còn chia sẻ quyền lợi với Hội đồng Quốc gia, nhưng từ năm 1655, ông
nắm tất cả mọi quyền hành, thậm chí không triệu tập cả Quốc hội. Chính vì
vậy, lịch sử nước Anh gọi thời kì do ông nắm quyền là Chế độ độc tài quân
sự Crôm-oen.

+ Ngày 3/9/1658, Ô. Crôm-oen qua đời, chế độ Bảo hộ công cũng nhanh
chóng sụp đổ.

- Tư liệu về Gioóc-giơ Oa-sinh-tơn (lãnh đạo chiến tranh giành độc lập
của 13 thuộc địa Anh ở Bắc Mỹ)

+ G. Oa-sinh-tơn (1732 - 1799) sinh trưởng trong một gia đình chủ nô giàu
có ở bang Viếc-gi-ni-a. Ông có thân hình cao lớn, khuôn mặt dài với đôi gò
má cao, mũi thẳng, cặp mắt xanh xám ẩn dưới hàng lông mày rậm và mái
tóc nâu sẫm. Oa-sinh-tơn là người vô cùng trầm lặng, về cơ bản ông là
người tốt bụng nhưng nóng nảy.

+ Năm 16 tuổi, ông đã trở thành kĩ sư và được nhận danh hiệu Thiếu tá quân
đội. Trước khi diễn ra cuộc đấu tranh giành độc lập, ông đã từng là chỉ huy
quân đội ở bang Viếc-gi-ni-a, tích cực đấu tranh chống lại các chính sách cai
trị hà khắc của chính quyền Anh.
+ Ngay từ đầu cuộc Chiến tranh giành độc lập của các thuộc địa Anh ở Bắc
Mĩ, Đại hội đã bầu Oa-sinh-tơn làm tổng chỉ huy các lực lượng vũ trang của
nghĩa quân (15/6/1775). Ở chức vụ này, ông đã thể hiện những phẩm chất
đạo đức cao cả, lòng dũng cảm, tài chỉ huy quân sự của mình. Với ông,
“gươm đao là giải pháp cuối cùng để bảo vệ tự do của chúng ta, vì thế nó
phải là vật đầu tiên cần dỡ bỏ khi tự do ấy được thiết lập vững vàng”. Quốc
hội đã nhiều lần trao cho ông những quyền hạn lớn, thậm chí quyền độc tài.
Ông rất có uy tín trong quần chúng nhân dân và là người có vai trò thúc đẩy
cuộc Chiến tranh giành độc lập của 13 thuộc địa Anh ở Bắc Mĩ giành thắng
lợi. Vào cuối cuộc chiến tranh, một nhóm sĩ quan phản động âm mưu tổ
chức xây dựng chế độ quân chủ và đề nghị trao ngai vàng cho Oa-sinh-tơn.
Ông đã từ chối lời đề nghị đó. Trong quá trình diễn ra cuộc chiến tranh, ông
dựa vào thế hiểm trở của rừng núi, tạo ra cách đánh du kích, bắn tỉa từ xa.
Quân Anh chỉ quen cách đánh dàn trận hàng ngang và đánh giáp lá cà, nên
bị thất bại nhanh chóng.

+ Tháng 10/1777, quân khởi nghĩa dưới sự chỉ huy của G. Oa-sinh-tơn đã
giành thắng lợi lớn tại Xa-ra-tô-ga. Tiếp đó, nghĩa quân giành thắng lợi ở
nhiều trận khác, buộc Anh phải kí Hiệp ước Véc-xai năm 1783.

+ Với Hiệp ước Véc-xai năm 1783, cuộc Chiến tranh giành độc lập kết thúc,
các thuộc địa Anh ở Bắc Mĩ được giải phóng và thực dân Anh phải công
nhận nền độc lập ở nơi này. Năm 1787, Hiến pháp của Mĩ được soạn thảo
dưới sự chủ trì của G. Oa-sinh-tơn. Năm 1789, G. Oa-sinh-tơn được bầu làm
tổng thống đầu tiên của Hợp chúng quốc Hoa Kỳ và được tái cử nhiệm kì hai
vào năm 1792. Với những đóng góp to lớn đó, tên của ông đã được đặt cho
thủ đô của nước Mĩ - Thủ đô Oa-sinh-tơn.

- Tư liệu về M. Rô-be-spi-e (lãnh đạo tiêu biểu trong cách mạng tư sản
Pháp)

+ M. Rô-be-spie, nhà cách mạng tư sản cánh tả trong thời kì Cách mạng tư
sản Pháp (1789 - 1794), người lãnh đạo chủ chốt của phái Giacôbanh - phái
đã đưa cuộc cách mạng lên đỉnh cao nhất.

+ M. Rô-be-spie sinh năm 1758 ở An-rát, trong một gia đình luật sư. Trước
năm 1789, ông từng làm luật sư ở An-rát và nổi tiếng ở quê hương qua
những vụ kiện chính trị, những tác phẩm triết học và những bài báo đả kích
chế độ phong kiến. Rô-be-spie chịu ảnh hưởng sâu sắc những tư tưởng triết
học của Rut-xô.

+ Năm 1789, đẳng cấp thứ ba ở An-rát đã cử Rô-be-spie làm đại biểu tham
gia Hội nghị ba đẳng cấp và ông được bầu vào Quốc hội. Ông đứng đầu
cánh tả, còn gọi là phái Núi, đấu tranh kiên quyết chống lại phái hữu để bảo
vệ quyền lợi của bình dân và đòi đưa vua Lu-i XVI ra xét xử.

+ Ban đầu, những bài phát biểu của ông ở Quốc hội lập hiến không có kết
quả gì. Người ta không chú ý đến ông và không nghe những gì ông nói. Họ
buồn cười vì điệu bộ có vẻ khoa trương mà giọng nói lại nhỏ nhẹ của ông.
Song, chẳng có gì khiến Rô-be-spie sợ hãi và bối rối. Ông yêu cầu được
phát biểu về mọi vấn đề quan trọng và bất chấp thái độ của phần lớn đại biểu
trong Quốc hội lập hiến, kiên quyết, nhẫn nại bảo vệ quyền lợi của nhân dân,
đòi thi hành quyền phổ thông đầu phiếu, quyền bình đẳng chính trị. Những
đề nghị của Rô-be-spie bao giờ cũng bị đại đa số dại biểu trong Quốc hội lập
hiển bác bỏ. Nhưng có điều lạ là những lời phát biểu của ông tuy không có
kết quả gì, nhưng lại buộc những người nghe dần dần thay đổi thái độ của
mình. Khi Rô-be-spie bước lên diễn đàn, không còn có sự thờ ơ, không có
tiếng cười mà chỉ có sự im lặng thù địch, cảnh giác bao trùm cả phòng họp.
Điều này chứng tỏ người ta phải chú ý lắng nghe giọng nói của ông.

+ Trong những năm 1790 - 1791, ông trở thành nhà hoạt động chính trị
chung của cả nước. Năm 1793, là lãnh tụ xuất sắc của phái Giacôbanh. Mỗi
khi ông xuất hiện ở các cuộc họp của phái Giacôbanh, thì người ta vỗ tay
nồng nhiệt đón tiếp.

+ Cuộc khởi nghĩa ngày 31/5/1793 do nhân dân Pa-ri tiến hành, đưa phái
Giacôbanh - đứng đầu là Rô-be-spie lên nắm chính quyền. Quân đội cách
mạng dưới sự lãnh đạo của phái Giacôbanh đã liên tiếp đánh bại và đẩy lùi
quân đội can thiệp của các nước châu Âu ra ngoài biên giới. Nhưng rồi trong
nội bộ của phái Giacôbanh có sự phân hoá: một bộ phận giàu có muốn dừng
cuộc cách mạng lại, còn đa số những người nghèo khổ muốn thúc đẩy cách
mạng tiến lên hơn nữa. Mặt khác, những chính sách của phái Giacôbanh
không đáp ứng đầy đủ quyền lợi cho quần chúng nghèo khổ, cho nên nhiệt
tình cách mạng của họ không được như trước nữa.
+ Ngày 9 tháng Téc-mi-do (tháng nóng), năm thứ II của nền Cộng hoà
(27/7/1794), bọn phản động và thoái hoá trong Quốc hội đã tấn công và bắt
giam Rô-be-spie. Sáng ngày 10 tháng Téc-mi-do (28/7), Rô-be-spie cùng các
bạn chiến đấu của mình đã bị đưa lên máy chém không qua xét xử.

Tìm hiểu mối liên hệ giữa bản Tuyên ngôn Độc lập của Việt Nam (1945)
với bản Tuyên ngôn Độc lập của nước Mỹ (1776) và bản Tuyên ngôn
Nhân quyền và Dân quyền của nước Pháp (1789).

- Trong quá trình soạn thảo Tuyên ngôn Độc lập cho nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tham khảo và trích dẫn một phần trong
Tuyên ngôn Độc lập của nước Mỹ (1776) và Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân
quyền của nước Pháp (1789). Cụ thể:

+ Trích dẫn từ Tuyên ngôn Độc lập của nước Mỹ (1776): “Tất cả mọi người
đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có
thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự
do và quyền mưu cầu hạnh phúc”.

+ Trích dẫn từ Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của nước Pháp (1789):
“Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi, và phải luôn luôn được tự
do và bình đẳng về quyền lợi”.

giá trị của bản tuyên ngôn độc lập:

Tuyên ngôn Độc lập là một tác phẩm đỉnh cao, tiêu biểu, phản ánh
đầy đủ nhất, sâu sắc nhất quan điểm triết học, quan điểm chính trị và
cả quan điểm nhân sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Trong đó chứa
đựng cả những giá trị của văn minh nhân loại, những “lẽ phải không ai
chối cãi được” về quyền con người, quyền dân tộc.

You might also like