You are on page 1of 3

1.

Lý thuyết hữu dụng kỳ vọng:


1.1 Khái niệm hữu dụng/ thỏa dụng (Utility):i
Thỏa dụng là một khái niệm trong kinh tế học, mô tả sự thỏa mãn hoặc hài lòng do
tiêu dùng một sản phẩm mang lại. Thỏa dụng có thể được đo lường bằng tiền, điểm số,
hoặc các đơn vị khác. Thỏa dụng có thể khác nhau giữa các cá nhân và giữa các thời
điểm. Thỏa dụng còn phụ thuộc vào nhu cầu, mong muốn, sở thích và tâm trạng của
người tiêu dùng.
1.2. Hữu dụng kỳ vọng (Expected Utility):ii
Hữu dụng kỳ vọng là một khái niệm trong lý thuyết kinh tế, mô tả cách mà một người
hợp lý sẽ lựa chọn giữa các hành động hoặc sự kiện có kết quả không chắc chắn. Hữu
dụng kỳ vọng được tính bằng cách nhân hữu dụng của mỗi kết quả có thể xảy ra với xác
suất của kết quả đó, và cộng lại tất cả các tích này.
1.3. Rủi ro và hữu dụng (Risk and Utility):iii
Độ e ngại rủi ro là một thuộc tính của người ra quyết định, thể hiện sự thay đổi của
hữu dụng khi rủi ro thay đổi. Một người e ngại rủi ro sẽ có hàm hữu dụng có đạo hàm
giảm dần, tức là rủi ro càng cao mức hữu dụng của người đó càng giảm. Một người thích
rủi ro sẽ có hàm hữu dụng có đạo hàm tăng dần, tức là rủi ro càng cao mức hữu dụng của
người đó càng tăng. Một người trung lập với rủi ro sẽ có hàm hữu dụng tuyến tính, nghĩa
là họ không quan tâm đến rủi ro.
1.4. Lý thuyết hữu dụng kỳ vọng (Expected Utility Theory): iv
Lí thuyết hữu dụng kì vọng (Expected utility theory) được đưa ra bởi John Von
Neumann và Oskar Morgenstern nhằm nỗ lực mô tả những hành vi hợp lí khi con người
phải đối mặt với sự không chắc chắn. Lí thuyết này cho rằng các cá nhân nên hành động
theo một cách thức cụ thể khi phải đưa ra những quyết định quan trọng mà không có sự
chắc chắn.
Với cách tư duy này, lí thuyết hữu dụng kì vọng là lí thuyết "có tính chuẩn tắc -
normative", nghĩa là nó mô tả cách thức mà con người hợp lí nên hành xử. Điều này trái
với lí thuyết thực chứng - positive", lí thuyết này cho thấy thực tế con người hành xử như
thế nào.
1.5. Nội dung lý thuyết hữu dụng kỳ vọng
Sự không chắc chắn phải được hiểu là khác biệt hoàn toàn với khái niệm rủi ro quen
thuộc, nhưng khái niệm này chưa bao giờ được tách biệt đúng. Khái niệm "rủi ro",
thường được sử dụng dễ dãi trong đời sống hàng ngày cũng như trong cuộc thảo luận
kinh tế, thực tế bao gồm hai điều hoàn toàn khác biệt, ít nhất là về mặt chức năng, trong
mối quan hệ nhân quả đối với các hiện tượng của tổ chức kinh tế...
Sự thật cơ bản "rủi ro" có nghĩa trong một số trường hợp là sự định lượng nhạy cảm
với cách đo lường, trong khi trong một số trường hợp khác lại hoàn toàn không mang tính
chất này; và trong trường hợp thứ hai có những khác biệt sâu rộng và chủ yếu trong mối
quan hệ với các hiện tượng...
Điều này dường như là sự không chắc chắn có thể đo lường được, hay chính là "rủi
ro", khái niệm mà chúng ta sử dụng. Khái niệm này khác xa so với khái niệm không thể
đo lường và nó hoàn toàn không phải là sự không chắc chắn trong thực tế.
1.6. Mô hình chiết khấu mức độ hữu dụng (Discounted Utility Model):
Mô hình chiết khấu mức độ hữu dụng có thể được biểu diễn dưới dạng công thức
toán học như sau:
n
EU =∑ p i u ¿ ¿)
i =1

Trong đó
EU là mức độ hữu dụng kỳ vọng;
pi là xác suất của kết quả thứ i;
u(xi) là mức độ hữu dụng của kết quả thứ i;
n là số lượng các kết quả có thể xảy ra.
i
https://vi.wikipedia.org/wiki/Th%E1%BB%8Fa_d%E1%BB%A5ng

ii
https://vietnambiz.vn/li-thuyet-huu-dung-ki-vong-expected-utility-theory-la-gi-noi-dung-li-thuyet-huu-dung-ki-vong-
20191019102548513.htm

iii
https://www.studocu.com/vn/document/truong-dai-hoc-cong-nghiep-thanh-pho-ho-chi-minh/tai-chinh-doanh-nghiep/
chuong-1-2022/40178901

iv
https://luatduonggia.vn/ly-thuyet-huu-dung-ki-vong-la-gi-noi-dung-li-thuyet-huu-dung-ki-vong/

You might also like