You are on page 1of 19

LỜI MỞ ĐẦU

Ngày nay nhu cầu được đảm bảo an toàn càng trở nên quan trong đối với mọi
chủ thể trong xã hội. Do đó, hoạt động bảo hiểm đã thu hút được sự quan tâm và tham
gia của nhiều tổ chức và cá nhân trong xã hội. Với mục đích giúp cho người học có
được cái nhìn tổng quát về hoạt động bảo hiểm.

Khái quát chung, bảo hiểm là hệ thống các quan hệ kinh tế dưới hình thái giá trị
phát sinh trong quá trình hình thành, phân phối và sử dụng quỹ bảo hiểm nhằm đảm
bảo cho quá trình trái sản xuất và đời sống của con người trong xã hội được ổn định
và phát triển bình thường trong điều kiện có những biến cố bất lợi xảy ra. Bảo hiểm có
vai trò quan trọng đối với đời sống dân cư, các đơn vị sản xuất kinh doanh và với Nhà
nước nó góp phần ổn định sản xuất kinh doanh và đời sống con người, góp phần
phòng tránh hạn chế rủi ro tổn thất, cung ứng vốn cho phát triển kinh tế xã hội.

Với hiện thực đổi mới nền kinh tế đất nước, Việt Nam đã đạt được những thành
tựu kinh tế đáng nể, đã và đang chuyển sang nền kinh tế thị trường. Cùng với sự
nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước, bảo hiểm cũng đã có những thay đổi
đột biến trong hoạt động của mình để phù hợp với tình hình mới. Bảo hiểm ngày càng
chứng minh được vai trò quan trọng của mình đối với đời sống kinh tế xã hội. Hiện tại
ít ai có thể phủ nhận những giá trị thiết thực, ý nghĩa mà dịch vụ bảo hiểm mang đến
cho bản thân người tham gia cũng như nền kinh tế - xã hội Việt Nam.

1
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ THUYẾT VỀ BẢO HIỂM

1.1.Sự cần thiết khách quan của bảo hiểm.


- Đối với đời sống dân cư

Trong cuộc sống, con người vẫn phải phụ thuộc vào thiên nhiên như bão lụt,
hạn hán, động đất, hỏa hoạn, sóng thần. Khi xảy ra các thiệt hại, họ phải tìm cách khắc
phục thiệt hại, ổn định đời sống bằng các biện pháp khác nhau như đi vay, xin cứu
trợ,... nhưng các biện pháp này có nhiều hạn chế và mang tính tạm thời. Vì vậy, song
song với các biện pháp phòng tránh rủi ro, một biện pháp hữu hiệu là con người dành
một phần thu nhập từ lao động của mình tích lũy, đóng góp hình thành quỹ tiền tệ đủ
lớn để có thể bù đắp kịp thời những thiệt hại khi rủi ro xảy ra nhằm ổn định cuộc
sống.
Ngoài ra, trong quá trình lao động sản xuất, con người có thể gặp phải những
rủi ro khách quan mang tính chất xã hội như: ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh
nghề nghiệp... làm cho họ mất khả năng lao động tạm thời hoặc vĩnh viễn, làm giảm
hoặc mất đi thu nhập của họ. Khi đó, họ cần có nguồn tài chính để bù đắp phần thu
nhập bị giảm và trang trải các chi phí phát sinh nhằm ổn định cuộc sống bản thân, gia
đình người lao động. Nhận thức được vấn đề này, từng cá nhân đã dành một phần thu
nhập của mình để lập nên quỹ dự trữ bảo hiểm.
- Đối với các đơn vị sản xuất, kinh doanh

Các hoạt động kinh doanh của các chủ thể kinh doanh trong nền kinh tế cũng
luôn tiềm ẩn các rủi ro khó lường. Sự biến đổi bất lợi của tự nhiên như bão lụt, động
đất, sóng thần... có thể làm cho sản xuất ngưng trệ, gây tổn thất thiệt hại đến tài sản
của các chủ thể kinh doanh. Mặt khác, các hoạt động sản xuất kinh doanh của các chủ
thể còn chịu tác động của các rủi ro khác như mất trộm, mất cắp, tai nạn lao động, tai
nạn giao thông,... khi đó, cũng đòi hỏi phải có biện pháp tài chính để phòng ngừa và
bù đắp những tổn thất thiệt hại để ổn định sản xuất kinh doanh.

Ngoài ra, các chủ thể kinh doanh còn chịu tác động bởi các quy luật kinh tế
khách quan trong nền kinh tế thị trường như: Quy luật giá cả, quy luật cung cầu, quy
luật cạnh tranh. Các quy luật này có thể mang đến những cơ hội kinh doanh nhưng
cũng có thể tiềm ẩn các rủi ro. Do đó cần thiết phải thực hiện các biện pháp phòng
ngừa tài chính dưới các hình thức lập quỹ dự phòng, tham gia các hình thức bảo
hiểm.

2
- Đối với nhà nước
Để thực hiện chức năng của Nhà nước là phát triển kinh tế và ổn định xã hội thì
nhà nước phải có quỹ dự trữ để đảm bảo vai trò điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Nhà nước
sẽ dùng quỹ này để can thiệp vào nền kinh tế mỗi khi có sự biến động bất lợi cho nền
kinh tế vĩ mô. Như vậy, sự tồn tại của bảo hiểm là một tất yếu khách quan đối với vai
trò quản lý vĩ mô của nhà nước.
Như vậy, việc tạo lập và sử dụng quỹ dự trữ bảo hiểm là một nhu cầu tất yếu,
nhằm phòng ngừa tạo nguồn bù đắp tổn thất và đảm bảo cho nền kinh tế - xã hội phát
triển bình thường trong điều kiện có những biến cố bất lợi xảy ra. Người ta thường ví
cuộc sống không có bảo hiểm giống như "cầu thang không có tay vịn".

1.2.Khái niệm và đặc điểm của bảo hiểm.

1.2.1.Khái niệm bảo hiểm.


Bảo hiểm là hệ thống các quan hệ kinh tế dưới hình thái giá trị phát sinh trong
quá trình hình thành, phân phối và sử dụng quỹ bảo hiểm nhằm đảm bảo cho quá trình
tái sản xuất và đời sống của con người trong xã hội được ổn định và phát triển bình
thường trong điều kiện có những biến cố bất lợi xảy ra

1.2.2.Đặc điểm của bảo hiểm.


- Bảo hiểm là một hình thức dự trữ tài chính nhằm bù đắp và khắc phục những tổn
thất thiệt hại đối với sản xuất kinh doanh và đời sống con người khi những biến cố bất
lợi xảy ra.

Quỹ bảo hiểm được tạo lập thông qua quá trình phân phối của cải xã hội dưới
hình thái giá trị, việc tạo lập quỹ có thể dưới nhiều hình thức khác nhau nhưng tất cả
đều xuất phát từ nhu cầu cần được đảm bảo an toàn trong quá trình sản xuất kinh
doanh và đời sống của con người trước những tác động của rủi ro. Chính vì vậy, để
thỏa mãn nhu cầu của người tham gia bảo hiểm, việc phân phối sử dụng quỹ bảo hiểm
phải đảm bảo chi trả, bồi thường tổn thất thiệt hại khi có những biến cố bất lợi xảy ra
đối với đối tượng bảo hiểm.

Cùng với sự phát triển của nền kinh tế - xã hội, bảo hiểm đã trở thành một loại
hình dịch vụ tài chính đặc biệt. Sản phẩm bảo hiểm là sự đảm bảo về mặt tài chính
trước rủi ro cho người được bảo hiểm. Để bảo vệ mình, người tham gia bảo hiểm nộp
phí cho người bảo hiểm để đổi lấy lời hứa hay cam kết của người bảo hiểm là sẽ trả
tiền bảo hiểm khi rủi ro xảy ra. Trong hoạt động bảo hiểm, các tổ chức bảo hiểm nhận

3
phí bảo hiểm của người tham gia bảo hiểm đóng góp và sau đó mới thực hiện nghĩa vụ
với bên được bảo hiểm khi sự cố bảo hiểm xảy ra. Như vậy, với dịch vụ này sản phẩm
được bán ra trước, sau đó mới phát sinh chi phí bồi thường, chi trả bảo hiểm.

- Bảo hiểm vừa mang tính bồi hoàn vừa mang tính không bồi hoàn

Trong thời gian được bảo hiểm, nếu rủi ro không xảy ra hoặc có xảy ra nhưng
không gây thiệt hại ảnh hưởng đến đối tượng bảo hiểm thì người bảo hiểm không phải
bồi thường hay trả tiền cho bên mua bảo hiểm. Ngược lại, nếu xảy ra sự cố, đối tượng
bảo hiểm bị thiệt hại hoặc bị ảnh hưởng thì bên mua bảo hiểm sẽ được chi trả, bồi
thường. Như vậy, quan hệ giữa tổ chức bảo hiểm và người tham gia bảo hiểm trên thị
trường vừa mang tính chất bồi hoàn, vừa mang tính chất không bồi hoàn. Đặc điểm
này đã tạo ra tính nhàn rỗi của quỹ bảo hiểm, nguồn tài chính này thường được các
công ty bảo hiểm sử dụng để đầu tư nhằm bảo toàn và phát triển quỹ bảo hiểm.

Tính bồi hoàn của bảo hiểm có tính chất bất ngờ cả về không gian, thời gian và
quy mô. Chính vì vậy, trong quá trình hoạt động, các tổ chức bảo hiểm phải xây dựng
các quỹ dự phòng để đảm bảo trong mọi tình huống đều có thể thực hiện được các
cam kết của mình trước những người tham gia bảo hiểm khi các sự cố bảo hiểm xảy
ra.

1.3.Hình thức và đối tượng áp dụng bảo hiểm.

1.3.1.Căn cứ vào phương thức xử lý rủi ro.


Theo tiêu thức này, hoạt động bảo hiểm được chia thành các hoạt động tự bảo
hiểm và bảo hiểm thông qua các tổ chức bảo hiểm.

- Tự bảo hiểm là hình thức bảo hiểm mà các tổ chức, cá nhân thành lập các quỹ riêng
để bù đắp các tổn thất có thể xảy ra đối với quá trình sản xuất và đời sống của mình.
Việc tự bảo hiểm cho mình thường được thực hiện khi họ có đủ khả năng tài chính.

Trong thực tế, hình thức tự bảo hiểm được biểu hiện thông qua việc tạo lập và
sử dụng quỹ dự trữ tập trung của nhà nước, quỹ dự phòng của các doanh nghiệp, quỹ
dự trữ của các hộ gia đình.

+Đối tượng áp dụng: người (tài sản) được bảo vệ (được bảo hiểm) và không
phải là một bên thứ ba nào khác.

4
+Ví dụ: nếu bạn mua 1 chiếc xe ô tô và muốn bảo vệ xe của mình, bạn có thể tự
mua bảo hiểm tự bảo hiểm cho chiếc xe đó. Khi sự cố xảy ra, bạn sẽ phải quyết định
mức độ bảo vệ và thanh toán các khoản chi phí liên quan đến sự cố đó.

- Bảo hiểm thông qua các tổ chức bảo hiểm là hình thức bảo hiểm mà người tham gia
bảo hiểm sẽ chuyển giao, phân tán rủi ro cho các tổ chức bảo hiểm mà bản thân họ
không muốn hoặc không đủ khả năng để gánh chịu rủi ro đó thông qua việc trích nộp
một phần thu nhập của mình cho các tổ chức bảo hiểm dưới dạng phí bảo hiểm. Các tổ
chức bảo hiểm hoạt động chuyên nghiệp trong phân tích rủi ro, ước lượng mức độ rủi
ro và phân tán rủi ro, đồng thời họ còn có trách nhiệm trong việc bảo toàn và tăng
trưởng quỹ để sử dụng chúng cho các mục tiêu dự phòng tài chính và khắc phục hậu
quả của rủi ro, cho nên hình thức bảo hiểm này được xem là hình thức bảo hiểm hoạt
động có hiệu quả trên mọi phương diện của nền kinh tế.

Trong thực tế, hình thức bảo hiểm này được biểu hiện thông qua các tổ chức bảo
hiểm chuyên nghiệp như các công ty bảo hiểm, tập đoàn bảo hiểm và tổ chức bảo
hiểm xã hội.

+Đối tượng áp dụng bảo hiểm: những người, tài sản được bảo vệ bởi chính sách
bảo hiểm mà họ đã mua từ các tổ chức bảo hiểm. Các đối tượng bao gồm: người mua
bảo hiểm, người được bảo vệ, tài sản được bảo vệ, người thụ hưởng.

1. Người mua bảo hiểm: là người mua bảo hiểm và trả tiền cho tổ chức bảo hiểm để
được bảo vệ.

2. Người được bảo vệ: là người được bảo vệ bởi chính sách bảo hiểm, có thể là người
mua bảo hiểm hoặc người khác được chỉ định bởi người mua bảo hiểm.

3. Tài sản được bảo vệ: các tài sản như nhà cửa, xe hơi, tài sản doanh nghiệp.

4. Người thụ hưởng: là người được trả tiền bồi thường trong trường hợp xảy ra tổn
thất thiệt hại mà bảo hiểm đã bảo vệ.

+Ví dụ: trong bảo hiểm nhân thọ: người được bảo vệ là người được chỉ định
trong hợp đồng bảo hiểm và người thụ hưởng là người được trả tiền khi chủ hợp đồng
qua đời. Trong bảo hiểm sức khỏe, người được bảo hiểm là người mua bảo hiểm và
người thụ hưởng là bệnh nhân được trả tiền cho các chi phí liên quan đến việc điều trị
bệnh tật

5
1.3.2.Căn cứ vào mục đích hoạt động.

Theo tiêu thức này, hoạt động bảo hiểm được chia thành bảo hiểm có mục đích
kinh doanh và bảo hiểm không có mục đích kinh doanh.

- Bảo hiểm có mục đích kinh doanh là hình thức bảo hiểm do các chủ thể tiến hành
nhằm mục tiêu lợi nhuận. Chính vì mục đích hoạt động của loại hình bảo hiểm này mà
nó có các tên gọi khác nhau như: bảo hiểm kinh doanh, bảo hiểm thương mại hay bảo
hiểm rủi ro. Người bảo hiểm tìm kiếm lợi ích kinh tế trên cơ sở thu phí bảo hiểm và
cam kết thực hiện bồi thường hoặc trả tiền bảo hiểm cho người được bảo hiểm khi xảy
ra sự kiện bảo hiểm thông qua một hợp đồng bảo hiểm.

Các tổ chức thực hiện hoạt động bảo hiểm với mục đích kinh doanh thường là
các công ty bảo hiểm cung ứng các sản phẩm dịch vụ bảo hiểm trên thị trường để tìm
kiếm lợi nhuận và phát triển. Hoạt động của các tổ chức này bị chi phối bởi quy luật
cạnh tranh của thị trường, vì vậy họ không những phải chú ý đến chất lượng dịch vụ,
thị hiếu, nhu cầu của khách hàng mà còn phải chú ý tới giá cả của sản phẩm dịch vụ
cung cấp.

+Đối tượng áp dụng bảo hiểm: thường là người lao động, tài sản của doanh
nghiệp được các doanh nghiệp, công ty, cửa hàng kinh doanh hoặc cá nhân có hoạt
động kinh doanh mua bảo hiểm để bảo vệ. Đây là những đối tượng thường xuyên tiếp
xúc với những rủi ro và thiệt hại trong quá trình hoạt động kinh doanh và do đó cần có
sự bảo vệ tài sản và trách nhiệm pháp lý.

+Ví dụ: doanh nghiệp A mua bảo hiểm văn phòng trọn gói của Bảo hiểm Bảo
Việt, bao gồm:

 Bảo hiểm Tài sản: bồi thường cho các thiệt hại vật chất xảy ra cho tòa nhà văn
phòng và tài sản bên trong như trang thiết bị, máy văn phòng...
 Bảo hiểm Tiền: bồi thường cho tổn thất tiền (phiếu tiền mặt ngân hàng, séc,
lệnh chuyển tiền...) trong quá trình vận chuyển nội địa và tại địa điểm bảo
hiểm.
 Bảo hiểm Trách nhiệm: bảo hiểm cho những trách nhiệm pháp lý của Người
được Bảo hiểm đối với thiệt hại tài sản hay thương tật thân thế đối với bên thứ
ba (Bảo hiểm trách nhiệm công cộng) và/hoặc với các thiệt hại gây ra cho tòa
nhà hoặc tài sản bên trong (Bảo hiểm trách nhiệm người thuê nhà).

6
 Bảo hiểm Tai nạn thương tật: để đảm bảo tài chính cho doanh nghiệp và người
lao động trước những rủi ro thương tật do tai nạn, ốm đau, bệnh tật

- Bảo hiểm không vì mục đích kinh doanh là hình thức bảo hiểm do các chủ thể tiến
hành không nhằm mục tiêu lợi nhuận. Mục đích chủ yếu của loại hình bảo hiểm này là
nhằm tương hỗ giữa các thành viên tham gia. Với tư cách là tổ chức quản lý quỹ xã
hội, quỹ tài chính tập trung, bảo hiểm xã hội hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận,
mà phục vụ cho chính sách xã hội, vì mục đích và quyền lợi của người lao động có
tham gia bảo hiểm xã hội. Cũng dựa trên nguyên tắc đó, việc hình thành và sử dụng
quỹ dự trữ tập trung của Nhà nước, các quỹ tương hỗ, quỹ dự trữ trong các doanh
nghiệp, các gia đình phục vụ cho mục tiêu an toàn, ổn định sự phát triển của nền kinh
tế, của từng doanh nghiệp, từng hộ gia đình hay cá nhân cũng là những hình thức bảo
hiểm không vì mục đích kinh doanh.

+Đối tượng áp dụng: có thể là cá nhân và gia đình, sinh viên, người cao tuổi,
người lao động tự do, người có thu nhập thấp, người có nhu cầu bảo hiểm cụ thể (như
bảo hiểm du lịch, bảo hiểm ô tô, bảo hiểm nhà cửa) để bảo vệ sức khỏe và tài sản của
mình mà không phải vì mục đích kinh doanh

+Ví dụ: đa số người dân Việt Nam đều dùng bảo hiểm y tế để bảo vệ sức khỏe,
phòng những lúc bệnh tật ốm đau để đỡ phần nào cho viện phí và thuốc.

1.4.Vai trò của bảo hiểm.

1.4.1.Bảo hiểm góp phần ổn định sản xuất kinh doanh và đời sống con người.

Trong bảo hiểm kinh doanh, khi các tổ chức bảo hiểm gặp phải những rủi ro,
trách nhiệm chi trả, bồi thường cho người được bảo hiểm là yêu cầu bắt buộc đối với
người bảo hiểm. Nhờ vào những khoản chi trả bồi thường này mà các cơ sở sản xuất
kinh doanh có thể xây dựng lại cơ sở vật chất, mua lại các máy móc thiết bị đã bị hư
hỏng, mất mát,... để có thể tiếp tục hoạt động. Trong bảo hiểm xã hội, nhờ vào các
khoản trợ cấp, bồi thường trong trường hợp ốm đau, tai nạn, không còn khả năng lao
động hay mất việc làm... mà người lao động có thể khắc phục khó khăn, ổn định đời
sống, đồng thời góp phần giảm bớt gánh nặng về mặt tài chính cho tổ chức sử dụng
lao động. Trong trường hợp người lao động bị chết, thân nhân của họ sẽ nhận được
một khoản tiền hỗ trợ từ tổ chức bảo hiểm xã hội. Khi về hưu tổ chức bảo hiểm xã hội
sẽ chi trả lương hưu và hỗ trợ các chi phí y tế, chăm sóc sức khỏe,... Trong mọi hoạt

7
động bảo hiểm người tham gia bảo hiểm có thể khắc phục kịp thời những tổn thất vật
chất do rủi ro tai nạn gây ra một các nhanh chóng nhất, sớm hồi phục sức khỏe, ổn
định đời sống để tiếp tục quá trình học tập, lao động, sinh hoạt bình thường. Như vậy,
thông qua việc sử dụng quỹ bảo hiểm đã được tạo lập để bồi thường, chi trả kịp thời,
chính xác những tổn thất vật chất cho người tham gia bảo hiểm. Do vậy, bảo hiểm đã
góp phần ổn định sản xuất kinh doanh và ổn định đời sống của người tham gia bảo
hiểm.

1.4.2.Bảo hiểm góp phần phòng tránh, hạn chế rủi ro tổn thất.
Đứng trên giác độ lợi ích của cá tổ chức bảo hiểm, việc tổ chức tốt các biện
pháp đề phòng, hạn chế tổn thất có hiệu quả sẽ giảm được khoản chi phí bồi thường,
trả tiền bảo hiểm, đảm bảo an toàn cho phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Để tổ
chức tốt các biện pháp đề phòng, hạn chế rủi ro, tổn thất, các tổ chức bảo hiểm đã theo
dõi,thống kê tình hình tai nạn, tổn thất, xác định những nguyên nhân chủ yếu gây ra
tai nạn. Trên cơ sở đó, tổ chức bảo hiểm phối hợp với các cơ quan hữu quan để đề
xuất, hỗ trợ về tài chính và tổ chức thực hiện các biện pháp đề phòng có hiệu quả nhất,
nhằm giảm thấp nhất mức tổn thất có thể xảy ra.
Đứng trên giác độ người tham gia bảo hiểm, ngoài trách nhiệm phải đóng góp
đầy đủ phí bảo hiểm, họ còn phải thực hiện tốt trách nhiệm đề phòng tổn thất hạn chế,
thông báo tình hình và diễn biến tai nạn, tổn thất để có biện pháp ngăn chặn kịp thời.
Đối với bảo hiểm xã hội và bảo hiểm y tế, các tổ chức quản lý phải thường
xuyên kiểm tra an toàn trong các doanh nghiệp nhằm phòng tránh tai nạn xảy ra.
Trong trường hợp các đơn vị không thực hiện tốt các biện pháp đảm bảo an toàn lao
động, vệ sinh dịch tễ thì có thể áp dụng các biện pháp xử phạt và truy tố trước pháp
luật. Tổ chức bảo hiểm xã hội còn hỗ trợ các đơn vị sử dụng lao động thực hiện các
biện pháp an toàn lao động, vệ sinh công nghiệp, xây dựng các trại điều dưỡng nghỉ
ngơi để cải thiện, nâng cao sức khỏe cho người lao động.
Về phía nhà nước, đảm bảo ổn định phát triển kinh tế - xã hội, ổn định đời sống
nhân dân là nhiệm vụ của bất cứ nhà nước nào. Vì vậy, việc hình thành và phát triển
các hình thức bảo hiểm là những giải pháp tích cực giúp cho nhà nước giảm được
nguồn kinh phí dành để đầu tư cho các mục tiêu khác, đồng thời vẫn đảm bảo mục
tiêu về phát triển kinh tế,chăm sóc sức khỏe nhân dân.

1.4.3.Bảo hiểm góp phần cung ứng vốn cho phát triển kinh tế - xã hội.
Trong nền kinh tế thị trường, bảo hiểm không chỉ là tấm lá chắn kinh tế cho quá
trình sản xuất kinh doanh và đời sống của con người trước những rủi ro, mà nó còn
8
hoạt động với tư cách là các tổ chức tài chính trung gian để đầu tư phát triển kinh tế-
xã hội. Các tổ chức bảo hiểm thường sử dụng các nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi hình
thành từ thu phí bảo hiểm của mình để đầu tư, chính vì vậy mà các tổ chức bảo hiểm
được coi là một định chế tài chính trung gian, bên cạnh các ngân hàng thương mại, các
công ty tài chính...

Bảo hiểm xã hội và bảo hiểm y tế cũng góp phần tạo ra một nguồn vốn quan
trọng thông qua việc thu phí bảo hiểm từ người lao động và người sử dụng lao động.
Khi chưa sử dụng đến, phần quỹ này sẽ được đầu tư trên thị trường tài chính, nhằm
bảo toàn và phát triển quỹ. Quỹ bảo hiểm xã hội còn là một nguồn tiết kiệm quan
trọng, tiết kiệm từ bảo hiểm xã hội là chênh lệch giữa thu và chi bảo hiểm xã hội, góp
phần quan trọng vào tiết kiệm của mỗi quốc gia.

CHƯƠNG 2: VAI TRÒ CỦA BẢO HIỂM ĐỐI VỚI NỀN KINH TẾ - XÃ HỘI
VIỆt NAM TRONG GIAI ĐOẠN 2017 – 2022

2.1 Tình hình của nền Kinh tế xã hội trong giai đoạn 2017 – 2022
Trong giai đoạn 2017-2022, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể
trong kinh tế và xã hội. Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của đất nước đã tăng trưởng
mạnh mẽ, từ 6,8% năm 2017 lên tới 7,08% năm 2018, tiếp đó là 7,02% năm 2019 và
2,91% năm 2020 (do ảnh hưởng của dịch Covid-19). Trong năm 2021, dự kiến GDP
sẽ tăng trưởng khoảng 6,5%.
Ngoài ra, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu khác như:
1. Giảm tỷ lệ nghèo: Tỷ lệ hộ nghèo giảm từ 9,35% (năm 2016) xuống 4,35% (năm
2020). Điều này cho thấy nỗ lực của đất nước trong việc giảm đói nghèo và xóa đói
giảm nghèo.
2. Tăng cường các mối quan hệ nhân dân: Việt Nam đã thiết lập quan hệ đối tác chiến
lược với nhiều quốc gia trên thế giới, đồng thời đã tham gia vào nhiều hiệp định
thương mại quan trọng. Việc tham gia này đã đem lại lợi ích khá lớn cho nền kinh tế
Việt Nam.
3. Nâng cao chất lượng giáo dục: Chính phủ đã có nhiều chính sách hỗ trợ, tài trợ cho
các trường học, giáo viên, sinh viên từ cấp Tiểu học đến Đại học. Nhờ đó, chất lượng
giáo dục được cải thiện và đạt được nhiều kết quả tích cực trong giảng dạy, học tập và
nghiên cứu.

9
4. Phát triển các ngành kinh tế mới: Bên cạnh ngành công nghiệp truyền thống, Việt
Nam đã tăng cường phát triển các ngành kinh tế mới như công nghệ thông tin, du lịch,
đô thị hóa, năng lượng tái tạo, lĩnh vực xã hội, văn hóa, giáo dục,...

2.2. Vai trò của bảo hiểm đối với nền kinh tế - xã hội.

2.2.1. Phân tích số liệu theo vai trò bảo hiểm góp phần ổn định sản xuất kinh doanh
và đời sống con người đối với nền kinh tế xã hội Việt Nam trong giai đoạn 2017 –
2022.
Bảo hiểm góp phần ổn định sản xuất kinh doanh và đời sống con người là một
phần quan trọng trong đảm bảo an ninh kinh tế - xã hội của một quốc gia. Trong giai
đoạn 2017-2022, Việt Nam đã đạt được những thành tựu đáng kể trong việc tăng
cường bảo hiểm góp phần ổn định sản xuất kinh doanh và đời sống con người. Dưới
đây là phân tích chi tiết số liệu về vai trò bảo hiểm góp phần ổn định sản xuất kinh
doanh và đời sống con người đối với nền kinh tế - xã hội Việt Nam trong giai đoạn
2017-2022:

* Bảo hiểm xã hội:

 Tổng quỹ bảo hiểm xã hội đã tăng từ 121.000 tỷ đồng vào năm 2017 lên
464.658.755 tỷ đồng vào năm 2022.
 Số người tham gia bảo hiểm xã hội đã tăng từ hơn 13 triệu người vào năm 2017
lên hơn 16,7 triệu người vào năm 2022 ( Tính đến hết tháng 5).
 Bảo hiểm xã hội đã đóng góp vào sự phát triển kinh tế của đất nước bằng cách
bảo vệ quyền lợi của người lao động, giảm thiểu rủi ro trong sản xuất kinh
doanh và củng cố sự ổn định của đời sống con người.

* Bảo hiểm y tế:

 Từ năm 2017 đến năm 2022, số người tham gia bảo hiểm y tế tăng từ hơn 81
triệu người lên hơn 91,1 triệu người,đạt tỷ lệ bao phủ 92,04% dân số.
 Tổng quỹ bảo hiểm y tế đã tăng từ khoảng 83.000 tỷ đồng vào năm 2017 lên
khoảng 464.658.755 tỷ đồng vào năm 2021.
 Bảo hiểm y tế đã giúp cải thiện tình hình sức khỏe của người dân, đồng thời
đóng góp vào việc giảm thiểu sự miễn nhiễm trong sản xuất kinh doanh.

* Bảo hiểm thất nghiệp:

10
 Số người tham gia bảo hiểm thất nghiệp đã tăng từ hơn 20.000 người vào năm
2017 lên hơn 13,64 triệu người vào năm 2022 ( tính đến hết tháng 4), chiếm
khoảng hơn 80% dân số.
 Tổng quỹ bảo hiểm thất nghiệp đã tăng từ khoảng 1.858 tỷ đồng vào năm 2019
lên khoảng 464.658.755 tỷ đồng vào năm 2022.
 Bảo hiểm thất nghiệp đã giúp hỗ trợ người lao động khi mất việc làm, giúp ổn
định đời sống con người và duy trì sự ổn định của nền kinh tế.

Tóm lại, bảo hiểm góp phần ổn định sản xuất kinh doanh và đời sống con người
đóng vai trò quan trọng đối với nền kinh tế - xã hội Việt Nam trong giai đoạn 2017-
2022. Các chính sách bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế và bảo hiểm thất nghiệp đã góp
phần đảm bảo an ninh kinh tế - xã hội, nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân
và đóng góp vào sự phát triển kinh tế của đất nước.

2.2.2. Phân tích số liệu theo vai trò bảo hiểm góp phần phòng tránh, hạn chế rủi ro
tổn thất đối với nền kinh tế - xã hội Việt Nam trong giai đoạn 2017 – 2022
-Thị trường bảo hiểm đã ngày càng thể hiện được vai trò góp phần phòng tránh, hạn
chế rủi ro tổn thất trong nền kinh tế - xã hội, thể hiện qua một số chỉ tiêu cụ thể trong
năm 2022 và tốc độ tăng trưởng bình quân giai đoạn 2011-2018, cụ thể:
Năm 2018, tổng tài sản ước đạt 390.717 tỷ đồng, tăng bình quân 18%/năm.
Tổng số tiền đầu tư ước đạt 324.644 tỷ đồng, tăng trưởng bình quân 19%/năm. Tổng
dự phòng nghiệp vụ ước đạt 247.500 tỷ đồng, tăng trưởng bình quân 21%/năm. Tổng
nguồn vốn chủ sở hữu ước đạt 82.584 tỷ đồng, tăng trưởng bình quân 13%/năm. Tổng
doanh thu bảo hiểm ước đạt 151.001 tỷ đồng, tăng trưởng bình quân 23%/năm,. Hàng
tháng, các doanh nghiệp bảo hiểm chi bồi thường trung bình khoảng 2.500 tỷ đồng.
Những con số này nói lên hiệu quả của việc phòng tránh rủi ro, tổn thất của bảo hiểm.
-Trước năm 2020, doanh thu thị trường chỉ tăng trưởng ở mức dưới 18%. Sau các Hội
nghị xúc tiến đầu tư, tăng trưởng liên tục trên 20% (2020: 25%, 2022: 26%), riêng
nguồn vốn chủ sở hữu (vốn đầu tư vào Việt Nam) tăng gần gấp đôi (1,74 lần) trong
giai đoạn 2020-2022, từ 45.157 tỷ đồng năm 2017 lên 78.584 tỷ đồng năm 2022; vốn
đầu tư trở lại nền kinh tế tăng 2 lần, từ 160.258 tỷ đồng năm 2020 lên 324.644 tỷ đồng
năm 2022. Riêng đối với lĩnh vực bảo hiểm nhân thọ, nơi tập trung đa số các nhà đầu
tư nước ngoài.Chỉ trong 3 năm từ 2021-2022, vốn chủ sở hữu tăng bình quân
30%/năm, tổng doanh thu phí bảo hiểm tăng bình quân 30%/năm, tổng số tiền đầu tư
trở lại nền kinh tế tăng bình quân 28%/năm.Đó được xem là yếu tố quan trọng của vai
trò góp phần phòng tránh, hạn chế rủi ro tổn thất của bảo hiểm.

11
Những con số trên thể hiện sự tin tưởng mạnh mẽ của các nhà đầu tư đối với thị
trường bảo hiểm khi vấn đề rủi ro và tổn thất đã được bảo hiểm phòng tránh và giảm
bớt,tạo nên lực đẩy cho thị trường phát triển nhanh trong giai đoạn 2020-2022.
-Trong giai đoạn 2017-2022 bảo hiểm đã phát huy vai trò quan trọng trong việc phòng
tránh và hạn chế rủi ro tổn thất đối với nền kinh tế-xã hội Việt Nam
 Tổng giá trị các khoản bảo hiểm đã thanh toán: Trong năm 2022, tổng giá trị
các khoản bảo hiểm đã thanh toán đạt 47,7 nghìn tỷ đồng, tăng 14% so với
năm 2019.
 Bảo hiểm y tế: Tính đến tháng 11/2020, hơn 87 triệu người tham gia bảo hiểm
y tế, chiếm hơn 90,2% dân số, giúp giảm gánh nặng tài chính cho người dân
khi phải chịu chi phí y tế.
 Bảo hiểm nông nghiệp: trong giai đoạn 2017-2022, số tiền bồi thường của bảo
hiểm nông nghiệp đạt 3,9 nghìn tỷ đồng, giúp giảm thiểu thiệt hại cho người
dân và sản xuất nông nghiệp
 Bảo hiểm tai nạn: Trong năm 2022, số tiền bồi thường của bảo hiểm tai nạn đạt
hơn 2,8 nghìn tỷ đồng, giúp giảm thiểu thiệt hại cho các cá nhân và gia đình khi
xảy ra tai nạn.

2.2.3 Phân tích số liệu vai trò của bảo hiểm góp phần cung ứng vốn cho phát triển
kinh tế xã hội đối với nền kinh tế-xã hội Việt Nam giai đoạn 2017-2022
Năm 2017 đầu tư nền kinh tế ước đạt 247801 tỷ đồng ( tăng 27,64% so với năm
2016), trong đó các doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ ước đạt 38841 tỷ đồng, các
doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ ước đạt 208960 tỷ đồng.

Năm 2018, các doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ đã đóng góp lớp vào sự phát
triển kinh tế xã hội, bổ sung nguồn vốn đầu tư dài hạn, ổn định cho nền kinh tế với
tổng vốn đầu tư ước đạt 276437 tỷ đồng ( tăng 33% so với năm 2017).

Năm 2019, Tổng số tiền đầu tư trở lại nền kinh tế của các DNBH năm
2019 ước đạt 376555 tỷ đồng ( tăng 16,36% so với năm 2018). Trong đó các doanh
nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ ước đạt 21638 tỷ đồng, các doanh nghiệp bảo hiểm
nhân thọ ước đạt 264327 tỷ đồng.

Năm 2020, Các doanh nghiệp bảo hiểm đã tích cực tái đầu tư trở lại nền kinh tế,
đóng góp vào sự phát triển nền kinh tế xã hội. Đầu tư trở lại nền kinh tế ước đạt
460.457 tỷ đồng (tăng 22% so với cùng kỳ 2019), trong đó các doanh nghiệp bảo hiểm

12
phi nhân thọ ước đạt 51.308 tỷ đồng; các doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ ước đạt
409.149 tỷ đồng (tăng 23,5%).

Năm 2021, Các doanh nghiệp bảo hiểm đầu tư cho nền kinh tế xã hội ước đạt
577069 tỷ đồng( tăng 22,24% so với năm 2020).

Năm 2022, các doanh nghiệp bảo hiểm đầu tư trở lại nền kinh tế khoảng trên
656000 tỷ đồng( tăng 12,56% so với năm 2021), trong đó các doanh nghiệp bảo hiểm
phi nhân thọ ước đạt 63612 tỷ đồng các bảo hiểm nhân thọ ước đạt 592811 tỷ đồng.

Qua số liệu trên ta có thể thấy vai trò này của bảo hiểm là một lá chắn thép giúp
cho doanh nghiệp đảm bảo được vốn và giữ vững vốn. Đây là bước đệm hoàn hảo để
giúp doanh nghiệp có thể xây dựng và được cung cấp vốn.

CHƯƠNG 3: ĐÁNH GIÁ VIỆC PHÁT HUY VAI TRÒ CỦA BẢO HIỂM

3.1. Những thành công trong việc phát huy vai trò của bảo hiểm.
Trước những thách thức của thời đại số và những rủi ro khác về lạm phát, kinh tế, dịch
bệnh... việc phát huy vai trò của bảo hiểm đã có những thành công :

-Vào năm 2017, ngành bảo hiểm đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế - xã hội
Việt Nam. Tổng cục Bảo hiểm Việt Nam đã thông báo rằng trong năm 2017, tổng
doanh thu bảo hiểm đạt khoảng 129,2 nghìn tỷ đồng, tăng 22,38% so với năm trước
đó.

Trong số đó, doanh thu bảo hiểm nhân thọ tăng mạnh với 32,8% và doanh thu bảo
hiểm phi nhân thọ tăng 9,2%. Đặc biệt, bảo hiểm y tế được xem là ngành có tốc độ
tăng trưởng nhanh nhất với mức tăng 37,3%.

Việc tăng trưởng mạnh mẽ trong ngành bảo hiểm đã đóng góp tích cực vào nền kinh
tế - xã hội Việt Nam, đồng thời giúp tăng độ an toàn tài chính cho các cá nhân và tổ
chức tham gia bảo hiểm.

- Năm 2018, thành công bảo hiểm đóng góp vào sự phát triển của nền kinh tế-xã hội
Việt Nam được nhìn nhận thông qua một số chỉ số sau đây:

Tăng trưởng ngân sách bảo hiểm xã hội: trong năm 2018, ngân sách bảo hiểm xã hội
đã đóng góp một khoản lớn vào ngân sách Nhà nước. Tổng thu ngân sách bảo hiểm xã
hội đạt hơn 280.000 tỷ đồng, tăng trưởng 11,4% so với năm 2017. Điều này cho thấ

13
việc quản lý và thu hồi đóng góp bảo hiểm được thực hiện hiệu quả, đồng thời hỗ trợ
cho việc thực hiện các chính sách xã hội khác của đất nước.

Bảo vệ quyền lợi của người lao động: hệ thống bảo hiểm xã hội đã giúp bảo vệ quyền
lợi của người lao động bằng cách đảm bảo đầy đủ quyền lợi về tiền lương, bảo hiểm y
tế, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm xã hội cho người lao động nghỉ hưu và bảo hiểm
tai nạn lao động. Nhờ đó, người lao động được hưởng nhiều quyền lợi xã hội hơn,
đồng thồi tăng sự an toàn cho người lao động trong quá trình làm việc.

Tăng cường đóng góp của doanh nghiệp: việc đẩy mạng đóng góp bảo hiểm của
doanh nghiệp cũng đóng góp vào sự phát triển kinh tế-xã hội của Việt Nam. Các chính
sách và quy định mới đã tăng đáng kể mức đóng góp của doanh nghiệp vào ngân sách
bảo hiểm xã hội, giúp đảm bảo quyền lợi cho người lao động và cũng đảm bảo sự ổn
định của hệ thống bảo hiểm xã hội.

-Vào năm 2019, thị trường bảo hiểm Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu và đóng
góp tích cực cho nền kinh tế-xã hội. Sau đây là một số điểm nhấn về thành công của
ngành bảo hiểm Việt Nam trong năm 2019:

Tăng trưởng doanh thu: doanh thu của ngành bảo hiểm Việt Nam đạt hơn 160 nghìn tỷ
đồng, tăng 22% so với năm 2018. Đây là mức tăng trưởng đáng kể và cho thấy sự phát
triển của ngành bảo hiểm Việt Nam.

Tăng cường sức khỏe tài chính của các công ty bảo hiểm: các công ty bảo hiểm đã
tăng cường sức khỏe tài chính bằng cách cải thiện quản lý rủi ro và tăng cường việc
kiểm soát chi phí. Điều này giúp các công ty bảo hiểm có khả năng chi trả đầy đủ các
khoản bồi thường cho khách hàng nếu xảy ra sự cố.

Đa dạng hóa sản phẩm bảo hiểm: ngành bảo hiểm Việt Nam đã đa dạng hóa các sản
phẩm bảo hiểm, cung cấp cho khách hàng nhiều sự lựa chọn hơn. Điều này giúp
ngành bảo hiểm trờ nên phổ biến hơn và tăng cường sự tin tưởng của khách hàng.

Tăng cường giám sát và quản lý: chính phủ Việt Nam đã tăng cường giám sát và quản
lý ngành bảo hiểm, giúp tăng cường tính minh bạch và đảm bảo quyền lợi cho khách
hàng.

-Trong năm 2020, Việt Nam đã đạt được một số kết quả tích cực trong lĩnh vực bảo
hiểm đối với nền kinh tế - xã hội. Dưới đây là một số điểm nổi bật:

14
Tỷ lệ bảo hiểm xã hội đã tăng lên: Theo Báo cáo Bảo hiểm xã hội Việt Nam năm
2020, tỷ lệ người tham gia bảo hiểm xã hội tăng lên 34,8%, tăng 2,5% so với năm
2019. Đây là một tín hiệu tích cực về việc người dân và doanh nghiệp có ý thức cao
hơn về việc tham gia bảo hiểm xã hội để bảo vệ quyền lợi của mình.

Chính sách bảo hiểm thất nghiệp được triển khai: trong bối cảnh đại dịch Covid-19
đang diễn ra, Chính phủ Việt Nam đã triển khai chính sách bảo hiểm thất nghiệp để hỗ
trợ người lao động mất việc làm. Theo đó, người lao động bị mất việc có thể được
hưởng trợ cấp thất nghiệp trong một khoảng thời gian nhất định.

Bảo hiểm y tế được đẩy mạnh: năm 2020, Chính phủ Việt Nam đã ban hành Nghị
định số 75/2020/NĐ-CP về quản lý, sử dụng bảo hiểm y tế. Điều này cho thấy sự quan
tâm của Chính phủ đối với việc bảo vệ sức khỏe của người dân và đẩy mạnh việc thực
hiện chính sách bảo hiểm y tế.

-Vào năm 2021, thành công của ngành bảo hiểm đối với nền kinh tế - xã hội Việt Nam
có thể được đánh giá dựa trên một số chỉ số kinh tế chính:

Tăng trưởng doanh thu của ngành bảo hiểm: trong năm 2021, ngành bảo hiểm Việt
Nam đã đạt tổng doanh thu khoảng 196.800 tỷ đồng, tăng 10,1% so với năm trước.
Đây là một tín hiệu tích cực cho sự phát triển của ngành bảo hiểm trong năm 2021.

Sự gia tăng của số lượng khách hàng: số lượng người tham gia bảo hiểm tăng lên,
giúp tăng cường tính bền vững và đảm bảo sự ổn định cho các công ty bảo hiểm. Theo

thống kê của Bộ tài chính, số người tham gia bảo hiểm đã tăng them 1,76 triệu người,
lên tổng số 15,61 triệu người.

Sự đa dạng hóa sản phẩm bảo hiểm: các công ty bảo hiểm đã tăng cường tính đa dạng
hóa sản phẩm bảo hiểm để đáp ứng như cầu của khách hàng. Điều này đã giúp tăng
cường tính cạnh tranh của ngành bảo hiểm và thu hút được nhiều khách hàng mới.

Đẩy mạnh công nghệ thông tin: ngành bảo hiểm Việt Nam đã tập trung đẩy mạnh ứng
dụng công nghệ thông tin trong hoạt động kinh doanh của mình. Điều này đã giúp
tăng cường tính chuyên nghiệp và hiệu quả trong hoạt động của các công ty bảo hiểm.

- Trong năm 2022, mặc dù đối mặt với nhiều thách thức, nhưng thị trường bảo hiểm
Việt Nam vẫn duy trì được tốc độ tăng trưởng khá. Trong bối cảnh đó, việc xây
dựng chính sách pháp lý bảo hiểm cần tiếp tục được hoàn thiện, kịp thời đề xuất các

15
giải pháp nhằm tháo gỡ khó khăn cho các doanh nghiệp, tạo môi trường và điều
kiện cho các doanh nghiệp mở rộng phát triển kinh doanh.

Một số doanh nghiệp có tỷ lệ tăng trưởng doanh thu bảo hiểm gốc cao so với năm
2021 như HDI (516 tỷ đồng, tăng 95,8%), OPES (1.425 tỷ đồng, tăng 51,1%),
Chubb (444 tỷ đồng, tăng 48%). Ở chiều ngược lại, một số doanh nghiệp ghi nhận
doanh thu bảo hiểm gốc giảm là AIG (361 tỷ đồng, giảm 21,7% ); Fubon ( 94 tỷ
đồng, giảm 0,49%)...

3.2. Những hạn chế và nguyên nhân đánh giá phát huy vai trò của bảo
hiểm.
3.2.1.Hạn chế.

- Số lượng người dân tham gia bảo hiểm chưa cao. Vận động người dân tham gia đã
khó nhưng duy trì tỷ lệ tham gia cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa bảo hiểm xã hội và
các cơ sở y tế để người dân được hưởng những quyền lợi khi tham gia bảo hiểm y tế.

- Môi trường luật pháp điều chỉnh hoạt động kinh doanh bảo hiểm mặc dù đã được
quan tâm xây dựng nhưng đến nay vẫn chưa theo kịp sự phát triển của ngành, đặc biệt
trong bối cảnh Việt Nam hội nhập sâu hơn vào nền kinh tế thế giới.

- Nhận thức và hiểu biết của thị trường cũng như của các cơ quan nhà nước nói chung
về bảo hiểm vẫn chưa cao, gây khó khăn cho hoạt động của ngành. Đặc biệt, đến nay
đại lý bảo hiểm vẫn chưa nhận được sự đánh giá cao của công chúng và chưa được
chính thức thừa nhận như một nghề nghiệp chuyên nghiệp.

- Mô hình quản lý, giám sát theo tính tuân thủ, chưa có các cơ chế quản lý, giám sát
trên cơ sở rủi ro tương ứng với cơ chế quản lý vốn nhằm chủ động kiểm soát nguy cơ
rủi ro của các DNBH.

- Chất lượng và tính chuyên nghiệp của kênh phân phối đại lý chưa cao.

- Nhận thức và ý thức về bảo hiểm của các tổ chức, cá nhân, người tham gia bảo hiểm
còn hạn chế, do công tác tuyên truyền chưa được thực hiện đồng bộ, tổng thể trong
toàn ngành.

- Năng lực quản trị, khả năng cạnh tranh của các DNBH còn thấp, hiệu quả chưa cao.
Các sản phẩm thiếu tính linh hoạt, khó điều chỉnh, chia nhỏ theo nhu cầu củakhách
hàng

16
3.2.2. Nguyên nhân.

- Văn hóa người Việt Nam ngại đề cập các rủi ro.

Người Việt Nam ghét nói về rủi ro, những điều không may mắn, xui xẻo do đó họ vẫn
chưa cảm nhận được sự cần thiết của bảo hiểm trong cuộc sống. Quan niệm đó khiến
họ không muốn lắng nghe những lời tư vấn từ những nhân viên tư vấn bảo hiểm và có
ác cảm đối với các công ty bảo hiểm.

- Thị trường bảo hiểm ở Việt Nam còn khá non trẻ.

Mặc dù thị trường bảo hiểm đã có bề dày lịch sử khá lâu nhưng các sản phẩm bảo
hiểm vẫn còn hạn chế và chưa hấp dẫn được nhiều lượt khách hàng tiềm năng tham
gia. Trong khi đó, kỳ hạn của một hợp đồng bảo hiểm thường khá dài nên tâm lý
người dân vẫn còn e ngại trong việc tham gia bảo hiểm nhân thọ.- Công tác chăm sóc
khách hàng sau bán hàng của các công ty bảo hiểm ở Việt Nam chưa thật sự tốt.

Trước khi bán được hợp đồng, các công ty bảo hiểm thường chăm sóc khách, tổ chức
hội thảo, tặng quà, chiêu đãi tiệc; nhân viên tư vấn ân cần hỏi thăm và đến nhà để tư
vấn cho khách hàng,... Nhưng sau khi khách hàng đã ký hợp đồng, mua bảo hiểm rồi
thì rất ít nhân viên bảo hiểm giữ mối liên hệ tốt với khách hàng. Ngoại trừ một số ít
công ty có chế độ chăm sóc tốt, đa số các công ty bảo hiểm hiện nay vẫn tập trung vào
việc tìm kiếm khách hàng mới mà quên đi khách hàng hiện hữu. Trong khi đó, khách
hànghiện hữu lại là đối tượng khách hàng quan trọng, từ hệ khách hàng này, các công
ty bảo hiểm có thể khai thác thêm nhiều hợp đồng từ gia đình và người thân của họ.

Một số nguyên nhân khác:

- Chưa có các chính sách ưu đãi để khuyến khích DNBH mở rộng kinh doanh tại các
vùng sâu, vùng xa hoặc đầu tư vào các sản phẩm bảo hiểm an sinh xã hội hoặc đầu tư
vào các sản phẩm bảo hiểm cho người có thu nhập thấp, sản phẩm bảo hiểm y tế.

- Chưa có cơ quan chuyên trách về phòng chống gian lận bảo hiểm nên nhiệm vụ hỗ
trợ pháp lý DNBH trong phòng chống gian lận bảo hiểm, hỗ trợ tư vấn pháp lý.

- Một số doanh nghiệp trong nước chưa có ý thức tuân thủ; chưa chủ động trong việc
quản trị doanh nghiệp, quản trị rủi ro; thiếu công cụ để đánh giá và chưa chủ động
quản lý, giám sát.

17
- Các DNBH chưa chủ động trong việc đa dạng hóa danh mục sản phẩm bảo hiểm
theo nhu cầu của các tổ chức, cá nhân.

KẾT LUẬN

Trong giai đoạn 2017-2022, bảo hiểm đã đóng vai trò quan trọng trong việc phát
triển kinh tế Việt Nam. Bảo hiểm giúp giảm thiểu rủi ro và đảm bảo sự ổn định cho
các hoạt động kinh doanh, đồng thời cũng tăng cường lòng tin của khách hàng và nhà
đầu tư. Nhiều chính sách và điều kiện đã được cải thiện để tăng cường khả năng hoạt
động của các công ty bảo hiểm, đồng thời cũng tăng cường quản lý và giám sát các
hoạt động của các công ty này. Nhờ đó nền kinh tế Việt Nam đã được tăng cường
đáng kể về mặt ổn định tài chính và sức khỏe tài chính. Đồng thời, việc phát triển bảo
hiểm cũng đã giúp nền kinh tế Việt Nam đa dạng hóa thị trường tài chính, giúp khách
hàng và nhà đầu tư có thêm nhiều lựa chọn trong việc quản lý và phát triển tài sản.
Tuy nhiên, cần lưu ý rằng việc phát huy vai trò của bảo hiểm trong nền kinh tế-xã hội
Việt Nam còn đòi hỏi sự phát triển và hoàn thiện hơn nữa.Các cơ quan quản lý cần
tiếp tục tăng cường giám sát các hoạt động của các công ty bảo hiểm để bảo hiểm tính
minh bạch, công bằng và hiệu quả trong hoạt động của công ty này. Đồng thời cần
tăng cường giáo dục và nâng cao nhận thức của công chúng về tầm quan trọng của
bảo hiểm đối với sự phát triển kinh tế-xã hội của đất nước. Tổng kết lại, việc phát huy
vai trò của bảo hiểm trong nền kinh tế Việt Nam giai đoạn 2017-2022 đã mang lại
những kết quả tích cực và đáng khích lệ. Tuy nhiên còn cần có sự nỗ lực và phát triển
tiếp để bảo hiểm có thể đóng góp tốt hơn cho sự phát triển bền vững của kinh tế-xã
hội Việt Nam trong tương lai.
Do vốn kiến thức và kinh nghiệm còn nhiều hạn chế nên bài tiểu luận không tránh
khỏi những thiếu sót và hạn chế. Em rất mong nhận được những lời nhận xét, sự đóng
góp quý báu của cô để bài làm của nhóm được hoàn thiện hơn.

18
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Nhập môn Tài chính-Tiền tệ_ Trường Đại học Thương Mại_TS. Vũ
Xuân Dũng_Nhà xuất bản Thống kê Hà Nội, 2012
2. Cục quản lý giám sát bảo hiểm: Mof.gov.vn
3. Tổng công ty CP bảo hiểm Xuân Thành.Xti.com.vn
4. Bảo hiểm rủi ro hỗn hợp ( Tổng Công ty Bảo hiểm Bảo Việt - Bảo hiểm rủi
ro hỗn hợp (baoviet.com.vn) )
5. Bài thảo luận: Trình bày hiểu biết về BH nhân thọ. Tìm hiểu các loại sản phẩm
BHNT có trên thị trường Việt Nam hiện nay; Trường Đại học Thương Mại;
Studocu.
6. Nâng tâm thị trường bảo hiểm; Đầu tư chứng khoán; Kim Lan; 07/02/2023.
7. Thị trường bảo hiểm Việt Nam năm 2022, dự báo năm 2023; Tạp chí điện tử
VnEconomy; Ngô Trung Dũng; 26/03/2023.
8. Tổng quan thị trường Bảo hiểm Việt Nam năm 2017; Hiệp hội bảo hiểm Việt
Nam; 08/01/2019.
9. Năm 2018, tổng doanh thu phí bảo hiểm ước đạt 133.654 tỷ đồng; Tạp chí tài
chính online; Hà Anh; 02/01/2019.
10. Thị trường bảo hiểm tiếp tục phát triển vững chắc; baominh.com.vn

19

You might also like