You are on page 1of 13

1.

Định nghĩa 
1.1. Ngân hàng 
1.2. Ngân hàng số
1.3. Dịch vụ ngân hàng số tại Việt Nam
1.4. Chức năng của ngân hàng số
1.5. Ưu điểm và nhược điểm của ngân hàng số
1.6. Danh sách các ngân hàng số tại Việt Nam
1.7. Phân biệt ngân hàng số và ngân hàng điện tử
2. Mô hình áp dụng
2.1. Thuyết nhận thức rủi ro (Theory of Perceived Risk - TPR)
Theo Bauer (1960): Rủi ro nhận thức được định nghĩa bao gồm 2 thành phần
chính là xác suất của một mất mát và cảm giác chủ quan của hậu quả xấu. Thuyết
nhận thức rủi ro TPR được Bauer xây dựng cho rằng hành vi tiêu dùng sản phẩm
công nghệ thông tin có nhận thức rủi ro, bao gồm hai yếu tố

Hình 2.1: Thuyết nhận thức rủi ro (TPR)


Nguồn: Bauer, 1960
 Nhận thức rủi ro liên quan đến sản phẩm/dịch vụ (PRP - Perceived Risk
with Product/Service): Các dạng nhận thức rủi ro: Mất tính năng, mất tài
chính, tốn thời gian, mất cơ hội và nhận thức rủi ro toàn bộ với sản
phẩm/dịch vụ (tổng của nhận thức bất định hoặc băn khoăn của người tiêu
dùng khi mua sản phẩm).
Các nhà nghiên cứu trước đây đã có những kết luận liên quan đến việc nhận
thức rủi ro liên quan đến sản phẩm/dịch vụ như sau:
Bauer, R.A. (1960) đề cập rằng niềm tin về nhận thức rủi ro như là yếu tố
chủ yếu đối với hành vi tiêu dùng nó có thể là một yếu tố chính ảnh hưởng việc
chuyển đổi từ người duyệt web đến người mua hàng thật sự.
Cox và Rich (1964) đề cập đến nhận thức rủi ro như là tổng của các  nhận
thức bất định bởi người tiêu dùng trong một tình huống mua hàng cụ thể.
Jacoby and Kaplan (1972) phân loại nhận thức rủi ro của người tiêu  dùng
thành 5 loại rủi ro sau: vật lý (physical), tâm lý (psychological), xã hội (social), tài
chính (financial), Thực hiện (performance) 

Các loại rủi ro Định nghĩa


Tài chính Rủi ro mà sản phẩm không đáng giá tài chính
Tâm lý Rủi ro mà sản phẩm sẽ có chất lượng/ hình ảnh thấp hơn
mong đợi/ hình dung của khách hàng
Vật lý Rủi ro về sự an toàn của người mua hàng hay những
người khác trong việc sử dụng sản phẩm
Thực hiện Rủi ro mà sản phẩm sẽ không thực hiện như kỳ vọng
Xã hội Rủi ro mà một sự lựa chọn sản phẩm có thể mang lại kết
quả bối rối trước bạn bè/ gia đình/ đồng nghiệp.
Bảng 2.1: Phân loại rủi ro liên quan đến sản phẩm/ dịch vụ.
Nguồn: Jacoby and Kaplan (1972)
 Nhận thức rủi ro liên quan đến giao dịch trực tuyến (PRT - Perceived
Risk in the Context of Online Transaction): Các rủi ro có thể xảy ra khi
người tiêu dùng thực hiện giao dịch thương mại điện tử trên các phương tiện
- thiết bị điện tử liên quan đến: sự bí mật (privacy), sự an toàn - chứng thực
(security - authentication), không khước từ (non repudiation), và nhận thức
rủi ro toàn bộ về giao dịch trực tuyến.
Vài nghiên cứu trong phạm vi giao dịch trực tuyến cho rằng sự tin cậy hay
tính nhiệm của khách hàng sẽ được cải thiện bằng cách gia tăng tính trong suốt của
quá trình giao dịch như: thể hiện toàn bộ đặt tính, nguồn gốc và nghĩa vụ của nhà
cung cấp trong việc mua bán trên Internet, lưu giữ các dữ liệu cá nhân tối thiểu từ
các yêu cầu của người tiêu dùng, tạo ra trạng thái rõ ràng và hợp pháp của bất kỳ
thông tin nào được cung cấp, thể hiện qua các nghiên cứu điển hình sau.
Bhimani (1996) chỉ ra sự đe dọa đối việc chấp nhận thương mại điện tử có
thể biểu lộ từ những hành động không hợp pháp như: lộ mật khẩu, chỉnh sữa dữ
liệu, sự lừa dối và sự không thanh toán nợ đúng hạn.
Swaminathan V., Lepkowska-White, E. and Rao, B.P, (1999) khẳng  định
rằng người tiêu dùng rất quan tâm việc xem xét đánh giá những người bán hàng
trực tuyến trước khi họ thực hiện giao dịch trực tuyến, chính vì vậy, các đặc tính
của người bán hàng đóng vai trò quan trọng trong việc xúc tiến giao dịch.
Đối với dịch vụ Ngân hàng số là một dịch vụ mới, ứng dụng công nghệ mới
vào việc thỏa mãn nhu cầu của người tiêu dùng. Việc quyết định lựa chọn tiếp tục
sử dụng dịch vụ  Ngân hàng của khách hàng cũng bị tác động bởi yếu tố nhận thức
rủi ro nên được đưa vào nghiên cứu.
2.2. Thuyết hành động hợp lý (Theory of Reasoned Action - TRA)
Thuyết hành động hợp lý TRA (Theory of Reasoned Action) được Ajzen và
Fishbein xây dựng từ năm 1967 và được hiệu chỉnh mở rộng theo thời gian. Mô
hình TRA (Ajzen và Fishbein, 1975) cho thấy xu hướng tiêu dùng là yếu tố dự
đoán tốt nhất về hành vi tiêu dùng. Để quan tâm hơn về các yếu tố góp phần đến xu
hướng mua thì xem xét hai yếu tố là thái độ và chuẩn chủ quan của khách hàng.
Lý thuyết này cho rằng ý định hành vi dẫn đến hành vi và ý đinh được quyết
định bởi thái độ cá nhân đối hành vi, cùng sự ảnh hưởng của chuẩn chủ quan xung
quanh việc thực hiện các hành vi đó (Fishbein và Ajzen,1975). Trong đó, Thái độ
và Chuẩn chủ quan có tầm quan trọng trong ý định hành vi.

Hình 2.3: Thuyết hành động hợp lý TRA


Nguồn: Fishbein và Ajzen (1975)
Các thành phần trong mô hình TRA bao gồm:
 Hành vi (Behavior): Là những hành động quan sát được của đối tượng
(Fishbein và Ajzen,1975) được quyết định bởi ý định hành vi. Theo thuyết
hành động hợp lý (TRA), hành vi phải được xác định rõ ràng theo bốn khái
niệm sau: Hành động, Mục tiêu, Bối cảnh và Thời gian. Thuyết này cho rằng
ý định hành vi là động lực chính của hành vi, trong khi hai yếu tố quyết định
chính đối với ý định hành vi là thái độ và chuẩn chủ quan của con người.
Bằng cách kiểm tra thái độ và chuẩn chủ quan, các nhà nghiên cứu có thể
hiểu được liệu một cá nhân có thực hiện hành động dự định hay không.
 Ý định hành vi (Behavioral intention): Ý định hành vi là một thành phần
được tạo nên từ cả thái độ và chuẩn chủ quan đối với hành vi đó; có thể hiểu
rằng ý định hành vi đo lường khả năng chủ quan của đối tượng sẽ thực hiện
một hành vi và có thể được xem như một trường hợp đặc biệt của niềm tin
(Fishbein & Ajzen, 1975). Được quyết định bởi thái độ của một cá nhân đối
với các hành vi và chuẩn chủ quan. Thái độ là cách một người thể hiện hay
phản ứng đối với hành động và các chuẩn chủ quan là các chuẩn mực xã hội
gắn liền với hành động. Thái độ càng tích cực và chuẩn chủ quan càng mạnh
mẽ, mối quan hệ giữa thái độ và hành vi được thể hiện càng cao. Tuy nhiên,
thái độ và chuẩn chủ quan dường như không cân bằng như nhau trong việc
dự đoán hành vi. Tùy thuộc vào từng cá nhân và tình huống, các yếu tố này
có thể có tác động theo một mức độ khác nhau đến ý định hành vi. Một vài
nghiên cứu đã chỉ ra rằng kinh nghiệm trực tiếp trước đó với một hành động
nhất định sẽ dẫn đến tăng tỷ trọng của thành phần thái độ trong ý định hành
vi.
 Thái độ (Attitudes): Theo thuyết hành động hợp lý, thái độ là một trong
những yếu tố quan trọng quyết định ý định hành vi và đề cập đến cách mà
một người cảm nhận đối với một hành vi cụ thể. Những thái độ này bị ảnh
hưởng bởi hai yếu tố: sức mạnh của niềm tin về kết quả của hành vi được
thực hiện (nghĩa là kết quả có thể xảy ra hay không) và đánh giá kết quả
tiềm năng (nghĩa là kết quả có khả quan hay không) (Hale,2003). Thái độ
đối với một hành vi nhất định có thể là tích cực, tiêu cực hoặc trung tính.
Thuyết TRA quy định rằng tồn tại một mối tương quan trực tiếp giữa thái độ
và kết quả, nếu người ta tin rằng một hành vi nào đó sẽ dẫn đến một kết quả
mong muốn hoặc thuận lợi, thì người ta có nhiều khả năng có thái độ tích
cực đối với hành vi đó (Fishbein & Ajzen,1975). Bên cạnh đó, nếu người ta
tin rằng một hành vi nhất định sẽ dẫn đến một kết quả không mong muốn
hoặc không thuận lợi, thì nhiều khả năng người ta có thái độ tiêu cực đối với
hành vi đó.
 Chuẩn chủ quan (Subjective norms): Các chuẩn chủ quan cũng là một
trong những yếu tố chính quyết định ý định hành vi và đề cập đến nhận thức
của các cá nhân hoặc các nhóm người có liên quan như thành viên gia đình,
bạn bè và đồng nghiệp, … có thể ảnh hưởng đến việc thực hiện hành vi của
một người. Chuẩn chủ quan được định nghĩa là nhận thức của một cá nhân,
với những người tham khảo quan trọng của cá nhân đó cho rằng hành vi nên
hay không nên được thực hiện (Fishbein & Ajzen, 1975). Theo TRA, mọi
người phát triển một số niềm tin hoặc niềm tin chuẩn mực về việc liệu một
số hành vi nhất định có được chấp nhận hay không. Những niềm tin này
định hình nhận thức của một người về hành vi và xác định ý định thực hiện
hoặc không thực hiện hành vi của một người. Tuy nhiên, các chuẩn chủ quan
cũng sẽ thay đổi tùy theo tình huống và động lực của từng cá nhân, các cá
nhân có thể hoặc không tuân thủ theo các quy tắc chung của xã hội (Fishbein
& Ajzen, 1975).
Từ việc khảo sát, đánh giá thái độ và chuẩn chủ quan của người tiêu dùng
đối với việc sử dụng dịch vụ Ngân hàng số sẽ đánh giá được xu hướng tiêp tục sử
dụng dịch vụ Ngân hang số.
Hạn chế lớn nhất của lý thuyết này xuất phát từ giả định rằng hành vi là dưới
sự kiểm soát của ý chí. Đó là, lý thuyết này chỉ áp dụng đối với hành vi có ý thức
nghĩ ra trước. Quyết định hành vi không hợp lý, hành động theo thói quen hoặc
hành vi thực sự được coi là không ý thức,  không thể được giải thích bởi lý thuyết
này (Ajzen và Fishbein, 1975). Đó cũng là lý do tại sao có sự ra đời của lý thuyết
hành vi dự định (TPB).
2.3. Thuyết dự định hành vi (Theory of Planned Behavior - TPB)
Lí thuyết hành vi hợp lí được phát triển lần đầu vào năm 1967 bởi Fishbein,
sau đó đã được sửa đổi và mở rộng bởi Ajzen và Fishbein (1975). Do những hạn
chế của mô hình lý thuyết hành động hợp lý (TRA), Ajzen và Fishbein (1985) đề
xuất mô hình lý thuyết hành vi hoạch định trên cơ sở phát triển lý thuyết hành động
hợp lý với giả định rằng một hành vi có thể được dự báo hoặc giải thích bởi các
quyết định để thực hiện hành vi đó. Các quyết định được giả sử bao gồm các nhân
tố động cơ mà ảnh hưởng đến hành vi, và được định nghĩa như là mức độ nổ lực
mà mọi người cố gắng để thực hiện hành vi đó (Ajzen và Fishbein, 1975). Hành vi
hoạch định khẳng định  rằng quyết định hành vi là một chức năng của thái độ và
ảnh hưởng xã hội. Hành vi hoạch định thêm nhận thức kiểm soát hành vi xác định
quyết định  hành vi.
Thuyết hành vi dự định (Ajzen, 1991) là sự  phát triển cải tiến của thuyết
hành động hợp lý. Theo Ajzen sự ra đời của thuyết hành vi dự định TPB xuất phát
từ giới hạn của hành vi mà con người có ít sự kiểm soát dù động cơ của đối tượng
là rất cao từ thái độ và tiêu chuẩn chủ quan nhưng trong một số trường hợp họ vẫn
không thực hiện hành vi vì có các tác động của điều kiện bên ngoài lên ý định hành
vi. Lý thuyết này đã được Ajzen bổ sung từ năm 1991 bằng việc đề ra thêm yếu tố 
kiểm soát hành vi nhận thức (Perceived Behavioral Control). Nhận thức kiểm soát
hành vi phản ánh việc dễ dàng hay khó khăn chỉ thực hiện hành vi và việc thực
hiện hành vi đó có bị kiểm soát hay hạn chế hay không (Ajzen, 1991, tr.183). Theo
mô hình TPB, động cơ hay ý định là nhân tố thúc đẩy cơ bản của hành vi tiêu dùng
của người tiêu dùng. Động cơ hay ý định bị dẫn dắt bởi ba tiền tố cơ bản là:
 Yếu tố cá nhân là thái độ cá nhân đối với hành vi về việc tích cực hay tiêu
cực của việc thực hiện hành vi.
 Về ý định nhận thức áp lực xã hội của người đó, vì nó đối phó với nhận thức
của áp lực hay sự bắt buộc có tính qui tắc nên được gọi là chuẩn chủ quan.
 Yếu tố quyết định sự tự nhận thức (self- efficancy) hoặc khả năng thực hiện
hành vi, được gọi là kiểm soát nhận thức hành vi.
Lí thuyết cho thầy tầm quan trọng của thái độ đối với hành vi, chuẩn chủ
quan và kiểm soát nhận thức hành vi dẫn đến sự hình thành của một ý định hành
vi.
Hình 2.4: Mô hình thuyết hành vi dự định TPB
Nguồn: Fishbein và Ajzen (1985)
2.4. Mô hình chấp nhận công nghệ (Technology Acceptance Model -
TAM)
Xuất phát từ thực tế là có nhiều hê ̣ thống thất bại trong quá trình thực hiê ̣n,
các nhà nghiên cứu cố gắng tìm cách lý giải, tuy nhiên, phần lớn những nghiên cứu
này thất bại trong viê ̣c đưa ra một thước đo đáng tin câ ̣y cho viê ̣c đánh giá sự chấp
nhâ ̣n hay từ chối hê ̣ thống (Davis, 1989). Nghiên cứu về chấp nhâ ̣n công nghê ̣ của
Davis được trình bày lần đầu trong luâ ̣n án Tiến Sĩ của ông tại trường MIT năm
1985, nghiên cứu này dựa trên nghiên cứu của Fishbein và Ajzen (1975) và các
nghiên cứu liên quan về Lý thuyết Hành động Hợp lý (TRA), sau đó, Davis đã xây
dựng mô hình ý niê ̣m về TAM (Davis, 1986 theo (Davis, 1989)).
Với mô hình chấp nhâ ̣n công nghê ̣ TAM, theo Davis, người dùng chấp nhâ ̣n
công nghê ̣ dựa trên nhâ ̣n thức dẫn đến ý định và hành vi. Ba thành phần quan trọng
trong mô hình TAM của Davis (1989) bao gồm: nhâ ̣n thức về tính dễ sử dụng,
nhâ ̣n thức về tính hữu ích và thái độ đối với viê ̣c sử dụng. Mô hình được xây dựng
dựa trên quan điểm của giả thuyết: thái độ của người dùng tác động đến sự chấp
nhâ ̣n hay từ chối sử dụng công nghê ̣ thông tin; đồng thời nhâ ̣n thức về tính dễ dùng
và nhâ ̣n thức về tính hữu ích tác động đến thái độ của người dùng, và khi cho rằng
công nghê ̣ dễ sử dụng thì người dùng sẽ cảm nhâ ̣n được tính hữu ích của công
nghê ̣. Quan điểm chấp nhâ ̣n công nghê ̣ theo mô hình TAM được khá nhiều nhà
nghiên cứu vâ ̣n dụng và trích dẫn khi nghiên cứu và giải thích hành vi sử dụng
công nghê ̣ (Y. Lee, Kozar, & Larsen, 2003).

Hình 2.5: Mô hình chấp nhận công nghệ TAM


Nguồn: Davis (1989)
 Biến bên ngoài (Biến ngoại sinh): Đây là biến ảnh hưởng đến nhận thức sự
hữu ích (Perceive usefulness – PU) mức độ mà một người tin rằng sử dụng
một hệ thống cụ thể sẽ nâng cao hiệu quả công việc của mình và nhận thức
tính dễ sử dụng (Perceive ease of use – PEU) mức độ mà một người tin rằng
việc sử dụng một hệ thống cụ thể sẽ không cần nỗ lực.
 Cảm nhận tính hữu ích: Người sử dụng chắc chắn nhận thấy rằng việc sử
dụng các hệ thống ứng dụng riêng biệt sẽ làm tang hiệu quả / năng suất làm
việc của họ đối với một công việc cụ thể.
 Cảm nhận dễ sử dụng: Là mức độ dễ dàng mà người dùng mong đợi khi sử
dụng hệ thống.
 Thái độ đối với việc sử dụng sử dụng: Là thái độ hướng đến việc sử dụng
một hệ thống được tạo lập bởi sự tin tưởng về sự hữu ích và dễ sử dụng.
 Ý định sử dụng: Là ý định của người dung khi sử dụng hệ thống. Ý định sử
dụng có mối quan hệ chặt chẽ đến việc sử dụng hệ thống thực tế.
TAM được xem là mô hình đặc trưng để ứng dụng trong việc nghiên cứu
việc sử dụng một hệ thống vì TAM là mô hình đo lường và dự đoán việc sử dụng
hệ thống thông tin. Vậy, Ngân hang số cũng là một sản phẩm của phát triển công
nghệ thông tin, do đó, mô hình khảo sát các yếu tố tác động vào việc chấp thuận IT
cũng được áp dụng thích hợp cho việc nghiên cứu các vấn đề tương tự trong Ngân
hang số.
2.5. Mô hình kết hợp TAM và TPB (A model combining TAM and TPB
- C-TAM-TPB)
Mô hình kết hợp C-TAM-TPB được giới thiệu bởi Taylor & Todd, 1995.
Trong mô hình này, Taylor và Todd đã bổ sung vào mô hình TAM thêm 2 yếu tố
chính là “chuẩn chủ quan” và “nhận thức kiểm soát hành vi”. Như vậy, trong mô
hình C-TAM-TPB, có 3 yếu tố chính tác động đến ý định sử dụng, đó là: (1) thái
độ, (2) chuẩn chủ quan, (3) nhận thức kiểm soát hành vi. Trong đó, biến “thái độ”
chịu ảnh hưởng của 2 biến “nhận thức hữu ích”, “nhận thức dễ sử dụng” và “nhận
thức hữu ích” cũng tác động đến ý định sử dụng (Yu, Yi, Feng, & Liu, 2018; Ngan
& Khoi, 2019).
Hình 2.5: Mô hình kết hợp TAM và TPB (C-TAM-TPB)
Nguồn: Taylor & Todd (1995)
2.6. Mô hình chấp nhận và sử dụng công nghệ hợp nhất (Unified Theory
of Acceptance and Use of Technology - UTAUT)
Mô hình Lý thuyết UTAUT được xây dựng bởi Viswanath Venkatesh
(2003) và các cộng sự: Michael G. Moris, Gordon B.Davis, và Fred D. Davis dựa
trên tám mô hình/lý thuyết thành phần, đó là: Thuyết hành động hợp lý (TRA),
Thuyết hành vi dự định (TPB), Mô hình chấp nhận công nghệ (TAM, TAM2), Mô
hình động cơ thúc đẩy (MM), Mô hình kết hợp (TAM&TPB), Mô hình sử dụng
máy tính cá nhân (MPCU), Thuyết lan truyền sự đổi mới (IDT) và Thuyết nhận
thức xã hội (SCT).
Các tác giả tiến hành thử nghiệm trên 4 tổ chức trong thời gian 6 tháng, sau
khi xem xét và thực nghiệm so sánh tám mô hình cạnh tranh với 32 yếu tố,
UTAUT đã được thiết lập bằng việc lựa chọn và tích hợp các yếu tố trên 8 mô hình
thành phần trên (hình 4). Hiệu quả mong đợi Nỗ lực mong đợi Ảnh hưởng của xã
hội Các điều kiện thuận tiện Ý định hành vi Hành vi sử dụng Giới tính Độ tuổi
Kinh nghiệm Tự nguyện sử dụng Hình 4. Mô hình Lý thuyết hợp nhất về chấp
nhận và sử dụng công nghệ UTAUT (Venkatesh, Morris and Davis, 2003)
Mô hình đã được đưa vào kiểm nghiệm trên cả dữ liệu gốc và dữ liệu mới và
đều cho kết quả khả năng giải thích cao hơn 8 mô hình đơn lẻ. Các tác giả đã kỳ
vọng rằng có 3 yếu tố có tác động trực tiếp lên ý định hành vi (hiệu quả mong đợi,
nổ lực mong đợi, ảnh hưởng của xã hội) và 2 yếu tố tác động trực tiếp lên hành vi
sử dụng thực tế (các điều kiện thuận tiện và ý định hành vi). Bên cạnh đó, các yếu
tố trung gian: Giới tính, độ tuổi, kinh nghiệm và tự nguyện sử dụng tác động gián
tiếp đến ý định hành vi và hành vi sử dụng thông qua các nhân tố chính.
Mô tả các biến chính trong mô hình:
 Hiệu quả mong đợi: được định nghĩa là mức độ mà một cá nhân tin rằng
bằng cách sử dụng hệ thống sẽ giúp người dùng đạt được hiệu quả công việc
cao hơn.
 Nỗ lực mong đợi: được định nghĩa là mức độ dễ dàng kết hợp với việc sử
dụng hệ thống.
 Ảnh hưởng xã hội: Ảnh hưởng xã hội được định nghĩa là mức độ mà cá
nhân nhận thấy rằng những người quan trọng khác tin rằng họ nên sử dụng
hệ thống mới.
 Các điều kiện thuận tiện: được định nghĩa là mức độ mà một cá nhân tin
rằng một cơ sở hạ tầng kỹ thuật và tổ chức tồn tại để hỗ trợ sử dụng của hệ
thống.
Hình 2.6: Mô hình chấp nhận và sử dụng công nghệ hợp nhất UTAUT
Nguồn: Venkatesh, Morris and Davis (2003)
3. http://tapchinganhang.gov.vn/ngan-hang-so-trien-vong-va-phat-trien-trong-
tuong-lai.htm

You might also like