You are on page 1of 8

TỔNG QUAN VỀ ĐÀ NẴNG

Giữa thế kỷ XVI, khi Hội An đã là trung tâm buôn bán sầm uất ở phía Nam
thì Đà Nẵng mới là vị trí tiền cảng, trung chuyển hàng hóa, tu sửa tàu
thuyền. Đầu thế kỷ XVIII, vị trí tiền cảng của Đà Nẵng dần dần trở thành
thương cảng thay thế cho Hội An, nhất là khi kỹ thuật đóng tàu ở châu Âu
phát triển với những loại tàu thuyền lớn, đáy sâu, ra vào vịnh Đà Nẵng dễ
dàng.
2.1. Lược sử hình thành và phát triển
Giữa thế kỷ XVI, khi Hội An đã là trung tâm buôn bán sầm uất ở phía Nam
thì Đà Nẵng mới là vị trí tiền cảng, trung chuyển hàng hóa, tu sửa tàu
thuyền. Đầu thế kỷ XVIII, vị trí tiền cảng của Đà Nẵng dần dần trở thành
thương cảng thay thế cho Hội An, nhất là khi kỹ thuật đóng tàu ở châu Âu
phát triển với những loại tàu thuyền lớn, đáy sâu, ra vào vịnh Đà Nẵng dễ
dàng.
Năm 1835, khi vua Minh Mạng có dụ: “Tàu Tây chỉ được đậu tại cửa Hàn,
còn các cửa biển khác không được tới buôn bán”, thì Đà Nẵng trở thành
một thương cảng lớn bậc nhất miền Trung. Tiểu thủ công nghiệp địa phương
phát triển với những ngành sửa chữa tàu thuyền, sơ chế nông lâm hải sản;
dịch vụ thương mại cũng phát đạt.
Sau khi xâm chiếm toàn bộ đất nước ta vào năm 1889, thực dân Pháp tách
Đà Nẵng khỏi Quảng Nam và đổi tên thành Tourane, chịu sự cai quản trực
tiếp của Toàn quyền Đông Dương.
Đầu thế kỷ XX, Tourane được Pháp xây dựng trở thành một đô thị theo kiểu
Tây phương. Cơ sở hạ tầng xã hội, kỹ thuật sản xuất được đầu tư. Các ngành
nghề sản xuất và kinh doanh được hình thành và phát triển: sản xuất nông
nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, chế biến hàng xuất khẩu (chè, lương thực,
thực phẩm, nước ngọt, nước đá, rượu, nước mắm, cá khô), sửa chữa tàu
thuyền, kinh doanh dịch vụ. Cùng với Hải Phòng và Sài Gòn, Tourane tr ở
thành trung tâm thương mại quan trọng của cả nước.
Năm 1950, Pháp trao trả Đà Nẵng cho chính quyền Bảo Đại.
Tháng 3.1965 các đơn vị thủy quân lục chiến Mỹ đổ bộ vào Đà Nẵng và thiết
lập ở đây một căn cứ quân sự hỗn hợp lớn. Năm 1967, Đà Nẵng được chính
quyền miền Nam xây dựng thành trung tâm chính trị, quân sự, văn hóa cho
vùng I và II chiến thuật. Quân đội Mỹ cho xây dựng ở Đà Nẵng các căn cứ
quân sự và kết cấu hạ tầng: sân bay, cảng, kho bãi, đường sá, công trình
công cộng, cơ sở thông tin liên lạc, lập tín dụng ngân hàng. Khu kỹ nghệ
Hòa Khánh sản xuất oxygen, acetylene, bột giặt, xay xát, dệt... Ở thời kỳ
này công nghiệp được phát triển ở mức độ cao hơn: các khu kỹ nghệ thay
thế cho công trường thủ công. Tuy nhiên, chiến tranh đã để lại hậu qu ả
nặng nề, hàng trăm nghìn dân quê phải chạy vào các trại tỵ nạn, các khu ổ
chuột đô thị; tệ nạn xã hội tăng nhanh, sản xuất không phát triển.
Năm 1975, hòa bình lập lại, Đà Nẵng (là thành phố trực thuộc tỉnh Quảng
Nam - Đà Nẵng) bắt tay vào khôi phục những hậu quả nặng nề của cuộc
chiến tranh. Mặc dù còn lắm khó khăn nhưng công cuộc phục hồi và phát
triển thành phố đã đạt nhiều thành quả, nhất là thời kỳ đổi mới, sau 1986.
Ngày 6.11.1996 tại kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa IX đã thông qua Nghị
quyết cho phép tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng tách thành tỉnh Quảng Nam và
thành phố Đà Nẵng trực thuộc Trung ương. Về địa giới hành chính, thành
phố Đà Nẵng hiện nay bao gồm 6 quận: Hải Châu, Sơn Trà, Thanh Khê, Ngũ
Hành Sơn, Liên Chiểu, Cẩm Lệ và 2 huyện là Hòa Vang và huyện đ ảo Hoàng
Sa. Kể từ ngày 15.7.2003, theo Quyết định số 145/2003/QĐ-TTG của Th ủ
tướng Chính phủ, thành phố Đà Nẵng là đô thị loại I trực thuộc Trung ương.
Chỉ trong mấy năm trở lại đây, Đà Nẵng đã khác trước nhiều. Những vận
động nội lực đã khiến Đà Nẵng ngày càng mở rộng tầm vóc của mình. Bắt
đầu từ kế hoạch phát triển cơ sở hạ tầng, nhất là cơ sở về hạ tầng giao
thông, tiến hành chỉnh trang đô thị, xây dựng một môi trường mới hiểu theo
nghĩa rộng, tạo điều kiện cho công cuộc phát triển mới. Khai thác tốt những
lợi thế sẵn có, trong những năm qua Đà Nẵng đã có những biến đổi rõ rệt về
nhịp độ và khí thế phát triển.
2.2. Nhân vật lịch sử và danh nhân văn hóa
Đà Nẵng là quê hương của nhiều danh nhân. Họ là những vị tướng lĩnh, nhà
chính trị, nhà văn hóa..., tên tuổi gắn với nhiều thời kỳ lịch sử của đất nước,
của dân tộc. Sau đây là một số danh nhân tiêu biểu:
- Nguyễn Văn Thoại (1761 - 1829): Thường được gọi một cách kính ngưỡng
là Thoại Ngọc Hầu, là một danh thần, một nhà ngoại giao, nhà quân sự, nhà
kinh tế doanh điền nổi tiếng và có nhiều đóng góp quan trọng d ưới th ời nhà
Nguyễn. Ông quê ở làng An Hải, tổng An Lưu Hạ, huyện Diên Khánh, phủ
Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam, nay là phường An Hải Tây, quận Sơn Trà, thành
phố Đà Nẵng.
- Ông Ích Khiêm (1828 - 1884): Người thôn Phong Lệ, làng Đà Ly, huyện
Diên Phước, tỉnh Quảng Nam, nay là xã Hòa Châu, huyện Hòa Vang, thành
phố Đà Nẵng. Ông thi đậu cử nhân năm Thiệu Trị thứ 7 (1847) và làm quan
dưới triều vua Tự Đức. Nổi tiếng là người thông minh, chính trực, là một vị
tướng khẳng khái và mưu lược, ông có công trong việc cầm quân bảo vệ Đà
Nẵng khi thực dân Pháp nổ súng tấn công Đà Nẵng, xâm lược nước ta vào
ngày 1.9.1858. Thời kỳ này ông ở dưới quyền chỉ huy của Nguyễn Tri
Phương, ông đã lo củng cố các đồn trại như đồn Nhất ở đèo Hải Vân, đồn
Liên Trì, Phong Lệ và đắp lũy từ Hải Châu đến Phước Ninh...
- Lâm Nhĩ (1867 - 1916): Hiệu là Ninh Võ, quê ở làng Cẩm Toại, nay thu ộc
xã Hòa Phong, huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng. Là một chí sĩ yêu n ước
của phong trào Duy Tân 1908, phong trào Cần Vương cứu nước 1916 và là
một trong hai người đứng ra xây dựng trường Tân Học Nghĩa Thụ vào thời
kỳ đó.
- Thái Phiên (1882 - 1916): Quê ở làng Nghi An, xã Hòa Phát, nay thu ộc xã
Hòa ???, huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng. Cùng với Trần Cao Vân, ông
đã lãnh đạo cuộc khởi nghĩa Duy Tân tháng 5.1916. Cuộc khởi nghĩa không
thành, cả hai ông bị bắt ngày 4.5.1916, sau đó bị xử chém tại Cống Chém
An Hòa (Huế) ngày 17.5.1916 (16.5 năm Bính Thìn).
* Lê Văn Hiến (1904 - 1997): Quê ở xã Phước Ninh, nay là xã Hòa Ninh,
huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng. Tháng 9.1927 ông cùng Lê Quang
Sung và vợ là Thái Thị Bôi tham gia thành lập chi bộ đầu tiên của Việt Nam
thanh niên cách mạng đồng chí hội tại Đà Nẵng. Sau khi được giặc Pháp tr ả
tự do vào năm 1935, ông tiếp tục hoạt động bí mật tại Đà Nẵng cùng với các
nhà hoạt động như: Phan Thanh, Phan Đăng Lưu, Lê Duẩn... Ông trở thành
Chủ tịch UBND Cách mạng thành phố Đà Nẵng ngay sau khi Đà Nẵng giành
chính quyền vào năm 1945. Ông đảm nhiệm nhiều chức vụ quan trọng trong
chính phủ như Bộ trưởng Bộ Lao động, Bộ Tài chính, Phó Chủ tịch Hội đồng
quốc phòng tối cao Khóa 1, Đại sứ Đặc mệnh toàn quyền nước Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa tại Vương quốc Lào v.v...
- Thái Thị Bôi (1911 - 1938): Quê ở làng Nghi An, xã Hòa Phát, nay thu ộc xã
Hòa ???, huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng. Từ những phong trào yêu
nước, Thái Thị Bôi sớm giác ngộ cách mạng và đứng vào hàng ngũ của
những người cộng sản. Cùng với chồng là Lê Văn Hiến, bà đã tìm cách tập
hợp lực lượng, vận đồng quần chúng đấu tranh cũng như đóng góp nguồn tài
chính cho hoạt động của Đảng ở Quảng Nam - Đà Nẵng lúc bấy giờ.
- Mẹ Nhu (? - 1968): Tên thật là Lê Thị Dãnh, quê làng Thanh Khê, huy ện
Hòa Vang, nay là phường Thanh Lộc Đán, quận Thanh Khê, thành ph ố Đà
Nẵng. Trong kháng chiến chống Mỹ, nhà mẹ là cơ sở cách mạng nội thành.
Hầm bí mật được xây dựng ngay trong nhà mẹ để nuôi giấu cán bộ. Ngày
26.12.1968, để che giấu cho các dũng sĩ Thanh Khê đang ẩn náu trong h ầm
bí mật tại nhà mình, mẹ Nhu đã mưu trí chiến đấu và anh dũng hy sinh. Sự
cống hiến và hy sinh cao cả của mẹ Nhu cho cách mạng đã được Đảng và
Nhà nước ghi công, truy tặng nhiều danh hiệu cao quý, đặc biệt là danh
hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân năm 1995.
2.3. Di sản văn hóa
Thành phố Đà Nẵng hiện có 15 di tích lịch sử văn hóa (LSVH) cấp quốc gia,
35 di tích LSVH cấp thành phố và hàng trăm di tích, di sản văn hóa vật thể,
phi vật thể khác. Tất cả những di sản này đều cần được kiểm kê, lập hồ sơ
khoa học, bảo vệ, bảo tồn, tôn tạo, khai thác và phát huy các giá trị văn
hóa.
2.3.1. Văn hóa vật thể
a. Di tích
- Đình Túy Loan: Là một di tích lịch sử văn hóa đã được xếp hạng quốc gia,
một địa chỉ nghiên cứu, tìm hiểu và tham quan hấp dẫn. Đình làng Túy Loan
được xây ở vị trí trung tâm, vào năm Thành Thái thứ nhất (1889) có khuôn
viên rộng hơn 8.000m2, thoáng đãng, hướng ra sông, nhìn về thế núi, sát
đường lớn và đặc biệt có cây đa cổ thụ cành lá xum xuê đã có hơn trăm
tuổi gây ấn tượng và cảm xúc khó quên.
- Đình Bồ Bản: Được xếp hạng là di tích LSVH cấp quốc gia vào ngày
4.1.1999, được xây dựng vào năm 1852 tại thôn Bồ Bản, xã Hòa Phong,
huyện Hòa Vang. Đình có kiến trúc tường gạch, lợp ngói âm dương, chia
làm ba gian, hai chái dài 14,5m, rộng 9,7m, có 36 cột bằng gỗ mít và ki ền
kiền; kết cấu kèo, cột cũng theo lối chồng rường giả thủ, đầu các trính chạm
đầu rồng, các vì kèo chạm mai, trúc, tùng, lan.
- Đình làng Hải Châu: Tọa lạc tại kiệt 48/14 đường Phan Châu Trinh, là nơi
thờ chung 42 bài vị của 42 tộc họ từ thôn Hiếu Hiền, xã Hải Châu, huyện
Ngọc Sơn, phủ Tỉnh Gia, Thanh Hóa theo vua Lê Thánh Tôn vào năm 1471.
Đình làng Hải Châu được Bộ VHTT công nhận là di tích LSVH cấp quốc gia
vào ngày 12.7.2001.
- Thành Điện Hải: Tọa lạc tại phường Thạch Thang, quận Hải Châu, thành
phố Đà Nẵng. Thành Điện Hải là một dấu ấn ghi nhớ truyền thống đấu tranh
chống Pháp của nhân dân Đà Nẵng và nhân dân cả nước, quyết tâm giữ
vững nền độc lập dân tộc, bảo vệ lãnh thổ. Đây cũng là đồn lũy quan trọng
góp phần đánh bại cuộc tấn công của thực dân Pháp vào Đà Nẵng những
năm 1858 - 1860. Gần đây, di tích thành Điện Hải được trùng tu, gia cố,
phục hồi lại nguyên trạng. Thành Điện Hải đã được Bộ VHTT xếp hạng là di
tích LSVH cấp quốc gia vào ngày 16.11.1988.
- Nghĩa trũng Khuê Trung: Là mộ lớn của nghĩa sĩ lập tại Khuê Trung, Hòa
Vang, theo sắc tứ vua ban để quy tụ hài cốt tướng sĩ vị quốc vong thân
trong cuộc kháng chiến chống quân pháp xâm lược năm 1858. Hòa Vang
Nghĩa Trũng đầu tiên được lập ở trũng bò làng Nghi An (Phước Tường).
Khoảng năm 1920 Pháp mở sân bay Đà Nẵng, phải dời Nghĩa Trũng về vườn
Bá Khuê Trung. Đến 1962, quân đội Mỹ mở rộng sân bay về phía Nam, lại
phải dời Nghĩa Trũng đến chỗ hiện nay, khu vực Bình Hòa 1, phường Khuê
Trung, quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng.
b. Bảo tàng
- Bảo tàng Đà Nẵng: Là nơi lưu giữ đầy đủ nhất những câu chuyện, những
huyền thoại của người Đà Nẵng qua những năm tháng chiến đấu và dựng
xây mảnh đất thân yêu này. Đó là một câu chuyện dài về cuộc sống được kể
qua những dụng cụ lao động bình thường, những vật dụng hàng ngày, cả
những câu ca dao, điệu bài chòi, câu hò của người xứ Quảng... Năm tháng
như dừng lại trên từng cổ vật, nỗi đau chiến tranh dừng lại trên từng mảnh
bom, viên đạn, nhưng từ mỗi hiện vật, mỗi bức tranh vẫn day dứt, ám ảnh
một nỗi đau về cuộc đấu tranh giành quyền sống, và những cuộc chiến dẫu
đau thương vẫn ngời lên niềm tự hào từ sâu thẳm trong trái tim mỗi người
Đà Nẵng.
- Bảo tàng điêu khắc Chăm Đà Nẵng: Chính thức được xây dựng vào tháng
7.1915, với sự giúp đỡ của Viện Viễn Đông Bác Cổ ở Hà Nội, Bảo tàng điêu
khắc Chăm Đà Nẵng hiện tại có khoảng gần 2.000 hiện vật lớn nhỏ, trong đó
có gần 500 hiện vật đang trưng bày bên trong nhà bảo tàng (được phân
chia thành các phòng trưng bày gồm: Mỹ Sơn, Trà Kiệu, Đồng Dương, Tháp
Mẫm và các hành lang: Quảng Trị, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Kon Tum,
Quảng Bình và Bình Định), một số hiện vật trưng bày ngoài sân vườn và hơn
1.200 hiện vật hiện đang lưu giữ trong kho. Hầu hết các tác phẩm điêu kh ắc
hiện có tại bảo tàng là những tác phẩm nguyên bản trên 3 chất liệu chính là
sa thạch, đất nung và đồng, phần lớn là sa thạch, có niên đại từ thế kỷ VII
đến thế kỷ XV, thuộc nhiều phong cách nghệ thuật khác nhau.
- Bảo tàng Hồ Chí Minh (Chi nhánh Quân khu V): Năm 1975, miền Nam hoàn
toàn giải phóng. Ngày 12.9.1976 thể theo nguyện vọng, tình cảm c ủa đ ồng
bào và cán bộ, chiến sĩ Khu V đối với Bác Hồ kính yêu, mô hình nhà sàn
được xây dựng theo đúng tỉ lệ 1/1 (giống như nhà sàn Bác Hồ ở Hà Nội) tại
trung tâm thành phố Đà Nẵng, bên ngoài là vườn cây, ao cá... tạo nên một
khuôn viên thoáng mát, đẹp thu hút nhiều du khách khi đến th ăm thành
phố.
- Bảo tàng Đồng Đình: Năm 2011, thành phố Đà Nẵng có thêm 1 địa chỉ văn
hóa du lịch độc đáo dành cho du khách đó là Bảo tàng Đồng Đình - B ảo tàng
tư nhân đầu tiên được cấp phép xây dựng ở miền Trung. Tọa lạc tại khu vực
thượng lưu suối Bụt, bán đảo Sơn Trà, phường Thọ Quang, quận Sơn Trà,
thành phố Đà Nẵng, bảo tàng đã góp phần vào sự phong phú thêm cho các
sản phẩm văn hoá du lịch của thành phố.
c. Danh lam thắng cảnh
- Ngũ Hành Sơn: Nằm cách không xa trung tâm thành phố với không gian
huyền ảo, thơ mộng, chùa chiền và hang động, cây cỏ và tiếng chuông
chùa, sóng vỗ và những dằng dặc nghìn trùng..., Ngũ Hành Sơn từ lâu đã
thật sự là một cõi thiên thai dành cho du khách.
Nơi đây, các dấu ấn văn hóa lịch sử của các thời kỳ lịch sử, từ Trần - Lê -
Nguyễn vẫn còn in đậm trên mỗi công trình chùa tháp. Đặc biệt đây là nơi
còn lưu giữ nhiều dấu tích văn hóa Champa từ các thế kỷ XIV - XV. Những
di tích LSVH khác trong khu vực danh thắng như: mộ mẹ tướng quân Trần
Quang Diệu, đền thờ công chúa Ngọc Lan, bút tích sắc phong quốc tự còn
lưu giữ tại chùa Tam Thai của triều Nguyễn, đến các di tích lịch sử đấu
tranh cách mạng như: Địa đạo núi đá Chồng, hang Bà Tho, núi Kim Sơn,
hang Âm Phủ,... Tất cả chứng minh hùng hồn về một Ngũ Hành Sơn huyền
thoại, về một vùng đất địa linh nhân kiệt đầy chất sử thi.
- Bán đảo Sơn Trà: Nằm cách trung tâm thành phố 10km về phía Đông Bắc,
bán đảo Sơn Trà với độ cao 693m so với mực nước biển; giống hình một cây
nấm, đầu nấm là núi Sơn Trà và thân nấm là bãi cát bồi, lắng đọng, tạo nên
những bãi cát vàng đẹp đẽ, trong lành. Đây còn là một khu bảo tồn thiên
nhiên đa dạng và phong phú, được bảo vệ theo chế độ rừng cấm quốc gia,
nổi tiếng là nơi có thảm thực vật đặc sắc với nhiều loại thú rừng quý hiếm
như hươu, nai, khỉ, vượn, đười ươi, voọc chà vá, gà mặt đỏ... cảnh vật thiên
nhiên nơi đây rất quyến rũ; dân gian đồn rằng các vị tiên từ trên trời thường
chọn bãi cát nơi đây để giáng trần, ca múa, đánh cờ với nhau... nên còn có
tên là Tiên Sa.
- Bà Nà - Suối Mơ: Nằm cách Đà Nẵng 25 km về phía Tây Nam ở độ cao
1.487m so với mực nước biển. Bà Nà được xem là “lá phổi xanh” của miền
Trung, là “hòn ngọc về khí hậu” của Việt Nam. Bà Nà được phát hiện vào
tháng 4.1901 và người Pháp đã xây dựng nơi đây thành một trong nh ững
nơi nghỉ mát nổi tiếng, lớn nhất Đông Dương và thu hút nhiều du khách.
Cảm giác khác biệt khi sống giữa thiên nhiên tươi đẹp quyện với nét kiến
trúc hài hòa, thanh lịch mang lại cho du khách một cảm giác bình yên, sâu
lắng.
2.3.2. Văn hóa phi vật thể
a. Lễ hội
Lễ hội ở Đà Nẵng có nhiều điểm giống các vùng duyên hải miền Trung, song
cũng mang rất nhiều nét đặc trưng tạo nên vẻ đẹp rất riêng của miền đất
này. Trong những ngày lễ hội, cả một vùng rực rỡ màu sắc, và rộn ràng
những khúc hát cầu an, nhịp điệu bài chòi tha thiết. Các lễ hội của Đà N ẵng
có từ rất xưa, được lưu truyền từ đời này sang đời khác, như: lễ hội cầu ngư,
lễ hội Quan Thế Âm, lễ hội đình làng Hòa Mỹ, lễ hội đình làng An Hải, lễ hội
mục đồng làng Phong Lệ...
Không chỉ giữ gìn những lễ hội truyền thống, người Đà Nẵng đã tạo cho mình
một lễ hội mới như: Cuộc thi bắn pháo hoa quốc tế, các cuộc đua thuyền...
thường được tổ chức và các dịp lễ lớn hàng năm như: ngày Giải phóng Đà
Nẵng (29/3), ngày Giải phóng miền Nam (30.4), ngày Quốc tế lao động (1.5),
ngày Quốc khánh (2.9)... trên dòng sông Hàn. Những lễ hội này không ch ỉ
góp phần làm phong phú thêm đời sống tinh thần của người dân thành phố
mà còn được xem là sản phẩm du lịch đặc sắc đối với nhiều du khách.
b. Làng và nghề truyền thống
Đi ra khỏi cái ồn ào, náo nhiệt của thành phố, làng cổ Phong Nam, làng c ổ
Túy Loan như những mảnh gấm được dệt nên bởi đồng ruộng, những ngõ
nhỏ rợp mát bóng tre, đâu đó vẳng tiếng gà gáy trưa nghe thanh bình đ ến
lạ. Trong làng còn giữ lại những mái đình phủ màu thời gian, trải bao th ăng
trầm lịch sử vẫn còn nguyên một thế giới tâm linh thiêng liêng, thần bí mà
cũng gần gũi với người dân quê xứ Quảng.
Mỗi làng quê, làng nghề là một nét rất riêng của mảnh đất Đà Nẵng. Làng đá
mỹ nghệ Non Nước với những sản phẩm được người nghệ nhân gọt giũa bằng
khối óc, bằng bàn tay khéo léo, tinh xảo, họ thổi tâm hồn mình vào đá, đánh
thức giấc ngủ ngàn năm của thiên nhiên để sống với con người. Người làng
chiếu Cẩm Nê dệt nên những chiếc chiếu thơm hương đồng cỏ nội, êm như
sóng lúa, nâng giấc ngủ của biết bao thế hệ con người hay làng làm bánh
khô mè Cẩm Lệ, cái thứ bánh giòn xốp, ngọt ngào hương vị đường non của
cánh đồng mía bên dòng sông Cẩm Lệ đã trở thành một đặc sản không thể
thiếu đối với du khách khi đến thăm thành phố.
c. Ẩm thực
Đến Đà Nẵng, rất nhiều du khách ngạc nhiên và thích thú khi được thưởng
thức những món ăn ngon, mang đậm chất Quảng nhưng vẫn có nét đặc
trưng riêng của thành phố bên biển, bên sông.
- Mì Quảng: Mì Quảng được làm từ gạo ngon xay thành bột, tráng bánh và
thái thành sợi. Nước nhưn được chế biến từ thịt gà, tôm, cua, cá lóc và thịt
sườn heo, thịt bò… nên thường được gọi theo các tên như: mì gà, mì cá lóc,
mì bò... Vì vậy mỗi loại mì đều có hương vị và sức hấp dẫn riêng. Mì Quảng
thường được ăn kèm với nhiều loại rau sống như: rau đắng, húng, quế, diếp
cá, cải, hành, ngò, hoa chuối và nhất thiết phải có bánh tráng nướng, lạc
rang và vắt thêm một lát chanh.
- Bánh tráng cuốn thịt heo: Bánh tráng mỏng và mì lá cuốn những lát th ịt
dài bằng gang tay, nạc ở giữa, mỡ hai đầu và các loại rau như chuối non,
khế, các loại rau salad, húng, quế, cải, hẹ... chấm với loại mắm nêm ớt,
chanh, tỏi. Đặc biệt, du khách phải dùng tay mới có thể thưởng thức và cảm
nhận được hết cái ngon của món này.
- Bánh khô mè Cẩm Lệ: Là một trong những đặc sản của Đà Nẵng rất được
du khách yêu thích. Nếu muốn đến tận nơi xem phương thức làm bánh và
mua về làm quà, chỉ cần 10 phút xe máy từ trung tâm thành phố đến chân
cầu Cẩm Lệ bạn sẽ thấy nhiều tấm bảng hiệu nổi tiếng quảng cáo bánh khô
mè Cẩm Lệ như: bà Liễu, bà Nhứt…
Ngoài ra, Đà Nẵng còn nổi tiếng với nhiều món ngon khác như nem - chả -
tré, bún chả cá, bánh canh, bún thịt nướng… được chế biến với hương vị rất
riêng và đậm đà.

Đào tạo chứng chỉ hướng dẫn viên du lịch (điều kiện bắt buộc
để xin cấp thẻ hướng dẫn) 0969 650 993
(FB: facebook.com/0969650993 – Meo Nguyen)

You might also like