You are on page 1of 35

Chương I: Cao Lộc - Vùng đất và con người và truyền thống

I. Vị trí địa lý Cao Lộc trong quốc phòng - an ninh


Cao Lộc là một đơn vị hành chính cấp huyện nằm ở phía Đông Bắc tỉnh Lạng Sơn,
với diện tích đất tự nhiên là … km2, Phía Bắc và Đông Bắc giáp tỉnh Quảng Tây
(Trung Quốc), phía Đông Nam giáp huyện Lộc Bình, phía Tây Bắc giáp huyện Văn
Quan và Văn Lãng, phía Nam giáp huyện Chi Lăng.
Trải qua những thăng trầm, địa danh Cao Lộc có những thay đổi phù hợp với từng
thời kỳ lịch sử. Trong tiến trình hình thành và phát triển của tỉnh Lạng Sơn, địa bàn
nhiều xã của huyện Cao Lộc ngày nay từng thuộc châu Văn Uyên và châu Thoát
Lãng; một số xã thuộc châu Lộc Bình và châu Ôn.
Trong cuộc xâm lăng lăng lần thứ nhất, sau khi xâm chiếm được địa bàn tỉnh Lạng
Sơn, từ năm 1891 - 1904, thực dân Pháp gộp các tỉnh thành các đạo quan binh. Trong
đó, Lạng Sơn được đặt thành tiểu quân khu, thuộc đạo quan binh 1. Ngày 20/6/1905,
Toàn quyền Đông Dương ra nghị định bãi bỏ đạo quan binh, chuyển Lạng Sơn thành
tỉnh, đặt dưới chế độ cai trị dân sự. Ngày 31/12/1907, Toàn quyền Đông Dương ra
Nghị định chia đơn vị hành chính tỉnh Lạng Sơn thành 2 phủ, 9 châu; khi đó Cao Lộc
là một châu thuộc phủ Trường Khánh. Ngày 31/12/1907, được ghi nhận là ngày thành
lập châu Cao Lộc; từ đó đến nay tên gọi Cao Lộc vẫn được giữ nguyên.
Năm 1939, nhằm củng cố hệ thống cai trị, thực dân Pháp đổi một số châu của tỉnh
Lạng Sơn thành phủ. Châu Cao Lộc được đổi thành Phủ Cao Lộc.
Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, dưới Chính thể nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa, Phủ Cao Lộc được đổi thành huyện Cao Lộc. Các phố thuộc phủ Cao Lộc
được tách ra để xây dựng đơn vị hành chính thị xã của tỉnh Lạng Sơn. Cũng trong thời
gian này, xã Mẫu Sơn được thành lập, một số xã nhỏ đã sáp nhập thành xã lớn, toàn
huyện có 17 xã là: Tân Liên, Yên Trạch, Hợp Thành, Mai Pha, Quảng Lạc, Hoàng
Đồng, Gia Cát, Thạch Đạn, Xuất Lễ, Cao Lâu, Hòa Cư, Mẫu Sơn, Hải Yến, Lộc Yên,
Thanh Lòa, Xuân Long, Tân Thành.
Trong quá trình thành lập, chia tách và xác nhập các xã trong tỉnh Lạng Sơn, đến
nay, huyện Cao Lộc có 22 đơn vị hành chính, gồm 2 thị trấn (thị trấn Cao Lộc và thị
trấn Đồng Đăng) và 20 xã (Bảo Lâm, Bình Trung, Cao Lâu, Công Sơn, Gia Cát, Hải
Yến, Hòa Cư, Hồng Phong, Hợp Thành, Lộc Yên, Mẫu Sơn, Phú Xá, Tân Liên, Tân
Thành, Thạch Đạn, Thanh Lòa, Thụy Hùng, Xuân Long, Xuất Lễ, Yên Trạch).
Trải qua các giai đoạn lịch sử, địa giới hành chính Cao Lộc từng bước được hoàn
chỉnh, góp phần ổn định kinh tế - chính trị, văn hóa, xã hội của huyện. Nhìn lại những
chặng đường lịch sử đã qua, Cao Lộc luôn giữ trong mình một vị trí chiến lược đặc
biệt trong công cuộc xây dựng quốc phòng - an ninh của huyện, tỉnh cũng như của cả
nước.
Đặc thù của Cao Lộc là một huyện biên giới, có đường biên giới dài nhất trong 5
huyện biên giới của Lạng Sơn (Tràng Định, Cao Lộc, Văn Lãng, Lộc Bình, Đình
Lập), với chiều dài là 83km trải dọc 5 xã (Bảo Lâm, Thanh Lòa, Cao Lâu, Xuất Lễ,
Mẫu Sơn), vừa là “phên dậu” bảo vệ an ninh quốc gia, vừa là nhân tố quan trọng để
bảo đảm quan hệ hữu nghị, hợp tác quốc tế. Từ xa xưa, khu vực biên giới của các xã ở
Cao Lộc thường diễn ra tình trạng xâm canh, xâm cư, xâm táng, thậm chí xảy ra nhiều
cuộc xung đột giữa nhân dân ta và nhân dân nước đối diện; gây thiệt hại về tính mạng
và tài sản; vi phạm nghiêm trọng chủ quyền dân tộc. Từ năm 1991, khi Hiệp định biên
giới đất liền Việt Nam - Trung Quốc được ký kết, khu vực biên giới dần ổn định, tình
trạng vi phạm chủ quyền không còn diễn ra phổ biến như trước nữa. Trong các cuộc
đấu tranh giải phóng dân tộc, các lực lượng chống đối thường nhắm tới địa bàn các xã
biên giới để xây dựng những tổ chức ngoại bang chống phá cách mạng trong và ngoài
nước. Trước đây, khi an ninh còn lỏng lẻo, khu vực biên giới các xã huyện Cao Lộc
thường xuất hiện các nhóm thổ phỉ tấn công, cướp bóc nhân dân sinh sông quanh khu
vực, gây mất trật tự trị an. Đặc biệt, các loại tội phạm cấp quốc gia khi bị truy nã
thường di chuyển xuống các vùng này, kết hợp với núi rừng biên giới, để lẩn trốn và
vượt biên, gây khó khăn cho việc truy bắt. Chính vì lẽ đó mà các lực lượng biên
phòng luôn đi sâu, bám sát, trấn áp các lực lượng, các đối tượng lợi dụng khu vực biên
giới huyện tấn công, xâm nhập; đề cao nhiệm vụ bảo vệ biên giới, bảo vệ Tổ quốc.
Các xã phía Nam, Tây Nam và Đông Nam của huyện Cao Lộc bao quanh thành
phố Lạng Sơn - trung tâm kinh tế, chính trị, xã hội của tỉnh, khẳng định tầm quan
trọng trong quốc phòng - an ninh, giữ vị trí bảo vệ thành phố trước những âm mưu
xâm nhập của kẻ thù. Đồng thời, sự phát triển không đồng đều giữa các xã miền núi
và thành phố là nguyên nhân dẫn đến sự xâm nhập của các tệ nạn xã hội, cờ bạc, mại
dâm,… làm đảo lộn cuộc sống của đồng bào các dân tộc. Vì vậy, Lực lượng an ninh ở
các xã này luôn chú trọng phòng chống, ngăn chặn các tệ nạn, bảo vệ cuộc sống bình
yên của nhân dân.
Hệ thống giao thông đường bộ của huyện được mở mang với các tuyến đường bộ
như: quốc lộ 1A, 1B, 4B và tuyến đường sắt Hà Nội - Đồng Đăng. Đây là những
tuyến đường huyết mạch vận chuyển lương thực, thực phẩm, vũ khí đi các địa phương
phục vụ công cuộc kháng chiến kiến quốc. Trong cuộc kháng chiến chống Pháp, mà
tiêu biểu là hai chiến dịch quyết định: Chiến dịch Việt Bắc Thu - Đông (năm 1947) và
Chiến dịch Điện Biên Phủ lịch sử (năm 1954), Quốc lộ 1B chính là con đường lửa số
4 kiên cường trong đấu tranh chống kẻ thù, được coi là “cổ họng” của chiến khu Việt
Bắc ở phía Đông Bắc bộ. Điểm nối các tuyến đường giao thông của huyện Cao Lộc
với quốc tế là 2 của khẩu: cửa khẩu đường bộ Hữu Nghị và cửa khẩu đường sắt ga
Đồng Đăng. Cửa khẩu Hữu Nghị là một trong những cửa khẩu lớn, điểm nối tuyến
đường cao tốc Nam Ninh, Hà Nội; là nơi phân định gianh giới bảo vệ chủ quyền từng
quốc gia, phía Việt Nam cắm cột mốc 1116 và phía Trung Quốc cắm cột mốc 1117,
đây đều là các cột mốc cỡ lớn có gắn Quốc huy của hai nước. Cửa khẩu đường sắt ga
Đồng Đăng là điểm nối tuyến đường sắt Hà Nội - Đồng Đăng (Việt Nam) với ga Bằng
Tường thuộc tuyến đường sắt Hải Dương - Bằng Tường (Trung Quốc), ghi dấu những
chiến công lịch sử của dân tộc. Trong kháng chiến Chống Mỹ, ga Đồng đăng trở
thành “cảng nổi” thay thế cho cảng Hải Phòng, phá vỡ âm mưu cô lập, cắt đứt nguồn
viện trợ của ta. Cùng với sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa, các tuyến đường
liên thôn, liên xã được mở mang đến các xã vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới, giao
thông đi lại thuận tiện; nhờ đó, lực lượng Công an, chính quyền địa phương dễ dàng
thâm nhập, xử lí các vụ án mâu thuẫn, bảo vệ an ninh thôn bản.
Từ bao đời nay, rừng luôn giữ vị trí quan trọng trong việc ngăn cản quân xâm lược
“rừng che bộ đội, rừng vây quân thù”, góp phần lớn trong công cuộc bảo vệ Tổ quốc.
Ở Cao Lộc rừng chiếm diện tích khá lớn, trong rừng có nhiều loại gỗ quý như vàng
tâm, lim, dẻ... Với ưu thế về rừng, những nhóm lâm tặc thường xuyên khai thác, vận
chuyển gỗ xuống xuôi, qua biên giới để buôn lậu; thậm chí khi bị phát hiện, chúng
còn dùng vũ lực chống đối lực lượng biên phòng. Trong quá trình đấu tranh phòng,
chống lâm tặc (đặc biệt là các tội phạm buôn lậu gỗ vượt biên xuyên quốc gia), lực
lượng biên phòng đã phá nhiều vụ án, bắt và xử lý các đối tượng trước pháp luật, giữ
vững an ninh trong toàn huyện.
Địa hình Cao Lộc có ý nghĩa lớn trong việc thiết lập thế trận phòng thủ và triển
khai phản công, là một pháo đài thiên nhiên, án ngữ cho cả vùng trong các cuộc chiến
đấu chống kẻ thù. Trong Quá trình bồi đắp của tự nhiên, địa hình huyện được chia
thành 4 vùng: Vùng núi cao; vùng đồi núi nhấp nhô; vùng đồi bát úp, nón trũng và
vùng thung lũng bằng phẳng. Vùng có nhiều núi gồm các xã Mẫu Sơn, Công Sơn,
Cao Lâu, Xuất Lễ, Hải Yến và Gia Cát là nơi thường xảy ra các vấn đề quốc phòng -
an ninh của huyện, tỉnh. Vùng này, địa hình phức tạp, khó khăn cho việc đi lại cũng
như quản lý, trình độ dân trí còn thấp nên các đối tượng phản động thường lợi dụng để
hoạt động phá hoại cách mạng. Do đó, nhiệm vụ của lực lượng an ninh Cao Lộc đối
với vùng này là kiểm soát nghiêm ngặt, bảo vệ an ninh, không để các đối tượng lợi
dụng chống phá cách mạng.
Cao Lộc là một huyện có dân số khá đông trong toàn tỉnh (đứng thứ 4 trong 11
huyện, thành của tỉnh - sau thành phố Lạng Sơn, huyện Hữu Lũng và Lộc Bình), năm
2020 có…. Hộ với 81.088 nhân khẩu. Trong đó tập trung chủ yếu ở thị trấn Cao Lộc
với mật độ 3.290 người/km2 và thị trấn Đồng Đăng với mật độ 2.019 người/km 2; khu
vực có mật độ thấp nhất là Công Sơn với mật độ 39 người/km 2 và Mẫu Sơn với 17
người/km2. Chính sự phân bố dân cư không đồng đều trên đã dẫn đến tình trạng phân
chia giàu - nghèo, làm xuất hiện các nhóm, đối tượng trộm cắp tài sản, thậm chí giết
người cướp của,… Đồng thời, các bản làng trên núi cao, dân cư thưa thớt, trình độ dân
tri thấp, nhân dân các dân tộc vẫn còn giữ các hủ tục lạc hậu, mê tín dị đoan; nắm bắt
nhược điểm này, các thế lực thù địch, bọn phản động tay sai thường đánh vào tâm lý
mê tín của đồng bào dân tộc kích động, lôi kéo theo chúng, gây khó khăn trong việc
bảo vệ an ninh nhân.
Vùng đất Cao lộc là nơi sinh sống quần tụ của các đồng bào dân tộc Nùng, Tày,
Kinh, Dao,… và một số ít người Hoa (tập trung ở khu vực biên giới). Trong đó đông
hơn cả là đồng bào Nùng chiếm …. dân số trong huyện. Do những đặc điểm về nếp
sống, phong tục tập quán, sự đa dạng về địa hình nên việc phân bố vị trí sinh sống,
canh tác của các dân tộc cũng có những nét riêng. Đồng bào dân tộc Nùng và Tày
sống rải rác ở tất cả các xã trong huyện, đồng bào dân tộc Dao sống tập trung ở hai xã
Công Sơn và Mẫu Sơn. Hàng năm, cứ đến những dịp lễ tết, cưới xin,… nhân dân các
dân tộc thường tổ chức các lễ hội, nổi bật là lễ hội Lồng Tồng (của người Nùng và
người Tày) và lễ cấp sắc (của người Dao). Lễ hội là nơi quy tụ đông đảo quần chúng
tham gia, vì vậy không tránh khỏi xảy ra những vấn đề về an ninh, trật tự. Đặc biệt,
các đối tượng phản động, gián điệp núp dưới danh nghĩa người đi tham gia hội, thừa
cơ lẩn vào trong nước để hoạt động chống phá cách mạng nước ta. Vì vậy, lực lượng
biên phòng kết hợp với các lực lượng an ninh địa phương chủ động kiểm tra giám sát
người đi hội, bảo vệ lễ hội. Bên cạnh đó, các lễ hội thường diễn ra trong những ngày
nghỉ dài, các thanh niên chơi bời lêu lổng tụ tập, tham gia các tệ nạn xã hội như rượu
chè, cờ bạc, trộm cướp,… gây ảnh hưởng tới an ninh địa phương, thậm chí còn xảy ra
các vụ việc giết người nghiêm trọng. Do đó, lực lượng an ninh ở các địa phương, mà
trực tiếp là Công an xã luôn tăng cường lực lượng tuần tra, canh gác trong thời gian
diễn ra lễ hội, bảo vệ trị an cũng như tính mạng của nhân dân.
Nhìn lại những chặng đường đã qua, không thể phủ nhận vai trò của huyện Cao
Lộc trong công cuộc xây dựng và phát triển quốc phòng - an ninh trên phạm vi cả
nước. Nhân dân huyện miền núi phía Đông Bắc này có truyền thống đấu tranh chống
giặc ngoại xâm, lịch sử dựng nước và giữ nước đã ghi lại những chiến công vẻ vang
của đồng bào các dân tộc Cao Lộc.
II. Khái quát lịch sử, truyền thống huyện Cao Lộc
Nằm ở vị trí chiến lược, Cao lộc là một trong những cửa ải đầu tiên diễn ra cuộc
hành quân, hoạt động xâm lăng của các triều đại giặc giã phương Bắc. Đồng thời,
cũng là nơi diễn ra các hoạt động giao lưu kinh tế, quan hệ đối ngoại, văn hóa - xã hội
giữa Cao Lộc với các vùng khác và với Trung Quốc.
Từ xa xưa, Con người Cao Lộc đã cần cù, sáng tạo trong lao động sản xuất, đấu
tranh chống lại thiên tai định họa, từng bước củng cố và phát triển quê hương. Ngay
từ buổi đầu, Cao Lộc chỉ là vùng đồi đất hoang vu, bằng bàn tay khối óc của mình,
nhân dân Cao Lộc đã chế ngự thiên nhiên, cải tạo đồi núi thành những bản làng trù
phú, những cánh đồng lúa tốt tươi. Người dân từng bước phát triển, cải tiến nông cụ
sản xuất, mở rộng phát triển canh tác, tạo ra những sản phẩm riêng của vùng đất giàu
tiềm năng.
Không chỉ vậy, đây còn là vùng đất giàu truyền thống cách mạng, nhân dân các dân
tộc Cao Lộc giàu lòng yêu nước, yêu quê hương. Lịch sử Cao Lộc gắn liền với những
năm tháng đấu tranh chống cường quyền áp bức, bảo vệ Tổ quốc. Đặc biệt, Ải Phia
Ly (Pha Lũy) (Đồng Đăng) là một địa danh tiêu biểu, đã từng ghi nhận nhiều chiến
công oanh liệt của dân tộc Việt Nam. Trong những thắng lợi chung đó, với tinh thần
yêu nước nồng nàn, ý thức độc lập tự chủ kiên cường, nhân dân các dân tộc Cao Lộc
đã lập nhiều chiến công vẻ vang, góp phần đáng kể vào công cuộc bảo vệ giữ vững bờ
cõi thiêng liêng của Tổ quốc. Từ đó dần vun đắp cho các thế hệ Cao Lộc tinh thần
đoàn kết, kiên cường trong đấu tranh, chống giặc ngoại xâm bảo vệ đất nước. Sau này,
mỗi khi đất nước bị xâm lăng, nhân dân Cao Lộc đều nhất tề đứng lên, hưởng ứng các
cuộc chiến đấu, góp phần làm nên những chiến công vẻ vang trong công cuộc bảo vệ
tuyến đầu của đất nước.
Trong các triều đại phong kiến Việt Nam, nhân dân Cao Lộc cũng đã góp một phần
công sức vào những thắng lợi chung của đất nước, đánh đuổi quân xâm lược ra khỏi
bờ cõi. Năm 1285, dân binh Văn Uyên, Cao Lộc đã nhất tề hưởng ứng tham gia đội
quân địa phương do thủ lĩnh Nguyễn Thế Lộc chỉ huy phối hợp với quân triều đình
nhà Trần tiến hành tấn công tiêu diệt giặc Nguyên Mông ở khu vực biên giới Lạng
Sơn, góp phần đánh đuổi giặc ngoại xâm ra khỏi bờ cõi 1. Trong cuộc kháng chiến
chống giặc Minh xâm lược, năm 1427, dân binh Văn Uyên, Cao Lộc đã hưởng ứng
phối hợp với đội quân triều đình do chiến tướng Trần Lựu chỉ huy liên tục tấn công
giặc Minh từ Ải Pha Lũy đến Khau Ôn, góp phần tiêu diệt, đánh đuổi giặc Minh ra
khỏi vùng đất biên giới2.
Phát huy những truyền thống yêu nước vốn có, khi thực dân Pháp tiến hành cuộc
xâm lăng lần thứ nhất đối với đất nước ta, nhân dân các dân tộc địa phương đã nhất tề
đưng lên đánh trả quyết liệt, làm cho thực dân Pháp nhiều phen khốn đốn, trước khi
chúng thiết lập được chính quyền cai trị ở Lạng Sơn.
Cuối năm 1885, thực dân Pháp chiếm thị xã Lạng Sơn, Đồng Đăng, Thất Khê và
một số vị trí chiến lược quan trọng trên dọc đường số 4 đến tận địa giới tỉnh Cao

1
Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Cao Lộc, Lịch sử quân sự huyện Cao Lộc 1947 - 2012, Nxb Văn hóa - thông tin,
2014, Tr.22.
2
Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Cao Lộc, Lịch sử quân sự huyện Cao Lộc 1947 - 2012, Nxb Văn hóa - thông tin,
2014, Tr.23.
Bằng. Từ những năm 1889, trong quá trình thiết lập ách thống trị ở Lạng Sơn nói
chung, Cao Lộc nói riêng, thực dân Pháp tập trung vào xây dựng bộ máy hành chính
tay sai, chủ yếu là các quan lại, địa chủ người ở địa phương. Ở châu (phủ) có tri châu
(tri phủ), mỗi tổng có chánh tổng và phó tổng, mỗi xã thì có xã đoàn, lý trưởng và phó
lý, một thủ bạ chuyên lo công việc ghi chép. Công việc chủ yếu của bọn này là dò la,
khám xét, bắt phu bắt lính, thu thuế và kiểm soát tinh thần đấu tranh của nhân dân ta.
Cùng với việc thiết lập bộ máy quản lý ở Lạng Sơn, thực dân Pháp xây dựng Lạng
Sơn thành một đạo quan binh. Chúng cho lập các đồn bốt ở thành Lạng Sơn, Kỳ Lừa,
Đồng Đăng, dọc đường số 4, xây đặt hai đồn ở Nà Làng, Bản Xâm do sĩ quan người
Pháp chỉ huy, đồng thời tăng cường dựng các pháo đài kiên cố có trang bị đại bác ở
các điểm trọng yếu như Đèo Giang Văn Vỉ để khống chế toàn bộ thị xã Lạng Sơn và
Cao Lộc.
Sau khi ổn định bộ máy tay sai, thực dân Pháp thực hiện chính sách “chia rẽ dân
tộc” hòng làm suy yếu sức mạnh đoàn kết vốn có của nhân dân, kích động sự hận thù
giữa dân tộc Kinh với các dân tộc Nùng, Tày, Dao; giữ người Nùng với người Tày;
người Nùng với người Dao. Đối với những người Hoa, người Pháp ban hành chính
sách gọi là “chế độ ngoại kiều” và một số chính sách khác làm mâu thuẫn giữa các
thành phần dân tộc trở nên gay gắt hơn. Ngoài ra, chúng còn thực hiện chính sách
“ngu dân” về giáo dục, đầu độc nhân dân bằng những văn hòa đồi trụy. Các cơ sở
thiết yếu không được chú trọng phát triển. Thêm vào đó, các hủ tục mê tín lạc hậu, các
tệ nạn xã hội cờ bạc, rượu chè, hút thuốc phiện, mại dâm thường xuyên đe dọa cuộc
sống đói nghèo của nhân dân các dân tộc trong huyện. Tất cả nhằm phục vụ cho mục
đích cai trị lâu dài của chúng.
Bên cạnh đó, thực dân Pháp còn đặt nhiều thứ thuế đè lên cổ người dân lao động,
trong đó thứ thuế vô lý nhất là thuế thân. Chúng chia thuế thân thành 4 loại, loại cao
nhất là 10 đồng, loại thấp nhất là 1 đồng. Ngoài ra, người dân phải chịu hàng chục thứ
thuế khác như: Thuế ruộng đất, thuế lâm sản, thuế chợ, thuế nhà ở…và phải đi phu,
phục dịch cho kế hoạch khai thác và vơ vét của bọn chúng. Trong khi đó, những cánh
đồng của huyện đều nằm trong tay bọn địa chủ lớn như Nông Gia Du, Nông Kinh Dầu
và Định Thị Khàn, nhân dân nghèo phải đi cày thuê, cuốc mướn, dùng sức lao động
làm giàu cho chúng, kiếm sống qua ngày đoạn tháng. Sống dưới ách thống trị của bọn
thực dân, phong kiến với chính sách cai trị bóc lột hết sức tàn bạo, đã đẩy cuộc sống
của đồng bào các dân tộc tới chỗ nghèo đói triền miên, chìm đắm trong cảnh luôn bị
bắt phu, bắt lính, bị o ép bởi những đồn bốt của bọn thực dân.
Chính sách cai trị của thực dân Pháp đã làm nảy sinh trong lòng nó những mâu
thuẫn gay gắt không thể điều hòa được. Nhân dân Cao Lộc quyết tâm đứng dậy khởi
nghĩa giành chính quyền, đây là con đường đúng đắn và cũng là con đường duy nhất
của nhân dân Cao Lộc.
Đầu thế kỷ XX, phong trào đấu tranh chống Pháp diễn ra mạnh mẽ, tác động lớn đến
các phong trào cách mạng ở Cao Lộc. Tuy nhiên những phong trào cách mạng vẫn còn
diễn ra tự phát, lẻ tẻ, nên thực dân Pháp thẳng tay đàn áp.
Cùng với các cuộc nổi dậy chống giặc ngoại xâm trong cả nước, các giai tầng ở Cao
Lộc tiến hành nhiều cuộc đấu tranh chống áp bức của giai cấp bóc lột, đòi dân sinh, dân
chủ. Truyền thống yêu nước, đoàn kết các dân tộc là những yếu tố quan trọng giúp Cao
Lộc dễ dàng tiếp thu ảnh hưởng cách mạng do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo.
Mùa xuân năm 1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, đánh dấu bước ngoặt vĩ đại của
cách mạng Việt Nam, với đường lối cách mạng đúng đắn, sáng tạo đã chấm dứt sự khủng
hoảng về đường lối của phong trào yêu nước đầu thế kỷ XX. Các đồng chí trong Chi bộ
Đảng vùng biên giới được công nhận là Đảng viên của Đảng Cộng sản, tiếp tục thực hiện
nhiệm vụ gây dựng các tổ chức cách mạng quần chúng ở các tỉnh biên giới, trong đó có
Lạng Sơn.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, các cao trào cách mạng phát triển rộng khắp cả nước mà
đỉnh cao là Xô Viết - Nghệ Tĩnh, trong đó thành lập các đội Tự vệ Đỏ (tiền thân của lực
lượng Công an nhân dân Việt Nam), có tác động mạnh mẽ đến phong trào cách mạng ở
Lạng Sơn, cũng như ở Cao Lộc. Nhiều cán bộ cách mạng chủ chốt của Đảng được cử về
Lạng Sơn tuyên truyền cách mạng, tích cực vận động quần chúng nhân dân tham gia các
tổ chức quần chúng trung kiên. Năm 1932, các tổ chức quần chúng trung kiên lần lượt
được thành lập ở Văn Uyên, Cao Lộc, tích cực tuyên truyền cách mạng, rải truyền đơn
đến quần chúng nhân dân. Sự phát triển mạnh mẽ của các tổ chức quần chúng trung kiên
đặt ra tất yếu phải có một Chi bộ trực tiếp lãnh đạo các tổ chức.
Trước những phát triển của cách mạng, thực hiện sự ủy quyền của Chi bộ Đảng
vùng biên giới, giữa năm 1933, Chi bộ Cộng sản đầu tiên ở Lạng Sơn được thành lập
tại thôn Khòn Pheo, xã Thụy Hùng, châu Văn Uyên (nay là huyện Cao Lộc) do đồng
chí Hoàng Văn Thụ trực tiếp làm Bí Thư. Chi Bộ Đảng ra đời tạo niềm phấn khởi
trong nhân dân, thực hiện vai trò lãnh đạo, tổ chức xây dựng các cơ sở cách mạng
trong toàn tỉnh. Từ đây, các cuộc đấu tranh chống thực dân phong kiến ở Cao Lộc đã
có sự lãnh đạo với đường lối đấu tranh đúng đắn, là điều kiện tiên quyết cho sự thắng
lợi của cách mạng trong toàn huyện.
Trong 2 năm (1933 - 1934), truyền đơn Cách mạng đã được tuyên truyền rộng rãi
khắp các địa bàn quan trọng ở Lạng Sơn như Na Sầm, Đồng Đăng, chợ Kỳ Lừa,
trường Pháp - Việt Lạng Sơn, công trường làm đường Đồng Đảng - Điềm He. Truyền
đơn được rải theo các chuyến tàu hỏa từ Lạng Sơn về Hà Nội. Đặc biệt, truyền đơn
còn xuất hiện ở những nơi thực dân Pháp kiểm soát nghiêm ngặt, góp phần truyền bá
các luồng tư tưởng mới đến các giai tầng nhân dân.
Hoảng sợ trước làn sóng cách mạng đang phát triển rầm rộ ở Lạng Sơn - nơi Đảng
ta đang hoạt động bí mật chỉ đạo củng cố phong trào cách mạng trong nước, giữa năm
1935, thực dân Pháp tập trung lực lượng đàn áp khốc liệt phong trào cách mạng ở Văn
Uyên và nhiều nơi khác. Được sự đồng lõa của bọn tay sai, hàng loạt các cơ sở quần
chúng cách mạng ở Tân Yên, Đồng Đăng, Hồng Phong, Phú Xá, Thụy Hùng bị phá
vỡ, nhiều cán bộ quần chúng bị giết, bắt bớ tù đày. Sự khủng bố của địch không ngăn
chặn nổi lòng đấu tranh cách mạng, mà càng tăng thêm lòng căm thù sâu sắc chính
quyền thực dân phong kiến. Nhân dân các dân tộc Lạng Sơn nói chung, Cao Lộc nói
riêng vẫn luôn hướng về Đảng, về cách mạng, sẵn sàng chờ thời cơ đứng lên đấu
tranh, giải phóng quê hương.
Từ năm 1936 - 1939, phong trào đấu tranh đòi dân sinh, dân chủ diễn ra ở hầu khắp
các tỉnh trong cả nước, tại huyện Cao Lộc, tuy bị khống chế, kìm kẹp của thực dân
Pháp và bọn lí dịch, nhưng tinh thần đấu tranh của các tầng lớp nhân dân vẫn được
khơi dậy. Các thanh niên yêu nước ở Cao Lộc tích cực tham gia các phong trào đấu
tranh đòi dân sinh dân chủ tại tỉnh lỵ. Từ Lạng Sơn, phong trào cách mạng lan rộng
xuống hầu khắp các địa phương, tạo điều kiện cho sự hình thành và phát triển của các
tổ chức quần chúng ở Cao Lộc.
Bước sang năm 1939, tình hình thế giới có những chuyển biến, tác động mạnh mẽ
đến phong trào cách mạnh trong nước. Ngày 10/6/1940, quân Đức tấn công xâm lược
Pháp và nhanh chóng đè bẹp sự kháng cự của quân đội Pháp. Ngày 22/6/1940, nước
Pháp buộc phải ký Hiệp định đình chiến, đầu hàng phát xít Đức. Ở Đông Dương, thực
dân Pháp hoang mang cực độ, tìm cách duy trì địa vị thống trị của chúng bằng cách
tăng cường khủng bố phong trào yêu nước và cách mạng. Mặt khác, chúng từng bước
đầu hàng phát xít Nhật, mở cửa cho quân Nhật vào chiếm đóng Đông Dương.
Tháng 9/1940, phát xít Nhật đánh vào Lạng Sơn, cấu kết với thực dân Pháp bóc lột
nhân dân ta, khiến nhân dân ta phải chịu cảnh “một cổ hai tròng”, đã có nhiều cuộc
đấu tranh chống sưu, thuế diễn ra ở huyện Cao Lộc cũng như các địa phương khác ở
tỉnh Lạng Sơn. Đồng thời, chúng tiến hành đàn áp phong trào cách mạng, dựng lên
đội quân tay sai dưới hình thức tổ chức “Phục dân quốc”, với chiêu bài “Độc lập” để
mị dân, chúng đã lôi kéo được hàng ngàn người ở các phố, xã thuộc Cao Lộc, Văn
Uyên, Ôn Châu và Lộc Bình. Chúng tiến hành phong tỏa, khống chế các luồng tư
tưởng cách mạng ảnh hưởng vào khu vực này.
Tuy nhiên, phong trào cách mạng của nhân dân Lạng Sơn vẫn diễn ra mạnh mẽ.
Trong đó nổi bật nhất là khơi nghĩa Bắc Sơn (1940), một mốc son chói lọi của tinh
thần yêu nước, quyết tâm chống giặc ngoại xâm của nhân dân ta, thể hiện sự sáng tạo
và tài thao lược trong chỉ đạo khởi nghĩa vũ trang và chiến tranh cách mạng của Đảng.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, đội du kích Bắc Sơn đã không ngừng lớn mạnh, góp phần
quan trọng trong việc xây dựng khu giải phóng trước Tổng khởi nghĩa (năm 1945).
Sau này, Đội du kích Bắc Sơn đổi thành Cứu Quốc quân Bắc Sơn, tiền thân của Đội
Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân. Khởi nghĩa Bắc Sơn như một ngọn gió thổi
bùng tinh thần cách mạng của cả dân tộc.
Tháng 5/1941, Ban Chấp hành trung ương Đảng họp Hội nghị mở rộng lần thứ 8 tại
Pác Pó, Cao Bằng do đồng chí Nguyễn Ái Quốc chủ trì. Hội nghị đề ra nhiệm vụ
“Chuẩn bị khởi nghĩa là nhiệm vụ trọng tâm của Đảng và nhân dân ta trong giai đoạn
hiện nay”. Để tập hợp đông đảo quần chúng tham gia đấu tranh, Hội nghị quyết định
thành lập “Việt Nam Độc lập Đồng minh” (gọi tắt là Mặt trận Việt Minh) gồm các tổ
chức lấy tên là Cứu quốc, chuẩn bị mọi mặt tiến tới giành chính quyền cách mạng.
Trong 2 năm (1941 - 1942), dưới sự lãnh đạo của Đảng, Mặt trận Việt Minh mà
trực tiếp là Ban Việt Minh liên tỉnh, phong trào Việt Minh lan rộng ra các huyện trong
tỉnh, đến năm 1945, đã lan xuống các huyện: Bằng Mạc, Điềm He, Ôn Châu, Cao
Lộc, Lộc Bình, Đinh Lập. Phong trào Việt Minh ở Cao Lộc có những bước tiến mạnh
mẽ, quần chúng nhân dân được giác ngộ và ngày càng tin tưởng vào sự lãnh đạo của
Đảng.
Bước sang năm 1945, tình hình thế giới và trong nước chuyển biến có lợi cho ta,
mâu thuẫn Nhật - Pháp đẩy lên gay gắt, hơn nữa trên mặt trận Thái Bình Dương quân
Nhật liên tiếp thất bại, buộc Nhật phải hất cẳng Pháp độc chiếm Đông Dương. Đêm
mùng 9/3/1945, Nhật nổ súng đánh Pháp trên toàn cõi Đông Dương, chưa đầy một
ngày quân Pháp đã quỳ gối đầu hàng. Các đồn binh của Pháp ở các địa phương trong
cả nước cũng dần bị tiêu diệt. Lúc này, nhiều thanh niên yêu nước của huyện Cao Lộc
bị giam cầm ở nhà tù Sơn La, Hòa Bình, Côn Đảo được Đảng giác ngộ nhanh chóng
trở về địa phương vận động quần chúng ủng hộ Việt Minh, chuẩn bị lực lượng nổi dậy
giành chính quyền về tay nhân dân.
Thực hiện chủ trương của Đảng về tiến hành khởi nghĩa từng phần giành chính
quyền cách mạng, đến giữa năm 1945, nhiều huyện trong Liên tỉnh Cao - Bắc - Lạng
đã giành được thắng lợi, không khí cách mạng sục sôi trong cả nước.
Tại huyện Cao Lộc, dưới sự chỉ đạo của Tỉnh ủy lâm thời, các đồng chí Khai Lạc,
Liên Đoàn đã về trực tiếp lãnh đạo quần chúng nhân dân ở 3 xã phía Nam là Xuân
Long, Quang Lạc, Tân Thành nổi dậy lật đổ chính quyền địch. Phong trào từ 3 xã
nhanh chóng lan tỏa ra toàn huyện, nhân dân trong huyện sục sôi khí thế, chờ dịp nổi
dậy giành chính quyền.
Ngày 25/8/1945, với sự hướng dẫn của một số cán bộ trung kiên, nhân dân các dân
tộc trên địa bàn huyện đã cùng đội quân cách mạng từ các xã trong huyện tiến vào giải
phóng tỉnh ly, bao vây phủ Cao Lộc, buộc tri phủ đầu hàng, lật đổ bộ máy thống trị.
Sau khi giành thắng lợi, tại cuộc mít tinh, trước đông đảo quần chúng, đại diện Việt
Minh tuyên bố xóa bỏ chính quyền thực dân, phong kiến, công bố chính sách của Việt
Minh, kêu gọi quần chúng nhân dân đoàn kết, bảo vệ vững chắc chính quyền cách
mạng, ủng hộ Chính phủ lâm thời.
Cách mạng Tháng Tám thành công với sự ra đời của nước Việt Nam dân chủ Cộng
hòa đánh dấu bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử dân tộc. Từ đây, nhân dân được đứng lên
làm chủ quê hương, đất nước. Thắng lợi quyết định này tạo tiền đề quan trọng trong
việc củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc, thể hiện tinh thần yêu nước, ý chí quyết
tâm bảo vệ Tổ quốc của nhân dân các dân tộc trong cả nước. Phấn khởi trước những
thành tựu đạt được, dưới sự lãnh đạo của Đảng, cán bộ và nhân dân Cao Lộc ra sức
xây dựng và bảo vệ thành quả cách mạng, sẵn sàng bước vào giai đoạn trường kỳ
kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược.
Chương II: Công an huyện Cao Lộc ra đời, đấu tranh bảo vệ chính quyền và
tham gia kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược (1945 - 1954)
I. Lực lượng an ninh huyện Cao Lộc thành lập, bảo vệ chính quyền và tham gia
kháng chiến chống thực dân Pháp (1945 - 1947)
Cách mạng Tháng Tám thành công đã chấm dứt ách đô hộ hơn 80 năm của thực
dân Pháp, mở ra kỷ nguyên độc lập, tự do; là thắng lợi của ý chí độc lập tự chủ, tự lực,
tự cường của dân tộc Việt Nam và là thắng lợi vĩ đại của cách mạng giải phóng dân
tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Từ đây, chính quyền ở tất cả các cấp đã
thuộc về tay nhân dân.
Chính quyền Cách mạng vừa mới ra đời đã phải đương đầu với những khó khăn,
thử thách mới. Thực dân Pháp được quân Anh giúp đỡ đã gây hấn ở Nam Bộ. Ở miền
Bắc, 20 vạn quân Tưởng từ vĩ tuyến 16 kéo vào hòng lật đổ chính quyền dân chủ nhân
dân vừa mới thành lập. Trong khi đó, quân Nhật vẫn chưa rút hết. Các thế lực phản
cách mạng dựa vào bọn Tàu Tưởng, thực dân Pháp, phát xít Nhật đẩy mạnh các hoạt
động chống phá cách mạng, âm mưu lật đổ chính quyền cách mạng, giành vị thế
thống trị.
Tại Lạng Sơn, một ngày sau khi cách mạng thắng lợi ở tỉnh lỵ và huyện Cao Lộc
(26/8/1945), bọn phản động Tưởng Giới Thạch mượn danh nghĩa quân đồng minh vào
giải giáp quân đội Nhật ở Đông Dương, đã tràn qua Đồng Đăng vào Kỳ Lừa và thành
Lạng Sơn. Dã tâm của bọn phản động khi vào nước ta là “tiêu diệt Đảng Cộng sản,
phá tan Việt Minh, giúp bọn phản động đánh đổ chính quyền nhân dân để lập chính
quyền phản động làm tay sai cho chúng”. Theo sau cánh quân phản động vào Lạng
Sơn là bọn tay sai người Việt sống lưu vong trên đất Trung Quốc, núp dưới danh
nghĩa tổ chức Việt Quốc, Việt Cách, hi vọng dựa vào quân đội Tưởng Giới Thạch
hòng lật đổ chính quyền cách mạng, lập ra chính phủ bù nhìn, cam tâm làm tay sai đắc
lực cho bọn phản động quốc tế.
Tại khu vực Đông Đăng, bọn “Phục Quốc” đã chiếm thị trấn ngay từ khi quân
Tưởng đặt chân tới. Chúng cấu kết với những tên địa chủ cường hào như chánh tổng
Hoàng Văn Ngạn, thủ bạ Tải tổ chức vũ trang chống lại chính quyền cách mạng; tiến
hành thu súng lính dõng ở các xã Bảo Lâm, Tân Thanh, Tân Yên; lập 2 trung đội quân
“Phục Quốc” do tên Ngạn và tên Sinh cầm đầu. Mặt khác, chúng lập ra tổ chức vùng
biên giới lôi kéo bọn thổ phỉ Hoàng Phi Hổ hợp sức cướp phá. Tại các khu phố và các
xã Hoàng Đồng, Hợp Thành, Mai Pha, Yên Trạch, bọn “Phục Quốc” được 2 tên Trần
Đình Hội, Nông Quốc Long cầm đầu tăng cường kiểm soát, dọa nạt, bắt bớ nhân dân,
gây cho ta nhiều khó khăn trong việc củng cố chính quyền cách mạng ở các xã và
huyện lỵ3.
Tại Cao Lộc, với dã tâm phá hoại thành quả cách mạng của nhân dân ta, quân
Tưởng cấu kếu với tay sai ra sức dùng mọi thủ đoạn để ngăn chặn ảnh hưởng của Việt
Minh. Nghiêm trọng hơn, chúng cho quân lính bắt bớ nhân dân, vơ vét lương thực,
thực phẩm; tiến hành thiết quân luật, ngăn chặn, truy bắt cán bộ Việt Minh một cách
trắng trợn, làm cho tình hình trở nên căng thăng, rối ren. Chúng cho quân tấn công
vào các xã trên địa bàn huyện, khiêu khích và nổ súng uy hiếp lực lượng cách mạng.
Thực hiện âm mưu “chia rẽ”, phá vỡ khối đại đoàn kết dân tộc, chúng lập ra tổ chức
“Nam Dương Hoa Kiều Hiệp hội” nhằm lôi kéo người Hoa, gây chia rẽ giữa các đồng
bào dân tộc với nhau và với người Hoa, gây khó khăn cho cách mạng của ta.
Ngày 3/9/1945, tại phiên họp đầu tiên của Chính phủ, để giải quyết tình hình trong
nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ ba nhiệm vụ lớn cần làm là: diệt giặc đói, diệt
giặc dốt, diệt giặc ngoại xâm. Trong đó, Đảng và Chính phủ chủ trương đẩy mạnh
tăng gia sản xuất, khai hoang, phục hóa, vận động nhân dân tích cực tham gia các
phong trào “Hũ gạo cứu đói”, “Ngày đồng tâm”,… đảm bảo lương thực, thực phẩm
cho nhân dân, cho cuộc kháng chiến trường kỳ của nhân dân ta. Bên cạnh việc giải
quyết khó khăn về kinh tế, phong trào “Bình dân học vụ”, xóa nạn mù chữ phát triển
3
Ban Chấp hành Đảng bộ Cao Lộc, Lịch sử Đảng bộ huyện Cao Lộc (1930 - 1985), 2005, Tr.43,44.
sâu rộng trong cả nước, công tác y tế, xây dựng đời sống mới cho nhân dân được hết
sức chú trọng.
Tại Cao Lộc, phong trào nhường cơm sẻ áo được phát động rộng rãi trong quần
chúng. Những người còn dư thóc gạo đã quyên góp cho chính quyền ủng hộ người
nghèo. Ruộng đất được chia cho dân cày nghèo, các thứ thuế vô lý đều bị bãi bỏ.
Bằng những biện pháp tích cực của chính quyền địa phương, nạn đói ở Cao Lộc từng
bước được khắc phục, đời sống nhân dân dần ổn định.
Hưởng ứng lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh về phong trào thực hành tiết
kiệm, nhân dân các dân tộc Cao Lộc từ phố xá đến các bản làng, thôn xóm, với tinh
thần cách mạng triệt để nhiệt tình ủng hộ “Tuần lễ vàng” gây quỹ cho chính quyền
cách mạng. Nhiều người tự giác quyên những vật quý của mình, thể hiện tấm lòng
kiên trung, tin tưởng tuyệt đối vào Đảng và Chính phủ Việt Nam Dân chủ Công hòa.
Trên mặt trận diệt giặc dốt, phong trào bình dân học vụ được mở rộng hầu khắp các
thôn trong huyện với phương châm người biết chữ dạy người chưa biết chữ, thu hút
đông đảo các tầng lớp nhân dân tham gia học tập. Nhờ đó, đến đầu năm 1946, hàng
nghìn người dân trong huyện đã biết đọc biết viết, nhận thức của đồng bào về bảo vệ
Đảng, về cách mạng ngày càng sâu sắc. Thông qua phong trào, nhiều quần chúng,
nhất là thanh niên được giác ngộ về chính trị, bồi dưỡng về văn hóa và năng lực công
tác, bổ sung vào đội ngũ cán bộ còn đang mỏng.
Trong bối cảnh chính quyền mới thành lập đang trên đà củng cố, còn rất nhiều khó
khăn, để tăng cường lực lượng bảo vệ Nhà nước, các tổ chức làm nhiệm vụ bảo vệ
Đảng, bảo vệ chính quyền cách mạng, bảo vệ nhân dân được thành lập. Tuy nhiên,
mỗi nơi có tên gọi khác nhau, ở Bắc bộ gọi là Sở Liêm Phóng, Sở Cảnh Sát, Trung bộ
gọi là Sở Trinh sát và ở Nam bộ gọi là Quốc gia tự vệ cuộc. Ngày 19/01/1946, Bộ Nội
vụ ban hành Nghị định số 14/NĐ về tổ chức Bộ Nội vụ gồm: Văn phòng bộ và 4 nha,
trong đó Nha Công an được thành lập, phụ trách công tác trị an. Cùng với đó, Ty
Liêm phóng Lạng Sơn (nay là Công an tỉnh) cũng được thành lập thực hiện nhiệm vụ
bảo vệ Đảng, bảo vệ chính quyền non trẻ.
Sau khi được thành lập, để phục vụ nhiệm vụ chính trị của Đảng, Ty Liêm phóng
Lạng Sơn đã khẩn trương quan tâm xây dựng lực lượng. Những ngày đầu, Ty Liêm
phóng Lạng Sơn đã lưu dụng một số nhân viên của chính quyền cũ, đồng thời đẩy
mạnh việc tuyển chọn, bổ sung nhân viên mới là những người nhiệt tình, sức khỏe tốt,
có năng lực và từng tham gia trong các đoàn thể cách mạng. Cơ cấu tổ chức Ty có
một số bộ phận là: Văn phòng Trưởng Ty, Phòng Chính trị, Ban Tư pháp và Đội trinh
sát.
Được hình thành từ phong trào cách mạng của quần chúng nhân dân, trong những
ngày đầu vừa phải củng cố chính quyền và đoàn thể cách mạng vừa phải chăm lo đời
sống cho nhân dân, Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân cách mạng lâm thời chỉ đạo lực lượng
Liêm phóng tỉnh đẩy mạnh các hoạt động xây dựng, củng cố lực lượng; đấu tranh trấn
áp bọn phản cách mạng, bọn lưu manh côn đồn, bài trừ các tệ nạn xã hội, giữ gìn trật
tự trị an, tuyên truyền giáo dục vạch mặt bọn đặc vụ; đồng thời bảo vệ Đảng, bảo vệ
chính quyền và các thành quả cách mạng vừa mới giành được. Ty Liêm phóng Lạng
Sơn đã tích cực củng cố lực lượng, tăng cường đảng viên ở các bộ phận, thực hiện tốt
công tác tư tưởng, giáo dục ý thức cảnh giác và nâng cao trình độ nhận thức cho cán
bộ nhân viên. Dựa vào sức mạnh quần chúng, Lực lượng Liêm Phóng Lạng Sơn đã
nắm bắt tình hình âm mưu hoạt động của các tổ chức, đảng phái chính trị phản động,
bắt cảnh cáo và trừng trị nhiều tên Việt gian nguy hiểm tay sai của Pháp và Nhật, bọn
cường hào gian ác,… Nhờ đó, tình hình an ninh trên khắp Lạng Sơn được ổn định,
nạn trộm cắp, côn đồ quậy phá không còn xảy ra trắng trợn như trước, góp phần củng
cố xây dựng chính quyền cách mạng, đảm bảo an ninh trật tự, ổn định đời sống nhân
dân.
Cùng với sự hình thành và phát triển của Ty Liêm phóng Lạng Sơn, lực lượng an
ninh tại Cao Lộc (tiền thân của Công an huyện Cao Lộc) cũng dần hình thành, thực
hiện nhiệm vụ bảo vệ chính quyền mới, đảm bảo an ninh trật tự và ổn định đời sống
nhân dân trong huyện; phát triển lực lượng phối hợp với các lực lượng chuyên trách
tiến hành cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Tại cơ sở, mặc dù chưa có bộ phận
chuyên trách nhưng chính quyền xã cũng đã cử ủy viên ủy ban phụ trách chung các
phong trào quân sự - an ninh.
Ngày 6/1/1946, cuộc Tổng tuyển cử bầu Quốc hội đầu tiên của nước Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa, ngay sau đó, là cuộc bầu cử Hội đồng nhân dân cấp huyện, xã (tháng 3
và tháng 4/1946). Lúc này, không từ bỏ dã tâm chống phá chính quyền cách mạng,
quân Tưởng và bọn tay sai ráo riết thực hiện âm mưu hòng phá hoại cuộc bầu cử. Đối
phó với âm mưu thâm độc của kẻ thù, Ty Liêm phóng Lạng Sơn với vai trò là lực
lượng bảo vệ chính quyền, phối hợp với các lực lượng an ninh tại huyện Cao Lộc thực
hiện nhiều biện pháp, giám sát chặt chẽ những tên phản động nguy hiểm, tổ chức tuần
tra, bảo vệ nghiêm ngặt những nơi đặt hòm phiếu và khu vực Ban bầu cử làm việc,
bảo vệ nhân dân đi bỏ phiếu. Trước và trong ngày bầu cử, mặc dù bọn phản động gây
khó khăn, nhưng không cản được bước chân, nhân dân hăng hái tham gia bỏ phiếu
bầu cử Quốc hội khóa I, lần đầu tiên nhân dân các dân tộc huyện Cao Lộc cùng nhân
dân cả nước trong niềm hân hoan tự do - độc lập - dân chủ, được cầm lá phiếu thực
hiện quyền làm chủ.
Thắng lợi của cuộc bầu cử Quốc hội khóa I và cuộc bầu cử Hội đồng nhân dân
cùng với sự ra đời của Ủy ban hành chính (thay thế Ủy ban nhân dân cách mạng lâm
thời) là đòn cân não đánh mạnh vào kẻ thù; đập tan âm mưu của các thế lực phản
động hòng chia rẽ, phá hoại và lật đổ chính quyền cách mạng non trẻ. Đó còn là thể
hiện ý chí sức mạnh đoàn kết của nhân dân các dân tộc Cao Lộc trong công cuộc đấu
tranh giải phóng dân tộc, xây dựng chế độ mới.
Trong điều kiện đất nước vẫn còn nhiều khó khăn, lường trước được những phức
tạp của cuộc đấu tranh cách mạng, Ngày 21/2/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc
lệnh số 23/SL về hợp nhất các Sở Cảnh sát và Ty Liêm phóng trong toàn quốc thành
một cơ quan đặt tên là “Việt Nam Công an vụ”. Thi hành sắc lệnh trên, ngày
18/4/1946, Bộ trưởng Bộ Nội vụ ký ban hành nghị định số 121/NĐ về tổ chức của
Việt Nam Công an vụ gồm 3 cấp là Nha Công an Trung ương, Sở Công an kỳ và Ty
Công an tỉnh. Bộ máy tổ chức của Nha Công an gồm 3 bộ phận: Văn phòng Nha, Ty
tập trung tài liệu và Ty Thanh tra. Hệ thống tổ chức Công an được hoàn chỉnh, đáp
ứng yêu cầu của Đảng trong công tác bảo vệ an ninh trật tự.
Ở Lạng Sơn, Ngày 01/6/1946, Ty Liêm phóng Lạng Sơn được đổi thành Ty Công
an Lạng Sơn. Hệ thống tổ chức ban đầu của Ty Công an Lạng Sơn bao gồm các bộ
phận: Văn phòng, Ban Bảo vệ chính trị, Ban Trật tự tư pháp, Ty Công an tỉnh chịu sự
kiểm soát trực tiếp của Công an Kỳ.
Sự ra đời của Công an nhân dân Việt Nam nói chung và việc thành lập Ty Công an
Lạng Sơn đánh dấu bước chuyển mới trong công cuộc đấu tranh cách mạng, giành
độc lập dân tộc. Từ đây, nhiệm vụ bảo vệ chính quyền, bảo vệ cách mạng đã có tổ
chức riêng đảm nhiệm, là lực lượng chuyên chính trọng yếu của Đảng, một công cụ
bạo lực của chính quyền nhân dân. Ngay từ khi được thành lập, Công an Lạng Sơn đã
được các cấp quan tâm, được nhân dân tin yêu và hết sức giúp đỡ, tiếp tục thực hiện
nhiệm vụ trong giai đoạn kháng chiến anh dũng chống thực dân Pháp xâm lược.
Sau Hiệp định Sơ bộ (6/3/1946) giữa Chính phủ ta với Chính phủ Pháp, biết trước
phải rút quân về nước, quân Tưởng và bọn tay sai Phục Quốc ra sức vơ vét của cải,
gây rối khắp nơi chúng đóng quân. Tại Cao Lộc, chúng bao vây trụ sở làm việc của
huyện, đòi cải tổ chính quyền ở Đồng Đăng (Cao Lộc). Để đối phó với tình hình trên,
lực lượng an ninh trên địa bàn huyện đã tăng cường xây dựng lực lượng tự vệ, phiên
chế thành đơn vị thường trực chiến đấu ở các xã; vận động nhân dân không giao dịch,
trao đổi hàng hóa tại các khu chợ; ủng hộ lương thực cho các đơn vị chiến đấu chống
quấy nhiễu, tạo vành đai cô lập chúng. Do có sự chuẩn bị chu đáo, hầu hết các cuộc
hành quân cướp bóc của bọn Tưởng và Phục Quốc đều bị tiêu diệt. Cuối tháng
6/1946, quân Tưởng rút khỏi Lạng Sơn, bọn tay sai Phục Quốc cũng rút theo, một số
quân còn lại tự tan rã và đầu hàng cách mạng, một số khác ngoan cố lẩn trốn vào rừng
nhập vào đội quân phỉ Hoàng Phi Hổ và Sặp Nhì tiếp tục chống phá chính quyền cách
mạng.
Theo thỏa thuận trong Hiệp định Sơ bộ, thực dân Pháp cho quân chiếm đóng tại thị
xã Lạng Sơn (7/7/1946). Ngay sau đó, thực dân Pháp bắt đầu có những hành động vi
phạm về nơi đóng quân, cho quân lính từ thị xã Lạng Sơn lên chiếm đóng những đồn
binh của ta ở Đồng Đăng, Bản Xâm, Lộc Bình. Trước hành động ngang ngược của
thực dân Pháp, Công an Lạng Sơn phối hợp cùng các lực lượng vũ trang của tỉnh đã
nhiều lần ngăn cản quân Pháp và có một số xung đột xảy ra ở khu ga Lạng Sơn và ga
Đồng Đăng.
Tại Cao Lộc, quân Pháp xây các đồn binh mới ở địa bàn xã Hợp Thành, cấu kết với
một số đối tượng phản động cũ trong các tổ chức “Nam Dương Hoa Kiều hiệp hội”,
“Trung dũng đoàn” gây rối, khiêu khích quân sự, phong tỏa hoạt động của các đội vũ
trang chiến đấu, các lực lượng an ninh của ta để dễ bề mở rộng phạm vi chiếm đóng.
Lợi dụng tình hình, các loại tội phạm như trộm cắp, cưỡng đoạt tài sản,… cũng gia
tăng hoạt động. Trước tình hình đó, lực lượng Công an Lạng Sơn phối hợp với lực
lượng an ninh ở Cao Lộc chủ động đối phó với các loại tội phạm, vận động nhân dân
đề phòng, cảnh giác, đồng thời nắm tình hình địch, chuẩn bị phương án đối phó khi
Pháp có động thái mới.
Trước những hành động gây hấn của thực dân Pháp, các lực lượng chiến đấu trên
địa bàn thị xã Lạng Sơn, huyện Cao Lộc (trong đó có lực lượng an ninh Cao Lộc)
được lệnh sẵn sàng chiến đấu, bố trí lực lượng trực chiến, đào hào, đắp lũy, đục thông
các dẫn phố với nhau, chuẩn bị lực lượng, thực phẩm phục vụ bộ đội, dân quân tự vệ
chiến đấu bảo vệ thị xã Lạng Sơn.
Ngày 25/11/1946, thực dân Pháp ở thị xã Lạng Sơn huy động lực lượng trang bị vũ
khí đã nổ súng tấn công các đơn vị bộ đội và tự vệ của ta ở khu vực Cửa Nam. Với sự
kiện này, thực dân Pháp chính thức xâm lược nước ta một lần nữa, quân và dân Lạng
Sơn chính thức bước vào cuộc kháng chiến anh dũng chống thực dân Pháp xâm lược.
Tình hình lúc này diễn ra hết sức khẩn trương, được lệnh của tỉnh, cán bộ cơ quan Ủy
ban nhân dân và Ban Việt Minh huyện Cao Lộc nhanh chóng sơ tán ra địa bàn vùng
ven khu Kỳ Lừa. Lực lượng an ninh Cao Lộc vận động nhân dân tích trữ lương thực
chuẩn bị cho kháng chiến lâu dài, đồng thời cùng các đội tự vệ, du kích khẩn trương
dựng trận địa để ngăn chặn địch bằng nhiều biện pháp.
Ngoài một số cán bộ, chiến sĩ tự vệ, du kích thị xã Lạng Sơn chặn đánh địch tại khu
Kỳ Lừa và địa bàn ven khu Kỳ Lừa, phần lớn cán bộ cơ quan huyện và một bộ phận
tự vệ, du kích Cao Lộc khẩn trương rút theo hai hướng. Hướng thứ nhất, rút thẳng về
Bản Luận, xã Hòa Cư. Hướng thứ hai theo đường Pha Luông về Bản Loỏng, xã
Quang Lạc. Lực lượng an ninh Cao Lộc phối hợp với các đội du kích chiến đấu bố trí
chặn địch tại nhiều điểm xung yếu dẫn vào các xã phía Đông Bắc của huyện. Trong
đó, ngả chính để chặn địch lên từ Na Làng vào Bản Xâm.
Cuối tháng 11, đầu tháng 12/1946, quân Pháp huy động lực lượng cùng với bọn thổ
phỉ Sặp Nhì tấn công lấn chiếm nhiều lần vào địa bàn các xã, huyện Cao Lộc. Tuy lực
lượng tự vệ, an ninh, du kích Cao Lộc còn mỏng, nhưng với tinh thần anh dũng, lực
lượng an ninh phối hợp với các lực lượng vũ trang Cao Lộc chiến đấu bẻ gãy nhiều
đợt tấn công lấn chiếm của địch. Đến ngày 13/12/1946, các xã vùng Đông Bắc của
huyện đều bị thực dân Pháp chiếm đóng, chúng tiến hành xây dựng đồn, bốt, thiết lập
chính quyền tề ngụy làm tay sai chống phá cách mạng.
Tại các xã phía Tây Nam của huyện Cao Lộc là Tân Thành, Xuân Long, Quảng Lạc
và Yên Trạch, lực lượng tự vệ an ninh và du kích đã vận động và tổ chức phát động
nhân dân tích cực tham gia tiêu thổ kháng chiến, thực hiện “Vườn không, nhà trống”,
chuẩn bị ngăn chặn tiêu diệt địch. Đây được coi là địa bàn hậu cứ kháng chiến quan
trọng của huyện trong những ngày đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp xâm lược.
Trước tình hình diễn biến ở Cao Lộc, Tỉnh ủy đã chỉ thị cho Ban lãnh đạo kháng
chiến huyện nhanh chóng liên hệ với huyện Ôn Châu để thống nhất lấy địa bàn các xã
thuộc Bắc Ôn Châu là Chiến Thắng, Vân An, Bắc Thủy và Nhân Lý để làm bàn đạp
xây dựng cơ sở quần chúng kháng chiến ở các xã của huyện Cao Lộc là Mai Pha, Gia
Cát và Tân Liên4.
Dưới sự chỉ đạo của Tỉnh ủy, Ban Cán sự huyện Cao Lộc đã cử một số đồng chí chỉ
đạo, phối hợp với lực lượng an ninh huyện, cán bộ dân quân du kích các xã Yên
Trạch, Mai Pha, Gia Cát, Tân Liên tuyên truyền, vận động các đồng bào dân tộc ở xã
không mắc mưu chia rẽ đoàn kết dân tộc của các tổ chức phản động. Đồng thời, tham
gia xây dựng, củng cố các cơ sở quần chúng, tích cực vận động nhân dân ủng hộ
kháng chiến.
Trong những ngày vận động tổ chức kháng chiến, ở các xã phía Nam huyện Cao
Lộc và phía Bắc huyện Ôn Châu, lực lượng du kích chiến đấu, lực lượng an ninh Cao
Lộc đã phải tiến hành các cuộc chiến đấu quyết liệt với sự tấn công của thực dân Pháp
câu kết với bọn phản động Hoa Kiều Hóa ở các điểm Bản Thí, Khau Hai, Mè Mải,
Tắc Uổn, Khuổi Cải và Háng Ví. Trước sự tấn công ác liệt của thực dân Pháp, các lực
lượng Cao Lộc phải rút lui về hai xã Quan Sơn và Lâm Sơn để bảo toàn lực lượng.
Trụ sở ban lãnh đạo huyện Cao Lộc phải rời Nà Lìn, xã Xuân Long về Bản Rù và Nà
Khan, xã Bắc Thủy, huyện Ôn Châu. Nhân dân Cao Lộc cùng với nhân dân tỉnh Lạng
Sơn bước sang giai đoạn mới - giai đoạn khó khăn gian khổ của cuộc kháng chiến
chống thực dân Pháp xâm lược.
Từ Lạng Sơn, thực dân Pháp tiếp tục nổ súng gây hấn ở Hà Nội và nhiều thành phố
khác. Trước tình hình đó, ngày 19/12/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra lời kêu gọi
“Toàn quốc kháng chiến”, cổ vũ tinh thần đấu tranh bảo vệ Tổ quốc của nhân dân.

4
Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Cao Lộc, Lịch sử quân sự huyện Cao Lộc (1947 - 2012), Nxb. Văn hóa - thông tin,
2014, Tr.36.
Hưởng ứng lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến, ngay đêm 19/12/1946, tiếng súng
kháng chiến của nhân dân ta đã đồng loạt nổ ra ở Hà Nội, Nam Định, Hải Phòng, Huế,
Đà Nẵng,… tinh thần đấu tranh kiên cường, bất khuất dân tộc được khơi dậy và phát
triển mạnh mẽ. Ngày 22/12/1946, Trung ương Đảng ra Chỉ thị “Toàn dân kháng
chiến”, nêu rõ đường lối và mục tiêu của cuộc kháng chiến là “Toàn dân, toàn diện,
trường kỳ, tự lực cánh sinh”, vấn đề cốt lõi là mở rộng mặt trận dân tộc thống nhất,
trên cơ sở củng cố và tăng cường khối liên minh công - nông. Đảng cũng khẳng định
vai trò của các lực lượng vũ trang cách mạng, lực lượng Công an, an ninh trong cuộc
chiến tranh toàn dân, toàn diện.
Từ năm 1947, sau khi hoàn thành đánh chiếm phần lớn đất đai ở huyện Cao Lộc,
thực dân Pháp cho xây dựng hàng loạt điếm canh, đồn lính dõng ở khắp các xã. Thực
hiện kế hoạch bình định lâu dài, chúng bắt nhân dân ta đi phu mở rộng con đường từ
Bản Xân đến Pò Mã, phục vụ nhu cầu chiến tranh của chúng. Không dừng lại ở đó,
thực dân Pháp chiêu an bọn tay sai, thiết lập hệ thống Tề Ngụy khắp các thôn xã trong
huyện; cho phép mở 2 chợ Bản Ranh và Ba Sơn để bọn cường hào, mật thám dễ bề do
la tin tức, tình hình cách mạng của ta. Chúng cấu kết với bọn tay sai phản động, cùng
bọn phỉ do tên Sập Nhì và Voòng A Cáng cầm đầu tiến hành hàng loạt cuộc khủng bố
đối với nhân dân trong huyện. Liên tiếp tổ chức các cuộc hành quân càn quét, cướp
bóc, đốt nhà, lùng sục bắt bớ những người tham gia kháng chiến. Chính quyền cách
mạng hầu như bị tan vỡ.
Trong hoàn cảnh hết sức khó khăn, được sự chỉ đạo của Ty Công an Lạng Sơn, lực
lượng an ninh trên địa bàn huyện Cao Lộc thâm nhập vào các xã, vận đồng quần
chúng nhân dân không sợ hãi, tin tưởng vào cách mạng, phối hợp với các lực lượng
vũ trang bổ sung, củng cố lực lượng, tích cực tổ chức đánh du kích, nhằm tiêu hao,
tiêu diệt sinh lực địch; chuẩn bị cho cuộc đấu tranh bảo vệ nhân dân. Đồng thời, đẩy
mạnh bảo vệ tình hình an ninh, chống lại những âm mưu của bọn phản động tại những
vùng chưa bị địch chiếm đóng.
Xúc tiến thực hiện kế hoạch “đánh nhanh thắng nhanh”, thực dân Pháp huy động
lực lượng đánh chiếm địa bàn các huyện dọc đường số 4 là Lộc Bình, Cao Lộc, Văn
Uyên, Thoát Lãng và Tràng Định, mở đường tiến lên chiến khu Việt Bắc. Nắm bắt
được tình hình, Tỉnh ủy, ban lãnh đạo kháng chiến trực tiếp chỉ đạo xây dựng, củng cố
phong trào kháng chiến tại Cao lộc. Tháng 2/1947, Tỉnh ủy Lạng Sơn chỉ đạo phân
chia Cao Lộc: Các xã phía Nam và Tây Nam của huyện là Cao Lộc A; các xã phía
Đông Bắc của huyện là Cao Lộc B; lập căn cứ du kích ngay trong lòng địch để bao
vây, tiến công tiêu diệt địch. Được sự chỉ đạo của tỉnh, Ban lãnh đạo kháng chiến
huyện Cao Lộc đã cử một tổ công tác gồm các đồng chí Hùng Tân, Cao Chuyên và
Đinh Văn Táu nhanh chóng thâm nhập địa bàn hai xã Cao Lâu và Xuất Lễ để nắm
tình hình, củng cố cơ sở quần chúng kháng chiến, tiến tới xây dựng khu du kích chiến
đấu. Ngày 15/02/1947, Ban cán sự huyện Cao Lộc quyết định thành lập khu du kích
Ba Sơn, uy hiếp các cứ điểm quân địch đóng tại Lạng Sơn, phân tán sự đối phó của
địch trên đường số 4, biến hậu phương của địch thành hậu phương của ta5.
Từ giữa năm 1947, quân và dân Cao Lộc đoàn kết đánh tan cuộc tấn công lên căn
cứ địa Việt Bắc của thực dân Pháp. Chiến thắng này giáng một đòn mạnh mẽ vào
chiến lược “đánh nhanh, thắng nhanh” của thực dân Pháp, buộc chúng phải chuyển
sang thực hiện chiến lược “đánh lâu dài” với âm mưu “dùng người Việt đánh người
Việt”. Chúng ra sức bắt lính dõng để bổ sung cho quân số bị hao hụt; gây chia rẽ giữa
các dân tộc, chia rẽ giữa cán bộ cách mạng với nhân dân.
Tình hình đặt ra cho Lạng Sơn nói chung, Cao Lộc nói riêng những thách thức mới
cần đối phó. Lúc này, Ban cán sự huyện Cao Lộc vừa phải đối phó với thực dân Pháp,
vừa phải đối phó với tay sai là người Việt của chúng. Được sự hậu thuẫn của Pháp,
bọn phỉ Sặp Nhì, Voòng A Cá, Voòng A Sáng, Sloòng Choong, Sloòng Mằn đẩy
mạnh tiến hành hàng loạt cuộc càn, quét, cướp bóc, lùng sục, bắt bớ… Cùng với đó,
thực dân Pháp nấp sau tay sai, tiến hành lôi kéo cổ vũ các tệ nạn xã hội như cờ bạc,
rượu chè, mê tín dị đoan,… Các hành động này gây hoang mang, đảo lộn đời sống, ép
nhân dân vào cảnh khốn cùng.
Cuối năm 1947, Ban cán bộ huyện chỉ đạo phát động quần chúng tiến hành diệt tề,
trừ gian, tránh manh động hay hữu khuynh thỏa hiệp. Thực hiện phương châm chỉ
đạo, lực lượng an ninh Cao Lộc phối hợp với các tổ chức quần chúng trung kiên liên
tục đi sâu xuống các làng, bản động viên nhân dân bám đất, bám làng, tự giác quyên
góp lương thực, thực phẩm, đạn dược, vũ khí, góp phần xây dựng các đội du kích tại

5
Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Cao Lộc, Lịch sử quân sự huyện Cao Lộc (1947 - 2012), Nxb. Văn hóa - thông tin,
2014, Tr.40.
chỗ. Nhờ những nỗ lực cố gắng đến đầu năm 1948, nhiều tổ chức quần chúng trung
kiên được củng cố, hình thành hệ thống cơ sở quần chúng trên các xã Đông Bắc
huyện Cao Lộc. Trên cơ sở vận động xây dựng cơ sở tại chỗ, lực lượng an ninh huyện
Cao Lộc xúc tiến các hoạt động diệt tề ở nhiều xã. Ngày 17/12/1947, đội diệt tề trừ
gian tiêu diệt tên phó lý Vi Viết Sóng, một tên tay sai gian ác ở Co Khuông, Xuất Lễ
và uy hiếp nhiều tên khác, quần chúng phấn khởi, bọn tề ngụy, tay sai không còn
hoành hành như trước.
II. Công an Cao Lộc ra đời, bảo vệ an ninh và tham gia cuộc kháng chiến chống
Pháp (1948 - 1950)
Thực tế đặt ra nhiệm vụ bảo vệ trật tự trị an ở cơ sở cần có cơ quan chuyên trách
đảm nhiệm nên nhiều địa phương đã bố tri cán bộ trong Ủy ban Kháng chiến hành
chính để giải quyết các vấn đề về trật tự an ninh. Trong hoàn cảnh ấy, thực hiện Nghị
quyết số 36/NĐ “Ủy quyền cho Ủy ban kháng chiến Hành chính thiết lập Quận Công
an trong phạm vi các tỉnh” (Ngày 13/3/1947). Theo đó, Nha Công an Trung ương
thống nhất chỉ đạo: “Trong phạm vi các tỉnh, ở những nơi quan trọng về phương diện
chính trị, kinh tế hay xã hội thì Ủy ban Kháng chiến hành chính tỉnh, khu được thiết
lập những Quận Công an sau khi thỏa thuận với trưởng Ty Công an tỉnh hoặc giám
đốc Công an khu. Phạm vi của Quận Công an gồm một hay nhiều phủ, huyện. Về tổ
chức, mỗi quận Công an do một quận trưởng phụ trách và có một số Công an viên
giúp việc; Quận Công an thuộc quyền điều động chuyên môn của trưởng Ty Công an
tỉnh và quyền kiểm soát hành chính của Ủy ban Kháng chiến hành chính sở tại” 6.
Quận Công an có nhiệm vụ: “Giữ gìn trật tự trong địa hạt, đề phong những hành động
trái phép, điều tra để truy tìm thủ phạm những hành vi trái phép giao cho Tòa án trừng
phạt. Điều tra về phương diện hành chính để giúp các công sở về những người và
đoàn thể có liên lạc với các cơ quan ấy. Kiểm soát và thi hành những phương pháp đề
phòng đối với những người nguy hiểm cho sự trị an. Sưu tầm và chuyển lên Ty Công
an tỉnh những tin tức tài liệu quan hệ đến sự trị an”7.
Theo đó, năm 1948 (???), Quận Công an Cao Lộc chính thức được thành lập, đồng
chí…. làm Trưởng Quận Công an đầu tiên. Quận Công an Cao Lộc ra đời đánh dấu

6
CAND Việt Nam - Lịch sử biên niên (1945 - 1954). Nxb CAND. 1994. Tr113.
7
Biên niên lịch sử Tổ chức cán bộ CAND (1945 - 1954). Nxb CAND. 1997. Tr.35.
bước chuyển mới trong công tác đảm bảo an ninh chính trị tại cơ sở. Sau khi được
thành lập, Thường trực Huyện Ủy thành lập Chi bộ khối nội chính, gồm: lực lượng
Công an, Viện Kiểm soát, Tòa án.
Nhân dịp kỷ niệm 2 năm ngày Hồ Chủ tịch ký Sắc lệnh số 23/Sl thành lập Việt
Nam Công an vụ (21/2/1946 - 21/2/1948), Nha Công an Trung ương phát hành số đầu
tiên của nội san “Rèn luyện” nhằm “Rèn luyện” cán bộ Công an các cấp trong phạm
vi toàn quốc tinh thần liên tục, đoàn kết, tương thân, tương ái, dẻo dai bền bỉ. Rèn
luyện cho mỗi chiến sĩ Công an Việt Nam bản lĩnh cao cường, tinh thần kỷ luật sắt đá
song song với một tinh thần chiến đấu bền bỉ8.
Sau tờ “Rèn luyện” của Nha Công an Trung ương, nhiều địa phương cũng ra nội
san nhằm giáo dục chính trị, động viên tư tưởng và nâng cao trình độ mọi mặt cho cán
bộ nhân viên, phấn đấu hoàn thành tốt nhiệm vụ. Ngày 11/3/1948, Chủ tịch Hồ Chí
Minh viết thư căn dặn Công an: “Trên báo cần thường xuyên làm cho anh chị em
nhận rõ Công an của ta là Công an nhân dân, vì nhân dân mà phục vụ, dựa vào dân mà
làm việc. Nhân dân ta có hàng chục triệu người, hàng chục triệu tai mắt, tay, chân.
Nếu biết dựa vào dân thì việc gì cũng xong.
Trên tờ báo phải luôn nhắc nhở anh em rèn luyện tư cách đạo đức. Tư cách người
Công an cách mệnh là:
Đối với mình, phải cần, kiệm, liêm, chính.
Đối với đồng sự, phải thân ái, giúp đỡ.
Đối với Chính phủ, phải tuyệt đối trung thành.
Đối với nhân dân, phải kính trọng, lễ phép.
Đối với công việc, phải tận tụy.
Đối với địch, phải cương quyết, khôn khéo.
Nói tóm lại là những đạo đức và tư cách mà Người Công an cách mệnh phải có,
phải giữ cho đúng… Ngoài ra, Công an thường phải kiểm soát nhân viên và công việc
của mình. Mỗi Công an viên đóng ở chỗ nào thì cần dạy cho dân quân tự vệ nơi đó

8
Lời nói đầu của nội san “Rèn luyện”. Số ra ngày 21/2/1948.
điều tra, xét giấy, phòng gian… Dạy cho nhân dân nơi đó giữ bí mật và tự mình phải
luôn giữ lễ phép, tránh hách dịch”9.
Thấm nhuần 6 lời Bác Hồ dạy, Quận Công an Cao Lộc nghiêm túc tổ chức quán
triệt, không ngừng củng cố đội ngũ công an viên. Đội ngũ cán bộ, nhân viên Quận
Công an tích cực học tập, nâng cao kỹ năng nghiệp vụ để đối phó với những hành
động của kẻ thù, tuyên truyền, mở rộng số lượng cán bộ, nhân viên để nâng cao chất
lượng.
Thực hiện thông tư số 113/NV (ngày 09/3/1948) của Bộ Nội vụ, chỉ đạo của Ty
Công an, Quận Công an Cao Lộc phối hợp với cấp ủy và chính quyền các xã xây
dựng lực lượng trật tự xã - gọi là Ban trật tự xã (tiền thân của Công an xã). Lực lượng
trật tự xã là những thành viên tích cực, có sức khỏe tốt trong các tổ chức quần chúng,
có ý thức trách nhiệm và trong sạch. Mỗi xã đều có ban trật tự, mỗi thôn, bản đều có
trật tự viên. Các trật tự viên được Ty Công an và Quân Công an bồi dưỡng về nghiệp
vụ, nhất là tổ chức tập huấn về tuần tra, canh gác, bảo vệ những nơi phức tạp, đông
người qua lại, bảo vệ an ninh trật tự trong các thôn ở các xã.
Quán triệt Nghị quyết Hội nghị Công an toàn quốc lần thứ nhất (họp giữa tháng
5/1947) về tư tưởng “Kháng chiến toàn dân, toàn diện, kháng chiến lâu dài”; công tác
Công an phải đi theo đường lối chính trị của Đảng, phải chủ động nắm chắc tình hình,
đẩy mạnh phong trào phòng gian bảo mật và việc gây cơ sở phục vụ các cơ quan đoàn
thể trở lại vùng sau lưng địch hoạt động. Quận Công an Cao Lộc phối hợp thực hiện
nhiệm vụ bảo vệ vòng ngoài, phát động sâu rộng phong trào phòng gian bảo mật,
kiểm soát chặt chẽ các địa bàn xung yếu, khu vực trọng điểm, các ngả đường ra vào
vùng căn cứ du kích, bảo vệ các kho tàng, công xưởng… Thực hiện củng cố thế trận
an ninh nhân dân, bảo vệ an toàn nơi làm việc của các cơ quan Trung ương và các
đồng chí lãnh đạo Đảng, Chính phủ; vô hiệu hóa mọi âm mưu, hoạt động tình báo,
gián điệp, chỉ điểm, phá hoại của kẻ địch móc nối, lôi kéo những người có uy tín trong
dân tộc; phối hợp với nhân viện trật tự xã tích cực điều tra khám phá các vụ án, đưa
đối tượng ra xử lý trước pháp luật. Mọi hoạt động của các cơ quan Trung ương và địa
phương đều được lực lượng Công an Cao Lộc bảo vệ tuyệt đối an toàn, giữ vững an
ninh trật tự.
9
Chủ tịch Hồ Chí Minh với ngành CAND Việt Nam, Viện NCKH Công an, 1980, Tr.76.
Bên cạnh việc giữ gìn an ninh trật tự tại địa phương, ngày sau khi thành lập, Quận
Công an Cao Lộc phối hợp với các lực lượng vũ trang tiếp tục phát triển phong trào
đấu tranh du kích, đẩy mạnh tấn công, tiêu diệt, tiêu hao sinh lực địch, hỗ trợ tích cực
cho bộ đội chủ lực của ta trên mặt trận đường số 4.
Hưởng ứng chiến dịch tổng phá tề do Ban lãnh đạo kháng chiến tỉnh Lạng Sơn phát
động, Quận Công an Cao Lộc đã chỉ đạo tiến hành các hoạt động trừ gian diệt phản ở
nhiều nơi, nhằm vô hiệu hóa bọn tay sai của địch, làm cho địch “có mắt cũng như
mù”, “có tay chân cũng như què”.
Từ Căn cứ Ba Sơn, Quận Công an Cao Lộc phối hợp với các lực lượng lần lượt
trừng trị nhiều bọn Việt gian phản động có nợ máu với nhân dân. Tiến hành truy bắt
tên châu đoàn Phặt, một tên Việt gian ác ôn chạy trốn ra xóm Vĩnh Trại, khu Đông
Kinh, thị xã Lạng Sơn. Trước sự truy quét mạnh mẽ của lực lượng Công an, ngoài
một số tên bỏ trốn ra ngoài thị xã Lạng Sơn, còn lại nhiều tên phải ra đầu thú hoặc
nhận làm nội ứng cho ta. Đến cuối năm 1948, hệ thống tề, ngụy tay sai thực dân Pháp
ở các xã Gia Cát, Tân Liên, Hòa Cư, Mai Pha, Hoàng Đồng, Hợp Thành hầu như bị
tan rã. Tình hình bắt đầu mở ra nhiều khả năng thuận lợi cho cuộc kháng chiến ở Cao
Lộc, mở đường cho các lực lượng ở Cao Lộc tấn công tiêu diệt địch trên địa bàn xung
quanh thị xã Lạng Sơn. Quận Công an Cao Lộc còn xây dựng, củng cố con đường liên
lạc từ khu du kích Ba Sơn qua Hợp Thành, Hoàng Đồng, Khánh Khê vào căn cứ
kháng chiến của tỉnh tại Ba Xã, huyện Điềm He.
Bước sang năm 1949, phong trào chiến tranh du kích phát triển mạnh ở khắp các
địa bàn huyện Cao Lộc. Từ đầu năm 1949 đến đầu năm 1950, Quận Công an Cao Lộc
phối hợp với lực lượng vũ trang và du kích địa phương từng bước tiến công, bao vây
địch trên trục đường số 4, giải phóng nhiều xã, thị trấn, khiến quân Pháp hoang mang,
rệu rã. Đồng thời, vận động nhân dân thực hiện “vườn không, nhà trống” khiến cho
quân địch không còn nơi để cướp bóc lương thực, thực phẩm.
Cùng với việc xúc tiến mọi hoạt động hướng tới những cuộc quyết chiến, Quận
Công an Cao Lộc và lực lượng du kích phải đối mặt với thử thách mới. Từ ngày 12
đến ngày 14/12/1949, hàng nghìn tên lính Tưởng bị quân giải phóng Trung Quốc truy
kích đã tràn vào biên giới nước ta nhằm cấu kết với quân Pháp ở đồn Bản Xâm chống
phá cách mạng, tiến công và uy hiếp khu du kích Ba Sơn. Quận Công an Cao Lộc
phối hợp với lực lượng vũ trang chiến đấu trong khu căn cứ chủ động triển khai đội
hình, kịp thời nổ súng chặn đánh, tiêu diệt tại chỗ nhiều tên, truy kích và bắt sống
hàng trăm tên khác (những tên này sau đó được trao trả lại cho quân giải phóng Trung
Quốc). Thắng lợi này đã cho thấy vai trò quan trọng của Quận Công an trong việc bảo
vệ an ninh trên địa bàn huyện, góp phần đập tan âm mưu của bọn Tưởng, giải phóng
một phần đất đai vùng biên giới.
Tháng 01/1950, Hội nghị Công an toàn quốc lần thứ V được tổ chức, nghị quyết
được đưa ra nêu rõ: “Lực lượng Công an cần phải kiện toàn tổ chức, huấn luyện cán
bộ, đẩy mạnh công tác phản gián và điệp báo… nắm chắc các hoạt động của bọn Việt
gian nguy hiểm, chuẩn bị điều kiện để giữ vững an ninh trật tự… Đẩy mạnh thi đua
giữa các đơn vị, địa phương; tập trung vào công tác tổ chúc, diệt ngụy quyền, diệt phá
tề, nắm tình hình địch, rút kinh nghiệm về công tác điều tra”10.
Tháng 6/1950, Ban thường vụ Trung ương Đảng chủ trương mở Chiến dịch Biên
giới nhằm thu hẹp chiến trường trong cả nước, tạo đà cho những chiến dịch tới. Thực
hiện chủ trương của Trung ương, Nghị quyết Hội nghị Công an toàn quốc, Công an
Cao Lộc phối hợp với các ban ngành chức năng, cấp ủy và chính quyền địa phương
bảo vệ các cuộc hành quân của bộ đội, đoàn kết với nhân dân vạch trần những tên
gián điệp tay sai, chỉ điểm, tổ chức công tác trinh sát, giám sát, phá tan các hoạt động
thu thập tình báo. Đồng thời, đẩy mạnh công tác dân vận, vận động nhân dân giúp bộ
đội mở đường, vận chuyển vũ khí, lương thực thực phẩm và tăng cường “phòng gian,
bảo mật” trong nhân dân, nêu cao các khẩu hiệu “Giữ bí mật là yêu nước”, “Yêu nước
thì phải giữ bí mật”. Toàn huyện trong không khí sẵn sàng chờ lệnh tấn công.
Thắng lợi của Chiến dịch Biên giới là sự chung sức quân và dân ta, trong đó lực
lượng Công an đã góp phần không nhỏ trong quá trình đấu tranh, đẩy lùi địch. Thắng
lợi này đã cổ vũ tinh thần đấu tranh của quân và dân ta, phá thế bị cô lập của căn cứ
địa Việt Bắc, khai thông biên giới Việt - Trung để mở đầu cầu tiếp nhận viện trợ.
Đồng thời, mở rộng căn cứ địa, tiêu diệt một phần sinh lực quân đồn trú của Pháp.
Ngày 17/10/1950, tên lính Pháp cuối cùng rút khỏi thị xã Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn
được hoàn toàn giải phóng, lực lượng Công an Cao Lộc phấn khởi, tự hào vì đã cùng

10
CAND Việt Nam - Lịch sử biên niên (1945 - 1954), Nxb CAND, 1994, Tr.211.
với lực lược vũ trang của huyện, tỉnh làm nên những chiến công vẻ vang, góp phần
cho những thắng lợi tiếp theo của cả nước.
Kháng chiến liên tiếp giành được những thắng lợi quan trọng và đang chuyển sang
giai đoạn tổng phản công, vùng giải phóng ngày càng được mở rộng, công tác đảm
bảo an ninh trật tự tại cơ sở càng đặt ra cấp thiết. Việc thành lập Ban trật tự xã chưa
thể hiện đủ tính chất, đặc điểm công tác an ninh ở cơ sở. Lực lượng Công an xã phải
được xây dựng lớn mạnh để có thể hoàn thành được nhiệm vụ. Trước tình hình đó,
ngày 10/10/1950, Bộ Nội vụ ra Nghị định số 438/NV về tổ chứ Công an xã, thành lập
mỗi xã trong toàn quốc một Ban Công an xã thay cho Ban trật tự, đặt dưới quyền điều
khiển trực tiếp của Ủy ban Kháng chiến hành chính xã, dưới quyền điều khiển chuyên
môn của Ty Công an tỉnh và Quận Công an huyện.
Ban Công an xã ra đời đáp ứng nhu cầu đảm bảo an ninh ở cơ sở với nhiệm vụ:
Bảo vệ tài sản của dân chúng, giữ gìn an ninh trật tự và vệ sinh chung trong xã; ngăn
ngừa và bài trừ các tệ nạn xã hội như cờ bạc, rượu chè, thuốc phiện, mại dâm, trộm
cướp…; điều tra và báo cáo lên Ủy ban Kháng chiến hành chính xã và Ty Công an
tỉnh những tổ chức, hành động có phương hại đến chính quyền, những hành động
phạm pháp hay tình nghi phạm pháp; giúp Ban Tư pháp xã, các nhân viên tư pháp
trong khi khám nhà, bắt giữ nhân tang trong phạm vi xã mình; thi hành ủy nhiệm điều
tra của Ủy ban Kháng chiến hành chính xã, Ty Công an tỉnh.
Ban Công an xã do một trưởng ban điều khiển và một phó trưởng ban giúp việc,
cùng chịu trách nhiệm trước Ủy ban Kháng chiến hành chính (Trưởng ban và phó ban
Công an xã do Ủy ban Kháng chiến hành chính đề cử). Nhân viên Công an xã có phù
hiệu riêng trong khi thi hành công vụ.
Thực hiện chủ trương trên, Công an Cao Lộc cùng với các cấp chính quyền các xã
thành lập các Ban Công an xã trên cơ sở Ban trật tự xã. Thực hiện tuyển chọn những
người có trách nhiệm trong hàng ngũ cũ, bổ sung những người mới làm nhiệm vụ giữ
gìn an ninh trật tự. Lực lượng Công an xã mới được thành lập chưa có nhiều kinh
nghiệm nhưng cũng đã đóng góp rất lớn vào nhiệm vụ bảo vệ trị an trong từng xã và
trên toàn huyện.
Ban Công an xã được thành lập trong toàn quốc nói chung và huyện Cao Lộc nói
riêng đã đánh dấu bước tiến mới trong quá trình hình thành và phát triển của Công an
nhân dân, hệ thống tổ chức của lực lượng Công an có đủ 4 cấp từ Trung ương đến cơ
sở (Nha Công an Trung ương, Ty Công an tỉnh, Quận Công an huyện và Ban Công an
xã).
Trong 5 năm (1945 - 1950), lực lượng Công an Cao Lộc từ khi hình thành là những
lực lượng an ninh đến Quận Công an Cao Lộc đã từng bước phát triển thành một tổ
chức với nhiệm vụ đảm bảo an ninh toàn huyện, phối hợp với các lực lượng vũ trang
kháng chiến đẩy lùi thực dân Pháp và bè lũ tay sai khỏi huyện nhà. Từ đây, Cao Lộc
có một hệ thống tổ chức chính quy làm nhiệm vụ bảo vệ an ninh từ các xã đến toàn
huyện, đảm bảo đời sống, an toàn tính mạng của nhân dân.
III. Tích cực bảo vệ trị an, tham gia củng cố hậu phương và chi viện cho chiến
trường đánh thắng thực dân Pháp (1951 - 1954)
Thắng lợi liên tiếp của quân và dân ta trên khắp các chiến trường đã làm thay đổi
hoàn toàn cục diện chiến tranh. Ta liên tiếp mở các cuộc tấn công ở khu vực đồng
bằng Bắc Bộ, dồn Pháp vào thế hoàn toàn bị động. Sau khi Lạng Sơn được giải
phóng, nhân dân các dân tộc trở về quê hương làm ăn, phát triển đời sống mới. Cùng
với cả tỉnh, huyện Cao Lộc trở thành hậu phương quan trọng cho cuộc kháng chiến
trường kỳ của dân tộc ta. Tuy nhiên, thực dân Pháp vẫn liên tiếp thực hiện chiến tranh
phá hoại các vùng tự do của ta và kích động các đối tượng chống đối khác, ngăn bước
tiến cách mạng của ta.
Năm 1951, thực dân Pháp cho máy bay ném bom những nơi đông dân, phá hoại
cầu cống và tuyến đường vận tải trong huyện; tung bọn gián điệp vào vùng giải
phóng, cấu kết với bọn tàn quân Ngụy, bọn phản động “Hoa Kiều hóa” hoạt động
chống phá cách mạng và quấy phá cuộc sông mới của nhân dân ta. Chúng tiến hành
rêu rao khẩu hiệu phản động: “Đuổi Tày, lấy ruộng Tày” hòng khoét sâu mâu thuẫn,
phá vỡ khối đoàn kết giữa các thành phần dân tộc.
Trong tình hình ấy, Ban cán sự Đảng bộ Cao Lộc đã họp và đề ra nhiệm vụ kháng
chiến trong điều kiện mới là: Củng cố các đoàn thể quần chúng, tăng cường khối đoàn
kết của nhân dân, phục hồi và phát triển sản xuất, ổn định đời sống nhân dân; tổ chức,
vận động, giác ngộ tàn binh, ngụy binh; xây dựng lực lượng và tích cực chi viện sức
người, sức của cho các chiến trường. Cùng với đó, lực lượng Công an Cao Lộc từng
bước ổn định và củng cố tổ chức, bảo vệ an ninh và tích cực chi viện cho chiến trường
kháng chiến.
Ngày 12/5/1951, Ban Bí thư Trung ương Đảng ra chỉ thị số 05/CT về nhiệm vụ và
tổ chức của ngành Công an. Trong chỉ thị nêu rõ: “Nhiệm vụ của Công an là bảo vệ
vệ: Bảo vệ Đảng, bảo vệ chính quyền dân chủ nhân dân, bảo vệ nền kinh tế quốc dân,
bảo vệ quân đội, bảo vệ nhân dân”. Quán triệt Chỉ thị của Ban Bí thư, tháng 8/1951,
Hội nghị Công an toàn quốc lần thứ VI được tổ chức tại Tuyên Quang đã thảo luận và
nhất trí thống qua mô hình tổ chức Công an toàn quốc và hệ thống tổ chức Ty Công
an.
Thực hiện Nghị quyết của Hội nghị Công an toàn quốc, lãnh đạo Ty Công an đã tập
trung chỉ đạo, đẩy mạnh công tác xây dựng lực lượng. Do đó, công tác xây dựng và
phát triển lực lượng ở các đơn vị trong Ty Công an cũng như các Quận Công an ngày
càng được tăng cường và có thêm nhiều tiến bộ. Đội ngũ nhân viên Quận Công an
Cao Lộc ngày càng được củng cố, không ngừng học tập và tham gia các đợt tổ chức
tập huấn, nâng cao nghiệp vụ, lề lối làm việc được đi vào nền nếp. Quận Công an
huyện tích cực xây dựng mạng lưới cơ sở bí mật, đội ngũ điệp viên, tình báo viên đạt
được hiệu quả rõ rệt. Các mặt công tác bảo vệ, đảm bảo an ninh trận tự trong huyện
luôn được duy trì, phục vụ đắc lực nhiệm vụ chính trị của địa phương.
Đáp ứng tình hình nhiệm vụ mới, Nghị quyết Hội nghị Công an toàn quốc lần thứ
VI xác định: “Phải thành lập Công an huyện”.
Theo đề nghị của Tổng Giám đốc Việt Nam Công an vụ xét nhu cầu hiện thời, ngày
03/01/1952, Bộ Nội vụ ra Nghị định số 09/NĐ về việc thành lập Công an huyện. Tại
điều 1 Nghị định ghi rõ: Nay thành lập tại mỗi huyện trong toàn quốc một tổ chức
Công an gọi là Công an huyện (đặt dưới quyền điều khiển của Ty Công an tỉnh). Công
an huyện có nhiệm vụ:
- Tổ chức giữ bí mật, phòng gian, điều tra do thám bọn phản động, giữ gìn an ninh
trật tự trong huyện; theo dõi tình hình chung liên quan đến phòng gian, phản gián, trật
tự an ninh để báo cáo với Ty Công an và Ủy ban Kháng chiến hành chính huyện.
- Hướng dẫn và phối hợp công tác bảo vệ trong các cơ quan ở huyện.
- Tự điều tra hay điều tra theo yêu cầu của Ủy ban Kháng chiến hành chính hay
Toàn án nhân dân huyện.
- Tổ chức và hướng dẫn các ban Công an xã phát triển Công an nhân dân.
- Thi hành các chỉ thị hay mệnh lệnh của cấp trên.
Tổ chức Công an huyện gồm một bộ phận chuyên trách việc theo dõi, hướng dẫn
toàn diện các mặt của Ban Công an xã và các tổ điều tra. Mỗi Công an huyện có một
huyện trưởng và có thể có một huyện phó.
Thực hiện Nghị định của Bộ Nội vụ, Chỉ thị 353/NVC-P4 ngày 19/2/1952 của Nha
Công an về sửa đổi tổ chức huyện Công an; thực hiện chỉ đạo của Ty Công an và Ủy
ban Kháng chiến hành chính huyện, Quận Công an Cao Lộc được củng cố, tăng
cường thêm lực lượng và đổi gọi là huyện Công an Cao Lộc, biên chế tổ chức huyện
Công an gồm 1 đồng chí làm công tác văn phòng, 2 đồng chí làm công tác điều tra vụ
án, 2 đồng chí làm công tác giữ gìn trật tự trị an chung và phụ trách Ban Công an xã.
Huyện Công an Cao Lộc nhanh chóng chuyển hướng hoạt động với nhiệm vụ mới:
bảo đảm an ninh, chống mọi biểu hiện gây rối, chủ động đối phó với hành động phá
hoại của địch, tăng cường trừ gian bảo mật. Chú trọng công tác điều tra, phá án, nhất
là các vụ án còn tồn đọng, các vụ trọng án.
Cùng với việc củng cố, kiện toàn hệ thống tổ chức, huyện Công an Cao Lộc tiếp tục
nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ nhân viên. Dưới sự chỉ đạo của Ty Công an, lãnh
đạo huyện Công an Cao Lộc tổ chức cho cán bộ nhân viên học tập quán triệt Chỉ thị
số 10/CT-TW ngày 5/5/1950 về Đảng lãnh đạo Công an của Ban Chấp hành Trung
ương và các đề án công tác của ngành như: Đề an Công an nhân dân Việt Nam, Đề án
công tác phản gián, Đề án công tác trật tự,… Đồng thời tổ chức học tập và làm theo 6
điều Bác Hồ dạy Công an nhân dân. Nhờ đó, ý thức giác ngộ của cán bộ nhân viên
huyện Công an được nâng cao, xã định rõ nhiệm vụ của mình trong từng giai đoạn, ý
thức được trách nhiệm trước Đảng và nhân dân.
Dưới sự chỉ đạo của Ty Công an tỉnh, Từ giữa năm 1952, huyện Công an Cao Lộc
tập trung thực hiện 5 nội dung trọng tâm về chống do thám, gián điểm chỉ điểm và các
hoạt động chống phá cách mạng khác của Ủy ban Kháng chiến hành chính là:
- Giáo dục ý thức phòng gian bảo mật cho cán bộ nhân viên và nhân dân;
- Các cơ quan, đơn vị bộ đội phải giữ bí mật và không nên ở lâu một chỗ;
- Tổ chức dân quân tuần phòng canh gác ngày đêm, kiểm soát những người lạ mặt
hoặc tình nghi làm do thám cho địch;
- Nêu cao ý thức cảnh giác giữ gìn bí mật, khen thưởng người có công, trừng trị
bọn dung túng làm tay sai cho địch;
- Điều tra theo dõi bọn lưng chừng và những người được địch cho về nhưng cũng
phải đề phòng tư tưởng thành kiến, lộ liễu có hại đến chính sách đại đoàn kết của
Chính phủ.
Công tác xây dựng lực lượng được lãnh đạo đơn vị quan tâm đẩy mạnh theo tinh
thần nội dung thư của Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi Hội nghị Công an toàn quốc lần thứ
V: “Xây dựng đội ngũ Công an nhân dân, tức là Công an phải có tinh thần phục vụ
nhân dân, là bạn dân; đồng thời phải dựa vào các đoàn thể mà tổ chức và giáo dục
nhân dân trong công việc phòng gian để nhân dân thiết thực giúp đỡ Công an. Cách tổ
chức Công an phải đơn giản, thiết thực, tránh cái tệ quá hình thức giấy tờ. Lề lối làm
việc phải dân chủ; cấp trên phải kiểm tra cấp dưới; cấp dưới phải phê bình cấp trên;
giúp nhau kinh nghiệm và sáng kiến, giúp nhau cùng tiến bộ; tự phê bình và phê bình
nhau theo tinh thần thân ái và lập trường cách mạng. Phải hoan nghênh nhân dân phê
bình Công an để đi đến hiểu Công an, yêu Công an và giúp đỡ Công an”11.
Thực hiện huấn thị của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Cán bộ nhân viên Công an Cao Lộc
không ngừng học tập, giác ngộ cách mạng, nâng cao trình độ nghiệp vụ và pháp luật,
nắm vững tình hình nhiệm vụ trong giai đoạn mới. Từ đó, hăng say công tác, tin
tưởng vào thắng lợi của cách mạng, tích cực trong công tác bảo vệ và chiến đấu.
Trong thời gian này, ở các xã phía Nam huyện Cao Lộc thường xảy ra hoạt động
chống phá của bọn phản động núp sau các tổ chức chính trị phản cách mạng với âm
mưu phá vỡ khối đoàn kết dân tộc của nhân dân ta. Huyện Công an Cao Lộc phối hợp
với chính quyền các xã tuyên truyền, vận động quần chúng, tổ chức học tập chính trị,
giải thích cho quần chúng thấy được âm mưu của bọn phản động. Đồng thời tuyên
truyền sâu rộng chính sách của Đảng và Nhà nước về đoàn kết dân tộc. Nhờ đó, đến
11
Chủ tịch Hồ Chí Minh với công tác an ninh trật tự, Nxb CAND, 1990, Tr.30.
năm 1952, đông đảo nhân dân các dân tộc từng bước hiểu rõ âm mưu của bọn phản
động; ngày càng tin tưởng vào đường lối của Đảng, chính sách của nhà nước; tích cực
tăng gia sản xuất, hăng hái tham gia dân công và ủng hộ lương thực, thực phẩm cho
chiến trường.
Huyện Công an Cao Lộc chỉ đạo Công an xã đi sâu, bám sát vào từng hộ gia đình
trong bản làng, tổ chức lập các chốt canh gác ở những nơi trọng yếu, vận động nhân
dân tham gia các tổ tuần tra, kiểm soát những người lạ mặt vào trong xã. Vận động
nhân dân tố cáo những tên tình nghi tay sai cho địch, những tên gián điệp phản cách
mạng. Tăng cường điều tra, phá các vụ án trong địa bàn các xã và toàn huyện, đưa
những kẻ xấu ra ngoài pháp luật để trừng trị.
Cùng với nhiệm vụ bảo vệ cách mạng, bảo vệ Chính quyền, Công an huyện Cao
Lộc còn tích cực vận động nhân dân ổn định nơi ở, tăng gia sản xuất, củng cố hậu
phương vững chắc. Phát động nhân dân đẩy mạnh xây dựng các tổ đổi công, tuyên
truyền các biện pháp thâm canh, tăng vụ, duy trì sản xuất kịp thời vụ.
Tại Hội nghị lần thứ 4 (tháng 1/1953) Ban Chấp hành Trung ương đã kiểm điểm
việc thực hiện chính sách ruộng đất từ sau Cách mạng Tháng Tám và chủ trương thực
hiện giảm tô, giảm tức, cải cách ruộng đất nhằm hạn chế dần sự bóc lột của địa chủ,
cải thiện đời sống nông dân, củng cố hậu phương, đẩy mạnh sản xuất, thực hiện
“Người cày có ruộng” ngay trong kháng chiến.
Tại Cao Lộc, cùng với việc đẩy mạnh sản xuất phát triển, thực hiện Sắc lệnh về
thuế nông nghiệp của Chính phủ, cán bộ cấp ủy chính quyền, các ban ngành đoàn thể
và huyện Công an, công an xã đều được huy động vào công tác trọng tâm này. Tích
cực thực hiện cải cách ruộng đất, giành lại quyền lợi từ tay địa chủ về cho nông dân.
Nhờ những việc làm thiết thực, địa chủ ở Cao Lộc hầu như bị đánh đổ, nhân dân tích
cực tham gia nông nghiệp, hăng hái tham gia lao động sản xuất, mở rộng khai hoang
tăng vụ, tự giác đóng thuế nông nghiệp và ủng hộ hàng chục tấn lượng thực, thực
phẩm phục vụ cho cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Niềm tin của
quần chúng nhân dân đối với sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước ngày càng nâng lên,
từ đó, tạo nên mối dây liên hệ chặt chẽ giữa Đảng và nông dân, nhân dân trên địa bàn
toàn huyện.
Lúc này, những phần tử xấu lợi dụng các cấp Chính quyền và nhân dân tập trung
vào sản xuất, thực hiện những hành động trộm cắp, kích động những địa chủ bị tịch
thu ruộng, tổ chức phá hoại bản làng. Đồng thời, chúng lôi kéo nhân dân tham gia các
tệ nạn cờ bạc, rượu chè, ma túy,… để mị dân, làm cho nhân dân không còn năng lực
để phục vụ phát triển kinh tế. Vì vậy, Công an xã tích cực phối hợp với Chính quyền
tiến hành bắt tội phạm, tổ chức tuyên truyền cho nhân dân thấy được hạn chế của các
tệ nạn, cần tránh. Nhờ đó, tình hình an ninh trên địa bàn huyện ngày càng được ổn
định, nhân dân yên tâm tập trung vào sản xuất, phát triển đời sống. Cùng với đó, lực
lượng Công an tăng cường xử lý các tội phạm trốn thuế, các tội phạm trộm cắp tài sản
của nhân dân, đảm bảo an ninh để nhân dân yên tâm tập trung sản xuất. Cuộc vận
động giảm tô góp phần cổ vũ các tầng lớp nông dân lao động, làm cho nhân dân càng
tin tưởng hơn vào đường lối của Đảng và chính sách của Nhà nước.
Ngày 16/3/1953, nhằm đáp ứng yêu cầu của cuộc kháng chiến, Chủ tịch Hồ Chí
Minh ký Sắc lệnh số 141/SL đổi Nha Công an Việt Nam thành Thứ Bộ Công an.
Đông chí Trần Quốc Hoàn, Ủy viên Trung ương Đảng được cử giữ chức Thứ trưởng
Thứ Bộ Công an. Tại kỳ họp của Hội đồng Chính phủ (từ ngày 27 đến ngày
29/8/1953) ra Nghị quyết đổi Thứ Bộ Công an thành Bộ Công an, đồng chí Trần Quốc
Hoàn tiếp tục được cử làm Bộ trưởng Bộ Công an.
Lúc này, huyện Công an Cao Lộc có 6 đồng chí cán bộ chủ chốt, trang bị súng
K54, có trụ sở đặt tại chợ Giếng Muông(???). Cùng với ngành Công an trong cả nước,
huyện Công an phối hợp với lực lượng Công an xã tăng cường bảo vệ an ninh trên địa
bàn huyện, tiếp tục phát động phong trào phòng gian bảo mật, chống bọn phỉ, bọn tàn
dư Ngụy luôn rình rập chống phá cách mạng, cử cán bộ về các khu vực biên giới để
bảo vệ an ninh. Đồng thời, tích cực củng cố, phát triển lực lượng, mở các lớp huấn
luyện nghiệp vụ cho công an viên để đảm bảo nhiệm vụ cấp bách trước yêu cầu của
giai đoạn cách mạng mới.
Sau những thất bại nặng nề trên chiến trường, giữa năm 1953, với sự thỏa thuận
giữa Mỹ và Pháp, chúng thực hiện “Kế hoạch Na-va”, có quy mô lớn, lực lượng hùng
hậu, vũ khí và phương tiện chiến tranh hiện đại; với kế hoạch này, Pháp hi vọng giành
lại thế chủ động trên chiến trường.
Nắm bắt được tình hình, từ tháng 10/1953, Bộ Chính trị chủ trương mở Chiến dịch
Đông - Xuân (1953 - 1954) với ba mũi tiến công, trong đó chiến dịch Điện Biên Phủ
là hướng chiến lược trọng yếu. Tháng 12/1953, Bộ Chính trị và Hồ Chủ tịch quyết
định mở Chiến dịch giải phóng Điện Biên Phủ.
Trong Chiến dịch này, nhiệm vụ trong tâm của quân và dân Lạng Sơn nói chung,
lực lượng Công an Cao Lộc nói riêng là đảm bảo giao thông thông suốt trên hai tuyến
đường huyết mạch, tạo điều kiện thuận lợi cho công việc vận tải từ hậu phương chi
viện cho các chiến trường. Đứng trước yêu cầu nhiệm vụ mới, với tinh thần chủ động
sẵn sàng, huyện Công an chỉ đạo Công an xã tiến hành vận động quần chúng nhân dân
tham gia phong trào dân quân hỏa tuyến, phong trào tòng quân giết giặc. Hưởng ứng
các phong trào, hàng ngàn người trong huyện tham gia dân công, tiến hành mở mang
các tuyến đường mới, tích cực bảo vệ nhiều tuyến đường, bảo vệ giao thông thông
suốt; hàng trăm người con Cao Lộc hăng hái xung phong lên đường nhập ngũ, tiếp
bước các thế hệ cha anh ghi dấu tên mình vào lịch sử.
Được sự chỉ đạo của Ty Công an tỉnh, huyện Công an Cao Lộc cử cán bộ tăng
cường về các xã, nhất là khu vực dọc đường quốc lộ số 1A và số 4. Tiến hành lập các
đội bảo vệ cầu đường, kho tàng, công xưởng; tăng cường công tác kiểm tra giám sát
trên các trục đường chính, các địa bàn trọng điểm. Đồng thời, phối hợp với Công an
xã tuần tra các bản làng, nơi trọng điểm, phát hiện người lạ mặt, đề phòng kẻ gian lợi
dụng tình hình. Đồng thời, mở các cuộc điều tra truy bắt những phần tử phản động,
tình nghi phản động, các đối tượng trộm cắp, bảo đảm an ninh chính trị, an toàn cho
nhân dân.
Trải qua 55 ngày đêm “khoét núi ngủ hầm, mưa dầm cơm vắt”, quân và dân ta đã
kiên cường, anh dũng tiêu diệt hoàn toàn tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ vào chiều
ngày 7/5/1954. Chiến thắng vĩ đại Điện Biên Phủ không những ghi vào lịch sử dân tộc
Việt Nam như một mốc son rực sáng nhất trong thế kỷ XX, mà ý nghĩa và tầm vóc
của sự kiện lịch sử trọng đại này không hề phai mờ, có giá trị to lớn trong sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Đúng như Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã viết: “Điện Biên Phủ như là một cái mốc chói lọi bằng vàng của lịch sử. Nó
ghi rõ nơi chủ nghĩa thực dân lăn xuống dốc và tan rã, đồng thời, phong trào giải
phóng dân tộc khắp thế giới đang lên cao đến thắng lợi hoàn toàn”. “Đó là thắng lợi vĩ
đại của Nhân dân ta mà cũng là thắng lợi chung của tất cả các dân tộc bị áp bức trên
thế giới”. Với thắng lợi hòa toàn thuộc về nhân dân ta, ngày 20/7/1954, hiệp định Giơ-
ne-vơ lập lại hòa bình, chấm dứt chiến tranh ở Đông Dương được ký kết. Những
thắng lợi “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu” đã chấm dứt 9 năm kháng chiến
trường kỳ, gian khổ, hi sinh của quân và dân ta; ghi dấu sự lãnh đạo tài tình trong
đường lối chiến thuật của Đảng; từ đây, cách mạng Việt Nam bước sang giai đoạn
mới, giai đoạn xây dựng chủ nghĩa xã hội (ở miền Bắc) và đấu tranh thống nhất đất
nước (ở miền Nam).
Những năm tháng đấu tranh gian khổ và hi sinh đã qua, được Đảng và Bác Hồ kính
yêu quan tâm, lãnh đạo, Công an Cao Lộc không ngừng trưởng thành, từng bước củng
cố địa vị, tạo sự tin tưởng yêu mến trong nhân dân, lập nên những chiến công to lớn,
giữ vững an ninh trật tự trong mọi tình huống. Dù bị thực dân Pháp càn quét, phá hoại
dữ dội, nhưng Công an Cao Lộc vẫn vững niềm tin vào Đảng, phối hợp với các lực
lượng vũ trang cả nước thực hiện thắng lợi cuộc kháng chiến của dân tộc.

You might also like