You are on page 1of 6

BẢO VỆ VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ

DI SẢN VĂN HÓA QUÂN SỰ VIỆT NAM GẮN VỚI


THỜI KỲ DỰNG NƯỚC VÀ CHỐNG BẮC THUỘC
NGUYỄN TIẾN DŨNG

Tóm tắt
Di sản văn hóa quân sự Việt Nam thời kỳ dựng nước và chống Bắc thuộc là tài sản văn hóa quý giá
của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, một bộ phận của di sản văn hoá dân tộc. Trải qua hàng nghìn
năm với bao biến cố thăng trầm của lịch sử, các di tích văn hóa quân sự Việt Nam đã và đang bị mai
một và tiềm ẩn nguy cơ biến mất. Vì thế, việc bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hoá quân sự Việt
Nam gắn với thời kỳ dựng nước và chống Bắc thuộc có ý nghĩa rất quan trọng và cần thiết trong giai
đoạn hiện nay.
Từ khóa: Quân sự, dựng nước, chống Bắc thuộc, văn hóa quân sự, di sản văn hóa quân sự
Abstract
The Vietnam’s military cultural heritages during the period of the country’s building and fighting
against the Northern invaders is a precious cultural asset of the Vietnamese ethnic community, a part
of the national cultural heritage. During thousands of years with a series up and down of history, the
Vietnam’s military cultural relics have been lost and in the danger of disappearing. Therefore, the
protection and promotion the value of Vietnam’s military cultural heritage associated with the period
of national construction and fighting against Northern invaders is very important and essential in the
current period.
Keyword: Military, national construction, fighting against Northern invaders, military culture,
military cultural heritage

1. Khái niệm về di sản văn hóa quân sự Di sản văn hoá nói chung bao gồm toàn bộ
những yếu tố văn hoá được thế hệ trước, thời

Đ
ể có quan niệm về di sản văn hoá
quân sự, trước hết cần làm rõ quan đại trước sáng tạo ra và lưu truyền trong tiến
niệm về di sản văn hoá. Xét đến trình lịch sử, đồng thời được thế hệ sau tiếp
cùng thì văn hoá và di sản văn hoá là những nhận, làm sống lại và trau dồi, phát triển thêm.
phạm trù đồng chất. Mọi hiện tượng, quá trình Đó là các giá trị văn hoá, chuẩn mực quan hệ
văn hoá khi đạt trình độ phổ quát của hệ chuẩn văn hoá, hoạt động văn hoá, thiết chế văn hoá...
chân - thiện - mỹ luôn có xu hướng tất yếu trở có thể tồn tại dưới dạng thái vật thể hoặc dạng
thành di sản, và ngược lại chỉ trở thành di sản thái phi vật thể. Luật Di sản Văn hóa năm 2001
khi đạt trình độ phổ quát của hệ chuẩn chân khẳng định: “Di sản văn hóa bao gồm di sản văn
- thiện - mỹ. Song, chỉ có những nhân cách văn hóa phi vật thể và di sản văn hóa vật thể, là sản
hoá, hành vi văn hoá, hiện tượng văn hoá, quan phẩm tinh thần, vật chất có giá trị lịch sử, văn
hệ văn hoá, hoạt động văn hoá, thiết chế văn hóa, khoa học, được lưu truyền từ thế hệ này
hoá, đời sống văn hoá… hàm chứa giá trị bền qua thế hệ khác”. Từ khái niệm trên, có thể tiếp
vững, tỏ rõ sức sống, được trau truyền, tích cận khái niệm Di sản văn hoá quân sự ở hai góc
hợp, phát huy lâu bền mới thực sự trở thành độ: Thứ nhất, di sản văn hoá quân sự là bộ phận
văn hoá theo ý nghĩa tổng hoà trình độ phát của di sản văn hoá; Thứ hai, di sản văn hoá quân
triển nhân tính trong lịch sử. Và đó chính là di sự là tổng thể sự tích hợp, phong hoá, trao
sản văn hoá. truyền, toả sáng… bản thân
lĩnh vực tổ chức, hoạt động quân sự của cộng giao thông đường thuỷ, thuận tiện cho giao lưu,
đồng, dân tộc… xét về phương diện giá trị văn trao đổi sản vật giữa các vùng của đất nước cũng
hoá. Từ phân tích trên, có thể hiểu di sản văn như với các nước khác, đồng thời tiện cho việc
hoá quân sự Việt Nam là những sản phẩm vật cơ động lực lượng, vận chuyển lương thực, phát
chất và tinh thần được hình thành qua các huy thế mạnh của thuỷ chiến khi đất nước có
hoạt động quân sự, gắn với lịch sử dựng nước chiến tranh. Yếu tố nước chi phối nền văn hoá
và giữ nước của dân tộc Việt Nam có giá trị lịch Việt, bởi vùng cư trú của người Việt cổ có trên
sử, văn hoá, khoa học quân sự được lưu truyền 50% diện tích là sông hồ, cùng với tính chất bán
từ thế hệ này qua thế hệ khác. đảo (chiếm trọn phần phía Đông của bán đảo
Lịch sử dựng nước đi liền với giữ nước đã Đông Dương). Đặc tính nền văn hoá lúa nước với
để lại cho dân tộc Việt Nam kho tàng di sản triết lý nước góp phần tạo nên tư tưởng chiến
văn hoá quân sự phong phú. Cũng như di sản tranh linh hoạt, mềm dẻo của người Việt. Địa lý
văn hoá nói chung, di sản văn hoá quân sự Việt tự nhiên, môi trường sinh thái, không gian sinh
Nam được tích hợp từ những giá trị văn hoá tồn của người Việt gồm vùng núi, vùng đồng
quân sự tiêu biểu, hình thành và phát triển bằng và các vùng nước nối liền và gắn kết với
trên cơ sở những nhân tố nền gốc về tiền đề nhau là những yếu tố quan trọng hình thành nên
địa lý tự nhiên, bối cảnh kinh tế - xã hội và tâm
các ngành, nghề kinh tế đa dạng cùng nền văn
thức văn hoá đặc trưng của người Việt. Chính
hoá phong phú, trong đó có những nét đặc sắc
những đặc điểm thực tiễn của lịch sử dân tộc
liên quan đến hoạt động quân sự như tài bơi
đã tích hợp nên những đặc trưng của di sản
văn hoá quân sự Việt Nam. Cấu trúc của di sản lặn, giỏi dùng thuyền trong thuỷ chiến, đánh mai
văn hoá quân sự Việt Nam bao gồm di sản vật phục, đánh gần...
thể và di sản phi vật thể được trầm tích tự Trải qua hàng nghìn năm, tổ tiên ta đã từng
nhiên và được trau truyền chính thống. bước tiến vào xã hội văn minh, định hình quốc
2. Di sản văn hóa quân sự Việt Nam thời Mở gia, dân tộc, xây dựng nền văn hiến, với nhà
nước và chống Bắc thuộc nước sơ khai đầu tiên - nhà nước Văn Lang. Về
Nước ta có vị trí địa lý quan trọng ở vùng dân số nước ta thời Văn Lang, theo sách Tiền
Đông Nam Á, nằm trên ngã tư các đường giao Hán thư, ước đoán, có thể đã có khoảng một
thông Bắc - Nam - Đông - Tây, giữa đại lục và triệu người. Trong buổi đầu ấy, tổ chức nhà
hải đảo. Đây là điều kiện thuận lợi để người Việt nước đã xuất hiện, nhưng còn sơ khai - Bộ
giao lưu, tiếp xúc với các quốc gia khác, nhưng máy hành chính với hệ thống quan chức chỉ
đồng thời phải sớm đương đầu với nhiều mối được ghi chép sơ sài trong thư tịch và lưu ảnh
đe doạ từ bên ngoài. Về lãnh thổ, bờ cõi nước trong ký ức dân gian - qua truyền thuyết. Ở các
ta trong thời kỳ này đã trải dài và khá rộng. Từ bộ (địa phương) có Lạc Tướng đứng đầu, cha
Hà Giang và các vùng phụ cận ở phía Bắc vào truyền con nối, gọi là phụ đạo. Bộ máy chính
đến dãy Hoành Sơn ở phía Nam; từ vùng rừng quyền trung ương do Hùng Vương đứng đầu,
núi phía Tây qua miền trung du và đồng bằng với các Lạc Hầu là người giúp việc, cùng đội
các châu thổ sông Hồng, sông Mã, sông Lam... thân binh làm nhiệm vụ bảo vệ và dần hình
ra biển Đông. Trung tâm của đất nước chuyển thành một lực lượng vũ trang thường trực.
dần và ngày càng mở rộng về vùng đồng bằng, Năm 208 trước Công nguyên, nhà nước Âu
nhưng vẫn tựa lưng vững chắc vào vùng rừng Lạc được thành lập. Đây là kết quả của “liên
núi, nơi có thế thiên hiểm và chứa đựng minh” chống quân xâm lược nhà Tần giữa bộ
nguồn tài nguyên phong phú, đa dạng. Đồng lạc Âu Việt của Thục Phán và nước Văn Lang
thời, ngay từ thời lập quốc, đất nước ta đã có của Hùng Vương. Nước Âu Lạc chỉ tồn tại trong
một không gian nước bao la với bờ biển dài, một thời gian ngắn (từ năm 208 - 179 trước
nhiều đảo và quần đảo giàu hải sản quý hiếm, Công nguyên), cơ bản kế thừa nền tảng kinh
đặc biệt là ngọc trai, đồi mồi… mà giới quý tộc tế, xã hội, chính trị… của nhà nước Văn Lang.
phương Bắc ham chuộng. Ở nội địa, mạng Trước kẻ thù đông và mạnh hơn gấp nhiều lần,
sông ngòi chằng chịt không chỉ bồi đắp phù sa nhà nước Âu Lạc đã quan tâm đặc biệt đến việc
màu mỡ cho vùng đồng bằng, thuận lợi cho phát triển lực lượng quân sự, mà theo Đào Duy
phát triển nông nghiệp mà còn tạo ra hệ thống Anh, “sự thành lập nước Âu Lạc là một sự kiện
do tổ tiên chúng ta là người Lạc Việt đã xuất sử dụng để sản xuất lương thực, rèn giũa binh
đầu lộ diện trên lịch sử chính là kết quả của khí, huấn luyện quân sĩ, tập kích quân nhà
cuộc kháng chiến bền bỉ của tổ tiên ta chống Lương; cửa sông Bạch Đằng (thị xã Quảng Yên
quân nhà Tần. Nó có ý nghĩa trọng đại đối với - Quảng Ninh), nơi được Ngô Quyền chọn làm
lịch sử nước ta”(1). chiến trường quyết chiến với quân Nam Hán.
Năm 179 trước Công nguyên, Triệu Đà Bên cạnh đó là các di sản văn hóa quân sự
chiếm được Âu Lạc, từ đó, đất nước ta phải phi vật thể thời kỳ dựng nước và chống Bắc
trải qua hơn 1000 năm Bắc thuộc. Các triều thuộc như: truyền thuyết Thánh Dóng, truyền
đại phong kiến phương Bắc từ Triệu, Hán, Ngô, thuyết An Dương Vương xây dựng thành Cổ
Tấn, Tống, Tề, Lương, Trần, Tuỳ, Đường đã thực Loa... Các cuộc khởi nghĩa thời Bắc thuộc còn để
thi nhiều chính sách và mưu đồ nhằm đồng lại cho chúng ta những thông điệp và tư tưởng
hoá dân tộc ta, xoá tên quốc gia của người Việt. quân sự, chiến lược và chiến thuật quân sự,
Tuy nhiên, dựa trên nền tảng vững chắc của như: tư tưởng“đồng khởi” của Hai Bà Trưng,
một cộng đồng quốc gia dân tộc có lãnh thổ “nam nữ bình quyền” của Bà Triệu,“Nam đế cư”
riêng, tiếng nói riêng, nền văn hoá riêng, nhân và kháng chiến trường kỳ của Lý Bí, lối đánh “du
dân ta không chịu khuất phục, liên tục đấu kích” của Triệu Quang Phục, kế vây hãm thành
tranh chống các triều đại phong kiến phương của Phùng Hưng, tinh thần độc lập tự chủ của
Bắc. Tiêu biểu, như khởi nghĩa của Hai Bà Trưng họ Khúc, Dương Đình Nghệ... Di sản văn hóa
chống ách đô hộ nhà Đông Hán năm 40 - 43; quân sự phi vật thể còn được thấy qua một số
khởi nghĩa Bà Triệu chống ách đô hộ nhà Đông lễ hội truyền thống, như hội đền Hùng - khơi dậy
Ngô năm 248; khởi nghĩa Lý Bí chống ách đô tinh thần yêu nước, tinh thần đoàn kết toàn dân
hộ nhà Lương năm 542 - 545; kháng chiến tộc; hội đền Dóng, lễ hội đền Hai Bà Trưng...
chống ách đô hộ nhà Tuỳ của Lý Phật Tử năm 3. Bảo tồn và phát huy di sản văn hóa quân
603; khởi nghĩa Mai Thúc Loan chống ách đô sự Việt Nam thời Mở nước và chống Bắc
hộ của nhà Tùy năm 722; kháng chiến chống thuộc
ách đô hộ của nhà Đường do Phùng Hưng Với đường lối đúng đắn và sáng tạo của
lãnh đạo năm 766 - 791, của Khúc Thừa Dụ Đảng ta, di sản văn hóa Việt Nam nói chung
năm 905; kháng chiến chống quân Nam Hán
và di sản văn hóa quân sự Việt Nam nói riêng
xâm lược giai đoạn 930 - 938...
đã và đang được bảo tồn, phát huy, góp phần
Theo đó, di sản văn hóa quân sự vật thể quan trọng vào những thắng lợi to lớn của
thời kỳ dựng nước và chống Bắc thuộc của dân nhân dân ta trong sự nghiệp đấu tranh giải
tộc đã được định hình qua hàng nghìn năm lao phóng dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội.
động, đấu tranh bền bỉ và sáng tạo của tổ tiên Bởi vậy, bảo tồn, phát huy giá trị của di sản văn
ta, điển hình là các di chỉ có vũ khí, trang bị hóa quân sự, trong đó có di sản văn hóa quân
quân sự, như mũi tên, nỏ, lao, giáo, rìu chiến,
sự thời dựng nước và chống Bắc thuộc trong
dao găm, kiếm ngắn, tấm che ngực, mộc,
sự phát triển toàn diện đất nước, làm cho di
những phương tiện thông tin liên lạc, thuyền
sản văn hóa quân sự tiếp tục tỏa sáng trong
chiến... thuộc các giai đoạn văn hóa Phùng
giao lưu, hội nhập là nhiệm vụ quan trọng, có
Nguyên, Đồng Đậu, Gò Mun, Đông Sơn; các
ý nghĩa khoa học và thực tiễn sâu sắc.
công trình phòng thủ quân sự, như làng Việt,
thành cổ của Kinh Dương Vương (Việt Trì - Phú Ngày nay, việc đẩy mạnh công nghiệp hóa,
Thọ); thành Cổ Loa (Đông Anh - Hà Nội)...; các hiện đại hóa đất nước, thực hiện hai nhiệm vụ
di tích chiến trường, dấu tích chiến công, như chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc vì “dân
căn cứ Cấm Khê, thuộc dãy núi Ba Vì trong khởi giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
nghĩa của Hai Bà Trưng; căn cứ núi Nưa, thuộc minh” là sự nghiệp xây dựng và sáng tạo to lớn
miền núi Nưa, huyện Triệu Sơn, Thanh Hóa, của nhân dân ta, đồng thời là một quá trình cải
nơi Triệu Thị Trinh và anh trai là Triệu Quốc Đạt biến xã hội sâu sắc, đòi hỏi phải phát huy cao
dấy binh khởi nghĩa; đầm Dạ Trạch ở huyện độ khả năng và trí tuệ của mỗi con người Việt
Chu Diên (tức bãi Màn Trò, Khoái Châu, Hưng Nam. Bên cạnh đó, những thành tựu của cách
Yên) - căn cứ quân sự được Triệu Quang Phục
mạng khoa học - công nghệ thế giới, cùng với Công tác bảo tồn và trùng tu các di sản văn
việc mở rộng giao lưu quốc tế là cơ hội để hóa quân sự thời dựng nước và chống Bắc
chúng ta tiếp thu những thành quả trí tuệ của thuộc cần đảm bảo tính nguyên gốc và tính
nhân loại, đồng thời, cũng đặt ra những thách chân thực lịch sử của di sản, đó là cần làm rõ
thức mới trong việc giữ gìn bản sắc văn hóa lịch sử hình thành, ý nghĩa của di sản, phải bảo
dân tộc. Cơ chế thị trường và sự hội nhập quốc đảm sự an toàn, phát triển lâu dài cho di sản
tế, bên cạnh những tác động tích cực, cũng đã văn hóa và khi cần đến phải đảm bảo việc giới
bộc lộ mặt trái của nó, ảnh hưởng tiêu cực đến thiệu, trưng bày, phục dựng và tôn tạo. Tăng
việc bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa cường việc ứng dụng những thành tựu khoa
quân sự dân tộc. Mặt khác, các thế lực thù địch học kỹ thuật hiện đại trong việc bảo tồn di sản
cũng luôn ráo riết chống phá ta trên mặt trận góp phần chống xuống cấp và bảo vệ lâu dài
tư tưởng văn hóa, nhằm chia rẽ khối đại đoàn cho di sản văn hóa quân sự thời dựng nước và
kết dân tộc... Trong khi đất nước ta còn nghèo, chống Bắc thuộc là rất cần thiết, bởi những di
nhu cầu văn hóa của nhân dân rất lớn nhưng sản đó đã có cách đây hàng nghìn năm rất dễ
khả năng đáp ứng còn hạn chế do thiếu những bị hư hại trong điều kiện khí hậu nóng ẩm,
điều kiện và phương tiện vật chất cần thiết. đồng thời cũng cần áp dụng các biện pháp
Một điều đáng quan tâm là những di sản khoa học, các phương tiện hiện đại trong
văn hóa quân sự gắn với thời kỳ dựng nước và trưng bày phát huy giá trị các di sản.
chống Bắc thuộc cách đây hàng ngàn năm, ở Phát huy di sản văn hóa quân sự Việt Nam
một đất nước đã trải qua biết bao biến cố, nhất thời mở nước và chống Bắc thuộc có hiệu quả,
là chiến tranh, lại thường xuyên phải chống thu hút được sự quan tâm của công chúng với
lại chính sách thôn tính, đồng hóa thâm độc di sản đó là cần khai thác những tinh hoa của
của các thế lực phong kiến phương Bắc, rất cộng đồng các dân tộc Việt Nam được vun đắp
dễ bị mai một và luôn tiềm ẩn nguy cơ biến nên qua lịch sử ngàn năm đấu tranh giữ nước
mất nhanh chóng. Vì thế, việc bảo vệ và phát gắn liền với dựng nước. Những giá trị tiêu biểu
huy giá trị hệ thống di sản văn hoá quân sự như lòng yêu nước nồng nàn, ý chí tự cường
dân tộc, tinh thần đoàn kết, cả nước một lòng,
Việt Nam gắn với thời kỳ dựng nước và chống
toàn dân đánh giặc, nghệ thuật quân sự “lấy
Bắc thuộc có ý nghĩa rất quan trọng. Đó cũng
ít địch nhiều, lấy yếu chống mạnh”, “lấy đoản
chính là việc bảo vệ và phát huy một tài sản
binh thắng trường trận”, là tinh thần nhân đạo,
văn hóa quý giá của cộng đồng các dân tộc
nhân văn, hòa hiếu, là phương lược giữ nước
Việt Nam, một bộ phận của di sản văn hoá dân từ lúc nước chưa nguy, là nghệ thuật dựng
tộc và di sản văn hóa quân sự của nhân loại - binh và dụng binh độc đáo…
cội nguồn, nền tảng tạo nên hệ giá trị của văn
Quần chúng nhân dân là người làm nên lịch
hóa quân sự Việt Nam hôm nay và mai sau.
sử và cũng là người sáng tạo ra văn hóa, bảo tồn
Để bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn và phát huy giá trị di sản văn hoá quân sự thời
hóa quân sự Việt Nam gắn với thời kỳ dựng mở nước và chống Bắc thuộc là sự nghiệp của
nước và chống Bắc thuộc trong giai đoạn hiện toàn dân do Đảng lãnh đạo, trong đó đội ngũ trí
nay, trước hết chúng ta cần quán triệt sâu sắc thức giữ vai trò quan trọng. Do đó, vấn đề then
những quan điểm cơ bản của Đảng về xây chốt trong bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn
dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc hoá quân sự là phải đổi mới và nâng cao nhận
dân tộc, văn hóa là nền tảng tinh thần của xã thức, xem cơ sở là địa bàn chiến lư¬ợc gắn với
hội, là mục tiêu, động lực phát triển bền vững cộng đồng dân cư, là môi trường sống, nơi sinh
đất nước, văn hóa phải được đặt ngang hàng ra và đồng thời là nơi lưu giữ, trao truyền và
với kinh tế, chính trị, xã hội. Tăng cường vai phát huy những giá trị văn hóa quân sự. Vì vậy,
trò quản lý của nhà nước trong việc xây dựng phải đẩy mạnh công tác tuyên truyền giáo dục ý
và thực hiện chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, thức tự giác của người dân trong việc bảo tồn
chính sách bảo tồn và phát huy di sản văn hóa. và phát huy di sản văn hóa
quân sự thời kỳ mở nước và chống Bắc thuộc, lợi. Xây dựng các quy chế, quy định về lễ hội,
khơi dậy lòng tự hào đối với di sản văn hóa việc cúng bái ở các đền chùa, việc đốt vàng mã,
quân sự là công việc có ý nghĩa quan trọng để việc giữ gìn trật tự vệ sinh nơi công cộng, v.v...
hướng người dân chủ động tìm tòi, sưu tầm và Khuyến khích nhân dân các xã, phường, thôn
bảo tồn các loại hình di sản văn hóa quân sự ấp, cụm dân cư xây dựng các quy ước về nếp
này. Cùng với việc phổ biến các quy định, cần sống văn hóa, giữ gìn trật tự vệ sinh công cộng,
thiết phải giải thích và cụ thể hóa, thể chế hóa bảo vệ các di sản văn hóa.
các quy định chung, các văn bản hướng dẫn Di sản văn hóa quân sự Việt Nam thời dựng
phải rõ ràng, ngắn gọn, dễ hiểu để mọi người nước và chống Bắc thuộc là một bộ phận quan
dân dễ dàng tiếp thu và tự giác chấp hành. trọng của Di sản văn hóa Việt Nam và của di
Ngoài ra, cần phải làm rõ và gắn lợi ích của sản văn hóa quân sự nhân loại. Do đó, bảo vệ
người dân khi tham gia các hoạt động bảo tồn. và phát huy giá trị di sản văn hóa quân sự Việt
Đây cũng là cách thức thu hút đông đảo người Nam thời dựng nước và chống Bắc thuộc
dân tham gia lưu giữ di sản văn hóa quân sự. không chỉ có giá trị về lĩnh vực văn hóa, khoa
Phát huy vai trò của quần chúng nhân dân học, kinh tế mà còn có giá trị thực tiễn trong
phải thực hiện tốt chính sách xã hội hóa hoạt công tác bảo vệ Tổ quốc hiện nay.
động bảo tồn và phát huy di sản văn hóa quân N.T.D
sự thời kỳ mở nước và chống Bắc thuộc, nhằm
(ThS, Bảo tàng Lịch sử Quân sự Việt Nam)
động viên sức người, sức của của các tầng lớp
nhân dân, các tổ chức xã hội. Chính sách này
Tài liệu tham khảo
được tiến hành đồng thời với việc nâng cao vai
trò và trách nhiệm của nhà nước. Các cơ quan 1. Đào Duy Anh (1956), Lịch sử Việt Nam,
chủ quản về văn hóa của Nhà nước phải làm quyển thượng, Hà Nội.
tốt chức năng quản lý và hướng dẫn nghiệp 2. Đào Duy Anh (1998), Việt Nam văn hoá sử
vụ đối với các hoạt động xã hội về văn hóa. cương, Nxb. Văn hoá - Thông tin, Hà Nội, .
Cần ban hành và thực hiện nghiêm cơ chế và
chính sách phát huy nội lực của nhân dân; tạo 3. Lê Văn Quang, Văn Đức Thanh (2002), Văn
được phong trào quần chúng mạnh mẽ tham hoá quân sự Việt Nam, Nxb. Quân đội nhân dân,
gia bảo tồn di sản văn hóa quân sự, coi trọng Hà Nội.
bồi dưỡng, giáo dục và phát huy khả năng của 4. Nguyễn Văn Tài (tổng chủ biên) (2010), Sự
tuổi trẻ là lực lượng chính, là đối tượng chủ yếu nghiệp bảo vệ, giải phóng Thăng Long - Hà Nội,
của hoạt động này. Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Củng cố, hoàn thiện thể chế văn hóa ở cơ sở, 5. Nguyễn Văn Tài - Văn Đức Thanh (2010),
bảo đảm tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng,
Lược khảo danh nhân quân sự trong sự nghiệp bảo
sự quản lý có hiệu quả của Nhà nước, vai trò làm
vệ, giải phóng Thăng Long - Hà Nội, Nxb. Chính trị
chủ của nhân dân và lực lượng những người làm
công tác bảo tồn các di sản văn hóa quân sự. Quốc gia, Hà Nội.
Nâng cao chất lượng hoạt động của các thiết 6. Văn Đức Thanh (2001), Quán triệt và vận
chế văn hóa hiện có, thực hiện phương dụng quan điểm của Đảng về “bảo tồn và phát huy
trâm“Nhà nước và nhân dân cùng làm văn hóa”, các di sản văn hoá dân tộc”, Tạp chí Khoa học xã
hình thành các hình thức sáng tạo và hội, số 6.

tham gia hoạt động văn hóa của các tập thể,
cá nhân trong khuôn khổ luật pháp và chính Ngày nhận bài: 2 - 3 - 2017
sách. Khuyến khích các hình thức bảo trợ văn Ngày phản biện, đánh giá: 15 - 3 - 2017
hóa. Nghiêm trị những hành động xâm phạm
các di sản văn hóa, ngăn chặn và đẩy lùi các Ngày chấp nhận đăng: 25 - 3 - 2017
hoạt động phản văn hóa, làm biến dạng các
di sản văn hóa, lợi dụng di sản văn hóa để trục

You might also like