You are on page 1of 14

1 KHÁI NIỆM:

1.1. DÂN TỘC.


Dân tộc được hiểu theo hai nghĩa:

- Nghĩa hẹp : Dân tộc chỉ một cộng đồng người có mối liên hệ chặt chẽ và bền
vững, có chung sinh hoạt kinh tế, có ngôn ngữ riêng, có những nét đặc thù về văn
hoá; xuất hiện sau bộ lạc, bộ tộc; kế thừa phát triển cao hơn những nhân tố tộc
người ở bộ lạc, bộ tộc và thể hiện ý thức tự giác tộc người của dân cư cộng đồng
đó.
=>Theo nghĩa này dân tộc là một bộ phận của quốc gia, là dân tộc - tộc
người.
-Nghĩa rộng: Dân tộc chỉ một cộng đồng người ổn định làm thành nhân dân một
nước, có lãnh thổ quốc gia, nền kinh tế thống nhất, quốc ngữ chung và có ý thức về
sự thống nhất của mình, gắn bó với nhau bởi quyền lợi chính trị, kinh tế, truyền
thống văn hoá và truyền thống đấu tranh chung trong suốt quá trình lịch sử lâu dài
dựng nước và giữ nước.
=>Theo nghĩa này dân tộc là dân cư của một quốc gia nhất định, là quốc
gia - dân tộc.
Thuật ngữ ” dân tộc “dành để gọi các dân tộc theo nghĩa chung-“ nation”, từ
chiếm hữu nô lệ, phong kiến, TBCN hay XHCN, hoặc dùng để chỉ một quốc gia
dân tộc. Theo Lênin, dân tộc dùng để chỉ một cộng đồng xuất hiện cùng với sự ra
đời của chủ nghĩa tư bản, quá trình này thể hiện rõ nét ở các dân tộc Tây Âu- dân
tộc là sản vật và hình thức tất nhiên của thời đại tư sản trong quá trình phát triển
của xã hội.
Trong một quốc gia có thể có một hoặc nhiều dân tộc. Dân tộc là một phạm
trù lịch sử, một phạm trù xã hội. Dân tộc là hình thức chín muồi cao nhất của sự
phát triển các cộng đồng dân tộc. Dân tộc là kết quả của sự vận động lịch sử xã hội
của các cộng đồng người, tiếp theo là quá trình liên kết quốc tế theo một trật tự xã
hội cao hơn. Dân tộc là cộng đồng người hình thành trong lịch sử, nảy sinh trên cơ
sở cộng đồng về kinh tế, ngôn ngữ, lãnh thổ, phong tục và tâm lý, thể hiện ở cộng
đồng văn hoá. Dân tộc được xem như cộng đồng xã hội - tộc người. Dân tộc là sự
thống nhất biện chứng của các nhân tố kinh tế, xã hội, chính trị, tư tưởng và tộc
ngưòi. Nhân tố tộc người in đậm dấu ấn trong các nhân tố tạo thành dân tộc. Nhân
tố tộc người trong dân tộc chủ yếu được biểu hiện trong các lĩnh vực ngôn ngữ,
văn hoá, truyền thống, lịch sử, phong tục tập quán, thói quen, ý thức tâm lý, tình
cảm, vv...của dân tộc. Dù nhân tố tộc người có bị nhân tố kinh tế, xã hội qui định,
nhưng nó vẫn có tính độc lập tương đối và khả năng bền vững đặc biệt.
Do những đặc điểm, hoàn cảnh lịch sử cụ thể khác nhau, nên mỗi dân tộc có
những đặc điểm hình thành khác nhau, thể hiện một cách da dạng, sinh động qui
luật phát triển của lịch sử
1.2. LÃNH THỔ QUỐC GIA
Lãnh thổ quốc gia xuất hiện cùng với sự ra đời của nhà nước. Ban đầu lãnh
thổ quốc gia chỉ được xác định trên đất liền dần dần mở rộng ra trên biển , trên trời
và trong lòng đất.
Lãnh thổ quốc gia: Là một phần của trái đất. Bao gồm: vùng đất, vùng nước,
vùng trời trên vùng đất và vùng nước, cũng như lòng đất dưới chúng thuộc chủ
quyền hoàn toàn và riêng biệt của một quốc gia nhất định.
Một quốc gia có thể có nhiều lãnh thổ với đặc trưng địa lý hoặc chủng tộc
khác nhau, chỉ tùy thuộc vào quốc gia mẹ về phương diện ngoại giao, quốc phòng ,
kinh tế đối ngoại, và trên một vài lãnh vực linh động khác. Lãnh thổ thường có một
nền văn hóa riêng, cơ cấu xã hội riêng, luật pháp riêng phù hợp với bối cảnh và tập
quán nơi đó. Lãnh thổ duy trì một mức độ tự trị nào đó cho riêng mình. Ví dụ
Scotland tuy thuộc nước Anh nhưng trong một số cuộc thi đấu thể thao quốc tế, họ
có đội vận động viên riêng của mình, nhiều khi là chính đối thủ của England, một
lãnh thổ khác của nước Anh. Hongkong là một ví dụ khác, đây là một lãnh thổ của
Trung Quốc nhưng có chế độ riêng, Khi giao dịch thương mại với Hongkong
không cần phải theo hạn ngạch hoặc quyền tài phán của Trung Quốc, không cần
xét đến tỷ giá của Nhân Dân tệ

1.3. QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH CỦA DÂN TỘC VÀ LÃNH THỔ
QUÓC GIA.

Thị Tộc Bộ Lạc Bộ Tộc DÂN TỘC


Ở Phương Tây dân tộc hình thành trên cơ sở một bộ tộc hay một số bộ tộc
liên kết cùng sống trên một vùng lãnh thổ, nó hình thành, gắn bó với sự xác lập của
phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa.
Ở Phương Đông dân tộc hình thành sớm hơn trước Tư bản Chủ Nghĩa, do
nhiều nhân tố thúc đẩy trước quá trình dựng nước và giữ nước.
Đối với một tộc người, cần phải nói không một tộc người ban đầu nào cư trú
trên một lãnh thổ nhất định. Chính trên cơ sở đó, họ mới tạo ra được những đặc
trưng mang tính tộc người rất riêng biệt, nhờ thái độ ứng xử với môi trường tự
nhiên để khai thác sử dụng các tài nguyên, cũng như cùng nhau xây dựng những
thiết chế gia đình, xã hội, những đặc trưng văn hóa, lễ nghi, thờ cúng v.v…Tiếp
sau, lãnh thổ tộc người hoặc được mở rộng hoặc bị thu hẹp, quan hệ giữa các tộc
người xung quanh cũng thay đổi ngày chặt chẽ hơn theo hai hướng bạn thù. Hình
thành các liên minh tộc người, các cuộc hôn nhân khác tộc, sự vay mượn văn
hóa,học tập kĩ thuật sản xuất, tiến đến sự cộng cư trên một lãnh thổ, hay đúng hơn
là các cộng đồng lãnh thổ tộc người đan xen vào nhau trên một khu vực nhất định.
Đối với các tộc người lớn, với xu thế mở rộng không gian xã hội ra phạm vi
toàn thế giới, từng bộ phận thiên di sang các miền đất mới, chinh phục hoặc chung
sống với các tộc người bản địa, có trường hợp hình thành các quốc gia dân tộc mới.
Những cộng đồng ngôn ngữ Anh, Pháp, Nga… đã hình thành như những bộ phận
của tộc người chủ thể tại các nước. Sau hai cuộc chiến tranh, mới cách đây gần 30
năm, người Việt đã có những cộng đồng đồng tộc khá đông ở các nước Mỹ, Pháp,
Nga, Australia v.v… Người Ả rập, người vùng Balkan, người Armenia, người Ba
Lan, người Nga, người Hán v.v… cũng vậy.
Các tộc người nhỏ đã hình thành những cộng đồng ở các nước khác nhau
nguyên nhân chủ yếu là do chiến tranh, do đi tìm đường sống như những người Ả
rập, đặc biệt người Palestin, Afghanistan, vùng Balkan, Trung Á, Đông Nam
Á(Lào, Khơme) v.v… Người Tsưgan vẵn lang thang tại khắp các nước. Người Do
Thái đã thành lập nhà nước Israel(14-7-1948), nhưng đa số vẫn cư trú ở các nước
khác nhau, ở Mỹ, Liên Bang Nga, các nước Tây Au v.v… Trong từng nước, các tộc
người cũng không ở trong lãnh thổ riêng của mình, tỏa ra sống trong các thành thị,
thị trấn, các tỉnh khác nhau. Tình hình này thấy rõ rệt ở Việt Nam, nhất là sau ngày
thực hiện công cuộc đổi mới. Hàng chục vạn người dân miền núi phía Bắc đã vào
lập nghiệp trong các tỉnh Tây Nguyên, đặc biệt tỉnh Đắc Lắc và Lâm Đồng, hàng
chục vạn người khác tỏa ra các thành thị, thị trấn, các tỉnh đồng bằng. Ngược lại
hàng triệu người đồng bằng lên miền núi lập nghiệp.
Một quốc gia dân tộc bao gồm một tộc người hay nhiều tộc người cũng phải
được xây dựng trên một lãnh thổ nhất định , được cai quản bởi một nhà nước.Một
khi quốc gia dân tộc phát triển , thì ngược lại , lãnh thổ của các tộc người cư trú ở
đó lại mất đi sự bền vững của nó. Nếu thuở ban đầu, một hay hai ba tộc người đông
về dân số,phát triền kinh tế – văn hóa , tập hợp xung quanh mình các tộc người tạo
lập nên một nhà nước, quy định một lãnh thổ quốc gia nhất định, chưa có sức chi
phối các tộc người cùng cư trú, lãnh thổ tộc người còn được tôn trọng. Về sau, khi
nhà nước trung ương vững mạnh, tính thống nhất quốc gia được củng cố, thành
viên các tộc người trong một quốc gia được tự do di chuyển, thì lãnh thổ các tộc
người cũng không còn nguyên vẹn. Nguyên nhân rất phức tạp, tùy theo những thời
kỳ lịch sử khác nhau của tình hình từng khu vực, từng nước cụ thể.

Trong thời kỳ tiền công nghiệp, sự mở rộng bành trướng lãnh thổ của những
tộc người mạnh trong khu vực đã dồn các tộc người yếu ở những vùng ngoại vi,
những quốc gia yếu vào những chỗ không ổn định. Ở phía Nam sông Dương Tử và
vùng lục địa Đông Nam Á, dưới sự bành trướng của tộc người Hán, lãnh thổ tộc
người của các cư dạn xưa gọi là Man, là Bách Việt, tổ tiên của các dân tộc người
nói ngôn ngữ Tãng – Miến, Nam – Á và Nam – Thái bị đảo lộn. Một bộ phận trụ
lại, cam chịu sống trong những lĩnh thổ đã bị thu hẹp, lại luôn biến động bởi các
cuộc chiến tranh giữa các tộc người với nhau, tranh giành đất đai ở những miền
hiếm đất, sống xen kẽ hoặc độc lập trên một lãnh thổ. Một bộ phận đông hơn di cư
xuống các nước Đông Nam Á lục địa, làm thay đổi bộ mặt của các nước quốc gia
dân tộc và các tộc người ở đó, để hình thành các cộng đồng người, quốc gia dân
tộc hay tộc người, như hiện nay. Nên ta thấy ở những nước, đặc biệt là ở miền núi,
lãnh thổ các tộc người thường không liền đất trên một khu vực có nhiều tộc người
sinh sống.
Sang đến thời kì công nghiệp, tình hình mở rộng, bành trướng lãnh thổ
không dừng ở trong một khu vực, mà mang tính toàn cầu. Các tộc người mạnh của
những cường quốc châu Âu đi tìm đất, chiếm thị trường, truyền đạo, dẫn đến sự
đảo lộn đáng sợ trong phạm vi toàn cầu. Những tộc người châu Âu lập ra các quốc
gia dân tộc mới trên cơ sở những trung tâm công nghiệp : Mỹ, Australia, Canada,
New Zealand, Nam Phi v.v…,thay đổi đường biên giới các quốc gia theo ý mình,
như ở châu Phi,châu Mỹ, phần nào ở châu Á, thay đổi thành phần dân tộc ngưòi
trong một quốc gia, tạo nên các giống người lai (Trung Nam Mỹ), xé nát các tộc
người bản địa, đẩy họ vào cá khu vực tập trung hoang dại, tiêu diệt không thương
tiếc những thổ dân, điển hình là người Tasmania(Australia)và những người bản địa
châu Mỹ, châu Australia. Trong thời gian này, nước Nga Sa Hoàng cũng bành
trướng ra những vùng xung quanh, phía bắc xuống vùng biển Trắng và biển Baren,
phía Nam đến vùng Caucasia, phía đông tiến mạnh qua dãy núi Uran tới vùng
Siberia, đến tận mũi Bering và Xakhalin.
Hiện nay, bản đồ các quốc gia dân tộc là tương đối ổn định, ngoại trừ một số
vùng còn có một số điểm nóng bỏng những vùng châu Phi,vùng Balkan, Caucasia,
Trung Á, Nam Á v.v…Nên ta có thể nói rằng lãnh thổ các quốc gia dân tộc với một
đường biên giới đã được xác định, đã được Liên Hiệp Quốc công nhận chiếm số
đông; số còn lại phải chăng có sự điều chỉnh với sự thỏa hiệp giữa các quốc gia dân
tộc liền kề. Nên tiêu chuẩn có một lãnh thổ với một nhà nước cho một quốc gia dân
tộc là điều không còn phải bàn cãi.
Cũng cần nói thêm lãnh thổ quốc gia dân tộc, với đường biên giới của mình,
thay đổi cùng với sự mở rộng hay thu hẹp lãnh thổ, gắn liền với số phận lãnh thổ
các tộc người của một quốc gia,một nhà nước. Nó không có quan hệ gì với biên
giới tộc người, nhiều khi cắt ngang qua các lãnh thổ tộc người. Bọn thực dân lợi
dụng tính ngẫu nhiên này, đã cố ý xác định biên giới các nước thuộc địa của chúng
trong thời kỳ thực dân, tạo ra các đường biên giới quốc gia dân tộc, không dựng
trên tính lịch sử, cắt ngang trên lãnh thổ tộc người một cách giả tạo. Sau khi các
quốc gia dân tộc kiểu đó, đặc biệt là ở châu Phi, lác đác ở các châu khác,được độc
lập,những mâu thuẫn giữa các tộc người nảy nở. Bọn chúng lại đục nước béo có,
xui nguyên dục bị, gây ra những cuộc chiến tranh giữa các tộc người trong một
quốc gia hay giữa hai quốc gia nhằm buộc các quốc gia non trẻ này lệ thuộc vào
chúng, dễ bề để chúng bóc lột.

Như vậy, ta có thể kết luận, tiêu chí lãnh thổ là tiêu chí bắt buộc đối với
một dân tộc, với một nhà nước, không nhất thiết đối với một tộc người.

2. DÂN TỘC VÀ LÃNH THỔ QUỐC GIA TỪ THỜI CỔ ĐẠI ĐẾN NAY.

2.1. VẤN ĐỀ CỦA DÂN TỘC.


Vấn đề dân tộc ở Trung Quốc.

Trung Quốc một quốc gia có nhiều dân tộc, ngoài dân tộc Hán có số nhân
khẩu đông nhất, hiện nay còn có 55 dân tộc thiểu số. Nhân khẩu của các dân tộc
thiểu số chiếm khoảng 6% tổng số nhân khẩu toàn quốc, tức là khoảng 60 triệu
người.

Tất cả 55 dân tộc thiểu số đều là thành viên trong đại gia đình dân tộc Trung
Hoa, họ cùng với những người anh em dân tộc Hán sử dụng sức lao động cần cù,
tinh thần dũng cảm và trí tuệ của mình, phát triển nền kinh tế của Tổ quốc, tạo nên
nền văn hóa lịch sử chung của Trung Hoa.

Trung Quốc trong lịch sử tự cho là một nước trung tâm có vùng ảnh hưởng
bao la: một nền văn minh Trung Hoa gồm Triều Tiên, Việt Nam, quần đảo Ryukyu
và có lúc là Nhật Bản; một vùng “Nội Á” gồm các dân tộc Mãn Châu không phải
người Hán, Mông Cổ, Duy Ngô Nhĩ, và Tây Tạng, những dân tộc cần phải được
kiểm soát vì các lý do an ninh; và một vùng “Ngoại Á” gồm các dân tộc “man di”,
tuy nhiên là những dân tộc sẽ “tôn kính và thừa nhận quyền lực tối cao của hoàng
để Trung Hoa”. Nền văn minh Trung Hoa đương đại cũng được hình thành với một
cấu trúc tương tự: hạt nhân bên trong Trung Quốc của người Hán, các tỉnh xa hơn
bên ngoài là một phần của Trung Quốc song đã có quyền tự trị đáng kể, các tỉnh về
mặt luật pháp thuộc Trung Quốc song có dân cư không phải người Hán và thuộc
các nền văn minh khác (Tây Tạng, Tân Cương), các xã hội Trung Quốc sẽ hoặc có
thể sẽ trở thành một phần của Trung Quốc với trung tâm là Bắc Kinh trên cơ sở
một số điều kiện đã được xác lập (HongKong, Đài Loan), một nhà nước của người
Hoa ngày càng hướng về Bắc Kinh (Singapore) và số dân chịu ảnh hưởng Trung
Quốc mạnh mẽ sống ở Thái Lan, Malaysia, Indonesia và Philippines và các xã hội
ngoài Trung Quốc song có chung nền văn hóa Khổng Tử với Trung Quốc.
Đến đầu thập kỷ 1990, cả hai nhà nước Trung Hoa đã tiến gần đến nhau hơn,
tuy còn chậm song là điều đương nhiên, và đã phát triển những lợi ích chung của
hai bên thông qua các mối quan hệ kinh tế mở rộng và một bản sắc văn hóa chung.
Trong đó đáng nói nhất là cuộc thảm sát đẫm máu người Duy Ngô Nhĩ ở
Tân Cương .Dân tộc Duy Ngô Nhĩ là dân tộc thiểu số tại Trung Quốc được nhiều
người trên thế giới biết đến nhất. Đây là một trong 3 dân tộc lớn (cùng với người
Kurd và người Tuager) không có quốc gia riêng.

Trên lãnh thổ Trung Quốc hiện nay có hơn 10 triệu người Duy Ngô
Nhĩ, tuyệt đại đa số trong số đó – hơn 8 triệu người, sống trên lãnh thổ lịch sử của
họ với tên gọi chính thức hiện nay là Khu tự trị Tân Cương- Duy Ngô Nhĩ.

Quân đội của Nhà Thanh đã sát hại gần 90% người Dzungarsk (người Mông
Cổ ở phía Tây), những người sống sót chạy về phía Tây đến tận sông Volga và trở
thành dân tộc Kalmức hiện nay tại Nga (sống trong nước Cộng hòa tự trị
Kalmưkia).

Đến đầu thế kỷ thứ XIX, nhà Thanh chiếm toàn bộ Tân Cương, toàn bộ
Kyrgyzstan và một phần phía nam của Kazakhstan cho đến tận hồ
Balkhash.
Trên thực tế, chính quyền Trung Quốc hiện nay vẫn tiếp tục thực hiện các
chính sách mà nhà Hán đã từng tiến hành tại khu vực này – sự trùng hợp còn làm
người ta liên tưởng đến một điều - Trung Quốc ngày nay và nhà Hán trước kia đều
do 2 người có nguồn gốc nông dân lập ra – Mao Trạch Đông và Lưu Bang.

Sau khi những người Mãn Châu (Nhà Thanh) đánh bại vương triều
Dzungarsk vào thế kỷ XVIII như đã nói ở trên và thành lập tỉnh Tân Cương – thì
nơi này luôn là khu vực bất ổn nhất trong lãnh thổ “Thiên triều”. Người Duy Ngô
Nhĩ thường xuyên nổi dậy chống lại sự đô hộ của chính quyền trung ương Bắc
Kinh.

Để bình định tỉnh mới cứng đầu này, chính quyền Bắc Kinh đã bố trí tại đây
các đồn binh gồm người Trung Quốc (người Hán) và Mãn Châu, khuyến khích di
dân từ các tỉnh miền trung Trung Hoa đến Tân Cương. Nhà Thanh cũng xây dựng
các khu dân cư quân sự đặc biệt gồm toàn những cư dân được đưa từ Vùng Viễn
Đông và Trung Á đến khu vực này.

2.2. TÁC ĐỘNG CỦA DÂN TỘC ĐẾN DIỄN TRÌNH PHÁT TRIỄN
CỦA QUỐC GIA.
Dân tộc gắn liền với chủ quyền lãnh thổ:
Độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ là quyền thiêng liêng,
bất khả xâm phạm của mọi quốc gia dân tộc, những thành tố hữu cơ không thể tách
rời, tạo nên quyền dân tộc cơ bản của mọi quốc gia. Bảo vệ vững chắc độc lập, chủ
quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc là nhiệm vụ quan trọng nhất
của đất nước, nghĩa vụ cao cả của mọi người dân.
Dân tộc gắn liền với chính trị:
Chính trị là một lĩnh vực hoạt động rộng lớn và hết sức quan trọng, nó quyết
định vận mệnh của đất nước , sự phát triển của xã hội và con người.
Chính trị là một hoạt động trong lĩnh lực quan hệ giữa các giai cấp cũng như các
dân tộc và các quốc gia với vấn đề giành, giữ, tổ chức và sử dụng quyền lực nhà
nước; là sự tham gia của nhân dân vào công việc của nhà nước và xã hội.
Dân tộc gắn liền với quyền bình đẳng:
Quyền bình đẳng giữa các dân tộc được hiểu là các dân tộc trong một quốc
gia không phân biệt đa số hay tiểu số, trình độ văn hóa cao hay thấp, không phân
biệt chủng, màu da…đều được nhà nước và pháp luật tôn trọng, bảo vệ và tạo điều
kiện phát triển.
Quyền bình đẳng giữa các dân tộc là cơ sở của đoàn kết giữa các dân tộc và
đại đoàn kết dân tộc , nhầm mục tiêu xây dựng đất nước văn minh, giàu đẹp.
Không có bình đẳng thì không có đoàn kết thật sự.
Dân tộc về sự phát triển văn hóa và hội nhập quốc tế:
Mỗi dân tộc đều có phong tục, tập quán, truyền thống văn hóa tốt đẹp được
giữ gìn, khôi phục, phát huy.Các dân tộc giao lưu và tiếp xúc văn hóa của nhau,
gặp gỡ, thâm nhập và học hỏi lẫn nhau giữa các nền văn hóa. Trong quá trình này,
các nền văn hóa bổ sung, tiếp nhận và làm giàu cho nhau, dẫn đến sự biến đổi, phát
triển, tiến bộ của dân tộc.Quá trình này diễn ra theo hai hướng: tự nguyện hoặc
cưỡng bức.
Dân tộc với vấn đề xung đột:

Xung đột dân tộc bao hàm cả xung đột giữa các giai cấp, tầng lớp trong nội
bộ dân tộc; cả xung đột giữa các tộc người trong cùng một dân tộc và cả xung đột
giữa các quốc gia dân tộc với nhau.Xung đột dân tộc diễn ra trên tất cả các lĩnh vực
của đời sống xã hội: chính trị, kinh tế, văn hóa, quân sự, tôn giáo và ý thức hệ…
Hính thức các cuộc xung đột dân tộc rất đã dạng như xung đột mâu thuẫn quyền
lực chính trị giữa các phe phái; xung đột về tranh chấp lãnh thổ, biên giới giữa các
dân tộc; đối đầu cạnh tranh quyết liệt giữa các tôn giáo hoặc các giáo phái; tranh
chấp về quyền lời kinh tế, quản lí, khai thác tài nguyền;xung đột do phân biệt
chủng tộc, đòi li khai thành lập nhà nước độc lập…

Ví dụ: XUNG ĐỘT GIỮA ISRAEL-PALESTINE: TÔN GIÁO VÀ LÃNH THỔ


Kinh Thánh của người Thiên Chúa Giáo, Cựu Ước của người Do Thái Giáo
và kinh Koran của Hồi Giáo cho rằng nguồn gốc của người Ả Rập và người Do
Thái đều xuất phát từ một người là tổ phụ Abraham. Ông được xem là người khai
phá vùng đất Canaan khoảng 2000 năm TCN.

Abraham có con trai lớn với người hầu gái Hagar là Ishmael. Người con trai
thứ Isaac với người vợ Sarah được xem là cội nguồn của người Do Thái. Ishmael
và mẹ Hagar sau này bị Sarah đuổi đi vì ghen tức đã trở thành cha để của người Ả
Rập theo truyền thống Hồi Giáo.

Sau khi Isaac chết, người con của ông là Jacob quyết định đổi tên thành
Israel và con cháu của ông sau này thành lập nên nước Israel tại vùng bờ Tây sông
Jordan thuộc bán đảo Canaan – nơi Đức Chúa Trời đã hứa ban tặng cho họ theo Do
Thái Giáo.

Trong cùng thời gian đó, người Phoenicia chuyển đến sinh sống tại khu vực
ven biển Canaan và thành lập nhà nước Phoenicia. Từ Phoenicia theo tiếng Hy Lạp
là Palestine và tên gọi này vẫn được sử dụng cho đến tận bây giờ. Người Do Thái
và người Phoenicia luôn đánh nhau để tranh giành đất đai từ đó.

Đến Thế kỷ thứ VII sau Công Nguyên, đạo Hồi ra đời và phát triển mạnh mẽ
ở bán đảo Ả Rập, phong trào Ả Rập nổi lên và chủ nghĩa Ả Rập ra đời. Năm 637
người theo đạo Hồi đưa quân chinh phục vùng đất Palestine biến nơi đây thành
một bộ phận của thế giới Ả Rập. Người Palestine bị người Ả Rập đồng hóa, từ đó
họ được xem như người Ả Rập với các bộ lạc du mục sống rải rác ở bán đảo
Canaan và trở thành người Palestine hiện đại ngày nay.

Do đó, trong tâm tưởng của người Do Thái, người Ả Rập nói chung và
người Ả Rập ở Palestine nói riêng chính là đứa con rơi cùa mình. Người Do Thái
luôn tự xem nguồn gốc chính thống của mình cao hơn thân phận đứa con bị ruồng
bỏ của người Ả Rập.

Cuộc tranh giành đất thánh Jerusalem của các tôn giáo lớn

Đối với người Thiên Chúa Giáo, Jerusalem là nơi chúa Jesus qua đời và còn
lưu lại rất nhiều thánh tích cổ tại đây. Người Hồi Giáo xem Jerusalem là nơi nhà
tiên tri Mohammed bay về trời trong khi người theo Do Thái Giáo xem Jerusalem
là nơi chứa đựng bản sắc của toàn bộ dân tộc Do Thái, là nơi có đền thờ thiêng
liêng của vua Salomon.

Người Israel và người Palestine ngày nay dưới sự hậu thuẫn của thế giới Hồi
Giáo cùng các nước Ả Rập vẫn liên tục xung đột để tranh giành Jerusalem. Năm
1947 LHQ đề xuất trao 56,47% lãnh thổ Palestine thành lập nhà nước Do Thái và
43,53% để thành lập nhà nước Ả rập, còn Jerusalem nằm dưới sự quản lý của
LHQ. Ngày 29/11/1947, 33 quốc gia thành viên Đại hội đồng LHQ đã bỏ phiếu
thông qua kế hoạch trên. Trong khi đó, 13 nước bỏ phiếu chống và 10 nước bỏ
phiếu trắng. Tuy nhiên, người Palestine đã không chấp nhận đề xuất trên và
Jerusalem vẫn tiếp tục bị chia rẻ.
Năm 1996, sau cuộc bầu cử Quốc Hội đầu tiên, cố chủ tịch PLO (tổ chức
giải phóng Palestine) Yasser Arafat đã tuyên bố lấy Jerusalem làm thủ đô của nước
Palestine đang hình thành. Trước đó năm 1980, Quốc hội Israel cũng đã đơn
phương tuyên bố: ‘Lấy Jerusalem làm thủ đô vĩnh viễn của Israel’.

Có thể nói, cuộc tranh giành Jerusalem chính là nơi đụng độ giữa các tôn
giáo lớn với Israeal đại diện cho Do Thái Giáo và Thiên Chúa Giáo trong khi
Palestine có sự hẫu thuẫn của thế giới Hồi Giáo. Cuộc giao tranh đẫm máu này sẽ
còn tiếp diễn khi Palestine luôn đưa “yêu sách Jerusalem” vào vấn đề thành lập
quốc gia Palestine. Trong khi Israel sẽ không bao giờ chấp nhận từ bỏ “thánh địa”
của mình.

Tranh chấp lãnh thổ

Người Do Thái và người Phoenicia (tổ tiên của người Ả Rập Palestine ngày
nay) đã có mặt trên bán đảo Canaan từ hơn 2000 TCN. Trong khi người Do Thái
trải qua một quá trình lịch sử thăng trầm từ lúc lập quốc cho đến khi bị lưu đày sau
các cuộc xâm lược của các đế quốc Assyria, Babyon và La Mã thì người Phoenicia
lại bị đế quốc Ả Rập thôn tính và đồng hóa trở thành người Ả Rập – Palestine vào
cuối Thế Kỷ thứ 7 sau CN.

Sau khi bị người La Mã tàn sát và trục xuất ra khỏi vùng đất Palestine, người
Do Thái chính thức trở thành một dân tộc mất nước. Họ phân tán khắp nơi trên thế
giới từ Tây Âu đến Nam Âu, Đông Âu và thậm chí là cả Bắc Mỹ. Nhưng dù đi đến
đâu người Do Thái vẫn duy trì nền văn hóa và bản sắc riêng của họ, đặc biệt là khát
vọng phục quốc cháy bỏng vì một tương lai trở về Jerusalem.

Trong khi đó, đến trước thế kỷ 20, vùng đất Palestine vẫn là một lãnh thổ
không có quốc gia khi các bộ tộc Ả Rập du mục ở đây quá yếu để có thể thành lập
một nhà nước độc lập và đành chịu sự cai trị của Đế Quốc Anh. Lúc này chỉ có
khoảng 3% dân số của Palestine là người Do Thái.

Sau chiến tranh thế giới thứ 2, một làn sóng ồ ạt những người Do Thái sống
sót sau cuộc diệt chủng của Phát xít Đức quay trở về Palestine dưới sự hậu thuẫn
của Mỹ. Họ dùng tiền mua lại đất của người Palestine bản địa nhằm thành lập nhà
nước Israel. Điều này bắt đầu làm các nước Ả Rập lo sợ.
Ngày 14/5/1948 tại Tel Aviv, nhà nước Israel sau 2000 lại được thành lập.
Ngay ngày hôm sau, các quốc gia Ả Rập bao gồm Ai Cập, Syria, Jordan, Iraq và
Lebanon đồng loạt tấn công Israel nhằm bảo vệ người anh em Hồi Giáo Palestine.

Tuy nhiên với tiềm lực kinh tế, quân sự áp đảo của mình, Israel đã đánh lui
liên quân Ả Rập không chỉ một mà thêm 2 lần nữa vào các năm 1967 (Cuộc chiến
6 ngày) và năm 1973 (Cuộc chiến tranh Yom Kippur) đồng thời chiếm luôn phần
lớn lãnh thổ của người Palestine và cả bán đảo Sinai thuộc Ai Cập cũng như cao
nguyên Golan của Syria ( Bán đảo Sinai được trả lại năm 1979).

Riêng về người Ả Rập sống trên mảnh đất Palestine thì họ phải chiến đấu để
có riêng cho mình một nhà nước và quốc gia ấy phải trải rộng hơn để tương xứng
với số dân đông hơn của họ. Nguyện vọng này của họ vẫn chưa thực hiện được.

Ngày nay, khi được hỏi về nơi sinh sống của người Ả Rập – Palestine, người
ta chỉ có thể chỉ lên 2 dải đất nhỏ bé Gaza và Bờ Tây cách nhau 40km bị chia cắt
bởi lãnh thổ Israel. Nhưng ngay cả khi có được không gian sống cho mình, người
Palestine vẫn đang chịu đựng sự cai quản của Israel khi họ kiểm soát vùng trời,
vùng biển của khu vực này.

Có thể nói, xung đột hiện nay chính là cao trào của những mâu thuẫn âm ỷ
trải dài suốt quá trình lịch sử của hai dân tộc. Trong khi đó, nguyên nhân trực tiếp
đến từ sự áp đặt của Israel, nó đã tạo điều kiện cho Hamas có được sự ủng hộ của
người Palestine nhằm chống lại chính Israel và tiếp tục một vòng xoáy bạo lực đẫm
máu chưa có lối thoát.

3. SỰ PHÁT TRIỄN CỦA CÁC DÂN TỘC TRÊN THẾ GIỚI TRONG
TƯƠNG LAI.
Phương tây và các nền văn minh
Rõ ràng nền văn minh phương tây khác xa các nền văn minh đã từng tồn tại và nó
củng đã có ảnh hưởng áp đảo tất cả các nền văn minh khác đã từng tồn tại từ 1500
năm. Phương tây còn là nền văn minh khởi xướng các quá trình hiện đại hóa và
công nghiệp hóa đã lan rộng trên toàn thế giới, kết quả là các nền văn minh khác đã
nỗ lực để bắt kịp sự phồn thịnh và hiện đại của phương tây. Tuy nhiên, phong trào
phục hưng hồi giáo và sự năng động kinh tế châu á đã chứng tỏ rằng các nền văn
minh khác vẫn tồn tại và phát triển và ít nhất có tiềm năng đe dọa phương tây. Một
cuộc chiến tranh lớn có thể sẻ xảy ra giữa các nền văn minh phương tây và các nền
văn minh khác. Hoặc có thể sự thoái trào dần dần và không đều đặn của phương
tây bắt đầu từ thế kỉ XX có thể tiếp tục kéo dài đến nhiều thế kỷ sắp tới. Hoặc
phương tây có thể trải qua thời kì phục hồi, đảo ngược được ảnh hưởng đang ngày
một suy giảm của mình trong các vấn đề quốc tế và tái khẳng định vị thế của mình
với tư cách là lãnh đạo mà các nền văn minh khác phải tuân theo và bắt chước.
Theo nhận định của các học giả thuộc các nền văn minh khác, phương tây giờ đây
dường như đang trở thành một khu vực an ninh, các cuộc chiến tranh bên trong
phương tây rõ ràng là khó xảy ra. Phương tây đang phát triển mức đọ tương xứng
của mình để trở thành một đế quốc toàn cầu dưới dạng một hệ thống phức tạp các
liên minh, liên bang, thể chế, và các dạng khác của những định chế hợp tác, là hiện
thân ở cấp độ nền văn minh, của cam kết của phương tây đối với nền chính trị dân
chủ và đa nguyên.
Tóm lại, phương tây đã trở thành một xã hội trưởng thành bước vào điều mà những
thế hệ tương lai, “trong khuôn mẫu có tính tuần hoàn của các nền văn minh”, sẻ
nhìn lại như một “thời kì vàng son” một thời đại của hòa bình, có được là do
“không có bất kỳ đối thủ cạnh tranh nào trong phạm vi của chính nền văn minh đó,
và do sự xa xôi, cách biệt hoặc thậm chí do không có các cuộc đấu tranh với những
xã hội khác bên ngoài”. Đó củng là một thời kỳ của sự phồn thịnh nãy sinh từ “việc
chấm dứt tàn phá lẫn nhau của các bên tham chiến sự cắt giảm các hàng rào thương
mại nội bộ, sự thiết lập một hệ thống chung về các đơn vị đo và hệ thống tiền tệ, và
do hệ thống chi tiêu chung rộng rãi liên quan đến sự thiết lập một đế chế chung”.
Sự chối bỏ của niềm tin mỹ và nền văn minh phương tây có nghĩa là sự chấm hết
của hợp chúng quốc hoa kỳ trong tiềm thức mọi người. Nó củg có nghĩa là sự
chấm hết của nền văn minh phương tây. Nếu hoa kỳ bị phi phương tây hóa, thì
phương tây sẽ chỉ còn là châu âu và là một vài quốc gia châu âu thưa dân của
người định cư nước ngoài. Không có Hoa kỳ, phương tây trở thành một phần nhỏ
bé tóp teo dần của thế giới trên một bán đảo nhỏ và không quan trọng ở điểm mút
của mảnh đất âu – á.
Tất cả các nền văn minh đều phải trải qua các giai đoạn như nhau: hình thành, phát
triển và suy thoái. Phương tây khác xa so với các nền văn minh khác không chỉ ở
cách nó đã phát triển mà còn ở cả trong bản sắc đặc thù của các giá trị và những
định chế của nó. Những giá trị và định chế này bao gồm chủ yếu là đạo cơ đốc, chủ
nghĩa đa nguyên, chủ nghĩa cá nhân và chế độ pháp quyền, những gì đã làm cho
phương tây có thể tìm ra tính hiện đại, bành trướng ra toàn thế giới và trở thành đối
tượng đố kị của các xã hội khác. Chúng làm cho nền văn minh phương tây trở
thành độc nhất và nền văn minh phương tây là vô giá khong phải bởi nó phổ biến
rộng rãi mà bởi vì nó là độc nhất. Trách nhiệm của các nhà lãnh đạo là giữ gìn, bảo
vệ và đổi mới những phẩm chất độc nhất này. Mà hoa kỳ là quốc gia phương tây
hùng mạnh nhất nên trách nhiệm đè nặng lên vai quốc gia này. Vì vậy tương lai của
phương tây dựa vào các nhà lãnh đạo Hoa kỳ.
*Phương Đông:
Điển hình là Trung Quốc
Trong khi Mỹ sẽ dần mất đi năng lực kiểm soát thế giới, những bất ổn về
chính trị của nước này ngày càng gia tăng thì Trung Quốc lại ngày càng phát triển.
Siêu cường quốc Mỹ sẽ thất thủ để nhường chỗ cho Trung Quốc. 2017 sẽ là năm
chứng kiến quá trình đi xuống của Mỹ, quá trình nổi lên của Trung Quốc. Tới năm
2018, đất nước tỷ dân sẽ soán được ngôi của Mỹ, chấm dứt thời kỳ "thống trị" kéo
dài của nước Mỹ và trật tự thế giới được đảo lộn. Ngoài ra, có thể sẽ có đổ máu.
Với việc duy trì được địa vị độc tôn trong lĩnh vực sản xuất trong 30 năm
qua, Trung Quốc đã khiến ngành sản xuất toàn cầu có những thay đổi mang tính
cách mạng. Mặc dù chuỗi cung ứng đã xuất hiện xu thế mới, nhưng các yếu tố như
cơ sở hạ tầng mới và hiệu quả sản xuất ngày càng nâng cao, sẽ giúp Trung Quốc
tiếp tục duy trì sức cạnh tranh của mình.
Sở hữu nguồn cung cấp lao động lớn, đầu tư cơ sở hạ tầng hiện đại, có hệ
thống chính trị ổn định và nền giáo dục phát triển, là những tiền đề để Trung Quốc
vượt qua Mỹ, trở thành một cường quốc có giá trị sản xuất cao nhất. Điều này
khiến Trung Quốc ngày càng phồn vinh, đồng thời cũng tạo ra áp lực không nhỏ
trong nâng cao thu nhập và cải thiện môi trường làm việc.
Tuy nhiên, luận điểm cho rằng, các nhà sản xuất sử dụng sức lao động lớn sẽ
rời bỏ Trung Quốc để tìm một số điểm đến có chi phí sản xuất rẻ hơn, là sự thổi
phồng thái quá.
Ở thị trường châu Á, Bangladesh được cho là sẽ thay thế Trung Quốc để trở
thành nước có nền sản xuất hàng hóa xuất nhập khẩu giá rẻ, tuy nhiên, việc giảm
bớt chênh lệch về cạnh tranh của nước này với Trung Quốc lại diễn ra chậm nhất:
thu nhập tăng nhanh hơn so với Trung Quốc, nhưng năng suất lao động chỉ bằng
một nửa của Trung Quốc.
Tốc độ gia tăng thu nhập ở Việt Nam tương tự của Trung Quốc, nhưng năng
suất lao động lại tăng tương đối chậm. Tình trạng ở Indonesia cũng không khác gì
khi Jakarta đứng sau Bắc Kinh rất nhiều trong Bảng xếp hạng môi trường kinh
doanh.
Từ năm 2013 đến 2018, việc gia tăng thu nhập ở hầu hết các nước đều chậm
hơn Trung Quốc. Nhưng về quy mô của nền kinh tế và môi trường thương mại, chỉ
có Ấn Độ là tiệm cận Trung Quốc, còn ở các nước thường được coi là đối thủ của
Trung Quốc như Mexico, Brazil và Ai Cập, tốc độ nâng cao năng suất lao động đều
diễn ra rất chậm.
Có thể khẳng định, trong vài năm tới Trung Quốc sẽ dựa vào cơ sở hạ tầng
tuyệt vời và sức mạnh kinh tế to lớn ngày càng hoàn thiện để tiếp tục giữ vững địa
vị của mình. Thế nhưng, điều này không có nghĩa là tình hình trong vài năm tới sẽ
không thay đổi.
Thách thức trực tiếp đối với địa vị độc tôn của Trung Quốc không phải là
một vài kẻ cạnh tranh nhỏ, nhặt nhạnh những “mảnh vụ thị trường”, mà là “bức
tường đồng vách sắt” trước cửa nhà Trung Quốc, đó chính là Cộng đồng kinh tế
ASEAN (ASEAN Economic Community - AEC)
Theo nhóm, nền kinh tế chính trị văn hóa của Trung Quốc sẽ phát triển
không ngừng với thế mạnh về mọi mặt của nó. Nhưng theo quy luật thì nó sẻ phát
triển đến một mức độ nhất định rồi sẽ có một đất nước khác vượt lên và Trung
Quốc bắt đầu suy vong. Xu hướng của các nước phát triễn trên thế giới không có
đất nước nào mãi mãi đọc tôn trong nền kinh tế khoa học phát triễn. Nền văn minh
nhân loài tiên tiến hiện nay.

You might also like