You are on page 1of 15

Kết quả & nhận xét GV 1 Kết quả & nhận xét GV 2

Điểm Điểm

2
Lời cảm ơn
Em xin trân thành cảm ơn cô ThS.Tạ Lan Khanh đã hỗ trợ, giúp đỡ, truyền
đạt kiến thức về nền văn hóa Việt Nam trong suốt học phần Cơ Sở Việt Nam cho
em. Nó sẽ là một nền tảng vững để em có thể học sâu vào các học phần chuyên
ngành sắp tới của mình.
Mở đầu
Việt Nam từ lâu được biết đến là một nước có vị chiến lược, có tầm quan trọng
hàng đầu của khu vực. Việt Nam vừa nằm trên ngã tư hàng hải và hàng không quốc
tế vừa là cửa ngõ mở lối ra biển của một sô nước, cộng thêm việc nằm ở gần trung
tâm của Đông Nam Á. Do do vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên thuận lợi, nên từ buổi
đầu bình minh của lịch sử đất nước, Việt Nam đã giữ một vai trò đặc biệt trên con
đường buôn bán Đông – Tây và là nơi gặp gỡ, giao thoa của các nền văn hóa lớn trên
thế giới. Tuy giao lưu tiếp xúc nhiều với các nền văn hóa nhưng Việt Nam có một
đặc điểm tiêu biểu và đặc sắc là tính thống nhất trong đa dạng, điều này được thể hiện
ở mọi khía cạnh văn hóa.
Vậy tính thống nhất, tính đa dạng là gì? Được hiểu cụ thể như thế nào? Làm
rõ vấn đề trên chúng ta sẽ hiểu chính xác và toàn bộ tiến trình lịch sử của nước ta từ
khi hình thành , phát triển tới tận ngày nay
Nội Dung
I. Tính thống nhất và tính đa dạng trong văn hóa Việt Nam
1.Tính thống nhất
Tính thống nhất của nền văn hóa Việt Nam là tính nhất trí, hòa quyện bình
đẳng ảnh, tập hợp lại thành một khối chung nhất, có chung cơ cấu tổ chức và sự điều
hành, không mâu thuẫn với nhau, có sự phát triển độc lập của văn hóa các dân tộc
anh em cùng sống trên lãnh thổ Việt Nam. Nam mỗi dân tộc có truyền thống bản sắc
riêng, nhưng cả cộng đồng dân tộc Việt Nam có chung nhất một nền văn hóa.
2. Tính đa dạng
Tính đa dạng của văn hóa Việt Nam được thể hiện giữa các lĩnh vực phong tục
tập quán, kinh tế - xã hội của mỗi cộng đồng dân tộc. Đây là nhân tố để giữ gìn bản
sắc truyền thống của dân tộc, là điểm phân biệt vùng này với vùng khác, mỗi có
những nét riêng biệt tùy thuộc vào điều kiện tự nhiên, vị trí địa lý, sự tiếp thu ảnh
hưởng của văn hóa bên ngoài, tạo nên sự đa dạng phong phú của từng vùng.
II. Nền văn hóa Việt Nam là nền văn hóa thống nhất mà đa dạng
1.Văn hóa Việt Nam là nền văn hóa thống nhất
1.1. Thống nhất về mặt không gian- Địa lý
Với diện tích kéo dài, địa hình có sự phân biệt rõ rệt lên những dân tộc sẽ có
nơi cư trú khác nhau; cộng thêm khí hậu cũng có sự phân hóa, có nơi thì nóng ánh
sáng nhiều, có nơi thì lạnh giá. Tất cả đã tạo ra các nét đặc trưng riêng biệt của các
vùng văn hóa ở Việt Nam. từ cái Nôi của nền văn hóa Việt Nam ở châu thổ sông
3
Hồng của người Việt chủ đạo với nền văn hóa làng xã-Người Việt đề cao và coi trọng
vai trò của gia đình và tính chất của gia tộc, và nền văn minh lúa nước; đến sắc thái
các văn hóa dân tộc anh em tại miền núi ở Tây Bắc, Đông Bắc. Tuy các vùng văn hóa
đa dạng là vậy nhưng lại thống nhất với nhau do con người khi sống chung thành một
cộng đồng lớn, 54 tộc anh em có chung một tổ quốc, có những hoạt động văn hóa tập
thể dựa trên các giá trị và chuẩn mực đạo đức chung.
Văn hoá dân tộc Việt Nam nảy sinh từ một môi trường sống, nơi gặp gỡ của
nhiều nền văn minh lớn. Điều kiện tự nhiên đã tác động không nhỏ đến đời sống văn
hoá vật chất và tinh thần của dân tộc, đến tính cách, tâm lý con người Việt Nam. Tuy
nhiên điều kiện xã hội và lịch sử lại là những yếu tố chi phối rất lớn đến văn hoá và tâm
lý dân tộc. Cho nên cùng là cư dân vùng trồng lúa nước, vẫn có những điểm khác biệt
về văn hoá giữa Việt Nam với Thái Lan, Lào, Indonesia, Ấn Độ... Cùng cội nguồn văn
hoá Đông Nam Á, nhưng do sự thống trị lâu dài của nhà Hán, cùng với việc áp đặt văn
hoá Hán, nền văn hoá Việt Nam đã biến đổi theo hướng mang thêm các đặc điểm văn
hoá Đông Á.
Mặc dù ở mỗi vùng miền sẽ có nhiều nét văn hóa khác nhau nhưng vẫn có
những điểm tương đồng, giao thoa văn hóa nhất định với nhau. Ở Tây Bắc và Đông
Bắc có sự giao thoa khá lớn về văn hóa dân gian. Không bất động trên những trang
sách ghi chép, văn hóa dân gian của hai vùng này là một nguồn văn hóa “động” bởi
sự diễn xướng được diễn ra thường ngày hoặc vào các dịp lễ Tết, lễ hội lớn. Phải kể
đến như lễ hội cúng then, lễ cấp sắc, lễ Lồng Tồng, lễ hoa ban, lễ cầu an bản
Mường… Những tập tập quán được hiện lên một cách sinh động như văn hóa chợ
phiên, hội cốm, ngày hội ẩm thực.... Điều này đã khiến cho văn hóa dân gian có tính
kết nối cộng đồng, sự hòa điệu nét văn hóa của các dân tộc đã tổ hội thành một vườn
hoa đa sắc màu của văn hóa Việt Nam.
1.2. Thống nhất về mặt thời gian -Lịch sử
Việt Nam có một nền văn hóa đặc sắc, lâu đời, gắn liền với lịch sử hình thành
và phát triển của dân tộc. Các nhà văn hóa học đã thống nhất ý kiến một điểm: Việt
Nam có một cộng đồng văn hóa khá rộng lớn được hình thành vào khoảng nửa đầu
thiên niên kỷ thứ nhất trước Công Nguyên. Xuyên suốt quá trình lịch sử Việt Nam,
đã có ba lớp văn hóa chồng lên nhau: văn hóa bản địa, văn hóa giao lưu với Trung
Quốc và khu vực, văn hóa giao lưu với phương Tây. Nhưng một điều đặc biệt của
Việt Nam là nhờ có gốc văn hóa bản địa vững chắc nên đã không bị ảnh hưởng văn
hóa ngoại lai, đồng hóa; trái ngược lại còn biết sử dụng và Việt hóa các ảnh hưởng đó
làm giàu cho nền văn hóa dân tộc. Dân tộc ta dù có hơn 1000 năm bị phương Bắc đô
hộ, độ chúng đã thực hiện đồng hóa dân tộc ta bằng việc ép ta học và chữ Hán làm
phương tiện giao tiếp trong mọi hoạt động sống hàng ngày; chúng ta là thế nhưng ta
lại không học chữ Hán mà dựa trên chữ Hán, vận dụng phương thức tạo chữ hình
thanh của chữ Hán để tạo ra các chữ mới thuần Việt- chữ Nôm. Sự ra đời của chữ
Nôm thể hiện ý thức dân tộc cao, khẳng định người Việt có chữ viết, ngôn ngữ riêng
của mình, thể hiện ý thức tự lập, tự cường của dân tộc.
Trong quá trình phát triển lịch sử, dân tộc Việt Nam luôn luôn phải trải qua
các cuộc kháng chiến chống giặc ngoại xâm để để giữ nước, Từ Hai Bà Trưng, Bà
Triệu, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Quang Trung đến công cuộc trường kỳ kháng chiến
chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Điều này đã tạo nên một đặc trưng văn hóa nổi
bật của nước ta là tư tưởng yêu nước thấm sâu và bao trùm mọi lĩnh vực. Các yếu tố
cộng đồng có nguồn gốc nguyên thủy đã sớm được cố kết lại, trở thành cơ sở phát
triển của chủ nghĩa yêu nước và ý thức dân tộc.
4
1.3. Thống nhất về mặt dân tộc
Việt Nam là một quốc gia đa thành phần dân tộc; với 54 dân tộc anh em đã tạo
cho Việt Nam một nền văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc, vừa phong phú đa dạng, vừa
lại thống nhất một với nhau trên các khía cạnh. Cộng đồng dân cư dân tộc anh em ở
nước ta đều có những phong tục đúng đắn tốt đẹp từ lâu đời, có những lễ hội nhiều ý
nghĩa sinh hoạt cộng đồng, có những niềm tin vững bền trong tín ngưỡng tôn giáo, sự
khoan dung trong tư tưởng giáo lý khác nhau của từng tôn giáo đã giúp cho con
người xích lại gần nhau, tính cặn kẽ và ẩn dụ trong giao tiếp truyền đạt của ngôn ngữ
từ truyền thống đến hiện đại bài của văn học nghệ thuật nước nhà.
1.4. Một số mặt văn hóa chủ yếu
1.4.1. Phong tục tập quán
Người Việt xưa vốn thiết thực, chuộng ăn chắc mặc bền. Đầu tiên là ăn, có thực
mới vực được đạo, trời đánh còn tránh bữa ăn. Mặc dù ngày nay một vài yếu tố đã tác
động tới ẩm thực nước ta, nó được thay bằng ăn ngon mặc đẹp. Do điều kiện khí hậu
nước ta nóng ẩm thuận lợi cho việc trồng các loại rau quả nên cơ cấu ăn ở Việt Nam
thiên về thực vật, cơm rau là chính cộng thêm thuỷ sản, thịt thà. Các món ăn ở Việt Nam
được chế biến một cách công phu với sự kết hợp hợp nhiều loại gia vị, chất liệu tạo nên
sự đặc sắc, hấp dẫn của mỗi món ăn. trong đó, luộc là cách nấu ăn đặc sắc của Việt
Nam, nó tuy đơn giản nhưng giữ nguyên được vị ngon ngọt của thực phẩm.
Ngày nay có nhiều thịt cá, vẫn không quên vị dưa cà; trong mỗi dịp Tết, tùy vào vùng
miền mà sẽ có những món dưa muối khác nhau, nơi thì củ kiệu, nơi thì dưa hành.
Người Việt hay dùng các chất liệu vải có nguồn gốc thực vật, mỏng, nhẹ, thoáng,
phù hợp xứ nóng; với các sắc màu nâu, chàm, đen phù hợp với công việc đồng áng
nông nghiệp. Trang phục nam giới phát triển từ đóng khố ở trần đến áo cánh, quần ta.
Nữ giới xưa phổ biến mặc yếm, váy, áo tứ thân sau này đổi thành chiếc áo dài hiện đại.
Mặc dù bây giờ đã có du nhập của các văn hóa ăn mặc của nhiều quốc gia nhưng phụ
nữ Việt Nam vẫn làm đẹp một cách tế nhị, kín đáo trong một xã hội "cái nết đánh chết
cái đẹp".
Ngôi nhà Việt Nam xưa gắn liền với môi trường sông nước (nhà sàn, mái
cong). Sau đó là nhà tranh vách đất, lợp rạ, vật liệu chủ yếu là tre gỗ, không cao quá
để chống gió bão, quan trọng nhất là hướng nhà thường quay về phía Nam chống
nóng, tránh rét. Nhà cũng không rộng quá để nhường diện tích cho sân, ao, vườn cây.
Vả lại, người Việt Nam quan niệm "rộng nhà không bằng rộng bụng". Các kiến trúc
cổ bề thế thường ẩn mình và hoà với thiên nhiên.
1.4.2. Ngôn ngữ
Mỗi một dân tộc sinh sống trên đất nước Việt Nam đều có một ngôn ngữ riêng
của mình, một số chữ viết riêng như tiếng Thái, Khmer, Mông, Tày, Hoa, Chăm…
Đa dạng ngôn ngữ là vậy nhưng tiếng Việt là ngôn ngữ được chọn làm ngôn ngữ
chung cho các dân tộc sống trên lãnh thổ Việt Nam. Trong hệ thống giáo dục từ mẫu
giáo đến bậc đại học, Tiếng Việt là ngôn ngữ phổ thông, là công cụ để truyền thụ kiến
thức, đồng thời cũng là công cụ giao tiếp, quản lý của trên đất nước Việt Nam. →.
Như vậy, có thể khẳng định, văn hóa Việt Nam là sự thống nhất trong đa dạng sắc
thái văn hóa của cộng đồng 54 dân tộc. Tính thống nhất không triệt tiêu tính đa dạng,
mà là cơ sở để tính đa dạng được thể hiện phong phú hơn, có môi trường bộc lộ tốt
hơn thông qua giao thoa văn hóa, sự học hỏi và tiếp thu lẫn nhau giữa các dân tộc.
Tính đa dạng bổ sung, làm phong phú, tăng cường tính thống nhất, làm cho cái riêng

5
luôn được chắt lọc, lựa chọn được phần tinh túy để bồi đắp vào cái chung. Mọi biểu
hiện tuyệt đối hóa tính đa dạng mà phủ nhận tính thống nhất, hoặc tuyệt đối hóa tính
thống nhất mà phủ nhận tính đa dạng đều dẫn tới sai lầm.
2. Nền văn hóa Việt Nam là một nền văn hóa đa dạng
2.1. Đa dạng về mặt không gian-Địa lý
Việt Nam là một quốc gia nhiệt đới với địa hình phần lớn là đồi núi (chiếm 3/4
diện tích lãnh thổ), chủ yếu là đồi núi thấp, đồng bằng chỉ chiếm 1/4 diện tích. Cấu
trúc địa hình khá đa dạng nhờ vận động Tân kiến tạo làm trẻ lại, tạo nên sự phân bậc
rõ rệt theo độ cao, thấp dần từ tây bắc xuống đông nam.Cùng nằm trong vùng địa lý
tự nhiên của Bắc Bộ Việt Nam nhưng mỗi tiểu vùng lại có điều kiện tự nhiên, vị trí
địa lý khác nhau như: (1) Vùng Tây Bắc là vùng miền núi phía tây của miền bắc Việt
Nam, có chung đường biên giới với Lào và Trung Quốc- có thể dễ dàng giao lưu, hợp
tác với các vùng kinh tế năng động của các nước này qua các cửa khẩu. Bao gồm các
tỉnh: Lai Châu, Lào Cai, Điện Biên, Sơn La, Yên Bái, Hòa Bình. Địa hình Tây Bắc
hiểm trở, có nhiều khối núi và dãy núi cao chạy theo hướng Tây Bắc-Đông Nam,
trong đó có dãy Hoàng Liên Sơn, được người Thái gọi là "sừng trời" (Khau phạ),
chính là bức tường thành phía đông và vùng Tây Bắc.Tuy cùng nằm trong vòng đai
nhiệt đới gió mùa, nhưng do ở một độ cao từ 800-3000m nên khí hậu Tây Bắc ngả
sang á nhiệt đới và nhiều nơi cao như Sìn Hồ có cả khí hậu ôn đới. Mặt khác, do địa
hình lại chia cắt bởi các dãy núi, các dòng sông, khe suối, tạo nên những thung lũng,
có nơi lớn thành lòng chảo như vùng Nghĩa Lộ, Điện Biên nên Tây Bắc còn là nơi có
nhiều tiểu vùng khí hậu. Trong lúc đó ở thung lũng Mường La, người ta mặc áo ngắn
tay giữa mùa đông thì ở Mộc Châu phải mặc áo bông dày mà không khỏi rét. Nhưng
chính vì vậy mà thiên nhiên Tây Bắc rất đa dạng, thổ nhưỡng nhiều loại hình. Chính
điều này cũng góp phần làm nên những nét đa dạng trong văn hóa của các dân tộc
vùng Tây Bắc. (2) Vùng Đông Bắc là vùng lãnh thổ ở hướng Bắc vùng đồng bằng
sông Hồng, có chung đường biên giới với Trung Quốc- là cửa ngõ quan trọng trong
giao lưu của vùng của cả nước với nước láng giềng Trung Quốc. Bao gồm các tỉnh:
Hà Giang, Tuyên Quang, Thái Nguyên, Bắc Kạn, Cao Bằng, Lạng Sơn và Quảng
Ninh, Phú Thọ, Bắc Giang, Vĩnh Phúc. Đông bắc do nằm ở vị trí địa đầu của đất
nước nên là vùng đón nhận đầu tiên của các đợt gió mùa Đông Bắc và chịu ảnh
hưởng sâu sắc nhất của nó mang lại. Địa hình Đông bắc có cấu trúc theo kiểu cánh
cung, quy tụ ở Tam Đảo, nở rộng ở phía Bắc và Đông Bắc, chắc phần lớn hướng ngồi
quay ra biển. các dãy núi ở đây chủ yếu là thuộc độ cao trung bình và thấp có nhiều
bề mặt bằng, ít bị chia cắt. Tuy nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa ẩm nhưng
vì địa hình cao, lại có nhiều dãy núi hình cánh cung; vào mùa Đông có gió Bắc thổi
mạnh, rất lạnh, còn mùa hè mát mẻ, do đó vùng này có khí hậu cận nhiệt ẩm. Vùng
núi ở Lào Cai, Hà Giang, Cao Bằng, Lạng Sơn có thể có lúc nhiệt độ xuống dưới 0°C
và có băng giá, đôi khi có tuyết rơi. Các vùng ở đuôi các dãy núi cánh cung cũng rất
lạnh do gió. Động thực vật mang đặc điểm chuyển tiếp từ nhiệt đới sang ôn đới.
Từ sự khác biệt của mỗi vùng văn hóa đã tạo nên sự đa dạng, phong phú và
vô cùng đặc sắc của không gian văn hóa Việt Nam.

6
2.2. Đa dạng về mặt thời gian- Lịch sử
Việt Nam là một quốc gia có chiều dài lịch gắn liền với quá giữ và dựng nước
của dân tộc. Nước ta phải đối mặt với xâm lược từ rất xưa, tùy vào vị trí mà mỗi một
vùng miền sẽ có vai trò khác nhau trong quá trình bảo vệ quyền tự chủ tự quyết của
dân tộc. Tất cả những điểm riêng biệt trong tiến trình lịch sử ấy đã tạo ra sự đa dạng
cho nền văn hóa Việt Nam.
Vùng Đông Bắc do nằm ở vị trí có đường biên giới dài giáp với Trung Quốc-
một quốc gia có âm mưu thâu tóm nước ta từ thời xa xưa, nên luôn là nơi bị tiến hành
xâm lược đầu tiên của nước lớn. Từ ngày xưa người dân nơi đây đã luôn phải đấu
tranh để chống lại giặc ngoại xâm, để lại những trận đánh huyền thoại mà dân ta tự
hào như: trận thủy chiến sông Bạch Đằng năm 938, Ngô Quyền đánh thắng quân xâm
lược Nam Hán; Trận thủy chiến sông Bạch Đằng năm 981, Hoàng đế Lê Đại Hành
phá tan quân Tống xâm lược; trận thủy chiến sông Bạch Đằng năm 1288, Hưng Đạo
Vương Trần Quốc Tuấn đại thắng quân xâm lược Mông Nguyên (trong cuộc kháng
chiến chống quân Nguyên lần thứ ba; năm 1427, viên Tướng xâm lược Liễu Thăng bị
quân ta dưới sự lãnh đạo của Lê Lợi chém bay đầu tại Ải Chi Lăng. Đặc biệt đến thời
kì kháng chiến chống Pháp, đây là căn cứ đầu não kháng chiến của ta, nó được chọn
vì vừa có địa hình rừng núi giúp bảo vệ an toàn cơ quan đầu não vừa giáp biên giới
Trung Quốc có thể nhận hỗ trợ bởi nước ta và Trung Quốc đều đi theo con chủ nghĩa
xã hội, không những thế đây là vị trí đầu của Tổ quốc nên ta phải bảo vệ để tránh
không cho địch đi vào sâu trong lãnh thổ. Hiện tại về mặt quốc phòng an ninh thì đây
cũng là một vùng quân sự trọng điểm được nhà nước chú trọng. Mặc dù chiến tranh
đã qua đi nhưng vùng đất này vẫn mãi là một vùng đất anh trong lòng mỗi người dân
Việt Nam.
Khác với vùng Đông Bắc, Tây Bắc không là căn cứ cách mạng mà là nơi diễn
ra các trận đánh chiến lược quyết định của cách mạng nước ta. Do Tây Bắc có địa
hình hiểm trở với nhiều khối núi và dãy núi cao phần lớn địa hình là núi cao, rừng
rậm xen kẽ cao nguyên và thung lũng. Giữa hai dãy núi này là vùng đồi núi thấp lưu
vực sông Đà. Ba con sông Mã, sông Đà và sông Thao với dòng nước xiết đã chia Tây
Bắc thành nhiều khu vực. Đường vào Tây Bắc vừa ít lại phải qua nhiều sông, suối,
núi cao hiểm trở nên việc đi lại cực kỳ khó khăn. Phía tây giáp hai tỉnh Phong Xa Lì
và Sầm Nưa của Lào, phía Bắc giáp tỉnh Vân Nam của Trung Quốc, phía Đông giáp
căn cứ địa Việt Bắc, phía nam giáp tỉnh Hòa Bình, nối liền với các tỉnh thuộc Liên
khu III và liên khu IV. Chính vì vậy mà Tây Bắc đã trở thành một địa bàn chiến lược
quan trọng của Bắc Bộ Việt Nam nói chung và Bắc Đông Dương nói chung. Đây
cũng là lý do mà Đảng và Chính phủ chọn Điện Biên Phủ làm trận đánh quyết định để
đuổi Pháp về nước, chấm dứt hoàn toàn cuộc chiến tranh xâm lược nước ta.
2.3. Đa dạng về mặt dân tộc
Trong một quốc gia đa dân tộc như Việt Nam, có 54 dân tộc, con người vừa
đóng vai trò là thực thể trong đời sống dân tộc- quốc gia, vừa là một thực thể trong
đời sống dân tộc- tộc người. Nếu ở phương diện dân tộc- quốc gia, văn hóa biểu hiện
ra và là kết quả tính thống nhất thì ở phương diện dân tộc- tộc người thể hiện ra và kết
quả của sự đa dạng trong phong phú của văn hóa.
Tây Bắc chỉ là một tiểu vùng thui mà ở đây có hơn 20 dân tộc: Mường, Thái,
H’Mông, Nùng... cư trú và sinh sống. Từ các đặc sắc văn hóa riêng của mỗi dân tộc
7
đã tạo cho nơi đây một không gian văn hóa vô cùng đa dạng và phong phú. Ở Tây
bắc là vùng có sự phân bố dân cư theo độ cao rất rõ rệt: vùng rẻo cao(đỉnh núi) là nơi
cư trú của các dân tộc thuộc nhóm ngôn ngữ Mông - Dao, Tạng Miến,với phương
thức lao động sản xuất chủ yếu là phát nương làm rẫy, phụ thuộc rất nhiều vào thiên
nhiên; vùng rẻo giữa(sườn núi) là nơi cư trú của các dân tộc thuộc nhóm ngôn ngữ
Môn - Khmer, phương thức lao động sản xuất chính là trồng lúa cạn, chăn nuôi gia
súc và một số nghề thủ công; còn ở vùng thung lũng, chân núi là nơi sinh sống của
các dân tộc thuộc nhóm ngôn ngữ Việt - Mường, Thái - Kadai,điều kiện tự nhiên
thuận lợi hơn để phát triển nông nghiệp và các ngành nghề khác.
Đến với Đông Bắc, ta sẽ có thể tìm hiểu thêm nét đẹp văn hóa riêng và đặc sắc
của hơn 10 dân tộc anh em sinh sống ở đây. Một số dân tộc tiêu biểu của vùng như:
vùng Đông Bắc: Sán Dìu, Tày, Lô Lô, Nùng, Hoa... Đời sống của họ gắn liền với nền
canh tác đặc trưng, tạo ra những nét độc đáo của vùng Đông Bắc.
Chỉ với hai vùng văn hóa ở đầu đất nước ta đã có thể thấy rõ được sự đa dạng
phong phú về thành phần dân tộc ở Việt Nam. Nhờ có sự đa dạng về thành phần dân
tộc tạo cho Việt Nam một nền văn hóa đặc sắc với sự kết hợp các nét văn hóa riêng
của từng dân tộc trong 54 dân tộc anh em.
2.4. Một số mặt văn hóa chủ yếu (chỉ so sánh Tây Bắc với Đông Bắc)
Mặc dù cùng trong lãnh thổ Việt Nam, nhưng do vị trí địa lý, khí hậu, điều kiện tự
nhiên mà Tây Bắc và Đông Bắc có khác biệt nhau về một số nét văn hóa. 2.4.1.
Văn hóa cư trú
*Vùng Đông Bắc
Ở Đông Bắc, dân tộc Tày- Nùng có hai loại nhà ở chính, nhà sàn và nhà đất.
Nhà sàn thì phổ biến hơn, ở nhà này thì có 2 loại, loại sàn hai mái và bốn mái. Nhà ở
truyền thống của người Tày- Nùng là nhà sàn ba gian, hai chái, cột tròn hoặc vuông,
nhà được chia làm 3 tầng. Tầng dưới (gầm sàn) thường nuôi nhốt gia súc, gia cầm và
nông cụ ...Họ thường làm bậc thang lẻ vì trong đời sống tâm linh của họ thường quan
niệm là bậc thang chính là cầu nối giữa hai thế giới trong và ngoài ngôi nhà. Kết cấu
chính của ngồi nhà gồm 36 cột trong đó 28 cột chính và 8 cột phụ đây là bộ khung
quyết định sự vững chãi và tạo nên hình dáng của ngôi nhà, cột có trụ vững trên mặt
đất làm điểm tựa cho ngôi nhà, xuyên và kèo đều được gắn vào các lỗ đục trên cột.
Bên cạnh đấy, nhà đất là loại nhà xuất hiện ngày càng nhiều nhưng cũng có rất nhiều
thay đổi so với ngôi nhà sàn về quy mô kết cấu, bố cục bên trong. Mái nhà được lợp
bằng cỏ tranh hoặc mái ngói âm dương. Ở một số vùng còn có loại nhà nửa đất nửa
sàn lá, 1 loại nhà đặc biệt vừa có tính chất nhà đất lại vừa mang tính chất nhà sàn.
Đây là nhà của người Dao ở vùng Việt Bắc.
*Vùng Tây Bắc
Văn hóa dân tộc Tây Bắc còn in đậm trong từng kiến trúc nhà ở của người dân
khu vực. Mỗi dân tộc khác nhau thường xây dựng nhà ở với lối kiến trúc khác nhau
nhưng tạo nên được một Tây Bắc rất riêng. Người Thái thường xây dựng nhà sàn
chuẩn theo “Hướn hạn phủ táy”. Những ngôi nhà sàn xây dựng rất tài hoa và đáp ứng
được sự hài hòa giữa không gian sống, thiên nhiên và con người. Người Thái làm nhà
có số gian lẻ, hai đầu khum lại như mái rùa. Người Dao thường tạo nên các công
trình nửa trệt nửa sàn phong phú. Kiểu nhà truyền thống của người Dao được thiết kế
ba gian, chắp ghép lại với nhau bằng những nguyên liệu rời rạc. Người Mông thường
8
xây dựng nhà trệt, không gác. Nhà ở gồm ba gian với kết cấu chắc chắn được làm
bằng gỗ. Gian chính được người dân sử dụng đặt bàn thờ tổ tiên. Gian ngoài dành cho
nam sinh hoạt, gian trong dành cho việc bếp núc.
2.4.2. Văn hóa mặc
* Vùng Đông Bắc
Ở đây, trừ mặt và hai bàn tay để hở, họ bận một cái áo rộng, gần giống kiểu áo
thầy tu, trên cổ rất hẹp, dài từ trên vai xuống hai bàn chân; đầu đội nón không đeo
mạng; vành nón rất rộng tựa như dù che nắng làm bằng là một thứ cây mọc trong xứ,
tờ nọ xếp lên tờ kia rất khéo và khâu liền với nhau bằng một thứ dây lấy ở một cây
thân gai như cây sậy. Nón bán khá đắt nhưng không có gì nhẹ hơn, tiện hơn để che
nắng, hơn cả dù vì dù còn phải cầm tay chớ nón đã có quai rất đẹp buộc từ hai bên
thanh xuống cằm để cho nón khỏi rơi dù có gió mạnh. Thường thường họ mặc áo
mỏng vì quanh năm nóng bức trừ vài ngày rét buốt thôi. Họ không có lệ đánh phấn
nhưng họ nhuộm răng hết sức đen (đàn ông cũng vậy) vì răng càng đen càng quý.
Ngày xưa hồi còn nội thuộc nước Tàu, đàn ông và đàn bà còn bới tóc ngược, chải có
thứ tự và bện bằng lông đuôi ngựa, trên chùm chiếc mão, nhưng từ ngày họ được tự
do, muốn tỏ rằng họ đã thoát ly và khác ý kiến với người Trung Quốc, họ để tóc dài,
phủ xuống vai, không chải. Tóc càng đen, không buộc, dài và để hỗn độn bao nhiêu
lại càng được chuộng. Những đào kép hát, hát bội thường để tóc như vậy, nhất là đào
hát.
*Vùng Tây Bắc
Cũng như nhiều dân tộc khác, trang phục của phụ nữ Thái thể hiện rõ nhất bản
sắc văn hóa dân tộc. Một bộ trang phục nữ Thái gồm: áo ngắn, áo dài, váy, thắt lưng,
khăn piêu, nón, xà cạp, các loại hoa tai, vòng cổ, vòng tay, xà tích... Trong đó, áo
ngắn bó sát người có hàng cúc bướm có thể may bằng nhiều loại vải với màu sắc
khác nhau. Chính hàng khuy bạc hay kim loại đã làm cho xửa cỏm thành chiếc áo đặc
trưng của bộ nữ phục Thái. Theo quan niệm dân gian Thái, hai hàng cúc bạc trên hai
vạt áo xửa cỏm là tượng trưng cho sự kết hợp nam với nữ, tạo nên sự trường tồn của
nòi giống. Phụ nữ Thái còn mặc hai loại áo dài là xửa chái và xửa luổng. Xửa chái
may bằng vải chàm đen, kiểu áo 5 thân, cài cúc phía bên tay trái, cổ đứng, gấu áo phủ
quá đầu gối. Theo tục lệ, phụ nữ có chồng mới mặc xửa chải vào dịp cưới xin, hội hè.
Xửa luổng là áo khoác ngoài, may dài, rộng, chui đầu, có tay hoặc không có tay. Phụ
nữ Thái từ khi còn trẻ đã may loại áo này, một dành cho bản thân khi về già và một
dành biếu mẹ chồng khi về làm dâu. Các cụ già mặc áo xửa luổng lộn trái vào ngày
thường, chỉ khi chết mới mặc mặt phải. So với nữ thì nam phục Thái đơn giản hơn, ít
chứa đựng sắc thái tộc người và cũng biến đổi nhanh hơn. Trang phục nam giới gồm:
áo, quần, thắt lưng và các loại khăn. Áo nam giới có hai loại, áo cánh ngắn và áo dài.
Áo ngắn may bằng vải chàm, kiểu xẻ ngực, tay dài hoặc ngắn, cổ tròn. Khuy áo làm
bằng đồng hay tết thành nút vải. Áo không có trang trí hoa văn chỉ trong dịp trang
trọng người ta mới thấy nam giới Thái mặc tấm áo cánh ngắn mới, lấp ló đôi quả chì
ở đầu đường xẻ tà hai bên hông áo....
2.4.3. Văn hóa ẩm thực
*Vùng Đông Bắc
Tùy theo từng tộc người mà cách thức chế biến thức ăn và khẩu vị của cư dân
Đông Bắc có hương vị riêng. Khi nói đến ẩm thực đặc sản vùng Đông bắc – Việt
Nam chắc hẳn nhiều người sẽ nhớ ngay đến những món ăn dân tộc đầy màu sắc và vô
9
cùng hấp dẫn. Các nguyên liệu, thành phần thú vị được “điều khiển” theo những cách
kỳ lạ để đạt được sự kết hợp hoàn hảo giữa nguyên liệu và hương vị đã đem lại cho
những món ăn vùng Đông bắc nét độc đáo riêng của mình. Món ăn tiêu biểu là:
Khâu nhục hay còn gọi nằm khâu: là món truyền thống của dân vùng cao xứ
Lạng. Được chế biến khá cầu kỳ từ thịt ba chỉ sau khi được ướp kỹ các loại gia vị như
húng lìu, ngũ vị hương, địa liền, mật ong, rượu, … và hấp cách thủy trong thời gian
dài. Thưởng thức khâu nhục với chén rượu cay sẽ thấy ấm lòng hơn giữa thời tiết xứ
lạnh.
Cá nướng Pác Ngòi: Chắc chắn ai cũng muốn được một lần được thử cái cảm
giác ngồi bên bờ hồ Ba Bể mát mẻ và tươi mới, xung quanh là vài người bạn, trước
mặt là vào kẹp cá nướng vừa mới được bắt từ dưới hồ lên nướng hãy còn nóng hổi,
thơm nức, chén nước chấm tương ớt và vài chén rượu ngô cay nồng. Vừa trò chuyện
cười nói vui vẻ, vừa cảm nhận được cái độ dai ngọt, bùi béo của cá, đậm đà, xay xè
của nước chấm và ấm nồng của rượu. Cá trong hồ Ba Bể thường được người dân
đánh bắt thủ công và chế biến hoàn toàn thủ công. Tuy cá không nhiều nhưng cứ đến
đây, chắc chắn bạn sẽ được thưởng thức món cá nướng Pác Ngói Ba Bể đầy mê hoặc
này.
*Vùng Tây Bắc
Phần lớn khẩu vị của người tây bắc là thích những gì đậm đà vì vậy phần lớn
các món ăn nổi bật của người vùng Tây Bắc đểu mang lại cho người thưởng thức
những ấn tượng rất khó quên. Một số mmos ăn tiêu biểu là:
Món canh da trâu: Da trâu sau khi giết được lột và thui sạch lông rồi gác trên
gác bếp cho khô. Để chế biến món canh nấu với bon, người Thái lấy số da khô vừa
đủ đốt cho cháy sùi ra, cạo sạch đến khi trông miếng da có màu vàng ươm, mùi thơm
phức. Sau khi nướng giòn tan, miếng da được bẻ thành từng miếng nhỏ bỏ vào nồi
bon đun nhỏ lửa cho đến nhừ. Trước khi bắc xuống người ta thêm gia vị vào nồi canh
bon này. Nồi canh bon đúng nghĩa là phải có đủ 30 loại gia vị mang hương vị núi
rừng Tây Bắc trong đó gồm những gia vị dễ nhận biết như sả, cà đắng, hạt tiêu, mắc
khèn. Món ăn bổ dưỡng nhưng đậm đà hương vị núi rừng này để lại cảm giác khó
quên cho nhiều thực khách.
Món cá nướng: Người ta dùng các loại cá bản to như chép, mè, trôi, trắm...,
loại to khoảng 1 đến 1.5kg mổ đằng lưng, bỏ ruột, để ráo nước, sau đó xoa một lượt
muối rang nổ vào bên trong cá: Mắc khén, ớt tươi nướng, nghiền nát, hành tỏi, rau
thơm rau mùi thái nhỏ, tất cả trộn đều nhồi vào bụng cá, để một lúc cho ngấm gia vị,
cá cứng; cặp dọc cá, nướng trên than hồng. Cá chín dậy mùi thơm rất riêng, rất độc
đáo. Tục ngữ người Thái có câu: “Pay kin pa, má kin lẩu” (đi ăn cá, về uống rượu);
hàm ý bữa cơm tiễn người đi (chia tay) thì cần phải có cá, bữa cơm đón người về
(sum họp) thì cần phải có rượu. Xem thế đủ biết những món ăn chế biến từ cá nói
chung, món lạp cá nói riêng, có vai trò nhất định trong đời sống giao tiếp của xã hội
Thái. Nó mặc nhiên đi vào vốn văn hoá dân gian, cả trong văn hoá ngôn ngữ lẫn văn
hoá ẩm thực...
2.4.4. Phong tục tập quán
*Vùng Đông Bắc
Phong tục thờ cúng tổ tiên: Trên bàn thờ tổ tiên người Tày đặt ba bát hương.
Một bát thờ Đắm; một bát thờ lộc mệnh; một bát thờ hàm (các chức sắc của tổ tiên).

10
Vì người Tày theo phụ hệ nên những gia đình đón con rể về “nạp tế” thì có thêm bát
hương thứ tư để thờ tổ tiên của người đến làm rể. Bàn thờ tổ tiên được chủ nhân trang
trí đẹp, trang trọng. Đằng sau các bát hương gọi là “chỗ ngồi” thường được chép bằng
chữ Nho trên nền giấy đỏ ghi lại lai lịch dòng họ, công lao xây đắp của các bậc tiền
bối, hoặc những lời giáo huấn khuyên răn con cháu ăn ở hiền lành. Bên trên các bát
hương thờ thường là một câu hoành phi, mỗi bên thường có câu đối với ý nghĩa ca
ngợi công đức của tổ tiên, chẳng hạn như: (Tổ đức lưu phương/Tân niên đại cát).
Nghĩa là: Tiếng thơm của tổ tiên được lưu truyền muôn đời, muôn phương; Năm mới
mọi điều an lành, may mắn. Trong ngày mùng một và ngày rằm, chủ nhà thắp hương
lên bàn thờ tổ tiên. Nếu có điều kiện thì bày hoa quả, không thì dâng hai chén nước
chè ngon. Riêng 3 ngày Tết, chủ nhà lấy nồi nước lá bưởi đun sôi đặt dưới bàn thờ,
cho miếng gang hoặc miếng sắt nung nóng xuống nồi nước để hơi bưởi xông bàn thờ
tổ tiên gọi là “rửa mặt” cho các cụ. Trong ngày tết, ngày lễ, ngày giỗ, đón dâu, làm
nhà mới, ngày đi xa, ngày con cháu đi thi, đi học..., đều thắp hương báo cáo để tổ tiên
phù hộ, độ trì gặp điều may mắn. Đặc biệt, ngày 30 tết, chủ nhà thường là đàn ông
làm nhiệm vụ sửa sang bàn thờ, quét sạch bụi bẩn, đốt rơm lúa nếp sạch lấy tro bù
vào bát hương, cắm lại 1 - 3 chân hương và đặt vào chỗ cũ; lấy nước lá bưởi lau rửa
các đồ thờ. Rửa sạch khay, ấm chén rót nước chè đặt bên dưới mỗi bát hương một
chén. Trước các bát hương, bày khay ngũ quả vào chính giữa, gồm một nải chuối và
các loại quả có hình thù đẹp (kiêng vị đắng, chua, cay); hai bên đặt bánh chưng, bánh
khảo, mứt, kẹo... Dựng mỗi bên bàn thờ một cây mía to, lá được buộc túm cụm vào
nhau như đầu rồng..., bày trí gọn, đẹp tạo được không khí tĩnh lặng và nghiêm trang.
Mâm cúng được bày trí cẩn thận, đặt chính giữa là một con gà luộc nằm sấp có cả
một số bộ phận phụ tạng đã luộc chín, như: tiết, gan, lòng, mề. Phía đầu mâm để 5 bát
ăn cơm, 5 đôi đũa, 5 chén uống rượu, hai bên có cơm canh và các loại thức ăn ngon.
Gà cúng thường là gà thiến sạch hay gà trống choai mới biết gáy tự nuôi mà
có, khỏe mạnh, không khuyết tật, có màu lông đỏ, mào đơn thẳng đứng, mỏ vàng,
chân vàng. Trước khi cúng phải thắp hương vào các bát, đặt vàng mã, tiền giấy và
quần áo giấy lên bàn thờ nhằm hiến tặng tiền, quần áo cho tổ tiên sử dụng trong tết,
đón năm mới. Nếu trong dòng họ có cụ nào trước đây làm thầy Tào, hoặc học hành
đỗ đạt cao làm quan thì cắt quần áo bằng giấy đỏ, là đàn ông thì cắt quần liền áo
ngắn, đàn bà thì cắt váy liền áo dài. Chủ nhà tự bày mâm, thắp hương, rót rượu. Sau
vài lần rót rượu, khi hương cháy chỉ còn khoảng 1/3 thì rót rượu lần cuối, rồi đốt hết
vàng mã, quần áo giấy để kết thúc lễ cúng. Cúng xong phải duy trì việc thắp hương,
bảo đảm đèn sáng liên tục qua đêm giao thừa và ít nhất hết ngày mùng một. Đến
ngày mùng 3 tết, chuẩn bị mâm cúng, vàng mã, quần áo giấy, hóa vàng như lần cúng
ngày 30 tết để kết thúc thờ cúng trong ngày Tết.Tổ tiên với người Tày là “kính
phụng” như sờ thấy, mó thấy. Bàn thờ tổ tiên là nơi linh thiêng nhất trong nhà của
người Tày, tuyệt đối không ai được quay lưng lại phía bàn thờ. Trong làng xóm dẫu
có điều gì bất hòa, xung khắc có thể có vài lời nặng nhẹ với nhau nhưng tuyệt đối
không ai dám đụng chạm đến tổ tiên của nhau.
Lễ cưới: Người Sán Dìu theo chế độ hôn nhân một vợ một chồng. Họ rất tin
tưởng vào tuổi nên trước khi cưới phải nhờ thầy so tuổi xem có hợp nhau thì mới nên
duyên vợ chồng. Các nghi thức lễ cưới của người Sán Dìu trước đây rất cầu kỳ. Một
đám cưới phải qua các bước dạm hỏi gọi là “Hỵ sử nghén giang” sau khi đôi trai gái
ăn ý nhau, nhà trai nhờ ông mối mang lễ vật trầu cau đến nhà gái, nếu bên gái ưng ý
sẽ trao giấy ghi ngày tháng năm sinh của cô gái để nhà trai so tuổi. Để đôi nam nữ
11
thành chồng vợ, hôn nhân của người Sán Dìu không thể bỏ qua một số nghi lễ theo
phong tục.Trước hết là lễ mừng sau khi so tuổi thấy hợp nhà trai đem lễ gồm trầu cau,
bạc trắng để thông báo hai người đã hợp số, từ đó đôi trai gái được tìm hiểu nhau.Sau
đó đến lễ ăn hỏi ông mối đem trầu cau chè rượu đến nhà gái để hai bên bàn thủ tục
cưới.Trước ngày cưới 1 tháng sẽ có lễ nộp cheo, nhà trai đem lễ vật để làng cúng, số
lễ vật đó mời dân làng ăn làm chứng.Cuối cùng sẽ đến lễ cưới chính thức đúng ngày
đã định nhà trai đem lễ vật đã thoả thuận đón cô dâu về. Khi đoàn đón dâu tới ngõ,
nhà trai thường bị nhà gái dùng một sợi dây ngăn qua đường trước cổng vào nhà gái
và hát đố nhà trai, nhà trai đối được thì được mời vào nhà, nếu không đối được phải
bỏ ra một số tiền “nộp phạt” nhà gái mới bỏ dây cho vào. Vào đến nhà, nhà gái nhận
tiền của nhà trai và mời đoàn nhà trai vào ăn cỗ, ăn cỗ xong làm lễ “Khai hoa tiêu”.
Sau đó, trai gái hai họ vui hát suốt đêm, những người của nhà trai ngủ lại ở nhà gái.
Ngày hôm sau, trước khi đến giờ về nhà chồng, cô dâu ra lạy tổ tiên, ông bà, cha mẹ,
chú bác mỗi người hai lạy, cô dâu và một số người nhà gái cùng khóc để tỏ lòng
thương con cháu. Cô dâu bước ra khỏi cửa về nhà chồng được anh trai hoặc anh họ
cõng qua giọt gianh để tỏ lòng lưu luyến nhớ lại lúc bé ôm ẵm nhau. Từ đó cô dâu
được phủ lên đầu hai khăn màu đỏ, đến cổng nhà chồng phải đợi xẩm tối chờ nhà trai
đem trầu nước ra đón mới được vào nhà. Đến nhà chồng, cô dâu được đưa vào buồng
riêng, chú rể chờ sẵn ở cửa buồng và lấy đi một khăn trên đầu, một người phụ nữ đã
có con, không có tang, đủ trai gái hai bề, đạo đức tốt trải chiếu cho họ. Nhà trai tổ
chức cơm rượu cho cả hai bên và nam nữ hai họ lại hát suốt đêm. Đến tối cô dâu
bưng nước ấm cho những người bề trên bên chồng rửa mặt, chân tay, mọi người được
mời rửa ai cũng tặng quà hoặc tiền cho cô dâu. Từ đây, đôi vợ chồng trẻ phải coi ông
mối như bố mẹ phải theo giỗ, tết. Sáng hôm sau cô dâu chào họ hàng nhà trai dưới sự
hướng dẫn chỉ bảo của một người đại diện nhà gái giới thiệu. Lễ lại mặt, được tiến
hành vào ngày thứ tư sau khi làm lễ cưới chính thức, được làm tại nhà gái, bên nhà
trai có bố, mẹ, chồng, cô, dì, chú, bác đều sang và mang theo lễ gồm: một nửa con
lợn cùng gà, gạo nếp, rượu. Nhà gái nhận lễ và cúng gia tiên, từ đây cô dâu về ở hẳn
nhà chồng.
*Vùng Tây Bắc
Tục kéo vợ của người Dao đỏ: Thường vào mùa xuân là lúc những chàng trai
người Dao đỏ đi kéo vợ. Những chàng trai bản người Dao thường kéo vợ rầm rộ nhất
bắt đầu từ ngày 1 Tết âm lịch đến hết rằm tháng Giêng, bởi những thủ tục vào ngày
Tết cũng thường đơn giản, không bị bắt vạ. Tuy nhiên không phải cứ thích ai thì mặc
nhiên được kéo về nhà mà thường các đôi trai gái đã tìm hiểu, phải lòng nhau. Tục
kéo vợ cũng chỉ là một hình thức để cho mọi người quanh bản biết, là cái cớ để người
con gái chính thức bước chân về nhà chồng.
Từ xa xưa đồng bào Thái đã có tục thờ cúng tổ tiên, trong đó thờ cúng ngày
Tết cổ truyền được bà con chú trọng hơn. Bà con thường tổ chức lễ cúng vào ngày
cúng cơm của dòng họ trong những ngày đầu năm mới theo lịch Thái, tính theo lịch
can, chi. Theo quan niệm của đồng bào Thái, muốn có sức khoẻ dồi dào, làm ăn phát
đạt, mùa màng bội thu thì phải chú trọng đến việc thờ cúng tổ tiên. Trước khi bước
vào năm mới chủ nhà sẽ có lời nhờ ông mo đến cúng cho nhà mình, sau đó mới mời
đến anh em họ hàng, làng xóm...Đến ngày cúng cơm của dòng họ, mỗi gia đình sẽ
cho con cháu đến phụ giúp gia chủ làm lễ cúng. Trước ngày làm lễ cúng, từ chiều
hôm trước chủ nhà sẽ chuẩn bị một đĩa trầu, cau, 1 bó lá dong, một con dao, một cái
thớt, 1 cái xiên thịt, 1 cái híp nướng thịt, 1 khẳng xạ (một loại dụng cụ đựng rau) lên
chỗ cọ lọ hóng (gian thờ) để báo trước với tổ tiên. Sau khi đã chuẩn bị xong, chủ nhà
12
đặt mâm cúng ngay cọ lọ hóng (góc trong cùng gian cuối của nhà sàn). Gia chủ
chuẩn bị cho ông mo sổ ghi chép tên của những người đã khuất trong dòng họ để ông
mo gọi mời họ đến ăn tết với con cháu. Theo thứ tự ông mo sẽ mời thân sinh gia chủ
trước sau đó đến tên các cụ những người đã khuất trong dòng họ... Mỗi tên người khi
ông mo gọi đến sẽ bón 3 miếng thịt, 3 thìa măng... vào chỗ thờ cúng tổ tiên của đồng
bào Thái người ta đục lỗ nhỏ để đút vừa miếng thịt gọi là bón ma nhà. Cúng xong
một hồi chủ nhà chuẩn bị sẵn một mâm cúng có thịt gà và đủ các loại như ở mâm trên
gọi là (tam tạy). Cúng xong tam tạy, một mâm cỗ được chủ nhà dọn ra ngoài sàn để
ông mo mời thổ công, thổ địa, ma rừng, ma núi, thần sông suối và cầu khấn phù hộ
cho gia chủ được khoẻ mạnh, làm ăn phát đạt.

13
TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Trần Quốc Vượng, Cơ Sở Văn Hóa Việt Nam, NXB Giáo Dục Việt
Nam, tái bản lần thứ 12
2. Định Thị Hương Giang, Đảm bảo tính thống nhất trong đa dạng văn hóa
của Việt Nam hiện nay, Tạp chí Cộng Sản, ngày 3 tháng 7 năm 2021,
link: https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/van_hoa_xa_hoi/-
/2018/823611/bao-dam-tinh-thong-nhat-trong-da-dang-cua-van-hoa-
viet-nam-hien-nay.aspx
3. GS.TS. Nguyễn Hùng Hậu, Đại cương lịch sử triết học Việt Nam, NXB.
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2010, tr.49-52, link:
http://timhieulichsuvn.blogspot.com/2017/12/nhin-mot-cach-tong-tren-
tang-vi-mo-ta.html
4. GS, TS. Nguyễn Văn Kim; Giá trị ba di sản tiêu biểu của không gian
văn hóa Đông Bắc - Quảng Ninh với quá khứ, hiện tại và tương lai; ngày
12092021, link:
https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/van_hoa_xa_hoi/-
/2018/824043/gia-tri-ba-di-san-tieu-bieu-cua-khong-gian-van-hoa-dong-
bac---quang-ninh-voi-qua-khu%2C-hien-tai-va-tuong-lai.aspx
5. Xuân Hòa, Không gian trưng bày văn hóa các dân tộc vùng Đông Bắc,
Báo Quảng Ninh Điện Tử, ngày 26/07/2020, link:
https://baoquangninh.com.vn/khong-gian-trung-bay-van-hoa-cac-dan-
toc-vung-dong-bac-2493262.html
6. Nguyễn Thế Lượng, Văn hóa Tây Bắc - những mạch nguồn chảy mãi,
Báo điện tử Đảng Cộng Sản Việt Nam, ngày 25/04/2020, link:
https://dangcongsan.vn/tu-tuong-van-hoa/van-hoa-tay-bac-nhung-mach-
nguon-chay-mai-553496.html
7. tamthat-tranganh , Vùng văn hóa dân tộc Tây Bắc (Văn Hóa Tây Bắc),
blogger, link: https://vanhoanvietnam.blogspot.com/2016/04/vung-van-
hoa-dan-toc-tay-bac-van-hoa.html
8. Phạm Ngân, Đặc sắc nghi lễ sinh hoạt văn hóa, lễ hội truyền thống các
dân tộc vùng Đông Bắc, Báo Bắc Cạn Online, ngày 12/09/2015, link:
http://baobackan.com.vn/channel/1042/201509/dac-sac-nghi-le-sinh-
hoat-van-hoa-le-hoi-truyen-thong-cac-dan-toc-vung-dong-bac-2407406/
9. Thế Bình, Đặc sắc văn hóa các dân tộc vùng Đông Bắc, Báo Nhân Dân,
ngày 11-09-2015, link: https://nhandan.vn/di-san/dac-sac-van-hoa-cac-
dan-toc-vung-dong-bac-242333
10. Phạm Vĩnh Hà, Đa dạng văn hóa ở Việt Nam: Lý luận, thực tiễn và vấn
đề chính sách, Viện Hàn Lâm Khoa Học Xã Hội Việt Nam, ngày
15/12/2020, link: https://vass.gov.vn/hoi-nghi-hoi-thao/Da-dang-van-
hoa-o-Viet-Nam-
1229#:~:text=S%E1%BB%B1%20%C4%91a%20d%E1%BA%A1ng%
20v%C4%83n%20h%C3%B3a%20%E1%BB%9F%20Vi%E1%BB%87
t%20Nam%20th%E1%BB%83%20hi%E1%BB%87n,v%C4%83n%20c
14
%E1%BB%A7a%20c%C3%A1c%20t%E1%BB%99c%20ng%C6%B0
%E1%BB%9Di.
11. ThS Đỗ Thị Vân Hà, Đa dạng văn hóa - Tiềm năng của sức mạnh mềm
Việt Nam, Việt Nam hội Nhập, ngày 14/08/2020, link:
http://lyluanchinhtri.vn/home/index.php/thuc-tien/item/3038-da-dang-
van-hoa-tiem-nang-cua-suc-manh-mem-viet-nam.html
12. TS. Nguyễn Quỳnh Trâm, Bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo tại
Việt Nam, Tạp chí nghiên cứu hướng dẫn công tác xây dựng Đảng của
ban tổ chức trung ương, ngày 5/10/2021, link:
http://www.xaydungdang.org.vn/Home/nhan_quyen/2021/15808/Bao-
dam-quyen-tu-do-tin-nguong-ton-giao-tai-Viet-Nam.aspx
13. Thảo My, Trang phục các dân tộc vùng Tây Bắc, Công Thương, ngày
17/04/2020, link: https://congthuong.vn/trang-phuc-cac-dan-toc-vung-
tay-bac-136002.html
14. Minh Giang, Những bộ trang phục đẹp miền Tây Bắc, Điện Biên TV,
ngày21/04/2019 , link: https://dienbientv.vn/tin-tuc-su-kien/van-
hoa/201904/nhung-bo-trang-phuc-dep-mien-tay-bac-5629781/
15. Minh Minh, Rực rỡ sắc màu văn hoá các dân tộc vùng Đông Bắc,
Vietnamnet, ngày 15/10/2018, link: https://vietnamnet.vn/vn/doi-
song/du-lich/ruc-ro-sac-mau-van-hoa-cac-dan-toc-vung-dong-bac-
483289.html

15

You might also like