You are on page 1of 55

ĐẠI CƯƠNG VĂN HOÁ VIỆT NAM

I, Văn hoá vật chất (ăn, mặc, ở, đi lại)


1. Ăn
Tính sông nước và tính thực vật có ảnh hưởng đến văn hoá vật chất của người Việt Nam thể
hiện trước hết trong cơ cấu bữa ăn với ba thành phần chính: Cơm- rau- cá.
Cơm là món ăn cung cấp tinh bột chủ yếu và không thể thiếu trong một bữa ăn (người sống
về gạo cá bạo về nước), từ gạo người Việt mình còn biến táu ra những món ăn khác như: miến,
bánh cuốn, bánh chưng,… Là một đất nước nằm ở khu vực nhiệt đới trung tâm của nghề trồng trọt
nên thực vật đa dạng phong phú và phát triển mạnh nên rau là món không thể thiếu (Ăn cơm không
rau nhưu nhà giàu chết không kèn trống). thức ăn cung cấp đạm chủ yếu của người Việt là cá từ
cá họ còn tạo ra những loại mắm thơm ngon và đậm đà hương vị
Tính tổng hợp: thể hiện trong cách chế biến thức ăn. Các món ăn đều là sản phẩm của sự pha
chế tổng hợp từ nhiều nguyên liệu tạo nên những món ăn đầy màu sắc đa hương vị. trong bữa ăn
cũng sử dụng tổng hợp những món ăn
Tính linh hoạt: Ăn uống theo mùa, theo vùng miền thể hiện lối thích nghi với môi trường tự
nhiên. Thể hiện trong việc chế biến và lựa chọn các món ăn để điều chỉnh làm cân bằng trạng thái
điều hoà của cơ thể (điều hoà âm dương, nóng lạnh) giữa cơ thể với thời tiết và môi trường tự
nhiên. Ngoài ra nó còn được biểu hiện thông qua đôi đũa tạo nên triết lí của người việt (vợ chồng
như đũa có đôi)
Tính cộng đồng: bữa ăn chung các thành viên trong gia đình ăn và phụ thuộc vào nhau. thể
hiện sự quan tâm chia sẻ gắn bó
Tính mực thước lễ nghi: doa ảnh hưởng và cho phối bởi Nho giáo nên khi ăn họ thường mời
những người lớn thái độ ứng xử mực thước (Ăn trông nồi ngồi trông hướng; ăn có mời làm có
mượn)
2. Mặc
Quan điểm thẩm mĩ trong trang phục:
- Coi trọng tính bền chắc
- Thích trang phục kín đáo giản dị
- Ưa các màu âm tính: nâu, đen, chàm, tím,…
- Có ý thức về làm đẹp (Người đẹp về lụa lúa tốt về phân)
Chất liệu trang phục
Do ở xứ nhiệt đới nên chất liệu mau mặc có nguồn gốc chủ yếu từ thực vật mỏng nhẹ như
sợi bông, sợi đay,…Ngày nay có nhiều loại vải cao cấp được sản xuất từ các chất liệu hoá học
nhưng vải tơ tằm vẫn là sang trọng nhất và rất được ưa thích.
Kiểu trang phục truyền thống:
Nữ gồm váy, yếm, áo tứ thân, áo dài, quần lĩnh, khăn chít đầu, thắt lưng. Trong đó váy được
bảo tồn như một văn hoá dân tộc: Chiếc thúng mà thủng hai đầu/ Bên ta thì có bên tàu thì không.
Trong dịp lễ phụ nữ mặc áo dài, áo mớ ba mớ bảy nhiều mày sắc sặc sỡ
Màu sắc chủ đạo là màu trầm tối Bắc nâu Nam đen. Trang phục phản ánh phong cách ưa sự
giản dị kín đáo, cùng sự thích nghi đối với môi trường sống.
Từ đầu thế kỉ XX do ảnh hưởng của Phương Tây áo dài tứ thân đã cách tân thành áo dài hiện
đại
Nam giới thường ngày là áo cánh, quần lá toạ. Ngày Tết thì đội khăn xếp, mặc áo the, quần
ống sớ. sang thế kỉ XX do tác động của phong trào Âu hoá trang phục truyền thống cuả nam giới
đã thay đổi theo phong cách phương Tây (quần Âu, áo sơmi, complet…)
3. Ở
Đối với dân cư nông nghiệp có an cư mới lạc nghiệp cho nên trong quan niệm của người
Việt ngôi nhà là một trong những yếu tố quan trọng đảm bảo cho cuộc sống định cư ổn định. Các
đặc điểm văn hoá nhà ở của người Việt thể hiện sự tận dụng thích nghi với môi trường tự nhiên xã
hội.
Ứng xử với tự nhiên
Vật liệu làm nhà; gỗ, tre, nứa, rơm, rạ, ngói,… thể hiện khả năng sáng tạo trong việc thích
nghi và tận dụng các điều kiện tự nhiên.
Kiến trúc nhà ở mang dấu ấn vùng sông nước: nhà sàn kiểu nhà phổ biến từ thời Đông Sơn
tránh côn trùng thú dữ. sang thời phong kiến chuyển sang kiểu nhà đất, song vẫn thể hiện văn hoá
ống nước quan kiểu mái cong mũi thuyền. Thậm chí dân cư còn dùng thuyền làm nhà ở
Không gian nhà rộng mở xung quanh có cây xanh giao hoà với tự nhiên.
Chọn hướng nhà theo phong thuỷ, cơ sở của quy luật Âm dương- ngũ hành. Hướng nhà ưa
thích là hướng nam hoặc hướng đông nam (lấy vợ hiền hoà làm nhà hướng nam). gió mát từ biển
thổi vào và tránh được nắng nóng.
Nhà ở cấu trúc số gian lẻ, kiêng làm nhà gian chẵn vì quan niệm âm dương ngũ hành số lẻ
là số dương, thể hiện sự sinh sôi phát triển.
Ứng xử với xã hội
Tính gắn kết cộng đồng cao nên chi phối đến kiến trúc nhà ở của người Việt.
Nhà người Việt truyền thống không có vách ngăn thông nhau coi trọng không gian sinh hoạt
cộng đồng giữa các thành viên trong gia đình.
Ranh giới giữa các nhà hành xóm cũng được ngăn tượng trưng bởi hàng rào bằng bụi cây.
Với tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên nên người Việt luôn có gian thờ cúng tổ tiên được đặt ở
trung tâm ngôi nhà, nơi trang trọng nhất.
5. Đi lại
Giao thông đường thuỷ
Do đặc điểm của vùng sông nước có hệ thống sông ngòi chằng chịt, với đường bờ biển dài
3200km nên giao thông đường thuỷ chiếm ưu thế, phát triển trên phần lớn các đô thị Việt Nam là
những cảng sống, cảng biển (Vân Đồn, Thăng Long, Hội An,…)
Cuộc sống sinh hoạt gắn liền với nước nên đã khiến cho hình ảnh sông nước ăn sâu vào tư
suy cách nghãi, được biểu đạt ví von, so sánh: Thuyền về có nhớ bến cahwng bến thì một dạ khăng
khăng đợi thuyền.
Giao thông đường bộ
Kém phát triển do:
- Phương thức sản xuất nông nghiệp ở định cư, khép kín nên như cầu di chuyển ít
- Kinh tế nông nghiệp tiểu nông tự cung tự cấp nên nhu cầu giao lưu, mưa bán trao đổi giữa các
vùng hạn chế
- Địa hình bị chia cắt bởi núi non và sông ngòi dày đặc nên rất khó khăn cho việc làm đường bộ.
Tóm lại, lao động sản xuất ăn mặc ở đi lại đó là những hoạt động để đáp ứng nhu cầu vật
chất của con người nhưng cũng đồng thời qua đó thể hiện sự ứng xử văn hoá của con người trong
môi trường tự nhiên và cộng đồng xã hội. sự ứng xử của người Việt qua các hoạt động vật chất đã
thể hiện rõ nét dấu ấn của loại hình văn háo gốc nông nghiệp trồng trọt, đồng thời cũng thể hiện
khả năng tận dụng thích nghi và ứng phó linh hoạt của người Việt đối với môi trường tự nhiên
vùng sông nước và xứ sở thực vật qua đó thể hiện các đặc trưng văn hoá bản sắc Việt Nam.
II, Câu hỏi cụ thể
Câu 1: Phân tích sự khác nhau ở loại hình văn hoá gốc chăn nuôi du mục và văn háo gốc
nông nghiệp trồng trọt. Lý giải nguyên nhân của sự khác nhau đó.
(Mình làm lồng ý nhé!)
Loại hình văn hoá gốc chăn nuôi du mục hình thành ở phương Tây bao gồm toàn bộ châu
Âu trên cơ sở của phương thức chăn nuôi du mục. Phương Tay là vùng khí hậu lạnh khô địa hình
chủ yếu là thảo nguyên, đồng cỏ rất thích hợp cho nghề chăn nuôi. Do đó, nghề chăn nuôi là nghề
truyền thống cổ xưa của cư dân phương Tây.
Trong khi đó loại hình văn hoá gốc nông nghiệp trồng trọt hình thành ở phương Đông gồm
Châu Á và châu Phi. Phương đông là nơi có khí hậu nóng ẩm mưa nhiều những con sống lớn và
đồng bằng trù phú thích hợp cho nghề trồng trọt phát triển. điều kiện tự nhiên và phương thức sản
xuất nông nghiệp trồng trọt đã hình thành một loại hình văn hoá khác phương tây.
Ở phương Tây, nghề chăn nuôi gia súc đồi hỏi dân cư phải sống nay đây mai đó nên tạo
thành lối sống thích di chuyển. Ngược lại, phương Đông, nghề trồng trọt buộc con người phải có
lối sống định cư ổn định, không thích di chuyển, thay đổi.
Phương tây vì luôn di chuyển nên cuộc sống không lệ thuộc nhiều vào thiên nhiên, coi thường
tự nhiên và có tham vọng chế ngự tự nhiên. Phương đông do trồng trọt là chính nên phụ thuộc
nhiều vào tự nhiên sùng bái tự nhiên và mong muốn hoà hợp với tự nhiên.
Phương tây do sống du cư nên tính gắn kết cộng đồng không cao đề cao lối sống cá nhân
độc đoán trong tiếp nhận cứng rắn trong đối phó. Phương đông cuộc sống yêu cầu phải liên kết để
chống trọi ứng phó với tự nhiên tạo nên tính gắn kết cộng đồng cao.
Phương tây vì cuộc sông du cư cần sức mạnh nên người đàn ông có vị trí cao và rất được coi
trọng tư tưởng trọng võ trọng đàn ông trọng sức mạnh. Ngược lại phương thức sản xuất nông
nghiệp định cư và ổn định ở phương đông tạo nên lối sống trọng tình trọng nghĩa trong văn trọng
phụ nữ chế độ mẫu hệ cũng vì thế mà tồn tại rất lâu đời.
Nghề chăn nuôi du mục ở phương tây đòi hỏi sự khẳng định vai trò của cá nhân thêm vào
đó đối tượng mà hằng ngày con người tiếp xúc là đàn gia súc với từng cá thể độc lập từ đó tạo nên
kiểu tư duy phân tích chú trọng vào từng yếu tố. đây cũng chính là cơ sở cho sự phát triển của
khoa học. Lối sống trọng lí ứng xử theo nguyên tắc thói quen tôn trọng pháp luật cũng được hình
thành. phương đông do nghề trồng trọt phụ thuộc nhiều vào tự nhiên với sự tương tác giữa các yếu
tố: nắng, mưa, đất đai khí hậu giống cây trồng… nên hình thành nên lối tư duy tổng hợp biện
chứng coi trọng quan hệ giữa các yếu tố hơn là sự tách bạch những yếu tố riêng lẻ dẫn đến thái độ
mền dẻo linh hoạt. phương thức sản xuất chủ yếu dựa vào kinh nghiệm đúc kết từ thực tế nên hình
thành nên thái độ chủ quan, cảm tính thay vì tư duy khoa học.
Câu 2: Hãy chứng minh rằng văn hoá Việt Nam thuộc loại hình văn hoá hốc nông nghiệp
trồng trọt điển hình.
Do vị trí địa lí nằm ở trung tâm khu vực Đông Nam Á nên Việt Nam thuộc loại hình văn hoá
gốc nông nghiệp trồng trọt điển hình. Chính vì vậy, tất cả những đặc trưng của loain hình văn háo
gốc nông nghiệp trồng trọt đều được thể hiện rõ nét trong đặc trưng văn hoá Việt Nam.
Văn hoá gốc nông nghiệp trồng trọt biểu hiện rõ nét ở Việt Nam qua những đặc điểm sau:
Người Việt Nam từ trước đến nay đều ưa thích một cuộc sống định cư ổn định (An cư lạp
nghiệp) vì vậy đã tạo nên tính gắn bó với quê hương xứ sở, với làng, với nước. Tuy nhiên cũng
chính điều đó tại nên lối sống tự trị khép kín, hướng nội hạn chế giao lưu, mở rộng mối quan hệ
với bên ngoài.
Cư dân Việt Nam rất sùng bái tự nhiên luôn mong muốn mưa thuận gió hoà để có cuộc sống
đầy no đủ. Câu cửa miệng của người Việt là “Ơn trời” “Nhờ trời”. Các tín ngưỡng và lễ hội sùng
bái tự nhiên rất phổ biến trên khắp mọi vùng miền đất nước đặc biệt là các dân tộc thiểu số.
Cuộc sống định cư giúp cho người Việt có tính gắn kết cộng đồng cao, tinh thần đoàn kết
vững mạnh ( Ban anh em xa mua láng giềng gần; một con ngựa đau cả tàu bỏ cỏ, lụt thì lút cả
làng)
Sự gắn bó cộng đồng tạo nên lối sống trọng tình (lá lành đùm lá rách, chị ngã em nâng, môi
hở răng lạnh, bầu ơi thương lấy bí cùng tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn,…)
Cuộc sống định cư ổn định dân đến vai tò chăm lo vun vén của người phụ nữ. Thêm nữa nghề
trồng trọt đồng áng cũng là công việc phù hợp với phụ nữ do đó vai trò của người phụ nữ được tôn
trọng đề cao (Ruộng sâu trâu nái không bằng con gái đầu lòng, lệnh ông không bằng còng bà, ba
đồng một mớ đàn ông, đem bỏ vào lồng cho kiến nó tha, ba trăm một mụ đàn bà, đem về mà trải
chiếu hoa cho ngồi,…). Sau này do sự ảnh hưởng chi phối của Nho giáo mới hình thành tư tưởng
trọng nam khinh nữ như ngày nay. Tuy nhiên hiện nay một số dân tộc không bị ảnh hưởng bởi tư
tưởng này vẫn duy trì chế độ mẫu hệ như chăm, Ê ĐÊ, Gia lai,…
Lối sống tư duy tổng hợp biện chứng kết hợp với lối sống trọng tình đã hình thành nên lối ứng
xử mềm dẻo linh hoạt được thể hiện rõ trong quan điểm sống của người Việt (Tuỳ cơ ứng biến, ở
bầu thì tròn ở ống thì dài )
Kiểu tư duy nặng về kinh nghiệm chủ quan, cảm tính cũng thể hiện rõ trong văn hoá nhận
thức ứng xử của người Việt: côi trọng kinh nghiệm chủ quan hơn là cơ sở khách quan và tri thức
khoa học (Nhìn mặt mà bắt hình dong).
Từ sự phân tích ở trên đã đủ cho thấy rằng Việt Nam là điển hình của loại hình văn hoá gốc
nông nghiệp trồng trọt.
ÂM DƯƠNG, NGŨ HÀNH
* Nội dung cơ bản của triết lí Âm – Dương
- Bản chất của triết lí Âm – Dương
Âm dương là hai khái niệm để chỉ hai thực thể đối lập ban đầu tạo nên toàn bộ vũ trụ. Âm thể
hiện cho những gì yếu đuối nhỏ bé, tối tăm, thụ động, nữ tính, mềm mại ...đối lập nó là dương thể
hiện sự mạnh mẽ, cho ánh sáng, chủ động, nam tính, cứng rắn ...Triết lý giải thích vũ trụ dựa trên
âm và dương được gọi là triết lý âm dương mà bản chất của nó là sự kết hợp giữa các mặt đối lập.
- Hai qui luật của triết lí Âm – Dương
+ Quy luật về bản chất của các thành tố
Không có gì hoàn toàn âm hoặc hoàn toàn dương, và
Trong âm có dương, trong dương có âm.
Quy luật này cho thấy việc xác định một vật là âm hay dương chỉ là tương đối, trong sự so sánh
với một vật khác. Ví dụ về trong âm có dương: đất lạnh nên thuộc âm nhưng càng đi sâu xuống
lòng đất thì càng nóng; về trong dương có âm: nắng nóng thuộc dương, nhưng nắng nhiều sẽ có
mưa nhiều (hơi nước bay lên) làm nên mưa lạnh thuộc âm. Chính vì thế mà việc xác định tính âm
dương của các cặp đối lập thường dễ dàng. Nhưng đối với các vật đơn lẻ thì khó khăn hơn nên có
hai hệ quả để giúp cho việc xác định tính âm dương của một đối tượng:
Muốn xác định được tính chất âm dương của một đối tượng thì trước hết
phải xác định được đối tượng so sánh. Màu trắng so với màu đỏ thì là âm, nhưng so với màu đen
thì là dương. Ta có thể xác lập được mức độ âm dương cho nhiều hệ; ví dụ, về màu sắc thì đi từ
âm đến dương ta có đen-trắng-xanh-vàng-đỏ (đất "đen" sinh ra mầm lá "trắng", lớn lên thì chuyển
thành "xanh", lâu dần chuyển thành lá "vàng" và cuối cùng thành "đỏ")
Muốn xác định được tính chất âm dương của một đối tượng thì phải xác định được cơ sở so sánh.
Ví dụ, nước so với đất thì, về độ cứng thì nước là âm, đất là dương; nhưng về độ linh động thì
nước là dương, đất là âm.
+ Quy luật về quan hệ giữa các thành tố
Âm dương gắn bó mật thiết với nhau, vận động và chuyển hóa cho nhau, và
Âm phát triển đến cùng cực thì chuyển thành dương, dương phát triển đến cùng cực thì chuyển
thành âm.
Ngày và đêm, tối và sáng, mưa và nắng, nóng và lạnh, ...luôn chuyển hóa cho nhau. Cây màu xanh
từ đất "đen", sau khi lớn chín "vàng" rồi hóa "đỏ" và cuối cùng lại rụng xuống và thối rữa để trở
lại màu "đen" của đất. Từ nước lạnh (âm) nếu được đun nóng đến cùng cực thì bốc hơi lên trời
(thành dương), và ngược lại, nếu được làm lạnh đến cùng cực thì nó sẽ thành nước đá (thành âm).
Tất cả các quy luật trên được thể hiện đầy đủ trong biểu tượng âm dương nói lên bản chất và sự
chuyển hóa của âm và dương.
* Ảnh hưởng của Triết lí Âm – Dương đến nhận thức và tính cách người Việt
Trong khi Đông Bắc Á là trung gian giữa Đông Nam Á và phương Tây thì Việt Nam là trung gian
giữa phần còn lại của Đông Nam Á với Đông Bắc Á. Việt Nam vừa nằm trong Đông Nam Á là
cái nôi sinh ra triết lý âm dương nguyên thủy, lại vừa nằm trong vòng ảnh hưởng của Trung Hoa
là nơi tạo nên triết lý âm dương hoàn thiện nên tính cách của người Việt thể hiện ảnh hưởng của
tư duy âm dương rất mạnh.
+ Tính ưa hài hòa
Tính cách thứ nhất thuộc loại này là tính ưa hài hòa, còn có thể gọi là tư duy Lưỡng phân lưỡng
cực. Nó thể hiện ở chỗ, người Việt Nam nắm rất vững quy luật “trong âm có dương, trong dương
có âm”.
(a) Trong kho tàng tục ngữ ca dao Việt Nam, có các câu phản ánh nhận thức dân gian về quy luật
“trong âm có dương, trong dương có âm”, kiểu như: Trong rủi có may, trong dở có hay, trong họa
có phúc; Người có lúc vinh lúc nhục, nước có lúc đục lúc trong, v. v..
(b) Do nắm vững quy luật “trong âm có dương, trong dương có âm” nên ở Việt Nam, mọi thứ
thường thể hiện theo cặp đôi tạo nên âm dương hài hòa. Tổ quốc là “đất - nước”, “non - nước”,
“non - sông”. Người Êđê có sông đực và sông cái (krông nô và krông ana). Trống đồng của người
Ê-đê, Lô Lô có trống đực và trống cái. Câu hò trong dân gian có một vế trống và một vế mái (câu
hò mái hai, mái ba có nghĩa là một câu trống đi với hai hoặc ba câu mái). Anh hùng dân tộc Trần
Hưng Đạo và nàng Liễu Hạnh vốn chẳng có liên quan gì với nhau và sống cách nhau tới ba thế kỷ,
nhưng khi được tôn lên làm thánh, nhân dân bèn ghép lại thành đôi Cha - Mẹ (Tháng Tám giỗ Cha,
tháng Ba giỗ Mẹ - tục ngữ).
(c) Trong khi thủy tổ của người Hán là một ông Bàn Cổ, của người Hàn là một ông Dangun (Đàn
Quân) thì thủy tổ của người Việt là cặp đôi Lạc Long Quân và Âu Cơ biểu hiện cho Rồng và Tiên
(cá sấu và chim); thủy tổ của người Mường là chàng Hươu và nàng Cá, v. v..
Người Chăm có hai bộ tộc là tộc cau (đặc, dương) và tộc dừa (rỗng, nước, âm). Người Chân Lạp
sống ở hai vùng là Thủy Chân Lạp (âm) và Lục Chân Lạp (dương). Ở Tây Nguyên từng tồn tại
trong một thời gian dài hai nhà nước Thủy Xá (Pơtao Ia) và Hỏa Xá (Pơtao Pui).
(d) Ngay cả những khái niệm đơn độc của dân tộc khác khi du nhập vào Việt Nam cũng được nhân
đôi thành cặp: Thần mai mối ở Trung Hoa chỉ là một ông Tơ Hồng thì vào Việt Nam được nhân
đôi thành ông Tơ và bà Nguyệt. Người Hoa ở Chợ Lớn (Tp. Hồ Chí Minh) dựng lên hai miếu thờ
Quan Công và Thiên Hậu riêng rẽ thì người Việt ở đây lập tức ghép hai nhân vật vốn không liên
quan gì với nhau ấy thành một cặp và gọi hai miếu đó là “chùa Ông - chùa Bà” (xem hình 4).
+ Triết lý sống quân bình
Nếu việc nắm vững quy luật “trong âm có dương, trong dương có âm” tạo nên tính ưa hài hòa thì
việc nắm vững quy luật “âm dương chuyển hóa” đã giúp người Việt có được triết lý sống quân
bình.
(a) Trong kho tàng văn hóa dân gian người Việt, có các câu tục ngữ phản ánh nhận thức về quy
luật âm dương chuyển hóa, kiểu như: Sướng lắm khổ nhiều; quan cả vạ to; trèo cao ngã đau; ghét
của nào trời trao của nấy; v. v..
(b) Từ đó dẫn đến triết lý sống quân bình, vừa phải: Trong việc ăn, không ăn nhanh quá, không ăn
chậm quá; không ăn hết sạch, không để thừa nhiều. Trong ứng xử thì ở sao cho vừa lòng người,
ở rộng người cười, ở hẹp người chê. Trong giao tiếp thì đề cao cách nói nước đôi: Làm trai nước
hai mà nói; người khôn ăn nói nửa chừng, để cho người dại nửa mừng nửa lo, v. v.. Ngay cả khi
ước vọng cũng không tham lam: Cầu sung vừa đủ xài.
(c) Triết lý sống quân bình được thể hiện không chỉ nơi người sống mà cả nơi người chết: Trong
mộ cổ ở Lạch Trường (Thanh Hóa) vào thế kỷ III TCN., các đồ vật tùy táng bằng gỗ (dương) được
đặt ở phía Bắc (âm) và các đồ vật bằng gốm (âm) được đặt ở phía Nam (dương)
(d) Trong khi biểu tượng âm dương truyền thống của Trung Hoa là hai vạch ngắn “- -” với một
vạch dài “¾” của bát quái và hình tròn chia hai nửa bằng chữ S của Đạo giáo thì biểu tượng âm
dương truyền thống khá bền vững của Việt Nam là cặp hình vuông - tròn. Ý niệm vuông - tròn
với nghĩa là sự hài hòa, quân bình, do vậy mà viên mãn, hoàn chỉnh được thể hiện khắp nơi: Từ ý
niệm (ví dụ: “cuộc vuông tròn” = hôn nhân), qua phong tục (bánh chưng bánh dày), đến các hiện
vật.

Cái cối giã gạo của người Kh’mer có hình trong tròn, ngoài vuông. Trong tròn là để thuận tiện cho
việc giã gạo, còn ngoài vuông thì mang ý nghĩa biểu tượng âm dương thuần túy thể hiện sự hài
hòa. Năm 1995 chúng tôi đã phát hiện ra rằng hình “tròn ngoài vuông trong” ở rìa ngoài mặt trống
đồng Thôn Mống (Nho Quan, Ninh Bình) của Việt Nam mà lâu nay được miêu tả là “trang trí bằng
hình đồng tiền” có liên quan mật thiết với hình “vuông ngoài tròn trong” trên rìa trống Yên Bồng
(Lạc Thủy, Hòa Bình) và chính là những hình biểu tượng âm dương “tròn vuông” và “vuông tròn”
lồng vào nhau. Tiền đồng cổ với lỗ vuông của Tần Thủy Hoàng xuất hiện sau đó.

Triết lý sống quân bình có nguồn gốc từ phương Nam được Khổng Tử và Lão Tử tiếp nhận thành
tư tưởng trung dung, trung đạo và được xem như một phẩm chất mà nho sĩ, đạo sĩ phải rèn luyện
để hướng đến. Chính bởi chứa đựng những tư tưởng vay mượn khác thường này mà Nho gia và
Đạo gia nguyên thủy đều không được xã hội đương thời đề cao. Về bản chất, văn hóa Trung Hoa
(phương Bắc) mang tính cực đoan hơn nhiều so với văn hóa phương Nam: Nho giáo coi trọng lễ
nghi một cách cực đoan; Đạo giáo vô vi một cách cực đoan; Phật giáo Thiền tông thì phá chấp một
cách cực đoan.
+ Tính linh hoạt
Chính triết lý quân bình âm dương đã tạo ra ở người Việt một lối sống chừng mực và linh hoạt.
Trong khi gốc văn hóa du mục lại tạo nên ở người Hán tính cực đoan với quyết tâm cải tạo hoàn
cảnh (vd: hình tượng Tinh Vệ lấp biển, Ngu Công dời núi) thì người Việt Nam có xu hướng thích
nghi với mọi hoàn cảnh (ở bầu thì tròn, ở ống thì dài; Đi với Bụt mặc áo cà sa, đi với ma mặc áo
giấy - tục ngữ). Nếu văn hóa Trung Hoa (phương Bắc) coi trọng cuộc sống thế tục thì văn hóa
Việt Nam coi trọng tương lai (tinh thần lạc quan): Khi nhỏ mà khổ thì tin rằng về già sẽ sướng,
suốt đời khổ thì tin rằng đời con mình sẽ sướng: Không ai giàu ba họ, không ai khó ba đời; Nhất
sĩ nhì nông, hết gạo chạy rông, nhất nông nhì sĩ (tục ngữ).
Tính cách người Việt với những biểu hiện mang tính dân gian nguyên thủy như trên cho thấy rõ
ràng ảnh hưởng sâu đậm của triết lý âm dương. Chúng hoàn toàn khác xa với truyền thống văn
hóa dân gian Trung Hoa tương ứng. Đó cũng chính là những bằng chứng bổ sung, củng cố thêm
cho kết luận của chúng tôi về nguồn gốc Đông Nam Á của triết lý âm dương.
Các quy luật vận động của Ngũ hành. Phân tích một số ứng dụng của Ngũ hành trong văn
hóa Việt Nam.
* Các quy luật vận động của Ngũ hành
Tương sinh: Giữa Ngũ Hành có mối quan hệ nuôi dưỡng, giúp đỡ, thúc đẩy nhau, đó là quan hệ
Tương sinh. Còn bao hàm ý là hành nào cũng có quan hệ trên hai phương diện: cái sinh ra nó (sinh
nhập) và cái nó sinh ra (sinh xuất).
– Mộc sinh Hỏa
– Hỏa sinh Thổ
– Thổ sinh Kim
– Kim sinh Thủy
– Thủy sinh Mộc
Tương khắc: Giữa Ngũ Hành có mối quan hệ ức chế nhau để giữ thế quân bình, đó là quan hệ
Tương khắc. Trong tương khắc, mỗi hành cũng lại có hai mối quan hệ: cái khắc nó (khắc nhập)
và cái nó khắc (khắc xuất).
– Mộc khắc Thổ
– Thổ khắc Thủy
– Thủy khắc Hỏa
– Hỏa khắc Kim
– Kim khắc Mộc
Tương thừa (Thừa: thừa thế lấn áp): Trong điều kiện bất thường, Hành này khắc hành kia quá
mạnh, khi đó mối quan hệ Tương khắc biến thành quan hệ Tương thừa. Chẳng hạn: bình thường
Mộc khắc Thổ, nếu có một lý do nào đó mà Mộc tăng khắc Thổ, lúc đó gọi là Mộc thừa Thổ.
Tương vũ (Vũ: hàm ý khinh hờn): Nếu Hành này không khắc được Hành kia thì quan hệ Tương
khắc trở thành quan hệ Tương vũ. Chẳng hạn: bình thường Thủy khắc Hỏa, nếu vì một lý do nào
đó làm Thủy giảm khắc Hoả (nói cách khác: Hỏa “khinh hờn” Thủy) thì lúc đó gọi là Hỏa vũ Thủy.
Quy luật chế hóa Ngũ Hành:
– Mộc khắc Thổ – Thổ sinh Kim – Kim khắc Mộc
– Hỏa khắc Kim – Kim sinh Thủy – Thủy khắc Hỏa
– Thổ khắc Thủy – Thủy sinh Mộc – Mộc khắc Thổ
– Kim khắc Mộc – Mộc sinh Hỏa – Hỏa khắc Kim
– Thủy khắc Hỏa – Hỏa sinh Thổ – Thổ khắc Kim
* Một số ứng dụng của Ngũ hành trong văn hóa Việt Nam
Ngũ hành có ứng dụng rất rộng rãi. Sở dĩ như vậy là vì các hành trong Ngũ hành là những khái
niệm vừa cụ thể, vừa trừu tượng, chúng rất đa nghĩa.
Về mặt văn hóa, đáng chú ý là hệ thống các màu biểu và vật biểu theo Ngũ hành:
Về màu biểu
Hai màu đen, đỏ mang tính đối lập âm/dương rõ rệt nhất nên ứng với 2 hành Thủy – Hỏa (2 phương
Nam – Bắc). Hai màu xanh, trắng cũng đối lập âm dương nhưng kém rõ rệt hơn, ứng với 2 hành
Mộc – Kim. Màu vàng ứng với hành thổ ở trung ương.
Về vật biểu
Rùa – chim – rồng – hổ - người. Đáng chú ý là trong số vật biểu cho 5 phương thì đã có 3 là
những động vật tiêu biểu của vùng Nam sông nước – chim, rồng, rùa; thành ngữ VN có câu: nhất
điểu, nhì xà, tam ngư, tứ tượng.
Phương Nam: Chim: loài vật luôn quy tụ về phương nam nắng ấm. Không phải ngẫu nhiên
mà người Lạc Việt xưng là dòng dõi họ Hồng Bàng (1 loài sếu lớn) và trên các trống đồng là cả
một thế giới các loài chim, con người cũng dùng lông chim để hóa trang.
Phương Đông: Rồng.: con vật do người Bách Việt tưởng tượng ra trên cơ sở nguyên mẫu là
cá sấu và rắn. Tính cách trọng tình cảm, hiếu hòa của người nông nghiệp đã biến con cá sấu
nguyên mẫu ác độc thành con rồng tưởng tượng cao quý, hiền lành. Rồng còn là con vật mang đủ
tính tổng hợp và linh hoạt của văn hóa nông nghiệp với các đối lập nước/lửa, nước/trời (sinh ra từ
nước rồi bay lên trời và phun lửa) linh hoạt tới mức không cần cánh mà vẫn có thể bay lên trời
được.
Phương Tây: Hổ: con vật đại diện rất phù hợp cho văn hóa gốc du mục trọng động, trọng sức
mạnh.
Phương Bắc: Rùa: là phương của hành Thủy: nước là cái có tầm quan trọng số một (sau đất)
đối với nghề nông lúa nước mà con rùa thì gắn liền với nước.
Trung ương: người: cai quản bốn phương, muôn loài.

Vật biểu của hành/phương nào thì mang theo màu biểu của hành/phương ấy. Cho nên khi xã hội
có vua, mà vua thì cai quản con người, con người cai quản muôn loài, thành ra Vua mới giành lấy
màu vàng (màu của hành thổ, của Trung ương, của con người) làm của riêng cho mình. Vua mặc
áo màu vàng là vì vậy.
Trong truyền thống dân gian, ta thường bắt gặp nhiều ứng dụng của ngũ hành. Chẳng hạn, người
Việt trị tà ma bằng bùa Ngũ sắc, bằng bức tranh dân gian Ngũ hổ vẽ 5 con hổ ở 5 phương với 5
màu theo ngũ hành với ý nghĩa: Hổ tượng trưng cho sức mạnh, trấn trị ở khắp phương, tà ma không
còn lối thoát. Ở các lễ hội sử dụng những cờ hình vuông mau bằng vải 5 màu theo ngũ hành.
Không gian vũ trụ đối với Việt Nam không phải bốn phương mà là 5 phương theo Ngũ hành,
không phải 8 hướng mà là 9 hướng. Cũng không phải ngẫu nhiên mà 6 ngọn núi ở Non nước
(Quảng Nam) được quy về 5 để gọi là Ngũ Hành Sơn. Ở lăng Trần Thủ Độ (Thái Bình) có đặt
tượng hổ đá phía tây, rồng ở phía đông, phượng (chim) ở phía nam, rù ở phía bắc, mộ Trần Thủ
Độ ở giữa theo đúng quy định vật biểu trong Ngũ hành.
Một điều rất đáng chú ý là trong các ứng dụng dân gian của Ngũ hành ngoài trung ương là vị trí
trung tâm thì phương nam và phương đông (phương của văn hóa gốc nông nghiệp) thường được
coi trọng hơn bắc và tây (phương của văn hóa gốc du mục). Chẳng hạn trong truyền thuyết Nam
Tào – Bắc Đẩu, trong khi thần Nam Tào giữ sổ sinh ở phương Nam thì Bắc đẩu giữ sổ tử lại ở
phương bắc(bên phải Ngọc Hoàng). Trong khi màu đỏ là màu của niềm vui và sự tốt lành, màu
xanh là màu của sự sống, thì màu trắng là màu của chết chóc, màu đen là màu tang thứ 2.
Một hướng khác đi theo con đường phân đôi cặp lưỡng nghi Âm – dương thành Tứ tượng, rồi từ
tứ tượng phân đôi tiếp thành Bát quái. Để trừ tà ma, trong dân gian phương Nam sử dụng Ngũ
hành làm bùa thì người phương bắc dùng bát quái làm bùa.
Câu 5. Hãy chỉ ra mối liên hệ giữa thuyết âm dương – Ngũ hành với sự hình thành các triết
lý sống của người Việt.
Thuyết âm dương là một triết lý sống cơ bản và phổ biến ở Phương Đông nói chung và Việt
Nam nói riêng. Đây là khái niệm chỉ hai thực thể đối lập ban đầu tạo nên toàn bộ vũ trụ, nó gồm
hai quy luật cơ bản là quy luật về bản chất của các thành tố ( không có gì hoàn toàn âm, không có
gì hoàn toàn dương, và trong âm có dương, trong dương có âm) quy luật về quan hệ giữa các thành
tố ( âm dương gắn bó mật thiết với nhau, vận động và chuyển hóa cho nhau, âm phát triển đến
cùng cực thì chuyển thành dương, dương phát triển đến cùng cực thì chuyển thành âm ). Khi nhận
thức con người tiến bộ hơn, cảm thấy thuyết âm dương không còn đủ để giải thích thế giới, vũ trụ,
bằng nhận thức mộc mạc đã hình thành nên thuyết ngũ hành. Theo thuyết này thì mọi vật đều được
cấu tạo từ năm thành tố là: kim, mộc, thủy, hỏa, thổ. Nó gồm hai quy luật cơ bản là luật tương sinh
và luật tương khắc, mối quan hệ này biểu hiện cái ý thăng bằng và giữ gìn, chuyển hóa lẫn nhau.
Thuyết âm dương – ngũ hành có ảnh hưởng rất lớn tới người Việt và từ đó hình thành nên các triết
lý sống cơ bản của người Việt từ xưa đến nay.
Tính cách thứ nhất thể hiện ảnh hưởng của tư duy âm dương đến triết lý sống của người Việt
đó là tính ưa hài hòa, tính cách này chính là thể hiện quy luật “trong âm có dương, trong dương có
âm”. Điều này khá đơn giản khi chỉ cần nhìn vào những câu ca dao tục ngữ của dân tộc là ta có
thể thấy được, ví dụ như “trong rủi có may” “trong dở có hay” “ trong họa có phúc” “ người có lúc
vinh lúc nhục, nước có lúc đục lúc trong”.... Nắm vững quy luật này nên ở người Việt mọi thứ
thường thể hiện theo cặp đôi tạo nên âm dương hài hòa. Tổ quốc là “đất-nước” là “non-nước” là
“non-sông”. Người Ê-Đê có sông đực và sông cái (Krông nô và Krông ana), thủy tổ của người
Việt là Lạc Long Quân và Âu Cơ, một người sống dưới biển một người sống trên rừng. Tính cách
thứ hai thể hiện ảnh hưởng của tư duy âm dương đến triết lý sống của người Việt đó là triết lý sống
quân bình, tính cách này chính là quy luật “âm dương chuyển hóa”. Khi nhìn vào trong kho tàng
ca dao tục ngữ của người Việt thì ta bắt gặp những câu tục ngữ phản ánh quy luật này như “sướng
lắm khổ nhiều” “quan cả vạ to” “trèo cao ngã đau”. Từ triết lý sống quân bình này người Việt hình
thành cách ứng xử vừa phải, trong việc ăn thì không ăn nhanh quá, không ăn chậm quá, không ăn
hết sạch, không ăn để thừa nhiều. Trong việc ứng xử thì ở sao cho vừa lòng người, “ở rộng người
cười, ở hẹp người chê”, “giàu quá thì ghét mà nghèo quá thì khinh”. Trong giao tiếp thì đề cao
cách nói nước đôi, làm trai nước hai mà nói, người khôn ăn nói nửa chừng để cho thiên hạ nửa
mừng nửa lo... Biểu tượng âm dương được người Việt thể hiện qua cặp hình vuông tròn, ý niệm
vông với tròn nhằm thể hiện sự hài hòa, quân bình, do vậy mà được viên mãn hoàn chỉnh, ví dụ
như “mẹ tròn con vuông” hôn nhân thì có “cuộc sống vuông tròn”, hiện vật thì có đồng tiền ngoài
tròn trong có lỗ vuông. Tính cách thứ ba thể hiện ảnh hưởng của tư duy âm dương lên triết lý sống
của người Việt đó là tính linh hoạt, nó được hình thành thông qua triết lý quân bình của âm dương,
đấy là lối sống có chừng mực, linh hoạt. Trong khi đối với với những nơi gốc văn hóa du mục ở
người Hán có xu hướng có tính cực đoan với quyết tâm cải tạo hoàn cảnh ( Tinh Vệ lấp biển, Ngu
Công dời núi ) thì ở dân tộc Việt có xu hướng thích nghi với mọi hoàn cảnh ( ở bầu thì tròn, ở ống
thì dài; đi với Bụt mặc áo cà sa, đi với ma mặc áo giấy ). Văn hóa người Việt có xu hướng coi
trọng tương lai với tính thần lạc quan “khi nhỏ khổ thì về già sướng” “đời mình khổ thì đời con
sướng” “không ai giàu ba họ, không ai khó ba đời”. Với những tính cách trên của người Việt cho
thấy ảnh hưởng rất lớn, sâu đậm đến từng ngõ ngách dù là nhỏ nhất trong cuộc sống người Việt
bởi triết lý âm dương.
Khi nhận thức con người tiến bộ hơn, cảm thấy thuyết âm dương không còn đủ để giải thích
thế giới và vũ trụ, bằng nhận thức mộc mạc đã hình thành nên thuyết ngũ hành. Cũng như thuyết
âm dương, thuyết ngũ hành có ảnh hưởng sâu đậm hình thành nên triết lý sống cơ bản của người
Việt. Ngũ hành có 5 hành là kim, mộc, thủy, hỏa, thổ gồm các quy luật vận động là tương sinh (
ngũ hành có mối quan hệ nuôi dưỡng, giúp đỡ, thúc đẩy nhau. Cái sinh ra nó và cái nó sinh ra )
và tương khắc ( giữa ngũ hành có mối quan hệ ức chế nhau để giữ thế quân bình, mỗi hành có hai
mối quan hệ là cái khắc nó và cái nó khắc ). Ngũ hành có ứng dụng rất rộng rãi trong đời sống văn
hóa của người Việt. Về màu biểu có hai màu là đen đỏ mang tính đối lập âm-dương rõ rệt nhất và
ứng với 2 hành là Thủy – Hỏa (cũng là 2 phương nam-bắc). Hai màu xanh trắng cũng đối lập âm
dương nhưng kém rõ rệt hơn, ứng với 2 hành Mộc – Kim. Màu vàng ứng với hành thổ ở trung
ương. Về vật biểu có 5 hình tượng: rùa – chim – rồng – hổ - người, đáng chú ý là trong số vật biểu
cho 5 phương thì đã có 3 là những động vật tiêu biểu của vùng Nam sông nước gồm chim, rồng,
rùa thành ngữ Việt có câu “nhất điểu, nhì xà, tam ngư, tứ tượng”. Trong truyền thống dân gian, ta
thường bắt gặp nhiều ứng dụng của ngũ hành. Chẳng hạn người Việt trị tà ma bằng bùa ngũ sắc,
bằng bức tranh dân gian ngũ hổ vẽ 5 con hổ ở 5 phương với 5 màu theo ngũ hành với ý nghĩa hổ
tượng trưng cho sức mạnh, trấn trị ở khắp phương, tà mà không có lối thoát. Ở các lễ hội sử dụng
những cờ hình vuông may bằng vải 5 màu theo ngũ hành. Cũng không phải ngẫu nhiên mà 6 ngọn
núi ở Quảng Nam được quy về 5 để gọi là Ngũ Hành Sơn. Học thuyết âm dương đã cho thấy rõ sự
vật, hiện tượng trong thế giới khách quan với hai mặt đối lập thống nhất đó là âm và dương. Âm
dương là quy luật chung của vũ trụ, là kỉ cương của vạn vật, là khởi đầu của sự sinh trưởng biến
hóa. Nhưng thuyết âm dương sẽ gặp khó khăn khi lý giải sự biến đổi phức tạp của vật chất, khi đó
nó phải dùng thuyết ngũ hành để giải thích. Vì vậy kết hợp âm dương và ngũ hành mới có thể giải
thích mọi hiện tượng tự nhiên và xã hội một cách hợp lý.
Học thuyết âm dương, ngũ hành đã ảnh hưởng đến tính cách của người Việt trong mọi mặt
của đời sống từ văn hóa giao tiếp, văn hóa ăn ở, lối suy nghĩ, tín ngưỡng cho đến tư duy hình khối.
Trong văn hóa giao tiếp trọng tình cảm, trong ứng xử coi trọng cái tình. Chính vì vậy trong cuộc
sống họ cố gắng không để mất lòng ai, thấm nhuần thuyết quân bình. Học thuyết âm dương, ngũ
hành cũng đã tạo cho người Việt một lối sống linh hoạt với khả năng thích nghi cao trong mọi
hoàn cảnh, dù có khó khăn đến đâu họ cũng không chán nản, sống bằng tinh thần lạc quan và
hướng đến tương lai. Đó là một nét đẹp trong đời sống văn hóa tinh thần và tạo nên bản sắc riêng
cho dân tộc Việt Nam. Nhưng bên cạnh đó thuyết âm dương, ngũ hành cũng có một số tác động
hạn chế đến lối sống của người Việt, ví dụ như từ trọng sự quân bình đưa đến tư tưởng bình quân
chủ nghĩa và thái độ nước đôi “hòa cả làng” “dĩ hòa vi quý” “chín bỏ làm mười”. Bên cạnh sự linh
hoạt giỏi ứng phó là sự tùy tiện, đại khái, làm không đến nơi đến chốn, thờ ơ vô trách nhiệm, tính
lạc quan cũng nhiều khi đưa đến sự tự mãn, thiếu thực tế

Câu 3: Hãy chỉ ra khả năng tận dụng, thích nghi và ứng phó với môi trường tự nhiên của
người Việt được thể hiện ở lĩnh vực văn hoá vật chất
Trong văn hóa sản xuất vật chất, người Việt đã biết tận dụng và ứng phó với môi trường tự
nhiên. Từ điều kiện tự nhiên nóng ẩm, mưa nhiều… thuận lợi phát triển nghề nông trồng lúa nước
và giữa vị trí chủ đạo, chi phối toàn bộ nền kinh tế của xã hội, văn hóa truyền thống. Quá trình cải
tạo và chinh phục tự nhiên, chinh phục đầm lầy, lấn biển, đắp đê chống lụt… đã trở thành những
vùng đồng bằng Bắc bộ, Bắc Trung bộ và Nam bộ để chuyên canh lúa nước. Ngoài ra, với điều
kiện tự nhiện thuận lợi, người Việt còn tận dụng để trồng các loại cây cho củ, cho quả, cho lá cây,
cho sợi để làm các nghề thủ công… Tận dụng điều kiện tự nhiên để chăn nuôi các loại gia súc, gia
cầm, các nguồn lợi thủy hải sản từ tự nhiên.
Trong văn hóa ẩm thực: Hai yếu tố có tính trội chi phối đến văn hóa vật chất của người Việt là
tính chất sông nước và thực vật. Sự chi phối của hai yếu tố tự nhiên này được thể hiện trước hết
trong việc lựa chọn cơ cấu một bữa ăn truyền thống với 3 thành phần chính: cơm – rau – cá. Cơm
được làm từ gạo, đứng vị trí đầu tiên trong bữa ăn “Người sống vì gạo, cá bạo vì nước”, bữa ăn
của người Việt gọi là bữa cơm. Người Việt không chỉ tận dụng cây lúa thành gạo để nấu cơm mà
còn biết tận dụng từ gạo để làm bún và làm bánh: bánh lá, bánh đúc, bánh tráng… Gạo nếp dùng
làm xôi, làm bánh mặn, bánh ngọt… Thành phần thứ hai trong cơ cấu bữa ăn người Việt là rau
quả. Là nước nằm trong vành đai khí hậu nhiệt đới gió mùa, nông nghiệp lại là ngành kinh tế chủ
yếu nên rau quả vô cùng phong phú. Việc dùng rau trong cơ cấu bữa ăn chứng tỏ khả năng tận
dùng môi trường tự nhiên của người Việt. Người Việt thường hay nói “Đói ăn rau, đau uống
thuốc”, “Ăn cơm không rau như đánh nhau không có người gỡ”, “Ăn cơm không rau như người
giàu chết không kèn trống”. Rau quả đặc thù trong cơ cấu bữa ăn là rau muống và dưa cà: “Anh đi
anh nhớ quê nhà, Nhớ canh rau muống, nhớ cà dầm tương”. Cà và dưa cà, dưa cải là những món
ăn hợp thời tiết, được người Việt ưa thích và thường được dự trữ để ăn thường xuyên: “có dưa
chừa rau”, “có cà thì tha gắp mắm”, “thịt cá là hoa, tương cà là gia bản”. Bên cạnh các loại rau quả
là thành phần chính trong cơ cấu bữa ăn còn có những loại rau quả dùng làm gia vị như: hành,
gừng, ớt, tỏi, rau răm, rau diếp cá… Gia vị cũng là thành phần không thể thiếu trong bữa ăn của
người Việt. Thành phần thứ ba trong bữa ăn của người Việt là cá. Việt Nam có phía Đông giáp với
biển Đông có hệ thống sông ngòi, ao hồ chằng chịt nên dùng các trong cơ cấu bữa ăn cũng là khả
năng tận dụng môi trường tự nhiên của người Việt. Cá đứng thứ ba trong cơ cấu bữa ăn và đứng
đầu trong bảng các loại thức ăn thủy sản (so với tôm, cua,mực…). Người Việt thường nói: “Cơm
với cá như má với con”. “Có cá đổ vạ cho cơm”,“con cá đành ngã bát cơm”. Người Việt còn tận
dụng các loài thủy sản để chế biến ra một thứ đồ chấm đặc biệt là nước mắm và mắm các loại:
nước mắm Vạn Vân, cá rô đầm sét, các loại nước mắm nổi tiếng: Nghệ An, Phan Thiết, Phú Quốc.
Thực phẩm được chế biến từ thủy sản cũng rất đa dạng: nấu chin, ướp mắm, phơi khô. Chế biến
cũng có nhiều cách: chiên, xào, kho, luộc, nướng, gỏi… Văn hóa ẩm thực của người Việt thể hiện
ở việc ăn uống theo mùa, theo vùng miền. Đó là biểu hiện của lối ứng xử thích nghi với môi trường
tự nhiên, thích nghi với nền kinh tế tự cung tự cấp.
Trong văn hóa trang phục, người Việt biết tận dụng các điều kiện tự nhiên chọn các màu sắc
trang phục phù hợp với môi trường sông nước như màu nâu, màu đen…, có ý thức làm đẹp. Người
Việt sử dụng các chất liệu may mặc có sẵn trong tự nhiên, mang đậm dấu ấn nông nghiệp trồng
trọt, sống ở xứ nóng nên chọn các chất liệu mỏng, nhẹ, thoáng mát như tơ tằm,
sợi bông, sợi đay… trang phục của phụ nữ: váy, yếm, áo tứ thân, áo dài, quần lĩnh… Ngoài ra
chiếc nón là phần không thể thiếu trong trang phục phụ nữ được tận dụng để che mưa, che nắng.
Trang phục của nam giới: áo cánh, quần ống rộng để phù hợp với khí hậu nóng bức và công việc
đồng áng.
Văn hóa ở và đi lại: Văn hóa ở - Tận dụng điều kiện tự nhiên, có sẵn trong tự nhiên người Việt
xây nhà bằng các chất liệu như gỗ, tre, nứa, rơm rạ… Kiến trúc nhà mang dấn ấn của vùng sông
nước, lá nhà sàn thích hợp cho cả miền sông nước lẫn miền núi để ứng phó với những tác động
xấu của môi trường. Không gian nhà là không gian mở, có cửa rộng thoáng mát và giao hợp với
thiên nhiên. Trong quan niệm về kiến trúc, xây nhà, dựng cửa: người Việt biết chọn hướng nhà,
chọn đất, tránh hướng gió độc, đó lấy hướng mặt trời, hay xây dựng nhà cửa gần sông suối để tiện
nước sinh hoạt (“nhất cận thị, nhị cận giang”), trồng trọt. Một điểm đặc biệt trong kiến trúc nhà
cửa là các kiến trúc đều thuận theo phong thủy. Đó là sự hài hòa giữa thề đất, thế núi, ngồn nước…
Điều này thể hiện rất rõ trong kiến trúc
thành quách như thành Thăn Long, thành nhà Hồ, kinh thành Huế… hay trong thuyết tam tài của
người dân: “thiên-địa- nhân”. Văn hóa đi lại: do điều kiện tự nhiên thuận lợi, nhiều sông ngòi…tận
dụng sông nước nên
phương tiện đi lại của người Việt chủ yếu là thuyền, ghe, đò, xuồng…
Tóm lại, ăm mặc, ở, đi lại là những nhu cầu tiết thân của con người nhưng cũng đồng thời
thể hiện sự ứng xử văn hóa của con người với môi trường tự nhiên. Thể hiện rõ nét dấu ấn loại
hình văn hóa nông nghiệp trồng trọt, đồng thời thể hiện khả năng tận dụng, thích nghi và ứng phó
linh hoạt với môi trường tự nhiên vùng sông nước và xứ sở thực vật.
TÔN GIÁO (NHO GIÁO, PHẬT GIÁO), ẢNH HƯỞNG ĐẾN PHÁP LUẬT
Sự tác động của tư tưởng Nho giáo:
- Nho giáo với tư tưởng đề cao đức trị hơn pháp trị:
+ Tác động tích cực: Đề cao các giá trị đạo đức làm nền tảng cho việc xây dựng các quan hệ ứng
xử xã hội.
+ Tác động tiêu cực:
- Nho giáo đề cao đức trị hơn pháp trị nên pháp luật bị đẩy xuống hàng thứ yếu trong việc điều tiết
các quan hệ xã hội.
- Việc kết hợp giữa đức trị và pháp trị khiến cho ranh giới giữa đạo lý và pháp lý mập mở, đó là
nguyên nhân dẫn đến sự chủ quan, tùy tiện trong việc xử án, làm mất niềm tin của người dân đối
với pháp luật,
- Nho giáo với truyền thống "vô tụng” (không thích kiện tụng):
+ Tác động tích cực: Hạn chế việc tranh chấp, kiện tụng, góp phần tạo sự bình yên cho xã
hội.
+ Tác động tiêu cực:
• Giáo lý “Tam cương" và thuyết “Chính danh” của Nho giáo đề cao bổn phận và sự phục
tùng trong các mối quan hệ từ trong gia đình đến ngoài xã hội, vì vậy đã triệt tiêu quyền cá nhân,
triệt tiêu ý thức phản kháng của con người, từ đó đã hạn chế việc kiện tụng, đấu tranh để bảo vệ
quyền lợi cá nhân.
• Trên nền tảng của tư tưởng Nho giáo, nhà nước phong kiến coi pháp luật là công cụ của
giai cấp thống trị để cai trị dân, vì vậy trong ý thức của người dân, công lý thuộc về kẻ mạnh, thuộc
về “bề trên”. Đó là lý do khiến người dân né tránh pháp luật, không coi pháp luật là công cụ để
bảo vệ quyền lợi cho mình, từ đó hình thành tâm lý thờ ơ, né tránh pháp luật, thậm chí là ý thức
chống đối pháp luật.
❖ Sự tác động của tư tưởng Phật giáo:
- Phật giáo và triết lý sống nhẫn nhịn, vị tha:
+ Tác động tích cực; tư tưởng từ bi bác ái và triết lý sống nhẫn nhịn, vị tha đã giúp hạn chế
mâu thuẫn, tranh chấp, kiện tụng và các hành vi bạo lực trong xã hội, qua đó góp phần xây dựng
xã hội bình yên, hòa mục.
+ Tác động tiêu cực: do đề cao việc tự tiết chế các hành vi bằng thái độ nhẫn nhịn, cam chịu
“một sự nhịn chín sự lành” nên trong ứng xử người Việt thường chọn giải pháp “dĩ hòa vi quý”.
Điều này đã làm hạn chế, thui chột ý chí và khả năng hành động và đấu tranh của con người để
bảo vệ lẽ phải, bảo vệ công lý.
- Phật giáo và triết lý nhân quả - nghiệp báo:
+ Tác động tiêu cực:
• Thấm nhuần triết lý nhân quả - nghiệp báo của Phật giáo nên khi quyền lợi cá nhân bị xâm
hại, người Việt thường không đấu tranh đến cùng mà thường trông chờ vào “quả báo”, tin vào sự
trừng phạt của luật Trời hơn là luật pháp nên không hình thành ý thức và thói quen sử dụng pháp
luật trong đời sống dân sự.
• Vì sợ nhân quả - nghiệp báo nên người Việt thường e ngại trong việc tố giác tội phạm.
Tóm lại, trong di sản văn hóa truyền thống Việt Nam nói chung và văn hóa ứng xử với pháp
luật nói riêng, bên cạnh những giá trị tốt đẹp, những tinh hoa làm nên sức sống trường tồn của dân
tộc mà chúng ta cần phải gìn giữ, bảo tồn và tiếp tục phát huy trong cuộc sống hiện đại thì cũng
cần phải nhận diện những mặt hạn chế, lạc hậu, lỗi thời để dũng cảm vượt lên chính mình, để hội
nhập với thế giới trong hành trình xây dựng xã hội văn minh và hiện đại.
Câu 6. Hãy trình bày những hiểu biết của anh/chị về phật giáo ở Việt Nam và vai trò
của phật giáo đối với đời sống văn hoá tinh thần của người Việt xưa và nay.
Phật giáo là một trong ba luồng tư tưởng nổi bật của tư tưởng và tôn giáo thời Đại Việt và
cho đến ngày nay. Phật giáo truyền vào nước ta từ khoảng TK II - TK I TCN. Vào những TK đầu
thời Đại Việt, Phật giáo phát triển rất nhanh, đạt cực thịnh vào thời Lý - Trần và được xem là quốc
giáo. Phật giáo Việt Nam đã có hơn 2.000 năm lịch sử. từ khi du nhập, Phật giáo đã được người
Việt bản địa hóa, khiến nó nhanh chóng cộng sinh để hòa mình trong dòng chảy của văn hóa dân
tộc, tạo nên sắc thái riêng của Phật giáo Việt Nam với các đặc điểm nổi bật.
Về đặc điểm Khuynh hướng nhập thế, giáo lý của Phật giáo là cứu khổ, cứu nạn, phổ độ
chúng sinh. Bởi vậy Phật giáo Việt Nam luôn gắn liền với cuộc sống của chúng sinh bằng những
việc làm vô cùng thiết thực như: nhà chùa mở trường dạy học, tham gia đào tạo trí thức, … nhiều
nhà sư đồng thời nhà sư đồng thời là thầy thuốc chữa bệnh cho dân. Giáo lý Phật giáo được người
Việt cụ thể hóa trong các mối liên hệ đời thường.. Chẳng hạn như câu “Tu đâu cho bằng tu nhà,
thời cha kính mẹ mới là chân tu”. Đó là khuynh hướng nhập thế của Phật giáo.
Đặc điểm thứ hai của Phật giáo được thể hiện vô cùng rõ nét trong quan niệm triết lý và
được lược gọn trong hai cột trụ là “Tứ Diệu Đế”. Tức là khổ Đế, Tập Đế, Diệt Đế và Đạo Đế.
Trong đó, Khổ đế dùng để nói đời là bể khổ, Tập Đế: dùng nói về nguyên nhân gây đau khổ của
cuộc sống trần gian, Diệt Đế hàm ý nói về diệt trừ nỗi khổ và cuối cùng Đạo Đế nói về con đường,
phương pháp diệt trừ nỗi khổ, chuẩn hành căn tu đạo quả cho chúng sinh. Đạo Phật lý giải nguyên
nhân gây nên mọi đau khổ là do con người có quá nhiều ham muốn, làm cho tâm hồn bất ổn, chao
đảo khó lường. Đó là những bản năng xấu của con người, nếu không tu luyện theo lời dạy của Đức
Phật sẽ bị trừng phạt bởi “Luân hồi”, “Nhân quả”, “Quả báo”. Từ đó Phật lấy Tâm làm gốc, khi
nào tu được tâm sẽ đạt đến “Giác ngộ” khi đó con người sẽ được “Giải thoát” đạt tới cõi “Niết
bàn” - cái đích cuối cùng của hạnh phúc thật sự và bền vững.
Đặc điểm thứ ba của Phật giáo được thể hiện qua Tính tổng hợp. Đó là một trong những đặc
trưng của lối tư duy nông nghiệp, chi phối đến thái độ ứng xử với Phật giáo làm nền sắc thái riêng
của Phật giáo Việt Nam. Phật giáo dung hợp các tín ngưỡng và truyền thống văn hóa bản địa; dung
hợp với tín ngưỡng sùng bái tự nhiên, với tín ngưỡng thờ Mẫu giữa việc thờ Phật với thờ các vị
thần, Thánh, Mẫu, Thành Hoàng, Thổ địa…; dung hợp giữa các tong phái Phật giáo.. Cụ thể hơn
sự dung hợp giữa Phật giáo với các tín ngưỡng và truyền thống văn hóa bản địa: Chính là sự dung
hợp với tín ngưỡng sùng bài tự nhiên (Các vị thần mây, mưa, sấm, chớp đã được Phật hóa thành
Phật Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi, Pháp Điện). Dung hợp với tín ngưỡng thờ Mẫu, Phật giáo VN
có khuynh hường thiêng về nữ tính: Phật giáo VN có rất nhiều Phật bà (khác với Phật giáo nguyên
thủy Ấn Độ là đàn ông). Ở nhiều nơi trên đất nước ta cũng có nhiều ngôi chùa mang tên các bà:
chùa Bà Dâu, chùa bà Đen…Và sự dung hợp giữa việc thờ Phật với việc thờ các vị Thần, Thánh,
Mẫu, Thành Hoàng, Thổ Địa, các anh hung dân tộc: kiến trúc phổ biến của chùa VN là tiền Phật
hậu Thần. Việc dung hợp giữa Phật giáo với các tôn giáo khác như nho giáo, đạo giáo và bổ sung
cho nhau để cùng hướng về một mục đích vì cuộc sống tốt đẹp cho con người. Đây là một nét đặc
trưng rất riêng biệt của Phật giáo VN so với các quốc gia Phật giáo làng giềng. Phật giáo VN có
sự dung hòa và điều hợp giữa cả Nam Tông và Bắc Tông. Đó là hai phát chính tông của Phật giáo.
Ngoài ra trong tông phái đại thừa cũng có sự kết hợp giữa Thiền tông với Mật tông, Thiền tông
kết hợp với Tịnh Độ tông. Và cả thời Đại Việt, Phật giáo với Nho giáo và Đạo giáo cùng tồn tại
trong sự dung hợp và bổ sung cho nhau để cùng hướng về một mục đích vì cuộc sống tốt đẹp cho
con người. Đó gọi là hiện tượng Tam giáo đồng qui. Sau cùng, vào đầu TK XX, ở Nam Bộ đã hình
thành nên hai tôn giáo dựa trên nền tảng của Phật giáo, đó là đạo Cao Đài và Hòa Hảo. Đó cũng
chính là sự hài hòa trong Phật giáo Việt Nam với các tôn giáo khác.
Với tất cả những đặc điểm trên, Phật giáo đã bén rễ sâu vào truyền thống tín ngưỡng và
văn hóa dân gian của quần chúng, khẳng định sự hiện diện qua hàng ngàn ngôi chùa trên khắp mọi
miền đất nước. Với người dân Việt, giáo lý phật giáo đã thấm sâu vào triết lí sống, ngôi chùa là
nơi giáo dục đạo đức và lòng hướng thiện, nơi an cư của tâm hồn là trung tâm sinh hoạt cộng đồng
và cũng là nơi ẩn chứa các giá trị văn hóa truyền thống đã có lịch sử từ lâu “Mái chùa che chở hồn
dân tộc. Nếp sống ngàn năm của tổ tiên”. Và đến ngày nay, trong số các tôn giáo có mặt ở Việt
Nam, Phật giáo vẫn là tôn giáo lớn nhất, có ảnh hưởng sâu sắc và rộng rãi nhất. Hiện nay, số lượng
người đi chùa ngày càng đông, có niềm tin vào thuyết nhân quả, luân hồi. Ăn chay vào các ngày
rằm, mồng một, có treo ảnh phật và bàn thờ Phật trong nhà. Qua đó ta thấy được vai trò của Phật
giáo trong đời sống văn áo tinh thần của người Việt từ xưa đến nay.
Về vai trò của Phật giáo đối với đời sống văn hoá tinh thần của người Việt xưa và nay ( ảnh
hưởng đến Pháp luật ) gồm những tác động tích cực như trong việc điều chinh ý thức và hành vi
của con người theo triết lý sống từ bi bác ái, nhẫn nhịn, vị tha, “khuyến thiện tử ác" đã giúp hạn
chế sự xung đột, tranh chấp, kiện tụng, góp phần dem Tư tưởng, giáo lý của Phật giáo đã góp phần
quan trọng lại sự bình yên, hòa mục cho cuộc sống. Tuy nhiên vẫn có những tác động tiêu cực như
việc khuyên con người tự tiết chế các hành vi của mình bằng thái độ nhường nhịn, cam chịu, thậm
chi cà nhẫn nhục, Phật giáo đã góp phần làm hạn chế, thui chột khả năng hành động và đầu tranh
của con người khi cần phải bào vệ công lý, lẽ phải. Do ảnh hưởng bởi thuyết "luân hoi", "quả báo"
của Phật giáo, nhiều người Việt thường không chủ động sử dụng luật pháp là công cụ bảo vệ mình
khi quyền loi bị xâm hai, mà chon phương pháp im lặng trông chờ vào quả báo, tin vào sự trừng
phạt của luật Trời hơn là luật pháp, vì vậy từ đây cung không hình thành thói quen sử dụng công
cụ luật pháp trong đời sống dân sự.
(Phần này là vai trò thêm của 1 số tài liệu khác, nên các bạn thấy cái nào tiện hay đưa
vô theo ý của mình cũng được nhé)
* Vai trò của Phật giáo:
- Ngay từ đầu, người Việt đã có tín ngưỡng dân gian riêng của mình. Người Việt coi Ông
trời như là một đấng tối cao, ở trên cao, thấu rõ mọi nỗi khổ của con người, giúp họ đạt được ước
nguyện, trừng trị kẻ ác…Quan niệm này khiến cư dân Việt dễ tiếp nhận thuyết nhân quả, luân hồi
của Đạo Phật. Từ đó Phật giáo đã bén rễ sâu vào truyền thống tín ngưỡng và văn hóa dân gian của
quần chúng, khẳng định sự hiện diện qua hàng ngàn ngôi chùa trên khắp mọi miền đất nước. Với
người dân VN, giáo lý phật giáo đã thấm sâu vào triết lý sống, ngôi chùa là nơi giáo dục đạo đức
và lòng hướng thiện, coi trọng tu nhân tích đức vì sợ nhân quả, nghiệp báo, đề cao tư tưởng hiếu
hòa, nhân ái, vị tha, là nơi an cư của tâm hồn, là trung tâm sinh hoạt cộng đồng và cũng là nơi ẩn
chứa các giá trị văn hóa truyền thống đã có lịch sử từ lâu (Mái chùa che chở hồn dân tộc. Nếp sống
ngàn năm của tổ tiên). Ngày nay, Phật giáo vẫn là tôn giáo lớn nhất, có ảnh hưởng sâu sắc và rộng
rãi nhất. Có khoảng 7 đến 8 triệu tín đồ Phật giáo, chiếm đến 10% dân số. Hiện nay, số lượng
người đi chùa ngày càng đông, có niềm tin vào thuyết nhân quả, luân hồi. Ăn chay vào các ngày
rằm, mồng một, có treo ảnh Phật, bàn thờ Phật trong nhà. Qua đó, ta thấy vai trò của Phật giáo
trong đời sống văn hóa tinh thần của người Việt từ xưa đến nay.
Câu 7. Hãy trình bày những hiểu biết của anh/chị về Nho giáo ở Việt Nam và vai trò
của Nho giáo đối với đời sống văn hoá tinh thần của người Việt xưa và nay. (Ảnh hưởng đến
pháp luật)
Du nhập vào VN từ thời Bắc thuộc, nhưng do xu hướng cưỡng bức văn hóa nên suốt
1.000 năm, Nho giáo chưa có được chỗ đứng trong cư dân Việt. Sang thời Đại Việt, Nho giáo là
nội dung chủ yếu được giảng dạy trong nhà trường nên càng được phổ biến rộng rãi. Từ đó Nho
giáo chiếm lĩnh dần luôn cả lĩnh vực chính trị, tư tưởng và văn hóa tinh thần, ảnh hưởng cả về
pháp luật của người Việt Nam xưa và nay.
Nếu Nho giáo Trung Hoa đặc biệt coi trọng tư tưởng trung quân, quyền lực của nhà vua
được đề cao tuyệt đối, thì Nho giáo Việt Nam tuy vẫn đề cao tư tưởng này nhưng không cực đoan
đến mức đòi hỏi phải hy sinh tính mạng vì vua. Mặc khác, quan niệm trung quân ở Việt Nam luôn
gắn liền với ái quốc. Và trong nhiều trường hợp, nước được đề cao hơn vua. Người Việt đề cao
tinh thần yêu nước, thương dân, lấy dân làm gốc. Các khái niệm cơ bản của Nho giáo như nhân,
nghĩa cũng đã bị khúc xạ qua lăng kính của người Việt. Theo đó nó không chỉ là một khái niệm
đạo đức hạn hẹp trong ứng xử cá nhân mà còn trở thành một lý tưởng xã hội cao đẹp đó là vì cuộc
sống hạnh phúc, bình yên của nhân dân. Cũng như một câu nói trong tác phẩm “Bình Ngô đại cáo”
của Nguyễn Trãi có khẳng định rằng “Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân”. Tư tưởng trọng nam khinh
nữ của Nho giáo khi vào Việt Nam cũng bị làm cho nhẹ bớt đi bởi truyền thống trọng phụ nữ vốn
có trong văn hóa bản địa. Đến thời kì Trịnh – Nguyễn phân tranh, nho giáo Việt Nam đi vào giai
đoạn suy vong không thể cứu vãn được nữa. Dù các vua nhà Nguyễn đã tìm mọi cách để củng cố
địa vị của Nho giáo nhưng vẫn không thể làm cho Nho giáo có được vị thế như nó đã từng có ở
TK XV. Trong gần mười TK xây dựng và củng cố nhà nước phong kiến, Nho giáo đã trở thành
nền tảng tư tưởng chi phối đến mọi mặt của đời sống xã hội Việt Nam góp phần làm nền tảng tư
tưởng chính trị để tổ chức bộ máy nhà nước, là cơ sở pháp lý để quản lý, duy trì sự ổn định của xã
hội dựa trên mối quan hệ cộng đồng xã hội và gia đình theo quan niệm Tam cương, Ngũ thường.
Là nền tảng đạo đức để củng cố các mối quan hệ gia đình – xã hội theo thứ bậc, kỷ cương của giáo
lý Nho giáo. Qua đó đã xác lập các chuẩn mực đạo đức để xây dựng mô hình nhân cách con người
Việt Nam truyền thống với các tiêu chí: đạt đức (trai thời trung hiếu làm đầu, gái thời tiết hạnh
làm câu trao mình), đạt đạo (nhân, nghĩa, lễ, trí, tín). Cùng với đó Nho giáo đã chi phối trực tiếp
và toàn diện hệ thống giáo dục, thi cử truyền thống, từ mục đích đến nội dung và phương pháp
giáo dục. Có thể thấy Nho giáo đã chi phối và ảnh hưởng đến tất cả các mặt của cuộc sống từ chính
trị, phong tục, nghi lễ cho đến cả văn học, nghệ thuật, tín ngưỡng.
Nho giáo cũng ảnh hưởng đến pháp luật Việt Nam cũng như cách ứng xử của người Việt
đối với Pháp luật Việt Nam. Đó là ảnh hưởng của Nho giáo và quan niệm chung về pháp luật của
người dân Việt, họ chú trọng về pháp luật và hành chính, nhẹ về dân luật. Để trị nước, theo Nho
giáo cần có bốn yếu tố là: lễ, nhạc, hình, chính. Lễ và nhạc để hòa âm của dân, chính trị để làm
việc, pháp luật để ngăn điều xấu. Một trong những nền tảng nền tảng của Đạo luật Không là khái
niệm về hài hòa trong vũ trụ. Các cá nhân có thể nói về phiên bản là một bộ phận trong sự hài hòa
đó, nên luôn luôn phải tự do nhường, giữ cho mình và tuân thủ các quy tắc xử lý theo quan điểm
đạo đức trong xã hội. Các quy tắc dựa trên những tập quán lâu đời, phức tạp nhưng cân đối, chặt
chẽ và thay đổi theo mối quan hệ giữa các cá thể.
Chúng ta không thể phủ nhận những đặc điểm của nền giáo dục Nho giáo đã tạo nên truyền
thống hiếu học và tôn sư trọng đạo của người Việt Nam, góp phần hình thành đạo đức con người
theo hướng tích cực, có nhiều hành động vinh danh người đỗ đạt, tôn sư trọng đạo, đề cao nhân,
nghĩa, lễ, trí, tín, đức. Có nhiều câu ca dao thể hiện rõ nét cho vấn đề giáo dục Nho giáo như “Một
kho vàng không bằng 1 nang chữ, “Chẳng yêu ruộng cả ao liền, chỉ yêu cái bút cái nghiên anh
đồ”. Tuy nhiên, vẫn có những mặt hạn chế như việc tuyệt đối hóa tính tôn ti, thứ bậc là nguyên
nhân làm hạn chế ý thức về quyền cả nhân, mà hệ quả trực tiếp là sự triệt tiêu ý thức phản biện,
phản kháng của con người, đó cũng là nguyên nhân làm hạn chế việc sử dụng công cụ pháp luật
để bảo vệ quyền cá nhân. Vì chủ trương đề cao đức trị hơn pháp trị nên Nho giáo khuyến khích
"vô tụng". Khổng Tử cho rằng: “Xét xử việc kiện tụng, ta cũng như người. Tất phải làm cho dân
không có việc kiện tụng". Việc kết hợp, lồng ghép giữa đức trị với pháp trị khiến cho sự phân cách
giữa đạo lý và pháp lý là một ranh giới mờ, nhập nhằng, khó phân định. Bằng chứng là, trong các
bộ luật thời phong kiến Việt Nam, "Tam cương", "Ngũ thường" là đạo lý nhưng cũng đồng thời là
pháp lý. Ngoài ra, quan niệm giáo dục lấy thầy làm trung tâm, lấy tư tưởng người xưa làm mẫu
mực, là rào cản của sự tò mò, mà trí tưởng tượng vốn rất cần cho sự sáng tạo, làm hạn chế khả
năng tư duy độc lập mà chức năng của giáo dục đáng lẽ là phải khơi gợi, kích thích và làm cho nó
phát triển. Bởi tư tưởng bảo thủ đó đã lấy đi nhiều vị hiền tài cũng như hạn chế lớn với giáo dục
xưa và nay. Hình thành tư tưởng đố kỵ, ganh ghét khi “trò hơn thầy”. Tình trạng này cùng với một
môi trường xã hội không tạo thuận lợi cho sự lưu chuyển các tri thức và thông tin, luật pháp chưa
bảo vệ được những sản phẩm trí tuệ và người tài chưa có được cơ hội phát huy tối đa năng lực của
mình cho đất nước. Không những vậy, quan niệm dạy - học mang màu sắc giáo dục khổng giáo
vốn xem trọng quá khứ, “tầm chương trích cú”, “thuộc làu kinh sử” biến học sinh thành những con
vẹt, biến những bộ óc non nớt của các em thành những thùng chứa đồ cũ, là nguyên nhân của bệnh
đọc, học vẹt, chép nhiều nhưng tri thức thì không mấy thực sự hữu hiệu, có ích. Đọc chép lâu dần
không những làm cho học sinh mất hết khả năng sáng tạo, mà còn tạo ra nơi người học thói quen
xài chùa của người khác, trong lĩnh vực học thuật, thì đó là đạo văn. Việc gắn sự học với việc làm
quan trong giáo dục nho giáo vốn đang ảnh hưởng rất mạnh trên não trạng của người Việt mình là
thủ phạm gây ra hiện tượng “thừa thầy thiếu thợ”, sính bằng cấp, học giả bằng thật, v.v..
Như vậy, trong quá trình tiếp nhận Nho giáo, giữa văn hóa Việt Nam và Nho giáo đã bộc
lộ những nét tương đồng và dị biệt, và nó đã được Việt Nam hóa, làm cho Nho giáo ở Việt Nam
không còn trạng thái nguyên sơ của nó nữa mà phù hợp với đời sống tư tưởng và văn hóa tinh thần
của người Việt xưa và nay, việc xét xử các vụ án thường khó tránh khỏi hiện tượng “tội đồng luận
dị" (tội giống nhau nhưng phán xử lại khác nhau) do tính chất chủ quan, cảm tính, tùy tiện, làm
suy giảm niềm tin của người dân đối với pháp luật.
Tóm lại, trong nền tảng văn hóa truyền thống Việt Nam, Nho giáo đã ảnh hưởng và chi phối
sâu sắc và toàn diện mọi mặt của đời sống xã hội, xét cả hai mặt tích cực và tiêu cực.
GIAO TIẾP ỨNG XỬ TRONG VĂN HOÁ TRUYỀN THỐNG
I. ỨNG XỬ TRONG GIAO TIẾP CỦA NGƯỜI VIỆT.
Do sự chi phối của lối sống nông nghiệp và tư tưởng Nho giáo nên văn hoá giao tiếp, ứng
xử của người Việt có những đặc điểm cơ bản sau đây:
Đặc điểm 1: về thái độ trong giao tiếp: vừa cởi mở vừa rụt vè
Người Việt rất coi trọng giao tiếp. Điều này thể hiện chủ yếu ở 3 điểm:
+ Thích chào hỏi nhau được xem là một nghi thức ứng xử văn hoá quan trọng. Điều này thể hiện
qua tục ngữ “lời chào cao hơn mâm cỗ” như đã vừa thể hiện được đức tính thân thiện, hiếu khách,
coi trọng bạn bè hay bằng hữu hay xa hơn đó là coi trọng con người. Đồng thời câu tục ngữ như
cũng chính là một bài học quý giá của cha ông
+ Người Việt thích thăm viếng nhau, đây là hành vi biểu hiện tình cảm, tình nghĩa, có tác dụng thắt
chặt mối quan hệ. Đặc biệt thăm viếng nhau đây không do nhu cầu công việc ( như ở Phương Tây)
vậy nên việc này càng trở tốt đẹp, có ý nghĩa.
+ Người Việt có tính hiếu khách. Có khách đến nhà, dù quen hay lạ, thân hay sơ người Việt, dù
nghèo khó đến đâu, cũng cố gắng tiếp đón một cách chu đáo và tiếp đãi một cách thịnh tình, dành
cho khách các tiện nghi tốt nhất, các đồ ăn ngon nhất.

Đồng thời với việc thích giao tiếp, người Việt Nam lại có đặc tính hầu như ngược lại là rất
rụt rè. Hai thái độ trái ngược nhau này bắt nguồn từ hai đặc tính cơ bản của làng xã Việt Nam là
tính cộng đồng và tính tự trị:
+ Khi ở trong cộng đồng quen thuộc, tính cộng đồng ngự trị, họ sẽ thoải mái theo những quy tắc có
sẵn
+ Khi ở ngoài cộng đồng, tính tự trị phát huy tác dụng, họ không xác định được vị thế của mình, vì
vậy trở nên lúng túng.
 Tuy nhiên, hặt mặt ứng xử tưởng như trái ngược nhau nhưng chúng không hê mẫu thuẫn vì mỗi
mặt ứng xử lại thể hiện ở một môi trường khác nhau, cùng phản ánh một bản chất, đó là cách ứng
xử giao tiếp linh hoạt của người Việt.

Đặc điểm 2: Về đối tượng giao tiếp (Người Việt có thói quen thích tìm hiểu, quan sát, đánh giá
với người đối thoại trong giao tiếp).
Quan tâm đến những thông tin cá nhân của đối tượng giao tiếp (tuổi tác, quê quán, nghề
nghiệp, địa vị, hoàn cảnh gia đình…). Mặt khác, do lối sống trọng tình cảm, mỗi cặp giao tiếp đều
có những cách xưng hô riêng, nên nếu không có đủ thông tin thì không thể lựa chọn từ xưng hô
cho thích hợp được.
Do tính cộng đồng, người Việt Nam tự thấy có trách nhiệm phải quan tâm đến người khác,
mà muốn quan tâm thì phải biết rõ hoàn cảnh.Mặt khác, do lối sống trọng tình cảm, mỗi cặp giao
tiếp đều có những cách xưng hô riêng, nên nếu không có đủ thông tin thì không thể lựa chọn từ
xưng hô cho thích hợp được.
Ví dụ:
“Chọn mặt gửi vàng”
“Tùy mặt gửi lời/ Tùy người gửi của.”

Đặc điểm 3: Nguyên tắc trong giao tiếp (Lấy tình cảm làm nguyên tắc ứng xử)
Nguyên tắc ứng xử này được phản ánh rõ nét trong câu tục ca dao, tục ngữ xưa của ông bà
ta: Một bồ cái lý không bằng một tí cái tình. Điều đó có tác dụng tích cực, tạo nên sức mạnh của
sự cố kết cộng đồng, nếp sống chan hoà, cởi mở, giàu tính nhân văn của người Việt. Cũng vì trọng
tình cảm nên trong giao tiếp, người việt có cách xưng hô theo quan hệ thân tộc, coi mọi người
trong công động như bà con họ hàng: cô, bác, chú, dì, con,…
Nhưng đôi khi sẽ khiến con người trở nên cả nể, vì tình nghĩa nên không muốn làm mất lòng
nhau, nhận thiệt thòi về mình. Không lí trí, không công tư phân minh trong xử lí công việc nguyên
nhân sâu xa dẫn đến tình trạng “con ông cháu cha” trong xã hội.
Đặc điểm 4: Về chủ thể giao tiếp (người Việt trọng danh dự hơn giá trị vật chất).
Trong các mối quan hệ ứng xử của người Việt thường coi trong danh dự, danh tiếng hơn
giá trị vật chất. Điều đó đem lại mặt tốt và mặt xấu trong nhân cách người Việt:
Mặt tốt:
+ Thể hiện qua các câu ca dao tục ngữ “đói cho sạch, rách cho thơm” đây cũng chính là lời khuyên
chân thành, bài học mà ông bà xưa muốn gửi gắm tới con cháu mình, phải biết quý trọng danh dự
của bản thân, đừng vì chút vật chất nhỏ mà bán rẻ danh dự, phẩm chất của bản thân mình.
+ Vì coi trọng danh dự nên nghi thức lời nói trong giao tiếp cũng thể hiện tính tôn ti, thứ bậc.
+ Lối sống trọng danh dự dẫn đến cơ chế tin đồn tạo nên dư luận như một thứ vũ khí lợi hại bậc nhất
của cộng đồng để duy trì sự ổn định của làng xã. Không ai dám dẫm lên dư luận.

Mặt xấu:
+ Vì quá coi trọng danh dự nên người Việt thường mắc bệnh sĩ diện. Coi trong danh dự đến mức trở
thành bệnh sĩ diện: “Ở đời muôn sự của chung, hơn nhau một tiếng anh hùng mà thôi” hay “Đem
chuông đi đấm nước người, không kêu cũng đánh ba hồi lấy danh”. Đặc biệt ở các làng quê Việt
Nam, thói sỹ diện thể hiện trầm trọng qua tục lệ ngôi thứ nơi đình ttrung và tục chia phần. Do danh
dự (sỹ diện), các cụ già vẫn có thể to tiếng nhau vì miếng ăn: “Một miếng giữa làng bằng một
sàng xó bếp”
+ Nhiều người lợi dụng cơ chế tin đồn để hạ bệ danh dự người khác “Tiếng lành đồn gần, tiếng dữ
đồn xa”.

Đặc điểm 5: cách thức giao tiếp (giữ ý, tế nhị, ý tứ và coi trong sự hoà thuận).
Cách thức này là sản phẩm của lối sống trọng tình và lối sống tư duy nên dẫn đến một số hệ quả
sau đây:
+ Khi giao tiếp, do ưa sự tế nghị và trong sự hoà thuận nên người Việt thường có thói quen không
đi thẳng vào ván đề cần nói, mà thường hau mở đầu “vòng vo tam quốc” để đưa đẩy, tạo không
khí thân mật và thăm dò thái độ của đối tượng giao tiếp.
+ Do giữ ý, người Việt thường không biểu lộ cảm xúc của mình với đối tượng giao tiếp. Thường
sử dụng ca dao, tục ngữ, thành ngữ dùng để chỉ hình ảnh ẩn dụ, bóng gió.
+ Thái độ giữ ý trong giao tiếp dẫn đến tâm lý nhường nhịn, cả nể, sợ mất lòng đối thoại. Hệ quả của
việc đố dẫn đến thái độ đắn đo, cân nhắc thái quá, thiếu tính quyết đoán trong giao tiếp.
+ Tâm lý ưa hoà thuận khiến người Việt luôn chủ trương nhường nhịn dẫn tới việc dễ bị thiệt thòi
trong đời sống xã hội, đặc biêt là trong một môi trường cạnh tranh. Dù người Việt có chăm chỉ,
hay tài giỏi nhưng việc chủ trương nhường nhịn thường khiến cho người khác đánh giá là nhu mì,
nhu nhược, không có chí tiến thủ.Và tâm lí ưa hoà thuận này còn là cơ hội cho những người xấu
lấn lướt, lợi dụng, “được đằng chân lân đằng đầu”
Tuy nhiên bên canh hệ quả đó còn có mặt tốt như qua câu tục ngữ:
+ “Lời nói chẳng mất tiền mua, lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau” có thể hiểu là: khi nói năng, giao
tiếp với nhau thì nên thận trọng trong việc sử dụng ngôn ngữ. Lời lẽ trước khi thốt ra cần suy nghĩ
kĩ tránh lỡ lời làm xúc phạm hay xấu đi mối quan hệ với mọi người xung quanh. Câu nói mang ý
nghĩa khẳng định tầm quan trọng của lời nói đối với con người và khuyên ta nên thận trọng, suy
nghĩ kĩ trước khi ăn nói.
Đồng thời lợi ích của việc nói năng lựa lời, thận trọng:
- Làm hài hòa mối quan hệ giữa người và người trong giao tiếp.
- Giảm bớt mâu thuẫn, bất hòa trong xã hội.
- Người nghe dễ dàng tiếp nhận và đồng tình với vấn đề được nói đến.
- Thể hiện nét lịch sự, văn hóa trong giao tiếp ứng xử.
- Hạn chế cảm xúc tiêu cực và tổn thương cho người nghe đồng thời vẫn thực hiện được mục đích
giao tiếp.
Đặc điểm 6: Hệ thống nghi thức lời nói rất phong phú : đó là sự phong phú của hệ thống
xưng hô, dùng các quan hệ họ hàng để xưng hô thể hiện tính cộng đồng, cách nói lịch sự, phân
biệt các lời chào theo sắc thái tình cảm và quan hệ xã hội , không theo trình tự thời gian. Thể hiện
qua các ngôn từ ở cuộc sống hàng ngày
Biểu hiện1: Lời nói mang tính biểu trưng, ước lệ cao:
Trong giao tiếp, người Việt có thói quên thường không nói trực tiếp, cụ thể vào cần điều nói
mà thường nói bóng nói gió bằng hình ảnh ví von, ẩn dụ. Lối nói này tạo nên tính đa nghĩa, có thể
vận dụng linh hoạt vào nhiều văn cảnh giao tiếp khác nhua
Biểu hiện 2: Tính so sánh và tương phản:
Trong tục ngữ, thành ngữ, lời ăn tiếng nói hàng ngày, người Việt thường hay dùng những
câu nói có vế đối ứng trong quan hệ so sánh, tương phản. Ví dụ như: “ông nó gà, bà nói vịt”: chỉ
ra sự việc một sự việc người này nói một đằng, người kia nói một nẻo. Thành ra sự việc không có
tính chân thật. Cấu trúc này thường tạo tiết tấu nhịp điệu vân điệu cho lời nói hấp dẫn.
BÀI TẬP
Câu 8. Hãy trình bày dấu ấn của văn hoá nông nghiệp ảnh hưởng đến văn hoá giao tiếp ứng
xử của người Việt, theo các bạn những đặc điểm giao tiếp nào cần được giữ gìn và phát huy.
Con người là tổng hoà các mối quan hệ xã hội, vì vậy, giao tiếp là một trong những hình thái
biểu hiện của văn hoá cá nhân và cộng đồng rõ nét nhất. Do sự chi phối của nền nông nghiệp đặc
biệt là hai nét đặc trưng cơ bản là tính cộng đồng và tính tự trị đã ảnh hưởng, chi phối lớn đến văn
hoá ứng xử giao tiếp của người Việt.
Đầu tiên nhắn đến ảnh hưởng của tính cộng động đến ứng xử giao tiếp của người Việt được
thể hiện qua việc thích tìm hiểu, quan sát, đánh giá đối tượng giao tiếp. Quan tâm đến những
thông tin cá nhân của đối tượng giao tiếp (tuổi tác, quê quán, nghề nghiệp, địa vị, hoàn cảnh gia
đình…). Người Việt thấy mình tự có trách nhiệm quan tâm tới người khác, nhưng muốn quan tâm
hay thể hiện sự quan tâm đúng mực thì phải biết rõ hoàn cảnh. Ngoài ra, do đặc thù ngôn ngữ và
các mối quan hệ xã hội, cần tìm hiểu để có cách xưng hô cho thoả đáng. Biết tính cách, biết người
để lựa chọn đối tượng giao tiếp cho phù hợp.
Ngoài ra, ảnh hưởng đến thái độ giao tiếp: khi ở trong cộng đồng quen thuộc, tính cộng
đồng ngự trị, họ sẽ thoải mái theo những quy tắc có sẵn. Điều này thể hiện ở chỗ người Việt rất
coi trọng việc giao tiếp: thích chào nhau, thích viếng thăm nhau và có tính hiếu khách.
Và cũng do tính gắn kết của công đồng nên người Việt thường lấy tình cảm làm quy tắc
ứng xử. Điều đó có tác dụng tích cực, tạo nên sức mạnh của sự cố kết cộng đồng, nếp sống chan
hoà, cởi mở, giàu tính nhân văn của người Việt. Nhưng đôi khi điều đó laị làm cho sự không công
tư phân minh trong xử lí công việc nguyên nhân sâu xa dẫn đến tình trạng “con ông cháu cha”
trong xã hội.
Đồng thời, ảnh hưởng đến hệ thống nghi thức lời nói rất phong phú : đó là sự phong phú
của hệ thống xưng hô, dùng các quan hệ họ hàng để xưng hô thể hiện tính cộng đồng, cách nói lịch
sự, phân biệt các lời chào theo sắc thái tình cảm và quan hệ xã hội , không theo trình tự thời gian.
Thể hiện qua các ngôn từ ở cuộc sống hàng ngày như là mang tính ước lệ tượng trưng cao, mang
tính so sánh và tương phản.
Giống với tính cộng đồng, tính tự trị cũng ảnh hưởng đến thái độ trong giao tiếp rụt rè
của người Việt. Khi ở ngoài môi trường cộng đồng quen thuộc, tính tự trị phát huy tác dụng, họ
không xác định được vị thế của mình, vì vậy trở nên lúng túng. Đôi khi nét rụt rè, e thẹn lại được
nhận xét là 1 trong những nét duyên dáng, cuốn hút bí ẩn của người Việt, đặc biệt là người con gái
Việt Nam.
Đây còn là nguyên nhân hình thành tư tưởng tiểu nông tư hữu, ích kỷ, bè phái, địa
phương cục bộ, là nguyên nhân dẫn đến sự hạn chế ý thức hợp quần xã hội khi vượt quá phạm vi
cộng đồng làng.
Tóm lại, đây là những dấu ấn của văn hoá nông nghiệp ảnh hưởng đến thói quen, cách ứng
xử của người Việt trong giao tiếp. Trong đó có những cái tích cực và cũng có những cáu tiêu cực.
Theo em những dấu ấn đáng được giữ gìn, phát huy là hình thức lời nói phong phú, thói quen tìm
hiểu, đánh giá, quán sát đối tượng giao tiếp và cách ứng xử giao tiếp rất linh hoạt. Bởi vì:
Trong cái dấu án thứ nhất, nó có tính chất thân mật hóa (trọng tình cảm), coi mọi người trong
cộng đồng như bà con họ hàng trong một gia đình. Thể hiện sự tôn ti trật kỹ lưỡng mà ngôn ngữ
nói lịch sự cũng phong phú. Giúp cho tạo ra những mối quan hệ mới tốt hơn, cũng cố những mối
quan hệ cũ vững vàng hơn. Ngoài ra đó còn là tiêu chuẩn đánh giá năng lực con người thông qua
giao tiếp.
Trong dấu án thứ hai.Cách ứng xử giao tiếp linh hoạt được thể hiện qua thái độ ứng xử vừa
cởi mở vừa rụt rè của người Việt Nam. Sự cởi mở trong giao tiếp làm tăng thêm tình cảm giữa
người với người, làm khăng khít thêm các mối quan hệ. Đôi khi sự rụt rè lại khiến con người không
sỗ sàng, vồ vập, tạo nét duyên dáng, lịch sự trong giao tiếp.
Trong dấu ấn ảnh hưởng thứ ba, thói quen tìm hiểu, đánh giá, quán sát đối tượng giao tiếp
khiến cho hiểu rõ hoàn cảnh đối phương giúp con người thấu hiểu được tâm tư tình cảm, san sẻ
với nhau. Quan sát, tìm hiểu kĩ trong giao tiếp giúp con người đưa ra những lối ứng xử tinh tế, linh
hoạt. Từ tìm hiểu, quan sát, con người có thể đánh giá sơ bộ đối tượng giao tiếp là người như thế
nào (tốt hay xấu…).
Câu 9. Hãy trình bày đặc điểm của gia đình Việt Nam truyền thống, qua đó chỉ ra vai trò của
gia đình trong việc hình thành nhân cách cá nhân.
Gia đình là tế bào của xã hội, là một đơn vị cộng đồng ra đời cùng với xã hội loài người. Do
sự chi phối của phương thức sản xuất nông nghiệp và tư tưởng Nho giáo nên văn hoá gia đình Việt
Nam truyền thống có những nét đặc điểm .
Do ảnh hưởng của tính cộng động và lối sống trọng tình mỗi gia đình thường có ba, bốn thế
hệ cùng chung sống trong một nhà (tam đại, tứ đại đồng đường), vì vậy các thành viên trong gia
đình rất gắn bó, yêu thương, đùm bọc, nương tựa vào nhau. Thể hiện qua câu tực ngữ: Chị ngã em
nâng; Anh em như thể tay chân… Ý muốn nói đến sự yêu thương, đùm bọc giữa anh chị em trong
gia đình, lúc khó khắn hoạn nạn, gia đình là chỗ dựa vững chắc để dựa vào, gắn bó như tay chân
ruột thịt.
Đa phần là tổ chức theo chế độ phụ quyền. Nhưng mà hiện nay một số nơi vẫn tổ chức theo
chế độ mẫu hệ. Trong thời xưa, chế độ phong kiến cũ chấp nhận gia đình đa thê.
Quan hệ giữa các thành viên trong gia đình tuân theo tôn ti, thứ bậc chặt chẽ của Nho giáo.
Điều này cũng góp phần xây dựng các giá trị đạo đức, nhân cách và các giá trị tinh thần một cách
nề nếp, kỷ cương. Nhưng nó lại là nguyên nhân dẫn đến tư tưởng bất bình đẳng, thiếu dân chủ
trong xã hội.
Trên đây là một số đặc điểm của gia đình Việt Nam truyền, qua đó hiểu rõ hơn về văn hoá
bản sắc của dân tộc và vai trò quan trọng của gia đình đối với mỗi cá nhân. Mỗi người sinh ra và
lớn lên đều có một gia đình và đồng thời chịu ảnh hưởng của ba môi trường giáo dục chính là: Gia
đình, nhà trường và xã hội. Có thể xem ba môi trường ấy là cái nôi nuôi dưỡng, tác động rất lớn
đến việc hình thành nhân cách của con người, trong đó gia đình là cơ sở, là nền tảng quan trọng
có tính chất quyết định nhân cách của con người trong quá trình trưởng thành.
Gia đình là môi trường giáo dục đầu tiên của mỗi con người. Mỗi con người khi sinh ra
thông thường đều có một gia đình, được sinh ra từ người cha, người mẹ…vì thế, ánh mắt đầu tiên
là cái nhìn về cha mẹ, âm thanh đầu tiên tiếp nhận là âm thanh từ cha mẹ, ông bà, anh chị. là âm
thanh của gia đình. Sự chăm sóc của gia đình giúp con người lớn dần lên, tập đi những bước đầu
tiên, học câu nói đầu tiên, qua lời ru của mẹ, của bà... cùng với sự chỉ bảo của gia đình con người
được tiếp xúc và thẩm thấu truyền thống văn hóa gia đình và nền văn hóa xã hội.
Gia đình là nhân tố đầu tiên chỉ bảo, dạy dỗ cho con cá nhân hành vi ứng xử theo chuẩn mực
và các giá trị tốt đẹp của xã hội : “Học ăn, học nói, học gói, học mở .. Ăn trông nồi, ngồi trông
hướng.. Trên kính duới nhường.. ” Chính vì vậy hành vi đầu đời của cá nhân có dấu ấn sâu sắc của
gia đình. Cá nhân có nhân cách tốt hay xấu trước hết và chủ yếu là do môi trường giáo dục của gia
đình tạo nên.
VĂN HOÁ XÃ HỘI (NHÀ – LÀNG – NƯỚC), ẢNH HƯỞNG CỦA VĂN HOÁ LÀNG ĐẾN
PHÁP LUẬT.
Văn hóa nhà (gia đình)
Gia đình là tế bào của xã hội, là một đơn vị cộng đồng ra đời cùng với xã hội loài người, bắt nguồn
từ quan hệ nam nữ và việc sinh đẻ, nuôi dạy con cái. Tính chất của gia đình trong lịch sử thay đổi
theo phương thức sản xuất và thể chế chính trị - xã hội. Vì vậy, cách thức tổ chức gia đình với tư
cách là một tế bào của xã hội, và sự ứng xử của văn hóa gia đình cũng là một thành tố của văn hóa
xã hội.
1.1 Văn hóa gia đình Việt Nam truyền thống.
Do sự chi phối của phương thức sanr xuất nông nghiệp và và tư tưởng Nho giáo nên văn hóa gia
đình Việt Nam truyền thống có các đặc điểm sau:
- Tính cộng đồng và lối sống trọng tình: mỗi gia đình thường có ba, bốn thế hệ cùng chung sống
trong một nhà (tam đại, tứ đại đồng đường), vì vậy các thành viên trong gia đình rất gắn bó, yêu
thương, đùm bọc, nương tựa vào nhau (Trẻ cậy cha, già cây con. Con đại cái mang, Tuy đứt ruột
xót khi ngủ em nâng, Anh em như thể tay chân...).
Tổ chức gia đình theo chế độ phụ quyền con cái mang họ bố; người bố có quyền uy tuyệt đối và
chịu trách nhiệm chính trong gia đình về mọi mặt (Phủ xướng phụ tùy; Cha mẹ đặt đầu con ngồi
đấy), con trai được thừa kế tài sản và có nhiệm vụ thờ cúng tổ tiên.
- Chế độ phong kiến chấp nhận gia đình đa thê (Trai năm thể bảy thiếp, gái chính chuyên chỉ có
một chồng).
Quan hệ giữa các thành viên trong gia đình tuân theo tôn tị, thứ bậc chặt chẽ của giáo lý Nho giáo
(Quyền huynh thế phụ). Tư tưởng Nho giáo và chế độ gia đình phụ quyền là nguyên nhân của quan
niệm trọng nam khinh nữ (nam tôn nữ ti, Nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô). Đây là nguyên nhân
gây ra nhiều thiệt thỏi và bị kịch cho thân phận phụ nữ trong xã hội phong kiến.
1.2. Gia tộc Việt Nam truyền thống
Nhiều gia đình trong một dòng họ tập hợp, liên kết thành một gia tộc. Đặc điểm của gia tộc người
Việt:
Mỗi gia tộc thường sống quần tụ trong một làng, nên những làng có truyền thống lâu đời thường
là đơn vị cư trú của một dòng họ (Đặng Xá, Ngô Xá, Trần Xá...).
Coi trọng việc thờ cúng tổ tiên (hầu hết các dòng họ đều có nhà thở họ, có tộc phả, có nghĩa trang
riêng). Người đứng đầu một dòng họ là tộc trưởng có nhiệm vụ trông coi việc thờ cúng tổ tiên và
mọi việc chung trong gia tộc.
Gia tộc là chỗ dựa cho gia đình (người trong cùng một gia tộc có trách nhiệm cưu mang, hỗ trợ
nhau về vật chất và tinh thân (Sẩy cha có chú, sẩy mẹ bú dì; Nó lú có chú nó khôn; một người làm
quan cả họ được nhờ; một giọt máu đào hơn ao nước lã...)
Chính từ sự gắn bỏ chặt chẽ giữa gia đình - gia tộc là cơ sở tạo nên một nét đẹp trong văn hóa ứng
xử của người Việt, đó là tinh gần kết cộng đồng và lối sống trọng tình, song từ đây cũng này sinh
tư tưởng bè phải, kiểu ứng xử "gia đình chủ nghĩa là nguyên nhân gây nên không ít tiêu cực trong
xã hội (Một người làm quan cả họ được nhờ, tệ nạn "con ông cháu chủ”)
2, VĂN HÓA LÀNG VIỆT TRUYỀN THỐNG
Từ điển Tiếng Việt định nghĩa Làng hay Làng xã gồm 2 lớp nghĩa: Trước tiên,
là một khối cư dân ở nông thôn làm thành một đơn vị có đời sống riêng về nhiều mặt và là một
đơn vị hành chính cấp thấp nhất thời phong kiến. Khái niệm “làng xã” còn thường được dùng để
chỉ một cộng đồng cư dân gắn bó, hoặc có gốc rễ, hay có mối liên hệ trước hết về mặt đời sống
kinh tế, văn hóa với hoạt động chủ yếu là hoạt động nông nghiệp. Văn hóa làng hình thành cách
tư duy, lối sống ứng xử của người Việt về hai mặt tích cực lẫn tiêu cực.
2.1. Tổ chức hành chính của làng
Làng/ làng xã là đơn vị hành chính nhỏ nhất trong bộ máy chính quyền của Nhà nước phong kiến.
Bộ máy chính quyền làng xã gồm ba tổ chức lồng vào nhau:
- Dân hàng xã: gồm toàn bộ cư dân là nam giới từ 18 tuổi trở lên và là dân chính cư.
- Hội đồng Kỳ mục: gồm những người vừa có điền sản, vừa có chức vụ hay phẩm hàm, được dân
hàng xã cử lên, có chức trách đề ra các chủ trương và biện pháp để làm tròn việc làng việc nước.
- Lý dịch: là chức vụ cấp xã của chính quyền phong kiến, đứng đầu là Lý trưởng, có chức trách thực
hiện các chủ trương của Hội đồng Kỳ mục để thực hiện công việc tự quản lý làng xã và thi hành
các chiếu chỉ của triều đình.
2.2. Đặc trưng của văn hóa làng Việt

Nghiên cứu về văn hóa làng Việt truyền thống - một trong những đặc trưng độc đáo làm nên bản
sắc của văn hóa truyền thống Việt Nam, nhiều nhà nghiên cứu đã cùng gặp nhau khi khái quát hai
đặc trưng tiêu biểu của văn hóa làng, đó là tính cộng đồng và tính tự trị.
2.2.1. Tính cộng đồng
Tính cộng đồng như một đặc trưng tiêu biểu của văn hóa Việt Nam, được biểu hiện rõ nét ở cách
thức tổ chức và các mối quan hệ trong các đơn vị cộng đồng, từ gia đình - gia tộc đến làng xã và
quốc gia, trong đó tính cộng đồng thể hiện rõ nhất là ở
văn hóa làng.
a. Cơ sở hình thành tinh cộng đồng trong văn hóa làng:
Do phương thức sản xuất nông nghiệp lúa nước đòi hỏi phải sống định cư, vì vậy, như một đòi hỏi
tự nhiên và tất yếu để sinh tồn, người Việt đã sống quần tụ thành cộng đồng, gắn kết để nương tựa,
giúp đỡ nhau trong lao động sản xuất và ứng phó với thiên tai.
Tiền thân của làng Việt là tổ chức công xã nông thôn được hình thành dựa trên hai mối quan hệ là
huyết thống (Sấy cha có chủ, sẩy mẹ bủ gì; Chị ngã em nâng; Một giọt mẫu đảo hơn ao nước lã;
Một người làm quan cả họ được nhở...), và quan hệ láng giềng (Bán anh em xa mua láng giềng
gần). Hai mối quan hệ này đã tạo nên chất keo gắn kết các thành viên trong làng thành một khối
cộng đồng bền chặt.
b. Biểu hiện của tính cộng đồng trong văn hóa làng:
-Về kinh tế: cư dân trong cùng một làng luôn tương trợ, giúp đỡ nhau trong lao động sản xuất,
chống thiên tai (hạn hán, lũ lụt), khi đói kém, mất mùa (Một miếng khi đói bằng một gói khi no;
Lá lành đùm lá rách; Lụt thì lút cả làng, đắp đê chống lụt thiếp chàng cùng lo...).
- Về tinh cảm: cư dân trong làng đều có mối quan hệ thân tộc nên luôn giúp đỡ nhau khi khó khăn
hoạn nạn, chia sẻ khi vui, khi buồn (Một con ngựa đau cả tàu bỏ cỏ; Bầu ơi thương lấy bí cùng...).
Về phong tục, tín ngưỡng: cả làng có chung phong tục, tập quán, tín ngưỡng, cùng tham gia các
hội hè đình đám...; hôn nhân phải được làng xã công nhận.
-Về luật pháp: mỗi thành viên trong cộng đồng không được pháp luật công nhận với tư cách cá
nhân, mà bị hòa tan trong cộng đồng họ mạc, làng xã. (Ví dụ: pháp luật phong kiến áp dụng trách
nhiệm hình sự liên đới với những người có quan hệ huyết thống, dòng tộc hoặc quan hệ hôn nhân,
thậm chí cá quan hệ hàng xóm, đồng cư với người phạm tội, mặc dù họ không liên quan gì với
hành vi phạm tội). Vì vậy, trong xã hội phong kiến, “một người làm quan cả họ được nhờ”, nhưng
một người phạm tội thì cả cộng đồng phải chịu vạ lây (Phúc cùng hưởng, họa cùng chịu).
Sự gắn kết cộng đồng đã khiến cho làng trở thành một đơn vị cố kết chặt chẽ cả về quan hệ xã hội
cho đến kinh tế, tình cảm, phong tục, pháp luật.... Chính tính cộng đồng là lý do giải thích vì sao
trong suốt mười thế kỷ Bắc thuộc, người Việt “chỉ mất nước chứ không mất làng”. Tính cộng đồng
được bảo tồn, nuôi dưỡng từ cái nôi văn hóa làng là một đặc trưng bản sắc của văn hóa dân tộc, và
cũng là cơ sở để hình thành tinh thần đoàn kết dân tộc như một giá trị tinh thần truyền thống quý
báu, làm nên cội nguồn sức mạnh của dân tộc ta.
c. Biểu tượng của tính cộng đồng trong văn hóa làng:
Trong không gian sống của mỗi làng quê Bắc Bộ, đình làng, cây đa, bến nước là những hình ảnh
vô cùng quen thuộc, gắn bó thân thuộc, bởi đây là những địa điểm thường tập trung đông người,
là nơi sinh hoạt cộng đồng. Bởi vậy, trong văn hóa làng, những hình ảnh này được coi là biểu tượng
cho tính cộng đồng.
d. Tác động của tỉnh cộng đồng đến lối sống, cách tư duy, ứng xử của người Việt:
Tính cộng đồng như một đặc trưng bản sắc của văn hóa làng đã in đậm dấu ấn trong tâm lý, tính
cách, đã tác động đến lối sống, cách tư duy, ứng xử (nói chung) và văn hóa ứng xử với pháp luật
(nói riêng) của người Việt với cả hai mặt tích cực và tiêu cực.
+ Tác động tích cực:
- Tạo nên nếp sống dân chủ bình đẳng và tính tập thể hòa đồng (Một con ngựa đau cả tàu bỏ cỏ...).
- Tạo nên nếp sống gắn bó, đoàn kết tương trợ, cưu mang đùm bọc nhau, là cơ sở tạo nên lối sống
trọng tình - một nét đẹp trong văn hóa ứng xử của người Việt (Tay đứt ruột xót; Chị ngã em nâng;
Lá lành đùm lá rách...).
Tính gắn kết cộng đồng và lối sống trọng tình tạo nên cuộc sống hoà thuận, lấy tình nghĩa làm đầu,
giúp hạn chế xung đột, tranh chấp, kiện tụng..., khiến cho cuộc sống ở làng quê được ổn định, bình
yên.
+ Tác động tiêu cực:
- Lối sống đề cao tính cộng đồng là nguyên nhân tạo nên tư tưởng bè phái, bao che (Rút dây động
rừng; Môi hở răng lạnh;
Đặc điểm này đã gây ảnh hưởng tiêu cực đến hành vi ứng xử với pháp luật, nhất là khi pháp luật
được xây dựng dựa trên nguyên tắc “phúc cùng hưởng, họa cùng chịu”, quy định trách nhiệm liên
đới (một người gây nên tội khiến cả họ hàng, thậm chí láng giềng phải chịu vạ lây) thì thói quen
ứng xử bè phái, bao che càng nặng nề hơn, làm hạn chế các hành vi tố giác tội phạm, gây cản trở
cho việc thực thi pháp luật.
- Đề cao lối ứng xử kiểu “chủ nghĩa thân quen” (Nhất thân nhì quen tam thần tử thế) và thói quen
dựa dẫm, ỉ lại không chịu trách nhiệm cá nhân (Một người làm quan cả họ được nhờ; Nước nổi thì
bèo nổi; Cha chung không ai khóc; Lắm sãi không ai đóng cửa chùa...).
- Lối sống đề cao tính cộng đồng cũng là nguyên nhân hình thành thói quen ứng xử cào bằng, đố
kỵ, kìm hãm, hạn chế ý thức về quyền cá nhân (Xấu đều hơn tốt lỏi; Khôn độc không bằng ngốc
đàn; Chết một đống còn hơn sống một người...).
Tính cộng đồng và lối ứng xử trọng tình là nguyên nhân dẫn đến thói quen ứng xử cả nể, ngại va
chạm, sợ mất lòng, dễ thỏa hiệp, theo đó là sự hạn chế năng lực tư duy phản biện. Thói quen tư
duy và ứng xử này đã được dân gian đúc kết qua các câu thành ngữ, tục ngữ như: Chín bỏ làm
mười; Một sự nhịn chín sự lành; Nhất ì nhì làm thinh; Tháng ba cũng ừ, tháng tư cũng gật; Sư nói
cũng phải, vãi nói cũng hay; Gió chiều nào theo chiều ấy; Một đời kiện chín đời thù...). Đây là
nguyên nhân dẫn đến thái độ hành xử thiếu tính quyết đoán trong giải quyết công việc cũng như
thái độ “dĩ hòa vi quý” trong đấu tranh với những hành vi tiêu cực, với cái xấu, cái bất công.
- Văn hóa trọng tình coi tình cảm làm thước đo giá trị trong các quan hệ dẫn đến thói cái lý không
bằng một tỉ cải tình). Trong một xã hội mà nếu cái tình ở vị trí được ưu tiên hơn, thậm chí lấn át
cái lý thì pháp luật tất yếu sẽ không được coi là một công cụ quan trọng để điều tiết các quan hệ
xã hội.
- Vì nguyên tắc ứng xử trọng tình nhẹ lý là nguyên tắc cơ bản chi phối, điều tiết các mối quan hệ
cho nên việc xử sự của con người thường nặng về chủ quan cảm tính, tùy tiện, không coi trọng
tính nguyên tắc. Đặc điểm này được đúc kết và lưu truyền trong dân gian qua các câu thành ngữ
quen thuộc như: Yêu nhau cau sáu bổ ba, ghét nhau cau sáu bổ ra làm mười; Yêu nhau mọi việc
chẳng nề, dẫu trăm chỗ lệch cũng kê cho bằng; Yêu nhau củ ấu cũng tròn, ghét nhau quả bồ hòn
cũng méo... Đây cũng là một nguyên tắc ứng xử tác động tiêu cực, gây khó khăn, cản trở
cho việc thực thi pháp luật dựa trên nguyên tắc khách quan và công bằng.
Tóm lại, hiện nay, bên cạnh những mặt tích cực thì những tác động tiêu cực của tính cộng đồng
vẫn còn để lại dư vị nặng nề trong xã hội, trực tiếp hoặc gián tiếp tác động tiêu cực đến văn hóa
ứng xử với pháp luật của người Việt, gây khó khăn, cản trở không ít cho công cuộc xây dựng nhà
nước pháp quyền mà tinh thần "thượng tôn pháp luật" là một đòi hỏi tất yếu của xã hội văn minh.
Chính từ nếp sống, thói quen ứng xử kiểu chủ nghĩa thân quen, dựa dẫm, ỉ lại, bè phái, bao che,
đặt tình cao hơn lý, cả nể, ngại va chạm khiến cho pháp luật nhiều khi bị vô hiệu hóa. Vì vậy, văn
hóa ứng xử "lấy cảm tình làm bản vị" của người Việt đang là một thách đố gay gắt khi đất nước
bước vào tiến trình hội hập mà tinh thần "thượng tôn pháp luật" là điểm tựa của việc thực hiện
những cam kết quốc tế.
2.2.2. Tinh tự trị
Nếu như tính cộng đồng thể hiện ở sự đoàn kết, gắn bó, sẽ chia giữa các thành viên trong cùng một
làng thì tính tự trị lại thể hiện ở sự tồn tại độc lập, khép kín trong quan hệ giữa làng này với làng
khác và tính tự quản của làng so với chính quyền
trung ương.
a. Cơ sở hình thành tính tự trị:
Do phương thức sản xuất nông nghiệp trồng trọt ở định cư và nền kinh tế tiểu nông tự túc tự cấp
nên người Việt sống quần tụ trong không gian làng quê, bao quanh làng là lũy tre và cổng làng,
khiến cho làng nào biết làng ấy, các quan hệ xã hội
chủ yếu chỉ bó hẹp trong không gian sống của làng, hạn chế sự quan hệ giao lưu với bên ngoài.
- Bộ máy hành chính tự quản của làng cũng khiến cho làng tồn tại như một “tiểu vương quốc”,
luôn có xu hướng “ly tâm” với chính quyền trung ương, đó cũng là một cơ sở hình thành nếp sống
khép kín, tự trị, hướng nội trong văn hóa làng.
. Ngoài ra, do tính cố kết cộng đồng cao cũng khiến cho mỗi làng tồn tại như một đơn vị độc lập,
tự đầy đủ, khép kín, co cụm lại trong không gian khá biệt lập của mỗi làng.
b. Biểu hiện của tính tự trị:
Về không gian địa lý: mỗi làng sống quần tụ trong một không gian vớiranh giới bao quanh làng là
lũy tre và cổng làng, khiến cho mỗi làng tồn tại như một “vương quốc” nhỏ khép kín, làng nào biết
làng ấy.
- Về kinh tế: mỗi làng tồn tại như một đơn vị kinh tế độc lập, tự túc tự cấp nên ít có nhu cầu quan
hệ giao thương với bên ngoài.
- Về tình cảm: một vài dòng họ thường sống quần tụ trong một làng; việc dựng vợ gạ chồng khuyến
khích lấy nhau củng làng (Lấy chồng khó ở làng hơn lấy chồng sang thiên hạ). Vì vậy quan hệ giao
lưu tình cảm cũng tự đầy đủ, khép kín trong phạm vi làng.

Về phong tục và tín ngưỡng, mỗi làng thờ Thành Hoàng làng là ông tổ của làng được thờ ở đình
làng, ngoài ra còn có đền, chùa, miếu là những không gian thờ phụng gắn với những phong tục,
tín ngưỡng riêng của làng; có lễ hội, đình đám của làng...
- Về tổ chức hành chính: mỗi làng có bộ máy hành chính tự quản độc lập, có vai trò và chức năng
giải quyết mọi việc trong làng. Bộ máy hành chính của mỗi làng bao gồm: Hội đồng Kỳ mục (có
chức năng như bộ phận lập pháp); Lý dịch (có chức năng như bộ phận hành pháp);

Về luật pháp: mỗi làng có lệ làng - hương ước là luật lệ của làng. Hương ước là văn bản ghi chép
các lệ làng, trong đó qui định những điều cấm không được làm, những điều được làm; những hình
phạt khi làm trái với lệ làng và những hình thức khen thưởng đối với những việc làm tốt, có ích
cho làng. Hương ước là một loại luật tục dân gian bắt nguồn từ tập quán của từng làng, phản ánh
tâm lý, phong tục, tập quán, nếp sống (thuần phong mỹ tục), ăn sâu vào tiềm thức của mỗi cư dân
trong làng, tạo nên một áp lực tinh thần bất khả kháng, thành “lệ làng”. Vì thế, luật
tục - hương ước - lệ làng đã ràng buộc mỗi thành viên trong làng vào một nề nếp, quy củ, tạo thành
nếp sống chung ổn định trong không gian khép kín của mỗi làng. Hương ước chính là hệ thống giá
trị chuẩn mực của làng xã, quy định cung cách ứng xử, lối sống của cá nhân trong làng, tạo nên sự
đồng nhất. Như vậy, trong xã hội truyền thống Việt Nam, lệ làng tồn tại song song với luật pháp
của nhà nước (Lệ làng/ phép nước).
Tuy không đối lập với luật pháp của nhà nước nhưng lệ làng lại đề cập tới những nội dung cụ thể
gắn với hoàn cảnh, phong tục, tập quán lâu đời và đặc điểm của từng làng mà bộ luật của nhà nước
không thể cụ thể hóa. Bởi vậy, người dân trong làng có thể ít hiểu về luật pháp của nhà nước nhưng
lại hiểu rất rõ lệ làng và tuân thủ lệ làng một cách nghiêm ngặt; thậm chí, luật tục của làng còn có
hiệu lực hơn luật pháp của nhà nước (Phép vua thua lệ làng; Nhập gia tùy tục...). Đây là một nét
đặc thù trong thể chế pháp lý Việt Nam thời phong kiến. Có thể nói, trong tổ chức
lăng xã Việt Nam truyền thống, hương ước - lệ làng về cơ bản là một hiện tượng văn hóa độc đáo
với rất nhiều các giá trị tích cực đã góp phần giữ gìn kỷ cương, trật tự xã hội, thuần phong mỹ tục
với các quy định mang tính cách đặc thù của mỗi địa phương.
Với luật lệ riêng, làng xã Việt Nam đã tồn tại như một vương quốc thu nhỏ với sự cố kết rất bền
vững.
Như vậy, với sự độc lập, khép kín về không gian địa lý, về kinh tế, về tình cảm, phong tục, tín
ngưỡng và bộ máy hành chính tự quản đã khiến cho mỗi làng tồn tại như một “tiểu vương quốc”
khá biệt lập với làng khác và tự quản trong quan hệ với
nhà nước. Tính tự túc tự cấp của nền kinh tế tiểu nông cùng với bộ máy hành chính tự quản đã
khiến cho làng luôn có xu hướng “ly tâm” với chính quyền trung ương.
c. Biểu tượng của tính tự trị:
Nếu cây đa, bến nước, đình làng là những hình ảnh biểu tượng cho tỉnh cộng đồng thì lũy tre làng
và cổng làng vừa là ranh giới cụ thể phân định không gian sống biệt lập của mỗi làng, nhưng đồng
thời cũng là những hình ảnh biểu tượng cho tính tự trị, khép kín của văn hóa làng.
d. Tác động của tính tự trị đến lối sống, cách tư duy, ứng xử của người Việt:
+ Tác động tích cực:
Do lối sống nông nghiệp quần cư khép kín, hướng nội, thành phần cư dân ổn định, quan hệ xã hội
chủ yếu dựa trên các mối quan hệ thân quen, thân tộc nên tính tự quản cao, ít xảy ra những tranh
chấp, kiện tụng, vì vậy việc quản lý xã hội có nhiều
thuận lợi.
Sự tồn tại của hương ước - lệ làng với tính cụ thể, gần gũi, thiết thực, dễ hiểu, dễ thực hiện và phù
hợp với tâm lý, phong tục, tập quán và điều kiện đặc thù của từng làng nên đã phát huy tính hiệu
quả cao trong việc quản lý xã hội, tạo thành nếp sống chung ổn định của mỗi làng.
Tính tự trị cũng tạo cho người dân tinh thần độc lập, tự chủ, ý thức tự lực tự cường và đức tính cần
cù, chịu khó, tiết kiệm. (Được mùa chứ phụ ngô khoai, đến khi thất bát lấy đi ban cùng).
+ Tác động tiêu cực.
Bên cạnh những tác động tích cực thi tính tự trị, khép kín của văn hóa làng cũng gây nên nhiều ảnh
hưởng tiêu cực trong lối sống, cách tư duy và ứng xử của người Việt xưa và nay. Có thể nhận diện
sự tác động tiêu cực của tính tự trị ở một :số biểu hiện sau
- Tính tự trị là cơ sở hình thành tư tưởng tiểu nông tư hữu, ích kỷ (Bè ai người nấy chống; Ruộng
ai người nấy đắp bởi Thân trâu trâu lo, thân bỏ bỏ liệu; Của mình thì giữ bọ bọ, của người thì để
cho bò nó ăn...).
Tư tưởng bè phái, địa phương cục bộ (Nhập gia tùy tục; Trâu ta ăn cỏ đồng ta; Ta về ta tắm ao
ta...) là nguyên nhân dẫn đén sự hạn chế ý thức hợp quần xã hội khi vượt quá phạm vi cộng đồng
làng.
- Lối sống khép kín, quan hệ xã hội không mở rộng tạo nên tư duy bảo thủ, trì trệ, tâm lý không
thích sự thay đổi. Điều này đã làm hạn chế, thui chột năng lực và thói quen tư duy phản biện của
người Việt, trong khi đây lại là một yếu tố quan trọng làm động lực thúc đẩy sự phát triển của xã
hội.
Trong ứng xử với pháp luật, tính tự trị làng xã với sự ton tại của luật tục - lệ làng đã tạo nên lối
sống trọng lệ hơn luật và thói quen ứng xử “Phép vua thua lệ làng”. Lối sống, thói quen ứng xử
này hiện nay còn ảnh hưởng khá nặng nề.
Tóm lại, từ phương thức sản xuất nông nghiệp lúa nước đã sản sinh ra hai đặc trưng tiêu biểu của
văn hóa làng Việt truyền thông, đó là tính cộng đông và tính tự trị. Từ hai đặc trưng này đã sản
sinh ra những ưu điểm và nhược điểm trong lối sống, thói quen và tính cách của người nông dân
Việt Nam. Những thói quen và tính cách đó, với cả hai mặt tốt và xấu đã ăn sâu vào trong tiềm
thức, trong cách tư duy, ứng xử của mỗi người dân Việt vốn gắn bó từ cái nôi văn hóa làng, để rồi
tùy từng hoàn cảnh ứng xử mà mặt tốt hoặc mặt xấu sẽ phát huy.
Tuy nhiên, cần lưu ý rằng, các đặc trưng tiêu biểu trên đây của văn hóa làng được khái quát chủ
yếu từ làng Việt Bắc Bộ với bề dày lịch sử hàng ngàn năm. Đi vào Trung Bộ, cơ cấu làng Việt bắt
đầu lỏng lẻo dần, tính tự trị khép kín cũng dần mờ nhạt hơn. Đến Nam Bộ, tính chất “mở” hầu như
đã hoàn toàn đẩy lùi tính tự trị, khép kín, biểu hiện ở lối sống năng động, dễ hòa nhập và thích nghi
với cái mới của người Nam Bộ.
3. VĂN HÓA TỔ CHỨC QUỐC GIA
Văn hóa làng chính là cội nguồn, là sức mạnh, cũng là nơi nuôi dưỡng, bảo tồn và gìn giữ các đặc
trưng bản sắc của văn hóa dân tộc, và cũng là cơ sở để hình thành ý thức về quốc gia - dân tộc của
người Việt.
Trong tâm thức của người Việt, quốc gia - đất nước là tổ chức cộng đông quan trọng thứ hai sau
làng, còn đơn vị trung gian giữa làng và nước (vùng, huyện, tỉnh) lại không mấy ý nghĩa (điều này
rất khác với quan niệm của cư dân phương Tây vốn xuất phát từ lối sống du mục).
3.1. Tổ chức nhà nước phong kiến Đại Việt
Nhà nước phong kiến Đại Việt được tổ chức theo mô hình nhà nước phong kiến Trung Hoa - kiểu
nhà nước phong kiển trung ương tập quyền (vua là người có quyền lực tuyệt đối Cơ cấu bộ máy
nhà nước gồm các tầng lớp: vua - quan lại – dân. Tuy vậy, nhà nước phong kiến Đại Việt có truyền
thống dân chủ hơn nhà nước phong kiến Trung Hoa.
Biểu hiện: Các vị vua Đại Việt không chuyên chế, độc đoán như vua Trung Hoa, thậm chí có những
vị vua rất gần dân, đề cao tư tưởng lấy dân làm gốc. (Năm 1284, vua Trần Thánh Tông mở Hội
nghị Diên Hồng, triệu họp các bộ lão trong cả nước để trưng cầu dân ý về chủ trương hòa hay chiến
khi quân Nguyên Mông sang xâm lược nước ta lần thứ 2. Hội nghị Diên Hồng được xem như hội
nghị dân chủ đầu tiên trong lịch sử Việt Nam). Trần Quốc Tuấn chủ trương “khoan thư sức dân để
làm kế sâu rễ bền gốc” (lấy dân làm gốc); Nguyễn Trãi từng ước mong làm sao “nơi thôn cùng
xóm vắng không có một tiếng hờn giận oán sầu”...).
Việc tuyển chọn người vào bộ máy quan lại cũng mang tính chất dân chủ nông nghiệp (không theo
kiểu cha truyền con nối mà chủ yếu tuyển chọn bằng con đường thi cử, vì vậy có nhiều vị quan lại
xuất thân từ tầng lớp bình dân).
Ở một số triều đại, vua cũng xuất thân từ bình dân: Đinh Bộ Lĩnh (Đinh Tiên Hoàng 968 - 979)
xuất thân từ mục đồng; Mạc Đăng Dung (vua đầu tiên của họ Mạc 1527- 1533); dòng họ vua nhà
Trần (1225 - 1400) xuất thân từ dân chài...
Sự phân chia các đẳng cấp được tôn vinh trong xã hội theo thứ tự: sĩ - nông - công - thương (đề
cao tầng lớp nho sĩ, coi thường tầng lớp tiểu thương).
Nhà nước phong kiến Đại Việt quản lý xã hội bằng pháp tri kết hợp với đức trị, trong đó hệ thống
giáo lý Nho giáo (Tam cương, Ngũ thường) vừa là đạo lý nhưng cũng là pháp lý.
+ Luật pháp trong tổ chức Nhà nước thời phong kiến Đại Việt:
Trước thời Đại Việt, các quy phạm xã hội tuân theo luật tục, chưa có luật pháp. Sang thời Đại Việt,
cùng với việc xây dựng nhà nước phong kiến tự chủ, để thể chế hóa việc quản lý xã hội, các triều
đại phong kiến đã soạn ra các bộ luật: Luật hình thư (nhà Lý - 1042); Quốc triều hình luật (nhà
Trần - 1244); Luật Hồng Đức (Lê triều hình luật - 1483); Luật Gia Long (nhà Nguyễn - 1815). Pháp
luật thời phong kiến bị chi phối bởi các đặc trưng văn hóa truyền thống:

* Tinh chất nông nghiệp:

- Đề cao tính cộng đồng, coi nhẹ vai trò cá nhân: người dân trong xã hội phong kiến không được
pháp luật công nhận với tư cách cá nhân, mà bị “hòa tan” trong cái chung của cộng đồng họ mạc,
làng xã (chịu trách nhiệm liên đới: tru di tam tộc/ cửu tộc).

Tỉnh tự trị: mỗi làng có “bộ luật” riêng, đó là hương ước. lệ làng đệ ràng buộc các hành vi ứng xử
của dân làng trong một quy phạm chung. Lệ làng tồn tại song song với luật pháp nhà nước (phép
nước), là sự cụ thể hóa luật pháp của nhà nước gần với điều kiện, phong tục, thói quen, nếp sống
của từng làng, vì vậy người dân chỉ hiểu rõ và tuân thủ lệ làng mà không mấy quan tâm đến luật
nước (Phép vua thua lệ làng).

- Luật pháp thể hiện truyền thống dân chủ và trọng phụ nữ Bộ luật Hồng Đức và Luật Gia Long ra
đời vào thời kỳ Nho giáo đã trở thành quốc giáo nên chịu ảnh hưởng khá nhiều của luật Trung Hoa.
Nhưng trong số 722 điều của luật Hồng Đức, có tới 407 điều hoàn toàn của Việt Nam, và trong số
hơn 300 điều còn lại chịu ảnh hưởng của luật Trung Hoa nhưng vẫn có những nội dung được cải
biến theo truyền thống dân chủ và trọng phụ nữ của Việt Nam. Một nhà nghiên cứu người Triều
Tiên (Insun Yu, 1994) nghiên cứu về luật và xã hội Việt Nam thế kỷ XVII-XVIII có nhận xét rằng,
trong vấn đề gia đình, truyền thống luật Việt Nam chú trọng nhiều tới phụ nữ và quan hệ vợ chồng,
còn luật Trung Hoa thì chú trọng nhiều tới quan hệ cha con.
* Sự chi phối của quan niệm Nho giáo: - Đạo đức Nho giáo chi phối đến pháp luật: Quốc triều hình
luật qui định về nghĩa vụ của con cái: không được kiện cha mẹ (điều 511); phải che dấu tội của cha
mẹ (điều 504); chịu thay hình phạt cho cha mẹ (điều 38)... Từ khi có các bộ luật chính thống, các
quan hệ xã hội bị khuôn vào các thiết chế của nhà nước phong kiến. Song vì bên Bạn đã gửi trong
cạnh các bộ luật thành văn mang tính chính thống của nhà nước, đời sông làng xã còn có lệ làng -
luật tục nên suốt thời phong kiên, “lệ làng” cùng tồn tại song song với “phép nước”. Người dân
trong khi hiểu rất rõ lệ làng và tuân thủ lệ làng một cách nghiêm ngặt thì lại không mây quan tâm
đến luật pháp của nhà nước. Đó là lý do khiến cho luật pháp của nhà nước không có mấy hiệu lực
đối với cuộc sống của cư dân sau lũy tre làng, là một trong những nguyên nhân dẫn đến ý thức
không tôn trọng pháp luật cũng như thái độ né tránh pháp luật. Tâm lý và thói quen này hiện nay
vẫn còn để lại ảnh hưởng khá nặng nề, làm cản trở không ít đến công cuộc xây dựng nhà nước
pháp quyền.

3.2. Ý thức về quốc gia - dân tộc của người Việt

Suốt chiều dài lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc, dù trải qua bao biến cố thăng trầm,
nhưng xuyên suốt trong ý thức về quốc gia - dân tộc của người Việt, có thể thấy hai đặc điểm nổi
bật, đó là: - Lòng yêu nước và ý thức độc lập dân tộc - Tinh thần đoàn kết cộng đồng Do điều kiện
tự nhiên và lịch sử đặc biệt: liên tục phải gồng mình lên để chống chọi với thiên tai và đấu tranh
chống giặc ngoại xâm để bảo vệ độc lập chủ quyền đã hun đúc nên truyền 1 thống yêu nước, ý
thức về độc lập chủ quyền và tinh thần đoàn kết dân tộc của người Việt. Đây là những giá trị tinh
thần truyền thông quý báu của dân tộc ta, đã được tích tụ, kết tinh qua hàng nghìn năm lịch sử đấu
tranh chống thiên tai và địch họa, tạo thành một mạch ngầm thấm sâu và bền bỉ tuôn chảy từ thế
hệ này sang thế hệ khác, kết tinh thành đạo lý sống của mỗi dân Việt, là nhân tố cơ bản, đứng đầu
trong bảng giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng khăng định: “Dân
ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi
khi Tổ quốc bị xâm lăng thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ,
to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả bè lũ bán nước và cướp nước”.

Có thể thấy, ý thức quốc gia - dân tộc của người Việt là sự tiếp nối, mở rộng, phát triển từ hai đặc
trưng cơ bản của văn hóa làng:

a- Lòng yêu nước và ý thức độc lập dân tộc chính là tỉnh tự trị trong văn hóa làng được mở rộng ra ở
cấp độ quốc gia. Từ tình cảm yêu làng, gắn bó với làng đã hun đúc nên lòng yêu nước, lòng tự hào
và ý thức về độc lập chủ quyền dân tộc.

Biểu hiện:
- Ở cấp độ làng:

Trống làng nào làng ấy đánh, thánh làng nào làng ấy thờ...

- Ở cấp độ quốc gia:

Sông núi nước Nam vua Nam ở

Rành rành định phận ở sách trời

(Nam quốc sơn hà - Lý Thường Kiệt)

Như nước Đại Việt ta từ trước

Vốn xưng nền văn hiến đã lâu

Núi sông bờ cõi đã chia

Phong tục Bắc Nam cũng khác

Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời gây nền độc lập,

Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên hùng cứ một phương

(Bình Ngô đại cáo - Nguyễn Trãi)

Đó là những lời khẳng định đanh thép về chủ quyền lãnh thổ quốc gia; đó cũng là lòng tự hào về
vị thế của dân tộc ta trong quan hệ với nước láng giềng Trung Hoa, tử chính trị đến văn hóa, từ
phong tục đến nhân tài, hào kiệt.

b- Tinh thần đoàn kết dân tộc chính là sự phát triển, mở rộng từ tính cộng đồng làng xã, từ sự gắn bó,
tương trợ, giúp đỡ nhau về kinh tế, chia sẻ về tình cảm giữa các thành viên trong làng.
Biểu hiện:
- Ở cấp độ làng: Một con ngựa đau cả tàu bỏ cỏ
Tay đứt ruột xót
Chị ngã em nâng...
- Ở cấp độ quốc gia: Bầu ơi thương lấy bí cùng
Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn
Nhiễu điều phủ lấy giá gương,
Người trong một nước phải thương nhau cùng
Nhờ tính gắn kết cộng đồng cao mà trải qua hàng ngàn năm lịch sử, mỗi khi đất nước lâm nguy,
nhân dân ta đã phát huy sức mạnh của tỉnh thần đoàn kết, nhờ đó đã chiến thắng những kẻ thù lớn
mạnh hơn gấp nhiều lần.
Như vậy, đối với người Việt, nếu làng là một đơn vị cộng đồng có quan hệ gắn bó máu thịt như
trong một gia đình - làng là một “đại gia đình”, thì quốc gia - đất nước cũng gần gũi, thân thương
như là một ngôi làng lớn - đó là một “siêu làng”. Đó chính là lý do giải thích vì sao trong tâm thức
của mỗi người dân Việt, gia đình - làng - nước đã tồn tại như một khối thống nhất, ràng buộc trong
mối liên hệ máu thịt khó có thể chia tách (Nước mất nhà tan; Việc làng việc nước; Sống ở làng,
sang ở nước...).

ẢNH HƯỞNG CỦA VĂN HOÁ LÀNG ĐẾN PHÁP LUẬT.


Câu 10. Hãy trình bày đặc trưng của văn hoá làng và ảnh hưởng của nó đến thói quen, lối
sống, cách tư duy, ứng xử của người Việt (ảnh hưởng đến Pháp luật). Sưu tầm những câu
thành ngữ, tục ngữ nói về văn hoá làng của người Việt.
Tính cộng đồng như một đặc trưng tiêu biểu của văn hóa Việt Nam, được biểu hiện rõ nét ở cách
thức tổ chức và các mối quan hệ trong các đơn vị cộng đồng, từ gia đình - gia tộc đến làng xã và
quốc gia, trong đó tính cộng đồng thể hiện rõ nhất là ở
văn hóa làng. Tính cộng đồng như một đặc trưng bản sắc của văn hóa làng đã in đậm dấu ấn trong
tâm lý, tính cách, đã tác động đến lối sống, cách tư duy, ứng xử (nói chung) và văn hóa ứng xử với
pháp luật (nói riêng) của người Việt với cả hai mặt tích cực và tiêu cực. Văn hóa có một ảnh hưởng
không thể phủ nhận đối với pháp luật. Văn hóa chính là cuộc sống, do đó, việc xây dựng pháp luật,
theo lẽ tự nhiên, phải dựa trên những kinh nghiệm văn hóa, tức là pháp luật phải có khả năng biến
thành văn hóa để điều chỉnh cuộc sống. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, ở Việt Nam, hệ thống pháp
luật có những lúc không tương thích với cuộc sống.
+ Tác động tích cực:
- Tạo nên nếp sống dân chủ bình đẳng và tính tập thể hòa đồng (Một con ngựa đau cả tàu bỏ cỏ...).
- Tạo nên nếp sống gắn bó, đoàn kết tương trợ, cưu mang đùm bọc nhau, là cơ sở tạo nên lối sống
trọng tình - một nét đẹp trong văn hóa ứng xử của người Việt (Tay đứt ruột xót; Chị ngã em nâng;
Lá lành đùm lá rách...).
Tính gắn kết cộng đồng và lối sống trọng tình tạo nên cuộc sống hoà thuận, lấy tình nghĩa làm đầu,
giúp hạn chế xung đột, tranh chấp, kiện tụng..., khiến cho cuộc sống ở làng quê được ổn định, bình
yên.
Sự gắn kết cộng đồng đã khiến cho làng trở thành một đơn vị cố kết chặt chẽ cả về quan hệ xã hội
cho đến kinh tế, tình cảm, phong tục, pháp luật.... Chính tính cộng đồng là lý do giải thích vì sao
trong suốt mười thế kỷ Bắc thuộc, người Việt “chỉ mất nước chứ không mất làng”. Tính cộng đồng
được bảo tồn, nuôi dưỡng từ cái nôi văn hóa làng là một đặc trưng bản sắc của văn hóa dân tộc, và
cũng là cơ sở để hình thành tinh thần đoàn kết dân tộc như một giá trị tinh thần truyền thống quý
báu, làm nên cội nguồn sức mạnh của dân tộc ta.
+ Tác động tiêu cực:
Lối sống đề cao tính cộng đồng là nguyên nhân tạo nên tư tưởng bè phái, bao che (Rút dây động
rừng; Môi hở răng lạnh;
Đặc điểm này đã gây ảnh hưởng tiêu cực đến hành vi ứng xử với pháp luật, nhất là khi pháp luật
được xây dựng dựa trên nguyên tắc “phúc cùng hưởng, họa cùng chịu”, quy định trách nhiệm
liên đới (một người gây nên tội khiến cả họ hàng, thậm chí láng giềng phải chịu vạ lây) thì thói
quen ứng xử bè phái, bao che càng nặng nề hơn, làm hạn chế các hành vi tố giác tội phạm, gây
cản trở cho việc thực thi pháp luật.
Đề cao lối ứng xử kiểu “chủ nghĩa thân quen” (Nhất thân nhì quen tam thần tử thế) và thói quen
dựa dẫm, ỉ lại không chịu trách nhiệm cá nhân (Một người làm quan cả họ được nhờ; Nước nổi
thì bèo nổi; Cha chung không ai khóc; Lắm sãi không ai đóng cửa chùa...).
Lối sống đề cao tính cộng đồng cũng là nguyên nhân hình thành thói quen ứng xử cào bằng, đố
kỵ, kìm hãm, hạn chế ý thức về quyền cá nhân (Xấu đều hơn tốt lỏi; Khôn độc không bằng ngốc
đàn; Chết một đống còn hơn sống một người...).
Tính cộng đồng và lối ứng xử trọng tình là nguyên nhân dẫn đến thói quen ứng xử cả nể, ngại va
chạm, sợ mất lòng, dễ thỏa hiệp, theo đó là sự hạn chế năng lực tư duy phản biện. Thói quen tư
duy và ứng xử này đã được dân gian đúc kết qua các câu thành ngữ, tục ngữ như: Chín bỏ làm
mười; Một sự nhịn chín sự lành; Nhất ì nhì làm thinh; Tháng ba cũng ừ, tháng tư cũng gật; Sư nói
cũng phải, vãi nói cũng hay; Gió chiều nào theo chiều ấy; Một đời kiện chín đời thù...). Đây là
nguyên nhân dẫn đến thái độ hành xử thiếu tính quyết đoán trong giải quyết công việc cũng
như thái độ “dĩ hòa vi quý” trong đấu tranh với những hành vi tiêu cực, với cái xấu, cái bất
công.
Văn hóa trọng tình coi tình cảm làm thước đo giá trị trong các quan hệ dẫn đến thói cái lý không
bằng một tỉ cải tình). Trong một xã hội mà nếu cái tình ở vị trí được ưu tiên hơn, thậm chí lấn át
cái lý thì pháp luật tất yếu sẽ không được coi là một công cụ quan trọng để điều tiết các quan hệ
xã hội.
Vì nguyên tắc ứng xử trọng tình nhẹ lý là nguyên tắc cơ bản chi phối, điều tiết các mối quan hệ
cho nên việc xử sự của con người thường nặng về chủ quan cảm tính, tùy tiện, không coi trọng
tính nguyên tắc. Đặc điểm này được đúc kết và lưu truyền trong dân gian qua các câu thành ngữ
quen thuộc như: Yêu nhau cau sáu bổ ba, ghét nhau cau sáu bổ ra làm mười; Yêu nhau mọi việc
chẳng nề, dẫu trăm chỗ lệch cũng kê cho bằng; Yêu nhau củ ấu cũng tròn, ghét nhau quả bồ hòn
cũng méo... Đây cũng là một nguyên tắc ứng xử tác động tiêu cực, gây khó khăn, cản trở cho việc
thực thi pháp luật dựa trên nguyên tắc khách quan và công bằng.
Mỗi thành viên trong cộng đồng không được pháp luật công nhận với tư cách cá nhân, mà bị hòa
tan trong cộng đồng họ mạc, làng xã. (Ví dụ: pháp luật phong kiến áp dụng trách nhiệm hình sự
liên đới với những người có quan hệ huyết thống, dòng tộc hoặc quan hệ hôn nhân, thậm chí cá
quan hệ hàng xóm, đồng cư với người phạm tội, mặc dù họ không liên quan gì với hành vi phạm
tội). Vì vậy, trong xã hội phong kiến, “một người làm quan cả họ được nhờ”, nhưng một người
phạm tội thì cả cộng đồng phải chịu vạ lây (Phúc cùng hưởng, họa cùng chịu)
Có quan điểm cho rằng: Luật pháp tuy có tác động vào phong tục nhưng vẫn phụ thuộc vào phong
tục. Montesquieu (một nhà bình luận xã hội và tư tưởng chính trị Pháp) luôn dùng những sự thật
mới để uốn nắn lại tư tưởng ban đầu thường bị thổi phồng: Thiên nhiên và khí hậu thống trị hầu
như tuyệt đối các dân tộc dã man; các dân tộc vốn minh thì chịu ảnh hưởng của luân lý. Tính cách
chung của một dân tộc là không gì thắng nổi. Nó tác động đến những kẻ muốn từ chối nó. Nó làm
ra luật pháp, hoặc vô hiệu hoá luật pháp. Mà luật pháp không thể chống lại nó, vì luật pháp và tính
cách chung là hai thế lực có bản chất khốc nhau. Tính cách chung của một dân tộc vượt ra ngoài
hoặc cưỡng chống lại mọi thứ còn lại.
Thực tế cho thấy, “trong điều kiện mà trình độ phát triển của các cộng đồng còn khác biệt thì các
quy phạm pháp luật ở trình độ khái quát cao khó xâm nhập vào các lĩnh vực cụ thể của đời sống
cộng đồng”. Trong khi đó, ở Việt Nam hiện nay, sự phát triển ở các vùng miền, các dân tộc còn
không đồng đều, thậm chí vẫn còn có sự chênh lệch không nhỏ về trình độ phát triển, đời sống văn
hóa, tinh thần giữa các vùng miền, cộng đồng dân cư. Vì vậy, không phải khi nào và ở đâu, các
quy phạm pháp luật với tính khái quát cao cũng hoàn toàn phù hợp để điều chỉnh một cách chính
xác, thỏa đáng những vấn đề pháp lý phát sinh ở các vùng miền, các cộng đồng dân cư khác nhau
đó. “Do vậy, mỗi một cộng đồng làng xã cụ thể luôn cần đến các quy định cụ thể, gần gũi, dễ hiểu,
dễ thực hiện cho mọi thành viên trong làng, phản ánh được nhu cầu tổ chức và phát triển của mỗi
làng, xã cụ thể”. Điều này đặt ra nhu cầu tất yếu phải áp dụng tập quán nhằm hỗ trợ cho pháp luật
quản lý xã hội. Hơn nữa, sẽ là rất khó để một nhà nước có thể ban hành một hệ thống các quy phạm
pháp luật điều chỉnh được hết mọi vấn đề phát sinh trong xã hội, vì rằng, hệ thống các quy phạm
pháp luật thì mang tính ổn định, trong khi đó các quan hệ xã hội thì vô cùng đa dạng và luôn phát
triển không ngừng, do đó, khi xây dựng và ban hành các quy phạm pháp luật, các nhà làm luật
không thể dự liệu hết được các tình huống pháp lý phát sinh trên mọi lĩnh vực đời sống xã hội. Nói
cách khác, nhà nước không thể nào “luật hóa” được mọi lĩnh vực, mọi ngõ ngách của đời sống xã
hội, vì thế, trong thực tiễn sẽ luôn có những tình huống thiếu pháp luật thành văn để điều chỉnh,
trong khi đó tập quán lại rất phong phú và đa dạng, với cơ chế điều chỉnh mềm dẻo, linh hoạt chính
là nguồn hỗ trợ, bổ sung quan trọng cho pháp luật trong điều chỉnh các quan hệ xã hội nói chung
và quan hệ dân sự nói riêng.
Tóm lại, hiện nay, bên cạnh những mặt tích cực thì những tác động tiêu cực của tính cộng đồng
vẫn còn để lại dư vị nặng nề trong xã hội, trực tiếp hoặc gián tiếp tác động tiêu cực đến văn hóa
ứng xử với pháp luật của người Việt, gây khó khăn, cản trở không ít cho công cuộc xây dựng nhà
nước pháp quyền mà tinh thần "thượng tôn pháp luật" là một đòi hỏi tất yếu của xã hội văn minh.
Chính từ nếp sống, thói quen ứng xử kiểu chủ nghĩa thân quen, dựa dẫm, ỉ lại, bè phái, bao che,
đặt tình cao hơn lý, cả nể, ngại va chạm khiến cho pháp luật nhiều khi bị vô hiệu hóa. Vì vậy, văn
hóa ứng xử "lấy cảm tình làm bản vị" của người Việt đang là một thách đố gay gắt khi đất nước
bước vào tiến trình hội hập mà tinh thần "thượng tôn pháp luật" là điểm tựa của việc thực hiện
những cam kết quốc tế.
VĂN HOÁ VIỆT NAM TỪ TRUYỀN THỐNG ĐẾN HIỆN ĐẠI
Phân tích những nguyên nhân dẫn đến sự chuyển đổi cấu trúc văn hoá Việt Nam từ truyền thống
đến hiện đại.
Phần kiến thức thuộc chương 5 Tập bài giảng ĐCVH VN bao gồm hai mục lớn:
I. Sự chuyển đổi cấu trúc văn hóa từ truyền thống sang hiện đại
II. Văn hóa Việt Nam trong bối cảnh hội nhập toàn cầu hóa
Dưới đây là phần tổng quan kiến thức mục I. Sự chuyển đổi cấu trúc văn hóa từ truyền thống sang
hiện đại kết hợp phân tích nguyên nhân dẫn đến sự chuyển đổi cấu trúc văn hóa Việt Nam từ truyền
thống đến hiện đại.
Nguyên nhân chuyển đổi cấu trúc văn hóa Việt nam từ truyền thống sang hiện đại: 1. Sự tiếp xúc
văn hóa phương Tây:
+ Văn hóa Pháp (1858 – 1945)
+ Văn hóa Mỹ (1945 – 1975)
+ Văn hóa XHCN ở miền Bắc (1954 – 1990)
+ Sự giao lưu hội nhập toàn cầu.
2. Sự thay đổi nền tảng kinh tế, xã hội.
----
Văn hóa Việt Nam từ truyền thống đến hiện đại, quãng giao thời, quá độ khi một nền văn
hóa đan xen trong sự hỗn dung của nhiều lớp văn hóa giữa Đông – Tây, giữa truyền thống – hiện
đại, giữa bản địa – ngoại sinh. Tất cả chuyển động không ngừng, đan cài, dung nạp vào và đào thải
ra để nhào nặn một hình thái văn hóa trong thời đại mới.
Văn hóa không phải một lĩnh vực riêng biệt, văn hóa là một tổng thể nói chung những giá trị
vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra. Văn hóa được cho là chìa khóa của sự phát triển,
cũng như bất cứ nền văn hóa nào, văn hóa Việt Nam là sản phẩm của tính quá trình, là dòng chảy
từ quá khứ đến hiện đại. Những giá trị bản sắc dân tộc được đúc kết qua hàng nghìn năm lịch sử
dựng nước, giữ nước đã ăn sâu vào lối sống, tư duy và ứng xử của con người Việt Nam, tạo nên
những nét đặc trưng riêng biệt độc đáo. Tưởng như những lề thói đó sẽ bền vững, trường tồn gắn
liền với con người Việt Nam theo thời gian, nhưng xét về bản chất của dòng chảy văn hóa ấy là sự
biến đổi không ngừng, gắn liền với xã hội, giá trị của văn hóa cũng bất biến song song với những
thay đổi của thời gian, của xã hội. Việt Nam đã tồn tại và phát triển một nền văn hóa nông nghiệp
với những nét đặc trưng của văn hóa phương Đông. Đó là nền văn hoá lấy gia tộc làm gốc; lấy tình
cảm làm trọng; trông vào con cháu duy trì nòi giống và nối nghiệp tổ tiên; coi trọng tính trường
tồn, đời xưa sao đời nay thế; ưa chuộng hoà bình, an cư lạc nghiệp. Những đặc trưng này toát lên
tính chất “trọng tình” của văn hóa truyền thống, cốt giữ cho tình cảm nồng hậu, trọng đạo đức
nhân nghĩa, thích yên lặng hoà bình cho cuộc sống.
I. Sự tiếp xúc văn hóa phương Tây
Sự chuyển đổi cấu trúc văn hóa Việt nam từ truyền thống sang hiện đại đã có dấu hiệu và
manh nha từ thế kỷ XVI – XVII, tiếp xúc văn hóa giữa Phương Tây và Phương Đông ở Việt Nam
đã diễn ra từ rất sớm, những bằng chứng về sự tiếp xúc Đông – Tây được tìm thấy trong nền văn
hóa Óc Eo tồn tài từ những năm đầu công nguyên. Đó là những đồng tiền La Mã xuất hiện ở di
chỉ Ốc Eo, cho thấy các giá trị của phương Tây đã có mặt ở đây. Song sự ít ỏi của các hiện vật
cũng cho thấy, sự tiếp xúc Đông – Tây thời kỳ này còn rất nhỏ giọt và bị đứt quãng và phần nhiều
nghiên về khía cạnh thương mại. Những nghiên cứu cho thấy cuộc tiếp xúc văn hóa được diễn ra
qua hai kênh: kênh tôn giáo và kênh thương mại. Thông qua hoạt động của các nhà buôn từ Bồ
Đào Nha, Tây Ban Nha, Anh, Pháp buôn bán ở Kẻ Chợ Thăng Long và các phố cảng Hội An, Phố
Hiến và sau đó là các giao sĩ Cơ đốc giáo đến truyền đạo.
Cuộc tiếp xúc Đông – Tây ở Việt Nam thế kỷ XVII, XVIII đã đưa đến sự du nhập một tôn
giáo mới vào Việt Nam – Thiên chúa giáo. Đồng thời, mang đến cho người dân Việt một số giá trị
văn hóa, văn minh phương Tây. Tuy nhiên, nó chưa đủ sức tạo ra sự biến đổi căn bản hệ tư tưởng
phong kiến Việt Nam, cho đến giai iddoanj Pháp đặt được sự thống trị lên toàn bộ lãnh thổ Việt
Nam thì sự ảnh hưởng của văn minh phương Tây mới thực sự tác động sâu sắc đến toàn bộ đời
sống tinh thần, vật chất, làm thay đổi văn hóa người Việt Nam.
1. Tiếp xúc văn hóa Pháp – bước khởi đầu
Cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX thực dân Pháp đã xác lập nền cai trị của chúng trên đất nước
ta. Đây là bước ngoặt lớn trong xã hội Việt Nam sau mấy mưới thế kỷ tồn tại của xã hội phong
kiến, cuộc xâm lược của thực dân Pháp mở ra cuộc tiếp xúc tạo ra những rung chuyển mãnh liệt
nhất trong văn hóa Việt Nam từ trước đến nay. So với tiến trình lịch sử 4000 năm dân tộc thì giai
đoạn này là ngắn ngủi nhưng nó lại là giai đoạn chưa đựng nhiều biến động căn bản về lịch sử
cũng như xã hội. Văn hóa Việt Nam vì thế mà có những biến đổi đáng kể, tác động của sự kiện
này đã khiến cho “Cả nền tảng xưa bị một phen điên đảo, lung lay1”.
Bối cảnh lịch sử
Năm 1858 thực dân Pháp nổ súng xâm lược Việt Nam với lý do triều đình Huế ngược đãi
các giáo sĩ và cự tuyệt không nhận quốc thư của Pháp đòi tự do buôn bán. Năm 1862, Pháp chiếm

1
Hoài Thanh, Hoài Chân, Thi nhân Việt Nam, Nxb. Văn học, 1996.
các tỉnh thành ở Gia Định, năm 1873 bắn đầu tiến đánh Bắc Bộ, năm 1882 Pháp đánh thành Hà
Nội. Năm 1883, triều đình Hiế phải ký với Pháp hiệp ước Hácmăng thừa nhận Pháp đặt quyền
thống trị trên toàn bộ đất nước Việt Nam. Đứng trước vận mệnh lớn lao của lịch sử Việt Nam,
nhiều sĩ phu yêu nước nổi dậy chống lại thưc dân Pháp. Tát cả những phong trào yêu nước, bảo vệ
độc lập dân tộc diễn ra kiên cướng, anh dũng nhưng đều thất bại. Công cuộc bình định Việt Nam
của Pháp cơ bản đã hoàn thành, chúng bắt tay vào công cuộc khai thác thuộc địa. Cuộc khai thác
thuộc địa lần thứ nhất (1897 – 1914), lần hai (1920 – 1930) đã khiến cho xã hội phong kiến Việt
Nam có những hay đổi mạnh mẽ. Trong đó, Pháp thực hiện chính sách văn hóa trên các lĩnh vực:
Ở lĩnh vực văn hóa: Pháp thực hiện chính sách chia để trị, chúng không hề cóc hủ trương
xóa bỏ các quan hệ kinh tế cổ truyền mà còn duy trì các quan hệ ấy. Do đó, cơ cấu xã hội cơ sở
bao gồm làng, xã vẫn tồn tại. Pháp duy trì tổ chức làng xã nhằm sử dụng bộ máy kỳ hào phong
kiến để làm công việc cho chính quyền thuộc địa. Văn hóa dân gian của người Việt ở giai đoạn
này cơ bản được giữa vững bởi cơ cấu tổ chức làng xã không bị phá vỡ. Mỗi làng giưới hạn trong
những quyền lợi địa phương bé nhỏ, tạo thành một tổ chức độc lập, chặt chẽ, có kỷ luật, trung
thành với cấp trên tạo điều kiện thuận lợi cho công việc của chính quyền thực dân.
Lĩnh vực giáo dục: Ban đầu thực dân Pháp duy trì Nho học với chế độ khoa cử đã lỗi thời
nhằm lợi dụng Nho giáo để duy trì trật tự xã hội. Chúng duy trì phương thức này mãi cho đến tận
đầu thế kỷ XX mới bãi bỏ chế dộ thi cử bằng chữ Hán. Pháp tiến hành đào tạo nhân lực cho chính
quyền thuộc địa, mở hàng loạt các cơ sở đào tạo (trường Hậu bổ Hà Nội, trường Quốc Tử Giám ở
Huế, trường sư phạm sơ cấp Hà Nội,...) , các cơ sở nghiên cứu khoa học (Viện vi trùng học ở Sài
Gòn, Nha Trang, Hà Nội, trường Viễn đông Bác cổ,..)
Giáo dục chính quyền thuộc địa của Pháp không nhằm mục đích nanwg cao dân trí cho người
dân thuộc địa mà chủ yêu sđào tạo ra một đội ngũ công chức để phục vụ cho nhà nước bảo hộ. Từ
đó, một tầng lớp trí thức mới xuất hiện thay thế địa vị của tầng lớp Nho sĩ đương thời.
Nhìn thấy được lợi ích từ việc sử dụng chữ quốc ngữ là công cụ thuận lợi cho công cuộc cai
trị và đồng hóa văn hóa. Đến những năm 60 của thế kỷ XX, Pháp bắt buộc người dân Việt Nam
học chữ quốc ngữ. Chữ quốc ngữ được truyền bá rộng rãi bằng phương pháp cưỡng chế. Đồng
thời, thực dân Pháp cho báo trí lưu thông và phát triển rộng rãi từ Nam Kỳ sau rộng ra trên cả nước
nhằm thông báo chính sách thực dân và ca ngợi “công ơn khai hóa, truyền bá văn minh Đại Pháp”.
Chính sách văn hóa nhằm phục vụ cho cuộc khai thác thuộc địa và sự cai trị của thực dân
Pháp đã có những tác động không nhỏ đến đời sống của con người Việt Nam được thể hiện cụ thể
qua những phương diện văn hóa sau:
Văn hóa vật chất
Ngay từ đầu thực dân pháp đã triển khai phát triển đô thị, công nghiệp và giao thông với
mục đích rõ ràng nhằm khai thác tài nguyên nước thuộc địa.
Từ cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, tính chất đô thị của Việt Nam không còn như trước đây
nữa, tính chất là một trung tâm chính trị văn hóa không còn đậm đặc như trước, tính chất là một
trung tâm công – thương nghiệp ngày càng rõ nét hơn. Tiêu biểu cho bộ mặt đô thị được xây dựng
hiện đại theo kiến trúc Phương Tây điển hình là thành phố Sài Gòn, Hà Nội. Hà Nội trở thành một
đô thị sầm uất, là nơi giao thương của đông đảo các thương nhân buôn bán, trao đổi hàng hóa, tập
trung những nhà máy, sở giao dịch và các trụ sở công ty, giữa 36 phố phường cổ điển của Hà
Thành mọc lên các công trình đồ sộ như phủ Toàn quyền Đông Dương, phủ Thống sứ Bắc kỳ, sở
Tư pháp, sở Công chính Đông Dương, sở y tế Đông Dương…. Hải Phòng trở thành hải cảng lớn
thứ hai ở Đông Dương. Ở phía Nam, Sài Gòn – Chợ Lớn trở thành đô thị sầm uất của công nghiệp
và thương mại. Các dinh thự của phủ Toàn quyền, phủ Thống đốc Nam kỳ, trụ sở các cơ quan
chuyên môn, Toà thị chính, các trung tâm vui chơi giải trí như nhà hát lớn và các nhà máy, xí
nghiệp mọc lên đã khoác cho Sài Gòn một bộ cánh mới rực rỡ hơn để người Âu gọi nó là “hòn
ngọc Viễn Đông”.. Rải rác trên cả nước là các thị trấn, thị xã như Nam Định, Hải Dương, Hồng
Gai, Huế, Đà Nẵng, Quy Nhơn, Biên Hòa,... cũng dần dần phát triển.
Trên lĩnh vực công nghiệp, tư sản Pháp đã du nhập công nghệ hiện đại để xây dựng kĩ nghệ
thuộc địa nhằm khai thác tài nguyên thiên nhiên của Việt Nam phục vụ cho nền kinh tế Pháp. Đó
là yếu tố khách quan thúc đẩy sự ra đời của hệ thống cơ sở vật chất công nghiệp hiện đại trên đất
nước ta, nhất là hệ thống nhà xưởng của 2 ngành công nghiệp khai khoáng và chế biến. Đầu thế kỉ
XX các khu công nghiệp khai mỏ hình thành ở nhiều nơi để cung ứng nguyên liệu cho công nghiệp
Pháp như khu mỏ Hồng Gai, Cẩm Phả, Đông Triều, Tuyên Quang, Phấn Mễ, Thái Nguyên, mỏ
thiếc Tĩnh Túc... Công nghiệp chế biến đã xây dựng nhiều nhà máy hiện đại bao gồm các ngành
chế biến lâm sản, hải sản, vật liệu xây dựng…Đặc biệt đã xuất hiện thành phố công nghiệp với các
nhà máy sợi, nhà máy tơ, làm chăn như thành phố Nam Định. Năm 1906 đã có khoảng 200 nhà
máy của tư sản Pháp xây dựng trên cả 3 miền đất nước 7.
Tư sản Việt Nam tiếp cận và học tập cách làm ăn của giới tư sản Pháp, nhiều nhà máy, xí
nghiệp, nhà xưởng của tư sản Việt Nam được xây dựng trên khắp đất nước như: Các xí nghiệp dệt
ở Thái Bình, Hà Nội, Hà Đông , Phú Yên, Châu Đốc, Long Xuyên. Các xí nghiệp dệt chiếu được
xây dựng ở Ninh Bình, Thái Bình, Bạc Liêu, Rạch Giá, Tân An…các xí nghiệp sản xuất đường ở
Quảng Nam, Quảng Ngãi, Sơn Tây. Chế biến nông sản cũng phát triển. Nhiều nhà máy xay xát
gạo, ép dầu, chưng cất rượu ra đời. Chỉ riêng Sài Gòn đã có 20 nhà máy xay xát của tư sản Việt
Nam hoạt động. Tư sản Việt Nam đã lập các công ty để điều hành và quản lý sản xuất như Quảng
Nam hiệp thương công ty, Quảng Hưng Long, Đông Thành Xương, Bạch Thái Bưởi…
Hệ thống đường giao thông hiện đại gồm đường sắt, đường bộ, đường hàng không nối liền
các trung tâm khai thác với đô thị. Công nghệ xây dựng cầu đường tiên tiến của phương Tây được
ứng dụng vào xây dựng hệ thống giao thông ở Việt Nam. Đường bộ mở rộng đến các khu công
nghiệp khai mỏ, đồn điền, bến cảng. Đặc biệt là con đưòng huyết mạch nối liền 3 xứ: Bắc kỳ,
Trung kỳ, Nam kỳ dài hơn 2.000 km gọi là đường thuộc địa số 1. Các công trình cầu thế kỉ như
cầu Long Biên, Cầu Tràng Tiền, cầu Bình Lợi. Đặc biệt là các tuyến đường sắt được xây dựng
trong khoảng thời gian từ 1899 đến 1928 như tuyến Hà Nội - Đồng Đăng, Hà Nội - Lao Cai, Hà
Nội - Hải Phòng…tuyến đường sắt dài nhất là tuyến đường xuyên Việt Hà Nội - Sài Gòn với chiều
dài 1.800 km xây dựng kéo dài tới 36 năm. Có thể nói hệ thống cầu đường mà thwucj dân Pháp
tiến hành xây dựng đã làm thay đổi một cách đáng kể hệ thống cơ sở hạ tầng của Việt Nam.
Thêm vào đó là sự du nhập của các phương tiện giao thông hiện đại như ô tô, tàu điện, tàu
thủy, xe lửa, xuồng máy,..
Về kiến trúc, sự phát triển của dô thị dẫn dến sự phát triển của kiến trúc đô thị, nhà cửa ở
thành thị thay đổi theo kiểu phương Tây như nhà cao tầng, biệt thự,.. ở phố xây dựng kiểu nhà cao
tầng, cửa hiệu để kinh doanh. Tuy nhiên, có nhiều công trình là sự kết hợp giữa kiến trúc cổ truyền
và kiến trúc hiện đại như: trường Đại học Đông Dương (Đại học Quốc gia HN ngày nay), Viện
viễn Đông Bác Cổ (Viện Bảo tàng Lịch sử ngày nay), Bộ ngoại giao, Phủ Toàn quyền, tòa Đô
Chánh (nay là trụ sở UBND TP HCM), Tòa án TP HCM,…
Đời sống vật chất của nhân dân xuất hiện nhiêu tiện nghi mới. Từ cái ăn, cái mặc đến nhà ở
đều chưa đựng những yếu tố mới. Bánh mì, pho mát, xúp, nước đá, bia, xôđa…những món ăn
nước uống của người Âu đã xen vào khẩu vị ẩm thực của người Việt Nam. Đời sống sinh hoạt với
các vật dụng mới như xe đạp, đèn pin, bình tec mốt, xà phòng, thuốc lá Tây được nhiều người ưa
thích. Ở thành thị những rạp hát lộng lẫy, những quán trà lịch sự mọc lên ngày càng nhiều. Trong
các gia đình bên cạnh những cọc đèn dầu lạc đã xuất hiện những đèn Hoa Kỳ, đèn măng sông, đèn
điện; bày biện tủ chè thay thế dần những phản gụ, sập lim, xa lông thay cho hương án bàn thờ, án
thư tràng kỷ.
Về trang phục, ở đô thị nam giới bắt đầu mặc đồ Âu phục như sơ mi, quần Tây, áo complet,
nữ giới mặc áo dài tân thời, cách điệu từ áo tứ thân. Trang phục được thay đổi cho phù hợp với
môi trường sống xung quanh, phù hợp với các hoạt động khác ngoài việc làm nông như trước kia.
Màu sắc trang phục cũng tươi sáng hơn so với những kiểu mẫu áo nâu sòng, váy đụp đen của phụ
nữ Việt Nam, trước đây.
Văn hóa xã hội
Sự phát triển của đô thị, công nghiệp và giao thương buôn bán đã sản sinh ra những giai cấp,
tầng lớp xã hội mới, chủ thể văn hóa truyền thống bị phân hóa, xuất hiện những lớp cư dân mới
ngoài tứ dân (sĩ, nông, công, cổ).
Một lực lượng lao động mới xuất hiện cùng với sự du nhập phương thức kinh tế tư bản chủ
nghĩa đó là nông dân, thợ thủ công bị phong kiến và chính sách bần cùng hoá làm phá sản và xô
đẩy ra khỏi làng mạc đến sống tập trung ở các công trường xây dựng, các xí nghiệp, nhà máy, hầm
mỏ, đồn điền, bán sức lao động làm thuê cho tư sản (tư sản Pháp, Hoa, Việt Nam) và trở thành
những người công nhân hiện đại. Là một lực lượng lao động mới trong dây chuyền sản xuất tư
bản, họ sống, làm việc và quan hệ xã hội đã vượt ra ngoài khuôn khổ làng xã, nông dân và nông
thôn. Trở thành một bộ phận mới trong chủ thể Việt Nam.
Sự tiếp xúc và giao thoa với nền kinh tế tư bản đã tất yếu làm xuất hiện tầng lớp tư sản
(những nhà thầu khoán, những nhà làm đại lý cho giới tư sản Pháp, những nhà kinh doanh công
thương nghiệp Việt Nam) có địa vị kinh tế và xã hội nhất định, có nhu cầu văn hóa khác các giai
tầng khác. Tầng lớp tiểu tư sản ra đời và phát triển. Học sinh, sinh viên, giáo viên ngày một đông
hơn.
Các trường Tây học ra đời dẫn đến sự hình thành tầng lớp trí thức. Các bác sĩ, kĩ sư, luật sư,
kiến trúc sư, dược sĩ, nhạc sĩ, nhà văn, nhà báo, sinh viên - lớp trí thức được đào tạo theo khoa học
kỹ thuật phương Tây ngày càng xuất hiện đông đảo. Đây là bộ phận nhạy cảm và năng động nhất
trong quá trình hội nhập văn hóa đầu thế kỉ XX. Nhanh chóng nhận ra những yếu tố mới và tiến
bộ trong văn hóa nhân loại để tiếp thu, học tập và ứng dụng vào thực tiễn Việt Nam. Xã hội thuộc
địa còn tồn tại một tầng lớp trí thức Tây học biết tiếng Pháp, hiểu văn hóa Pháp, sonh song đó là
một lực lượng sáng tác mới: những người làm báo, viết truyện ngắn, viết kịch, viết tiểu thuyết,
dịch thuật… Văn nghệ sĩ trở thành một chức nghiệp: viết văn bán cho công chúng, đáp ứng yêu
cầu văn hóa của cư dân thành thị.
Sự ra đời của các tầng lớp xã hội mới tạo nên sự đa dạng trong chủ thể văn hóa Việt Nam,
tầng lớp nho sĩ không còn vị thế trong xã hội, Sự hoán vị vị trí xã hội sĩ - nông không còn giá trị
nữa và dần dần mất đi vai trò trong đời sống đang đổi mới.
Văn hóa tinh thần
Trên nền tảng gốc văn hóa nông nghiệp và tư duy tổng hợp, trọng tình thì trong công cuộc
tiếp xúc văn hóa phương Tây, tư duy văn hóa truyền thống bị lay động. Người Việt Nam đã hình
thành một cách tư duy mới - tư duy phân tích, khoa học hơn. Tuy nhiên, với cách tư duy văn hóa
mới không phải làm mất đi bản sắc văn hóa dân tộc mà đó là tư duy có chọn lọc, tiếp thu cái mới,
đào thải cái lạc hậu.
Về tư tưởng
Nhận thức về Nho giáo có những thay đổi mạnh mẽ. Tư tưởng Nho giáo từng giữu vị trí độc
tôn trong văn hóa của người dân Việt Nam đang dần không còn phù hợp với sự đổi thay của xã
hội. Người ta nhận thấy cái hay, cái mạnh của Nho Giáo là làm cho nước nhà có kỷ cương, dân
hưởng thái bình, “giúp con người tu dưỡng đạo đức cá nhân". Nhưng cũng thấy cái yếu là dễ nhu
nhược, kỹ nghệ thô sơ, nên cạnh tranh không mạnh. Những nhà Nho thời đại này cũng có những
bước đi riêng, một bộ phận chủ trương cải cách văn hóa để thông qua đó làm nền tảng cho cuộc
giải phóng dân tộc, từ bỏ tư tưởng cũ để tiếp nhận luồng văn hóa phương Tây.
Bên cạnh đó, xuất hiện hệ tư tưởng tân tiến - tư tưởng dân chủ tư sản của tầng lớp tư sản,
tiểu tư sản, thị dân, trí thức Tây học. Ý thức về vai trò cá nhân được nâng cao đối lập với ý thức
cộng đồng trong văn hóa làng xã, trở thành những cá nhân độc lập, có vị trí trong xã hội. Đề cao
văn minh vật chất do sự ảnh hưởng của kinh tế hàng hóa, đồng tiền chiếm vị trí trọng yếu trong
đời sống phá vỡ quan hệ luân, thường truyền thống, tình nghĩa bị lép vế trước lợi nhuận. Lối sống
cởi mở, phóng khoáng, đơn giản hóa các thủ tục trong các dịp lễ, tết truyền thống,..
Cùng với đó, tư tưởng Mác – Lê nin được truyền bá rộng rãi vào Việt Nam qua con đường
hoạt động của nhà cách mạng yêu nước Nguyễn Ái Quốc và các đảng viên Cộng sản.
Về ngôn ngữ
Thành tựu quan trọng bậc nhất là xây dựng được chữ viết của dân tộc: Chữ Quốc ngữ. Trong
quá trình giao thoa với văn hóa Pháp, người Việt Nam đã nâng chữ quốc ngữ thành quốc tự - chữ
viết phổ thông của dân tộc, thay thế chữ Hán và chữ Nôm. Làm phong phú thêm ngôn ngữ dân tộc
bằng cách du nhập hoặc phiên âm tiếng nước ngoài để dần dần du nhập vào tiếng Việt để diễn tả
những khái niệm mới của thời đại. Sự kiện chữu quốc ngữ ra đời đánh dấu khởi đầu của công cuộc
hội nhập văn hóa Việt Nam vào nền văn hóa hiện đại của nhân loại
Về nghệ thuật
Nhờ chữ quốc ngữ, Việt Nam đã xây dựng được một nền văn chương đẹp đẽ, độc đáo bằng
tiếng mẹ đẻ gồm các thể loại báo chí, văn học (thơ mới, truyện ngắn, tiểu thuyết, kịch nói). Văn
học thành thị ra đời thay cho văn học nông thôn. Báo chí tiếng Việt ra đời: tờ Quan báo bằng chữ
quốc ngữ ra số đầu tiên 01/1919, Nam Phong (1919), Thực nghiệp dân báo (1920), Nam Kỳ kinh
tế (1920), Thanh niên (1925), Tiếng dân (1927)... Các tạp chí, nhà xuất bản sách tiếng Việt ra đời
là Tạp chí Hữu Thanh, Nam Đồng Thư xã, Cường học thư xã, Quan Hải tùng thư,..
Đây là giai đoạn bùng nổ dòng thơ mới với các nhà thơ nổi tiếng: Thế Lữ, Hàn Mạc Tử,
Xuân Diệu, Huy Cận, Tú Mỡ... Đây cũng là thời kỳ văn hóa dân tộc được bổ sung những ngành
nghệ thuật mới gồm: hội họa, sân khấu và điện ảnh. Từ các bài tường thuật, phóng sự, du ký, kể
chuyện, họ đã viết truyện ngắn, tiểu thuyết như: Tố Tâm của Hoàng Ngọc Phách, truyện ngắn của
Nguyễn Công Hoan, sáng tác kịch nói Chén thuốc độc của Vũ Đình Long. Nghệ thuật hội họa xuất
hiện những thể loại mới có nguồn gốc từ Phương Tây: Tranh sơn dầu, tranh bột màu. Nghệ thuật
sân khấu từ chỗ công diễn các vở kịch nói của Pháp người Việt Nam đã tự dàn dựng kịch nói của
mình.
Văn hóa Việt Nam đã trải qua một sự đứt gãy lịch sử để từu đó là sự thay đổi toàn diện về
bộ mặt văn hóa từ vật chất, tinh thần, xã hội. Từ những phương diện nhỏ nhất cho đến tinh thần
chung, tất cả hướng đến xu thế hội nhập với văn hóa phương Tây.
2. Tiếp xúc văn hóa Mỹ
Cách mạng tháng Tám là một bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử dân tộc việt Nam. Ngày
2/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn độc lập, khai sinh ra nước Việt Nam dân
chủ Cộng hòa. Tuy nhiên, ngay sau đó, Việt Nam phải tiếp tục đối mặt với sự xâm lược của Mỹ.
Cả dân tộc phải tiến hành cuộc kháng chiến kéo dài 30 năm, từ đó văn hóa Việt Nam có những
thay đổi cơ bản bởi cuộc tiếp xúc và giao lưu với văn hóa Mỹ diễn ra từ năm 1954 đến năm 1975
– một hệ quả tất yếu của cuộc chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ.
Cuộc chiến tranh xâm lược của Mỹ đã có tác động lớn đối với Việt Nam, đặc biệt là vấn đề
văn hóa. Ở miền Bắc, văn hóa, văn học Mỹ được chọn lọc và tiếp nhận theo một phương thức khác
với miền Nam dưới ách nô dịch của Mỹ và các chính quyền tay sai. Văn hóa Mỹ xâm nhập vào
Việt Nam với quy mô lớn và tạo nên ảnh hưởng rộng rãi là từ cuối những năm 80, nhất là sau khi
Mỹ và Việt Nam tuyên bố bình thường hóa quan hệ ngoại giao (năm 1995). Đặc biệt là từ khi Nhà
nước Việt Nam thực hiện Nghị quyết Đại hội VI của Đảng Cộng sản Việt Nam về Đổi mới, Mở
cửa và từ khi Việt Nam tham gia WTO. Các sản phẩm văn hóa của Mỹ trong một thời gian ngắn
đã ồ ạt chiếm lĩnh thị trường Việt Nam. Phim ảnh, băng đĩa, sách báo, áo quần, thức ăn nhanh, đồ
uống đóng hộp, hàng hóa tiêu dùng… Riêng về văn học, đã có hàng trăm đầu sách của các nhà
văn Mỹ được dịch và xuất bản với số lượng hàng vạn bản. Việt Nam trong quá trình hiện đại hóa
và công nghiệp hóa, phát triển kinh tế đã và đang tiến hành những cải cách kinh tế. Điều kiện sống
của con người đang có những thay đổi quan trọng kéo theo nhu cầu thưởng thức văn hóa cũng thay
đổi. Người Việt Nam đã có lịch sử hàng nghìn năm sống trong văn hóa làng xã, văn minh lúa nước,
khép kín và ổn định. Nay đối mặt với một điều kiện mới lạ của thế giới do công nghệ thông tin
mang lại qua Mở cửa và Hội nhập, họ vừa có nhu cầu hưởng thụ những giá trị văn hóa truyền
thống, vừa muốn tiếp thu văn hóa hiện đại, thì văn hóa Mỹ chiếm ưu thế tuyệt đối. Cuộc tiếp xúc
văn hóa Mỹ xét về ưu điểm giúp thúc đẩy nền kinh tế phát triển, lối sống năng động, phóng khoáng,
cởi mở hơn, thúc đẩy, tạo điều kiện hòa nhập văn hóa thế giới. Hạn chế của nền văn hóa tư bản đó
là lối sống coi trọng vật chất, thực dụng, trái ngược với văn hóa truyền thống trọng tình nghĩa của
người Việt nhưng lại bị ảnh hưởng một cách nặng nề. Chủ nghĩa cá nhân trở nên thái quá. Thời
trang, tóc tai, mỹ phẩm, quần mặc trễ rốn, phơi bày từng phần cơ thể, rồi các kiểu loại xe ô tô đắt
tiền, đồng hồ trị giá hàng chục nghìn đô la đến vòng đeo cổ, nhẫn đeo tay bằng kim cương, bằng
titan, nước hoa thượng hạng và nhạc cụ đắt tiền… đều được quảng cáo trên sàn diễn, trên người
các ca sĩ, các ngôi sao, các Idiol. Lối sống vội của phim ảnh Mỹ, âm nhạc Mỹ hàng ngày hàng giờ
được phát trên màn ảnh truyền hình, trên màn ảnh điện thoại di động, trên Walkman, Ipod,
Iphone… tạo nên tâm lý bình thường, rất dễ du nhập vào tâm hồn thế hệ trẻ. Những tệ nạn cờ bạc,
mại dâm, ma túy, đâm chém nhau, xã hội đen, tống tiền, vi phạm pháp luật… theo kiểu trong xã
hội Mỹ cũng được du nhập vào Việt Nam. Đó là mặt trái của văn hóa Mỹ.
3. Giao lưu văn hóa với các nước XHCN Đông Âu
Từ năm 1951, nhất là sau năm 1954, khi Việt Nam là thành viên của phe XHCN, sự giao lưu
van hóa giữa Việt Nam và các nước đã được đẩy mạnh. Cuộc giao lưu nầy diễn ra chủ yếu ở miền
Bắc với tính chất chủ động, thông qua con đường hợp tác, giúp đỡ, trao đổi kinh tế, văn hóa, giáo
dục,.. Trong khi đó, giao lưu văn hóa giữa Việt Nam và Mỹ giai đoạn 1954 – 1975 không phải là
sự giao lưu văn hóa tự nhiên mà là giao lưu cưỡng bức.
Cuộc giao lưu văn hóa của miền Bắc XHCN đã có những bước phát triển quan trọng, là tiền
đề cho sự hội nhập toàn cầu. Tuyy nhiên, do không mở rộng quan hẹ ngoại giao với các nước nằm
ngaoif hệ thống XHCN, cùng với đó alf nền kinh tế quan liêu bao cấp đã tạo nên sự trì trệ về kinh
tế, cứng nhắc và bảo thủ trong tư tưởng, nền văn hóa có phần đơn điệu, không có nhiều đặc điểm
nổi trội.
II. Sự thay đổi nền tảng kinh tế - xã hội
Kinh tế - xã hội là một trong những nguyên nhân quan trọng ảnh hưởng và chi phối đến cấu
trúc văn hóa Việt Nam từ truyền thống sang hiện đại. Giai đoạn chiến tranh kết thúc, miền Bắc và
miền Nam nước ta thống nhất cùng một thể chế chính trị, một đường lối phát triển kinh tế - xã hội.
Trong bối cảnh mới, sự chuyển mình của nền kinh tế từ tiểu nông sang công nghiệp hóa – hiện đại
hóa và cùng với đó là công cuộc hội nhập toàn cầu là những nhân tố có tính quyết định dẫn đến
quá trình chuyển đổi cấu trúc văn hóa Việt Nam từ truyền thống sang hiện đại.
Đất nước ta là nước tiểu nông, có truyền thống lúa nước lâu đời, cùng với đặc trưng là loại
hình văn hóa gốc nông nghiệp, tư duy tiểu nông, nền tảng kinh tế nhỏ lẻ, phong tục tập quán và
thói quen làm ăn, sinh sống theo lối nông nghiệp lạc hậu đã tồn tại hàng nghìn năm. Thực tế đó là
một khó khăn lơn trong quá trình tiến hành công nghiệp hóa – hiện đại hóa. Tuy nhiên, những nền
tảng văn hóa truyền thống đó cũng đem đến những thuận lợi và khó khăn nhất định trong quá trình
công nghiệp hóa đất nước.
Về thuận lợi: Lịch sử hàng nghìn năm dựng nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, dân tộc Việt
Nam đã viết lên những trang sử hào hùng. Trong tiến trình lịch sử của dân tộc đã tạo nên nhân
cách con người Việt Nam với các giá trị đạo đức vô cùng phong phú. Cùng với thời gian, các giá
trị đạo đức này được lưu truyền qua các thế hệ, trở thành truyền thống tốt đẹp, là sức mạnh và
động lực của dân tộc. Đó là ý thức đoàn kết cộng đồng bền chặt, đức tính tiết kiệm và tinh thần tự
lực tự cường, ý chí mạnh mẽ vượt qua gian khổ, khó khăn và tinh thần cần cù, sáng tạo trong lao
động. Phẩm chất cần cù, chịu thương chịu khó trong lao động của người Việt Nam luôn gắn với
sự dành dụm, tiết kiệm và trở thành đức tính cần có như một lẽ tự nhiên. Đức tính cần cù, sáng tạo
và tiết kiệm trong lao động chính là yếu tố quan trọng giúp con người có thể đảm bảo được việc
duy trì cuộc sống cá nhân. Trong xu thế toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế sâu rộng như hiện nay,
sự cần cù, sáng tạo đi đôi với thực hành tiết kiệm trong lao động sản xuất của mỗi người Việt Nam
càng trở nên có ý nghĩa thiết thực, bởi đây chính là động lực tiên quyết nhằm tăng năng suất, năng
lực cạnh tranh, thúc đẩy nền kinh tế đất nước phát triển, qua đó tự mỗi người đóng góp một phần
vào công cuộc xây dựng, bảo vệ Tổ quốc. Thêm vào đó, tư duy biện chứng và lối ứng xử mềm
dẻo, linh hoạt là yếu tố thuận lợi trong thích nghi với hoàn cảnh mới.
Về khó khăn: Văn hóa truyền thống có không ít những mặt lạc hậu và điều đó trở thành rào
cản kìm hãm, lạm chậm tiến độ phát triển của công nghiệp hóa – hiện đại hóa. Xuất phát từ lối
sống định canh, định cư lâu đời tạo nên tính gắn kết cộng đồng cao, cùng với đó là phương thức
sản xuất nông nghiệp đã tạo nên lối sống trọng tình, trọng nghĩa. Theo đó là thói quen làm ăn tự
cung tự cấp, nhỏ lẻ, tùy tiện, vô nguyên tắc, đủng đỉnh, lối ứng xử kiểu gia đình, không có ý thức
tôn trọng pháp luật. Đồng thời, chính phương thức sản xuất của nền kinh tế tiểu nông riêng rẽ,
manh mún đã dẫn đến cách nghĩ của người tiểu nông cũng hết sức vụn vặt, lẻ tẻ, không có tầm
nhìn xa, không có tính chiến lược. Cách nghĩ, cách nhìn ấy, cùng với mảnh ruộng, cái cày càng
cột chặt người nông dân trong lũy tre làng, yên phận với cuộc sống luẩn quẩn, kém tính tổ chức,
kỷ luật, xa lạ với lối tư duy của văn minh công nghiệp, thích sự ổn định, an phận, dễ rơi vào tâm
lý thiển cận; thói quen dựa vào kinh nghiệm, khó tiếp thu cái mới, ngại đổi mới. Sống trong một
cộng đồng làng nhỏ hẹp, nông dân Việt Nam có quan hệ gắn bó với nhau theo kiểu cố kết dòng
họ. Tâm lý bám làng để an cư lạc nghiệp cũng ăn sâu vào mỗi người. Cùng với thời gian, những
thiết chế làng xã càng làm cho tâm lý này được củng cố. Trong khi ruộng đất ngày một bị thu hẹp
do dân số gia tăng tự nhiên, đất đai canh tác ngày một thu hẹp do bị chuyển dần thành đất thổ cư
và để xây dựng các công trình phục vụ công nghiệp… thì ruộng đất ngày càng manh mún, sản xuất
theo lối tiểu nông ngày càng khó khăn hơn. Thêm vào đó là tư tưởng bình quân chủ nghĩa, thói đố
kỵ, cào bằng, kìm hãm năng lực cá nhân và bệnh gia trưởng, tư tưởng độc đoán, bảo thủ. Hiện nay
những mặt tiêu cực đó vẫn còn tồn tại, những suy nghĩ, hành động, ứng xử và cảm nhận mọi việc
theo thói quen là một hạn chế lớn trong lối sống của người nông dân Việt Nam, là lực cản trở trong
quá trình tiến hành công nghiệp hóa – mở cửa đất nước.
Tuy nhiên, thời đại đất nước ta bước tiến đến xây dựng đất nước mới, chủ trương mới thì
những tác động của công nghiệp hóa đối với nên phần nào cũng ít nhiều được cải thiện và thấy
được những thay đổi tích cực. Xã hội đi vào quy củ, nề nếp, luật pháp trở thành quy phạm điều
chỉnh những mối quan hệ và ngày càng trở nên phổ biến thì lối sống tùy tiện cũng dần được cải
thiện. Nếu như trong nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp, người nông dân đi muộn, về sớm,
không quan tâm đến hiệu quả kinh tế thì, ngược lại, trong nền kinh tế thị trường họ phải đổi mới
hoạt động sản xuất và dịch vụ nhằm mục tiêu nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả sản xuất,
kinh doanh. Cơ chế thị trường và các quy luật khách quan của nó tạo cho người nông dân tác phong
khẩn trương, linh hoạt, năng động, nhạy bén. Họ đã biết cách tính toán, cân nhắc trong hoạt động
kinh tế, biết tranh thủ thời gian, lựa chọn thời cơ, biết cách sử dụng hợp lý hơn những nguồn lực
và lợi thế của mình trong quá trình sản xuất, dám mạnh dạn đầu tư vào sản xuất, tiếp nhận và ứng
dụng các thành tựu khoa học, kỹ thuật tiên tiến, hiện đại vào sản xuất… để đạt hiệu quả kinh tế
cao nhất.
Trên đây là tổng quan về vấn đề chuyển đổi cấu trúc văn hóa Việt Nam từ truyền thống đến
hiện đại cùng những phân tích sâu rộng về nguyên nhân dẫn đến sự chuyển đổi cấu trúc văn hóa
đó.
(Quá trình làm bài có những lỗi đánh máy không thể tránh khỏi, các bạn đọc thấy thì sửa giúp t
nhé!)
Câu 12. Anh hay chị hãy phân tích văn hoá Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hoá và ảnh
hưởng của nó đến ứng xử của giới trẻ Việt Nam hiện nay.
1. Phân tích văn hóa Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa.
- Văn hóa vật chất
* Văn hóa ẩm thực
Những món ăn phổ biến của người Việt Nam được hình thành và duy trì từ xưa đến nay như:
phở, bánh mì, bún chả,… đây là những món ăn ta có thể dễ dàng tìm thấy trên mọi con đường tại
Việt Nam, trở thành những món ăn không thể thiếu của người Việt. Ẩm thực Việt Nam là vô cùng
phong phú và đa dạng, điều đó cũng góp phần tạo nên đặc trưng riêng khi nhắc đến ẩm thực Việt.
Tuy nhiên trong bối cảnh toàn cầu hóa thì văn hóa ẩm thực cũng có sự “biến dạng” nhất định. Sự
xuất hiện và du nhập của các món ăn nước ngoài. Đó là thức ăn nhanh, cụm từ này trước kia chưa
được nhắc đến, tuy nhiên sau quá trình hội nhập, mở cửa đất nước thì khái niệm này trở nên thông
dụng hơn. Hiện nay có nhiều thương hiệu nổi tiếng đã tiến vào Việt Nam để kinh doanh, nổi bật
như KFC,…Ngoài ra còn có các món ăn khác như: súp (xuất xứ từ Pháp), bánh bao (xuất xứ từ
Trung Quốc),… và cũng được ưa chuộng. Mặc dù có sự ảnh hưởng, du nhập từ ẩm thực bên ngoài
vào nhưng ẩm thực Việt Nam vẫn giữ được những nét riêng biệt, vẫn tồn tại những đặc trưng riêng
mà khi nhắc đến ẩm thực Việt thì mọi người đều biết đến. Hơn thế, việc du nhập đó góp phần làm
cho văn hóa ẩm thực Việt Nam ngày càng trở nên phong phú, đa dạng hơn.
* Văn hóa trang phục
Khi nhắc đến trang phục Việt Nam thì ta không thể nào quên chiếc áo dài đã làm nên hình
ảnh của đất nước Việt. Hình ảnh chiếc áo dài chúng ta dễ dàng bắt gặp ở mọi nơi: ở trường học,
trong cuộc sống thường ngày, trong các dịp đám cưới hay ngay cả trong các cuộc thi sắc đẹp,…
Áo dài đã trở thành một sản phẩm văn hóa mang đậm bản sắc dân tộc, là biểu tượng của người
phụ nữ Việt Nam. Đi cùng với hình ảnh tà áo dài là chiếc nón lá. Nón lá từ xưa đã là vật để dùng
để che nắng, che mưa nhưng bên trong đó ta có thể thấy được sự tỉ mỉ, kì công của bàn tay người
Việt. Và hiện nay dù trong bối cảnh toàn cầu hóa, có sự du nhập văn hóa từ bên ngoài vào nhưng
ta vẫn giữa được những bản sắc từ trước cho đến nay. Hình ảnh chiếc áo dài trong xã hội hiện đại
được quảng bá một cách phổ biển, rộng rãi hơn. Áo dài tiếp cận đến người Việt bằng nhiều cách
thức khác nhau. Chẳng hạn trong các MV ca nhạc hay trong các bộ phim,… Những chiếc áo Nhật
Bình và áo Tấc, áo giao lĩnh (thời Lý – Trần – Lê) hay áo ngũ thân (thời Nguyễn),… đã được hình
thành từ rất lâu, tuy nhiên cho đến nay thì nó vẫn tạo được những dấu ấn trong xã hội hiện đại.
Mọi người vẫn thường xuyên tìm hiểu và quảng bá các cổ phục.
* Văn hóa ở và đi lại
Trong bối cảnh toàn cầu hóa thì văn hóa ở và đi lại cũng có sự thay đổi, khác biệt so với thời
trước. Nếu trước kia thì gắn liền với hình ảnh làng, xã, nhiều thế hệ cũng chung sống và sinh hoạt
với nhau, mọi người có quan hệ gắn bó chặt chẽ với nhau thì đến ngày nay những hình ảnh đó
dường như đã giảm dần đi. Do sự phát triển của khoa học công nghê, cơ sở hạ tầng phát triển làm
cho đường xá ngày nay trở nên hiện đại, tiên tiến hơn. Những chiếc nhà sàn hiện nay cũng không
phổ biến như trước kia (chủ yếu là ở miền núi) mà thay vào đó là nhà được xây nhiều tầng, cao,
xây dựng theo kiến trúc nhà ở Pháp, Thái Lan,… Do nhu cầu của công việc nên mọi người thường
xuyên tập trung ở các thành phố lớn, sinh sống ở các trung tâm lớn của đất nước. Phần lớn thì nhà
ai nấy ở, phần ai người đó sống làm thu hẹp dần sự giao lưu, tiếp xúc, mở rộng mối quan hệ.
- Văn hóa tinh thần
Khi nói các dịp, lễ thì không thể nhắc đến lễ Tết. Dù trải qua hơn 4000 năm lịch sử nhưng
đến nay thì lễ Tết vẫn được duy trì và phát huy trong lối sống của người Việt. Đây là dịp mà mọi
người đi làm ở nơi xa có thể sum họp với gia đình, quây quần bên nhau. Các phong tục, tập quán
của ông bà ta từ xưa đến nay vẫn còn tồn tại: đi tảo mộ ông bà, tổ tiên để hướng về cội nguồn sinh
dưỡng của mỗi người. Ngoài ra, mọi người có thể tập trung lại để gói bánh chưng, bày mâm ngũ
quả, đón giao thừa,… Không chỉ riêng Tết Nguyên Đán mà dường như trong năm luôn có những
ngày lễ tổ tiên và hướng về cội nguồn như ngày giỗ tổ Hùng Vương mùng 10 tháng 3, rằm tháng
bảy,…Như vậy ta có thể thấy rằng, mục dù trong bối cảnh hội nhập, toàn cầu nhưng các lễ truyền
thống từ thời xa xưa vẫn được lưu truyền cho đến nay và ngày càng được phát triển rộng rãi. Tuy
nhiên, bên cạnh các dịp, lễ cổ truyền từ xa xưa thì hiện nay nước ta cũng có sự du nhập một số
ngày lễ khác từ phương Tây như: Noel, Halloween,… những ngày lễ hội này khi du nhập vào nó
không xóa bỏ, thay thế những lễ hội truyền thống mà nó làm góp phần làm cho văn hóa Việt Nam
trở nên phong phú, đa dạng hơn.
- Văn hóa xã hội
* Về gia đình
Hình ảnh gia đình người Việt hiện nay vẫn còn tồn tại và phát triển trên đất nước ta. Trước
khi, trong gia đình truyền thống do chịu sự ảnh hưởng của tư tưởng Nho giáo nên con cái không
được làm trái ý với cha mẹ “Cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy”. Tuy nhiên, với bối cảnh toàn cầu hóa
ngày nay, ảnh hưởng bởi lối sống phương Tây và các quốc gia phát triển thì các bạn trẻ sống tự
lập hơn. Mối quan hệ gần gũi, gắn bó, tương trợ giữa các thành viên trong gia đình, dòng tộc tuy
vẫn được coi trọng nhưng không còn giữ một vai trò quá quan trọng như trước.
* Về làng xã và đô thị
Trước kia, không gian làng xã ở Việt Nam sống khép kín, được bao bọc bởi những lũy tre
làng. Không gian cư trú truyền thống được phân bố theo ấp, xã, thôn. Nhưng đến ngày nay thì
chúng dần dần được thay thế bằng những hình thức tập trung mới như: xóm mới, phố mới, khu đô
thị, khu dân cư,…Các hình ảnh về sân đình, bến nước trong, cây đa làng thì cũng ít được xuất hiện,
nó bị san lấp để phục vụ cho nhu cầu sống dưới sức ép của số đông dân cư. Các quan hệ hàng xóm
láng giềng cũng có sự thay đổi. Câu nói “bán anh em xa mua láng giềng gần” đã không còn phù
hợp với cuộc sống đô thị ngày nay. Mối quan hệ hợp tác, trọng tình nghĩa bây giờ trở thành mối
quan hệ sòng phẳng, bình đẳng, mang tính trao đổi.
2. Ảnh hưởng của văn hóa Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa đến ứng xử của giới trẻ
Việt Nam hiện nay.
Văn hóa Việt Nam trải qua hàng nghìn năm lịch sử nhưng cho đến nay dù chịu sự du nhập,
ảnh hưởng của nền văn hóa từ bên ngoài vào vẫn giữ được những giá trị tốt đẹp từ xa xưa trong
văn hóa truyền thống của người Việt. Trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay, văn hóa Việt Nam
cũng có những thay đổi nhất định và có những ảnh hưởng đến mỗi con người chúng ta. Mà sự thay
đổi rõ nét đó chúng ta có thể dễ dàng nhìn thấy nhất là ở trong giới trẻ hiện nay. Bên cạnh những
tác động tích cực đến văn hóa Việt Nam mà toàn cầu hóa mang lại thì nó cũng để lại những hậu
quả làm phương hại đến truyền thống văn hóa của người Việt. Cụ thể:
* Tác động tích cực:
Có thể nói, để thích ứng với môi trường toàn cầu hoá, con người phải sáng tạo, năng động
và có khả năng thích ứng nhanh với sự biến động của xã hội, thời cuộc, sự phát triển của khoa học
công nghệ. Đây là thời cơ, cũng là thách thức lớn, đòi hỏi mỗi cá nhân phải tự hoàn thiện bản thân,
tích cực, sáng tạo, chủ động tiếp cận và biến đổi hoàn cảnh. Nhận thức rõ điều đó, người Việt Nam
đã chủ động học tập, trau dồi phẩm chất đạo đức cần thiết của thời đại công nghiệp, hiện đại. Rèn
luyện phong cách làm việc công nghiệp, lối sống trách nhiệm, chủ động, mạnh dạn, dám nghĩ, dám
làm, ý thức kỷ luật, tự giác, nỗ lực vươn lên. Lối sống, do đó, có sự chuyển mình tích cực. Lối
sống của người Việt hiện nay không còn bó hẹp trong sinh hoạt, giao tiếp gia đình. Các quan hệ
giao lưu xưa thường diễn ra trong môi trường quen thuộc như: cây đa, bến nước, sân đình (“Ra
đình ngả nón trông đình/ Đình bao nhiêu ngói thương mình bấy nhiêu”)… Nói chung là quanh
thôn, xóm, quanh mảnh đất “chôn nhau cắt rốn”, nay đã được mở rộng theo nhu cầu văn hoá với
các địa điểm mới, rộng mở hơn, vượt qua ranh giới làng, xóm, huyện, tỉnh, đến liên tỉnh, quốc gia,
khu vực và toàn thế giới. Tầm nhìn, tư duy cũng được khai phá nhiều chiều. Đây có lẽ là một trong
những tác động tích cực nhất của toàn cầu hóa đến lối sống người Việt. "Việc soi chiếu các giá trị
đạo đức dưới góc độ cá nhân, phẩm chất cá nhân" cho phép người Việt củng cố giá trị sống nhân
văn, hướng tới cái Chân – Thiện – Mỹ.
Những giá trị của toàn cầu hoá, của nền văn minh công nghiệp, văn minh trí tuệ đã hiện đại
hoá lối tư duy, phong phú hoá các dạng thức và tiện nghi sinh hoạt, các điều kiện kinh tế, các
phương tiện giao thông, làm cho cuộc sống vật chất – tinh thần của người dân được nâng lên rõ
rệt. Lối sống người Việt Nam cũng theo đó được mở rộng. Họ năng động hơn, tích cực quan tâm
đến các vấn đề xã hội hơn; biết chung tay, góp sức san sẻ yêu thương; biết sống có trách nhiệm
với vận mệnh quốc gia, dân tộc; biết hướng tới lý tưởng cao cả; biết nhìn ra thế giới... để tự thay
đổi, hoàn thiện bản thân. Đặc biệt, biết phát huy những giá trị đạo đức truyền thống đã được gìn
giữ từ bao đời nay để vun bồi tình cảm, đạo lý, lẽ sống của dân tộc Việt Nam.
Trong sự phát triển vượt bậc của khoa học công nghệ thì dễ dàng để giới thiệu, quảng bá
những văn hóa tốt đẹp của Việt Nam đến bạn bè quốc tế. Giới trẻ hiện nay với sự năng động, sáng
tạo, ưa tìm tòi, học hỏi nên họ đã tạo ra những sản phẩm đậm đà bản sắc dân tộc như: các MV ca
nhạc, phim,… có xuất hiện hình ảnh của các trang phục truyền thống từ xa xưa của dân tộc ta, hay
đó là hình ảnh những chiếc nhà sàn, biểu tượng của làng, xã: cây đa, bến nước, mái đình. Đây cũng
chính là một phương thức để góp phần làm cho nền văn hóa Việt Nam từ truyền thống đến hiện
đại có sự gặp gỡ, giao nhau và cùng tồn tại. Làm sống dậy những truyền thống tốt đẹp đang có
nguy cơ bị mai một trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay.
* Tác động tiêu cực
Đây là vấn đề đang được cả xã hội quan tâm. Nhiều bài viết, hội thảo, tọa đàm, trao đổi về
vấn đề sự xuống cấp đạo đức, sự lệch lạc trong lối sống của một bộ phận người dân. Toàn cầu hóa,
với những tác động nhiều chiều khiến quan niệm sống, đặc biệt của giới trẻ có phần “bung mở”,
rộng rãi, phóng túng, thậm chí cuồng loạn, coi thường giá trị văn hóa, đạo đức truyền thống, xem
nhẹ tình thân, ruột thịt. Hiện tượng con đánh cha mẹ, tước đoạt mạng sống cha mẹ; anh em giết
hại lẫn nhau, gây cảnh “nồi da xáo thịt”; vợ chồng âm mưu ám hại, nhau; cha mẹ sẵn sàng quăng
bỏ con cái vì sự vướng bận, cản trở; hàng xóm láng giềng toan tính, lừa đảo lẫn nhau; đồng nghiệp
tìm cách hạ bệ nhau, làm giảm uy tín, danh dự lẫn nhau… không còn là những biểu hiện mang
tính cá biệt, mà đang hiện hữu trên mọi góc, mọi vùng, miền của dải đất hình chữ S hàng ngàn
năm lịch sử. Lối sống trọng tình, trọng nghĩa; thương người như thể thương thân; gắn bó với thiên
nhiên; cần cù, chịu khó; thuận hoà; nhân nghĩa vẫn được gìn giữ song không tránh khỏi sự thật bị
tổn hại, xâm phạm. Nguyên nhân chính là do:
(1) Lợi ích cá nhân: Có lẽ, chưa bao giờ người Việt, đặc biệt là giới trẻ lại quan tâm nhiều
đến vấn đề lợi ích bản thân như giai đoạn hiện nay. Dường như, trong mọi mối quan hệ, tiền tài,
vật chất, danh vọng được xem như tiêu chí cốt yếu. Ngay đến cả tình yêu trai gái, thứ tình cảm vốn
được xem là trong sáng, thuần khiết, cũng dễ dàng trở thành món hàng đổi chác, thành vật sở hữu.
Rồi đơn giản như việc chọn ngành, nghề. Học ngành nào, nghề nào hứa hẹn tương lai được đảm
bảo, hoặc giàu có hoặc quyền lực chứ không phải học để phục vụ đất nước, phục vụ nhân dân. Lại
nữa, khi tốt nghiệp ra trường, phần lớn bạn trẻ không muốn làm việc ở các cơ quan của tổ chức
Đảng, đoàn thể, giáo dục mà muốn nhanh chóng hòa vào thị trường kinh tế. Còn trong quá trình
học nghề, một bộ phận học viên coi việc chạy điểm, chạy bằng là lẽ đương nhiên, là việc tất yếu.
Họ sẵn sàng dùng tiền, dùng các mối quan hệ để đạt mục đích mong muốn.
Với các mối quan hệ khác, một bộ phận không nhỏ người Việt vận dụng “nhiệt tình” và “triệt
để” quan niệm: “Có tiền đổi trắng thay đen khó gì”; “Đồng tiền đi trước là đồng tiền khôn”;
“Mạnh vì gạo, bạo vì tiền”… nhằm cải thiện, thay đổi mọi mối quan hệ, mọi giá trị đích thực của
cuộc sống. Triết lý sức mạnh của đồng tiền đã khiến một bộ phận người dân sẵn sàng đánh đổi
tình bạn, tình anh em, thầy trò, tình cha mẹ...
(2) Xem nhẹ giá trị đạo đức truyền thống: Đây là một thực tế đang hiện hữu trong xã hội
Việt Nam. Để cổ súy cho cái gọi là “mới” là “hiện đại”, là “văn minh”, là “mốt”, một bộ phận
người dân đã quay lưng lại giá trị văn hoá gia đình, dân tộc truyền thống. Họ không ngớt chê bai
những phong tục này, tập quán nọ, những thói quen thưa gửi, chào hỏi, đồng thời kết tội cho nó là
phức tạp, rườm rà, rắc rối, lạc hậu và cổ hủ. Từ suy nghĩ lệch lạc, tất yếu dẫn đến hệ quả lệch
chuẩn về các giá trị đạo đức.
Chưa hết, hiện tượng sùng bái nước ngoài, coi thường những giá trị văn hoá dân tộc, tôn
vinh, đề cao văn hoá phương Tây, văn hoá Hàn Quốc… chạy theo lối sống thực dụng, cá nhân vị
kỷ đã và đang để lại những tác động tiêu cực đến thuần phong mỹ tục của dân tộc. Lối sống thực
dụng, phóng túng khiến người trẻ tuổi Việt Nam dễ sa vào các tệ nạn xã hội. Quan niệm sống thử,
quan hệ tình dục trước hôn nhân nếu xét theo hướng tích cực thì có thể góp phần giải phóng sự
trói buộc về tư tưởng trinh tiết của người con gái, tôn trọng quyền tự do cá nhân, nhưng nếu xét
theo chiều tiêu cực, chính quan niệm này đã phá vỡ những giá trị tinh thần thiêng liêng, đó là chưa
nói tới hậu quả làm suy giảm chất lượng nòi giống và sức khoẻ giới trẻ. Và đây là con số để lại
nhiều băn khoăn, trăn trở. “Tỷ lệ nạo phá thai trong học sinh, sinh viên chủ yếu ở độ tuổi từ 15 đến
19 chiếm khoảng 60 đến 70%”.
Trong xã hội, xuất hiện những cách sống và lối sống xa lạ đi ngược lại những giá trị đạo đức
truyền thống. Chủ nghĩa vật chất, lối sống ích kỷ đã khiến một bộ phận người dân sẵn sàng bất
chấp tất cả để thỏa mãn nhu cầu cá nhân. Thực tế chứng minh, số vụ buôn lậu, buôn bán ma tuý,
làm hàng giả được phát hiện ngày càng tăng. Tinh thần nhân ái, chủ nghĩa nhân văn giờ bị đánh
đổi bằng cuộc sống bạo lực, phi nhân tính. Một loạt tội danh mới nguy hiểm đã xuất hiện như:
khủng bố cá nhân; tống tiền; bắt cóc trẻ em; buôn bán phụ nữ; buôn bán chất nổ, chất ma tuý…
với số lượng lớn; tổ chức đâm thuê chém mướn; môi giới mại dâm; xì ke ma tuý. Tình hình phụ
nữ phạm tội và các vụ phạm tội mang tính chất nguy hiểm có chiều hướng gia tăng.
(3) Trào lưu sống ảo, xa rời thế giới hiện thực ngày càng phát triển. Công nghệ thông tin
bùng nổ, internet và các phương tiện truyền thông len lỏi vào từng ngóc ngách của đời sống. Một
thế giới ảo đã xuất hiện song song tồn tại với thế giới thực. Một bộ phận không nhỏ người dân
đang chìm vào thế giới ảo, ngụp lặn trong thế giới ảo với đủ các câu chuyện hay dở trên đời. Một
chuyến đi, một hành động tốt, một thói chơi ngông, một lời lăng xê cố ý “dìm hàng” hay “đánh
bóng tên tuổi”... tất cả đều hiển thị trên cái thế giới của bàn phím ấy. Vấn đề đáng nói ở đây là quan
niệm về đạo đức, về giá trị và các chuẩn mực của con người trong thế giới ảo không như trong thế
giới của cuộc đời thực. Thực bàng hoàng và hụt hẫng khi nhìn thấy hàng ngàn, hàng triệu “like”
được nhấn nút cho các clip tai nạn giao thông, những cuộc đánh ghen, tranh chấp, ẩu đả... và ngạc
nhiên hơn là những lời bình luận (comment) phía dưới. Xót xa hơn, cũng vì nút “like” ấy, nhiều
thanh niên đã thiệt mạng chỉ vì bức ảnh triệu “like”.
(4) Nạn bạo lực trong giới trẻ có chiều hướng gia tăng. Dường như, một bộ phận giới trẻ
đang có khuynh hướng giải quyết mâu thuẫn, khúc mắc bằng bạo lực. Thực trạng cho thấy, tình
trạng thanh thiếu niên phạm tội ngày càng gia tăng. Đáng báo động hơn cả là độ tuổi của đối tượng
phạm tội ngày càng trẻ hóa và hành vi phạm tội cũng như tính chất mức độ phạm tội ngày càng
nghiêm trọng. Đây chính là hệ quả do tác động của toàn cầu hóa, do giáo dục của nhà trường và
do thiếu sự quan tâm đúng mức của gia đình khiến phần lớn giới trẻ không được trang bị đầy đủ
kỹ năng sống để biết chọn lọc, học tập và làm theo chuẩn mực đạo đức xã hội.
(5) Cái giả dối được cho là hiển nhiên. Sự lệch chuẩn về giá trị khiến một bộ phận người
dân ngộ nhận, thậm chí cố tình hiểu sai bản chất vấn đề. Sự xuất hiện cái giả dối nhiều và phổ biến
đến mức, nhiều lúc, chúng ta coi nó là một điều rất bình thường của cuộc sống. Bằng giả, danh
hiệu giả, kiến thức giả, lời nói giả, hành động giả, đạo đức giả,… đến sống cũng giả. Cái giả dối
hiện diện ở mọi nơi và lại được xã hội thừa nhận. Đây chính là nguyên do mà sự lệch lạc về giá trị
và giả dối là điều hiển nhiên, thậm chí mặc nhiên coi đó là “đúng”, truyền bá kinh nghiệm “giả -
thật” cho nhau.
Chưa hết, cái lối sống lạnh lùng kiểu tiền trao cháo múc ấy tràn vào đất nước Việt Nam gây
nên bao hệ luỵ. Đáng lo ngại hơn cả là hệ luỵ về tư tưởng, về nhận thức, là sự biến đổi và sự phá
vỡ các chuẩn mực đạo đức, thẩm mỹ xã hội, làm lệch lạc lẽ sống, lý tưởng sống của mỗi cá nhân.
Tóm lại, toàn cầu hoá như một dòng chảy lạ tràn qua biên giới quốc gia, phủ ngập, cuốn trôi
bao giá trị truyền thống, làm xáo trộn, đảo lộn sự thanh bình trong lối sống thôn quê. Trong bối
cảnh toàn cầu hoá ấy, con người bỗng trở nên lạnh lùng hơn, vô cảm hơn, đời sống tinh thần, tình
cảm của họ bỗng trở nên máy móc và “kỹ thuật” hơn. Dường như, dòng chảy toàn cầu hoá đẩy
con người tiệm cận nhanh hơn với những lợi ích cá nhân, với chủ nghĩa kim tiền, lối sống thoáng,
sống gấp, sống hưởng thụ. Thêm vào đó, phương tiện vật chất phục vụ cuộc sống con người, làm
cho cuộc sống con người tiện nghi hơn, dễ dàng khiến họ quên đi bài học ứng xử mang giá trị nhân
văn đích thực giữa con người với con người, con người với thiên nhiên, môi trường sống. Do vậy,
vấn đề đặt ra hiện nay không phải là chống lại toàn cầu hoá mà thuận theo, hoà nhập trong dòng
chảy toàn cầu hoá nhưng không thể hoà tan. Gìn giữ, đề cao, phát huy những giá trị văn hoá người
Việt, những giá trị làm nên bản sắc văn hoá của dân tộc Việt Nam, con người Việt Nam và đất
nước Việt Nam.

You might also like