You are on page 1of 39

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN

BÀI TẬP NHÓM


MÔN: KINH TẾ ĐÔ THỊ

Đề tài: Các nhân tố ảnh hưởng đến quá trình đô thị hóa tại Việt Nam

Họ và tên: Lê Thị Thanh Ngân – 11202743


Đỗ Phương Thảo - 11203619
Cao Thị Minh Ánh - 11204578
Doãn Thanh Phương - 11203155
Ngô Châu Anh - 11200181
Đào Phương Mai - 11206000
Phạm Ngọc Dương - 11204949

Lớp: Đầu tư CLC 62

HÀ NỘI, 2021
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU ................................................................................................................ 3
1. Tổng quan lý thuyết về đô thị hóa ........................................................................... 4
1.1. Khái niệm đô thị hóa ............................................................................................. 4
1.2. Đặc điểm đô thị hóa .............................................................................................. 4
1.3. Phân loại quá trình đô thị hóa ............................................................................... 4
2. Các nhân tố ảnh hưởng đến quá trình đô thị hóa .................................................. 5
2.1. Nhân tố tự nhiên .................................................................................................... 5
2.2. Nhân tố xã hội ....................................................................................................... 7
2.3. Nhân tố kinh tế .................................................................................................... 10
3. Thực trạng tác động của các nhân tố đến quá trình đô thị hóa tại Việt Nam ... 13
3.1. Quá trình đô thị hóa tại Việt Nam ....................................................................... 13
3.2. Thực trạng các nhân tố ảnh hưởng đến quá trình đô thị hóa tại Việt Nam ......... 14
4. Kiến nghị một số giải pháp đảm bảo và thúc đẩy quá trình đô thị hóa ............. 34
4.1. Nhân tố tự nhiên .................................................................................................. 34
4.2. Nhân tố xã hội ..................................................................................................... 35
4.3. Nhân tố kinh tế .................................................................................................... 36
LỜI KẾT THÚC.......................................................................................................... 38
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................... 39

2
LỜI MỞ ĐẦU

Từ nửa sau thế kỉ 20, thế giới phát triển và chuyển biến theo hướng mới, tạo cơ
hội cho các quốc gia đang phát triển, đặc biệt là Châu Á, có những bước phát triển
nhảy vọt. Quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa đã tạo cơ sở cho quá trình đô thị hóa
diễn ra một cách nhanh chóng. Dân số tập trung đến các đô thị ngày một đông và tạo
thành một xu thế chung. Việt nam cũng không nằm ngoài xu thế đó. Quá trình đô thị
hóa diễn ra nhanh chóng đã mang lại nhiều cơ hội phát triển cho các thành phố, nhưng
cũng đặt ra nhiều thách thức đối với sự phát triển bền vững của các thành phố và cả
quốc gia. Các nhân tố tác động tới quá trình đô thị hóa rất đa dạng, bao gồm các nhân
tố tự nhiên, nhân tố kinh tế và nhân tố xã hội.

Và cũng chính quá trình đô thị hóa đã có nhiều tác động về nhiều mặt cho đấ
nước: cơ sở hạ tầng, vật chất kĩ thuật, kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội.... trong đó có
cả tác động tích cực lẫn tiêu cực. Từ việc nhận thức những tác động đó, các cấp lãnh
đạo, các nhà quản lí, các nhà quy hoạch sẽ phải tìm ra những xu hướng phát triển tiếp
theo của quá trình đô thị hóa, và tìm ra những giải pháp thiết thực để hạn chế những
tác động tiêu cực, đồng thời phát huy những mặt tích cực, làm sao cho quá trình đô thị
hóa thực sự là nền tảng cho sự phát triển của cả đất nước.

3
1. Tổng quan lý thuyết về đô thị hóa
1.1. Khái niệm đô thị hóa
Đô thị hoá là quá trình biến đổi và phân bố lại lực lượng sản xuất trong nền kinh
tế quốc dân, bố trí lại dân cư, hình thành, phát triển các hình thức và điều kiện sống
theo kiểu đô thị đồng thời phát triển đô thị hiện có theo chiều sâu trên cơ sở hiện đại
hoá cơ sở vật chất kỹ thuật, tăng quy mô và mật độ dân số.

1.2. Đặc điểm đô thị hóa


Đô thị hóa mang tính xã hội và lịch sử và là sự phát triển về quy mô, số lượng,
nâng cao vai trò của đô thị trong khu vực và hình thành các chùm đô thị.
Đô thị hoá gắn liền với sự biến đổi sâu sắc về kinh tế - xã hội của đô thị và nông
thôn trên cơ sở phát triển công nghiệp, giao thông vận tải, xây dựng, dịch vụ ... do vậy
đô thị hoá không thể tách rời một chế độ kinh tế xã hội.

1.3. Phân loại quá trình đô thị hóa


❖ Quá trình đô thị hóa diễn ra trên thế giới có thể phân chia thành 2 loại:
- Quá trình đô thị hóa ở các nước đã phát triển: đặc trưng cho sự phát triển
này là nhân tố chiều sâu và sự tận dụng tối đa những lợi ích, hạn chế những ảnh hưởng
xấu của quá trình đô thị hóa. đô thị hóa diễn ra do nhu cầu công nghiệp phát triển,
mang tính tự nhiên.
- Quá trình đô thị hóa ở các nước đang phát triển: có đặc trưng là ĐTH
không đi đôi với CNH (trừ một số nước công nghiệp mới – NIC). Sự bùng nổ dân số
đô thị quá tải không mang tính tự nhiên mà do sức hấp dẫn từ sự cáchbiệt sâu sắc về
chất lượng cuộc sống giữa đô thị và nông thôn.

❖ Quá trình đô thị hóa diễn ra theo 2 xu hướng


- Đô thị hóa tập trung (đô thị hóa “hướng tâm”): đó chính là sự tích tụ các
nguồn lực tư bản và chất xám hình thành nên các trung tâm đô thị công nghiệp tập
trung cao độ, những thành phố toàn cầu như Tokyo, Seoul,…Điều này sẽ dẫn đến xu
hướng “CNH co cụm”, khi đó,chỉ những khu vực đô thị trung tâm là nơi thu hút vốn
đầu tư, tập trung các hoạt động công nghiệp, trong khi các lĩnh vực vẫn chỉ là nông
thôn và sản xuất nông nghiệp vẫn chiếm vai trò chủ đạo tạo ra sự đối lập giữa đô thị và
nông thôn, đồng thời gây ra mất cân bằng sinh thái.
- Đô thị hóa phân tán (đô thị hóa “ly tâm”): là xu hướng dịch chuyển đầu tư
và hoạt động sản xuất công nghiệp từ các lĩnh vực trung tâm ra các vùng ngoại vi, tạo
nên hiệu ứng lan toả, thúc đẩy sự ra đời và hình thành các trung tâm vệ tinh công
nghiệp.
Điều này dẫn đến tiến trình “công nghiệp hóa lan toả”,các hoạt động công
nghiệp ở đô thị trung tâm có xu hướng dịch chuyển ra ngoại vi để chuyển sang các
hoạt động công nghiệp mức cao hơn, hay chuyên môn hoá các lĩnh vực kinh doanh,

4
thương mại, dịch vụ. Xu hướng này sẽ đảm bảo cân bằng sinh thái, tạo điều kiện việc
làm, sinh hoạt và nghỉ ngơi tốt cho dân đô thị và nông thôn.

2. Các nhân tố ảnh hưởng đến quá trình đô thị hóa


2.1. Nhân tố tự nhiên
2.1.1. Vị trí địa lý
Vị trí địa lý có ảnh hưởng đáng kể đến việc tổ chức các lãnh thổ kinh tế, xã hội
của một quốc gia, đặc biệt trong việc hình thành các trung tâm phát triển kinh tế trong
vùng, các mối quan hệ kinh tế nội bộ cũng như kết nối quốc tế, đặc điểm đô thị và lối
sống đô thị. Các thành phố lớn lâu đời thường nằm ở những vị trí thuận lợi về mặt địa
lý liên quan đến giao thông và liên lạc, dọc theo các lưu vực sông, trung tâm các vùng
lục địa và trong bối cảnh hiện đại, nhiều thành phố nổi bật được tìm thấy dọc theo bờ
biển của các nước các quốc gia.
Vị trí địa lý có ý nghĩa rất quan trọng, ảnh hưởng đến sự phân bố sản xuất và
phân bố dân cư. Đô thị là nơi tập trung dân cư với mật độ cao, phát triển chủ yếu các
ngành phi nông nghiệp. Do vậy, vị trí địa lý thuận lợi là điều kiện tiên quyết cho sự
phân bố đô thị.
- Vị trí địa lý giao thông: Các đô thị lớn thường là các đầu mối giao thông vận
tải lớn đã nói lên tầm quan trọng của vị trí địa lý giao thông. Vị trí địa lý thuận lợi sẽ
tạo điều kiện cho việc vận chuyển hành khách và vận chuyển hàng hóa được diễn ra
thuận lợi, các đô thị dễ dàng mở rộng hợp tác sản xuất với các vùng, các đô thị xung
quanh, tạo động lực cho sự phát triển kinh tế - xã hội của đô thị.
- Vị trí địa lý kinh tế: Vị trí địa lý kinh tế có ý nghĩa quan trọng tới sự phát
triển đô thị cả trong hiện tại và tương lai. Các đô thị phát triển tạo ra sức hút cho chính
bản thân đô thị cũng như các vùng và đô thị xung quanh. Trong một khu vực kinh tế có
cả thành phố lớn và nhỏ, sự hỗ trợ và hợp tác lẫn nhau là điều kiện then chốt. Các
thành phố nhỏ và vừa đóng vai trò là thành phố vệ tinh cho các trung tâm đô thị lớn
hơn, hỗ trợ hoạt động hiệu quả của nền kinh tế khu vực. Sự kết nối giữa các thành phố
lớn và các khu vực khác trong vùng lân cận đóng vai trò quan trọng thúc đẩy sự phát
triển nhanh chóng của quá trình đô thị hóa trên quy mô ngày càng lớn hơn do hiệu ứng
gợn sóng.

2.1.2. Môi trường tự nhiên


2.1.2.1. Khí hậu

5
Khí hậu là nhân tố quan trọng tác động tới quá trình đô thị hóa trên các khía
cạnh sau:
- Tác động đến sự phân bố dân cư: Khí hậu thuận lợi sẽ tạo điều kiện thuận lợi
cho sự phát triển kinh tế - xã hội, thu hút dân cư đến sinh sống và làm việc, từ đẩy
nhanh quá trình đô thị hóa.
- Tác động đến phát triển kinh tế - xã hội: Khí hậu thuận lợi sẽ tạo điều kiện
thuận lợi cho phát triển các ngành kinh tế, thu hút đầu tư, tạo ra nhiều cơ hội việc làm,
thu nhập cho người dân, góp phần thúc đẩy quá trình đô thị hóa.
- Tác động đến môi trường đô thị: Ngày nay, do những tác động của con người
đến môi trường khiến cho thời tiết, khí hậu có thay đổi, chuyển biến xấu, đặc biệt là
xuất hiện biến đổi khí hậu. Việc thay đổi nhiệt độ, lượng mưa, gia tăng mực nước biển
và các hiện tượng thời tiết cực đoan sẽ có những tác động tiêu cực đến phát triển bền
vững các đô thị, đặc biệt là hạ tầng kỹ thuật (đường giao thông, hệ thống truyền tải
điện, hệ thống cấp, thoát nước,…)

2.1.2.2. Tài nguyên thiên nhiên


Các đô thị là nơi tập trung đông dân cư với mật độ cao đồng thời cũng là nơi tập
trung sản xuất kinh tế, do vậy nhu cầu về nguồn nước rất lớn. Việc cung cấp nước
không đủ cho sinh hoạt và sản xuất sẽ trực tiếp làm giảm chất lượng cuộc sống dân cư
đô thị, giảm hiệu quả sản xuất và còn làm tăng nguy cơ ô nhiễm môi trường đô thị. Do
vậy, để quy hoạch phát triển đô thị thì việc nghiên cứu vấn đề cung cấp nguồn nước
cho đô thị là điều quan trọng tiên quyết.
Bên cạnh đó, các đô thị giàu có về tài nguyên khoáng sản thường gắn liền với
ngành công nghiệp như: khai thác than, luyện gang thép,... Đô thị phân bố ở các vùng
có điều kiện phát triển nông lâm, ngư nghiệp thường gắn liền với chức năng chế biến
thực phẩm, chế biến gỗ.

2.1.3. Quy mô thành phố và hệ thống cơ sở hạ tầng


Việc định hình quy mô thành phố đang được coi là một trong những mục tiêu
quan trọng của quy hoạch đô thị. Các thành phố có quy mô lớn với diện tích rộng
thường thu hút nhiều dân cư và doanh nghiệp hơn so với các thành phố nhỏ. Sự hấp
dẫn của thành phố lớn có thể đẩy mạnh quá trình đô thị hóa và dẫn đến sự gia tăng dân
số và phát triển kinh tế. Tuy nhiên, các thành phố này thường gặp phải các thách thức
như tăng dân số, ùn tắc giao thông, ô nhiễm môi trường và thiếu cơ sở hạ tầng. Điều
này cần đòi hỏi chính quyền địa phương và quốc gia phải có kế hoạch quản lý đô thị rõ
ràng, đảm bảo cung cấp đủ dịch vụ và hạ tầng để đáp ứng nhu cầu của cư dân. Chỉ có
như vậy mới có thể đảm bảo được sự phát triển bền vững trong tương lai.
Hệ thống cơ sở hạ tầng bao gồm:
- Giao thông: Hạ tầng giao thông, bao gồm hệ thống đường bộ, đường sắt và sân
bay, đóng vai trò quan trọng trong quá trình đô thị hóa. Sự phát triển giao thông hợp lý,

6
đồng bộ và hiệu quả giúp kết nối các khu vực, thuận lợi cho việc di chuyển và vận
chuyển hàng hóa trong thành phố. Điều này tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển
kinh tế và phục vụ nhu cầu của cư dân.
- Hệ thống cấp nước và hệ thống thoát nước: Một hệ thống cung cấp nước thích
hợp và hệ thống thoát nước hiệu quả là cần thiết để đáp ứng nhu cầu hàng ngày của cư
dân đô thị. Nếu hạ tầng này không đảm bảo, việc cung cấp nước sạch và xử lý nước
thải sẽ trở nên khó khăn, gây ra ô nhiễm môi trường và ảnh hưởng đến sức khỏe của cư
dân.
- Hạ tầng công cộng: Các khu vực đô thị cần có đủ cơ sở hạ tầng công cộng, bao
gồm các bệnh viện, trường học, công viên và khu vui chơi giải trí. Sự hiện diện của
những cơ sở này không chỉ đáp ứng nhu cầu của cư dân mà còn tạo điều kiện thuận lợi
cho sự phát triển và thúc đẩy nền kinh tế đô thị.
- Xử lý rác thải: Quá trình đô thị hóa tạo ra lượng rác thải lớn và đòi hỏi hệ
thống xử lý rác thải hiệu quả. Nếu không có hệ thống xử lý rác thải đúng đắn, ô nhiễm
môi trường và y tế công cộng có thể xảy ra.

2.2. Nhân tố xã hội


Hệ thống xã hội bị giới hạn bởi dân số, chính sách và cơ cấu xã hội. Các yếu tố
xã hội ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình đô thị hóa là môi trường văn hóa, dịch vụ đô
thị, quy mô dân số và hoạt động quản lý Nhà nước.
2.2.1. Môi trường văn hóa
Văn hóa đóng một vị trí chiến lược quan trọng cho sự phát triển của một thành
phố, với môi trường văn hóa đóng vai trò hỗ trợ và định hướng quan trọng trong quá
trình phát triển đô thị. Hơn nữa, các thành phố có tài sản văn hóa phong phú thường có
bề dày lịch sử phát triển và tiềm năng phát triển, thu hút cư dân cũng như khách du lịch
đến khám phá, làm việc và sinh sống.
- Văn hóa truyền thống: Truyền thống ảnh hưởng đến quản lý đất đai đô thị, gia
đình - dân số. Mỗi dân tộc có một nền văn hóa riêng của mình và nền văn hóa đó có
ảnh hưởng đến tất cả các vấn đề kinh tế, chính trị, xã hội,...nói chung và hình thái đô
thị nói riêng. Sự kết hợp giữa văn hóa dân tộc, tôn giáo và truyền thống vùng miền có
thể tạo ra sự đa dạng trong cách mọi người sống và làm việc trong đô thị.
Không chỉ vậy, bản sắc văn hóa đóng góp vào sự phát triển kinh tế, xã hội và
văn hóa của đô thị, bằng cách khai thác và bảo tồn những tiềm năng, tài nguyên và di
sản văn hóa truyền thống. Văn hóa truyền thống có thể làm giàu cho đa dạng văn hóa
đô thị, tăng cường sự hợp tác và hòa nhập quốc tế, và tạo ra những cơ hội kinh doanh,
du lịch và giáo dục.
- Lối sống đô thị: Lối sống đô thị là cách mà người dân trong một khu vực sống
và tương tác với môi trường xung quanh họ. Nó bao gồm các thói quen, hành vi, và
quy tắc ứng xử mà người dân thực hiện, được thể hiện qua nhiều khía cạnh, bao gồm:
giao thông, công việc, tiêu dùng, giải trí,…

7
- Kiến trúc đô thị: Kiến trúc đô thị là tổ hợp các vật thể trong đô thị, bao gồm
các công trình kiến trúc, di sản, nghệ thuật mà sự tồn tại, hình ảnh của chúng chi phối
hoặc ảnh hưởng trực tiếp đến cảnh quan đô thị. Trong quá trình đô thị hóa, điều này
liên quan đến việc xây dựng và phát triển các cơ sở hạ tầng và kết cấu kiến trúc trong
môi trường đô thị để tạo ra một môi trường sống và làm việc thoải mái, hài hòa và hiệu
quả cho cư dân và người sử dụng.

2.2.2. Dịch vụ đô thị


Dịch vụ đô thị là các dịch vụ công cộng được cung cấp trong đô thị như: Quản
lý, khai thác, duy trì hệ thống các công trình hạ tầng kỹ thuật; vệ sinh và bảo vệ môi
trường; quản lý công viên, cây xanh; chiếu sáng đô thị, cấp nước, thoát nước; quản lý
chung cư; xử lý chất thải; giao thông công cộng; bảo vệ trật tự, an ninh khu vực phát
triển đô thị; y tế, giáo dục, thương mại, vui chơi giải trí, thể dục thể thao và các dịch vụ
công cộng khác.
Dịch vụ giao thông công cộng là hệ thống giao thông công cộng bao gồm: xe
buýt, tàu hỏa và tàu điện, giúp đỡ cư dân di chuyển dễ dàng trong đô thị, giảm tắc
đường và ô nhiễm không khí trong đô thị.
Ngoài ra, còn có các dịch vụ đô thị công cộng đa dạng và chất lượng như dịch
vụ văn hóa, giải trí, du lịch, thể thao, thương mại,... để đáp ứng nhu cầu và nâng cao
chất lượng cuộc sống của người dân đô thị.
Các dịch vụ đô thị không chỉ bao gồm các dịch vụ như trên mà còn là hành vi
phục vụ của doanh nghiệp hướng tới người tiêu dùng. Từ góc độ vĩ mô, đổi mới dịch
vụ thành phố ảnh hưởng trực tiếp đến hình ảnh và sức hấp dẫn của đô thị.

2.2.3. Quy mô dân số


- Cơ cấu dân số theo độ tuổi:
Cơ cấu dân số theo độ tuổi là phân bố dân số theo các nhóm tuổi khác nhau,
thường được biểu diễn bằng biểu đồ dân số. Cơ cấu dân số theo độ tuổi có ảnh hưởng
tới quá trình đô thị hóa bởi vì nó liên quan tới nhu cầu, khả năng và hành vi của dân cư
trong việc di chuyển, sinh sống và làm việc tại các khu vực đô thị.
Cơ cấu dân số trẻ (tỉ lệ người dưới 15 tuổi cao) thường kích thích quá trình đô
thị hóa thông qua gia tăng nhu cầu về giáo dục, y tế, giải trí. Người trẻ cũng có xu
hướng dễ thích nghi và chấp nhận sự thay đổi hơn người lớn tuổi. Tuy nhiên, cơ cấu
dân số trẻ cũng có thể gây ra áp lực lớn lên hạ tầng, môi trường và dịch vụ xã hội ở các
khu vực đô thị nếu không được quản lý và phát triển một cách bền vững.
Cơ cấu dân số già (tỉ lệ người trên 65 tuổi cao) cũng có thể tạo ra cơ hội cho quá
trình đô thị hóa bởi vì nhu cầu về dịch vụ chăm sóc, văn hóa và du lịch của người lớn
tuổi ở các khu vực đô thị thường cao hơn so với nông thôn. Người cao tuổi cũng có thể
đóng góp vào sự phát triển kinh tế và xã hội của các khu vực đô thị bằng kinh nghiệm,

8
kiến thức và tài sản của họ. Tuy nhiên, nhóm đối tượng này thường không chiếm tỷ
trọng lớn trong cơ cấu dân số đô thị.
Cơ cấu dân số vàng (tỉ lệ người trong độ tuổi lao động cao) thường là lợi thế cho
quá trình đô thị hóa bởi vì nhu cầu và khả năng về công việc, doanh nghiệp, đầu tư và
tiêu dùng của người lao động cao hơn. Họ thường có xu hướng di chuyển từ các vùng
lân cận đến đô thị để tìm kiếm việc làm. Người lao động cũng có thể tạo ra sự đổi mới,
sáng tạo và cạnh tranh cho nền kinh tế và xã hội của các khu vực đô thị. Tuy nhiên, cơ
cấu dân số vàng cũng có thể gây ra những thách thức cho quá trình đô thị hóa bởi vì
nhu cầu về nhà ở, giao thông, an ninh và giải quyết xung đột ở các khu vực đô thị cao
hơn so với nông thôn. Bên cạnh đó, người lao động cũng có thể phải đối mặt với
những rủi ro về thất nghiệp, bất bình đẳng và nghèo đói nếu không có chính sách hỗ
trợ và bảo vệ phù hợp.
- Trình độ học vấn:
Trình độ học vấn là một nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến quá trình đô thị hóa.
Trình độ học vấn cao giúp người dân có nhiều cơ hội việc làm và thu nhập cao hơn, từ
đó thúc đẩy quá trình di cư từ nông thôn lên thành thị. Cụ thể, trình độ học vấn cao có
những tác động sau đến quá trình đô thị hóa:
+ Tạo ra cơ hội việc làm: Trong các thành phố, các ngành nghề đòi hỏi trình độ
học vấn cao thường có mức lương cao hơn và nhiều cơ hội thăng tiến hơn. Điều này
thu hút những người có trình độ học vấn cao từ nông thôn lên thành thị để tìm kiếm
việc làm.
+ Nâng cao chất lượng cuộc sống: Bên cạnh tác động đến mức thu nhập và việc
làm, trình độ học vấn cao còn giúp người dân nâng cao nhận thức về các vấn đề xã hội,
khả năng tiếp cận các dịch vụ y tế, giáo dục, văn hóa, giải trí chất lượng cao hơn, từ đó
nâng cao chất lượng cuộc sống. Điều này cũng thúc đẩy quá trình đô thị hóa, khi các
thành phố trở thành nơi tập trung của các dịch vụ chất lượng cao.

2.2.4. Hoạt động quản lý Nhà nước


Hoạt động quản lý Nhà nước là một nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến quá trình
đô thị hóa. Hoạt động quản lý Nhà nước có thể thúc đẩy hoặc hạn chế quá trình đô thị
hóa, tùy thuộc vào tính hiệu lực, hiệu quả của hoạt động quản lý.
Cụ thể, hoạt động quản lý Nhà nước có những tác động sau đến quá trình đô thị
hóa:
- Thúc đẩy quá trình đô thị hóa: Hoạt động quản lý Nhà nước có thể thúc đẩy
quá trình đô thị hóa thông qua các chính sách, quy hoạch, kế hoạch phát triển đô thị.
Các chính sách, quy hoạch, kế hoạch này tạo ra môi trường thuận lợi cho sự phát triển
của đô thị, từ đó thu hút đầu tư và dân cư.
- Kiểm soát quá trình đô thị hóa: Hoạt động quản lý Nhà nước cũng ngăn chặn
sự phát triển đô thị quá mức, từ đó hạn chế những tác động tiêu cực của đô thị hóa.

9
Một số hoạt động quản lý Nhà nước cụ thể có thể ảnh hưởng đến quá trình đô
thị hóa bao gồm:
- Quy hoạch đô thị: Quy hoạch đô thị là một trong những hoạt động quan trọng
nhất của quản lý Nhà nước đối với đô thị. Quy hoạch đô thị xác định khung phát triển
của đô thị trong tương lai, từ đó tạo ra cơ sở cho việc đầu tư, xây dựng và quản lý đô
thị.
- Kế hoạch phát triển đô thị: Kế hoạch phát triển đô thị là kế hoạch cụ thể hóa
quy hoạch đô thị. Kế hoạch phát triển đô thị xác định các mục tiêu, nhiệm vụ, giải
pháp phát triển đô thị trong từng giai đoạn.
- Chính sách phát triển đô thị: Chính sách phát triển đô thị là các quy định,
hướng dẫn của Nhà nước nhằm thúc đẩy hoặc kiểm soát quá trình đô thị hóa. Các
chính sách phát triển đô thị bao gồm chính sách đầu tư, chính sách thu hút dân cư,
chính sách phát triển kinh tế - xã hội,...
Để hoạt động quản lý Nhà nước có thể phát huy hiệu quả trong việc thúc đẩy
quá trình đô thị hóa bền vững, cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan quản lý
Nhà nước ở trung ương và địa phương. Các chính sách, quy hoạch, kế hoạch phát triển
đô thị cần được xây dựng trên cơ sở nghiên cứu khoa học và thực tiễn, đồng thời cần
được triển khai và thực hiện một cách hiệu quả.

2.3. Nhân tố kinh tế


2.3.1. Trình độ kinh tế
Tác động của đô thị hóa đến trình độ kinh tế được đánh giá qua 3 yếu tố: Quy
mô kinh tế, cơ cấu kinh tế, vốn đầu tư.
Đối với yếu tố quy mô kinh tế, theo Von Thunen, khi các nhà máy xí nghiệp
và doanh nghiệp càng có quy mô lớn thì chi phí sản xuất ra mỗi đơn vị sản phẩm/dịch
vụ càng giảm. Tại các khu vực tập trung đông dân cư và có mật độ dân số cao tạo ra
một thị trường đủ lớn dành cho các doanh nghiệp. Nhờ đó các doanh nghiệp có thể mở
rộng quy mô để đáp ứng nhu cầu thị trường và qua đó làm giảm giá thành sản xuất.
Điều này làm cho năng suất lao động tăng lên.
Ngoài ra, với việc các doanh nghiệp cùng lĩnh vực và ngành nghề khi tập trung
gần nhau sẽ thúc đẩy việc cạnh tranh cũng như trao đổi giữa các doanh nghiệp nhằm
cải tiến và đổi mới trong sản xuất - kinh doanh. Điều này cũng đóng góp vào việc nâng
cao năng suất lao động của các doanh nghiệp. Các doanh nghiệp có xu hướng tập trung
gần thị trường tiêu thụ và ở chiều ngược lại, thị trường cũng có xu hướng được thu hút
và tập trung tại nơi các nhà sản xuất tập trung.
Kết quả của sự mở rộng sản xuất của các doanh nghiệp dẫn đến nhu cầu về lao
động cũng tăng cao. Điều này tạo cơ hội việc làm, khuyến khích người dân từ các khu
vực nông thôn di cư vào các thành thị để tìm kiếm cơ hội kinh doanh và việc làm tốt
hơn, từ đó dẫn đến sự gia tăng thu nhập, tiêu dùng, cải thiện mức sống. Đây cũng chính
là một trong những động lực thúc đẩy quá trình đô thị hóa và tăng trưởng kinh tế.

10
Đối với yếu tố cơ cấu kinh tế, các nhà kinh tế đã chỉ ra rằng quá trình đô thị
hóa phải dựa trên cơ sở phát triển kinh tế, mà cốt lõi là phát triển công nghiệp và dịch
vụ. Sự chuyển dịch cơ cấu này sẽ góp phần thúc đẩy mạnh mẽ quá trình đô thị hóa,
nâng bậc đô thị, biến đổi chắc năng của một số đô thị và tác động mạnh mẽ đến kinh tế
- xã hội của đô thị. Lao động khu vực nông nghiệp giảm dần và có xu hướng chuyển
sang các ngành có năng suất cao, kỹ thuật tiên tiến. Việc tập trung phát triển những
ngành này làm cơ sở cho nền kinh tế đô thị mạnh mẽ và sự gia tăng đáng kể của dân số
đô thị.
Tuy nhiên, cần lưu ý rằng sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế cũng có thể gây ra
thách thức về thất nghiệp và khoảng cách thu nhập trong một số trường hợp. Chính
phủ và các bên liên quan cần can thiệp để đảm bảo rằng quá trình chuyển dịch diễn ra
một cách bền vững và công bằng, bao gồm việc đào tạo lại và phát triển nguồn nhân
lực, đảm bảo rằng người lao động có cơ hội tham gia vào nền kinh tế đô thị và hưởng
lợi từ sự đô thị hóa.
Đối với yếu tố vốn đầu tư, sự đầu tư vào cơ sở hạ tầng đô thị, bao gồm giao
thông, nước sạch, điện, viễn thông,... là vô cùng cần thiết để tạo ra môi trường sống và
làm việc hấp dẫn. Đây là một yếu tố quan trọng trong việc thu hút dân cư và doanh
nghiệp đến đô thị. Có 3 thành phần kinh tế chính trong cơ cấu vốn đầu tư, đó là: nhà
nước, ngoài nhà nước và đầu tư trực tiếp nước ngoài. Tại các quốc gia đang phát triển,
nguồn vốn từ khu vực nhà nước vẫn đóng vai trò chủ yếu và chiếm tủ trọng lớn trong
tổng vốn đầu tư. Tuy nhiên, trong bối cảnh nhu cầu phát triển hạ tầng đô thị ngày càng
tăng, để đáp ứng mục tiêu chung, các quốc gia cần phải thúc đẩy huy động từ nhiều
nguồn bên ngoài ngân sách nhà nước.

2.3.2. Cơ cấu công nghiệp


Công nghiệp hóa
Công nghiệp hoá dẫn đến đô thị hoá bằng cách tạo ra tăng trưởng kinh tế và cơ
hội việc làm, thu hút mọi người đến các thành phố. Quá trình đô thị hóa thường bắt đầu
khi một nhà máy hoặc nhiều nhà máy được thành lập trong một khu vực, do đó tạo ra
một nhu cầu cao về lao động trong nhà máy. Các doanh nghiệp khác như các nhà sản
xuất xây dựng, các nhà bán lẻ và các nhà cung cấp dịch vụ sau đó theo các nhà máy để
đáp ứng nhu cầu sản phẩm của công nhân. Điều này tạo ra nhiều việc làm hơn và nhu
cầu về nhà ở tăng cao, do đó thành lập một khu đô thị.
Khi quá trình công nghiệp hóa tạo ra tăng trưởng kinh tế, nhu cầu cải thiện giáo
dục và các công trình công cộng đặc trưng của khu vực thành thị tăng lên. Nhu cầu này
xảy ra bởi vì các doanh nghiệp đang tìm kiếm công nghệ mới để tăng năng suất đòi hỏi
phải có lực lượng lao động có trình độ và các điều kiện sống phát triển thu hút các
công nhân có tay nghề vào khu vực này.

11
Chuyên môn hóa
Cùng với công nghiệp hóa, chuyên môn hóa các ngành công nghiệp địa phương
có thể thúc đẩy đô thị hóa bằng cách thu hút lao động có tay nghề và các chuyên gia
đặc thù cho ngành đó. Các đô thị chuyên biệt sẽ thường được phát triển để hỗ trợ nhu
cầu của các ngành này, điều này có thể dẫn đến tăng trưởng kinh tế và tăng trưởng dân
số. Ví dụ, một khu vực chuyên về các ngành công nghệ cao có thể trải qua quá trình đô
thị hóa nhanh chóng khi những người lao động có kỹ năng chuyển đến đó.

Đô thị công nghiệp (Khu Công nghiệp - Đô thị - Dịch vụ)


Khu công nghiệp - đô thị - dịch vụ là mô hình kết hợp giữa phát triển công
nghiệp với đô thị hóa, đảm bảo sự phát triển bền vững của khu công nghiệp; phát triển
song song giữa khu sản xuất công nghiệp với Trung tâm nghiên cứu và phát triển
(R&D), Trung tâm ươm tạo doanh nghiệp, giáo dục, y tế, vui chơi giải trí,… để tạo nên
môi trường sống và làm việc tốt cho người lao động, chuyên gia công nghệ, chuyên gia
kinh tế. Quy mô diện tích khu đô thị - dịch vụ tối đa không vượt quá 1/3 diện tích khu
công nghiệp.
Mô hình khu công nghiệp - đô thị - dịch vụ nếu được triển khai đồng bộ có thể
đã là lời giải cho bài toán nhà ở xã hội, tiện nghi sinh hoạt và các tiện ích xã hội khác
tại các khu công nghiệp từ đó giải quyết các vấn đề đô thị hóa giúp đô thị hóa phát
triển bền vững.

Hợp tác chuỗi cung ứng công nghiệp


Hợp tác chuỗi cung ứng công nghiệp là sự hợp tác và phối hợp giữa các tác
nhân khác nhau trong chuỗi cung ứng công nghiệp, như nhà cung cấp, nhà sản xuất,
nhà phân phối và người tiêu dùng. Nó có thể giảm chi phí giao dịch, tăng chất lượng
sản phẩm và tối ưu hóa việc phân bổ nguồn lực trong nền kinh tế đô thị.
Hợp tác chuỗi cung ứng công nghiệp ảnh hưởng tới đô thị hóa bằng cách tạo ra
các mạng lưới kinh tế vùng, khu vực và quốc tế, khuyến khích sự phân bố và di chuyển
của nguồn lực và lao động, góp phần vào sự phát triển bền vững của đô thị và vùng.

2.3.3. Sự đổi mới, phát triển về công nghệ


Thúc đẩy phát triển và đổi mới công nghệ cao
Một trong những tác động chính của công nghệ cao đối với quá trình đô thị hóa
là cải thiện cơ sở hạ tầng và dịch vụ đô thị. Công nghệ cao giúp tối ưu hóa quản lý và
vận hành các yếu tố cơ bản như giao thông, năng lượng, nước sạch, và quản lý rác thải.
Hệ thống thông tin, giám sát, và điều khiển tự động dựa trên công nghệ IoT (Internet of
Things) giúp đô thị quản lý nguồn lực một cách hiệu quả hơn, giảm thiểu lãng phí và
tối ưu hoá cơ sở hạ tầng. Các ứng dụng công nghệ cao trong quản lý giao thông cũng
giúp giảm ô nhiễm không khí và tăng cường an toàn giao thông trong các đô thị. Điều

12
này đồng nghĩa với việc cải thiện chất lượng cuộc sống cho cư dân thành thị và hút sự
quan tâm từ những người muốn sống tại các đô thị.
Chuyển đổi năng lượng
Sự gia tăng dân số, tăng trưởng kinh tế và sự phát triển đô thị đã tạo ra nhu cầu
ngày càng lớn về năng lượng, đồng thời đặt ra nhiều thách thức về tài nguyên và môi
trường. Việc sử dụng các nguồn năng lượng hóa thạch như than, dầu, khí đốt gây ra ô
nhiễm môi trường, ảnh hưởng đến sức khỏe con người và môi trường sống. Chuyển
đổi năng lượng sang các nguồn năng lượng sạch, tái tạo sẽ giúp giảm thiểu ô nhiễm
môi trường, cải thiện chất lượng không khí và môi trường sống đô thị.

3. Thực trạng tác động của các nhân tố đến quá trình đô thị hóa tại Việt Nam
3.1. Quá trình đô thị hóa tại Việt Nam
Việt Nam với xuất phát điểm là một quốc gia thuần nông nghiệp, vì lẽ đó hoạt
động đô thị hóa ở Việt Nam đã trải qua rất nhiều giai đoạn, sau mỗi giai đoạn, bộ mặt
đô thị Việt Nam lại có những sự biến đổi nhất định. Cụ thể:
- Giai đoạn trước năm 1954: Trong giai đoạn nửa đầu thế kỷ XX, thông qua
việc thiết lập một mạng lưới đô thị - trung tâm hành chính thương mại và công nghiệp
khai thác ở cả 3 miền Bắc - Trung - Nam người Pháp đã mở đầu công cuộc đô thị hóa
đầu tiên tại Việt Nam. Thế nhưng sau khi đô thị hóa diễn ra, tốc độ tăng dân số mới đạt
7,5%, đến năm 1955 mới đạt 11%.
- Giai đoạn từ năm 1955 - 1975: Trong giai đoạn này, miền Bắc nước ta về cơ
bản đã đi vào quá trình công nghiệp hóa Xã hội chủ nghĩa. Quá trình đô thị hóa nhờ đó
cũng được gia tăng đáng kể. Trong năm 1965, tỷ lệ đô thị hóa ở nước ta đã đạt đến
17,2%. Năm 1975, tỷ lệ đô thị hóa ở Việt Nam tăng lên đến 21,5%, là kết quả của hai
quá trình “giải đô thị hóa” ở miền Bắc và “đô thị hóa cưỡng bức” ở miền Nam Việt
Nam trong những năm từ 1960 đến năm 1975.
- Giai đoạn từ năm 1975 - 1989: Ở giai đoạn này, nền kinh tế nước ta đang
trong giai đoạn trì trệ, đô thị hóa dường như không có sự biến động nào đáng kể.
- Giai đoạn từ 1989 đến nay: Dưới tác động của các công cụ đổi mới, cải tổ nền
kinh tế theo định hướng thị trường thì nước ta đã có những biến đổi quan trọng không
chỉ trong cơ cấu kinh tế, xã hội, cơ cấu lao động nghề nghiệp mà cả những biến đổi về
khuôn mẫu của đời sống đô thị.
Có thể nhận định rằng giai đoạn từ 1989, đặc biệt là trong những năm trở lại đây,
đô thị hóa đã có những chuyển biến nhanh hơn, mạnh mẽ hơn. Tính đến giữa năm giữa
năm 2023, toàn quốc có 898 đô thị, trong đó có 02 đô thị loại đặc biệt là Hà Nội và
Thành phố Hồ Chí Minh. Tỷ lệ đô thị hóa năm 2022 đạt khoảng 41,7%.

13
3.2. Thực trạng các nhân tố ảnh hưởng đến quá trình đô thị hóa tại Việt Nam
3.2.1. Nhân tố tự nhiên
3. 2.1.1. Vị trí địa lý
Vị trí địa lý của Việt Nam có tác động đáng kể đến quá trình đô thị hóa. Đất
nước ta dài và hẹp, với đường bờ biển trải dài hơn 3.000 km, khoảng 50% các đô thị
lớn của Việt Nam tập trung ở khu vực ven biển và trên đảo. Đồng bằng sông Hồng ở
phía Bắc và Đồng bằng sông Cửu Long ở phía Nam là hai vùng có mật độ dân số đông
nhất và cũng là hai vùng có tốc độ đô thị hóa cao nhất. Điều này là do một số yếu tố,
bao gồm:
- Điều kiện tự nhiên: Đồng bằng sông Hồng và Đồng bằng sông Cửu Long đều
là những vùng có độ phì nhiêu cao và có lịch sử lâu đời là trung tâm sản xuất nông
nghiệp của Việt Nam. Điều này đã thu hút một lượng lớn dân số đến các khu vực này
trong nhiều thế kỷ. Đường bờ biển cũng tạo điều kiện cho các tỉnh ven biển phát huy
lợi thế du lịch của nước ta. Tuy nhiên điều này cũng gây nên các bão và các thảm họa
thiên nhiên khác, gây khó khăn cho việc phát triển các khu đô thị dọc bờ biển.
- Tiếp cận giao thông đường thủy: Sông Hồng và sông Mê Kông cung cấp các
tuyến giao thông quan trọng đến phần còn lại của đất nước và ra biển. Điều này giúp
người dân và hàng hóa di chuyển đến và đi từ các khu vực này dễ dàng hơn, góp phần
vào sự phát triển kinh tế và đô thị hóa của chúng ta.
- Địa hình đồi núi: Việt Nam là một quốc gia miền núi, với hơn 70% diện tích
đất liền được bao phủ bởi núi. Điều này đã gây khó khăn cho việc phát triển cơ sở hạ
tầng và khu định cư ở nhiều nơi trên cả nước.
=> Nhìn chung, vị trí địa lý của Việt Nam có tác động đáng kể đến quá trình đô
thị hóa. Đồng bằng sông Hồng và sông Mê Kông là những khu vực có tốc độ đô thị
hóa nhanh nhờ điều kiện nông nghiệp thuận lợi, khả năng tiếp cận giao thông đường
thủy và đầu tư của chính quyền trung ương. Tuy nhiên, Việt Nam đang phải đối mặt
với một số thách thức khi tiếp tục đô thị hóa, bao gồm mở rộng đô thị, ùn tắc giao
thông và ô nhiễm môi trường. Chính phủ Việt Nam đang thực hiện các bước để giải
quyết những thách thức này, nhưng điều quan trọng là phải quản lý cẩn thận quá trình
đô thị hóa để đảm bảo quá trình này bền vững và toàn diện.

3. 2.1.2. Môi trường tự nhiên


Thời tiết, khí hậu là một nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến quá trình đô thị hóa
tại Việt Nam. Nhìn chung, thời tiết, khí hậu tại Việt Nam khá thuận lợi cho phát triển
đô thị. Khí hậu nhiệt đới ẩm gió mùa, với hai mùa rõ rệt là mùa mưa và mùa khô. Khí
hậu này khá thuận lợi cho sinh hoạt và phát triển kinh tế. Đồng thời kiểu khí hậu nhiệt
đới ẩm gió mùa cũng giúp thúc đẩy mạnh các hoạt động khai thác, xây dựng trong mùa
khô. Phát triển mạnh các ngành kinh tế liên quan tới lâm nghiệp, thủy hải sản, du lịch,
giao thông vận tải,...Từ đó đẩy mạnh quá trình đô thị hóa.

14
Tuy nhiên bên cạnh những ảnh hưởng tích cực thì điều kiện thời tiết, khí hậu
cũng ảnh hưởng tiêu cực đến quá tình đô thị hóa. Việt Nam có bờ biển dài trên 3.200
km với 405 đô thị ven biển. Các đô thị này đã và đang chịu tác động tiêu cực của
BĐKH lên cơ sở hạ tầng và chất lượng sống của người dân. Do BĐKH ngày càng trở
nên khốc liệt nên các đô thị sẽ chịu tác động nặng nề hơn do tính dễ bị tổn thương, sự
gia tăng cường độ, tần suất và mức độ của thiên tai, đặc biệt là nắng nóng, hạn hán và
mưa lớn.
Tùy theo vị trí địa lý mà các đô thị ở Việt Nam sẽ chịu những tác động khác
nhau. Các đô thị ven biển thường chịu tác động do bão, triều cường, mưa lớn cực đoan,
lụt và nước biển dâng. Các đô thị tại các khu vực núi cao thường chịu tác động của
mưa lớn sau bão gây sạt lở đất, lũ quét. Đối với các đô thị kết hợp khu công nghiệp,
khu kinh tế, các tác động của BĐKH và thiên tai sẽ làm gián đoạn việc lưu thông hàng
hoá, vận chuyển nguyên vật liệu... và ảnh hưởng chung đến nền kinh tế của cả nước.
Các đô thị, các khu công nghiệp, khu kinh tế thuộc vùng ĐBSCL sẽ chủ yếu chịu tác
động của nước biển dâng, thiếu nước, sạt lở bờ sông.
Ví dụ: Dưới tác động của biến đổi khí hậu, ở ĐBSCL, ước tính hàng trăm ngàn
hecta đất bị ngập, hàng triệu người có thể bị mất nhà cửa nếu nước biển dâng cao. Sản
lượng lương thực có nguy cơ giảm sút lớn, đe dọa tới an ninh lương thực của quốc gia.
Diện tích canh tác nông nghiệp sử dụng nguồn nước ngọt như lúa, màu, cây ăn trái và
nuôi trồng thủy sản sẽ bị thu hẹp, năng suất và sản lượng sẽ suy giảm. Cá nước ngọt dự
kiến sẽ suy giảm vì diện tích đất đồng bằng và dòng sông nhiễm mặn gia tăng.
Ngược lại, cá nước mặn, lợ sẽ phát triển. Diện tích nuôi tôm, sò và hải sản khác
có thể sẽ gia tăng trong tương lai.
Các vùng tài nguyên rừng, đất, nước, sinh vật hoang dã, khoáng sản (than bùn,
cát đá xây dựng...) sẽ bị xâm lấn. Nông dân, ngư dân, diêm dân và thị dân nghèo sẽ là
đối tượng chịu nhiều tổn thương nặng nề do thiếu nguồn dinh dưỡng, thiếu khả năng
tài chính, thiếu điều kiện tiếp cận thông tin để có thể đối phó kịp thời với sự thay đổi
của thời tiết và khí hậu. Dự kiến sẽ có sự dịch chuyển dòng di cư của nông dân ở các
vùng ven biển bị tác động nặng nề do biến đổi khí hậu và nước biển dâng lên các đô thị
vùng phía bắc và phía tây (như Châu Đốc, Long Xuyên, Cần Thơ, Vĩnh Long, Mỹ Tho,
Tân An...). Điều này khiến các quy hoạch đô thị bị phá vỡ.

3.2.1.3. Quy mô thành phố và hệ thống cơ sở hạ tầng


Theo số liệu từ Tổng cục Thống kê Việt Nam, đến cuối năm 2022, Việt Nam đã
có 898 đô thị các loại, trong đó không gian đô thị đã được mở rộng đáng kể; hạ tầng kỹ
thuật, hạ tầng kinh tế - xã hội được quan tâm đầu tư theo hướng ngày càng đồng bộ và
hiệu quả hơn. Hiện nay, mạng lưới đô thị đã được hình thành rõ nét với hai vùng đô thị
hóa quy mô lớn, mật độ cao là Hà Nội, TP.HCM. Các đô thị này đóng vai trò cực tăng
trưởng chủ đạo, thu hút dân cư từ các vùng khác đến học tập và tìm kiếm cơ hội việc
làm, đồng thời cũng lan tỏa những giá trị kinh tế và lợi ích đến khu vực xung quanh.

15
Các đô thị khác tập trung vào các trung tâm cấp tỉnh và gắn với các hành lang kinh tế,
trục giao thông lớn của quốc gia. Nhiều con đường mới được xây dựng, các đô thị loại
III trở lên có hầu hết các tuyến đường chính được trải nhựa và được xây dựng tương
đối đồng bộ với hệ thống thoát nước, hè đường, hệ thống chiếu sáng và cây xanh. Các
dự án về giao thông đô thị được triển khai tại các đô thị lớn (Hà Nội, Thành phố Hồ
Chí Minh, Đà Nẵng, Hải Phòng, Cần Thơ…), như cải tạo, nâng cấp và xây mới các
trục giao thông đối ngoại, cửa ô, trục giao thông hướng tâm, các nút giao cắt, đường
vành đai…, bước đầu góp phần nâng cao chất lượng đường xá.
Song song với đó, có nhiều dự án khu đô thị thông minh đang được triển khai và
xây dựng tại Việt Nam. Ví dụ như Khu đô thị Vinhomes Ocean Park tại Hà Nội, được
thiết kế với các công nghệ và tiện ích hiện đại. Những khu đô thị thông minh này
không chỉ mang lại cuộc sống tiện nghi cho cư dân mà còn thể hiện sự tiến bộ và phát
triển bền vững của đô thị Việt Nam.
Cùng với sự phát triển về quy mô, Việt Nam đã chứng kiến một sự tập trung dân
cư ngày càng gia tăng tại các thành phố lớn, đặc biệt là Hà Nội và TP.HCM. Dân số tại
TP.HCM đã vượt qua con số 9 triệu người vào năm 2022, trong khi Hà Nội có khoảng
8,4 triệu dân. Việc tập trung dân cư vào các thành phố lớn đã tạo ra những cơ hội việc
làm và phát triển kinh tế mạnh mẽ, nhưng cũng sức ép lớn lên hệ thống hạ tầng đô thị,
nhất là trong điều kiện kết cấu hạ tầng như nhà ở, trường học, bệnh viện, điện, nước,
đường phố, vệ sinh môi trường và các điều kiện khác không đáp ứng kịp nhu cầu của
người dân.
Trước bối cảnh đó, các chuyên gia nhận định hạ tầng đô thị vẫn chưa theo kịp
tốc độ đô thị hóa. Tình trạng ách tắc giao thông, úng ngập, ô nhiễm môi trường diễn ra
phổ biến... Hệ thống các công trình hạ tầng xã hội như y tế, giáo dục, văn hóa, công
viên cây xanh thiếu, tỷ lệ đạt thấp so với quy chuẩn. Hệ thống hạ tầng kỹ thuật chưa
đảm bảo kết nối giữa các đô thị và giữa các khu vực trong từng đô thị.
Một ví dụ tiêu biểu cho vấn đề này là thực trạng cơ sở hạ tầng kỹ thuật tại thành
phố Hà Nội. Trong những năm qua, mặc dù hệ thống hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội
của thành phố đã được quan tâm đầu tư với một số công trình quy mô lớn, hiện đại đã
được đưa vào sử dụng, tuy nhiên tỷ lệ công trình hạ tầng kỹ thuật chưa đủ theo chỉ tiêu
quy hoạch, ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống của người dân. Diện tích đất dành cho
giao thông mới chỉ đạt 10,07% đất xây dựng đô thị, thấp hơn rất nhiều so với chỉ tiêu
16-26%.
Trong khi đó, tốc độ đô thị hóa nhanh với sự gia tăng dân số kéo theo bùng nổ
các phương tiện giao thông cá nhân đã tạo áp lực rất lớn lên hệ thống giao thông. Tăng
trưởng phương tiện giao thông cá nhân bình quân 11%/năm, trong khi tăng trưởng về
chiều dài đường chỉ đạt 3,9%/năm, diện tích mặt đường 0,25%/năm, đặc biệt khu vực
trung tâm thành phố gần như không tăng.
Đối với vấn đề cấp, thoát nước, hiện Hà Nội mới đầu tư hoàn chỉnh hệ thống
thoát nước khu vực nội thành thuộc lưu vực sông Tô Lịch, sông Lừ, sông Sét và sông

16
Kim Ngưu, có thể giải quyết tạm thời tình trạng ngập úng với những trận mưa có lưu
lượng lớn. Trong khi đó, tại các khu vực khác nằm ở ngoại thành như Long Biên, Hà
Đông, Nam Từ Liêm,... chưa được đầu tư xây dựng hệ thống thoát nước mưa nên ngập
úng thường xảy ra.
Đối với rác thải, hiện thành phố phát sinh khoảng 7.000 tấn/ngày đêm; trong khi
năng lực quản lý, thu gom, xử lý mới đạt khoảng 90%. Công nghệ xử lý chủ yếu là
chôn lấp hợp vệ sinh, sản xuất phân hữu cơ. Phương pháp đốt chiếm tỷ lệ rất nhỏ.
Sự bất cập trong vấn đề cơ sở hạ tầng không chỉ diễn ra ở Hà Nội mà còn là mối
quan ngại chung của nhiều thành phố trên cả nước. Hệ thống cơ sở hạ tầng yếu kém sẽ
làm giảm chất lượng cuộc sống trong các đô thị, làm chậm quá trình đô thị hóa và gây
ra nhiều vấn đề xã hội và kinh tế.

3.2.2. Nhân tố xã hội


3.2.2.1. Môi trường văn hóa
Truyền thống lịch sử lâu đời đã tạo nên Việt Nam là quốc gia đa dân tộc - văn
hoá, với các sắc thái địa phương, vùng miền, tộc người phong phú và các yếu tố này
có ảnh hưởng không nhỏ đến quá trình đô thị hóa ở nước ta.
Việt Nam may mắn được thiên nhiên ưu đãi, ban tặng nhiều cảnh quan, di sản
có giá trị. Thiên nhiên Việt Nam đã có nhiều di sản văn hóa vật thể, phi vật thể và di
sản thiên nhiên, di sản tư liệu được Tổ chức Giáo dục, Khoa học và văn hóa của Liên
hợp quốc (UNESCO) vinh danh như: Vịnh Hạ Long đã 2 lần được UNESCO công
nhận là Di sản Thiên nhiên thế giới, Quần thể di tích Cố đô Huế - điểm đến không thể
bỏ qua của du khách trên hành trình khám phá di sản miền Trung…Cùng với đó, trên
khắp cả nước có hàng vạn di tích lịch sử, văn hóa và danh lam thắng cảnh là di sản cấp
quốc gia, hệ thống các lễ hội, làng nghề truyền thống; văn hóa ẩm thực của các vùng
miền, dân tộc; di sản văn hóa, văn nghệ dân gian…
Đây chính là nguồn tài nguyên vô cùng phong phú, đặc sắc cho các địa phương
trên cả nước khai thác phát triển du lịch đô thị. Hoạt động du lịch đô thị phát triển làm
gia tăng khả năng tiêu thụ tại chỗ cho hàng hóa và dịch vụ, thúc đẩy các ngành khác
phát triển; khôi phục nhiều lễ hội và nghề thủ công truyền thống; góp phần thúc đẩy
chuyển dịch cơ cấu kinh tế cả nước và từng địa phương, tăng thu nhập, xóa đói giảm
nghèo và tạo ra hàng triệu việc làm trực tiếp và gián tiếp cho nhiều tầng lớp dân cư;
mở rộng giao lưu giữa các vùng, miền trong nước và với nước ngoài và đưa hình ảnh,
đất nước, con người Việt Nam đến với bạn bè quốc tế.
Có thể thấy rằng, việc khai thác và bảo tồn những tiềm năng, tài nguyên và di
sản văn hóa truyền thống tại các địa phương không chỉ giúp tăng trưởng kinh tế, tạo cơ
hội cho hoạt động du lịch đô thị phát triển mà còn góp phần đáng kể vào sự diễn ra
nhanh chóng của quá trình đô thị hóa ở nước ta.
Lối sống ở đô thị Việt Nam hiện nay là sự pha trộn giữa lối sống nông nghiệp
và lối sống công nghiệp. Quá trình công nghiệp hóa mới chỉ bắt đầu, nền văn hóa

17
nông nghiệp theo mô hình làng xã cổ truyền vẫn chi phối mạnh mẽ đến đời sống
của đô thị.
Lối sống tiểu nông vẫn tác động theo quán tính văn hóa, gây cản trở cho sự xuất
hiện lối sống đô thị hiện đại. Sự “di cư” đô thị của dân cư nông thôn một cách ồ ạt,
không có sự chuyển tiếp quá độ, làm cho các nguyên tắc và trật tự an toàn đô thị bị đe
dọa và đảo lộn.
Về trình độ học vấn và tay nghề của lực lượng lao động đô thị nhìn chung còn
thấp so với yêu cầu phát triển đô thị, chưa đáp ứng được yêu cầu công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước. Nguồn lực lao động dồi dào về số lượng, nhưng yếu, thiếu về chất
lượng. Vấn đề giải quyết việc làm cho dân cư đô thị ngày càng khó khăn dẫn đến nạn
thất nghiệp ở đô thị.
Mức sống vật chất và tinh thần của dân cư đô thị khá dần lên và sự phân tầng xã
hội rõ rệt hơn tạo ra sự đa dạng hoá về lối sống của dân cư đô thị. Số người có mức
sống cao chiếm tỷ lệ thấp, đa số có mức sống trung bình và dưới trung bình.
Như vậy, tốc độ đô thị hóa ở Việt Nam bị chậm, trình độ đô thị thấp hơn so với
các nước đang phát triển khác một phần là do việc hình thành và phát triển lối sống đô
thị ở nước ta còn diễn ra phức tạp, đan xen giữa cái mới và cái cũ, giữa yếu tố tích cực
và yếu tố tiêu cực, như: Giữa lối sống của nền sản xuất nông nghiệp lạc hậu với lối
sống văn minh công nghiệp; giữa lối sống hiện đại và lối sống truyền thống dân tộc.
Trên thế giới cũng như tại Việt Nam, các đô thị có quá trình hình thành và
phát triển lâu dài, khu vực trung tâm nội đô là nơi ẩn chứa nhiều các giá trị đặc
trưng về văn hóa xã hội, lịch sử, kiến trúc cảnh quan đô thị. Khu vực này hiện đang
bùng nổ việc cải tạo và xây mới các công trình kiến trúc. Thêm vào đó là sự xuất
hiện của những đô thị mới với kiến trúc nhà cao tầng đáp ứng nhiều các chức năng
khác nhau.
Làn sóng xây dựng tại các đô thị Việt Nam trong những năm gần đây là kiến
trúc nhà cao tầng, với rất nhiều ưu thế trong sử dụng như tiết kiệm đất đai xây dựng,
giao thông bên trong công trình ngắn gọn, kết nối các chức năng sử dụng trong tòa nhà
nhanh chóng, hiệu quả, tăng cường hiệu quả tối đa về tầm nhìn cho công trình, dễ tạo
được nhận diện và điểm nhấn về kiến trúc - quy hoạch, hiệu quả kinh tế đầu tư
cao...Các công trình kiến trúc cao tầng xuất hiện khắp các đô thị và trở thành hình ảnh
đặc trưng cho quá trình phát triển đô thị ở các tỉnh, thành phố trong cả nước. Theo các
chuyên gia, nhà cao tầng có mối liên hệ tương hỗ và đóng góp mật thiết cho việc phát
triển các đô thị bền vững. Còn tại khu vực nông thôn, kiến trúc nhà ở có xu hướng
tương tự đô thị, đã thay đổi hoàn toàn hình thức so với nhà ở truyền thống, giống với
nhà lô phố trong các đô thị.
Kiến trúc đô thị đã đóng góp tích cực cho việc phát triển bền vững các đô thị,
nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân, làm thay đổi hình ảnh đô thị tương xứng
với tầm vóc đất nước và tạo ra những đặc điểm nhận diện mới cho đô thị Việt Nam

18
đồng thời đẩy nhanh quá trình đô thị hóa ở nước ta. Dù vậy bên cạnh những mặt tích
cực, kiến trúc tại đô thị và nông thôn hiện nay cũng còn bộc lộ một số bất cập, hạn chế:
- Thiếu tính trật tự, đa dạng, không thống nhất và chưa phản ánh được bản sắc
riêng.
- Quy mô các công trình không tương xứng, đồng bộ với khả năng đáp ứng về
hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội, nhất là khả năng về kết nối, liên hệ giao thông trong
đô thị.
- Kiến trúc tại các khu phố hiện hữu trong đô thị có hiện tượng chắp vá, lai tạp,
lấn chiếm không gian chung và không hình thành các điểm nhấn đô thị.
- Các hệ thống kiến trúc trang trí đô thị, tượng đài và quảng trường, vườn hoa
không đồng bộ với cấp độ đô thị. Chưa có sự quan tâm đầy đủ trong xây dựng hệ thống
công trình nghệ thuật công cộng - tiểu cảnh đô thị dành cho cộng đồng, nhân dân tạo
vẻ đẹp thu hút du lịch như tại đô thị các nước quốc tế.
Hình thành bộ mặt kiến trúc cảnh quan đô thị mới hiện đại, có bản sắc, góp
phần tạo nên hình ảnh đô thị tương xứng với tầm vóc đất nước của thời kỳ công nghiệp
hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Đẩy mạnh công tác thiết kế đô thị nhằm nâng
cao chất lượng không gian, chất lượng kiến trúc cảnh quan cho từng đô thị nói chung,
không gian các khu vực trung tâm, các tuyến phố chính đô thị nói riêng là vô cùng cần
thiết.

3.2.2.2. Dịch vụ đô thị


Thứ nhất, về dịch vụ giao thông đô thị
Cùng với sự cải thiện, nâng cấp cơ sở hạ tầng, hệ thống giao thông công cộng
tại các đô thị đã, đang hình thành, phát triển và đạt được những kết quả tích cực. Bộ
Giao thông Vận tải cho biết, tính đến nay, có 60/63 tỉnh, thành phố trên cả nước (trừ
Yên Bái, Lai Châu, Hà Giang) có vận tải hành khách công cộng bằng xe buýt hoạt
động với gần 10.000 phương tiện. Hệ thống vận này phát triển mạnh tại 2 đầu tàu kinh
tế là Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh với số lượng lần lượt là 121 tuyến và 139
tuyến. Hiện hai thành phố này cũng đang triển khai xây dựng hệ thống giao thông vận
tải khối lượng lớn như tàu điện ngầm, xe buýt nhanh (BRT). Bên cạnh đó, các dự án
đường sắt đô thị đang được triển khai và dần đi vào hoạt động.
Việc giao thông đô thị được tích hợp một cách gọn nhẹ theo hình thức công
cộng đã góp phần nâng cao tính tiện ích và tiết kiệm cho người dân, vì chỉ với chi phí
thấp từ 7,000 VNĐ đến 9,000 VNĐ, mọi người dân đã có thể đi lại dễ dàng trong đô
thị. Điều này sẽ giúp thu hút một lượng lớn hành khách tham gia sử dụng phương tiện
giao thông công cộng hơn đồng thời giảm một lượng xe máy, ô tô cá nhân nhất định và
cải thiện tình trạng tắc nghẽn đường, nhất là vào các khung giờ cao điểm.
Hơn thế nữa, tại Hà Nội hay Thành phố Hồ Chí Minh đã và đang trong quá trình
triển khai hệ thống giao thông đô thị thông minh (ITS) với các ứng dụng tiên tiến, như:
Hệ thống camera giám sát, trung tâm điều khiển giao thông, hệ thống ra-đi-ô để thu

19
thập thông tin; hệ thống bảng thông báo điện tử,… Ngoài ra, những công nghệ này còn
được ứng dụng trên hệ thống giao thông công cộng như: Biển báo thời gian thực hay
hệ thống thẻ vé điện tử trên một số tuyến xe buýt,...Hệ thống giao thông thông minh đã
có những tác động tích cực đến quá trình đô thị hóa:
- Thực hiện được thành công giao thông đô thị thông minh giúp giảm thiểu tai
nạn, ùn tắc giao thông và ô nhiễm môi trường.
- Hiện đại hóa các trạm thu phí điện tử không dừng, hệ thống kiểm soát tải trọng
tự động.
- Tiết kiệm thời gian, tiền bạc, nhiên liệu, tạo điều kiện thuận lợi nhất cho việc
đi lại và vận chuyển hàng hóa.
- Tạo hệ thống thông tin cho người đi bộ, phổ biến văn hóa giao thông đô thị;
- Hỗ trợ quá trình khai thác, vận hành hệ thống giao thông công cộng một cách
linh hoạt, chủ động.
Ngoài ra, tại Việt Nam hiện cũng đang chú trọng triển khai nhiều giải pháp
đồng bộ nhằm kiểm soát lượng khí thải từ các phương tiện giao thông cơ giới đường
bộ, thúc đẩy ứng dụng năng lượng mới,…để có thể đảm bảo sức khỏe cho mọi người
dân đang sinh sống và làm việc ở các đô thị.

Thứ hai, về các dịch vụ đô thị công cộng đa dạng và chất lượng khác như
dịch vụ văn hóa, giải trí, du lịch, thể thao, thương mại,...
Ở Việt Nam, hệ thống DVCC của những đô thị thời Pháp thuộc đã kế thừa các
mô hình dịch vụ sinh sống nhỏ kiểu “phố hàng” của đô thị truyền thống và xây dựng
được các Trung tâm công cộng mới theo kiểu đô thị phương Tây khá phù hợp với quy
mô dân số nước ta. Ví dụ như Hà Nội đã có các Trung tâm Văn hoá, Giáo dục ven bờ
sông Hồng, Quảng trường Nhà hát lớn, Trung tâm Thương mại hồ Hoàn Kiếm, Trung
tâm Chính trị – Hành pháp Ba Đình ở Hà Nội… Các trung tâm mới này vẫn song song
tồn tại với hệ thống dịch vụ đời sống kiểu “phố hàng” của dân cư bản địa tại khu 36
phố phường làm nên đặc trưng rất riêng của thành phố. Bên cạnh đó, các Trung tâm
công cộng kiểu này cũng được phát triển ở Quận 1, Quận 3 tại TP.HCM và tương tự ở
Hải Phòng, Huế, Đà Lạt, Sapa… với quy mô khác nhau. Hiện nay, những Trung tâm
đô thị thời Pháp thuộc vẫn đóng vai trò chủ chốt trong đời sống công cộng như hành
chính – hành pháp, thương mại, văn hoá, giáo dục… mà các khu đô thị mới hiện nay
chưa theo kịp. Chúng đã tạo thành những khu phố lịch sử – di sản rất có giá trị của
Việt Nam nhưng đồng thời cũng đang kêu cứu vì quá tải và có nguy cơ bị phá vỡ cấu
trúc vốn có, do nhiều nguyên nhân, trong đó có việc lạm dụng quá mức công suất
DVCC. Có thể thấy rằng, các dịch vụ đô thị công cộng trên đã tác động đến quá trình
đô thị hóa bằng cách cung cấp những dịch vụ tiện ích giúp tăng cường sự hài lòng của
cư dân đô thị. Chúng góp phần tạo ra một môi trường sống tốt hơn, thu hút người dân
đến đây sinh sống và làm việc, đồng thời thúc đẩy các cơ hội kinh doanh mới và tăng
thu nhập cho các doanh nghiệp địa phương.

20
Như vậy, những thay đổi lớn về hệ thống dịch vụ vận chuyển công cộng kết hợp
với sự phát triển của các trung tâm đô thị công cộng phục vụ văn hóa, giải trí, du lịch,
thể thao, thương mại, không chỉ nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân mà còn
giúp cho việc quản lý giám sát cùng duy trì các đô thị trở nên thuận tiện và hiệu quả.
Đây là tín hiệu tốt nhằm hướng đến sự hoàn thiện ngày một văn minh-hiện đại hơn của
mỗi đô thị, từ đó góp phần đẩy nhanh quá trình đô thị hóa ở nước ta.

3.2.2.3. Quy mô dân số


Con số thống kê mới cập nhật từ cơ quan chức năng cho thấy, Đồng bằng sông
Hồng và vùng Đông Nam bộ là hai vùng có mật độ dân số cao nhất Việt Nam, lần lượt
là 1.091 người/km2 và 778 người/km2. Trung du và miền núi phía Bắc và Tây Nguyên
là 2 vùng có mật độ dân số thấp nhất chỉ hơn 100 người/km2.
Trong số 63 tỉnh, TP HCM là địa phương có mật độ dân số cao nhất cả nước:
4.375 người/km2 (diện tích hơn 2.095 km2; dân số 9,17 triệu người). Mật độ dân số
của TPHCM cao gấp 14,73 lần cả nước (nếu tính trung bình 297 người/km2). Còn với
Hà Nội, tính đến hết năm 2022, là thành phố đông dân thứ hai của cả nước (sau
TPHCM) với dân số hơn 8 triệu 400 nghìn người. Mật độ dân số trung bình của Hà
Nội khoảng 2.398 người/km2, cao gấp 8,2 lần so mật độ dân số cả nước.
=> Tại Việt Nam, lực lượng lao động trong độ tuổi lao động là 46 triệu người, trong đó
khu vực thành thị là 19,1 triệu người, chiếm 41,5%. Có thể thấy, nhóm người trong độ
tuổi lao động tập trung chủ yếu ở các vùng đô thị phát triển. Cơ cấu dân số ở độ tuổi
lao động cao sẽ tạo ra lực lượng lao động dồi dào cho các thành phố. Điều này thu hút
các nhà đầu tư và doanh nghiệp đến thành phố, từ đó thúc đẩy tăng trưởng kinh tế -
một trong những động lực quan trọng của quá trình đô thị hóa. Khi kinh tế phát triển,
nhu cầu về lao động, dịch vụ và hàng hóa sẽ tăng lên, từ đó thúc đẩy quá trình di cư từ
nông thôn lên thành thị.
Bên cạnh đó, việc hình thành các khu đô thị mới, khu công nghiệp, khu chế xuất
đã thu hút lượng đông đảo người về các thành phố. Những năm qua, không chỉ Hà Nội,
TP HCM mà nhiều tỉnh, thành khác do tốc độ phát triển kinh tế nhanh cũng đã hút vào
mình lực lượng lao động lớn, cũng có nghĩa là dân số tăng lên một cách cơ học. Trong
đó, có thể kể đến Hải Dương, Bắc Ninh, Bắc Giang, Thái Nguyên, Đồng Nai, Bình
Dương...
Tuy nhiên, thực trạng phân bổ dân số trong phạm vi cả nước có sự chênh lệch
lớn giữa các địa phương, giữa miền núi với đồng bằng, nông thôn với thành thị; vùng
kinh tế phát triển với vùng kinh tế chậm phát triển. Đây là vấn đề cần giải trong quá
trình phát triển bền vững của đất nước trong bối cảnh đô thị hóa - công nghiệp hóa
ngày càng mạnh mẽ. Khó khăn trong phát triển kinh tế địa phương sẽ dẫn đến việc di
dân trở thành một quy luật. Tỷ lệ di dân lớn trong độ tuổi lao động dẫn đến tình trạng
mất cân đối cung - cầu lao động giữa các địa phương. Các thành phố lớn gặp thách

21
thức trong việc giải quyết việc làm, đáp ứng nhu cầu tiếp cận các dịch vụ xã hội cho
người dân, thì một số vùng như Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung, đồng bằng
sông Cửu Long... lại chịu thiệt thòi do không đảm bảo nhân lực cho sự phát triển. Điều
này càng làm cho việc phân bổ dân cư không đồng đều cũng như khoảng cách giàu -
nghèo bị kéo giãn lớn hơn.
Ngoài ra, trình độ chuyên môn của lực lượng lao động đã có những cải thiện
nhất định, song nhìn chung chất lượng còn thấp. Khả năng làm việc theo nhóm, tính
chuyên nghiệp trong công việc còn yếu, khuynh hướng nắm vững lý thuyết, nhưng
kém về năng lực thực hành còn phổ biến dẫn đến nhiều doanh nghiệp không tuyển
được đúng vị trí việc làm.

3.2.2.4. Hoạt động quản lý Nhà nước


Hoạt động quản lý nhà nước có tác động rất lớn đến quá trình đô thị hóa ở Việt
Nam. Chính phủ Việt Nam đã ban hành nhiều chính sách, quy hoạch và kế hoạch để hỗ
trợ thúc đẩy quá trình đô thị hóa, bao gồm cả việc đầu tư vào hạ tầng đô thị, cải thiện
chất lượng cuộc sống của người dân đô thị. Đồng thời Nhà nước cũng luôn chủ động
có những biện pháp để kiểm soát và ngăn chặn sự phát triển đô thị quá mức, từ đó hạn
chế những tác động tiêu cực của đô thị. Một số hoạt động quản lý Nhà nước cụ thể có
thể ảnh hưởng đến quá trình đô thị hóa như sau:
- Quy hoạch đô thị
Nhà nước đã và đang xây dựng, thực hiện các chiến lược, quy hoạch về phát
triển đô thị ở cấp quốc gia, vùng và địa phương. Trong thời gian qua, công tác quy
hoạch, quản lý phát triển đô thị ở Việt Nam đã được Chính phủ, các bộ, ngành Trung
ương, các cấp lãnh đạo của địa phương quan tâm chỉ đạo và tổ chức thực hiện theo quy
định của pháp luật, từng bước bảo đảm việc quy hoạch, phát triển đô thị theo định
hướng văn minh, hiện đại. Công tác quản lý đô thị được thực hiện bài bản hơn, quy
hoạch đô thị từng bước bảo đảm sự thống nhất, liên thông với quy hoạch các ngành,
giữa các cấp độ (từ quy hoạch chung, quy hoạch phân khu, đến quy hoạch chi tiết), trở
thành công cụ hữu hiệu để thực hiện quản lý phát triển đô thị ngắn và dài hạn.
Đến nay, hầu hết các đô thị là thành phố, thị xã, thị trấn đã có quy hoạch chung
đô thị được cấp có thẩm quyền phê duyệt. Quy hoạch phân khu tại 2 đô thị đặc biệt là
Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh và 19 đô thị loại I đạt khoảng 70% - 90%; tại các đô
thị loại II, III, IV đạt khoảng 40% - 50%. Tỷ lệ quy hoạch chi tiết được lập đạt khoảng
38%.
Công tác quy hoạch, điều chỉnh quy hoạch cơ bản phù hợp với những chủ
trương, yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội mới của đất nước với mục tiêu phục vụ lợi
ích của quốc gia, cộng đồng, quốc phòng và an ninh. Cùng với đó, tăng cường thu hút
đầu tư và hiệu quả sử dụng đất đai tại đô thị, góp phần tạo lập không gian đô thị hiện
đại và phù hợp với xu hướng phát triển của xã hội trong thời kỳ mới.

22
Phương pháp tiếp cận quy hoạch và công tác nghiên cứu thể chế, pháp luật hoàn
thiện, công tác quản lý phát triển đô thị cũng liên tục được cập nhật, đổi mới để tiến
đến phù hợp hơn với thực tế và nhu cầu phát triển đô thị.
- Kế hoạch phát triển đô thị:
Nhằm định hướng hoàn chỉnh và phát triển hệ thống đô thị, Nghị quyết Đại hội
Đảng lần thứ XIII đã đề ra mục tiêu tỷ lệ đô thị hóa đến năm 2025 đạt 45%, đến năm
2030 đạt khoảng 50%; tầm nhìn đến năm 2045, tỷ lệ đô thị hóa thuộc nhóm trung bình
cao của khu vực ASEAN và châu Á.
Để thúc đẩy quá trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa và đô thị hóa, Quốc hội
cũng đã ban hành nhiều bộ luật liên quan đến quá trình, trong đó có Quyết định số
950/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ: Phê duyệt Đề án phát triển đô thị thông minh
bền vững Việt Nam giai đoạn 2018 - 2025 và định hướng đến năm 2030 hay Quyết
định 84/QĐ-TTg về kế hoạch phát triển đô thị tăng trưởng xanh Việt Nam đến năm
2030.
Nhờ vậy, mô hình mạng lưới đô thị ở nước ta đang từng bước hình thành rõ nét,
trở thành hạt nhân, động lực thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của các vùng và cả
nước. Các đô thị lớn, nhất là Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh, là cực tăng trưởng chủ đạo, lan
tỏa tri thức, đổi mới sáng tạo, đẩy mạnh cạnh tranh, hội nhập quốc tế, đa dạng hóa các
hoạt động kinh tế, tác động lớn đến sự phát triển của quá trình đô thị hóa. Từ đó, số
lượng đô thị ở Việt Nam ngày càng tăng, trong đó có một số khu vực có tốc độ đô thị
hóa cao như Hải Phòng, Quảng Ninh, Đà Nẵng, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Khánh Hòa,
Ninh Thuận, An Giang, Kiên Giang…

Biểu đồ thể hiện số lượng đô thị ở nước ta giai đoạn 2019-2023


Nguồn:Cục Phát triển đô thị

23
- Chính sách phát triển đô thị
Nhà nước đã ban hành các chính sách thu hút đầu tư, tạo việc làm, nâng cao
trình độ lao động của người dân. Hiện nay, nhiều nhà đầu tư nước ngoài vẫn lựa chọn
Việt Nam với lợi thế lao động giá rẻ, cùng một số yếu tố khác liên quan đến ổn định
chính trị, chính sách thuế ưu đãi... Tuy nhiên, các đô thị Việt Nam không còn ở giai
đoạn cơ cấu "dân số vàng" và bước vào giai đoạn "già hóa" do tỷ trọng dân số trong độ
tuổi lao động ngày một giảm.
Chính vì vậy, nước ta đã đưa ra một số cơ chế, chính sách khuyến khích doanh
nghiệp đầu tư để tăng kỹ năng và năng suất lao động của người dân đô thị; đồng thời
có các chính sách ưu đãi trong tổng thể chiến lược để gắn kết doanh nghiệp với giáo
dục nghề nghiệp, sự hợp tác đa phương giữa doanh nghiệp và trường nghề, trung tâm
giới thiệu việc làm... trong hoạt động đào tạo và đào tạo lại kỹ năng cho người lao
động. Từ đó nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, khả năng nhận thức và chất lượng
cuộc sống của người dân đô thị.
Quá trình đô thị hóa ở Việt Nam diễn ra tương đối nhanh và làn sóng đô thị hóa
này nếu không được kiểm soát tốt sẽ kèm theo những hệ lụy không mong muốn đến
môi trường như tài nguyên khoáng sản bị khai thác quá mức, cạn kiệt nguồn nước sạch
và diện tích cây xanh bị thu hẹp. Để quản lý, ngăn chặn sự phát triển đô thị quá mức
này, Việt Nam đã và đang tham gia vào nhiều hợp tác quốc tế, đồng thời áp dụng các
tiêu chuẩn quốc tế về quy hoạch, xây dựng, quản lý và phát triển bền vững đô thị, như
ISO 37120:2018 về chỉ số đô thị bền vững, hay tham gia vào Hiệp định Paris về biến
đổi khí hậu (2015). Như vậy, dưới tác động của quản lý Nhà nước thông qua các chính
sách cùng kế hoạch đổi mới, quá trình đô thị hóa ở nước ta đang diễn ra với tốc độ
nhanh và có tính bền vững hơn trước.
Tuy nhiên, trong khuôn khổ Diễn đàn phát triển bền vững đô thị Việt Nam, Hội
thảo chuyên đề 3 được tổ chức với chủ đề “Hoàn thiện thể chế, chính sách thúc đẩy đô
thị hóa và phát triển đô thị bền vững đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045”, các
chuyên gia và đại biểu phân tích đã chỉ ra rằng vẫn còn những tồn tại, hạn chế trong
hoạt động quản lý Nhà nước, đặc biệt là công tác xây dựng thể chế, chính sách cho đô
thị hóa và phát triển đô thị.
Pháp luật về phát triển đô thị và các cơ chế, chính sách liên quan mặc dù đã có
nhiều cải thiện tích cực nhưng nhìn chung vẫn còn nhiều hạn chế, thiếu đồng bộ, chồng
chéo; chưa theo kịp sự phát triển của thực tiễn... Một số quy chuẩn, tiêu chuẩn, định
mức đã lạc hậu hoặc chưa theo kịp xu hướng, nhu cầu phát triển mới. Công tác quy
hoạch, quản lý, sử dụng đất đai tại đô thị chưa thật sự rõ ràng, còn nhiều bất cập.
Ngoài ra, chất lượng các quy hoạch đô thị ở nước ta còn thấp, thiếu tầm nhìn dài
hạn, chưa hoàn toàn đáp ứng được yêu cầu phát triển đô thị trong giai đoạn mới; quy
hoạch phải điều chỉnh nhiều lần, gây ảnh hưởng đến môi trường, xã hội và các lợi ích
của cộng đồng dân cư. Trong nhiều trường hợp, các doanh nghiệp, người dân chưa

24
được tạo thuận lợi để tham gia đầu tư xây dựng và quản lý phát triển đô thị, đảm bảo
lợi ích chính đáng của các bên liên quan một cách công bằng.

3.2.3. Nhân tố kinh tế


3.2.3.1. Trình độ kinh tế
Sau 36 năm đổi mới, nhất là trong 10 năm qua, Việt Nam đã đạt được những
bước tiến đáng kể về kinh tế, với tốc độ tăng trưởng GDP bình quân hàng năm đạt mức
trên 6%. Tỷ lệ dân số sống ở thành thị tăng nhanh, thúc đẩy quá trình đô thị hóa. Kinh
tế khu vực đô thị liên tục tăng trưởng ở mức cao, trung bình 12-15%, gấp 1,5-2 lần so
với bình quân chung, hằng năm đóng góp khoảng 70% Tổng sản phẩm trong nước
(GDP). Đô thị cũng đã khẳng định vai trò là động lực phát triển kinh tế, là hạt nhân
thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng giảm tỷ trọng khu vực nông nghiệp và
nâng cao tỷ trọng khu vực công nghiệp, dịch vụ. Từ đó là thay đổi cơ cấu lao động ở
mỗi địa phương, mỗi vùng trên cả nước.

Nếu như ở thời điểm năm 1990 nước ta có 500 đô thị (tỉ lệ đô thị hóa vào
khoảng 17%-18%), thì đến nay, cả nước có 898 đô thị các loại, phân bố khá đồng đều
trên phạm vi cả nước. Tỷ lệ đô thị hóa đã tăng từ 30,5% năm 2010 lên 41,7% năm
2022. Theo kết quả Tổng điều tra dân số và nhà ở, dân số thành thị là gần 37,1 triệu
người, chiếm 37,3% tổng dân số cả nước. Tỷ lệ tăng dân số bình quân năm khu vực
thành thị giai đoạn 2010 – 2022 là 3,16%/năm, gấp hơn 2 lần tỷ lệ tăng dân số bình
quân năm của cả nước và gấp 6 lần so với tỷ lệ tăng dân số bình quân năm khu vực
nông thôn cùng giai đoạn.
Không gian đô thị được mở rộng. Hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng kinh tế - xã hội
được quan tâm đầu tư theo hướng ngày càng đồng bộ, văn minh, hiện đại. Chất lượng

25
sống của cư dân đô thị từng bước được nâng cao. Tuy nhiên, so với các nước trong khu
vực và thế giới, tỉ lệ đô thị hóa ở Việt Nam vẫn còn khá thấp.
Để thấy rõ hơn tác động của trình độ kinh tế đến quá trình đô thị hóa, nhóm
nghiên cứu sẽ tiến hành phân tích ví dụ cụ thể về thành phố Hà Nội.
So với Vùng Kinh tế trọng điểm Bắc Bộ và cả nước, mặc dù Hà Nội chỉ bằng
21,2% và 1% tương ứng về diện tích nhưng thành phố đóng góp tới 47,46% và 12,59%
về GRDP; 52,48% và 17,07% về thu ngân sách nhà nước; 14,19% và 4,61% kim ngạch
xuất khẩu của Vùng Kinh tế trọng điểm Bắc Bộ và cả nước. Từ năm 2008 đến nay,
kinh tế Hà Nội luôn duy trì tăng trưởng cao hơn và đóng góp tích cực vào tăng trưởng
của cả nước.
Tăng trưởng GRDP giai đoạn 2008-2010 đạt 9,68%/năm. Giai đoạn 2011-2022,
GRDP bình quân đạt 6,67%/năm, tăng gấp 1,12 lần so với mức tăng chung cả nước.
Quy mô GRDP năm 2022 (theo giá cố định năm 2010) đã đạt 772,2 nghìn tỷ đồng, gấp
2,17 lần so với năm 2010. Thu nhập tính theo GRDP tăng lên, bình quân đầu người
năm 2022 đạt 141,8 triệu đồng (giá hiện hành) - khoảng 5.950 USD, gấp 1,45 lần cả
nước và gấp 3,5 đến 3,8 lần so với năm 2008.

Nguồn: VnEconomy

Kinh tế Hà Nội không chỉ tăng về lượng mà còn tăng cả về chất. Cơ cấu các
ngành kinh tế, cơ cấu lao động đã có sự chuyển dịch tích cực. Cụ thể, tỷ trọng lĩnh vực
dịch vụ, công nghiệp - xây dựng tăng trong khi lĩnh vực nông nghiệp có xu hướng
giảm. Nếu như năm 2011, dịch vụ chiếm 63%; công nghiệp - xây dựng chiếm 20%;
nông nghiệp chiếm 3,6%; thuế sản phẩm chiếm 13,4% thì đến năm 2022, ngành dịch

26
vụ vẫn chiếm ưu thế với 63,22%; công nghiệp - xây dựng tăng lên 24,04%; nông
nghiệp và thuế sản phẩm giảm còn 2,08% và 10,66%.
Tương ứng với cơ cấu này, cơ cấu lao động cũng thay đổi, so với năm 2015, lao
động trong ngành dịch vụ và công nghiệp - xây dựng hiện nay đã tăng khoảng 6,5%; tỷ
lệ lao động trong ngành nông nghiệp giảm từ 19,7% xuống chỉ còn 6,9%.
Không chỉ vậy, trong giai đoạn 2018 - 2022, Hà Nội luôn trong nhóm dẫn đầu
cả nước về thu hút FDI. Lĩnh vực thu hút vốn lớn nhất của Hà Nội là bất động sản
(chiếm 63%), tiếp theo là dịch vụ buôn bán hàng hóa (9%). Trong đó, một số dự án
đầu tư lớn đã được cấp phép, như: Dự án Khu đô thị thành phố thông minh, với tổng
vốn đăng ký 4,1 tỷ USD; 2 dự án của Tập đoàn Nidec tại Khu công nghệ cao Hòa Lạc
có vốn 400 triệu USD; dự án Trung tâm Nghiên cứu R&D trị giá 210 triệu USD của
Samsung…
Các dự án đầu tư nước ngoài có tác động mạnh mẽ đến cơ sở hạ tầng, nhu cầu
việc làm và mật độ dân số ở các khu vực xung quanh. Với thế mạnh có thể áp dụng
công nghệ tiên tiến vào sản xuất đã khiến năng suất lao động không ngừng được nâng
cao. Năm 2022, năng suất của người lao động Thủ đô đã đạt mức 291,3 triệu
đồng/người, gấp đến 2,34 lần so với năm 2011. Từ đó, đời sống người lao động được
cải thiện đáng kể. Thu nhập bình quân đầu người toàn thành phố đạt 141,8 triệu đồng,
tương đương với 5.991 USD (tỷ giá hiện tại), gấp hơn 3,5 lần năm 2008 (1.697 USD).
Với những nỗ lực trên, Hà Nội là địa phương đứng thứ 2 cả nước về tốc độ đô
thị hóa và tiếp tục đặt mục tiêu phấn đấu tỷ lệ đô thị hóa dự kiến đến năm 2025 đạt
khoảng 60-62%, đến năm 2030 dự kiến đạt khoảng 65-75%.

3.2.3.2. Cơ cấu công nghiệp


Chuyển dịch cơ cấu công nghiệp là sự thay đổi về cơ cấu thành phần, tỷ trọng,
quy mô, trình độ phát triển của các ngành công nghiệp trong nền kinh tế. Chuyển dịch
cơ cấu công nghiệp có tác động tích cực đến quá trình đô thị hóa, thể hiện qua các khía
cạnh khác nhau.
Một là, công nghiệp hoá, chuyên môn hóa dẫn đến đô thị hoá bằng cách tạo ra
tăng trưởng kinh tế và cơ hội việc làm, thu hút mọi người đến các thành phố.
Công nghiệp hóa có vai trò quan trọng trong quá trình đô thị hóa ở Việt Nam.
Trong những năm gần đây, Việt Nam đã có những nỗ lực lớn trong việc phát triển
công nghiệp. Cụ thể, tỷ trọng công nghiệp trong GDP đã tăng từ 28,2% năm 2010 lên
36,3% năm 2022.
Sự phát triển của công nghiệp đã tạo ra nhiều cơ hội việc làm, thu hút lao
động từ nông thôn ra thành phố. Theo số liệu của Bộ Lao động - Thương binh và Xã
hội, tính chung cả năm 2022, lao động trong khu vực công nghiệp và xây dựng là 17,0
triệu người, chiếm 33,6% lao động chung cả cả nước.
Cùng với sự phát triển của công nghiệp, các ngành dịch vụ cũng phát triển mạnh
mẽ, tạo thêm nhiều việc làm và thu hút dân cư đến thành phố. Khu vực dịch vụ được

27
ghi nhận có sự tăng lên mạnh và đạt 19,7 triệu người (chiếm 38,9%), tăng 1,1 triệu
người so với năm trước.
Không chỉ vậy, không gian lãnh thổ phát triển của các ngành cũng được định
hướng nhằm hình thành hệ thống cụm liên kết các ngành công nghiệp chuyên môn hóa
và các tổ hợp công nghiệp quy mô lớn, hiệu quả cao theo lợi thế của các địa phương tại
một số vùng, địa bàn trọng điểm. Điều này đã góp phần tăng cường liên kết các địa
phương trong vùng và liên vùng, các vùng động lực, cực tăng trưởng và các hành lang
kinh tế để tạo lập không gian phát triển mới đối với các ngành công nghiệp, mở rộng
kết nối thị trường và tham gia có hiệu quả vào các chuỗi giá trị trong nước, khu vực và
toàn cầu.
Hiện nay, không gian phát triển các lĩnh vực công nghiệp - thương mại được cơ
cấu nhằm tập trung khai thác hiệu quả lợi thế từng vùng, địa bàn trọng điểm.
Ví dụ, vùng Đồng bằng sông Hồng có vị thế là trung tâm sản xuất công nghiệp,
xuất khẩu và là thị trường tiêu dùng lớn của cả nước. Do đó, khu vực này được tập
trung phát triển một số ngành công nghiệp chế biến, chế tạo có lợi thế xuất khẩu để
tham gia sâu vào chuỗi giá trị toàn cầu. Trong đó, các ngành, sản phẩm công nghiệp có
hàm lượng công nghệ cao, giá trị gia tăng lớn như ô tô, điện tử, năng lượng tái tạo,
chip, bán dẫn đang thu hút được sự quan tâm của nhà đầu tư và người lao động. Song
song với đó là hoạt động thương mại điện tử, trung tâm mua sắm có quy mô lớn, đa
chức năng mang tầm khu vực và quốc tế đáp ứng nhu cầu của người dân và khách du
lịch.
Trong khi đó, vùng Bắc Trung Bộ và duyên hải miền Trung lại hình thành một
số trung tâm công nghiệp lớn với các khu kinh tế ven biển hiện đại gắn với các tổ hợp
công nghiệp lọc dầu, hóa dầu, hóa chất, luyện kim. Những năm gần đây, khu vực này
bắt đầu chú trọng đến vấn đề năng lượng tái tạo, đặc biệt là điện gió và điện gió ngoài
khơi. Không chỉ vậy, với lợi thế phát triển du lịch, hệ thống trung tâm mua sắm và tiêu
dùng có quy mô lớn gắn liền với tuyến hành lang kinh tế Đông - Tây được triển khai
thu hút lượng lớn dân cư và khách du lịch hàng năm.
Việc hình thành các cụm khu công nghiệp theo khu vực đã góp phần thúc đẩy
đáng kể quá trình đô thị hóa tại đây. Ở giai đoạn đầu, khi các khu công nghiệp xuất
hiện sẽ thu hút lượng đáng kể người lao động, đặc biệt là lao động trình độ cao đến địa
phương. Điều này sẽ kéo theo nhu cầu về nhiều loại hình dịch vụ, cơ sở hạ tầng đi kèm,
dẫn đến sự phát triển và mở rộng các khu đô thị xung quanh các trung tâm công nghiệp
này. Nền kinh tế không ngừng vận động giúp đời sống người dân trong khu vực cũng
như người lao động được cải thiện đáng kể, từ đó dần thúc đẩy quá trình đô thị hóa
diễn ra nhanh chóng.
Dưới đây là một số ví dụ cụ thể về tác động của công nghiệp hóa đến quá trình
đô thị hóa ở Việt Nam:

28
- Sự phát triển của ngành công nghiệp chế biến, chế tạo ở các khu công nghiệp,
khu chế xuất đã tạo ra nhiều việc làm, thu hút lao động từ nông thôn ra các thành phố
lớn như Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Đà Nẵng,...
- Sự phát triển của ngành du lịch đã tạo ra nhiều cơ hội việc làm trong lĩnh vực
dịch vụ, du lịch, thu hút lao động từ các vùng nông thôn đến các thành phố du lịch như
Đà Nẵng, Nha Trang, Phú Quốc,...
- Sự phát triển của ngành dịch vụ logistics đã tạo ra nhiều việc làm trong lĩnh
vực vận tải, kho bãi,... thu hút lao động từ các vùng nông thôn đến các thành phố lớn
có hệ thống cảng biển, sân bay phát triển như Hải Phòng, Đà Nẵng, Thành phố Hồ Chí
Minh,...
Bên cạnh những tác động tích cực, Công nghiệp hóa thường gây ra ô nhiễm môi
trường, bao gồm ô nhiễm không khí và nước, và tạo ra các tác động tiêu cực đối với
“sức khỏe” của đô thị. Điều này có thể ảnh hưởng đến “sức đề kháng” của đô thị đối
với các thảm họa tự nhiên và thay đổi khí hậu.

Hai là, hình thành các khu “Công nghiệp - Đô thị - Dịch vụ” nhằm tận dụng các
lợi thế của đô thị để phát triển công nghiệp và ngược lại.
Mô hình đô thị công nghiệp, mà thường gọi là mô hình "Khu Công nghiệp - Đô
thị - Dịch vụ" , đã có một tác động quan trọng và phức tạp đối với quá trình đô thị hóa.
Nó là một trong những yếu tố quan trọng đã thúc đẩy sự phát triển và biến đổi của các
đô thị tại nhiều quốc gia, bao gồm Việt Nam.
Mô hình này thường liên kết một khu công nghiệp với các đô thị lân cận và dịch
vụ hỗ trợ. Điều này tạo ra một môi trường kinh tế đô thị đa dạng, với sự phát triển của
các ngành công nghiệp, dịch vụ, và thương mại. Việc này tạo ra cơ hội việc làm và thu
ngân sách đô thị, làm cho đô thị trở nên hấp dẫn hơn đối với người dân từ nông thôn và
làm tăng dân số đô thị.
Mô hình "Khu Công nghiệp - Đô thị - Dịch vụ" tạo ra một liên kết chặt chẽ giữa
các đô thị và ngành công nghiệp. Các khu công nghiệp cung cấp cơ hội cho doanh
nghiệp sản xuất và chế biến sản phẩm, trong khi các đô thị cung cấp dịch vụ hỗ trợ và
thị trường tiêu thụ. Sự hợp tác này tạo ra một chuỗi cung ứng hiệu quả và giúp cả đô
thị và ngành công nghiệp phát triển.
Tại Việt Nam, mô hình này đã và đang được nhiều chủ đầu tư xây dựng tại một
số địa phương, trở thành hạt nhân thu hút đầu tư, gắn với bảo vệ môi trường với các
tiêu chí xanh, bền vững, đảm bảo các hạ tầng, tiện ích phục vụ nhu cầu của công nhân
và chuyên gia tại các KCN.

Hình 3. Các dự án đô thị công nghiệp đã đi vào hoạt động tính đến năm 2023

29
Nguồn: Vietnhangroup.vn

Đơn cử như chuỗi các KCN, đô thị và dịch vụ của VSIP tại Bắc Ninh, Hải
Phòng, Hải Dương, Nghệ An, Quảng Ngãi, Bình Dương, có tổng quỹ đất hơn 8.600ha
bao gồm đất công nghiệp, đô thị và dịch vụ. VSIP đang cung ứng hạ tầng sản xuất cho
840 khách hàng đến từ 30 quốc gia và vùng lãnh thổ, với tổng vốn đầu tư 14 tỷ USD,
kiến tạo môi trường sống, làm việc cho hơn 250.000 lao động trong nước và nước
ngoài.
Tại Long An, KCN và đô thị Việt Phát được xây dựng với tổng diện tích hơn
1.844ha, trong đó diện tích đất quy hoạch cho khu công nghiệp hơn 1.215ha, đất dành
cho khu đô thị gần 630ha.
Tại Bình Định, KCN - Đô thị và Dịch vụ Becamex có tổng diện tích 2.308ha,
được quy hoạch đồng bộ, góp phần hình thành Vùng liên kết chặt chẽ với Khu kinh tế
Nhơn Hội và các khu, cụm công nghiệp lân cận.
Bên cạnh đó, KCN - Đô thị - Dịch vụ Hải Long nằm tại vị trí trung tâm Khu
Kinh tế Thái Bình, Khu Liên Hợp Công nghiệp - Đô thị - Dịch vụ Bình Dương tại TP.
Thủ Dầu Một... cũng là những dự án đang được triển khai theo hướng đồng bộ hạ tầng,
tiện ích, nhằm tạo ra môi trường sống đẳng cấp cho các cư dân trong khu công nghiệp,
hướng tới mục tiêu thu hút đầu tư chất lượng.
Ngoài các dự án của các chủ đầu tư chuyên phát triển KCN, hiện nay, nhiều
doanh nghiệp địa ốc như Vingroup, Him Lam... cũng đang có kế hoạch đầu tư các khu

30
đô thị công nghiệp hoặc liên kết, hợp tác, trở thành đơn vị tư vấn cho việc phát triển
khu đô thị, dịch vụ tại các Khu công nghiệp.

3.2.3.3. Sự đổi mới, phát triển về công nghệ


Một là, thúc đẩy phát triển và đổi mới công nghệ cao vào phát triển đô thị thông
minh cũng chính là đô thị bền vững từ đó giúp đẩy mạnh quá trình đô thị hóa.
Công nghệ số cũng đóng vai trò quan trọng trong việc cung cấp động lực khoa
học hoàn toàn mới và mang tính cách mạng, đột phá để thúc đẩy việc phát triển đô thị
theo một hướng mới. Kết quả của sự phát triển này là “mô hình thiết kế đô thị kỹ thuật
số dựa trên sự thúc đẩy tương tác giữa con người và máy tính”. Tương lai của thiết kế
đô thị sẽ hướng đến cách tiếp cận mới trong việc nghiên cứu kỹ thuật đô thị phức tạp
hơn, có khả năng đáp ứng và tương thích với nhiều mục tiêu phát triển lâu dài trong
tương lai.

Hình 1. Định hướng và nhận định đầu tư của các chuyên gia trên thế giới
về phát triển đô thị.

Nguồn: Digital Strategy

Từ những năm 70 của thế kỷ XX đến nay, nhiều quốc gia trên thế giới đã phát
triển thành công một số mô hình đô thị phát triển bền vững như: đô thị xanh, đô thị
sinh thái, đô thị thông minh… Đây là điều kiện thuận lợi để chúng ta tham chiếu, học
hỏi kinh nghiệm và vận dụng một cách sáng tạo, có chọn lọc, phù hợp với điều kiện
địa chính trị, văn hóa của nước ta trong quá trình đô thị hóa.
Công nghệ số gắn kết chặt chẽ với chuyển đổi số sẽ góp phần thúc đẩy mạnh mẽ
quá trình xây dựng, phát triển thành phố thông minh, giải quyết nhiều bài toán về thu

31
thập, quản lý dữ liệu, giải pháp cho phòng chống thiên tai, đại dịch, quy hoạch, vận
hành, quản lý cho các địa phương, đặc biệt trong giai đoạn phục hồi và phát triển.
Thành phố thông minh đang trở thành mô hình phát triển mới của các đô thị
trong kỷ nguyên thông minh hóa, giúp các đô thị tối ưu hoá các nguồn lực phát triển
bền vững, tiết kiệm đất đô thị, đem lại an toàn, tiện ích hơn cho người dân và phát triển
kinh tế xã hội phồn vinh, thịnh vượng. Như gần đây, mô hình “Thành phố 15 phút” của
Carlos Moreno-Giáo sư Đại học Pantheon Sorbonne (Paris-Pháp) được Quỹ Henrik
Frode Obel trao Giải thưởng Nobel-2021, một giải thưởng quốc tế danh giá nhằm tôn
vinh những đóng góp xuất sắc về quy hoạch đô thị cho sự phát triển của con người trên
toàn thế giới.
Với ý tưởng này, mọi nhu cầu thiết yếu của người dân như làm việc, học tập,
mua sắm, giải trí, khám chữa bệnh… được giải quyết chỉ trong bán kính tương đương
15 phút đi bộ hoặc đi xe đạp. “Thành phố 15 phút” là một chiến lược phát triển đô thị
đầy tham vọng, nhưng cũng là một cách tiếp cận thực dụng mới mẻ, có thể được điều
chỉnh cho phù hợp với văn hóa, điều kiện và nhu cầu của từng địa phương, dễ dàng
chuyển thành các chương trình và chính sách chính trị giúp chuyển đổi cấu trúc các
thành phố.
Với chúng ta, mô hình này rất phù hợp để cải tạo các khu dân cư hiện hữu ở Hà
Nội, TP.Hồ Chí Minh, có không gian ngõ hẻm chật chội, hạ tầng thiếu thốn, giao thông
ngoằn ngoèo, chật hẹp chỉ rộng từ 1,5 đến 2 m, lại tập trung đông dân cư với mật độ cư
trú rất cao, phần lớn là những người nghèo, tầng lớp yếu thế trong xã hội, khả năng
chống chịu trước dịch bệnh, thiên tai kém…
Với cấu trúc như trên, nên không có gì ngạc nhiên là số người bị bệnh và chết
do vi rút Covid-19, hay do cháy, nổ gây ra cao hơn rất nhiều nếu so với người sống ở
các đường phố trung tâm. Hiện nay, Bộ Xây dựng đang giúp Hà Nội điều chỉnh quy
hoạch chung đã được duyệt 2011, đây là cơ hội để xem xét những bất cập tồn tại trong
quá trình phát triển vừa qua, đề xuất quy hoạch phát triển Hà Nội bền vững trong thời
kỳ mới,thích ứng với biến đổi khí hậu. Cấu trúc thành phố với đô thị trung tâm, đô thị
vệ tinh, chuỗi đô thị sông Hồng, đô thị thông minh…và ngay cả mô hình“Thành phố
15-20 phút” mà thế giới đang đề cập tới cũng cần được nghiên cứu áp dụng để cải tạo
quy hoạch các khu vực ngõ ngách hẻm đông dân cư trong trung tâm thành phố.
Tuy nhiên ở Việt Nam hiện nay, vẫn có nhiều cách hiểu khác nhau (hoặc chưa
đầy đủ) về đô thị xanh, đô thị bền vững, đô thị thông minh… cho dù các khái niệm này
rất hay được nhắc đến, thậm chí còn được nhiều doanh nghiệp kinh doanh bất động
triệt để lợi dụng để tăng giá trị lợi nhuận cho sản phẩm của mình.

Nhưng tiêu chí thế nào là đô thị xanh, là đô thị thông minh, là đô thị phát triển
bền vững thì vẫn chưa được pháp điển hóa trong các quy phạm, tiêu chuẩn xây dựng
của Nhà nước. Ngay như khái niệm về “khu đô thị mới” ở nước ta cũng rất không rõ
ràng. Hơn 780 khu đô thị mới với hàng ngàn chung cư cao tầng hiện đại được xây

32
dựng ở nước ta kể từ thập niên 90 của thế kỷ trước đến nay, thực tế cũng chỉ là các
“khu nhà ở mới”, “là nơi để ngủ”, chứ không phải là đô thị.

Hai là, chuyển đổi năng lượng sang các nguồn năng lượng sạch và tái tạo sẽ
giúp giảm thiểu ô nhiễm môi trường, cải thiện chất lượng không khí và môi trường
sống đô thị giúp đẩy nhanh tốc độ đô thị hóa
Theo ước tính của Trung tâm Năng lượng ASEAN (ACE), nhu cầu năng lượng
trong khu vực dự kiến sẽ tăng gấp 2,3 lần so với các dự báo dài hạn đến năm 2040. Cơ
cấu năng lượng trong khu vực tiếp tục phụ thuộc nhiều vào nhiên liệu hóa thạch khi
than đá trở thành nguồn nhiên liệu chính đáp ứng nhu cầu của ngành điện vào năm
2020, và dầu tiếp tục là nguồn nhiên liệu chính cho ngành giao thông vận tải, chiếm
khoảng 45% tổng tiêu thụ năng lượng.
Là một trong những nền kinh tế đang trên đà tăng trưởng mạnh mẽ của khu vực
Đông Nam Á, Việt Nam rất chú trọng đến việc chuyển đổi cơ cấu ngành năng lượng từ
nhiên liệu hóa thạch sang nguồn năng lượng sạch, năng lượng tái tạo, hướng đến nền
kinh tế tuần hoàn bền vững và bảo vệ môi trường tự nhiên.

Hình 2. Đô thị chịu trách nhiệm cho hơn 70% khí CO2 phát thải
do con người tạo ra.

Nguồn: Global Carbon Atlas

Đô thị chỉ chiếm 3% diện tích trên toàn thế giới, nhưng tiêu tốn 60 - 80% năng
lượng và chịu trách nhiệm cho 75% lượng khí carbon phát thải toàn cầu. Quá trình đô

33
thị hóa diễn ra nhanh, ồ ạt và thiếu định hướng rõ ràng càng khiến cho các vấn đề như
thiếu nước sạch, thiếu lương thực, hủy hoại môi trường và đặc biệt là cạn kiệt năng
lượng trở nên trầm trọng. Khi dân số đô thị tăng lên nhanh chóng, đô thị hóa diễn ra
một cách mất kiểm soát, nguồn cung năng lượng càng trở nên hạn chế và khó tiếp cận
tới mọi đối tượng, gây ra sự bất bình đẳng trong xã hội đô thị - vốn dĩ đã tồn tại vì
khoảng cách giàu nghèo và sẽ trở nên nghiêm trọng hơn nếu cuộc khủng hoảng năng
lượng diễn ra.
Trong bối cảnh cuộc khủng hoảng năng lượng tại châu Âu đang đe dọa trực tiếp
đến an ninh năng lượng toàn cầu cũng như những biến động kinh tế xuất phát từ sự
phụ thuộc vào năng lượng hóa thạch như dầu thô, khí đốt, than đá, vấn đề chuyển đổi
năng lượng sang năng lượng sạch, năng lượng tái tạo được đề cập và thảo luận sôi nổi
tại COP27. Việt Nam cũng là một trong số các quốc gia thể hiện sự quan tâm và chú
trọng đến vấn đề này.
Có thể nói, nếu đô thị ngày càng mở rộng, kéo theo việc ngày càng tiêu tốn
nhiều năng lượng hóa thạch và tăng lượng khí carbon phát thải thì đô thị hóa sẽ đem lại
nhiều tác hại hơn là lợi ích cho nền kinh tế. Do đó, chuyển đổi năng lượng trong quá
trình đô thị hóa đối với Việt Nam không chỉ là một sự lựa chọn. Đó là bước tiến cần
thiết và cần được thực hiện kịp thời, bài bản và khoa học để nâng cao chất lượng đô thị,
duy trì sự ổn định kinh tế - xã hội và để đô thị thực hiện tốt các chức năng vốn có của
nó.

4. Kiến nghị một số giải pháp đảm bảo và thúc đẩy quá trình đô thị hóa
4.1. Nhân tố tự nhiên
Thứ nhất, nước ta cần tận dụng các lợi thế và nguồn tài nguyên thiên nhiên.
Đẩy mạnh công tác giám sát khai thác, sử dụng hợp lý, hiệu quả và bền vững tài
nguyên thiên nhiên kết hợp với điều tra, đánh giá tiềm năng, trữ lượng, giá trị kinh tế
từ đó thiết lập cơ sở dữ liệu các nguồn tài nguyên của đất nước.
Trong đó, tập trung việc điều tra cơ bản, đánh giá chất lượng, tiềm năng các loại
tài nguyên của đất nước; thực hiện việc hạch toán tài nguyên đầu vào cho tăng trưởng
kinh tế và từng bước thiết lập tài khoản quốc gia về tài nguyên đất, nước, khoáng sản,
rừng, thủy sản…
Thứ hai, thúc đẩy việc bảo vệ môi trường. Môi trường là yếu tố quan trọng để
phát triển đô thị bền vững. Các địa phương cần có giải pháp để bảo vệ môi trường, như:
kiểm soát ô nhiễm môi trường, bảo vệ nguồn tài nguyên thiên nhiên,... Nâng cao ý thức
cộng đồng về môi trường.
Đối với các nhà máy, cơ sở sản xuất cần khuyến khích cải tiến, áp dụng các
công nghệ tiến bộ trong sản xuất để nâng cao chất lượng sản phẩm, giảm lượng rác thải.
Ngoài ra, các đô thị cần phải phối hợp chặt chẽ với các cơ quan quản lý môi trường,

34
tăng cường công tác kiểm tra, xử lý triệt để các cơ sở sản xuất vi phạm Luật Bảo vệ
môi trường.
Thứ ba, luôn sẵn sàng thích ứng với biến đổi khí hậu. Biến đổi khí hậu đang là
vấn đề thách thức đối với sự phát triển của các đô thị. Các địa phương cần có giải pháp
để thích ứng với biến đổi khí hậu, như: xây dựng các công trình chống ngập, ứng phó
với thiên tai,... Khuyến khích sử dụng năng lượng tái tạo như điện gió, năng lượng mặt
trời và thuỷ điện sẽ giảm tác động của biến đổi khí hậu. Bảo vệ rừng và hệ sinh thái
biển đóng vai trò quan trọng trong việc hấp thụ CO2 và duy trì sự cân bằng sinh thái.
Thứ tư, nước ta cần tăng cường đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng. Cơ sở hạ tầng là
yếu tố quan trọng để phát triển đô thị, bao gồm: giao thông, điện, nước, thông tin liên
lạc,... Các địa phương cần tăng cường đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng, nhằm đáp ứng
nhu cầu phát triển đô thị, cải thiện đời sống, hỗ trợ chuyển đổi năng lượng và tăng
cường khả năng ứng phó với biến đổi khí hậu và thảm họa thiên tai. Đầu tư vào hạ tầng
chống ngập lụt cho các vùng đô thị ven biển, bao gồm việc xây dựng đập biển, hệ
thống thoát nước, và tạo ra các khu vực an toàn cho dân cư.

4.2. Nhân tố xã hội


Thứ nhất, thay đổi các điều kiện sống, lao động của người đô thị theo
hướng văn minh, hiện đại, tiến bộ, cũng như chú trọng xây dựng các quy tắc,
chuẩn mực xã hội đô thị dựa trên pháp luật, lấy pháp luật làm nền tảng.
Thực tế cho thấy, phần lớn các nhân tố quy định, tác động đến lối sống đều do
con người sáng tạo ra. Những nhân tố này bao gồm các điều kiện sống và lao động ở
đô thị; kết cấu hạ tầng kinh tế - kỹ thuật đô thị; điều kiện ăn, mặc, ở; các dịch vụ văn
hóa, xã hội, giáo dục, y tế...
Sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam hiện nay đặt ra yêu cầu cấp thiết xây dựng lối
sống đô thị văn minh, hiện đại, tiến bộ, không những để nâng cao chất lượng cuộc
sống của người dân, mà còn bảo đảm phát triển đô thị bền vững. Đây là quá trình lâu
dài, khó khăn và phức tạp, cần kết hợp hài hòa giữa “chống” và “xây”, vừa tuân thủ
những kế hoạch, phương hướng mang tính chiến lược lâu dài, vừa chú trọng thực hiện
những biện pháp, hoạt động cụ thể, giải quyết từng vấn đề nảy sinh.
Thứ hai, cần phát triển kiến trúc cảnh quan đô thị theo định hướng
Cần có sự kết hợp của quy hoạch dài hạn, chính sách đất đai phù hợp, có sự
kiểm soát trong phát triển và thiết kế thông minh nhằm phát huy tối ưu tính năng đô thị
hóa trong khi vẫn mang tính thẩm mỹ và bảo tồn.
Tổng thể kiến trúc cảnh quan của mỗi vùng và đô thị phải có bản sắc riêng, phù
hợp với điều kiện kinh tế, tự nhiên, dân số - xã hội, trình độ khoa học, kỹ thuật, truyền
thống văn hóa lịch sử của địa phương và các yêu cầu phát triển mới. Tổng thể kiến trúc
của mỗi đô thị phải kết hợp hài hòa giữa cải tạo với xây dựng mới; đổi mới môi trường
văn hóa kiến trúc truyền thống.

35
Đẩy mạnh công tác thiết kế đô thị nhằm nâng cao chất lượng không gian, chất
lượng kiến trúc cảnh quan cho từng đô thị nói chung, không gian các khu vực trung
tâm, các tuyến phố chính đô thị nói riêng, như định hướng phát triển đô thị mà Chính
phủ ban hành tại QĐ số 455/QĐ-TTg.
Thứ ba, thực hiện các chính sách giải nén, giảm tải cho đô thị trung tâm
Trên cơ sở quan điểm chỉ đạo, mục tiêu và định hướng phát triển các đô thị hiện
đại, tạo hiệu ứng lan toả, liên kết vùng đô thị, trong đó có nhiệm vụ quan trọng là thực
hiện đồng bộ các chính sách giải nén, giảm tải cho đô thị trung tâm.
Theo các chuyên gia quy hoạch, việc thực hiện tốt cấu trúc chùm đô thị sẽ giải
quyết được bài toán về phân bố dân cư ra các đô thị xung quanh, giảm áp lực cho đô
thị trung tâm. Và cũng từ đó giải quyết được nhiều vấn đề đô thị bức xúc tại khu vực
trung tâm như ùn tắc giao thông, ô nhiễm môi trường. Những chức năng đang bị dồn
nén quá mức như: Công nghiệp, dịch vụ, thương mại, giáo dục đào tạo, y tế…được
phân bớt hoặc chuyển hẳn vào các đô thị vệ tinh, tạo nên những trung tâm mới sẽ đảm
bảo cho đô thị trung tâm được giảm tải căn bản.
Thứ tư, nâng cao chất lượng quy hoạch đô thị đáp ứng yêu cầu xây dựng,
quản lý phát triển đô thị bền vững.
Thời gian tới, phương pháp quy hoạch đô thị cần phải có sự đổi mới nhất định
theo hướng gắn kết chặt chẽ quy hoạch đô thị với quy hoạch tổng thể quốc gia, quy
hoạch vùng và các quy hoạch ngành quốc gia. Song song với đó, cần kiểm soát chặt
chẽ phát triển đất đai, dân số, lao động ngoài ra phải gắn kết với nhu cầu thực tế của thị
trường, xu thế đô thị hóa của vùng, địa phương.
Trước mắt, để công tác quy hoạch đạt hiệu quả tốt, cần cải thiện chất lượng trên
cơ sở căn cứ dữ liệu đầu (thực trạng, nhu cầu) và dự báo khoa học, chính xác; áp dụng
công nghệ tiên tiến (như áp dụng GIS- hệ thống thông tin địa lý) vào phân tích, nhận
diện vấn đề và ra quyết định hỗ trợ cho lập quy hoạch; bổ sung hệ thống các quy chuẩn,
tiêu chuẩn, định mức đơn giá về quy hoạch và đầu tư xây dựng đô thị.

4.3. Nhân tố kinh tế


Trong bối cảnh nhu cầu vốn hàng năm cho đầu tư phát triển đô thị để đạt được
các mục tiêu quy hoạch trong 20 năm tới cao hơn rất nhiều so với mức đầu tư trung
bình những năm qua. Vì vậy, các chính sách để thu hút nguồn vốn đầu tư đóng vai trò
quyết định khả năng thực thi các mục tiêu quy hoạch.
Thứ nhất, nên xác định việc hình thành phát triển đô thị là do thị trường quyết
định.
Tại Việt Nam, các thành phố quy hoạch đất nhưng khi làm dự án lại không tuân
thủ khiến các dự án “treo” nhiều năm. Bởi vậy, chính sách nên đơn giản để thị trường
quyết định và Nhà nước chỉ cần đưa ra định hướng theo thị trường để tạo ra đô thị như
mong muốn.

36
Bên cạnh đó, nhà nước chỉ nên hỗ trợ thực hiện thêm 3 nhiệm vụ là xây dựng hạ
tầng, quy hoạch đất, thu thuế và sử dụng đất. Từ bối cảnh đó, nguồn lực cơ sở địa
phương chính là một trong những yếu tố cần phát huy. Muốn vậy, cần có chính sách
tạo điều kiện cho các địa phương huy động được nhiều vốn hơn từ các nguồn như hỗ
trợ phát triển, phát hành trái phiếu hay vốn từ các ngân hàng thương mại.
Thứ hai, để thu hút các nguồn vốn tư nhân từ các tổ chức, cá nhân thì việc tạo
môi trường thuận lợi để thu hút đầu tư đặc biệt cần thiết. Đó chính là môi trường mở,
thân thiện với các hoạt động sản xuất kinh doanh trên nguyên tắc bảo vệ môi trường.
Ngoài ra, Việt Nam cũng cần xúc tiến các quan hệ hợp tác quốc tế đa phương và song
phương nhằm thu hút nguồn vốn ODA cho phát triển đô thị với các cơ chế ưu đãi hợp
lý.
Thứ ba, các địa phương cần tích cực và chủ động hội nhập quốc tế để tranh thủ
nguồn ngoại lực, trên cơ sở đó, kết hợp nội lực để có thể bắt kịp xu thế phát triển của
khoa học và công nghệ tiên tiến, phục vụ cho mục tiêu hiện đại hóa lực lượng sản xuất
của đô thị.
Ngoài ra, cần tăng cường kết nối giữa các đô thị theo hành lang kinh tế, khu
kinh tế, vùng kinh tế trọng điểm, các khu kinh tế quốc gia (cửa khẩu và ven biển), liên
kết với các nước trong khu vực ASEAN, Trung Quốc, khu vực Tiểu vùng sông
Mê-kông mở rộng (GMS), vùng Đông Bắc Á... để bảo đảm phát triển đô thị năng động,
hiệu quả.
Thứ tư, để công nghệ 4.0 được tích hợp tại các thành phố thông minh, cần đáp
ứng ba tiêu chí. Đầu tiên, khái niệm về tính bền vững nên vượt ra ngoài hệ sinh thái
kinh tế. Một thành phố bền vững phải có tiêu chuẩn lành mạnh phục vụ con người sinh
hoạt hòa nhập, tiết kiệm, thích ứng và bền vững ở 3 phương diện chính: nhà ở dễ tiếp
cận; không gian công cộng và sử dụng tiện ích hòa nhập; và hệ thống giao thông toàn
diện. Thứ hai, bên cạnh thiết kế quy hoạch đô thị tốt thì thực hành quy hoạch đô thị rất
quan trọng. Thứ ba, thành công của thành phố thông minh phụ thuộc vào các doanh
nghiệp đổi mới đáp ứng các thách thức của cách mạng công nghiệp lần thứ tư và là
một phần không thể thiếu của quy trình.

37
LỜI KẾT THÚC

Đô thị hóa là một quá trình tất yếu diễn ra trong tiến trình phát triển của cả thế
giới nói chung, và đất nước Việt Nam nói riêng. Quá trình đó có tác động không nhỏ
tới mọi mặt của đời sống kinh tế - xã hội, đặc biệt là đối với kinh tế nông thôn. Trên
góc độ kinh tế, đô thị hóa góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế; đẩy nhanh sự chuyển
dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa; cải tạo và nâng cấp kết
cấu hạ tầng kinh tế và góp phần cải thiện đời sống của dân. Tuy nhiên, quá trình đô thị
hóa cũng dẫn đến những hệ quả không mong muốn như: thu hẹp diện tích đất nông
nghiệp; vấn đề nghèo đói đô thị; gia tăng tình trạng di dân tự do; đặc biệt là vấn đề ô
nhiễm môi trường và vấn đề xã hội
Để thúc đẩy quá trình đô thị hóa diễn ra một cách bền vững, Chính phủ Việt
Nam cần giải quyết rất nhiều vấn đề, cả về kinh tế và xã hội. Trong đó, cần đặc biệt
quan tâm đến: mật độ dân số ở thành thị tăng cao do nông dân không còn đất sản xuất
phải vào thành phố kiếm sống; tình trạng thất học, thất nghiệp và vấn đề nhà ở và quản
lý trật tự an toàn xã hội ở đô thị.
Quá trình đô thị hóa là quá trình có tính hai mặt, vừa có mặt tích cực, vừa có
mặt tiêu cực. Vì vậy, việc xử lý những tác động tiêu cực của đô thị hóa đến kinh tế
nông thôn không làm cản trở quá trình đó. Quá trình đô thị hóa phải được thực hiện
theo quy hoạch, kế hoạch, lộ trình đã được phê duyệt và phải dựa trên tinh thần nghị
quyết của Đảng và nhiệm vụ phát triển thủ đô trong tình hình mới. Trên cơ sở đó, để
phát huy tốt những tác động tích cực, hạn chế đến mức thấp nhất tác động tiêu cực của
đô thị hóa, Thành phố phải thực hiện đồng bộ các giải pháp đã được xác định.

38
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Anh, T. T. L. (2022). Phát triển đô thị Việt Nam – những vấn đề đặt ra trong giai
đoạn tới. Cổng thông tin điện tử Bộ Xây dựng.
2. Phương, Đ. (2023). Đánh giá thực trạng và đề xuất chính sách trong Luật điều chỉnh
về quản lý và phát triển đô thị. Báo Nhân dân.
3. Bắc, L. (2023). Tốc độ đô thị hóa. Quản lý Môi trường và đô thị.
4. Huân, Đ. V. (2023). Cơ cấu và chuyển dịch cơ cấu. Tạp chí điện tử VnEconomy.
5. Huyền, Đ. (2022). Đô thị hóa - một động lực của tăng trưởng. Báo điện tử Đảng
Cộng sản Việt Nam.
6. Hà, T. (2023). Phát triển Đô thị ở nước ta – những kết quả đạt được và hạn chế cần
khắc phục. Tạp chí Việt Nam hội nhập.
7. Cảnh, M. V. (2023). Thành phố Hà Nội phấn đấu tỷ lệ đô thị hóa đạt 75% vào năm
2030. Báo điện tử Vietnamplus.

39

You might also like