Professional Documents
Culture Documents
Đọc thêm phương pháp nghiên cứu khoa học 123
Đọc thêm phương pháp nghiên cứu khoa học 123
1.Giới thiệu
Chương này tập trung vào chủ đề chọn mẫu và xác định cỡ mẫu
cho nghiên cứu. Nội dung đầu tiên được thảo luận là bản chất
của việc chọn mẫu và lí do mà ta phải chọn mẫu trong quá trình
nghiên cứu và các tính chất mà một mẫu tốt cần có. Nội dung kế
tiếp trình bày về các đặc điểm thể hiện đúng đắn và tính chính
xác để đo lường mức độ hiệu quả của mẫu. Sau đó, chương
hướng dẫn các nguyên tắc cần thiết khi phát triển một kế hoạch
chọn mẫu và các phương pháp cụ thể. Phần cuối của chương tập
trung vào hai phương pháp xác định cỡ mẫu là xác định theo giá
trị trung bình và theo giá trị tỷ lệ.
1.1 Bản chất của việc chọn mẫu
Chọn mẫu ( sampling ) là việc chọn lấy một số phần tử của một
tổng thể ( population ), và từ đó, có thể rút ra các kết luận về các
tổng thể đó. Điều này có nghĩa là khi nghiên cứu một tổng thể
nghiên cứu nào đó, ta không nghiên cứu toàn bộ tổng thể mà chỉ
một bộ phận của tổng thể, và cách thức mà ta chọn ra bộ phận
đó, chính thức chọn mẫu
Mẫu bao gồm một số phần tử cuả tổng thể. Một phần tử của tổng
thể ( population element ) là một cá thể của đối tượng nghiên
cứu một cá nhân người tham gia nghiên cứu mà nhà nghiên cứu
sẽ tiến hành các đo lường. Đây chính là đơn vị nghiên cứu ( unit
of study ) Như vậy, nói ngược lại, một tổng thể bao gồm tất cả
các phần tử của tổng thể mà ta muốn nghiên cứu.
Thông thường ta không thực hiện nghiên cứu trên toàn bộ phần
tử của tổng thể. Tuy nhiên, ở cấp độ quốc gia, đôi khi các nhà
nghiên cứu vẫn tiến hành điều tra tổng thể. Một điều tra tổng thể
(census) là một nghiên cứu thực hiện trên tất cả mọi phần tử của
tổng thể.
Khi chọn mẫu, thường ta phải dựa vào khung mẫu. Khung mẫu
(sample frame) là một danh sách chưa đựng các thông tin cơ bản
của tất cả các đơn vị nghiên cứu (các phần tử của tổng thể) mà
dựa vào đó chúng ta rút ra mẫu. Khi chuẩn bị chọn mẫu nghiên
cứu ta cần lạc lưu ý là có thể tìm được khung mẫu hay không.
6.1.1 Tại sao phải chọn mẫu
Khi thực hiện nghiên cứu, chúng ta rất hiếm khi điều tra tổng
thể, vì lý do cơ bản là hết sức tốn kém và tốn rất nhiều thời gian
công sức. Trong khi đó, nếu chúng ta chỉ điều tra chọn mẫu, thì
ở nhiều lợi thế. Thứ nhất, dĩ nhiên là chi phí nghiên cứu thấp.
Thứ hạ ta có thể đạt tốc độ thu thập dữ liệu nhanh mà vẫn đạt
được mức hình xác cần có của kết quả. Cuối cùng là ta có thể dễ
dàng có được các đơn vị nghiên cứu sẵn có cho nghiên cứu.
Chọn mẫu cho phép có chi phí nghiên cứu thấp. Rõ ràng là điều
tra nghiên cứu trên một mẫu nào đó của tổng thể sẽ có lợi thế về
chi phí nhiều hơn là điều tra tổng thể. Điều này là hiển nhiên.
Chọn mẫu đúng cách vẫn cho phép ta đạt được mức chính xác
cần có của kết quả. Thậm chí chất lượng của một nghiên cứu
thực hiện điều tra chọn mẫu hoặc nghiên cứu trên mẫu vẫn
thường đạt kết quả tốt hơn so với thực hiện điều tra tổng thể
hoặc nghiên cứu tổng thể vì nhà nghiên cứu có thể phỏng vấn tốt
hơn, điều tra nhiều hơn, sâu hơn về các thông tin nghi ngờ, sai
sót và xử lý thông tin tốt hơn. Chỉ khi nào tổng thể nghiên cứu
quá nhỏ, dễ tiếp cận, và biến động nhiều thì điều tra tổng thể
mới có thể đạt độ chính xác cao hơn điều tra mẫu.
Chọn mẫu cho phép ta đạt tốc độ thu thập dữ liệu cao hơn. Tốc
độ thực hiện nhanh giúp làm giảm thời gian giữa giai đoạn
chuẩn bị các thông tin cần thiết và giai đoạn thu thập thông tin.
Tốc độ thu thập dữ liệu cao cũng có nghĩa là ta có thể hoàn
thành việc nghiên cứu sớm trong phạm vi giới hạn thời gian cho
trước.
Tính sẵn có của các phần tử tổng thể cũng là lợi thế của chọn
mẫu. Thông thường, một số phần tử tổng thể luôn có sẵn, và
chúng ta có thể chọn lựa để thực hiện lấy mẫu để điều tra,
nghiên cứu.
Nếu phải so sánh hiệu quả giữa nghiên cứu chọn mẫu và điều tra
tổng thể, ta thấy lợi thế của điều tra mẫu so với điều tra tổng thể
sẽ mất đi nếu tổng thể nhỏ và có tính biến động cao. Có hai điều
kiện làm cho việc nghiên cứu tổng thể phù hợp hơn: (1) có tính
khả thi khi tổng thể nhỏ và (2) cần thiết khi mà mỗi cá thể đều
rất khác biệt nhau.
6.1.2 Thế nào là một mẫu tốt
Nghiên cứu dựa trên mẫu dòi hỏi cách chọn mẫu phải hết sức
cẩn trọng để chọn ra được mẫu tốt. Một mẫu được coi là tốt khi
nó có thể đại diện cho các tính chất của tổng thể mà nó được rút
ra. Nói theo thuật ngữ do lường, nó phải có giá trị (validity). Giá
trị của mẫu tùy thuộc vào hai tính chất: tính đúng đắn (accuracy)
và tính chính xác (precision).
Tính đúng dắn (accuracy) của mẫu là mức độ mà mẫu tránh
được các thiên lệch (bias) Khi mẫu được rút ra đúng cách, thì
các các tỉnh chất của một số phần tử nào đó của tổng thể sẽ được
thể hiện ít hơn mức độ thực có của chúng. Ngược lại, sẽ có một
số phần tử khác sẽ được thể hiện nhiều hơn mức độ thực có của
chúng. Kết quả là, các biến số này của các phần tử sẽ bù trù lẫn
nhau, và dẫn đến việc giá trị của mẫu sẽ gần với giá trị của tổng
thể.
Tuy nhiên, để hiệu quả bù trừ này xảy ra, mẫu của chúng ta
phải có đủ số lượng các phần tử, và chúng phải được rút ra từ
tổng thể một cách đúng đắn để không gây ra sự thiên lệch.
Một mẫu đúng (không thiên lệch) là một mẫu mà các sai số
được đánh giá quá cao hay quả thấp không bù trừ lẫn nhau. Và
do đó, phương sai hệ thống (systematic variance) được định
nghĩa như là biến động trong đo lường do các ảnh hưởng biết
được hay không biết được gây ra làm cho các điểm số bị thiên
lệch về một phía nào đó.
Tăng cỡ mẫu (sample size) có thể làm giảm được phương sai hệ
thống như là một nguồn sai số. Tuy nhiên, dù có tăng cỡ mẫu thì
phương sai hệ thống vẫn có thể xảy ra nếu khung mẫu mà ta dựa
vào để rút mẫu đã bị thiên lệch.
Tiêu chuẩn thứ hai để thiết kế một mẫu tốt là tính chính xác của
các ước lượng. Các nhà nghiên cứu đồng ý với nhau là không có
mẫu nào có thể đại diện một cách đầy đủ tổng thể của nó ở mọi
phương diện, mọi khía cạnh. Tuy nhiên, để diễn giải các phát
hiện của nghiên cứu mà chúng ta cần phải do lường mức độ mà
mẫu thể hiện được tổng thể chính xác tới mức nào. Các biến số
mô tả mẫu có thể khác với tổng thể do sai số ngẫu nhiên sinh ra
trong quá trình chọn mẫu. Sai số này được gọi là sai số chọn
mẫu (sampling error) hay là sai số chọn mẫu ngẫu nhiên
(random sampling error), và nó phản ảnh ảnh hưởng của cơ hội
rút ra các thành viên của mẫu.
Tính chính xác được đo lường bằng sai số chuẩn của ước lượng.
Sai số chuẩn càng nhỏ có nghĩa là độ chính xác càng cao, và
ngược lại. Một thiết kế chọn mẫu được coi là lý tưởng khi nó tạo
ra sai số chuẩn của ước lượng nhỏ. Tuy nhiên, không phải là tất
cả các kiểu thiết kế mẫu đều tạo ra các ước lượng cho mức độ
chính xác, và các mẫu có cỡ mẫu bằng nhau có thể sinh ra các
mức độ sai số khác nhau.
6.1.3 Các kiểu thiết kế chọn mẫu
Khi thiết kế chọn mẫu ( hay là chọn lựa các phương thức chọn
mẫu -types of sample design), các nhà nghiên cứu phải trả lời
nhiều vấn để (Hình 6.1). Quá trình ra quyết định chọn mẫu phụ
thuộc vào nhiều yếu tố. Có thể kể đến như bản chất của câu hỏi
nghiên cứu và các cấu hỏi điều tra cụ thể được rút ra từ các câu
hỏi nghiên cứu. Ngoài ra, các yếu tố khác ảnh hưởng đến thiết
kế mẫu còn là các yêu cầu của dự án nghiên cứu và mục tiêu của
nó, mức độ rủi ro mà các nhà nghiên cứu chấp nhận, ngân sách
nghiên cứu, quỹ thời gian, các nguồn lực có thể có và văn hóa
vùng miền, dân tộc.
Các phần tử trong một mẫu được chọn ra theo một trong hai
kiểu chọn mẫu cơ bản xác suất hay phi xác suất. Chọn mẫu phi
xác suất (non-probability aampling) có tính chất là tùy ý và có
mục tiêu (purposive). Khi chúng ta chọn mẫu có mục tiêu,
chúng ta thường chọn mẫu theo một kế hoạch định trước, và mỗi
đơn vị nghiên cứu được rút ra từ tổng thể không có cơ hội được
chọn ngang bằng nhau.
Sự khác biệt căn bản giữa chọn màu phí xác suất và chọn mẫu
xác suất là tính chất xác suất của mẫu được chọn. Chọn mẫu xác
suất (probability sampling) dựa trên các phần tử được chọn với
cơ hội lựa chọn cho trước khác không. Chọn mẫu xác suất cho
phép chúng ta xác định được các ước lượng về mức chính xác,
và cho chúng ta cơ hội để tổng quát hóa các phát hiện cho các
tổng thể nghiên cứu dựa trên tổng thể mẫu. Trong khi các nghiên
cứu khám phá không đòi hỏi nhiều về việc này, nhưng các
nghiên cứu giải thích, mô tả và nhân quả lại đòi hỏi điều này.
Trong khi đó, với chọn mẫu phi xác suất, ta không biết trước xác
suất để chọn một phần tử nào đó vào mẫu, đơn giản là vì ta
không cần quan tâm đến xác suất này.
Để bảo đảm có thể tính được xác suất chọn mẫu, di nhiên là ta
phải biết cỡ mẫu (n) và số phần tử của tổng thể nghiên cứu (N).
Xác suất chọn mẫu chính là tỷ số n/N. Nếu tổng thể nghiên cứu
là không xác định thì ta không thể tính được xác suất chọn mẫu.
Chính vì vậy, phương pháp chọn mẫu xác suất đòi hỏi phải có
tổng thể nghiên cứu xác định để có thể biết chắc chắn số phần tử
của nó. Khi tổng thể nghiên cứu là không xác định thì rõ ràng ta
không thể áp dụng phương pháp chọn mẫu xác suất.
Ngoài ra, nếu tổng thể nghiên cứu là xác định thì một điều kiện
khác cần được làm rõ là ta có thể có được khung mẫu hay
không. Việc có khung mẫu bảo đảm cho ta có cơ sở để chọn các
phần tử của tổng thể vào mẫu. Chọn phần tử của tổng thể để đưa
vào mẫu là một việc đòi hỏi có sự chuẩn bị và lựa chọn nghiêm
túc để bảo đảm tính đúng đắn của mẫu. Các phần tử của mẫu
được chọn theo từng cá thể và trực tiếp từ tổng thể, dựa trên
khung mẫu (Hình 6.1)
Mỗi nhóm phương pháp chọn mẫu xác suất và chọn mẫu phi xác
suất có nhiều kiểu thiết kế chọn mẫu khác nhau (Hình 6.2). Các
kiểu mẫu xác suất bao gồm các kiểu chọn mẫu ngẫu nhiên đơn
giản ( simple random sampling), chọn mẫu hệ thống (systematic
sampling), chọn mẫu phân tầng (stratified sampling), chọn mẫu
phân nhóm ( cluster sampling), và chọn mẫu nhiều giai đoạn
(multistage sampling). Các kiểu chọn mẫu phi xác suất bao gồm
chọn mẫu thuận tiện (convienience sampling), chọn mẫu theo
phán đoán (judgment sampling), chọn mẫu hạn ngạch (quota
sampling), và chọn mẫu quả cầu tuyết (snowball).
Ở hai kiểu chọn mẫu phân tầng và hạn ngạch, mỗi kiểu lại có hai
kiểu phụ là chọn mẫu theo tỷ lệ (propotionate sampling) và
không theo tỷ lệ (dispropotionate sampling).
Hình 6.1 Thiết kế chọn mẫu trong phạm vi quá trình nghiên cứu
Hình 6.2 Các thiết kế chọn mẫu xác suất và phi xác suất
6.2 CÁC BƯỚC THIẾT KẾ CHỌN MẪU
Khi lựa chọn cách chọn mẫu phù hợp nhất cho nghiên cứu,
chúng ta phải trả lời một số câu hỏi đặt ra. Các câu hỏi này cũng
chính là các nguyên tắc, hay là các bước mà chúng ta phải theo.
Các câu hỏi đi theo một trình tự nhất định. Tuy nhiên, để trả lời
tốt một câu hỏi, tiế phải xem xét lại câu hỏi và câu trả lời trước
đó.
1. Tổng thể nghiên cứu là gì?
2. Các chỉ tiêu (parameters) cần quan tâm là gì?
3. Có khung mẫu hay không?
4. Phương pháp chọn mẫu nào là phù hợp?
5. Cần cô mẫu bao nhiêu?
6.2.1 Tổng thể nghiên cứu là gì?
Thông thường, khi chúng ta xác định vấn đề nghiên cứu và đặt
ra câu hỏi nghiên cứu thì chúng ta đã biết tổng thể nghiên cứu là
gì rồi. Tuy nhiên, cũng có khi chúng ta vẫn chưa rõ ràng về tổng
thể nghiên cứu. Nếu chúng ta không biết rõ mục tiêu nghiên cứu
thì rất khó chọn mẫu phù hợp.
Trong nghiên cứu kinh tế, đối tượng quan sát chủ yếu là con
người. Tuy nhiên, chủ thể này cũng có thể bao gồm cá nhân
hoặc các tổ chức của con người. Vì vậy, nếu chúng ta vẫn nhầm
lẫn hoặc không biết chắc chắn là tổng thể bao gồm các cá nhân,
hộ tại đình, gia đình hoặc là kết hợp các loại này thì khó có thể
quan sát đúng đối tượng. Rõ ràng là đối với một nghiên cứu kinh
tế thì việc xác định phân tử là một cá nhân hay là một hộ gia
đình hay là một tổ chức dạng khác sẽ đưa đến các kết quả hoàn
toàn khác nhau. Vì vậy, cần chú ý là ta phải xác định rõ khung
phân tích, và khung hành động để chọn lựa dùng tổng thể liên
quan
Ví dụ 6.1 Khi nghiên cứu về vấn đề nghèo đói, ta phải hiểu tổng thể nghiên cứu của ta là
gì. Nếu nghiên cứu theo góc độ vùng địa giới hành chính, tổng thể nghiên cứu có thể
bao gồm các vùng hành chính như tỉnh, quận huyện, xã phường. Nếu ta nghiên cứu theo
góc độ hộ gia đình thì tổng thể nghiên cứu lại bao gồm các hộ gia đình. Trên thực tế, các
phần tử cơ bản của tổng thể nghiên cứu này chính là hộ gia đình được phân bố theo các
vùng địa giới hành chính. Vì vậy, các phần tử mà ta phải chọn lựa bao gồm cả vùng địa
giới hành chính và hộ gia đình.
Ví dụ 6.2 Ở ví dụ 2.5 (chương 2), ta quan tâm đến vấn đề cải thiện môi trường đầu tư để
tăng cường thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) của các tỉnh thành ở Việt Nam.
Hãy xem tổng thể nghiên cứu của ta là gì? Thứ nhất, chắc chắn tổng thể nghiên cứu phải
bao gồm tất cả các tỉnh và thành phố trực thuộc trung ương của Việt Nam. Tuy nhiên, ở
từng tỉnh và thành phố, ta phải chọn các phần tử nào cho nghiên cứu? Liệu ta nên chọn
các cá nhân là quan chức quản lý của địa phương đó hay là chọn các doanh nghiệp nước
ngoài hay các doanh nghiệp trong nước dạng đầu tư sản xuất kinh doanh tại tỉnh? Rõ
ràng là việc chọn lựa này không dễ dàng chút nào.