You are on page 1of 25

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG

KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

*********

TIỂU LUẬN LỊCH SỬ ĐẢNG

ĐẢNG LÃNH ĐẠO KINH TẾ TƯ NHÂN TỪ NĂM


2006 - 2021

Nhóm thực hiện : 03


Lớp tín chỉ : TRIH117(GD2-HK2-2223).6
Giảng viên hướng dẫn: Cô Nguyễn Thị Tố Uyên
Hà Nội, tháng 5 năm 2023

2
PHÂN CÔNG CÔNG VIỆC

STT Phân công công việc Họ và tên MSV

1 Mục I (phần 1) Lê Phương Thảo 2113250043

2 Mục I (phần 2) Phạm Thị Khánh Ly 2113250022

3 Mục II Trần Minh Quang 2113250036

4 Mục III (phần 1) Đặng Mai Phương 2113250032

5 Mục II (phần 2) Đặng Mai Phương 2112250614

6 Mục IV (phần 1) Hoàng Nhật Giang 2112150056

7 Mục IV (phần 2) Hoàng Văn Long 2112150100

8 Tổng hợp nội dung Công Tài Thắng 2112150166

9 Làm slide + In ấn Nguyễn Vũ Hùng 2112250036

10 Làm slide + In ấn Trần Đức Huy 2113250014

3
MỤC LỤC

I, Cơ sở lý thuyết về nền kinh tế tư nhân.........................................................................4


1. Khái niệm và bản chất của nền kinh tế tư nhân..............................................................4
2. Vai trò của kinh tế tư nhân với sự phát triển của kinh tế Việt Nam...............................5
II, Chủ trương của Đảng về phát triển kinh tế tư nhân.................................................8
1. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng (Tháng 4/2006)....................................8
2. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng (Tháng 1/2011)..................................9
3. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng.........................................................10
4. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng........................................................10
III, Thực trạng phát triển kinh tế tư nhân Việt Nam từ 2006-2021...........................11
1. Thành tựu......................................................................................................................11
1.1. Giai đoạn 2006-2015.................................................................................................11
1.2. Giai đoạn 2016 - 2021...............................................................................................13
2. Hạn chế và nguyên nhân...............................................................................................14
2.1. Hạn chế.....................................................................................................................14
2.2. Nguyên nhân.............................................................................................................15
IV, Nhận xét và kinh nghiệm..........................................................................................16
1. Nhận xét về sự lãnh đạo của Đảng đối với KTTN.......................................................16
1.1. Đường lối của Đảng về phát triển KTTN.................................................................16
1.2. Ưu điểm trong quá trình chỉ đạo của Đảng về phát triển KTTN..............................17
1.3. Các hạn chế trong việc triển khai thực hiện các chủ trương, chính sách về khuyến
khích phát triển kinh tế tư nhân.......................................................................................18
2. Sinh viên với sự phát triển kinh tế tư nhân...................................................................19
2.1. Thực trạng.................................................................................................................19
2.2. Vai trò.......................................................................................................................20
2.3. Giải pháp...................................................................................................................21
V, Tài liệu tham khảo......................................................................................................23

4
I, Cơ sở lý thuyết về nền kinh tế tư nhân

1. Khái niệm và bản chất của nền kinh tế tư nhân


Hiện vẫn còn nhiều ý kiến trái chiều về khái niệm khu vực kinh tế tư nhân và chưa
đạt được sự thống nhất cụ thể. Tuy nhiên, xét về góc độ kinh tế, KTTN là thành phần
kinh tế trong cơ cấu kinh tế đất nước, được hình thành và phát triển trên cơ sở sở hữu tư
nhân về tư liệu sản xuất và vốn. Đối tượng sở hữu kinh tế tư nhân đó là các cá thể hoặc
một nhóm người thuộc về tư nhân đứng lên. Khái niệm này được đưa ra nhằm phân biệt
với kinh tế nhà nước, do nhà nước làm chủ và thuộc quyền quản lý của nhà nước.
Kinh tế tư nhân bao gồm:

● Kinh tế cá thể tiểu chủ

● Kinh tế tư bản tư nhân

Dù hoạt động dưới hình thức nào thì kinh tế tư nhân cũng kinh doanh dưới hình
thức hộ kinh doanh cá thể và các loại hình doanh nghiệp tư nhân và phần lớn hoạt động
vì mục đích lợi nhuận.
Nhắc tới kinh tế tư nhân, chúng ta có thể xét về 2 khía cạnh dưới đây:

● Về lĩnh vực sản xuất kinh doanh: kinh tế tư nhân bao gồm các hộ gia đình, các

doanh nghiệp tư nhân tham gia vào các quá trình, hoạt động sản xuất kinh doanh ở
các lĩnh vực như nông nghiệp, công nghiệp, vận tải, nông lâm thủy sản, thương
mại, dịch vụ, kinh tế xây dựng,...

● Về mô hình tổ chức: kinh tế tư nhân bao gồm các hộ kinh doanh cá thể và các

doanh nghiệp tư nhân được tổ chức dưới các loại hình tư nhân, trách nhiệm hữu
hạn (TNHH), cổ phần, hợp danh,...
Bên cạnh đó, nền kinh tế tư nhân đặc biệt mang những bản chất sau đây:
Một là, kinh tế tư nhân gắn liền với lợi ích cá nhân - một trong những động lực
thúc đẩy xã hội phát triển. Thực tế cho thấy, nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung đã đề cao
quá mức lợi ích nhà nước, tập thể, coi nhẹ lợi ích cá nhân, do đó làm thui chột động lực

5
phát triển kinh tế - xã hội. Trong thời kỳ chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường, với việc
tôn trọng lợi ích cá nhân, đã tạo ra một động lực mạnh mẽ thúc đẩy lực lượng sản xuất
phát triển.
Hai là, kinh tế tư nhân, mà tiêu biểu là doanh nghiệp của tư nhân, là mô hình tổ
chức kinh doanh của nền sản xuất hàng hoá. Hoạt động sản xuất trao đổi hàng hoá ra đời
gắn liền với sự phân công lao động xã hội. Hình thức tổ chức sản xuất doanh nghiệp là
sản phẩm của nền sản xuất xã hội hoá. Trong đó, cơ cấu của kinh tế thị trường chủ yếu
dựa trên cơ sở của mô hình tổ chức doanh nghiệp có mục tiêu cao nhất và cuối cùng là
tạo ra giá trị thặng dư và không ngừng chuyển giá trị thặng dư thành tích luỹ tăng thêm
của sự phát triển kinh tế.
Ba là, kinh tế tư nhân là bộ phận quan trọng của kinh tế thị trường. Kinh tế thị
trường khó có thể tồn tại và phát triển nếu không có sở hữu tư nhân và kinh tế tư nhân.
Nói cách khác, cơ chế thị trường hiện đại chính là dạng thức sinh tồn của kinh tế tư nhân
mà điển hình là mô hình tổ chức doanh nghiệp. Bất kì một nền kinh tế nào hoạt động theo
cơ chế thị trường đều phải thừa nhận và khuyến khích mô hình tổ chức doanh nghiệp này.
Ngược lại, mô hình tổ chức doanh nghiệp tự nó ứng xử theo cơ chế thị trường và có sức
sống mãnh liệt trong môi trường của cơ chế thị trường. Ở Việt Nam muốn phát triển nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thì phải phát triển kinh tế tư nhân nói
chung và mô hình tổ chức kinh doanh nói riêng.

2. Vai trò của kinh tế tư nhân với sự phát triển của kinh tế Việt Nam
Trong bối cảnh các xu thế lớn, kinh tế tư nhân ngày càng đóng góp lớn hơn trong
việc huy động các nguồn lực xã hội cho đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh, tăng
trưởng kinh tế và cơ cấu lại nền kinh tế.
Sau 4 năm thực hiện Nghị quyết số 10-NQ/TW của Hội nghị Trung ương năm
khóa XII về phát triển kinh tế tư nhân trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa (từ tháng 6/2017 đến nay), khu vực kinh tế tư
nhân Việt Nam có sự phát triển mạnh cả về chất, lượng và quy mô, tiếp tục là động lực
chính trong tăng trưởng kinh tế Việt Nam. Trong đó, vai trò, vị thế của kinh tế tư nhân
ngày càng được khẳng định và thể hiện rõ nét thông qua những đóng góp vào phát triển

6
kinh tế - xã hội. Kinh tế tư nhân liên tục duy trì tốc độ tăng trưởng khá, chiếm tỷ trọng 42
- 43% GDP, thu hút khoảng 85% lực lượng lao động của nền kinh tế, góp phần quan
trọng trong huy động các nguồn lực xã hội cho đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh,
tăng trưởng kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tăng thu ngân sách, cải thiện đời sống
nhân dân, bảo đảm an sinh xã hội... Đặc biệt, lực lượng doanh nghiệp thuộc khu vực kinh
tế tư nhân đã góp phần thực hiện mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa, làm thay đổi
diện mạo đất nước, tạo dấu ấn, nâng cao vị thế, uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế;
hình thành nhiều thương hiệu có tính cạnh tranh khu vực và quốc tế.
Trong 9 tháng đầu năm 2021, khu vực kinh tế ngoài quốc doanh (bao gồm kinh tế
tập thể và kinh tế tư nhân) đã thể hiện được khả năng chống chịu lớn nhất khi thu ngân
sách so với dự toán đạt mức cao nhất trong cả ba khu vực. Thu từ khu vực kinh tế ngoài
quốc doanh đạt khoảng 74,2% dự toán, tiếp đó đến thu khu vực doanh nghiệp có vốn đầu
tư nước ngoài đạt khoảng 72,2% dự toán và thu từ khu vực doanh nghiệp nhà nước đạt
khoảng 71,2% dự toán.
Trong bối cảnh đại dịch Covid-19, khu vực kinh tế tư nhân tiếp tục là một nguồn
vốn đầu tư quan trọng trong tổng vốn đầu tư của nền kinh tế. Vốn đầu tư toàn xã hội từ
khu vực kinh tế tư nhân quý III/2021 giảm 1,4% so cùng kỳ và là mức giảm cao nhất
trong 3 khu vực (khu vực nhà nước giảm 20,6%; khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước
ngoài giảm 20,7%). Tính chung 9 tháng năm 2021, vốn đầu tư toàn xã hội chỉ tăng 0,4%
chủ yếu nhờ lực kéo của vốn đầu tư từ khu vực tư nhân. Vốn đầu tư từ khu vực tư nhân
đạt 1.100,5 nghìn tỷ đồng, bằng 58,9% và tăng 3,9% và là khu vực duy nhất có vốn đầu
tư tăng trưởng dương so với cùng kỳ (khu vực nhà nước giảm 4,7%; khu vực có vốn đầu
tư trực tiếp nước ngoài giảm 3,4%).
Khu vực kinh tế tư nhân Việt Nam đã đóng góp phần lớn vào phát triển kinh tế -
xã hội của nước ta. Doanh nghiệp tư nhân đóng góp 43,22% GDP và 39% vốn đầu tư
toàn xã hội (Cục Phát triển DN, 2017), tạo ra nhiều việc làm trong nền kinh tế.
Kinh tế tư nhân đã phát triển mạnh, đóng góp đáng kể vào nguồn thu ngân sách
nhà nước; đặc biệt đã khơi dậy một bộ phận tiềm năng của đất nước, huy động được
nguồn vốn xã hội, tăng nguồn nội lực, tham gia phát triển kinh tế quốc dân và đang ngày
càng chứng minh là một trong bốn trụ cột thúc đẩy tăng trưởng kinh tế quốc dân.

7
Trong những năm gần đây, kinh tế tư nhân ở nước ta phát triển khá nhanh và
mạnh, trở thành động lực quan trọng trong phát triển kinh tế Việt Nam. Đây là khu vực
kinh tế gồm các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất kinh doanh không dựa trên sở hữu nhà
nước về các yếu tố của quá trình sản xuất, mà thuộc sở hữu tư nhân, tồn tại dưới các hình
thức như: doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần và các hộ
kinh doanh cá thể…
Khu vực kinh tế tư nhân của Việt Nam hiện có khoảng trên 750.000 doanh nghiệp
đang tạo ra 12 triệu việc làm, đóng góp tới 43% GDP (so với khu vực kinh tế nhà nước
28,9% GDP và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài FDI là 18% GDP; riêng trong lĩnh vực
dịch vụ, khu vực tư nhân đóng góp tới 85% GDP). Thành quả đó là quá trình đổi mới tư
duy kinh tế của Đảng, là bước đi đúng đắn phù hợp với phát triển nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa, là sự vào cuộc quyết liệt của Chính phủ nhằm "cởi trói" về
cơ chế, thể chế, tạo điều kiện cho kinh tế tư nhân phát triển.
Nhằm phát huy hơn nữa thành phần kinh tế tư nhân vào cho sự nghiệp phát triển
kinh tế đất nước, tháng 6/2017, Ban Chấp hành Trung ương khóa XII ban hành Nghị
quyết về phát triển kinh tế tư nhân trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Nghị quyết xác định “Phát triển kinh tế tư nhân lành
mạnh, hiệu quả, bền vững, thực sự trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa, góp phần phát triển kinh tế - xã hội nhanh, bền
vững, không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội,
bảo đảm quốc phòng, an ninh, sớm đưa nước ta trở thành nước công nghiệp theo hướng
hiện đại”. Nghị quyết đã đề ra những mục tiêu cụ thể: Đến năm 2020 có ít nhất 1 triệu
doanh nghiệp; đến năm 2025 có hơn 1,5 triệu doanh nghiệp và đến năm 2030, có ít nhất 2
triệu doanh nghiệp; Đầu năm 2021, Chính phủ đã giao cho Bộ Kế hoạch và Đầu tư, xây
dựng Nghị quyết về phát triển doanh nghiệp giai đoạn 2021 - 2025, tầm nhìn đến năm
2030, với mục tiêu đến năm 2025 cả nước có 1,3- 1,5 triệu doanh nghiệp . Theo số liệu
của Tổng cục Thống kê, tính đến hết năm 2020, Việt Nam có khoảng 810 nghìn doanh
nghiệp đang hoạt động.
Thu hẹp khoảng cách về trình độ công nghệ, chất lượng nhân lực và năng lực cạnh
tranh của doanh nghiệp tư nhân so với nhóm dẫn đầu ASEAN-4; nhiều doanh nghiệp tư

8
nhân tham gia mạng sản xuất, chuỗi giá trị khu vực và toàn cầu. Cùng với đó là các giải
pháp nhằm thực hiện thành công các mục tiêu trên.
Thực hiện Nghị quyết, Chính phủ đã có nhiều chủ trương đổi mới, sáng tạo, cam
kết sẽ cải thiện môi trường kinh doanh theo hướng bình đẳng, minh bạch, an toàn và thân
thiện, tạo mọi điều kiện để doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp tư nhân, doanh
nghiệp nhỏ và vừa, doanh nghiệp khởi nghiệp phát triển thuận lợi. Bên cạnh đó, khu vực
tư nhân cũng luôn đổi mới, nâng cao năng lực cạnh tranh để đứng vững trên thị trường và
hoạt động theo cơ chế thị trường.
Đưa kinh tế tư nhân thành động lực quan trọng của nền kinh tế là một bước tiến
lớn về nhận thức, là bước đổi mới tư duy của Đảng về một thành phần kinh tế quan trọng
ở hai góc độ, đó là: xác lập địa vị hoạt động kinh tế cho mỗi người dân và đổi mới cách
nhìn nhận, đánh giá về kinh tế tư nhân trong xây dựng thể chế kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

II, Chủ trương của Đảng về phát triển kinh tế tư nhân

1. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng (Tháng 4/2006)
Đảng ta nêu rõ: “Trên cơ sở ba chế độ sở hữu (toàn dân, tập thể, tư nhân), hình
thành nhiều hình thức sở hữu và nhiều thành phần kinh tế: kinh tế nhà nước, kinh tế tập
thể, kinh tế tư nhân (cá thể, tiểu chủ, tư bản tư nhân), kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế có
vốn đầu tư nước ngoài… Kinh tế tư nhân có vai trò quan trọng, là một trong những động
lực của nền kinh tế”.
Đây cũng là lần đầu tiên, kinh tế tư nhân được xác định chính thức với tư cách là
một thành phần kinh tế được khuyến khích phát triển. Lần đầu tiên, vấn đề đảng viên làm
kinh tế tư nhân được Đảng ta chính thức đưa ra trong “Văn kiện Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ X”.
Đảng ta cho rằng đảng viên làm kinh tế tư nhân phải gương mẫu chấp hành pháp
luật, chính sách của Nhà nước, nghiêm chỉnh chấp hành Điều lệ Đảng và quy định của
Ban Chấp hành Trung ương”. Thực tế, vấn đề này đã được đặt ra và tranh luận từ những
năm đầu của thập niên 90 thế kỷ trước, nhưng tới Hội nghị Trung ương 3 khóa X mới

9
thảo luận và thông qua “Quy định đảng viên làm kinh tế tư nhân”. Tinh thần được nhấn
mạnh là bảo đảm tuân thủ đầy đủ quy định của Điều lệ Đảng, nghị quyết, quyết định của
Đảng và các quy định của pháp luật, cơ chế, chính sách của Nhà nước, đồng thời nêu cao
tính tiên phong gương mẫu của người đảng viên trong mọi lĩnh vực, để vừa phát huy
được khả năng làm kinh tế của đảng viên, vừa giữ được tư cách, phẩm chất của đảng
viên, giữ vững bản chất cách mạng của Đảng. Quy định này cho thấy Đảng ta rất thận
trọng nhưng cũng đã mở đường cho đảng viên ra kinh doanh hợp pháp. Cho phép đảng
viên làm kinh tế tư nhân chính là huy động, phát huy tiềm năng của mọi người dân, trong
đó có đội ngũ đảng viên, tạo động lực để thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội.
Tóm lại, tại Đại hội X, Đảng có những khẳng định mới của Đảng về kinh tế tư
nhân là bộ phận cấu thành không thể thiếu, có vị trí quan trọng đặc biệt và ý nghĩa chiến
lược trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đồng thời, khuyến khích
thành phần kinh tế này phát triển mạnh mẽ hơn nữa trong những năm tiếp theo của công
cuộc đổi mới đất nước.

2. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng (Tháng 1/2011)
Sự phát triển mới về nhận thức của Đảng đối với kinh tế tư nhân tại Đại hội XII là,
chính thức xác nhận: “Hoàn thiện cơ chế, chính sách khuyến khích, tạo thuận lợi phát
triển mạnh kinh tế tư nhân ở hầu hết các ngành và lĩnh vực kinh tế, trở thành động lực
quan trọng của nền kinh tế”, lần đầu tiên khái niệm tập đoàn kinh tế tư nhân xuất hiện.
Khi xác định “kinh tế tư nhân là động lực quan trọng” của nền kinh tế chính là
nhằm đến vai trò tích cực của thành phần kinh tế này. Nghĩa là đã nhận thấy rõ trong kinh
tế tư nhân còn rất nhiều tiềm năng chưa được giải phóng, nhiều nguồn lực chưa được huy
động và trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta, kinh tế tư
nhân chưa hoạt động tương xứng với khả năng và nguồn lực của nó, chưa có địa vị phù
hợp với đóng góp của chính nó.
Để kinh tế tư nhân trở thành động lực thực sự của nền kinh tế thì thể chế kinh tế
phải đạt đến trình độ: Mọi chủ thể kinh tế đều được “làm tất cả những gì luật pháp không
cấm”. Khi và chỉ khi đạt đến điều đó mới có thể tạo lập được sự bình đẳng thực tế giữa
các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế trước mọi cơ hội và mọi quy định, chế tài

10
của các cơ quan quản lý nhà nước các cấp, như tinh thần Nghị quyết trung ương 6 khóa
VI của Đảng đã nêu.

3. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng
Đảng đã khẳng định: “Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt
Nam có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ
vai trò chủ đạo, kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền kinh tế; các chủ thể
thuộc các thành phần kinh tế bình đẳng, hợp tác và cạnh tranh theo pháp luật”. Việc Đảng
ta xác nhận “kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng” trong phát triển đất nước (Đại
hội X mới ghi nhận: “Kinh tế tư nhân có vai trò quan trọng, là một trong những động lực
của nền kinh tế”), không chỉ xác nhận vai trò mới của kinh tế tư nhân mà còn mở ra
những cơ hội mới để thành phần kinh tế tư nhân phát triển mạnh mẽ hơn. Với chủ trương
của Đảng không phân biệt đối xử giữa các thành phần kinh tế, các chủ thể thuộc các
thành phần kinh tế bình đẳng, hợp tác và cạnh tranh theo pháp luật, xóa bỏ hẳn cơ chế
bao cấp, chuyển sang cơ chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Đại hội XII của Đảng chính là Đại hội có nhiều nhận thức mới đối với các thành
phần kinh tế, đó là khẳng định vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước; vai trò động lực
quan trọng của nền kinh tế đối với kinh tế tư nhân; quan điểm lựa chọn tiếp nhận kinh tế
có vốn đầu tư nước ngoài; và quan tâm hỗ trợ phát triển các doanh nghiệp khởi nghiệp…
Đảng ta cũng khẳng định chủ trương: “Khuyến khích hình thành các tập đoàn kinh
tế tư nhân đa sở hữu và tư nhân góp vốn vào các tập đoàn kinh tế nhà nước”. Điều này
cho thấy, Đảng ta đã nhận thấy rõ trong phát triển kinh tế, sự phát triển của các tập đoàn
kinh tế tư nhân là một xu thế tất yếu, là một kênh quan trọng giúp Nhà nước thực thi
nhiệm vụ kinh tế đã đề ra.

4. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng
Văn kiện nêu rõ: "Xóa bỏ mọi rào cản, định kiến, tạo mọi điều kiện thuận lợi để
phát triển kinh tế tư nhân; hỗ trợ kinh tế tư nhân đổi mới sáng tạo, hiện đại hóa công nghệ
và phát triển nguồn nhân lực, nâng cao năng suất lao động. Khuyến khích hình thành,
phát triển những tập đoàn kinh tế tư nhân lớn, tiềm lực mạnh, có khả năng cạnh tranh khu

11
vực, quốc tế. Phấn đấu đến năm 2030, có ít nhất 2 triệu doanh nghiệp với tỷ trọng đóng
góp của khu vực kinh tế tư nhân vào GDP đạt 60% - 65%".
Kinh tế tư nhân tiếp tục được khẳng định là một trong những động lực quan trọng
của nền kinh tế và được khuyến khích phát triển ở tất cả các ngành, lĩnh vực mà pháp luật
không cấm, nhất là trong lĩnh vực sản xuất, kinh doanh, dịch vụ được hỗ trợ thành các
công ty, tập đoàn kinh tế tư nhân mạnh, có sức cạnh tranh cao. Hoàn thiện cơ chế, chính
sách để thúc đẩy phát triển kinh tế tư nhân. Phát triển doanh nghiệp tư nhân Việt Nam lớn
mạnh, nâng cao trình độ công nghệ, phát triển nguồn nhân lực, mở rộng thị trường, cải
thiện thu nhập, điều kiện làm việc của người lao động và tham gia các hoạt động xã hội,
bảo vệ môi trường, thực hiện các trách nhiệm xã hội. Nâng cao hiệu quả các dự án đối tác
công - tư trong lĩnh vực xây dựng kết cấu hạ tầng. Ưu tiên những dự án đầu tư nước
ngoài có trình độ công nghệ cao, sẵn sàng chuyển giao công nghệ, tạo điều kiện cho
doanh nghiệp trong nước phát triển, tham gia có hiệu quả vào chuỗi giá trị toàn cầu.

III, Thực trạng phát triển kinh tế tư nhân Việt Nam từ 2006-2021

1. Thành tựu

1.1. Giai đoạn 2006-2015


Khu vực kinh tế tư nhân trong giai đoạn này đã đạt được những thành tựu nhất
định, góp phần quan trọng trong việc thúc đẩy tăng trưởng, chuyển dịch cơ cấu nền kinh
tế quốc dân và tạo công ăn việc làm.
Tựu chung tốc độ tăng trưởng GDP của khu vực kinh tế tư nhân đều đặn và xấp xỉ
với tốc độ tăng GDP của toàn bộ nền kinh tế. Cụ thể, GDP của khu vực kinh tế tư nhân
trong đó chủ yếu là doanh nghiệp nhỏ và vừa từ chiếm 45,6% tổng GDP năm 2006 đã
tăng lên khoảng 48% trong năm 2010 [1].
Tính đến cuối năm 2010, theo số liệu của Tổng cục Thống kê, số lượng các doanh
nghiệp trong khu vực kinh tế tư nhân (gồm các doanh nghiệp lớn, nhỏ và vừa) là 268,831
doanh nghiệp, tăng gấp hơn 2 lần so với số liệu thống kê năm 2006 với 117,173 doanh
nghiệp. Cũng trong giai đoạn 2006-2010, trung bình mỗi năm số lượng doanh nghiệp

12
trong khu vực kinh tế này tăng khoảng 23%. Đáng chú ý tỷ trọng số lượng doanh nghiệp
ngoài nhà nước (tư nhân) chiếm tối đa, khoảng 93-96% trong tổng số doanh nghiệp Việt
Nam giai đoạn 2006-2010 (Bảng 1) [2].

2006 2007 2008 2009 2010

DN nhà nước 2.96 2.34 1.72 2.77 2.59

DN ngoài nhà nước 93.67 94.34 95.35 95.81 96.23

DN có vốn ĐTNN 3.37 3.33 2.93 1.42 1.17


Bảng 1: Cơ cấu DN trong nền kinh tế giai đoạn 2006-2010

Về lao động, khu vực kinh tế tư nhân cũng tạo ra từ 50%-60% việc làm của cả
nước. So sánh với 2 loại hình doanh nghiệp khác (Bảng 2), thì lao động trong doanh
nghiệp ngoài nhà nước có sự gia tăng về số lượng, năm sau cao hơn năm trước và loại
hình doanh nghiệp này luôn luôn giữ vai trò đầu tàu trong tạo việc làm và sử dụng nhiều
lao động trong cộng đồng doanh nghiệp ở nước ta. [3]

2006 2007 2008 2009 2010

DN nhà nước 28.93 24.30 21.36 20.61 17.21

DN ngoài nhà nước 29.06 52.37 55.62 57.37 60.86

DN có vốn ĐTNN 22.02 23.33 23.02 22.02 21.93


Bảng 2: Cơ cấu lao động trong các loại hình DN giai đoạn 2006-2010

Trong giai đoạn 5 năm kể từ năm 2011, các doanh nghiệp hoạt động trong khu vực
kinh tế tư nhân tiếp tục chiếm tỷ trọng lớn nhất (khoảng 96%) trong tổng số các doanh
nghiệp Việt Nam (Bảng 3), sử dụng khoảng 60% tổng số lao động (Bảng 4) [4], đóng góp
39,21% GDP trong năm 2015 so với 28.7% của khu vực kinh tế Nhà nước [5] ... Những
con số thống kê trên cho thấy những đóng góp của khối kinh tế tư nhân đối với sự phát
triển của kinh tế - xã hội Việt Nam là rất lớn. Khu vực kinh tế tư nhân là nguồn động lực,
chìa khóa để nền kinh tế cả nước phát triển và phục hồi đà tăng trưởng đặc biệt khi nền
kinh tế nước ta giai đoạn này đang phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức như tình

13
hình căng thẳng ở Biển Đông diễn biến phức tạp, đe dọa nghiêm trọng đến hòa bình, ổn
định trong nước và khu vực, tình hình thiên tai dịch bệnh và ảnh hưởng nặng nề của biến
đổi khí hậu.

2011 2012 2013 2014 2015

DN nhà nước 1 0.94 0.86 0.75 0.64

DN ngoài nhà nước 96.23 96.48 96.40 96.5 96.66

DN có vốn ĐTNN 2.77 2.59 2.74 2.75 2.70


Bảng 3: Cơ cấu DN trong nền kinh tế giai đoạn 2011-2015

2011 2012 2013 2014 2015

DN nhà nước 15.27 14.49 14.35 12.67 10.66

DN ngoài nhà nước 61.33 60.97 59.27 58.91 59.98

DN có vốn ĐTNN 23.40 24.54 26.38 28.42 29.30


Bảng 4: Cơ cấu lao động trong các loại hình DN giai đoạn 2011-2015

1.2. Giai đoạn 2016 - 2021


Dù phải đối diện với nhiều thách thức, kinh tế Việt Nam tiếp tục tăng trưởng mạnh
mẽ, tổng sản phẩm nội địa (GDP) tăng trung bình 5.99%/năm [6] (thuộc nhóm nước tăng
cao nhất thế giới) trong 5 năm từ năm 2016 đến 2020 và đạt đỉnh tăng trưởng cao nhất
362.64 tỷ USD vào năm 2021 [7]. Đóng góp trực tiếp vào thành tựu trên có vai trò không
nhỏ của cộng đồng doanh nghiệp tư nhân. Đây là giai đoạn mà khu vực kinh tế tư nhân
được Đảng và Nhà nước ghi nhận và tôn vinh hơn bao giờ hết. Minh chứng cho sự công
nhận đó là Nghị quyết số 10 – NQ/TW ban hành ngày 3-6-2017 của Đảng “Về phát triển
kinh tế tư nhân trở thành động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường xã hội chủ
nghĩa” thể hiện quan điểm cởi mở, đối xử bình đẳng giữa các khu vực kinh tế cũng như
công nhận tầm quan trọng, đóng góp không thể thiếu của kinh tế tư nhân. Sau hơn 2 năm
thực hiện Nghị quyết, kinh tế tư nhân bước đầu có sự phát triển mạnh mẽ hơn và từng
bước khẳng định vai trò quan trọng của nền kinh tế. Cụ thể, theo Sách trắng về doanh
nghiệp do Tổng cục Thống kê công bố năm 2021, doanh nghiệp tư nhân chiếm đến 97%
tổng số doanh nghiệp. Trong đó, không thể không kể đến các doanh nghiệp đạt tầm cỡ

14
quốc tế như Vingroup, Vietjet, FLC, Vinamilk,… có ảnh hưởng đến chuỗi cung ứng toàn
cầu. Trong giai đoạn này, kinh tế tư nhân liên tục duy trì tốc độ tăng trưởng khá, chiếm tỷ
trọng khoảng 40% GDP; 30% ngân sách nhà nước, thu hút khoảng 85% lực lượng lao
động của nền kinh tế, góp phần quan trọng trong huy động các nguồn lực xã hội cho đầu
tư phát triển sản xuất kinh doanh, tăng trưởng kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tăng
thu ngân sách nhà nước, tạo việc làm, cải thiện đời sống nhân dân và bảo đảm an sinh xã
hội [8]. Bên cạnh đó, kinh tế tư nhân còn cùng với Nhà nước góp sức phòng, chống dịch
bệnh, thiên tai, cứu trợ nhân dân bị nạn, tài trợ cho các giải thể thao, câu lạc bộ bóng đá,
những sự kiện kinh tế - xã hội lớn của đất nước.

2. Hạn chế và nguyên nhân

2.1. Hạn chế


Nền kinh tế tư nhân mặc dù đã đem lại bộ mặt mới cho nền kinh tế Việt Nam từ
thời kỳ đổi mới, song nó cũng tồn tại một vài hạn chế nhất định.
Yếu tố đầu tiên là năng suất lao động và tốc độ phát triển của năng suất lao động
vẫn còn khá thấp. Các doanh nghiệp tư nhân ở Việt Nam công nghệ vẫn lạc hậu, yếu
kém, vốn đầu tư vào sản xuất của khu vực này chỉ chiếm khoảng 0.3%, thấp hơn hẳn so
với Hàn Quốc (10%) và Ấn Độ (5%). Công nghệ lạc hậu dẫn đến năng suất lao động
thấp, khả năng cạnh tranh trên thị trường trong và ngoài nước không cao. Thực trạng hiện
nay là 97% các doanh nghiệp tư nhân đều vẫn là quy mô nhỏ và siêu nhỏ, kèm theo đó là
xu hướng “li ti hoá”, dẫn đến năng suất lao động không cao. Năng suất lao động của các
doanh nghiệp tư nhân hiện chiếm 34% so với 69% đến từ FDI và bằng 50% tổng tài sản
của toàn bộ khối doanh nghiệp vào năm 2021.
Yếu tố thứ hai là nền kinh tế tư nhân thiếu sự liên kết chặt chẽ. Điều này có thể
thấy rõ thông qua cùng một loại sản phẩm nhưng có đến rất nhiều hãng mác khác nhau.
Do không có sự liên kết chặt chẽ, nền kinh tế tư nhân thiếu tiếng nói chung để nâng cao
15 năng lực cạnh tranh. Năm 2021, chỉ có 20% doanh nghiệp tham gia vào một số chuỗi
giá trị khu vực toàn cầu và 14% có vốn đầu tư quốc ngoại.

15
Nền kinh tế tư nhân ở Việt Nam không có những doanh nghiệp “đầu tàu” đủ lớn
để đi vào chuỗi cung ứng, chuỗi giá trị trong và ngoài nước.Theo thống kê của Phòng
Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI), khoảng 70% số doanh nghiệp vẫn kinh
doanh không có lãi, chỉ có 11% số doanh nghiệp tư nhân xuất khẩu trực tiếp hoặc gián
tiếp thông qua người mua hàng quốc tế và chỉ có 14% số doanh nghiệp tư nhân bán hàng
cho các doanh nghiệp FDI tại Việt Nam. Mặc dù khu vực kinh tế tư nhân đóng góp gần
45% GDP nhưng doanh nghiệp tư nhân mới chỉ đóng góp gần 8% GDP, phần lớn còn lại
thuộc về khu vực kinh tế cá thể, tiểu chủ. Điều đó có nghĩa là, trong khu vực kinh tế tư
nhân, số hộ cá thể, các doanh nghiệp nhỏ, siêu nhỏ vẫn chiếm phần lớn, còn doanh
nghiệp tư nhân không thực sự tăng trưởng nhanh chóng và vững chắc.

2.2. Nguyên nhân


Thứ nhất, vướng mắc từ thể chế, chính sách nhà nước như thủ tục hành chính phức
tạp, liên thông giải quyết thủ tục cho doanh nghiệp còn rườm rà, không phù hợp với thực
tiễn, làm chậm quá trình đầu tư phát triển của kinh tế tư nhân. Một số quy định chung
chung gây tác động bất lợi đến các doanh nghiệp tư nhân.
Thứ hai, khu vực kinh tế tư nhân còn thiếu các lao động có kỹ năng, dẫn đến năng
suất lao động không cao. Nhiều doanh nghiệp tư nhân vẫn còn áp dụng quản trị theo kiểu
truyền thống gia đình, ít tiếp cận hình thức quản trị hiện đại, thông lệ quốc tế.
Thứ ba, các doanh nghiệp tư nhân còn nhiều khó khăn trong việc tiếp cận đất đai.
Một mặt, các thủ tục giải phóng mặt bằng, thu hồi đất thường tốn thời gian gây ảnh
hưởng đến kế hoạch kinh doanh của doanh nghiệp; phương pháp tính giá đất, thủ tục cấp
phép, thông tin quy hoạch còn gây nhiều bức xúc, cản trở tốc độ thu hồi và bàn giao đất
sạch cho các doanh nghiệp. Mặt khác, giá thuê đất, chi phí kinh doanh cao,... làm giảm
khả năng cạnh tranh cũng như hạn chế khả năng tiếp cận đất đai, mặt bằng sản xuất, kinh
doanh của nhiều doanh nghiệp tư nhân. Thứ tư, nhiều doanh nghiệp tư nhân chưa chú
trọng đầu tư công nghệ do thiếu năng lực tài chính để đầu tư vào các dây chuyền sản
xuất, tài sản cố định, từ đó dẫn đến trình độ sản xuất, kỹ thuật ở mức thấp.
Thứ năm, thiếu vốn luôn là vấn đề khó khăn đối với các doanh nghiệp tư nhân khi
không có tài sản thế chấp để vay vốn hoặc tài sản thế chấp không minh bạch, đang tranh

16
chấp. Bởi 16 vậy, các doanh nghiệp tư nhân còn gặp khó khăn khi huy động tài chính và
chỉ có 40% số doanh nghiệp đang hoạt động có khả năng đáp ứng nhu cầu vốn vay từ
ngân hàng. Nhiều doanh nghiệp khó đáp ứng vốn vay của các tổ chức tín dụng khi không
minh bạch và công khai được tình hình tài chính của mình.

IV, Nhận xét và kinh nghiệm

1. Nhận xét về sự lãnh đạo của Đảng đối với KTTN

1.1. Đường lối của Đảng về phát triển KTTN


Xây dựng doanh nghiệp tư nhân hoạt động theo cơ chế thị trường là một đòi hỏi
khách quan, vừa cấp bách, vừa dài hạn trong quá trình hoàn thiện thể chế, phát triển hệ
thống kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của đất nước chúng ta; là một công
cụ quan trọng nhằm giải phóng sức sáng tạo để thu hút, sử dụng và quản lý có hiệu quả
mọi nguồn lực phát triển.
Doanh nghiệp nhà nước là một nguồn lực quan trọng trong nền kinh tế thị trường.
Kinh tế nhà nước và kinh tế hợp tác đồng hành với doanh nghiệp tư nhân là nòng
cốt trong xây dựng thể chế kinh tế độc lập, tự chủ. Khuyến khích, tạo môi trường tốt cho
khu vực này phát triển mạnh mẽ, toàn diện, bền vững với mức tăng trưởng cao cả về chất
lượng, hiệu quả, giá trị và tỷ lệ đóng góp trong GDP.
Loại bỏ mọi rào cản và định kiến để tạo các điều kiện thuận lợi cho tăng trưởng
khu vực tư nhân bền vững theo đúng định hướng. Phát huy mặt tích cực có lợi đối với
quốc gia của khu vực này là cần thường xuyên theo dõi, đôn đốc, kiểm tra và khuyến
khích việc thực thi công bằng, minh bạch nhằm ngăn ngừa, giảm thiểu những vi phạm,
kiên quyết phòng, tránh các biểu hiện của "chủ nghĩa tư bản thân hữu", tình trạng "lợi ích
nhóm", lũng đoạn thị trường, kinh doanh không chân chính để làm giàu bất hợp pháp.
Doanh nghiệp nhà nước có thể hoạt động tại bất kỳ mọi ngành nghề và khu vực
nào luật pháp không ngăn cấm. Phát huy tinh thần sáng tạo và đổi mới công nghệ để nâng
cao chất lượng hiệu quả của hệ thống DN nhỏ và vừa. Khuyến khích thành lập một số tổ

17
chức DN tư nhân nhiều chủ sở hữu đầy đủ năng lực gia nhập mạng lưới toàn cầu và chuỗi
cung ứng khu vực, thế giới.
Thúc đẩy khu vực này tham gia góp vốn và mua cổ phần của một số công ty nhà
nước đã Cổ phần hóa hoặc Nhà nước bán vốn. Thúc đẩy triển khai nhiều mô hình hợp tác
sản xuất, kinh doanh, cung ứng hàng hoá, dịch vụ theo mạng lưới sản xuất, chuỗi giátrị
toàn cầu trong khu vực này với kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể và khối DN có vốn đầu
tư nước ngoài.
Chăm lo đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao ý thức trách nhiệm, tinh thần tự lực, tự
cường, truyền thống yêu nước, tự hào, tự tôn dân tộc, gắn bó với quyền lợi của Tổ quốc
và công cuộc bảo vệ chủ nghĩa xã hội của người chủ doanh nghiệp. Phát triển lực lượng
doanh nhân Việt Nam ngày một lớn mạnh, có ý thức tuân thủ luật pháp, chăm lo với cộng
đồng và khả năng điều hành.

1.2. Ưu điểm trong quá trình chỉ đạo của Đảng về phát triển KTTN
Trước tiên, ý thức đối với vị thế, trách nhiệm của doanh nghiệp nhà nước đã có
nhiều tiến bộ đáng kể và ngày càng tốt lên. Hệ thống luật pháp và chế độ, chính sách
từng bước được cải thiện. Phương thức điều hành của Chính phủ về doanh nghiệp cũng
ngày càng thay đổi thích hợp hơn với cơ chế thị trường. Cải cách thể chế, đặc biệt là bộ
máy chính quyền được chú trọng; điều kiện sản xuất, kinh doanh có phần được mở
rộngvà công khai, minh bạch hơn nữa.
Thứ hai, kinh tế tư nhân đã phát triển trên nhiều mặt, được khuyến khích kinh
doanh và đối đãi công bằng bình đẳng với mọi thành phần của xã hội, đặc biệt khi tiếp
cận những yếu tố sản xuất và các loại hình dịch vụ; uy tín, sức lan toả ngày càng được
tăng cao; hoạt động sôi nổi ở hầu khắp các địa bàn, lĩnh vực và các vùng, miền; bướcđầu
đã xây dựng nên một số tập đoàn kinh tế tư nhân có quy mô lớn, nâng đa ngành, cónăng
lực cạnh tranh trên thị trường cả nước và thế giới.
Thứ ba, lực lượng doanh nhân ngày càng đông đảo, có ý chí hướng tới làm giàu
chân chính, không ngừng nâng cao trình độ chuyên môn và quản lý doanh nghiệp. Trách
nhiệm xã hội của cộng đồng và đạo đức, phong cách ứng xử của doanh nhân ngày
càngđược nâng cao.

18
Thứ tư, nội dung tổ chức, phương pháp lãnh đạo của hệ thống tổ chức cơ sở
đảngvà cán bộ đảng đối với khối kinh tế nhà nước được nhiều nơi tiếp tục nghiên cứu bổ
sung, hoàn chỉnh để công nhân đang tham gia kinh tế tập thể và các đơn vị của họ
thựchiện việc giới thiệu cho Đảng.
Thứ năm, hoạt động tư vấn, phản biện chính sách, vai trò tổ chức đại diện bảo vệ
lợi ích hợp pháp giữa công nhân lao động và chủ sử dụng lao động của Mặt trận Tổ
quốcViệt Nam, nhiều tổ chức chính trị - xã hội, một số đoàn thể xã hội, xã hội - nghề
nghiệp tiếp tục được cải tiến; nâng cao chất lượng.

1.3. Các hạn chế trong việc triển khai thực hiện các chủ trương, chính sách về
khuyến khích phát triển kinh tế tư nhân
Thứ nhất, hệ thống luật pháp, những chủ trương, chính sách hỗ trợ khu vực này
vẫn có một số vướng mắc và chưa phù hợp.
Thứ hai, doanh nghiệp nhà nước không thể hiện rõ vị thế là một động lực quan
trọng của tăng trưởng GDP, suy giảm trong vài năm trở lại đây. Kinh tế tư nhân có quy
mô nhỏ lẻ, hầu hết tốc độ phát triển của khu vực này có xu thế chỉ là kinh tế cá thể làm
ăn; trình độ phát triển, trình độ công nghệ, năng lực sản xuất, chất lượng hàng hoá và sức
cạnh tranh thấp; cấu trúc ngành nghề còn bất cập, năng lực tham gia thương mại quốc tế
rất yếu.
Thứ ba, tình trạng vi phạm luật pháp về cạnh tranh không bình đẳng đối với doanh
nghiệp nhà nước là rất nghiêm trọng. Tình trạng đầu tư, kinh doanh làm ô nhiễm môi
trường, không đảm bảo chất lượng, vệ sinh ATTP, thất thu thuế... xảy ra phổ biến, kéo
dài. Nhiều công ty của tư nhân không coi trọng quyền lợi của người tiêu dùng, nợ bảo
hiểm xã hội, báo cáo tài chính không đầy đủ, nợ đến hạn ngân hàng, trốn thuế và gian lận
thương mại kéo dài.
Thứ tư, các quy định của luật pháp khu vực ngoài nhà nước không được thực thi
tốt. Môi trường hoạt động sáng tạo, còn có những khó khăn, ẩn chứa rủi ro cao và ít sự
cạnh tranh. Quyền tự chủ kinh doanh và sở hữu tài sản, tiếp cận các cơ hội việc làm, an
sinh xã hội chưa thật sự bình đẳng với khu vực tư nhân và mọi thành phần kinh tế nói
chung; chi phí bôi trơn, không minh bạch còn cao.

19
Thứ năm, thủ tục hành chính ngày càng nhiêu khê, phiền hà; hiện tượng sách
nhiễu, tạo điều kiện, né tránh trách nhiệm, không minh bạch và gây khó khăn đối với nhà
đầu tư vẫn tồn tại khá nhiều. Phân công, phân cấp, uỷ quyền cho một số sở, ban,ngành,
địa phương có bất cập và không rõ ràng. Hiệu quả trong giám sát, quản lý hoạt động của
doanh nghiệp nhà nước chưa cao.

2. Sinh viên với sự phát triển kinh tế tư nhân

2.1. Thực trạng


Đảng và nhà nước vẫn luôn khuyến khích, đẩy mạnh sự rèn luyện, phát triển của
sinh viên để đóng góp cho sự phát triển nền kinh tế tư nhân trong tương lai. Những cuộc
thi ý tưởng sáng tạo khởi nghiệp đã, đang và sẽ được tổ chức theo nhiều cấp độ và quy
mô, phù hợp với trình độ và nguyện vọng của sinh viên. Quá trình tổ chức, giám sát
những cuộc thi khởi nghiệp ngày càng có tổ chức và chọn lọc, bảo đảm tính công bằng và
minh bạch, giúp sinh viên được thỏa sức sáng tạo và phát huy những tiềm năng của mình.
Những sinh viên với ý tưởng khởi nghiệp mới lạ, độc đáo được ghi nhận bằng những
hình thức khen thưởng động viên. Số lượng sinh viên quan tâm và tham gia những cuộc
thi khởi nghiệp của các trường, các Sở, các Bộ ngày một nhiều, và nhiều ý tưởng đã được
ghi nhận và hỗ trợ hiện thực hóa để trở thành doanh nghiệp chính thức. Đã có nhiều
người trẻ kinh nghiệm, hiểu biết và bản lĩnh tự khởi nghiệp tại Việt Nam, với hoài bão
đưa những doanh nghiệp của mình đến với người dân trong nước và trên toàn thế giới,
thể hiện tinh thần tự tôn dân tộc. Không những vậy, sinh viên Việt Nam cũng đang tích
cực học tập, rèn luyện cả về mặt kiến thức và kỹ năng, tìm kiếm cho mình những cơ hội
học tập tại nước ngoài, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại. Về phía những doanh nghiệp,
ngày có thêm những chính sách hỗ trợ, khuyến khích sinh viên tham gia thực tập, hợp tác
để giúp tích lũy kinh nghiệm, nâng cao nhân thực, rèn luyện kỹ năng trong lĩnh vực kinh
doanh và lao động, nhận được sự hưởng ứng tích cực từ phía sinh viên. Đó là một dấu
hiệu tốt cho thấy thế hệ người trẻ, sinh viên Việt Nam đang có nhận thức đúng đắn về giá
trị, trách nhiệm của bản thân với nền kinh tế của nước nhà. Tự hào về lớp thanh niên hôm
nay, song vẫn đang còn một bộ phận thanh niên sống thiếu lý tưởng, niềm tin và sự quan

20
tâm đến sự phát triển của nước nhà; bị lôi kéo vào những hoạt động kinh doanh phi pháp,
thiếu đạo đức; sống thực dụng, quá coi trọng vật chất. Vẫn còn nhiều thanh niên thiếu
kiến thức, kỹ năng trong lao động, kinh doanh và hội nhập quốc tế. Những thanh niên đó
còn đang thiếu tính độc lập, chủ động, sáng tạo, năng lực thực hành sau đào tạo, chưa đáp
ứng được yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Ngoài ra, ở nhiều địa phương, công tác
giáo dục - đào tạo sinh viên và người trẻ nói chung còn có nhiều thiếu sót, một bộ phận
thế hệ lớn tuổi hơn vẫn còn có những định kiến và không tin tưởng trao cơ hội và làm
việc cùng với thanh niên, mối quan hệ giữa chính quyền, xã hội, nhà trường và gia đình
đối với người trẻ vẫn còn hạn chế, từ đó ảnh hưởng tiêu cực tới việc phát huy tiềm năng
của sinh viên để có thể đóng góp cho đất nước.

2.2. Vai trò


Đoàn viên, thanh niên là tương lai của đất nước, với sức trẻ, sự năng động và
nhiều tiềm năng cần được phát huy để trở thành những nguồn nhân lực trẻ, những người
chủ, những nhà kinh tế vừa có đạo đức, yêu nước, yêu Đảng, vừa có kỹ năng, kiến thức
cần thiết và đúng đắn để giúp phát triển nền kinh tế tư nhân Việt Nam. Đã có những mục
tiêu cụ thể, được xác định bởi Đảng và Nhà nước: đến năm 2025, chúng ta phải đang phát
triển với nền công nghiệp theo hướng hiện đại và đã vượt qua mức thu nhập trung bình
thấp, đến năm 2030 phải là nước đang phát triển có công nghiệp hiện đại với thu nhập
trung bình cao, và đến năm 2045 phải trở thành nước phát triển cùng thu nhập cao. Hội
nghị lần thứ bảy của Ban Chấp hành Trung ương Ðảng, khóa X đã ra nghị quyết số 25 –
NQ/TW với nội dung "Tăng cường sự lãnh đạo của Ðảng đối với công tác thanh niên thời
kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa". Báo cáo Chính trị tại Đại hội XIII của Đảng
đã định hướng: “Tăng cường giáo dục lý tưởng cách mạng, đạo đức, lối sống văn hoá,
nâng cao lòng yêu nước, tự hào dân tộc, nuôi dưỡng hoài bão, khát vọng vươn lên; nêu
cao tinh thần trách nhiệm đối với đất nước, với xã hội; xây dựng môi trường, điều kiện
học tập, lao động, giải trí, rèn luyện để phát triển lành mạnh, toàn diện, hài hoà cả về trí
tuệ, thể chất và giá trị thẩm mỹ cho thế hệ trẻ. Tạo động lực cho thanh niên xung kích
trong học tập, lao động, sáng tạo, khởi nghiệp, làm chủ các kiến thức khoa học, công
nghệ hiện đại, phát huy vai trò trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Chăm lo

21
nuôi dưỡng, giáo dục, bảo vệ thiếu niên, nhi đồng; dành những điều kiện tốt nhất, sự
chăm lo chu đáo nhất cho trẻ em - tương lai của đất nước”. Với sự quan tâm của Đảng,
nhà nước, gia đình, nhà trường và xã hội, sinh viên Việt Nam phải không ngừng rèn
luyện, tạo ra và nắm bắt những cơ hội, nâng tầm bản thân để có thể đáp ứng những yêu
cầu cao hơn đối với sinh viên về nhận thức chính trị, trình độ học vấn, chuyên môn, nghề
nghiệp, cũng như giữ vững nhân cách và đạo đức để vượt qua những tiêu cực và tệ nạn từ
kinh tế thị trường, hiện tượng toàn cầu hóa cũng như những thành phần thù địch, chống
phá, từ đó luôn hướng tới sự phát triển tích cực và lành mạnh.

2.3. Giải pháp


Những sinh viên, thanh niên Việt Nam hoàn toàn có thể đóng góp cho sự phát
triển nền kinh tế tư nhân, với sức trẻ, sự sáng tạo, tinh thần cầu tiến và lòng yêu nước.
Những hoạt động khởi nghiệp cần được khuyến khích, đẩy mạnh, khi những người trẻ
sáng tạo và tham vọng sẽ được thỏa sức khám phá ý tưởng kinh doanh của mình, giúp tạo
việc làm cho bản thân và những người khác trong xã hội, từ đó góp phần thúc đẩy phát
triển kinh tế cộng đồng và đất nước. Trước những khó khăn hay thử thách, những sinh
viên, người trẻ có thể tìm kiếm sự giúp đỡ hay chỉ dẫn qua những chương trình hỗ trợ
khởi nghiệp, được tổ chức bởi chính phủ và các tổ chức phi chính phủ hoặc tổ chức xã
hội. Với sự giúp đỡ và động viên từ cộng đồng, những người trẻ sẽ được thêm tài nguyên,
kiến thức, kinh nghiệm và trên hết là động lực để tiếp tục hoạt động kinh doanh. Bên
cạnh đó, với tinh thần học hỏi và chí cầu tiến, những sinh viên có thể tham gia nghiên
cứu và phát triển công nghệ bằng cách làm việc, hợp tác với các nhóm nghiên cứu trong
trường hoặc công ty công nghệ tư nhân. Qua đây, tiềm năng chất xám của những người
trẻ có thể được phát huy tối đa ngay vào sự phát triển kinh tế tư nhân, đem lại lợi ích cho
cả cá nhân và xã hội. Để tích lũy thêm kinh nghiệm, những người trẻ nên tìm hiểu và
tham gia vào các chương trình thực tập trong các doanh nghiệp tư nhân. Đây sẽ là cơ hội
tốt để tìm hiểu thực tế, chi tiết hơn về hoạt động kinh doanh, qua đó tích lũy thêm kinh
nghiệm cho công việc khởi nghiệp hay kinh doanh riêng của bản thân trong tương lai,
góp phần vào sự phát triển của nền kinh tế tư nhân. Bên cạnh việc tìm cho mình những cơ
hội học hỏi và tích lũy kinh nghiệm, những người trẻ, sinh viên nên tận dụng sức trẻ và

22
thời gian quý giá để đầu tư vào việc nâng cao kỹ năng, trau dồi kiến thức về kinh doanh
và quản lý, thông qua các khóa học, chương trình đào tạo và vô số loại tài nguyên khác.
Không những vậy, về phía chính quyền, xã hội, nhà trường và gia đình, cần có một sự
đồng cảm và cởi mở đối với những người trẻ, cũng như tích cực hơn trong quá trình giáo
dục - đào tạo, để sinh viên, thanh niên có thể được giao lưu và học hỏi nhiều hơn, đẩy lùi
sự mặc cảm, tự ti. Trên tất cả, sinh viên Việt Nam cần giữ vững lòng yêu nước, đạo đức
cách mạng, nhân cách hoàn thiện, ý thức chấp hành pháp luật, lối sống văn hóa, đoàn kết,
bản lĩnh hội nhập quốc tế trong suốt quá trình học tập và cống hiến cho nền kinh tế tư
nhân nước nhà.

23
V, Tài liệu tham khảo
1. https://timviec365.vn/blog/kinh-te-tu-nhan-la-gi-new6839.html
2. Tư duy chiến lược về phát triển kinh tế - Viện Hàn Lâm KHXH Việt Nam,
Viện Kinh tế Việt Nam (TRẦN ĐÌNH THIÊN - 10/8/2019 )
3. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII,
Nxb.Chính trị quốc gia, H.2021, t.1, tr.240.
4. Kinh tế tư nhân - động lực quan trọng của nền kinh tế, Tạp chí của Ban Tuyên
giáo Trung ương. Viện Khoa học Xã hội và Nhân văn Quân sự ( Nguyễn T.Q.
và Nguyễn L.T. (2021))
5. ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb CTQG, Hà
Nội, 2006, tr.83
6. ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG,
Hà Nội, 2011.
7. ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb CTQG,
Hà Nội, 2016, tr.107-108
8. ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxv
CTQGST, Hà Nội, 2021, t.r240.
9.https://dangcongsan.vn/kinh-te/doanh-nghiep-tu-nhan-dong-gop-48-vao-gdp-
nam-2010-53464.html
10. Tổng cục Thống kê, Sự phát triển của doanh nghiệp Việt Nam giai đoạn 2006-
2010, Hà Nội: NXB Thống kê, 2013, tr.162, 163, 164.
11. Tổng cục Thống kê, Sự phát triển của doanh nghiệp Việt Nam giai đoạn 2006-
2010, Hà Nội: NXB Thống kê, 2013, tr.122-123.
12. Tổng cục Thống kê, Động thái và thực trạng kinh tế Việt Nam năm 2011-2015,
Hà Nội: NXB Thống kê, 2016, tr.189,194.
13. T. Quyên, "Phát triển kinh tế tư nhân, bảo vệ sản xuất trong nước và nâng cao
năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam," 20/7/2017. [Online].
https://by.com.vn/isd9A

24
14. Tổng cục Thống kê, Niên giám thống kê tóm tắt, Hà Nội: NXB Thống kê,
2020, tr.7.
15. "GDP của Việt Nam," [Online]. https://solieukinhte.com/gdp-cua-viet-nam/
16. "Phát triển kinh tế tư nhân trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế
thị trường định hướng XHCN," 16/12/2019. [Online]. https://by.com.vn/4pRin
17. https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/kinh-te/-/2018/815940/thao-go-
nhung-kho-khan%2C-vuong-mac-de-khu-vuc-kinh-te-tu-nhan-phat-trien-
manh-me-va-ben-vung.aspx
18. “Phát huy vai trò của đoàn viên, thanh niên trong công tác xây dựng Đảng về
đạo đức” - Tạp chí Mặt trận (04/04/2022).
19. Bài học về xây dựng, chỉnh đốn Đảng qua 35 năm đổi mới”- Tạp chí Cộng sản
- PGS, TS. NGUYỄN TRỌNG PHÚC (Nguyên Viện trưởng Viện Lịch sử
Đảng, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh)

25

You might also like