You are on page 1of 163

TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỞ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

KHOA QUẢN TRỊ KINH DOANH

TÀI LIỆU THUYẾT MINH TOUR MIỀN TÂY

TUYẾN TPHCM – ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG

Lớp: DH21TO01

Nhóm : 5

Danh sách sinh viên thực hiện:

1. NGUYỄN THỊ THU HƯƠNG

2. DUNG HẢI MY

3. LÊ THANH THẢO

4. DƯƠNG NGỌC TRINH

TP HCM, THÁNG 8 NĂM 2023


MỤC LỤC
Ngày 1: TP HCM – CẦN THƠ...................................................................................................2
1.1 Tổng quan tỉnh Long An, các đặc sản của Long An......................................................2
1.2 Hệ thống sông Vàm Cỏ..................................................................................................2
1.3 Tổng quan Tiền Giang: giới thiệu một số điểm du lịch của Tiền Giang – Sơ lượt lịch
sử Nam bộ, Người Hoa........................................................................................................2
1.4 Giới thiệu tuyến Cao tốc Tp.HCM – Trung Lương – Mỹ Thuận, mở rộng chuyên đề
về đường Cao tốc.................................................................................................................6
1.5 Chùa Vĩnh Tràng...........................................................................................................7
1.6 Hệ thống sông Mê Kông, các cồn, cù lao: Thới Sơn, cồn Phụng, Đạo Dừa, các nghề
truyền thống: kẹo dừa, nuôi ong,….....................................................................................9
1.7 Chiến thắng Ấp Bắc.....................................................................................................12
1.8 Chiến thắng trận Rạch Gầm – Xoài Mút.....................................................................13
1.9 Chợ nổi Cái Bè, cầu Mỹ Thuận, cù lao Bình Hòa Phước............................................14
1.10 Giới thiệu tỉnh Vĩnh Long - Tp.Vĩnh Long, huyện Long Hồ, TX. Bình Minh, ghe
xuồng.................................................................................................................................16
1.11 Cầu Cần Thơ, giới thiệu Tp.Cần Thơ, bến Ninh Kiều, Thiền Viện Trúc Lâm Phương
Nam, nhà cổ Bình Thủy, đình Bình Thủy..........................................................................19
NGÀY 2: NHÓM 2: CẦN THƠ - CÀ MAU............................................................................23
2.1 Chợ nổi Cái Răng – Làng du lịch Mỹ Khánh..............................................................23
2.2 Tổng quan Sóc Trăng, văn hóa Khmer, chùa của người Khmer, chiếc khăn rằn........27
2.3 Chùa Dơi, chùa Đất Sét...............................................................................................31
2.4 Giới thiệu Bạc Liêu, công tử Bạc Liêu, nghệ thuật Đờn Ca Tài Tử Nam bộ, nhạc sĩ
Cao Văn Lầu......................................................................................................................35
2.5 Một số điểm du lịch Bạc Liêu: Mẹ Nam Hải, Nhà mát,…..........................................49
2.6 Nhà thờ Tắc Sậy và đạo Công giáo.............................................................................54
NGÀY 3: NHÓM 3: THAM QUAN CÀ MAU........................................................................57
3.1 Tổng quan Cà Mau, Tp.Cà Mau..................................................................................57
3.2 VQG Mũi Cà Mau, tuyến quốc lộ 1A..........................................................................60
3.3 Hệ sinh thái thực, động vật: cây đước, cây mắm, sú, vẹt…........................................61
3.4 Cực Nam, Bắc, Đông, Tây của Việt Nam....................................................................63
3.5 Đặc sản Cà Mau...........................................................................................................64
3.5 Cácđiểm tham quan du lịch ở Cà Mau: sân chim Cà Mau, đền thờ Bác Hồ, Hòn Đá
Bạc, VQG U Minh Thượng,…..........................................................................................68

2
3.6 Bác Ba Phi...................................................................................................................74
3.7 Xẻo Rô – Tắc Cậu........................................................................................................78
3.8 Hệ thống giao thông từ Cà Mau qua Rạch Giá............................................................79
NGÀY 4: NHÓM 4: RẠCH GIÁ - PHÚ QUỐC......................................................................80
4.1 Tổng quan Kiên Giang.................................................................................................80
4.2 Đình Nguyễn Trung Trực............................................................................................81
4.3 Du lịch biển đảo: Phú Quốc, Nam Du, Hải Tặc..........................................................82
4.4 Du lịch Hòn Chông - Kiên Lương...............................................................................86
4.5 Tổng quan Phú Quốc...................................................................................................87
4.6 Giới thiệu các điểm tham quan tạo Phú Quốc.............................................................89
4.7 Đặc sản Phú Quốc........................................................................................................95
4.8 Du lịch biển đảo Vịnh Thái Lan..................................................................................98
NGÀY 5: NHÓM 5: PHÚ QUỐC - HÀ TIÊN.......................................................................100
5.1 Tổng quan Hà Tiên....................................................................................................100
5.2 Dòng họ Mạc và các di tích nhân vật liên quan: Mạc Cửu Mạc Thiên Tích,............103
5.3 Hà Tiên thập cảnh......................................................................................................106
5.4 Cửa khẩu quốc tế Hà Tiên..........................................................................................116
5.5 Chùa Phù Dung..........................................................................................................117
5.6 Tổng quan An Giang: vùng thất Sơn, văn hóa Óc Eo, các tín ngưỡng và tôn giáo...118
5.6 Khu nhà mồ Ba Chúc, chùa Phi Lai và chiến tranh biên giới...................................124
5.7 Rừng Tràm Trà Sư và hệ sinh thái rừng tràm............................................................127
5.8 Kênh Vĩnh Tế, biên giới............................................................................................130
NGÀY 6: NHÓM 6: HÀ TIÊN – CHÂU ĐỐC......................................................................132
6.1 Giới thiêu về Châu Đốc, người Chăm ở An Giang....................................................132
6.2 Miếu bà Chúa xứ - tín ngưỡng thờ Mẫu, Núi Sam....................................................134
6.3 Tây An cổ tự - Phật Thầy Tây An, Phật giáo Hòa Hảo Sơ lược................................140
6.4 Đặc sản Châu Đốc.....................................................................................................146
6.5 Mùa nước nổi.............................................................................................................148
6.6 Giới thiệu TP.Long Xuyên, du lịch ở Long Xuyên....................................................149
6.7 Tổng quan tỉnh Đồng Tháp........................................................................................152
6.8 Giới thiệu khái quát vùng Đồng Tháp Mười.............................................................154
NGÀY 7: NHÓM 7: CAO LÃNH-TP HCM..........................................................................154
7.1 Giới thiệu về cao lãnh................................................................................................154
7.2 Lăng mộ Phó Bảng Nguyễn Sinh Sắc.......................................................................155
3
7.3 Khu du lịch sinh thái Xẻo Quýt và các điểm du lịch sinh thái ở Đồng Tháp............156
7.4 Khu di tích Gò Tháp..................................................................................................161
7.5 Sen ở Đồng Tháp.......................................................................................................163
7.6 VQG Tràm Chim.......................................................................................................164
7.7 Ẩm thực vùng Đồng Tháp Mười...............................................................................165
7.8 Kết tour......................................................................................................................166

Ngày 1: TP HCM – CẦN THƠ

1.1 Tổng quan tỉnh Long An, các đặc sản của Long An
Vị trí địa lý: Long An có vị trí liền kề TP HCM, thuộc vùng kinh tế trọng điểm phía
Nam, cửa ngõ kết nối giữa miền Đông và miền Tây Nam Bộ, Phía đông giáp Tp HCM,
Phía Tây giáp Đồng Tháp, Phía Nam giáp Tiền Giang và Phía Bắc giáp Tây Ninh và
Vương Quốc Campuchia.
Giao thông: Đường cao tốc TP HCM-Trung Lương đi qua địa phận tỉnh. QL1A, QL50
nối TP HCM với các tỉnh vùng Đồng Bằng sông Cửu Long. QL 62 đi cửa khẩu quốc tế
Bình Hiệp
Tài Nguyên du lịch
Du lịch sinh thái và vui chơi giải trí với không gian ngoài trời. Nổi bật là Khu du lịch
sinh thái Làng Nổi Tân Lập, Trung tâm nghiên cứu bảo tồn và phát triển dược liệu
Đồng Tháp Mười, Khu du lịch Cánh Đồng Bất Tận. Làng cổ Phước Lộc Thọ, các tour
về Cần Đước thăm xứ Chợ Đào, tour Long An Ngày ấy và bây giờ, tour du lịch đôi
dòng vàm cỏ,
Những di tích lịch sử quốc gia tiêu biểu như Vàm Nhựt Tảo ở xã An Nhựt Tân, huyện
Tân Trụ, di tích lịch sử văn hóa quốc gia Đình Tân Xuân ở thị trấn Tầm Vu, huyện
Châu Thành,..
1.2 Hệ thống sông Vàm Cỏ
Sông Vàm Cỏ Đông là một chi lưu của sông Vàm Cỏ, thuộc hệ thống sông Đồng Nai.
Sông Vàm Cỏ Đông bắt nguồn từ vùng đồng bằng trũng thấp thuộc lãnh thổ
Campuchia chảy vào Việt Nam tại xã Biên Giới, huyện Châu Thành, tỉnh Tây Ninh,
kết hợp với sông Vàm Cỏ Tây tạo nên sông Vàm Cỏ để đổ vào sông Soài Rạp và đi ra
biển Đông.
Sông có chiều dài 280 km trong đó phần trên lãnh thổ Việt Nam dài hơn 190 km.Lưu
vực sông rộng 8.500 km² và lưu lượng là 96 m³/s. Tại Tây Ninh, Vàm Cỏ Đông chảy
từ phía tây bắc hướng Bến Cầu có cảng Bến Kéo qua Gò Dầu Hạ, rồi xuôi hướng đông
nam chảy qua thị trấn Bến Lức của tỉnh Long An.

4
Đoạn trung lưu chảy từ Bến Lức tới Tân Trụ, vào thời chúa Nguyễn và nhà Nguyễn
gọi là sông Bến Lức (hoặc sông Lật Giang hay sông Cửu An). Sông Vàm Cỏ Đông và
sông Vàm Cỏ Tây hợp lưu lại (tại Tân Trụ) thành sông Vàm Cỏ.
1.3 Tổng quan Tiền Giang: giới thiệu một số điểm du lịch của Tiền Giang – Sơ
lượt lịch sử Nam bộ, Người Hoa
Tổng quan Tiền Giang
Vị trí địa lí: Phía bắc và đông bắc giáp tỉnh Long An, Phía tây giáp tỉnh Đồng Tháp ,
phía Nam giáp tỉnh Bến Tre và tỉnh Vĩnh Long, phía đông giáp Biển Đông.
Tiền Giang nằm trải dọc trên bờ Bắc sông Tiền (một nhánh của sông Mê Kông) với
chiều dài 120 km, trung tâm văn hóa chính trị của cả ĐBSCL, là địa bàn trung chuyển
hết sức quan trọng gắn cả miền Tây Nam Bộ.
Khí hậu Tiền Giang có hai màu rõ rệt, đó là mùa mưa và mùa khô. Nhiệt độ trung bình
là 27 độ C, lượng mưa trung bình là 2300 mm/ năm.
Các sông chính là sông Tiền, sông Gò Công, sông Bảo Định và một mạng lưới kênh
đảo thuận lợi cho giao thông đường thủy. Từ Tiền Giang có thể đi TP. Hồ Chí Minh
hoặc Phnom Penh bằng đường sông. Đường bộ chính là quốc lộ 1A chạy xuyên qua
các tỉnh Đồng Bằng Sông Cửu Long
Tài nguyên du lịch:
Là tỉnh có tiềm năng hàng đầu về du lịch. Hàng năm, lượng du khách đến đạt hơn
300.000 lượt. Thế mạnh chủ yếu nhờ vào các di tích văn hóa lịch sử và sinh thái như:
Gò Thành (thế kỷ 1 đến thế kỷ 6 sau công nguyên); di tích lịch sử Rạch Gầm-Xoài
Mút, di tích Ấp Bắc, lũy Pháo Đài; nhiều lăng mộ và đền chùa lăng Trương Định, lăng
Hoàng Gia, lăng Tứ Kiệt, chùa Vĩnh Tràng, chùa Bửu Lâm, chùa Sắc Tứ.. . Các điểm
du lịch sinh thái như: vườn cây ăn quả ở cù lao Thới Sơn, Ngũ HIệp, Trại rắn Đồng
Tâm , khu sinh thái Đồng Tháp Mười, Biển Gò Công.
Sơ lượt lịch sử Tây Nam bộ
Vùng đất Tây Nam Bộ là nơi không những đa dạng các nền văn hóa của nhiều dân tộc
sinh sống và tạo thành như người Hoa, người Việt, người Chăm, người Khmer,..
Đất nước Phù Nam – Khởi đầu lịch sử hình thành miền Tây Nam Bộ nước ta
Tầm khoảng thời gian từ 4000 năm đến 5000 năm trước khu vực ĐNB nước ta bây giờ
đã được người Indonesia khai phá ra. Đến thế kỷ thứ VIII thì người dân Indonesia
cùng với nhiều tầng lớp người dân ngoại nhập của đất nước này đã đến đây sinh sống
và tạo nên nền văn hóa Óc Eo, cùng với đó là sự ra đời của vương quốc mang tên Phù
Nam.
Họ xây dựng nhiều công trình, trung tâm văn hóa chính trị và có cả tôn giáo, cảng thị
Óc Eo ở Bình Tả, Gò Tháp,.. là Long An, Đồng Tháp bây giờ.
Sau đó đến thế kỷ thứ VI – Thế kỷ thứ VII thì vương quốc Chân Lạp (Chenla) từ
Indonesia mới đem quân đánh đuổi triều đình vương triều Phù Nam ra phía đảo Java,

5
chỉ còn một bộ phận nhỏ dân cư ở lại Nam Bộ. Và cuối cùng dần dần văn hóa Óc Eo
cũng dần lụi tàn.
Vương quốc Chân Lạp cũng mang quân nhiều lần đánh chiếm Champa, cho đến năm
1203 thì Champa chính thức trở thành thuộc địa của Chân Lạp. Thời gian lên đến 17
năm.
Tất cả công trình kiến trúc cho dòng sự kiện này đến giờ vẫn còn được lưu giữ như là
núi Ba Thê, tháp gạch Bình Thạnh, bi ký Chăm tại Biên Hòa hay Chót Mạt tại Tây
Ninh,..
Giai đoạn vua chúa thời Nguyễn khai phá Nam Bộ
Vào năm 1620 thì chúa Sãi (Nguyễn Phúc Nguyên) đã gả công chúa Ngọc Vạn vào
làm vợ cho vua nước Chân Lạp là Chey Chetta II, đồng thời hỗ trợ quân để giúp vua
Chân Lạp đánh đuổi giặc Xiêm.
Năm 1623 thì vua Chey Chetta II cho phép chúa Sãi tiếp quản khu vực vùng Mô Xoài
để lập thương điểm thu thuế tại 2 địa điểm là Sài Gòn và Bến Nghé bây giờ. Đây cũng
mở đầu cho sự kiện dân Việt đã dần xuống đến nhiều vùng tại Nam Bộ.
Và đến năm 1779 thì dưới thời chúa Nguyễn Ánh toàn Nam Bộ đã trở thành khu vực
của phủ Gia Định lúc bấy giờ. Nước Chân Lạp khi ấy chỉ còn tiếp quản Sóc Trăng và
Trà Vinh, cho đến 1835 cũng được sát nhập vào lãnh thổ nước Việt. Sau đó là quá trình
chúa Nguyễn cho dân và quân đi khai phá khắp Nam Bộ.
Đây là thời gian mà các dân tộc người Việt, Hoa, Khmer, Chăm lần lượt tiến sâu vào
vùng đất Tây Nam Bộ để khai khẩn đất đai, sinh sống và tạo nên các đô thị sầm uất.
Trở thành nơi dung hợp nhiều nền văn hóa lại với nhau.
Thời Pháp xâm lược khu vực Nam Bộ
Năm 1867, Thực dân Pháp chiếm hoàn toàn Nam Kỳ lục tỉnh và bắt đầu chia Nam Kỳ
thành 4 khu vực hành chính là Mỹ Tho, Vĩnh Long, Bát Xắc và Sài Gòn kèm theo đó
là 19 hạt. Đây được xem là bước đầu hình thành diện mạo của các tỉnh thành Tây Nam
Bộ.
Các tỉnh miền Đông: Tây Ninh, Thủ Dầu Một, Bà Rịa, Biên Hòa
Các tỉnh miền Trung Nam Kỳ: Chợ Lớn, Gia Định, Mỹ Tho, Gò Công, Vĩnh Long,
Tân An, Bến Tre, Sa Đéc, Trà Vinh.
Các tỉnh miền Tây Nam Kỳ: Hà Tiên, Châu Đốc, Long Xuyên, Rạch Giá, Cần Thơ,
Bạc Liêu, Sóc Trăng.
Trong khoảng thời gian Pháp thuộc khu vực này cũng chịu các ảnh hưởng từ nền văn
hóa phương Tây tạo nên sự giao thoa nhiều nền văn hóa khác nhau cho vùng đất Nam
Bộ.
Nổi tiếng khắp cả nước nhờ vào ngành nông nghiệp trồng lúa, dòng sông Cửu Long và
vựa trái cây đặc trưng cho từng tỉnh thành ở Tây Nam Bộ.

6
Cũng khó lòng mà bỏ qua được vô số danh lam thắng cảnh đặc sắc từ cảnh đẹp thiên
nhiên (Vũng Tàu, Tràm Chim, Hà Tiên, Côn Đảo..), công trình văn hóa tôn giáo (Chùa
Kiến An Cung, chùa Tây An, Tòa Thánh Tây Ninh,..) cho đến những địa điểm mang
nhiều dấu ấn lịch sử, trở thành di tích (địa đạo Củ Chi, Chợ Bến Thành,..).

Những sự thay đổi của Tây Nam Bộ từ giai đoạn hình thành nước Việt Nam đến nay
Trải qua quá trình giải phóng miền Nam, hình thành nên nước Việt Nam Cộng hòa,
thống nhất đất nước thì thì đã trải qua nhiều giai đoạn phân chia lại các tỉnh thành phố
cho khu vực Nam Bộ. Cho đến bây giờ tại Nam Bộ có tổng cộng 19 tỉnh thành phố với
5 tỉnh, 1 thành phố ở Đông Nam Bộ và 12 tỉnh, 1 thành phố ở Tây Nam Bộ.
Sơ lược Người Hoa
Người Trung Quốc bắt đầu di cư vào Việt Nam từ thế kỷ thứ III trước công nguyên, từ
đầu thời kì bắc thuộc. TRong hai thiên niên kỷ kể từ đó, nhiều làn sóng người Trung
Quốc gồm lính, quan, dân ,...đã đến định cư tại Việt Nam.
Vào thế kỷ XVII tại Trung Quốc, sự sụp đổ của nhà Minh dẫn đến làn sóng người Hoa
trung thành với nhà Minh và không thuần phục nhà Thanh bỏ quê hương di dân sang
vũng Đông Nam Á trong đó có Việt Nam.
Năm 1671 Mạc Cửu và gia đình đến vùng đất Mang Khảm( nay là Hà Tiên), khi đó
vẫn thuộc quyền kiểm soát của vương quốc Chân Lạp. Mạc Cửu đã mở rộng quyền
kiểm soát ra các vùng lân cận và sau đó quy thuận chúa Nguyễn.
Năm 1698, ở vùng Phiên Trấn - Bến Nghé - Sài Gòn đã hình thành nên làng MInh
Hương ở Gia Thạnh, chớ Lớn cũ.Tuy thu lợi từ những người Hoa định cư tại Việt
Nam, nhưng các vị vua chúa Việt Nam chưa bao giờ cảm thấy yên về lòng trung thành
của họ. Tại thời điểm xấu nhất của hai bên, 10 ngàn người Hoa vùng cù lao Phố đã bị
quân Tây sơn tàn sát vào thế kỷ XVIII.
Sau khi nhà Nguyễn ban hành quy chế thành lập các Bang Hoa Kiều,người Hoa sinh
sống tại Việt Nam có tất cả 7 bang: Quảng Triệu ( Quảng Đông), Khách gia, Triều
Châu, Phước Kiến, Phước Châu, Hải Nam và Quỳnh Châu. Trụ sở của 7 bang thường
được gọi là “ Thất phủ công sở” hoặc ‘ Thất phủ hội quán’.
Đến thế kỷ XIX, người Pháp tạo điều kiện cho người Hoa vào định cư ở Sài Gòn, Chợ
Lớn. Thời kỳ này, người Hoa sang Việt Nam theo các đợt tuyển mộ phu đồn điền của
người Pháp.
Tháng giêng năm 1885, Pháp ra lệnh sáp nhập Bang Phước Châu vào trong Bang
PHước Kiến, sáp nhập bang Quỳnh Châu vào trong bang Hai Nam. Vì vậy về sau
người Hoa chỉ còn 5 bang.
Năm 1949, một số người Hoa chạy sang Việt Nam khi Trung Quốc Quốc dân đảng
thua ở lục địa. Từ trước 1949, người Hoa vẫn giữ quốc tịch Trung Quốc .
1956, chính phủ Ngô Đình Nhiệm đề ra chính sách buộc tất cả người Hoa phải nhập
quốc tịch Việt Nam hoặc bị trục xuất
7
Cộng đồng người Hoa ở Nam Bộ mới được hình thành cách nay hơn ba thế kỷ, đa số
người Hoa đến Nam Bộ là những cư dân Trung Hoa có nguồn gốc cư trú ở duyên hải
phía Nam Trung Quốc và quá trình nhập cư vào Nam Bộ kéo dài nhiều thế kỷ. Người
Hoa ở Nam Bộ, cùng với người Khmer, người Việt là những cộng đồng cư dân đã
tham dự công cuộc khai khẩn vùng đất Nam Bộ từ rất sớm, khi vùng đất này hãy còn
hoang hóa.
Hơn ba thế kỷ qua, cũng là thời gian để định hình một văn hóa của người Hoa ở Nam
Bộ. Đất Nam Bộ cũng là quê hương của người Hoa, và những cộng đồng cư dân các
dân tộc cùng cộng cư với người Hoa là những anh em bà con ruột thịt. Quả thật, không
chỉ là một cách nói hình tượng, mà thực tế ở Nam Bộ là như vậy, người Hoa đã trải
qua bao đời chung sống với người Việt trong các thị trấn, thị tứ, xóm ấp, với người
Khmer trong các phum, sóc, ruộng vườn, đã có quan hệ hôn nhân với nhau và những
thế hệ con lai đã ra đời.
Trong quá trình giao lưu văn hóa với các cộng đồng cư dân Việt, Khmer ở Nam Bộ,
người Hoa không chỉ nhận, mà còn góp vào sự phong phú và đa dạng của văn hóa
Việt, Khmer..., hình thành những đặc điểm của vùng văn hóa Nam Bộ của Việt Nam.
Những cư dân người Hoa đến Nam Bộ đã trực tiếp ảnh hưởng đối với văn hóa của cư
dân đang sinh sống ở đây từ đời sống văn hóa như tín ngưỡng tôn giáo đến hoạt động
sản xuất. Từ đó mối quan hệ đoàn kết gắn bó giữa người Hoa với các dân tộc ở Nam
Bộ ngày càng mật thiết, bền chặt hơn. Văn hóa của người Hoa ở Nam Bộ là một phần
trong tài sản văn hóa của cộng đồng các dân tộc ở Việt Nam.
1.4 Giới thiệu tuyến Cao tốc Tp.HCM – Trung Lương – Mỹ Thuận, mở rộng
chuyên đề về đường Cao tốc
Tuyến cao tốc tp Hồ Chí Minh-Trung Lương
- Đường cao tốc Thành phố Hồ Chí Minh – Trung Lương (ký hiệu toàn tuyến
là CT.01) là một đoạn đường cao tốc thuộc hệ thống đường cao tốc Bắc – Nam phía
Đông nối Thành phố Hồ Chí Minh với Tiền Giang nói riêng và các tỉnh Đồng bằng
sông Cửu Long nói chung; dài 61,9 km gồm 2 hệ thống đường: Tuyến cao tốc (dài
39,8 km) và các tuyến đường nối (22,1 km).
-Đường cao tốc Thành phố Hồ Chí Minh – Trung Lương có điểm đầu tuyến là nút giao
thông Chợ Đệm, thị trấn Tân Túc, huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh và
điểm cuối là nút giao thông Thân Cửu Nghĩa (Km 50) huyện Châu Thành, Tiền Giang,
[1] kết nối với đường cao tốc Trung Lương – Mỹ Thuận.
-Tuyến cao tốc TP.HCM – Trung Lương có điểm kết nối với tỉnh Long An ngay đường
ĐT830. Đây là khu vực quan trọng bởi có nhiều khu công nghiệp, cảng sông đang hoạt
động. Đường ĐT 830 đang được đầu tư mở rộng, kết nối trực tiếp với các tuyến quốc
lộ và cao tốc, thúc đẩy kinh tế khu vực này phát triển mạnh hơn trong thời gian tới.
Theo ban quản lý dự án, hiện công tác giải phóng mặt bằng đang được đẩy nhanh tiến
độ để kịp hoàn thành toàn tuyến vào cuối năm. Tuyến đường được mở rộng là cầu nối
quan trọng kết nối các khu công nghiệp trong tỉnh với nhau và kết nối với Cảng Quốc
tế Long An, tạo động lực cho phát triển công nghiệp của tỉnh. Tuyến đường cao tốc
8
Thành Phố Hồ Minh – Trung Lương là cầu nối quan trọng kết nối các khu công nghiệp
trong tỉnh với nhau và kết nối với Cảng Quốc tế Long An, tạo động lực cho phát triển
công nghiệp của tỉnh. Ngoài ra, tuyến đường huyết mạch này còn kéo theo sự phát
triển đô thị, hình thành các khu dân cư tập trung, tiền đề phát triển đô thị trong tương
lai.
Tuyến cao tốc Trung Lương-Mỹ Thuận
- Đường cao tốc Trung Lương – Mỹ Thuận (ký hiệu toàn tuyến là CT.01) là một
đoạn đường cao tốc thuộc hệ thống đường cao tốc Bắc – Nam phía Đông đi qua địa
phận tỉnh Tiền Giang. Theo thiết kế, đường cao tốc này dài 51 km, có điểm đầu tiếp
nối đường cao tốc Thành phố Hồ Chí Minh – Trung Lương tại nút giao Thân Cửu
Nghĩa, đi song song với Quốc lộ 1 và kết thúc tại nút giao An Thái Trung giao
với Quốc lộ 30, cũng là điểm đầu của đường dẫn cầu Mỹ Thuận 2. Đường cao tốc
thiết kế với 4 làn xe, không có làn khẩn cấp, thay vào đó mỗi chiều bố trí 6 điểm dừng
khẩn cấp cách nhau khoảng 4 – 5km. Dự kiến đến giai đoạn nâng cấp mở rộng, cao tốc
sẽ được nâng lên 6 làn và 2 làn dừng khẩn cấp 2 bên. Vận tốc tối đa cho phép là
80km/h, tối thiểu là 60km/h.
- Mục đích đầu tiên là kết nối hạ tầng giao thông trở nên nhanh chóng và thuận tiện
hơn. Giao thông phát triển là yếu tố quan trọng tạo tiền độ cho sự phát triển của các
lĩnh vực khác như kinh tế, xã hội, văn hóa, du lịch….khu vực này và trên cả nước.
Theo đó, sau khi bản đồ đường cao tốc Trung Lương – Mỹ Thuận xây dựng hoàn tất
thì việc người dân di chuyển từ thành phố Hồ Chí Minh đến các tỉnh miền Tây Nam
Bộ trở nên nhanh chóng và dễ dàng hơn nhiều.
-Đường cao tốc Trung Lương – Mỹ Thuận hoàn thiện và đi vào hoạt động cũng đã góp
phần thúc đẩy quá trình vận chuyển nông sản, thủy hải sản từ các tỉnh miền Tây Nam
Bộ lên trung tâm Sài Gòn trở nên dễ dàng hơn. Ngoài ra, từ khi tuyến đường cao tốc
Trung Lương Mỹ Thuận đi vào hoạt động thì hàng loạt các hình thức, cơ sở kinh
doanh cả online và offline trở nên đa dạng và sầm xuất hơn. Nhờ dự án đã kéo theo
lượng lớn dân cư về an cư tại đây giúp việc kinh doanh của người dân khu vực này trở
nên suôn sẻ, nhộn nhịp hơn nhiều so với trước đây.
1.5 Chùa Vĩnh Tràng
-Là điểm đến tâm linh không thể bỏ qua khi đến tỉnh Tiền Giang. Là ngôi chùa thờ
phật lớn nhất Tiền giang; chùa tọa lạc trên đường Nguyễn Trung Trực, ấp Mỹ An, xã
Mỹ Phong, thành phố Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang.
-Lịch sử hình thành: Đầu thế kỷ XIX, chùa được ông bà Bùi Công Đạt-một vị quan
dưới thời vua Minh Mạng nhà Nguyễn bắt đầu xây dựng để tu tập. Đến năm 1849, Hòa
thượng Thích Huệ Đăng ở chùa Giác Lâm (Gia Định) về trụ trì, xây dựng thành ngôi
đại tự và đặt tên là Vĩnh Trường với ngụ ý “ vĩnh cửu đối sơn hà, trường tồn tề thiên
địa”. Chính vì vậy, người dân vùng lân cận đến nay hay gọi là chùa Vĩnh Tràng. Năm
1907, hòa thượng Chánh Hậu đã cho trùng kiến ngôi chùa pha hòa giữa nét kiến trúc Á
và Âu và cuối cùng đến năm 1930, hòa thượng Minh Đằng cho trùng tu toàn diện để

9
có diện mạo như ngày nay. Năm 1984, chùa Vĩnh Tràng được công nhận Di tích lịch
sử-văn hóa cấp quốc gia.
-Kiến trúc: Chùa Vĩnh Tràng được kiến trúc theo dạng chữ Quốc, gồm 4 gian nối tiếp
nhau (tiền đường, chánh điện, nhà tổ và nhà hậu) rộng 14.000m2 ,dài 70m2 rộng
20m2, xây bằng xi măng và gỗ quý, nền đúc cao 1 m, xung quanh xây tường vững
chắc.
Đây là ngôi chùa có lối kiến trúc độc đáo nhất Nam Bộ; điểm nhấn của chùa Vĩnh
Tràng là cổng tam quan được xây dựng tựa như 2 lâu đài rất tinh xảo, độc đáo với
nghệ thuật ghép mảnh sành, sứ. Trên lầu của 2 cổng tam quan có tượng của hòa
thượng Chánh Hậu và Hòa thượng Lê Ngọc Xuyên; và từ màu sắc của các loại sành
sứ, những nghệ nhân xưa đã khéo léo xếp đặt thành nhiều bức tranh minh họa sự tích
nhà Phật, truyện tích dân gian, đề tài tứ linh, tứ quý, hoa lá, mây trời… và còn có các
bức thủ quyển mềm mại ghi những câu Phật hiệu bằng nét chữ điêu luyện: Trấn tịnh
sơn môn, Quảng đại nguyện môn, Tịnh độ huyền môn… Riêng mặt trước của tiền
đường thì được xây dựng theo lối kiến trúc hài hòa Âu – Á với những hàng cột thanh
mảnh, vòm cong và hoa văn nhiều màu sắc. Bên trong chánh điện và nhà tổ làm theo
kiểu Trung Quốc nhưng vẫn giữ được nét kiến trúc Việt Nam, nối hai gian này là một
khoảng nhỏ có hòn non bộ ở giữa, hòn non bộ này phác họa lại cảnh thiên nhiên sinh
động mang bản sắc Việt Nam. Đúng trên hòn non bộ nhìn về mặt sau gian chánh điện,
hai bên nhà cầu, mặt trước nhà tổ, ta sẽ thấy lối kiến trúc Rô-ma với những hàng đá
hoa màu của Pháp được trang trí trên thành nóc, trên những cột xây bằng xi măng kiểu
cách. Đi vào bên trong ta sẽ thấy một màu vàng óng ánh được xếp trên các hình chạm,
trên các tượng phật. Đáng chú ý hơn cả là những đôi long trụ trong ngôi chính điện, đó
là những cây cột tròn to, bằng gỗ quý kiến trúc theo kiểu “thượng thu hạ cách”. Không
gian bên trong chùa là nơi tập trung nhiều tác phẩm mỹ thuật của các thế hệ nghệ nhân
khắp ba miền Bắc, Trung, Nam. Chùa được trang bị trên 60 tượng phật đúc bằng gỗ,
đồng, đất nung, xi măng, đa số tượng bằng gỗ, tất cả được thếp vàng óng ánh và được
tạo vào cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX. Riêng 3 tượng đồng (Di đà cao 98 cm, Quan
Âm và Thế Chí cao 93 cm) được tạo tác giữa thế kỷ XIX. Ngoài ra, chùa còn có 7 bộ
bao lam chính ( cùng nhiều bộ bao lam phụ ),được thếp vàng chẳng hạn như giữa lòng
cột cái là bộ bao lam bát tiên kỵ thú. Tác phẩm này ra đời vào khoảng năm 1907 –
1908 do những nghệ nhân tại địa phương thực hiện. So với các bộ bao lam xung
quanh, bộ này có niên đại sớm hơn, nhưng đạt trình độ mỹ thuật cao hơn. Đây là một
bức phù điêu hiếm có của những năm đầu thế kỷ 20, chứng tỏ nghệ thuật tạo hình ở
Nam bộ phát triển khá sớm. Bốn cột cái của chùa Vĩnh Tràng đều treo long trụ. Đôi
phía ngoài chạm tứ linh do bà Lê Thị Ngởi ở Ba Tri (Bến Tre) hiến cúng vào năm
1909. Nét đặc biệt là đôi long trụ này có lối sắp xếp bố cục độc đáo có một không hai:
chạm chim phượng đứng trên đầu rồng. Có thể nói toàn bộ cái đẹp của chùa Vĩnh
Tràng đều tập trung vào nghệ thuật tạo hình, trong đó phần tượng chiếm đa số. Đặc
biệt, tại chùa còn có Bộ tượng mười tám vị La Hán không thua kém về mặt nghệ thuật
so với tượng các vị La Hán chùa Tây Phương. 18 bức tượng này nằm ở hai bên tường
chánh điện, được tạc từ gỗ mít, mỗi tượng cao khoảng 0,8m, bề ngang gối là 0,58m.
Các vị La Hán đều cưỡi thú, trên tay cầm bửu bối. Lối đặc tả của nhóm tượng này
10
cũng mang dáng dấp riêng, rất Nam bộ, nhưng lại thành công trong việc mô tả cảm
xúc đặc trưng của từng vị La Hán, chứng tỏ ngoài tay nghề, tác giả còn khá am tường
giáo lý nhà Phật.
To nhất là tượng Di Đà do ông Tống Hữu Trung ở Vĩnh Long hiến cúng. Ngoài ra còn
có tượng Hộ Pháp khuyến thiện trừng ác… Tất cả thể hiện đỉnh cao của nghệ thuật tạc
tượng tròn khu vực đồng bằng sông Cửu Long.
Bên cạnh những pho tượng, hiện vật còn lại trong chùa là: Đại Hồng Chung mang tên
Pháp Bảo Chuông cao 12 cm, nặng khoảng 150 kg được đúc giữa tháng 5 năm 1854,
khắc chữ "Vĩnh Trường Tự". Hiện nay Pháp Bảo Chuông không sử dụng được, bị
hỏng do nằm lâu dưới nước sau thời gian thất lạc.
Ngoài ra, chùa hiện còn sở hữu hơn 20 bức tranh sơn thủy có giá trị. Tuy ảnh hưởng
tranh vẽ Trung Quốc nhưng những bức vẽ đều mang đậm nét dân gian Việt Nam, in
hình "Mai, lan, cúc, trúc" và phong cảnh Việt Nam. Xung quanh chùa là những vườn
cây cảnh trồng nhiều loại hoa thơm cỏ lạ, những hồ nước thơm ngát hương sen và
những cây cổ thụ che trùm bóng mát, tạo nên sự hài hòa tuyệt vời giữa khung cảnh
thiên nhiên với không gian kiến trúc, khiến chùa thêm cổ kính, thâm nghiêm. Nổi bật
giữa hoa viên là pho tượng phật Di Đà cao 24m (bệ 6m, tượng 18m). Tượng màu
trắng, diễn tả Phật đang đứng trông nom chúng sinh các cõi.Tượng Phật được nhiều
người địa phương cho là biểu tượng của ngôi chùa hiện nay.
-Giá trị: Vĩnh Tràng được xem là ngôi chùa cổ danh tiếng và là một công trình kiến
trúc đặc sắc. Có thể nói rằng vẻ đẹp của chùa tập trung ở nghệ thuật tạo hình và cũng
chính là sự phản ánh lịch sử mỹ thuật của mảnh đất Tiền Giang. Ngày nay, chùa đã trở
thành điểm du lịch không thể bỏ qua của những du khách trong nước cũng như nước
ngoài khi có dịp đến tham quan thành phố Mỹ Tho.
1.6 Hệ thống sông Mê Kông, các cồn, cù lao: Thới Sơn, cồn Phụng, Đạo Dừa, các
nghề truyền thống: kẹo dừa, nuôi ong,…
Hệ Thống sông Mê Kông, Cù lao thới sơn
Sông Tiền là một nhánh của sông Me Kong. Con sông Mekong được bắt nguồn từ Tây
Tạng, Trung Quốc chảy sang Việt Nam qua các nước như Myanmar, Lào, Thái Lan,
Campuchia sau đó mới đến Việt Nam. Khi đến Việt Nam thì con sông Mekong này
được chia ra làm hai nhánh đó là sông Tiền và sông Hậu. Sông Hậu trực thuộc tỉnh
Hậu Giang và tỉnh Cần Thơ. Còn sông Tiền thì trực thuộc của Tiền Giang này.
Trên con sông Tiền này có rất là nhiều cù lao. Đặc biệt ở đây có 4 cù lao chính là
Long, Lân, Quy, Phụng. Phía bên trái là cù lao Long hay người ta còn gọi là Làng nghề
đánh cá, và trước kia nữa thì người ta gọi cù lao này là Cồn Cùi bởi vì ngày xưa khi
người Hoa đến đây sinh sống có những người họ bị bệnh Phong. Và những người bị
bệnh Phong này được cách ly qua cù lao này để sinh sống nên họ gọi nó là Cồn Cùi.
Nhưng bây giờ thì không còn nữa bây giờ thì nó thuộc một Phường của TP Mỹ Tho đó
là phường Tân Long, tiếp theo là cù lao Lân hay được gọi là Thới Sơn. Đây là cù lao
Lớn nhất trong các cù lao ở đây, nó có tổng chiều dài hơn 11km bề ngang của nó rộng

11
nhất khoảng 1,5km. Hai cù lao nói trên trực thuộc tỉnh Tiền Giang. Và hai cù lao còn
lại là cù lao Quy và cù lao Phụng thì nó trực thuộc của tỉnh Bến Tre.
Cầu Rạch Miễu Được khởi công xây dựng vào ngày 30/4/2002 và được khánh thành
vào ngày 19/1/2009 nó được làm trong vòng 7 năm và nó có tổng chiều dài tính luôn
đường dẫn của nó là hơn 8km được bắt từ Tiền Giang qua Bến Tre. Nhưng chiều dài
chính của cầu này chỉ gần 3km thôi, vì bề ngang của con Sông Tiền này tính từ Tiền
Giang qua Bến Tre là gần 3km. Cây cầu này thì vốn đầu tư hay kiến trúc sư đều là của
Việt Nam và tổng cộng có 3 nhịp cầu, nhịp cầu đầu tiên là nhịp cầu chính có kiến trúc
dạng hình dây văng và độ thông cầu của nó khoảng 40m, hai nhịp cầu còn lại thì được
bắt từ cù lao Thới Sơn qua cù lao Phụng. Cù Lao Phụng qua bờ Bến Tre thì nó thấp
hơn và nó không có kiến trúc dạng hình dây văng.
Các loại cây trồng, nuôi ong lấy mật
- Màu nước của sông Tiền luôn luôn lúc nào cũng có màu vàng đục cho dù là mùa
mưa hay mùa nắng thì không phải là ô nhiễm mà vì nó mang nặng phù sa vì mình
đang ở Hạ Nguồn Sông Mê Kông nên được thiên nhiên ban tặng lượng phù sa này rất
là dồi dào. Khi mới hình thành thì nó chỉ là một cù lao nhỏ thôi, và hàng năm thì
những hạt phù sa này bồi đắp vào cù lao đó mỗi một lớn ra như cù lao Thới Sơn được
hình thành hơn 300 năm nay.
- Và do ở đây là đất phù sa nên rất thích hợp trồng những loại cây ăn trái như Nhãn,
Bưởi, xoài, sầu riêng, măng cụt,... Nhưng đặc biệt ở trên cù lao này họ trồng nhiều
nhất đó là Nhãn bởi vì nhãn ở đây cho họ được hai cái lợi thế.
+Thứ nhất là khi ra hoa thì họ có thể nuôi được con ong mật và thứ hai khi kết trái
họ có thể bán được trái đó. Và Nhãn ở trên những cù lao này có quanh năm. Quanh
năm ở đây không phải là một cây nó cho trái quanh năm mà là toàn cù lao xử lí nghịch
mùa nên là quanh năm lúc nào cũng có Nhãn hết.
+ Những nhà nào mà họ nuôi ong thì họ sẽ mang những cái thùng ong họ đi gởi ở cái
vườn nhãn đó. Còn khi mình đến với trại nuôi ong ở đây thì họ chỉ để ở trước vài
thùng ong cho mình xem thôi và mình có thể chụp ảnh. Ong ở đây chưa cắn ai bao giờ
nó chỉ chích. Mỗi thùng ong như vậy có tới 3-4000 con ong nhưng nó Duy nhất chỉ có
1 con ong chúa thôi. Còn những con ong còn lại là những con ong thợ và có thêm một
con ong nữa mà vào mùa giao phối mới thấy được nó là con ong đực. Đặc biệt ở chỗ
ong đực này không chích, không cắn, nó chỉ có một nhiệm vụ duy nhất là giao phối
với con ong chúa vào một lần duy nhất thôi và nó sẽ chết đi. Mà khi nó muốn giao
phối với con ong chúa đâu phải đơn giản muốn giao phối là được đâu, nó phải bay lên
cao rồi đánh nhau với những con ong khác nữa, con nào thắng mới được giao phối với
con ong chúa nữa.
Cồn Phụng
- Cồn Phụng là một cù lao nổi tiếng giữa sông Tiền, với diện tích khoảng 30 nghìn mét
vuông, cách trung tâm thành phố Bến Tre 13 km nếu đi bằng đường bộ và khoảng
25km bằng đường sông. Nhìn từ không trung, Cồn Phụng như một làng quê miền Tây
thu nhỏ của Đồng Bằng sông Cửu Long.
12
- Trước đây, cồn Phụng có tên gọi là cồn Tân Vinh. Về sau nó còn có tên gọi khác là cù
lao Đạo Dừa. Nguyên do là vì ông Nguyễn Thành Nam sinh năm 1909 mất năm 1990.
Đến đây xây dựng chùa Nam Quốc Phật và thành lập nên một giáo phái gọi là Đạo
Dừa vào năm 1963. Là con của phú hộ giàu nhất vùng. Nguyễn Thành Nam được gia
đình cho sang Pháp du học tự túc để sau này làm rạng danh tổ tông. Ông là một trong
số ít người ở xứ Đông Dương sang Tây học ngành Khoa học tự nhiên thời bấy giờ. Sau
bao năm vùi mài kinh sử, cuối cùng ông cũng trở về với tấm bằng kỹ sư hoá học. Bắt
tay vào công việc kinh doanh nhưng thất bại. Ông bắt đầu con đường tu tập không
giống ai của mình. Trong nhà trưng bày của Đạo Dừa còn ghi lại những bức ảnh của
ông lúc sinh thời đến khi ông qua đời
Cái tên Đạo Dừa xuất phát từ
-"Đạo Dừa được giải thích là do trong quá trình tu tập của ông thì thực phẩm chủ yếu
của ông dùng hàng ngày không phải là cơm gạo thịt cá mà chủ yếu chỉ ăn dừa uống
dừa và các loại hoa quả để sống. Cho nên từ một người cũng rất là cao to. Sách có viết
lại rằng chiều cao của ông Đạo Dừa lúc bấy giờ lúc mà còn trẻ thì cao hơn 1m70 và
nặng hơn 70 cân. Nhưng sau quá trình tu tập như thế hơn 45 năm thì ông chỉ còn cao
hơn 1m44 nặng hơn 28 cân”.
Di tích Đạo Dừa
- Toàn bộ di tích vẫn còn khá nguyên vẹn sau hơn 50 năm xây dựng. Khu vực hành
đạo của Đạo Dừa rộng hơn 1500m2 vẫn còn khá nguyên vẹn với sân rồng, nơi có 9 trụ
cột làm hình chín con rồng. Thời đó sân rồng từng là nơi để cho hàng trăm nghìn đệ tử
của ông Nguyễn Thành Nam quỳ cầu nguyện và nghe Đạo Dừa thuyết phát.
- Ngôi chùa Nam Quốc Phật dịch ra có nghĩa là phật ở nước Nam. Tại cổng vào khu
vực hành đạo, Đạo Dừa cho làm một cái lư hương thật lớn từ những mảnh vỡ của đồ
Sành Sứ. Trên đó có in khắc ảnh và lai lịch vắn tắt của ông Nguyễn Thành Nam. Toàn
bộ chiếc lư hương lớn này được đặt trên lưng thần Kim Quy.
- Tên gọi Cửu Đỉnh. Ở Kinh thành Huế có chín đỉnh mới gọi là Cửu Đỉnh. Nhưng mà
ở đây riêng Đạo Dừa chỉ có một cái duy nhất, nhưng do Cửu là tượng trưng cho sự
trường tồn, sự vĩnh cửu cho nên quyết định gọi nó cũng là Cửu Đỉnh để hi vọng cái
thánh địa của ông được trường tồn vĩnh cửu như vậy và đỉnh này được làm từ những
mảnh chắp ghép của bình sành sứ cho nên có thể thấy trên đỉnh của chúng ta có thể
thấy có rất nhiều hoạ tiết hoa văn khác nhau và ở đây cũng có chuyện kể lại rằng việc
liên quan đến mảnh sành của mình đó chính là khi các tín đồ của ông Đạo Dừa đến
đây, khai phá vùng đất này trong một lần vô tình nhặt được một mảnh chén sành trên
đất có hình con chim phụng cho nên từ đó tín đồ cũng như là Đạo Dừa mới bắt đầu gọi
cù lao này là cù lao Phụng chứ thật sự ở đây mình gọi là cồn Tân Vinh vì nó thuộc ấp
Tân Vinh của xã châu Thành, huyện Châu Thành, Bến Tre.
Kẹo dừa Bến Tre
- Bến Tre là vùng đất được mệnh danh “đảo dừa xanh”, nơi có rất nhiều loại dừa khác
nhau như dừa xiêm, dừa nước,dừa sáp, dừa lùn,… Tất cả đều được người dân tận dụng
làm nguyên liệu chế biến sản phẩm ẩm thực, làm đẹp,.. và nổi tiếng nhất là món đặc
13
sản kẹo dừa Bến Tre. Những trái dừa rám vàng và khô sẽ có nước cốt rất ngọt béo,
thanh vị.
-Ngoài công việc lựa trái dừa đúng chuẩn ra, Họ phải chọn thóc nếp hạt to chín đều
dùng để nấu mạch nha. Khi nấu mạch nha, người dân phải là người lành nghề và biết
chọn loại đường mới, vàng tươi hòa cùng gạo nếp, đun nhỏ, quấy đều thì mới có được
sản phẩm tốt nhất làm kẹo dừa.
- Sau khi nấu mạch nha xong, những người thợ sẽ đem trộn với nước cốt dừa rồi cho
hỗn hợp này vào chảo đun với lửa nhỏ. Họ liên tục phải khuấy đều tay để cho hỗn hợp
hòa quyện vào nhau, không cháy khét và mang hương vị béo ngọt, thơm thơm của
nước cốt dừa cùng mạch nha. cần lưu ý không để lửa quá to hay quá nhỏ, vì nếu ngọn
lửa nhỏ sẽ không đủ nhiệt đun hỗn hợp và sẽ làm chúng lỏng bỏng dễ bị hỏng. Còn
nếu lửa quá to thì bột hỗn hợp sẽ nhanh cứng và bị sên sẽ làm ra được đặc sản kẹo dừa
Bến Tre đúng chuẩn.
- Ngoài đặc sản kẹo dừa Bến Tre, đặc sản dừa xiêm Bến Tre thì tại vùng sông nước nơi
đây cũng nổi tiếng với nhiều sản phẩm làm từ dừa như: Đặc sản đuông dừa Bến Tre,
bánh tráng Mỹ Lồng , đặc sản rượu dừa Bến Tre, Bánh phồng Sơn Đốc, Củ hũ dừa,
cơm dừa,…
1.7 Chiến thắng Ấp Bắc
Vị trí
Ấp Bắc Là một địa danh được cả nước và nhân dân tiến bộ trên thế giới biết đến,
không phải là danh lam thắng cảnh, mà chính nơi đây đã diễn ra trận đánh vang dội.
Trận đánh mà Mỹ - ngụy tập trung lực lượng tối đa, sử dụng phương tiện chiến tranh
hiện đại với chiến thuật tân kỳ, với cố vấn Mỹ và các tên tay sai quyết chống phá cách
mạng, nhằm nghiền nát Ấp Bắc và tiêu diệt quân chủ lực của cách mạng Miền Nam.
Thời gian
Vào ngày 02/01/1963, với 200 tay súng, quân và dân Ấp Bắc đã đánh bại hơn 2.000
quân địch có máy bay, xe tăng, tàu chiến yểm trợ và cố vấn Mỹ chỉ huy, đã bẻ gãy 2
chiến thuật tân kỳ mà Mỹ áp dụng trong chiến tranh đặc biệt là "trực thăng vận" và
"thiết xa vận" báo hiệu sự sụp đổ của chế độ Ngô Đình Diệm cùng chiến lược chiến
tranh đặc biệt của đế quốc Mỹ.
Sáng sớm ngày 02/01/1963, địch mở cuộc càn quét do Bộ Tư lệnh sư đoàn 7 và Chiến
đoàn bảo an thuộc tiểu khu Định Tường đảm trách. Cuộc càn quét diễn ra trong phạm
vi xã Tân Phú để bao vây diệt trung đội địa phương của ta mà chúng phát hiện được;
lực lượng của ta chỉ có đại đội 1 tiểu đoàn 514 và đại đội 1 tiểu đoàn 261.
Lúc 5 giờ sáng ngày 2/1/1963, địch chia làm 2 cánh quân tiến vào Ấp Bắc bị ta chặn
đánh buộc chúng phải gọi tăng viện. Cùng thời gian này, trận địa công binh của ta
dùng thủy lôi đánh chìm một tàu tại vàm Kinh 3 và bắn hỏng 2 chiếc khác. Đến 9g30
bọn chúng đã cho trực thăng đổ bộ xuống Ấp Bắc; dưới sự chỉ huy của đại đội trưởng
Bảy Đen, ta đã bẻ gãy nhiều đợt tấn công của địch có cả trực thăng và xe M113 yểm
trợ.
14
Đến chiều tối, sau nhiều đợt tấn công thất bại quân địch đã rút khỏi trận địa. Kết quả
chúng đã thất bại thảm hại, với: 450 tên chết và bị thương, trong đó có 10 cố vấn Mỹ;
3 xe lội nước M 113 bị tiêu diệt; 8 máy bay trực thăng bị bắn rơi; 1 tàu chìm và 2 chiếc
tàu khác bị hỏng.
Khu di tích
Hiện nay, Khu di tích là một quần thể kiến trúc nằm trong khuôn viên gần 3 ha bao
gồm: nhà trưng bày, khu tái hiện hoạt động của quân và dân Ấp Bắc trong chiến đấu,
tượng đồng 3 chiến sĩ gang thép, khu trưng bày những chiến lợi phẩm sau trận đánh:
xe bọc thép, máy bay lên thẳng, pháo 105 ly; khu mộ 3 chiến sĩ gang thép: Nguyễn
Văn Đừng, Đỗ Văn Trạch và Hùng (không biết họ); nhà quản trang, xen kẻ là vườn
hoa lúc nào cũng khoe sắc và toả hương thơm ngát.
Có lẽ ấn tượng nhất trong khuôn viên là tượng đồng 3 chiến sĩ gang thép cao sừng
sửng, nặng 18 tấn: người cầm súng, người cầm thủ pháo hiên ngang đứng trên xe tăng
địch, hình ảnh uy nghi của các anh như đưa chúng ta trở về cảnh súng nổ, bom rền hơn
50 năm về trước.
Ngày 7/1/1993 di tích lịch sử Ấp Bắc đã được Bộ Văn hóa Thông tin (nay là Bộ Văn
hóa Thể thao và Du lịch) xếp hạng di tích cấp quốc gia.
1.8 Chiến thắng trận Rạch Gầm – Xoài Mút
Khu di tích được khánh thành năm 2005 để kỉ niệm 220 năm chiến thắng Rạch Gầm –
Xoài Mút 20.1.1785-20.1.2005
Khu di tích thuộc địa phận ấp Đông, xã Kim Sơn, huyện Châu Thành, Tiền Giang rộng
gần 2 ha, hơn một nửa diện tích để xây dựng các nhà trưng bày .
Trận thủy chiến diễn ra trên sông Tiền ( sông Mỹ Tho ) nay thuộc địa phận bốn xã là
Kim Sơn, Thới Sơn, Song Thuận, Bình Đức của huyện Châu Thành cách Thành phố
Mỹ Tho 7km.
Tại đây Nguyễn Huệ đã chỉ huy đội quân từ Quy Nhơn vào Mỹ Tho. Đêm 19 rạng
20.1.1785 đã nhấn chìm hàng trăm chiến thuyền của giặc, tiêu diệt hàng vạn quân
Xiêm và hàng ngàn quân của Nguyễn Anh.
Để kỷ niệm chiến thắng vang dội đó, tại khu di tích Rạch Gầm - Xoài Mút đã xây
dựng tượng đài chiến thắng Rạch Gầm - Xoài Mút . Tượng đài cao 8 m, nặng 20 tấn
bằng đồng màu với ba nhân vật : ở giữa là vị anh hùng dân tộc Nguyễn Huệ tay đang
vuốt gươm, bên trái là hình ảnh người nông dân Định Tường chèo thuyền hỗ trợ chiến
đấu còn bên phải là hình ảnh võ công Tây Sơn giương cung bắn vào kẻ thù.
Dưới chân nhóm tượng đài này là một loại hình kiến trúc dạng đền . Bên ngoài đền có
dải phù điêu bằng đồng màu nặng 6 tấn phác họa lên từ hình ảnh con người và chim
lạc được cách điệu từ mặt trống đồng.
Cổng và tường rào của khu di tích có hình ảnh những chiến thuyền gợi cho ta có cảm
giác mình đang chứng kiến cảnh thủy chiến diễn ra nơi đây.

15
Nhà trưng bày số 1: Ở đây trưng bày rất nhiều hiện vật như súng thần công là hiện vật
phục chế còn các hiện vật khác là nguyên bản . Trong nhà trưng bày có dải tranh ghép
gồm màu với 1440 viên gạch ghép lại với nhau được nung ở nhiệt độ 1100C. Dải tranh
ghép cao 1,8m , với diện tích 57 mét vuông. Nội dung gồm 4 chương nói về quá trình
khẩn hoang, lập ấp, trận thủy chiến, khúc khải hoàn. Ngoài ra còn có mang phù điêu
với diện tích 13 mét vuông phác họa lên từ hình ảnh chim muông và cây trái của vùng
quê sông nước Tiền Giang.
Ngoài ra ở đây còn có ngôi nhà cổ Nam Bộ cất theo kiểu ba gian và hai chái . Ngôi
nhà có diện tích 225 m2, có 48 cây cột trong đó có 24 cây cột tròn và 24 cây cột vuông
biểu tượng cho mẹ tròn con vuông. Ở giữa nhà có bàn thờ tổ tiên, phía trước có bộ
ghế trường kỷ làm cho ta liên tưởng đến phong tục ăn coi nồi ngồi coi hướng . Ngày
xưa những người lớn tuổi có thể ngồi ở đây uống trà và trò chuyện ; đặc biệt con dâu
và con gái không được lên nhà trên.
1.9 Chợ nổi Cái Bè, cầu Mỹ Thuận, cù lao Bình Hòa Phước
Chợ nổi Cái Bè
Được hình thành từ thế kỷ thứ XVIII, chợ nổi Cái Bè thuộc thị trấn Cái Bè, huyện Cái
Bè, tỉnh Tiền Giang- nằm ở đoạn sông Tiền giáp ranh giữa Vĩnh Long, Bến Tre và Tiền
Giang sớm có tiếng tăm cả về thương mại lẫn du lịch. Giao thông ở đây hoàn toàn là
đường thủy với các hoạt động mua bán, trao đổi hàng hóa tấp nập. Đây cũng được xem
là minh chứng sống sinh động nhất cho một nét văn hóa đặc sắc của phương Nam, trở
thành một trong những chợ đầu mối lớn nhất miền Tây Nam Bộ, là trạm trung chuyển
trái cây và các sản vật đi khắp tổ quốc.
Chợ nổi Cái Bè hoạt động suốt ngày đêm, mỗi phiên chợ thường họp trong khoảng
thời gian từ 2 giờ đến 8 giờ sáng với hàng trăm chiếc ghe thuyền buôn bán đủ mọi loại
mặt hàng.Nét độc đáo chung của các chợ nổi là “ sào nào, rau củ- trái ấy”, nghĩa là
trên ghe thuyền bán loại trái cây, nông phẩm nào thì treo lên sào cho người mua dễ
nhận biết, và không phải rao mời,. Ngoài nông sản thông thường thì du khách có có
thể tìm thấy các loại trái cây chuyên canh của Tiền Giang như: Bưởi da xanh, vú sữa
Lò Rèn, quýt Cái Bè… hay những đặc sản như kẹo dừa, cốm nổ, mật ong… với giá cả
phải chăng cùng sự gần gũi thân thiện của người dân nơi đây tạo cho du khách cảm
giác dễ chịu và thích thú.
Bình minh và hoàng hôn chính là thời điểm thích hợp để du ngoạn chợ nổi. Thời điểm
này chợ diễn ra sôi nổi tấp nập với nhiều hoạt động nhộn nhịp. Ngôi trên thuyền, du
khách còn có thể vừa ngắm cảnh vừa thưởng thức tô hủ tiếu thơm ngon hay ly cà phê
nóng thơm phức cảm giác rất tuyệt.
Khu vực bán các loại củ, quả chạy dài từ ngã ba Nhà thờ đến cửa Vàm Long Hải. Còn
khu bán gạo, cám thì nằm riêng biệt ở một khúc sông. Mỗi nơi một vẻ, trên bến dưới
thuyền đều sẽ cho thấy được toàn cảnh khu chợ như một bức tranh tả thực sống động
với nhiều màu sắc. Màu sắc từ các loại trái cây, rau củ hòa quyện với những chiếc áo
bà ba phất phơ trong gió. Cùng với những chiếc ghe lớn, nhỏ, xuồng năm lá, ba lá xuôi
ngược nhộn nhịp, âm thanh náo động cả một vùng sông nước.
16
Khi mặt trời khuất sau rặng cây phía xa xa thì cũng là lúc "thành phố nổi" lên đèn.
Ban đêm chợ nổi đèn đóm sáng trong trông như sao sáng trên bầu trời đêm đầy sao của
những chiếc đèn treo ở mũi thuyền. Nơi đây còn có tiếng hát vọng cổ nghe thật nôn
nao, bâng khuâng.
Cầu Mỹ Thuận
Cầu Mỹ Thuận là cây cầu nằm trong địa phận tỉnh Vĩnh Long. Cầu bắc qua sông Tiền
và nối liền hai tỉnh là Tiền Giang và Vĩnh Long. Cầu nằm trên quốc lộ 1A, cách thành
phố Hồ Chí Minh 125km về hướng Tây Nam. Cầu Mỹ Thuận là cây cầu quan trọng
trong trục quốc lộ 1A về các tỉnh miền Tây Nam Bộ. Đây là cây cầu văng dây đầu tiên
của nước ta.
Trước khi cầu được khánh thành, từ những năm 1935, người dân hai tỉnh Vĩnh Long
và Tiền Giang phải qua lại bằng phà.
Cầu Mỹ Thuận được chính thức khởi công ngày 6 tháng 7 năm 1997 và hoàn thành
vào 21 tháng 5 năm 2000. Sau khi hoàn thành, cầu Mỹ Thuận giúp nối kết Vĩnh Long
nói riêng và các tỉnh thuộc khu vực đồng bằng Sông Cửu Long nói chung gần gũi hơn,
kết nối trực tiếp với thành phố mà không cần phải qua bằng đường thủy. Tạo điều kiện
phát triển kinh tế, ngoại giao cho nơi đây.
Cầu Mỹ Thuận là công trình hợp tác giữa các chuyên gia, kỹ sư và công nhân của hai
nước Australia và Việt Nam. Là một công trình giao thông có kiểu dáng kiến trúc theo
phong cách Châu Âu hiện đại, mang lại vẻ đẹp cho miền Tây Nam Bộ. Cầu Mỹ Thuận
là cây cầu dây văng đầu tiên được xây dựng ở Việt Nam, mở đầu cho công nghệ xây
dựng cầu dây văng bắc qua eo biển hay các con sông lớn ở nước ta.
Sơ đồ bố trí dây văng cầu Mỹ Thuận được thiết kế theo hình rẻ quạt với hai mặt phẳng
dây cách nhau 18.6m. Tổng chiều dài của cây cầu là 1.535m, hai cây cầu dẫn mỗi bên
có 11 nhịp, mỗi nhịp là 40m.
Chiều dài phần cầu chính là 650m, chia thành 3 nhịp: hai nhịp bên mỗi nhịp dài 150m,
nhịp giữa dài 350m. Độ cao thông thuyền là 37,5m. Mặt cầu Mỹ Thuận rộng 23,6m
chia thành bốn làn xe cơ giới ở giữa và hai làn cho người đi bộ và xe thô sơ hai bên.
Hiện cầu Mỹ Thuận đã được đưa vào địa điểm du lịch của những đoàn tour du lịch của
nhiều công ty lớn tại Tp Hồ Chí Minh, du khách du lịch Miền Tây, Vĩnh Long. Cầu
Mỹ Thuận là một cây cầu lớn và mang ý nghĩa ngoại giao to lớn của Việt Nam và Úc.
1.10 Giới thiệu tỉnh Vĩnh Long - Tp.Vĩnh Long, huyện Long Hồ, TX. Bình Minh,
ghe xuồng
*Giới thiệu tổng quan về tỉnh Vĩnh Long
1. Vị trí địa lý
-Vĩnh Long là tỉnh thuộc hạ lưu sông Mê Kông, nằm giữa sông Tiền, sông Hậu và ở
trung tâm khu vực ĐBSCL, vị trí giáp các tỉnh như sau:
+Phía Bắc và Đông Bắc giáp các tỉnh Tiền Giang và Bến Tre;
+Phía Tây Bắc giáp tỉnh Đồng Tháp;
17
+Phía Đông Nam giáp với tỉnh Trà Vinh;
+Phía Tây Nam giáp các tỉnh Hậu Giang, Sóc Trăng và Thành phố Cần Thơ.
-Tỉnh Vĩnh Long có 8 đơn vị hành chính, gồm 6 huyện (Bình Tân, Long Hồ, Mang
Thít, Tam Bình, Trà Ôn, Vũng Liêm); thị xã Bình Minh và Thành phố Vĩnh Long với
109 xã, phường, thị trấn ( 94 xã, 5 thị trấn và 10 phường).
2. Lịch sử hình thành
-Qua các nguồn tư liệu, hiện vật còn lưu lại, trong đó có các di tích ở địa phận Vĩnh
Long như di tích ao hồ (xã Vĩnh Xuân - Trà Ôn) di tích thành cổ (xã Trung Hiệp và
Trung Hiếu huyện Vũng Liêm) là bằng chứng về một nền văn hóa cổ đã từng hưng
thịnh trên miền đất này vào những thế kỷ đầu công nguyên. Nhưng sau đó, nền văn
hóa này rơi vào cảnh suy tàn do tác động đột biến về địa lý - sinh thái và kinh tế - xã
hội, đặc biệt là địa bàn này chìm ngập trong nước sau lần "biển tiến" vào đầu thế kỷ
thứ VII, cả vùng đất này bị hoang vu. Sau nhiều thế kỷ, nhiều lưu dân, thuộc nhiều tộc
người đến khai phá, nhất là từ thế kỷ XVII, ba tộc người là Việt, Khơme và Hoa đến
khai phá sinh cơ lập nghiệp.
-Nơi đây, trong khoảng 10 năm(1776-1787), cũng từng là chiến trường diễn ra nhiều
cuộc giao chiến ác liệt giữa nghĩa quân Tây Sơn với quân (chúa Nguyễn và Nguyễn
Ánh), từ trận đầu tiên là trận tập kích Long Hồ của Nguyễn Lữ. Năm1784, tại sông
Mang Thít (Vĩnh Long) nghĩa quân Tây Sơn do Nguyễn Huệ chỉ huy đã đánh thắng
trận Rạch Rầm- Xoài Mút (Tiền Giang), làm liên quân Xiêm La do Nguyễn Ánh cầu
viện đại bại.
3. Tài nguyên du lịch
- Tài nguyên du lịch thiên nhiên
- Tỉnh Vĩnh Long nằm giữa hai con sông lớn nhất của đồng bằng sông Cửu Long, nên
có nguồn nước ngọt quanh năm, đó là tài nguyên vô giá mà thiên nhiên ban tặng.Vĩnh
Long có mạng lưới sông ngòi chằng chịt, hình thành hệ thống phân phối nước tự nhiên
khá hoàn chỉnh đã tạo điều kiện cho sản xuất và sinh hoạt của người dân.
- Vĩnh long có hệ động vật và thực vật phong phú, đa dạng, có nhiều loại quý hiếm.
+Thảm thực vật trên đất nông nghiệp bao gồm tập đoàn cây ngắn ngày và cây dài
ngày. Cây ngắn ngày chủ yếu là lúa nước, phân bố khắp toàn tỉnh và vùng ĐBSCL.
Bên cạnh cây lúa nước, Vĩnh long còn có hầu hết các loại cây ngắn ngày nhiệt đới như
màu lương thực, cây công nghiệp, rau quả và cây thuốc.
+Trong tập đoàn cây dài ngày có dừa, cây ăn quả (xoài, chôm chôm, nhãn, cam, quýt,
chanh, bưởi, măng cụt, sầu riêng...) Đặc biệt, bưởi Năm Roi ở Bình minh và cam Sành
ở Tam Bình là hai đặc sản mà không nơi nào ở ĐBSCL có chất lượng bằng và là sản
phẩm xuất khẩu có triển vọng.
+Hệ động vật cũng rất phong phú :lợn, bò, trâu, gà, vịt... đều đã được thuần dưỡng từ
rất lâu đời; những giống nhập ngoại cũng được thích nghi tốt với môi trường địa
phương.
18
- Vĩnh Long rất thích hợp để phát triển loại hình du lịch sinh thái miệt vườn; tiêu biểu
như là Cù lao An Bình nằm giữa sông tiền và sông Cổ Chiên, đến với cù lao An Bình
du khách sẽ được tham quan chùa Tiên Châu, nhà cổ Cai Cường, khu du lịch Vinh
Sang, các vườn trái cây lớn,...Ngoài ra, tại Vĩnh Long còn có rất nhiều điểm du lịch
đặc sắc nổi tiếng khác như: Chợ nổi Trà Ôn-nằm ngay giữa ngã ba sông Hậu và sông
Mang Thít, chợ nổi là một nét đẹp văn hóa truyền thống cực kỳ đặc sắc của riêng miền
Tây sông nước.
- Tài nguyên du lịch văn hóa
- Di tích kiến trúc nghệ thuật, di tích văn hóa-lịch sử cấp quốc gia và cấp tỉnh như: Văn
Thánh Miếu, chùa Phước Hậu, Đình Long Thanh, Công Thần Miếu, Thánh Tịnh Ngọc
Sơn Quang, cây đa Cửa hữu,......
- Làng nghề truyền thống: làng nghề gạch ngói (huyện Mang Thít và huyện Long Hồ),
làng nghề đan thảm lục bình, làng nghề nấu rượu nếp Sơn Đông, làng nghề làm nước
mắm,....

4. Ẩm thực
- Đến với Vĩnh Long thì du khách không thể bỏ qua các món đặc sản như: chuột đông
nướng, khoai lang mắm sống cuốn lá cách, cá lóc nướng chui, cá kèo nướng ống sậy,
bánh xèo hến Cù lao Dài,...
*Giới thiệu về thành phố Vĩnh Long
- Thành phố Vĩnh Long: Thành phố Vĩnh Long nằm bên bờ sông Cổ Chiên, một nhánh
của sông Tiền, cách Thành phố Hồ Chí Minh 135 km về phía Nam, cách Cần Thơ 33
km về phía Bắc.
- Với thế mạnh là Thủ phủ của tỉnh Vĩnh Long nằm ở trung tâm đồng bằng sông Cửu
Long, nổi tiếng với các vườn trái cây được quy hoạch rất bài bản để cho ra các loại trái
cây nổi tiếng khắp cả nước và cũng là nơi cung cấp các loại cây giống cho các tỉnh
đồng bằng sông Cửu Long như: nhãn, chôm chôm, mãng cầu, xoài bưởi, quýt,... Người
Vĩnh Long bảo nếu về Vĩnh Long mà chưa đi thăm các xã cù lao là chưa về Vĩnh
Long. Khu du lịch sinh thái ở các xã cù lao chính là các vườn trái cây, kết hợp phục vụ
ăn uống. Tiêu biểu là các khu du lịch lớn như: khu du lịch Trường An, khu du lịch
Trường Huy,...
-Ngoài ra, còn có các điểm du lịch khác như:
+Chùa Phật Ngọc Xá Lợi-Chùa nổi tiếng với nhiều công trình kiến trúc lớn. Đặc biệt
là Bảo tháp Xá Lợi, một trong những bảo tháp cao nhất miền Tây với 45m gồm 9 tầng
và đỉnh tháp và tượng Đức Quan Thế Âm ngoài trời cao 32m bức tượng được phủ màu
xanh lam làm toát lên vẻ hiền từ của Phật Bà.
+Văn Thánh Miếu-là một trong những công trình còn sót lại từ thời Nguyễn sau khi
quân Pháp chiếm Vĩnh Long. Xây dựng từ năm 1864, Văn Thánh Miếu được mệnh

19
danh là “Quốc Tự Giám phương Nam”. Trên danh nghĩa là đề cao nho giáo nhưng đây
cũng là nơi đề cao văn hóa giáo dục lòng yêu nước
+Còn có quảng trường thành phố Vĩnh Long, công viên tượng đài chiến thắng Mậu
Thân, Văn Thánh miếu, Đường Võ Văn Kiệt, Công viên, công viên cầu cồn chim.
*Giới thiệu huyện Long Hồ
- Huyện Long Hồ nằm ở phía bắc của tỉnh Vĩnh Long, bị sông Tiền chia cắt thành hai
khu vực, bao bọc 3 mặt bởi thành phố Vĩnh Long. Thuộc miền phù sa sông nước Cửu
Long (hạ lưu sông Mê Kông), có nước ngọt quanh năm. Đất đai tương đối bằng phẳng,
có nhiều sông ngòi, ao, hồ, mương, rạch; có đất cù lao, bãi bồi và cồn mới nổi,..
-Với đặc trưng địa hình bao bọc TP Vĩnh Long, huyện Long Hồ có nhiều lợi thế đẩy
mạnh phát triển du lịch so với các huyện- thị khác trong tỉnh. Lợi thế đó càng được
khẳng định, khi Long Hồ sở hữu khá nhiều di tích lịch sử văn hóa cấp tỉnh, cấp quốc
gia, các lễ hội truyền thống cách mạng, dân gian thường xuyên diễn ra và đặc biệt cù
lao An Bình- nơi nức danh với những vườn cây ăn trái trĩu quả quanh năm, cùng hệ
thống cảnh quan thiên nhiên, sông nước miệt vườn đã làm nao lòng bao du khách
phương xa.
-Trong đó, có một số điểm du lịch thu hút được lượng lớn du khách đến địa phương
hàng năm: cù lao An Bình, nhà cổ Cai Cường; và đặc biệt là hai di tích lịch sử-văn hóa
cấp quốc gia là khu lưu niệm Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Phạm Hùng và chùa Tiên
Châu cùng nhiều di tích lịch sử-văn hóa cấp tỉnh khác như: đình Hòa Ninh, miếu Âm
Nhơn, đình Kỳ Hà, chùa Ông,....
*Giới thiệu thị xã Bình Minh
- Trãi qua mấy trăm năm những chặng đường từ vùng đất đầm lầy hoang vu của những
năm đầu thế XVII, theo dòng lịch sử ngày nay Bình Minh là một thị xã đang trên đà
phát triển, trở thành điểm dừng chân giao thương mua bán của cả vùng Nam Sông
Hậu. Với di tích nổi tiếng đó là Chùa Bồ Đề chùa được xây dựng giữa thế kỷ 19, nơi
đây là điểm tu hành của nhiều tín đồ, nhiều vị cao tăng đạo cao đức trọng.
-Về cây trái, Bình Minh nổi tiếng nhất với Bưởi Năm roi đây là vùng chuyên canh
bưởi Năm roi lớn nhất tỉnh và khu vực Đồng bằng Sông Cửu Long. Ngoài ra Bình
Minh còn có loại cây độc đáo đó là Thanh Trà mà không đâu có thể trồng và cho trái
ngon được như vùng đất Đông Thành Bình Minh.
-Về ẩm thực khi nhắc tới tàu hủ Ky là mọi người sẽ nhớ ngay đến làng nghề tàu hủ Ky
hơn trăm tuổi ở Bình Minh, là một một làng nhỏ nằm cạnh dòng Sông Cái Vồn đường
vào làng nghề hai bên đường , nhà cửa nhấp nhô.
*Ghe xuồng:
- Ghe xuồng ở Nam Bộ có vị trí rất quan trọng trong việc giao thông đường thuỷ, ở
một địa bàn mà mạng lưới sông ngòi, kênh rach chằng chịt việc sử dụng ghe xuồng
làm phương tiện đi lại, vận chuyển đã trở thành nét độc đáo trong đời sống của cư dân
vùng này. Có thể nói, cư dân miệt sông nước ra đến ngõ là gần như phải đi xuồng. Rất
nhiều du khách quốc tế khi đến thăm dòng sông Hậu, ra đến chợ ngã ba sông Trà Ôn
20
(phía Vĩnh Long) trên dòng sông Hậu, hay đi tàu khách đến thăm cảnh trí xuồng ghe,
đều cảm nhận môi trường nơi đây thật thơ mộng. Trên cả một khúc sông rộng lớn, các
chị em gái từ bên Trà Ôn bao năm nay vẫn mua bán hàng hóa như bao cửa tiệm trên
bờ. Các cụ già đã quen cảnh sống trên ghe, xuồng... Khi các cụ có buồn thì rủ bạn già
xuống xuồng nhậu vài ly rượu nhà tự cất, hay nhâm nhi ly café với những bài ca vọng
cổ trữ tình trên sông.
1.11 Cầu Cần Thơ, giới thiệu Tp.Cần Thơ, bến Ninh Kiều, Thiền Viện Trúc Lâm
Phương Nam, nhà cổ Bình Thủy, đình Bình Thủy
*Cầu Cần Thơ
- Cầu Cần thơ 1 tuyệt tác kiến trúc, nối liền đôi bờ sông như nối liền khát vọng từ bao
đời và đã khắc họa rõ nét mốc son lịch sử về quá trình đô thị hóa của vùng sông nước
Tây Đô....Những sợi dây văng như đan, như dệt trên nền trời xanh, trụ cầu vút cao, tạo
nên vẻ thanh thoát kỳ vĩ, làm tôn lên dòng Cửu Long thêm phần huyền thoại....
- Bắt đầu được xây dựng vào năm 2004 và chính thức khánh thành năm 2010, nằm vắt
ngang con sông Hậu để nối liền hai đầu quận Cái Răng (Cần Thơ) và thị xã Bình Minh
(Vĩnh Long), có nhiệm vụ chính là đảm bảo giao thông cũng như giao thương giữa hai
bờ. Đây là công trình cầu dây văng nhận được hỗ trợ về vốn từ phía Nhật Bản với tổng
số vốn lên đến gần 5000 tỷ. Cầu Cần Thơ nắm giữ kỉ lục là cây cầu có nhịp chính dài
nhất Đông Nam Á. Toàn tuyến cầu ngoài nhịp cầu chính dài 2,75km còn có các đường
dẫn vào cầu với tổng chiều dài đạt 15.85km, chiều cao 175.3m. Cầu Cần Thơ có chiều
ngang rộng 23.1m với 4 làn xe, mỗi làn rộng 3,5m cùng với 2 lề bộ hành, mỗi lề rộng
2.75m. Cầu Cần Thơ không chỉ đẩy mạnh hoạt động trao đổi buôn bán cũng như vận
chuyển hàng hóa giữa thành phố Cần Thơ và tỉnh Vĩnh Long mà còn góp phần vào
phát triển kinh tế vùng miền, cải thiện đời sống, hỗ trợ nhu cầu di chuyển, đi lại của
người dân.
*Giới thiệu Thành phố Cần Thơ
- Cần Thơ được biết đến như là Tây Đô (thủ đô của miền Tây) một thời rất xa. Thành
phố cần Thơ trước đây vốn là đất cũ tỉnh An Giang thời Lục tỉnh của nhà Nguyễn. Khi
người Pháp chiếm miền Tây Nam Kỳ (1867) thì tỉnh An Giang bị cắt thành sáu tỉnh
nhỏ: Châu Đốc, Long Xuyên, Sa Đéc, Cần Thơ, Sóc Trăng và Bạc Liêu. Trải qua nhiều
lần chia tách rồi sáp nhập, đến cuối năm 1991, tỉnh Cần Thơ mới được xác định là một
đơn vị hành chính chính thức. Ngày 1 tháng 1 năm 2004, tỉnh Cần Thơ được chia
thành thành phố Cần Thơ trực thuộc Trung ương và tỉnh Hậu Giang ngày nay. Ngày 24
tháng 6 năm 2009, thành phố cần Thơ chính thức được Thủ tướng Chính phủ ra quyết
định công nhận là đô thị loại 1 của Việt Nam.
- “Cần Thơ ai dệt nên thơ”, câu ca ấy cho thấy nét trữ tình của vùng đất này đã khiến
nhiều nhà thơ, nhạc sĩ sáng tác những bài thơ, ca khúc hay về cần Thơ được nhiều
người biết tới: Qua bến Ninh Kiều, Chiếc áo bà ba, Đàn sáo Hậu Giang. Biểu tượng
của thành phố Cần Thơ là hình tròn có nền trắng, bên trong là hình tượng nhà lồng chợ
cổ Cần Thơ nằm bên dòng sông Cửu Long có hình giống như rồng đang bay lên, bên
dưới là chữ “Cần Thơ”, những hình tượng bên trên nền trắng đều có màu xanh lục
21
nhằm thể hiện màu của lúa xanh, cỏ cây – gam màu chủ đạo của khu vực đồng bằng
Cửu Long.
- Do đặc điểm sông chung của ba dần tộc Việt – Khơmer – Hoa, Cần Thơ có khá nhiều
lễ hội. số lễ hội này bắt nguồn từ tập quán cổ truyền hoặc do tín ngưỡng dân gian của
mỗi dân tộc tạo nên: Lễ hội cúng đình Bình Thủy, Lễ Cholchonam Thomay, Lễ hội
chùa Ông cần Thơ,..
*Bến Ninh Kiều
- Đã từ rất lâu, những con người Cần Thơ luôn tự hào và kiêu hãnh mỗi khi nhắc đến
Ninh Kiều-chỗ
bờ sông nhìn ra dòng Hậu Giang hiền hòa, thơ mộng:
“Cần Thơ có bến Ninh Kiều
Có dòng sông đẹp với nhiều giai nhân.”
-Bến Ninh Kiều nằm ở ngã ba sông Hậu và sông Cần Thơ, bên hữu ngạn sông Hậu, đã
trở thành trung tâm giao thương quan trọng của Cần Thơ và các vùng lân cận; gần
trung tâm thành phố Cần Thơ, dễ dàng di chuyển đến các điểm khác cũng là điểm
được du khách yêu thích. Gần đó là Chợ Cổ Cần Thơ – trung tâm buôn bán lớn của
Miền Tây Nam Bộ được mệnh danh là “Chợ Lục Tỉnh”. Trong quá khứ, Bến Ninh
Kiều được khai thác là bến sông đầu chợ Cần Thơ. Tên gọi Ninh Kiều bắt nguồn từ
hàng cây dương được dựng dọc bờ sông để đón gió. Khi giao thương ngày càng phát
triển, bến sông Hàng Dương được mở rộng và sửa chữa, trở thành điểm du lịch nổi
tiếng của miền Tây. Bến Ninh Kiều là một trong những điểm đến du lịch nổi tiếng nhất
của Cần Thơ, với các công trình kiến trúc đặc sắc và hấp dẫn du khách khám phá. Cầu
Ninh Kiều là một trong những biểu tượng của thành phố, được xây dựng vào năm
2010 để thay thế cầu cũ bị hư hỏng. Đài phun nước Ninh Kiều là một công trình kiến
trúc độc đáo và rất được khách hàng yêu thích, với thiết kế đẹp mắt và được trang trí
bằng đèn LED. Ngoài ra, bến Ninh Kiều còn có nhiều nhà hàng, quán cà phê và chợ
nổi, nơi du khách có thể thưởng thức những món ăn đặc trưng của miền Tây và tận
hưởng cảm giác yên bình bên sông Hậu. Tại bến Ninh Kiều, du khách cũng có nhiều
hoạt động và trải nghiệm thú vị khi tham gia một trong những hoạt động được ưa thích
nhất là thuê du thuyền để khám phá sông Hậu.
*Thiền viện Trúc Lâm Phương Nam
- Vị trí: Thiền viện Trúc Lâm Phương Nam tọa lạc tại ấp Mỹ Nhơn, xã Mỹ Khánh,
huyện Phong Điền, thành phố Cần Thơ, Việt Nam; là ngôi thiền viện thuộc dòng phái
Trúc Lâm Yên Tử của Việt Nam Đây là một thiền viện thuộc hàng lớn nhất ở miền
Tây Nam Bộ, tính đến thời điểm năm 2014.
- Kiên trúc: Cổng tam quan cao rộng xây theo lối gác mái cong đầu đao lợp bằng ngói
đỏ. Chính giữa tam quan gắn bức hoành phi đề tên thiền viện bằng chữ quốc ngữ hai
bên có hai vị tướng-Vi Đà Hộ Pháp và Tiêu Diện Đại Sĩ tượng trưng cho thiện và ác
uy nghiêm đứng canh giữ. Qua cổng bước vào trong là khoảng sân lát gạch đỏ tươi,
bên tả bên hữu mỗi bên có một ngôi lầu nhỏ 2 tầng 8 mái nằm giữa ao sen. Từ đường
22
chính muốn ra lầu phải đi lên một chiếc cầu nhỏ, xung quanh xây một lỗi đi mòn hình
tròn bao lấy ao nước. Tòa chính điện nằm chính giữa khuôn viên khu thiền viện gồm 2
tầng 8 mái chạy dài. Mái chùa là dạng kiến trúc điển hình mô phỏng đời sống nông
nghiệp của người dân Việt Nam. Mái chùa cong cong hình mũi thuyền đương đầu với
sóng gió, từ trên cao thu hẹp lại, phía dưới lan rộng ra tạo thế vững chắc còn gọi là
“thượng thu hạ thách”. Dọc hai dãy hành lang cũng trưng bày rất nhiều bức tượng
bằng đá hoa cương, mỗi bức tượng như một mảng kiến trúc nghệ thuật đặc sắc. Từ
hành lang tiến vào bên trong các gian điện thờ bạn sẽ bị choáng ngợp bởi các khối
tượng khổng lồ vô cùng ấn tượng. Bức tượng Phật Thích Ca đúc bằng đồng nặng tới
3,5 tấn, đi vòng qua phía sau bạn sẽ được chiêm ngưỡng các bức tượng không kém
phần lộng lẫy như: Tượng Đạt Ma sư tổ, các pho tượng của Trúc Lâm Tam Tổ (Phật
hoàng Trần Nhân Tông, thiền sư Huyền Quang, thiền sư Pháp Loa). Các bức tượng thờ
được tạo tác từ bàn tay của những nghệ nhân nổi tiếng trong nghề, mỗi bức tượng đều
toát lên vẻ thần thái riêng.Không gian cây xanh trong thiền viện chiếm hơn một nửa
diện tích của khuôn viên, vì vậy không khí rất trong lành thoáng mát. Đi tham quan
trong thiền viện bạn sẽ có cảm giác nhẹ nhành thư thái gần gũi vơi thiên nhiên.Thiền
viện Trúc Lâm Phương Nam ra đời người dân Nam bộ có thêm một địa điểm lớn để
sinh hoạt văn hóa tâm linh.
*Nhà cổ Bình Thủy
Nhà cổ Bình Thủy tọa lạc tại số 142/144 Bùi Hữu Nghĩa, Bình Thủy, thành phố Cần
Thơ là điếm đến không thể thiếu với bất kì ai khi đến Cần Thơ. Ngôi nhà được xây
dựng từ năm 1870 thuộc sở hữu của nhà họ Dương. Căn nhà cổ này là một trong số ít
những căn nhà cổ còn nguyên vẹn cho đến ngày nay, có giá trị lớn trong việc hỗ trợ
công tác nghiên cứu, tìm hiểu nền văn hóa, phong tục tập quán của người dân đồng
bằng sông Cửu Long thời kì giao thoa giữa hai thế kỉ. Chủ nhân ngôi nhà là ông
Dương Chấn Kỷ – một thương gia trí thức giàu có, đồng thời cũng là điền chủ có óc
mỹ thuật. Chính vì vậy, tạo nên một không gian hài hòa giữa hai nền văn hóa Đông –
Tây trong ngôi nhà. Ngôi nhà được xây dựng trên tổng diện tích khoảng 6.000m2 theo
hướng Đông Tây với nền nhà cao hơn 1m so với sân vườn. Khu nhà được bao bọc bởi
cây cảnh được cắt tỉa chu đáo, hoa nở rộ bốn mùa. Khiến cho ngôi nhà vừa mang nét
hoài cổ kính đáo vừa sống động, thơ mộng và tươi mới. Không gian gồm: Nhà trước (5
gian), dùng làm nơi tiếp khách trong các dịp lễ trang trọng, được trang trí theo phong
cách Châu Âu; Nhà giữa (5 gian), 3 gian trong được bố trí làm nơi thờ tự theo truyền
thống, 2 gian bìa dùng để ở; Nhà sau được sử dụng làm nơi sinh hoạt chung, cùng với
đó là các tiểu cảnh trong và ngoài. Bước qua rào cổng kiên cố bằng bê tông và sắt theo
kiểu dinh thự Pháp, bạn sẽ thấy một cổng phụ xây theo kiến trúc Á Đông với 4 cột
tròn, mặt trước gắn bảng “Phước An Hiệu”. Ngay khi đứng bên trong sân và nhìn lên
mặt tiền ngôi nhà cổ, du khách sẽ không khỏi trầm trồ vì vẻ đẹp tinh tế của những
đường nét trang trí từ cột, vòm cửa sắt cho đến các họa tiết đắp nổi vẫn còn được lưu
giữ khá nguyên vẹn. Khác biệt với nhiều những ngôi nhà khác, mặt tiền nhà cổ Bình
Thủy không có cầu thang đi lên trực tiếp mà được thiết kế hai bên, chính giữa hai cầu
thang là những cây hoa kiểng án ngữ thể hiện quan niệm phong thủy của người
phương Đông. Đặc biệt, trước mặt tiền là hai cây đèn được đúc bằng đồng thời Pháp
23
tại hai lối cầu thang lên xuống của hai bên ngôi nhà.Từng cột trụ bằng lim cho đến
cách bài trí các phòng, nội thất đều được gia chủ sắp xếp theo luật đối xứng có âm có
dương, có tả có hữu và có tiền có hậu rất tinh tế. Toàn bộ gạch lát nền đều được vận
chuyển trực tiếp từ Pháp về. Ngăn cách nhà trước, nhà sau, nhà giữa là một hệ thống
bao lam và liên ba gồm nhiều con tiện và ô hộc được tạo bằng gỗ với các đồ án quy
ước quen thuộc trong kiến trúc cổ, đồng thời cũng gần gũi với đời sống của người dân
Việt ở Nam Bộ.Tuy kiến trúc ngôi nhà, phòng khách bài trí theo phong cách Châu Âu,
nhưng nơi quan trọng nhất là gian thờ lại thuần Việt. Điều này cho thấy có sự giao tiếp
văn hóa Đông-Tây một cách hài hòa thể hiện thị hiếu thẩm mỹ tinh tường của chủ
nhân, tiếp thu cái mới nhưng vẫn giữa cốt cách dân tộc, làm cho bộ mặt văn hóa của
vùng đất ngày ngày càng phong phú và đa dạng hơn. Ngoài ra, trong ngôi nhà còn có
một “kho cổ vật” được gìn giữ suốt nhiều thế kỉ qua như: bộ bàn ghế cẩm thạch, vân
xanh có đường kính 1,5m, dày hơn 6cm xuất xứ từ tỉnh Vân Nam Trung Quốc, bộ sa–
lông kiểu Pháp đời Louis 15, cặp đèn treo TK XIX, tách chén nậm trà, rượu đời Minh
– Thanh, bình Thượng ngọc men xanh cao 1,2m…Bằng giá trị kiến trúc, lịch sử của
mình, nhà cổ Bình Thủy đã được công nhận là “di tích nghệ thuật cấp quốc gia”. Khi
đến thăm Nhà Cổ Bình Thủy du khách sẽ được nghe cuộc sống sinh hoạt thường ngày
của gia đình Nam Bộ xưa hơn 100 năm về trước qua lời kể mộc mạc của gia chủ.
Những câu chuyện lý thú về văn hóa Nam Bộ xưa được cất lên trong không gian hoài
cổ như: Cách thức dùng cơm trong gia đình xưa, hòn Nam Bộ vì sao được xây dựng ở
cửa lớn, ý nghĩa của những bức phù điêu, những bức tượng xi măng trong sân vườn…
*Đình Bình Thủy
Đình làng hay Đình Thần, là nơi thờ Thần Thành Hoàng, vị thần của làng xã.
Đến thăm đình thần Bình Thủy, bạn không chỉ được chiêm ngưỡng kiến trúc nghệ
thuật cổ, mà còn có cơ hội tìm hiểu quá trình lịch sử hình thành của ngôi đền linh
thiêng này. Đình Bình Thủy hay Long Tuyền Cổ Miếu là niềm tự hào về truyền thống
văn hóa tín ngưỡng của vùng đất, con người Cần Thơ. Đây là một công trình có giá trị
về kiến trúc nghệ thuật cổ truyền của người Việt giai đoạn khai hoang miền Tây Nam
bộ vào thế kỷ 19. Đình Bình Thủy tọa lạc tại đường Lê Hồng Phong, thuộc phường
Bình Thủy, quận Bình Thủy. Đình Bình Thủy được xây dựng vào năm 1844 trên một
khu đất rộng có diện tích khoảng hơn 500.000m2 và đến năm 1852 thì được vua Tự
Đức phong sắc. Phía ngoài có hai miếu lớn thờ thần Nông và thần Hổ, gần cổng có hai
miếu thờ thần Rừng và thần Khai kênh dẫn nước. Trong khuôn viên Đình gồm 2 khu
vực gồm khu đình chính và lục ấp. Khu đình chính bao gồm năm ngôi nhà (tiền đình,
chính điện) và khu “lục ấp” gồm một khu nhà để chuẩn bị đồ lễ cùng với một nhà hát.
Kiến trúc chính của đình có rất nhiều nét đặc trưng của miền Tây Nam Bộ mà các đình
ở miền Bắc không có như tiền đình và chính điện theo hình vuông với chiều dài có 6
hàng cột mà mỗi hàng cột như thế có 6 cột các chân cột đều choãi ra làm cho đình
càng thêm vững chắc. Các họa tiết điển hình được khắc trên các cột là hình rồng, hình
hoa mẫu đơn… với đường nét trạm trổ, trau chuốt, tinh xảo tạo nên vẻ uy nghi, cổ kính
cho ngôi đình. Chánh điện có ba mái chồng lên nhau theo kiểu kiến trúc “thượng lầu
hạ hiên”. Trên nóc mỗi khu đều được thiết kế cặp rồng uốn lượn tranh lấy trái châu hay
đơn giản chỉ là những hình hoa văn trang trí bên ngoài nhưng mang ấn tượng mạnh.
24
Ngoài việc thờ các vị thần linh,thần hoàng làng, các vị tiền hiền có công mở đất, …
Đình Bình Thủy còn lập bàn thờ những vị anh hùng có công với đất nước như Nguyễn
Trãi, Nguyễn Huệ, Nguyễn Trung Trực, Võ Huy Tập, Đinh Công Trứ, Phan Bội Châu,
Phan Chu Trinh, … Đặc biệt sau ngày giải phóng đất nước 30 tháng 4 năm 1975, đình
Bình Thủy lập bàn thờ để thờ và tưởng nhớ Chủ tịch Hồ Chí Minh. Thường niên, Đình
Bình Thủy diễn ra hai lễ lớn là Lễ hội Kỳ yên Thượng Điền kéo dài trong 3 ngày từ 12
đến 14 tháng tư âm lịch, có rước thuyền, hát bội… và lễ Hạ điền vào hai ngày 14 và 15
tháng chạp, chuẩn bị đón năm mới.
Đình Bình Thủy là một trong số ít các ngôi đình được chứng nhận là di tích lịch sử văn
hóa cấp quốc gia vào năm 1989. Không chỉ là nơi thờ cúng, tổ chức lễ hội, đây còn là
nơi lưu giữ bản sắc văn hóa dân tộc, đại diện cho một nét văn hóa của vùng sông nước
Nam bộ, có ý nghĩa đặc biệt trong đời sống tâm linh của nhân dân Bình Thủy.
NGÀY 2: NHÓM 2: CẦN THƠ - CÀ MAU

2.1 Chợ nổi Cái Răng – Làng du lịch Mỹ Khánh


CHỢ NỔI CÁI RĂNG
Chợ nổi Cái Răng là loại hình chợ độc đáo và đặc trưng của vùng đồng bằng sông Cửu
Long mà không nơi nào trên đất nước Việt Nam có được. Và đây cũng là khu chợ tiêu
biểu, sầm uất, nổi tiếng nhất cho nét văn hóa sông nước miền Tây.
VỊ TRÍ
Chợ nổi Cái Răng Cần Thơ: nằm trên sông Cần Thơ, số 46 đường Hai Bà Trưng, quận
Ninh Kiều, thành phố Cần Thơ.
Chợ nổi Cái Răng Cần Thơ cách:
Bến Ninh Kiều: khoảng 30 phút đi thuyền
Trung tâm thành phố Cần Thơ: khoảng 6km
Thành phố Hồ Chí Minh: khoảng 170km theo hướng Tây Nam
Chợ nổi Cái Răng Cần Thơ được công nhận là di sản văn hóa phi vật thể quốc gia vào
năm 2016. Chợ nổi Cái Răng Cần Thơ được hình thành từ những năm đầu thế kỷ 20,
chủ yếu buôn bán các loại nông sản, trái cây, đặc sản của vùng đồng bằng sông Cửu
Long.
Trong quá khứ, chợ đã từng trở thành nơi thu mua lúa gạo lớn nhất tại miền Tây của
người Hoa Kiều.
Lịch sử hình thành chợ nổi Cái Răng Cần Thơ
Chợ nổi Cái Răng Cần Thơ mang nét đặc trưng chung của các khu chợ nổi miền Tây là
nằm ngay ngã 3 sông (nhánh sông Cái Răng và sông Hậu). Vị trí này có mực nước
không sâu không cạn để thuyền bè dễ dàng neo đậu, di chuyển. Nơi này cũng nằm gần
một ngôi chợ trên bờ và một vựa trái cây lớn.

25
Trước kia, chợ Cái Răng bán chủ yếu là các mặt hàng nông sản và mỗi ghe chỉ chuyên
bày bán một loại mặt hàng nhất định. Tuy nhiên, hiện nay chợ đã bán đa dạng hơn như
ẩm thực, các món đồ gia dụng và những thứ thiết yếu cho cuộc sống trên sông.
MÙA LÝ TƯỞNG ĐỂ GHÉ THĂM
Ở Cần Thơ, hai mùa mưa và nắng rất rõ rệt. Nhưng nếu bạn là người thích ăn trái cây
thì mùa nắng (mùa hè) sẽ là mùa lý tưởng vì lúc này là mùa trái cây ở miền Tây. Bạn
có thể thưởng thức trái cây chín mùi vừa ngon, vừa rẻ.
Chợ nổi Cái Răng họp từ rất sớm, để có thể ngắm nhìn và cảm nhận sự tấp nập của
hàng trăm chiếc ghe, thuyền từ khắp các ngả sông rộn ràng tập trung về Chợ nổi, thì 5
giờ đến 9 giờ sáng là thời gian lý tưởng nhất.
NHỮNG ĐIỀU THÚ VỊ KHI ĐẾN ĐÂY
Mua bán "4 treo" - cây "bẹo"
Chợ nổi Cái Răng Cần Thơ buôn bán đa dạng các mặt hàng. Mỗi một chiếc ghe/
thuyền lại bán một món hàng khác nhau, từ những thúng hoa quả ngon lành tươi rói
của miền Tây tới những sạp đồ gia dụng thiết yếu cho cuộc sống hàng ngày.
Do không gian chợ nổi rộng, tiếng sóng vỗ, tiếng máy nổ lớn nên không thể dùng tiếng
rao như trên đất liền nên những món đồ bày bán sẽ được chủ ghe treo lên một cây sào -
người dân ở đây gọi là cây “bẹo” để người mua có thể dễ dàng nhận ra món đồ mình
cần mà tiến lại gần mua.
Còn phương thức “4 treo” ở đây chính là:
Treo gì bán nấy: chủ ghe bán cái gì thì treo cái đó lên cây bẹo ( ví dụ muốn bán dưa
hấu thì sẽ treo trái dưa hấu lên)
Treo mà không bán: Đó chính là quần áo của nhiều hộ gia đình sống trên thuyền
Không treo mà bán: chỉ những chiếc ghe nhỏ len lỏi phục vụ các mặt hàng cho khách
đi chợ như: bún, hủ tiếu, bún riêu, cà phê, bánh mì thịt…
Treo cái này nhưng bán cái khác: Khi bạn thấy họ treo một tấm lá lợp nhà thì có thể
hiểu ngầm là họ bán chiếc ghe của họ (Ngụ ý chiếc ghe như ngôi nhà của họ).
Khám phá chợ ẩm thực trên sông
Bên cạnh bán các loại trái cây cực đa dạng, có rất nhiều chiếc ghe nhỏ len lỏi khắp con
sông bán điểm tâm sáng cho khách và dân địa phương trên ghe như cháo, cơm sườn,
hủ tiếu, bún riêu,… và các loại thức uống như trà, cà phê, dừa dứa, dừa xiêm,… Và có
hẳn một quán nhậu ngay trên sông nên đừng ngạc nhiên quá nhé! Xuống tới đây rồi thì
bạn đừng bỏ qua hai món đặc sản là hủ tiếu lắc và cà phê kho nha.
Lắng nghe đờn ca tài tử trên sông
Một trong những điều đặc biệt nhất của chợ nổi Cái Răng Cần Thơ là vào mỗi cuối
tuần sẽ có một thuyền đờn ca tài tử đi dọc trên sông để biểu diễn phục vụ bà con cũng
như du khách. Nếu bạn mong muốn thuê để phục vụ riêng thì cũng có thể liên hệ đoàn
hát của sở văn hóa thể thao và du lịch Cần Thơ.
26
LÀNG DU LỊCH MỸ KHÁNH
Mỹ Khánh là một ngôi làng nhỏ bình yên, thơ mộng nằm tại địa phận Lộ Vòng Cung
giao nhau giữa chợ nổi Cái Răng và chợ nổi Phong Điền, cách trung tâm thành phố
Cần Thơ khoảng 14 km về phía Nam. Từ lâu, nơi đây đã trở thành một địa điểm du
lịch nổi tiếng không chỉ của thành phố Cần Thơ mà còn của cả khu vực đồng bằng
sông Cửu Long.
Có thể nói, khu du lịch Mỹ Khánh Cần Thơ là nơi hội tụ tinh hoa văn hóa sông nước
miền Tây. Với diện tích vô cùng rộng lớn lên đến hơn 50,000 mét vuông, khu du lịch
sở hữu một khuôn viên rộng lớn, bầu không khí trong lành và mát mẻ. Nơi đây được
chia thành nhiều khu vực khác nhau như: khu trò chơi dân gian, khu ẩm thực, vườn
trái cây, vườn hoa rực rỡ sắc màu,…
Tham quan ngôi nhà cổ Nam Bộ
Đầu tiên bạn sẽ có cơ hội được tận mắt chiêm ngưỡng rất nhiều ngôi nhà cổ với phong
cách kiến trúc đặc trưng của Nam Bộ tuyệt đẹp, khiến bất cứ ai khi nhìn thấy cũng
phải ấn tượng. Việc xuất hiện của những căn nhà này chính là yếu tố quan trọng tạo
nên nét đặc sắc của địa điểm du lịch này. Bạn chắc chắn sẽ phải trầm trồ trước những
chi tiết chạm trổ tinh xảo cùng rất nhiều món đồ dùng bằng gỗ vô cùng quý giá, có tuổi
thọ nên đến hàng trăm năm.
Khám phá vườn trái cây trĩu ngọt
Vào mỗi mùa, nơi đây lại có những loại trái cây khác nhau. Bạn không chỉ được tham
quan mà còn có cơ hội được thưởng thức chúng ngay tại vườn nữa đấy.

Thưởng thức nghệ thuật Đờn ca tài tử Nam Bộ


Năm 2013, tổ chức UNESCO đã công nhận đờn ca tài tử Nam Bộ là di sản văn hóa phi
vật thể của nhân loại. Và làng du lịch Mỹ Khánh chính là địa điểm tuyệt vời để bạn có
thể thưởng thức bộ môn nghệ thuật độc đáo này.
Thử làm điền chủ
Tại đây, bạn sẽ được hóa thân thành một điền chủ thực thụ, sống theo phong cách của
những quý tộc thời xưa, được đi thăm đất đai bằng xe ngựa,….
Thưởng thức những màn đua động vật mãn nhãn
Tại khu du lịch Mỹ Khánh, có một hoạt động vô cùng thú vị được đông đảo mọi người
yêu thích đó là những cuộc đua động vật kinh điển. Chỉ với số tiền khoảng 20,000đ/ 1
người, bạn sẽ có cơ hội được xem những màn tranh tài nảy lửa giữa những chú lợn,
chó,… Bên cạnh đó, bạn cũng sẽ được thưởng thức những màn xiếc thú đặc sắc và hấp
dẫn.

Check in vườn hoa rực rỡ sắc màu

27
Bên trong khu du lịch Mỹ Khánh tại Cần Thơ có một vườn hoa cực kỳ rộng lớn. Nơi
đây hiện đang trồng khoảng hơn 30 loại hoa khác nhau, với đủ màu sắc rực rỡ, khiến
mọi du khách đều phải mê mẩn. Hoa được trồng và cắt tỉa khéo léo, tạo nên một bức
tranh độc đáo và ấn tượng.
Trải nghiệm những trò chơi dân gian thú vị
Không chỉ nổi tiếng bởi khung cảnh thiên nhiên thơ mộng, bình yên, khu du lịch Mỹ
Khánh còn hấp dẫn bởi rất nhiều trò chơi dân gian độc đáo, thú vị, mang đậm bản sắc
văn hóa của miền Tây sông nước. Một số hoạt động vui chơi bạn nhất định phải trải
nghiệm nơi đây như: tát mương bắt cá, giữ thăng bằng trên cầu ván, đi xe đạp qua cầu,

2.2 Tổng quan Sóc Trăng, văn hóa Khmer, chùa của người Khmer, chiếc khăn
rằn
-Vị trí địa lý:
Sóc Trăng nằm ở cửa Nam sông Hậu, cách thành phố Hồ Chí Minh 231km, cách
Cần Thơ 62km. Diện tích tự nhiên 3.310,03 km2
Sóc Trăng có địa giới hành chính tiếp giáp 3 tỉnh trong vùng Đồng bằng sông Cửu
Long. Ở phía Bắc và Tây Bắc giáp tỉnh Hậu Giang, ở phía Tây Nam giáp Bạc Liêu, ở
phía Đông Bắc giáp Trà Vinh và giáp biển Đông ở phía Đông và Đông Nam. Sóc
Trăng nằm trên tuyến Quốc lộ 1A nối liền các tỉnh Cần Thơ, Hậu Giang, Bạc Liêu, Cà
Mau. Quốc lộ 60 nối Sóc Trăng với các tỉnh Trà Vinh, Bến Tre và Tiền Giang.
Tỉnh có đường bờ biển dài 72 km..
Sóc Trăng gồm 09 huyện, 01 thị xã và 1 thành phố với 109 xã, phường, thị trấn.
Thành phố Sóc Trăng là trung tâm hành chính của tỉnh.
-Giao thông (thủy, bộ):
Từ Sóc Trăng có thể đi đến trung tâm các tỉnh, các đô thị khác trong vùng Đồng bằng
sông Cửu Long và khắp vùng Nam bộ bằng cả đường bộ lẫn đường thủy. Cùng với hệ
thống kinh rạch và 8 tuyến tỉnh lộ dài 277 km, các tuyến đường liên huyện, liên xã nối
liền các huyện, thành phố thành hệ thống giao thông thủy, bộ khá thuận lợi.
Sóc Trăng có 72 km bờ biển với 3 cửa sông lớn Định An, Trần Đề và Mỹ Thanh hình
thành lưu vực rộng lớn thuận lợi cho giao thông đường thủy, nuôi trồng thủy hải sản,
làm muối... khai thác biển, đánh bắt xa bờ.

-Nguồn gốc tên gọi Sóc Trăng:


Theo các nhà nghiên cứu, tên gọi Sóc Trăng do từ Srok Kh'leang của tiếng Khmer mà
ra. Srok tức là "xứ", "cõi", Kh'leang là "kho", "vựa", "chỗ chứa bạc". Srok Kh'leang là
xứ có kho chứa bạc của nhà vua. Tiếng Việt phiên âm ra là "Sốc-Kha-Lang" rồi sau đó
đọc thành Sóc Trăng.
.
28
- Ẩm thực:
Về Sóc Trăng, du khách hãy dành thời gian thưởng thức các món ăn đặc sản, nhất là
bún nước lèo, lẩu mắm, bún xào, bún gỏi già, cháo cá lóc... Ngoài ra, bánh pía, mè láo,
các loại lạp xưởng thịt, tôm, cá, và tôm khô, tôm sú, củ hành tím, các loại trái cây miệt
vườn . . . cũng trở thành những đặc sản nổi tiếng của Sóc Trăng. Tất cả đều có thể trở
thành món quà đậm đà sắc thái vùng sông nước miền Tây để du khách mang về làm
quà cho người thân.

- Du lịch:
Ngoài những đặc điểm chung của Đồng bằng sông Cửu Long, Sóc Trăng còn là nơi
hội tụ nền văn hoá đa dân tộc, là xứ sở của lễ hội. Về thăm Sóc Trăng, quý khách sẽ có
dịp chiêm ngưỡng những công trình kiến trúc độc đáo của những ngôi chùa cổ kính;
cùng vui với không khí náo nhiệt, sôi nổi của các Lễ hội truyền thống đua ghe Ngo của
dân tộc Khmer. Trong tương lai, Lễ hội được nâng lên thành Festival đua ghe Ngo
Quốc tế Sóc Trăng. Ngoài ra, quý khách còn được hoà mình vào thiên nhiên với cảnh
sông nước mênh mông, vườn cây ăn trái trĩu quả hay rừng tràm, rừng bần, rừng đước
bạt ngàn của vùng hạ lưu sông Hậu hữu tình mến khách.
VĂN HÓA KHMER
Dân tộc Khmer có nền văn hóa phát triển đa dạng, gắn liền với những tín ngưỡng
mang sắc thái riêng, ảnh hưởng đậm nét văn hóa Ấn Độ và Phật giáo. Phật giáo đóng
vai trò quan trọng và có vị trí cao nhất trong mọi lĩnh vực của đời sống người Khmer ở
Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL). Đa số, họ là phật tử của Phật giáo Nam tông.
Chùa Khmer là một tổng thể kiến trúc đặc trưng của văn hóa Khmer với mái cao thẳng
đứng, hoa văn họa tiết sơn vàng, hệ thống tượng Phật, thần Kabil Maha Prum, nữ thần
đất, hung thần Reahu, tiên nữ, vũ nữ Apsara, người chim, vua khỉ Hanuaman... Chùa là
nơi thực hiện nghi lễ của Phật giáo, dạy chữ Khmer, lễ hội, truyền bá kinh nghiệm sản
xuất; là nơi gìn giữ, bảo tồn và phát huy những giá trị văn hóa độc đáo của dân tộc.
Văn hóa tín ngưỡng của người Khmer có những giá trị rất đặc biệt, mang bản sắc rất
riêng thông qua các nghi lễ vòng đời; là một chuỗi những nghi lễ khá cầu kỳ được lưu
giữ qua một số hình thức lễ hội, như Tết Chôl Thnăm Thmây, ngày Choôl Sâng-Kran
Thmây, ngày Vônabat, ngày Lơng Sak, Lễ cúng trăng (Ooc Om Bok), Lễ cúng ông bà
(Sen Đolta) và còn có đến gần 30 ngày lễ khác nhau bắt nguồn từ tín ngưỡng dân gian
và Phật giáo…
Cách ăn mặc của người Khmer đặc trưng là chiếc váy “xàm pốt” cho nữ và “xà rông”
cho nam. Trong âm nhạc, người Khmer có dàn nhạc ngũ âm. Ngoài ra còn có các nhạc
cụ khác: Đôi “chập ngã”; dàn nhạc dây “Plêing Khssè”; sáo trúc (Khloy); sân khấu
Rôbăm, Yukê, múa Ram Vong, Lâm Leev, Saravan; Aday, Chhay Yam, hát ru con; sân
khấu Rô Băm và Dù Kê…
Kiến trúc chùa Khmer chịu sự tác động, chi phối từ ba luồng tôn giáo: Tôn giáo dân
gian, Bà la môn giáo và Phật giáo. Những ngôi chùa Khmer không chỉ là nơi tôn giáo
29
mà còn là cộng đồng sinh hoạt của người dân, chính vì vậy họ đóng góp công sức, tinh
thần, vật chất của mình một cách tự nguyện vào chùa để xây dựng ngôi chùa thật nguy
nga và tráng lệ. Khi bước vào chùa tham quan, nhìn từ cổng ta có thể thấy được những
nghệ nhân Khmer điêu khắc, trang trí những biểu tượng gắn với tín ngưỡng cộng đồng
của người Khmer. Xung quanh chùa được trồng nhiều loại cây như cây thốt nốt, dầu,
sao…
Người Khmer cho rằng, cái gì lớn nhất, trân trọng nhất phải được đặt ở trung tâm,
chọn đó là công trình chính, chủ đạo và chi phối những công trình còn lại. Chính điện
là phần quan trọng nhất của chùa, tập trung toàn bộ giá trị nghệ thuật và kiến trúc. Nơi
đây được xây dựng ở trung tâm chính, là nơi thờ phụng Đức Phật vì vậy nền được xây
cao và lớn hơn so với những công trình khác và xây theo hướng Đông. Người Khmer
quan niệm rằng Phật đặt ở hướng Tây nhưng quay mặt về hướng Đông để phổ độ
chúng sinh, vì vậy xây chính điện theo hướng Đông để phù hợp với hướng đặt tượng
Phật.
Ngôi chính điện uy nghi thể hiện rõ nét nhất kiến trúc của chùa Khmer Nam Bộ. Ở vị
trí chính yếu là bệ thờ tượng Phật Thích Ca. Bệ tượng là một tòa sen chia thành nhiều
cấp trang trí rất tỉ mỉ. Tượng Phật đặt chính giữa trên tòa sen. Tượng thể hiện chủ đề
Phật đắc đạo ngồi tham thiền theo tư thế kiết già, đầu đội chỏm nhọn – đặc trưng cho
trí tuệ, quyền lực và sự vĩnh hằng cao cả. Trong gian chính điện còn có nhiều hình vẽ
gần kín các mặt tường và trên trần. Chủ yếu là các tranh kể về cuộc đời của đức Phật,
từ khi sinh ra đắc đạo đi truyền bá phổ ñộ chúng sinh đến khi nhập Niết bàn.
Bên phía ngoài của chùa Khmer được trang trí những tượng như chim thần Krud nâng
đỡ mái chùa, tượng chằn trên những hàng cột bao quanh chánh điện, đầu thần Baiyon
bốn mặt… được lấy từ văn hóa tín ngưỡng dân gian của người Khmer…
CHÙA CỦA NGƯỜI KHMER
Về thăm vùng đất Sóc Trăng, du khách sẽ không khỏi cuốn hút bởi những ngôi chùa
Khmer, mang nhiều dáng vấp, màu sắc nổi bật. Toàn tỉnh, dân tộc Khmer chiếm
khoảng 31 %, tổng dân số trên 1, 3 triệu người, với 92 ngôi chùa.
Có thể nói ngôi chùa người Khmer là nơi chứa đựng những giá trị tâm linh, tín ngưỡng
sâu sắc, nơi sinh hoạt tôn giáo, trung tâm sinh hoạt văn hóa của cộng đồng dân cư
trong phum, sóc. Vì vậy, ngôi chùa Khmer là một công trình kiến trúc – trang trí có
nhiều giá trị về mặt thẩm mỹ, thể hiện nét văn hoá - nghệ thuật và là không gian thiêng
liêng nhất.

VỊ TRÍ VÀ KIẾN TRÚC CỦA NGÔI CHÙA KHMER NAM BỘ

Đối với đồng bào Khmer Nam bộ, ngôi chùa có một ý nghĩa hết sức quan trọng trong
đời sống văn hoá. Chùa là trung tâm sinh hoạt của Phật giáo, mọi sinh hoạt văn hoá
của người Khmer đều được thực hiện và tôn vinh ở ngôi chùa.
Vị trí của các ngôi chùa Khmer:
30
Ngôi chùa gắn liền với cộng đồng của đồng bào người Khmer. Nếu như người Việt gọi
là làng và người Việt có xu hướng sinh sống ở vùng đồng bằng trũng thấp để thuận
tiện cho việc trồng lúa thì người Khmer gọi làng là “phum sóc” và theo cách cư trú
truyền thống của người Khmer, họ cư trú trên đồi núi cao, chính vì thế mà ngôi chùa
Khmer sẽ được xây dựng giữa giồng đất (giữa làng) và gần sông bởi vì theo xu hướng
di chuyển bằng đường sông và ngôi chùa là nơi xuất phát của lễ hội đua ghe ngo. Do
vậy, ngôi chùa vừa là trung tâm của ngôi làng nhưng vừa gần sông, thế nên các ngôi
chùa Khmer thường có tên gọi bắt đầu là “Kampong” nghĩa là “bến thuyền”. Mặc
khác, nếu vị trí của ngôi làng không có sông thì người ta có xu hướng đào một cái ao
theo hình vuông với mục đích vừa có nước để sinh hoạt cho cả làng, vừa để thực hiện
những lễ hội như lễ thả đèn nước,... hoặc lấy đất để đắp lên cao và xây dựng ngôi chùa
bởi vì ngôi chùa là nơi linh thiêng nhất trong đời sống tinh thần của cộng đồng nên
phải được xây dựng cao nhất trong làng.
Kiến trúc của ngôi chùa Khmer:
Ngôi chùa được xây dựng với chiều dài gấp đôi chiều ngang và chiều cao bằng chiều
dài. Chùa Khmer là 1 quần thể kiến trúc bao gồm nhiều công trình như cổng chùa,
tường rào, ngôi chánh điện, tháp cốt (theo phong tục hỏa thiêu của người Khmer), nhà
tăng xá, trai đường (Sa La), trường học tiếng Khmer, lò hỏa táng và Miếu Ông Tà.
Ngôi chùa được xây dựng dựa trên điều kiện kinh tế và đời sống của người dân. Người
Khmer có quan niệm rằng “nếu chỉ một mình đóng góp thì không có phước báo lớn,
nếu kêu gọi được nhiều người đóng góp để xây chùa gọi là dâng lễ thì sẽ được phước
báo rất lớn”, chính vì thế mà người Khmer có hình thức “kêu gọi hùn phước” (tức
đóng góp tập thể). Ngôi chùa được xây dựng theo từng giai đoạn, theo đặc điểm của
ngôi chùa Nam Tông Khmer thì ngôi chánh điện được xây dựng cuối cùng nếu sử
dụng hình thức quyên góp tài chính theo kiểu hùn phước bởi vì chánh điện là nơi
thiêng liêng mà theo quan niệm của Phật Giáo Nam Tông Khmer không cho phép “cải
gia vi tự” mà ngôi chánh điện phải có thời gian xây dựng đúng với nguyên tắc của xây
dựng của ngôi chánh điện, trang trí đúng theo văn hóa của người Khmer.
CHIẾC KHĂN RẰN
KHĂN RẰN – BIỂU TƯỢNG VĂN HÓA ĐẶC BIỆT CỦA NGƯỜI DÂN MIỀN
TÂY NAM BỘ
Nói đến vùng đất Miền Tây Nam Bộ, không thể không nhắc đến chiếc khăn rằn, biểu
tượng đồng hành qua bao tháng năm với người dân nơi đây. Khăn rằn được ông bà xưa
sử dụng phổ biến trong đời sống lao động, sinh hoạt hàng ngày. Qua thời gian, chiếc
khăn rằn đã trở thành nét đẹp văn hóa trong trang phục của người dân miền sông nước.
Nguồn gốc: theo lời của những bậc cao niên thì chiếc khăn rằn Nam Bộ bắt nguồn từ
khăn krama của người Khmer, do quá trình cộng cư cùng các dân tộc khác, chiếc khăn
đã được thay đổi cho phù hợp, gần gũi và gắn liền với người dân miền sông nước Nam
Bộ.
Khi chúa Nguyễn Hoàng vào phía Nam dãy Hoành Sơn, người ta đã thấy người Khmer
đội những chiếc khăn quấn thành vòng trên đầu. Rồi trong quá trình chung sống ở
31
Nam Bộ, hòa nhập giữa các dân tộc Kinh, Hoa, Khmer, Chăm…, chiếc khăn của người
Khmer dần trở nên phổ biến.
Đặc điểm:
Khăn thường có hai màu trắng – đen… Hai màu này tạo thành những họa tiết ô vuông
nhỏ đan xen nhau, chạy dọc, chạy ngang khắp mặt khăn, và có lẽ chính các lằn ngang
dọc này mà có tên gọi khăn rằn. Chiếc khăn rằn có chiều dài khoảng 1,2 m, rộng
chừng 40 – 50 cm, không cầu kỳ, sặc sỡ mà rất đỗi bình dị, giản đơn.
Khăn thường được dùng đội đầu, choàng cổ nên còn gọi “khăn choàng” (người miền
Tây gọi lệch là “khăn chàng”), cư dân vùng sông nước sử dụng khăn rằn khi tắm, quấn
như sà rông để thay đồ nên gọi “khăn chàng tắm”. Dù có nhiều tên gọi nhưng phổ biến
nhất là “khăn rằn Nam Bộ”.
Lúc đầu, khăn rằn dệt thủ công bằng tay, nên tạo họa tiết caro (là họa tiết đơn giản, dễ
dệt nhất), về sau, bên cạnh dệt thủ công, đã xuất hiện những khung dệt máy. Ngoài 2
màu sắc trắng – đen truyền thống thì khăn ngày nay còn được dệt phối bằng những
màu lạ mắt, tinh tế như: Hồng – trắng, đen – đỏ, xanh – hồng… Không chỉ vậy, tùy
theo thị hiếu người dùng, sản phẩm mới có nhiều kích thước, được đan dày hơn (2
lớp), 2 đầu khăn được thắt tếch để hợp thời trang…tuy nhiên, họa tiết caro truyền
thống vẫn được bảo lưu và chiếm vị trí độc tôn cho đến nay.
Công dụng:
Khăn có ưu điểm bền chắc, mẫu mã đẹp, bắt mắt, thấm hút cao, lại nhanh khô phù
hợp khí hậu nắng nóng Nam Bộ. Bên cạnh nét đẹp thẩm mĩ, khăn còn có nhiều tiện
ích, thông dụng như: quàng trên đầu để che nắng, che sương, quấn ngang trán để thấm
mồ hôi khi lao động. Rồi để người con gái cột lỏng khăn quanh cổ, thả hai đầu khăn
dài xuống ngực, để khi làm mệt tiện tay dùng khăn lau mồ hôi hay choàng vai cho ấm.
Khăn rằn còn được “biến tấu” thành giỏ xách đựng đồ như hình dáng một tay nải, hoặc
đơn giản là phụ kiện làm đẹp đi cùng với trang phục áo bà ba. Khăn không chỉ gắn bó
mật thiết với người dân lao động lam lũ, mà cả những điền chủ, người giàu có, người
lớn, trẻ em cũng sử dụng loại khăn này.
Khăn rằn đã kiên cường đồng hành cùng các chiến sĩ giải phóng quân trên khắp các
nẻo đường hành quân diệt thù, bảo vệ Tổ quốc. Khăn che mưa, che nắng, thắm giọt mồ
hôi, gói đựng ít đồ dùng cá nhân, băng bó vết thương, khăn như lời động viên tiếp
thêm sức mạnh lập bao chiến công vang dội, khăn đầy gần gũi yêu thương luôn cùng
các các má, các chị, các “o du kích”… mở đường, phá bom, từ căn cứ ra chiến trường,
là món quà mẹ tặng tiễn chồng, con ra chiến khu, là kỷ vật thân thiết mà các đồng đội
gửi tặng cho nhau bên chiến hào, là lời hẹn ước, kể cả để lau khô dòng nước mắt hay
giấu đi một nụ cười
Trong phong trào Đồng Khởi, đội quân tóc dài với chiếc áo bà ba và cái khăn rằn đã
bao bao phen gây khiếp đảm cho quân thù “áo bà ba khăn rằn tay không bắt giặc”,
khăn là “đồng đội” được sử dụng như một ám hiệu trong chiến đấu, là vật đánh dấu
“phe mình”. Chiếc khăn rằn cùng chiếc áo bà ba đã trở thành hình ảnh gần gũi với mọi
người, làm nên đặc điểm trang phục của đồng bào Nam Bộ.
32
Ở miền Tây có một làng nghề dệt khăn rằn nổi tiếng hàng trăm năm qua. Đó là làng
nghề dệt choàng Long Khánh ở huyện Hồng Ngự, tỉnh Đồng Tháp.
2.3 Chùa Dơi, chùa Đất Sét
CHÙA DƠI
Vị trí Chùa Dơi Sóc Trăng
Chùa Dơi còn gọi chùa Mã Tộc (hay chùa Mahatúp) nằm bên đường Văn Ngọc Chính
(có bảng chỉ dẫn) thuộc Phường 3, thành phố Sóc Trăng. Sở dĩ có cái tên đặc biệt này
là vì chùa là ngôi nhà của những bầy dơi đông đúc. Ngôi chùa là không gian văn hóa
duy nhất thờ Phật Thích Ca của cộng đồng dân tộc Khmer Nam Bộ tại tỉnh Sóc Trăng.
Lịch sử hình thành chùa Dơi
Theo thư tịch cổ còn lại có ghi chép: Chùa được khởi công xây dựng vào từ năm 1569,
cách nay đã hơn 440 năm. Ban đầu, chính điện của chùa chỉ được xây dựng bằng tre
lá, sau đó được xây lại bằng gạch, mái lợp ngói. Năm 1960, chùa được sửa chữa lớn ở
chánh điện và cho đến khi có được vẻ khang trang đẹp đẽ như hiện nay, chùa đã trải
qua nhiều lần trùng tu tôn tạo.
Năm 2008, một sự việc không may xảy ra khiến chùa bị cháy khu vực chánh điện.
Nhưng liên tiếp những tín hiệu đáng mừng khi vào tháng 4/ 2009, chánh điện chùa đã
được phục chế lại như cũ.
Năm 2013, khu du lịch Chùa Dơi tỉnh Sóc Trăng được đưa vào hoạt động. Tuy ngân
sách không được dư dả nhưng khu du lịch nằm phía đối diện cổng chùa có bãi đậu xe
rộng rãi, các dịch vụ tiện ích khác như nhà hàng, xe điện… rất được lòng du khách.
Từ năm 1999, chùa Dơi đã được công nhận là Di tích lịch sử – văn hóa cấp quốc gia.
Cho đến nay, chính quyền Sóc Trăng vẫn đang xem xét các chính sách bảo tồn và tôn
tạo nơi đây để vừa giáo dục tín ngưỡng, vừa đưa chùa Dơi thành điểm du lịch quen
thuộc của tỉnh.
Kiến trúc chùa Dơi Sóc Trăng
Chùa Dơi là một tổng thể kiến trúc gồm có: Ngôi chánh điện, Sala, nhà hội của sư sãi
và tín đồ, phòng ở của sư sãi và trụ trì, các tháp để tro người chết, phòng khách… Toàn
bộ các công trình toạ lạc trong một khuôn viên rộng có nhiều cây cổ thụ, diện tích
khoảng 04 hecta.
Tuy là không gian thờ Phật Thích Ca nhưng kiến trúc chùa Dơi Sóc Trăng vẫn bị ảnh
hưởng mạnh mẽ bởi văn hóa Khmer. Ngôi chùa nổi bật trong không gian xanh mát của
cây cối nhờ sắc màu vàng cam Khmer đặc trưng.
Chùa có mái được lợp ngói, bốn đầu mái cong vút chạm trổ hình rắn Naga, trên đỉnh
mái có một ngọn tháp nhọn. Bao quanh chánh điện là các hàng cột đỡ, mỗi cột có một
tượng tiên nữ Kemnar chắp hai tay trước ngực…

33
Tiến sâu vào thánh điện, ta sẽ thấy pho tượng Phật Thích Ca bằng đá nguyên khối đặt
trên một tòa sen cao khoảng 2m. Ấn tượng không kém ngay gần đó là một pho tượng
miêu tả Đức Phật cưỡi trên rắn thần Muchalinda.
Khách du lịch có cơ hội tìm hiểu cặn kẽ về cuộc đời đức Phật qua những bức tranh
miêu tả Đức Phật, từ lúc ra đời cho tới khi được khai minh rồi nhập Niết bàn.. Các bộ
kinh ghi trên lá cây thốt nốt cùng những hiện vật quý hiếm mang giá trị đặc sắc về văn
hóa tín ngưỡng của vùng đất Nam Bộ cũng được lưu giữ trong khuôn viên trang
nghiêm của chùa.
Dơi ở chùa Dơi Sóc Trăng
Đến chùa Dơi thì quả thật không nên bỏ qua những câu chuyện loài dơi làm nên cái
tên của chùa trong lòng người dân tứ xứ. Khuôn viên chùa có nhiều cây sao và dầu –
nơi trú ẩn của hàng vạn con dơi. Cứ chiều đến hàng vạn con dơi lại kéo về sân chùa
che kín cả bầu trời. Khác với tâm lí sợ sệt loài dơi của chúng ta, các vị sư ở đây cho
rằng việc dơi đổ về chùa là phúc lành nhà Phật cho ngôi chùa này nên họ rất tích cực
bảo vệ bầy dơi.
Dường như loài dơi hiểu tấm lòng của người nhà Phật nên lạ lùng thay, chưa một cây
trái nào trong vườn bị chúng dòm ngó tới. Khi di chuyển, chúng cũng “biết ý” bay
lượn vòng chứ không bay thẳng qua nóc ngôi chính điện của chùa.
Đàn dơi hoạt động chủ yếu vào đêm, khoảng 6h chiều, chúng bay đi kiếm ăn và quay
về vào khoảng 5h sáng hôm sau. Mặc dù ở Sóc Trăng cũng có nhiều ngôi chùa thanh
tịnh khác với vườn cây bóng mát, nhưng việc bầy dơi này chỉ chọn chùa Dơi Sóc
Trăng làm nơi cư trú là điều dường như vẫn còn bí ẩn. Chúng chỉ đậu trên những tán
cây trong khuôn viên chùa, tuyệt nhiên không đậu ở bên ngoài.
Truyền thuyết heo 5 móng
Những ai tinh ý còn nhận ra chùa Dơi tỉnh Sóc Trăng có những ngôi mộ kỳ lạ, trên mỗi
mộ có vẽ hình một con heo. Đây là những con heo 5 móng (heo thường chỉ có 3 móng)
được các nhà sư nuôi trong chùa, và khi chết chúng được chôn tại đây.
Theo người Khmer thì lợn 5 móng là “cốt tinh” của con người. Mang ý nghĩa tâm linh
xúi quẩy nên gia đình nào nuôi phải con heo này thì sẽ gặp bất hạnh, lục đục do bị con
heo “thành tinh” này quấy phá. Vì vậy, từ hơn 20 năm trước, lợn 5 móng đã được gửi
vào chùa Dơi nhờ trông nom, chăm sóc.
CHÙA ĐẤT SÉT
Nếu có dịp ghé thăm Bửu Sơn Tự du khách sẽ có cơ hội tìm hiểu nét độc đáo về đời
sống văn hóa, tinh thần, sinh hoạt tôn giáo của người dân Sóc Trăng. Bửu Sơn Tự còn
gọi chùa Đất Sét tọa lạc tại số 286, đường Tôn Đức Thắng, khóm 1, phường 5, thành
phố Sóc Trăng, tỉnh Sóc Trăng. Chùa Đất Sét không nổi tiếng về kiến trúc xây dựng
bên ngoài cũng như không quy mô bề thế về diện tích nhưng lại là một ngôi chùa độc
đáo ở Việt Nam bởi hàng ngàn hiện vật bên trong đều được tạo hình từ đất sét và sở
hữu những cặp đèn cầy, những cây nhang khổng lồ.

34
Theo như lời kể của các vị cao niên, trước đây Bửu Sơn tự chỉ là một am nhỏ được xây
dựng vào khoảng đầu thế kỷ XIX, do ông Ngô Kim Tây xây dựng với mục đích tu tại
gia. Lúc đầu chùa được làm hoàn toàn bằng những vật liệu tự nhiên sẵn có như: Tre,
nứa, tranh,… Mãi đến đời trụ trì thứ tư, ông Ngô Kim Tòng (1909 – 1970) am nhỏ
được tôn tạo, mở rộng thêm để có ngôi Bửu Sơn tự như bây giờ.
Bửu Sơn tự có diện tích khoảng 400m2 với kiến trúc chân phương cột gỗ mái tôn
nhưng ngôi cổ tự này lại chứa đựng trong đó nhiều giá trị văn hóa, nghệ thuật rất độc
đáo. Đó là gần 2.000 tượng phật lớn nhỏ, cùng với linh thú, vật thờ được nghệ nhân
Ngô Kim Tòng nặn bằng đất sét trong suốt 42 năm (từ năm 1929 đến năm 1970). Du
lịch Sóc Trăng, đến thăm chùa Đất Sét ai cũng trầm trồ thán phục và ngưỡng mộ bậc
kỳ tài đã dùng tâm quyết cả đời và lòng mến mộ Phật pháp đã sáng tạo ra công trình
đầy kỳ công này.
Ông Ngô Kim Tòng là con của ông Ngô Kim Đính, khi còn nhỏ ông hay đau ốm bệnh
tật. Đến năm 1929, lúc ấy Ông 20 tuổi thì lâm bệnh nặng tưởng không qua khỏi, gia
đình chỉ còn cách đưa ông Tòng lên ngôi chùa trên núi thuộc tỉnh An Giang để chữa trị
và cầu khấn trời Phật. Vừa uống thuốc vừa tập ngồi thiền, tĩnh tâm, dần dần ông đã
khoẻ lại.
Ông Ngô Kim Tòng đi tu và về chùa trụ trì đời thứ tư, một nghệ nhân không qua
trường lớp điêu khắc, hội hoạ, không học ông thầy dạy chính qui mà chỉ qua chiêm
nghiệm dân gian đã tạo nên những công trình kỳ vật điêu khắc bằng đất sét có giá trị
lịch sử tôn giáo vô cùng quý hiếm.
Nguyên liệu dùng cho việc nặn tượng chủ yếu bằng đất sét, do Ông Tòng đào từ những
cánh đồng cách chùa vài cây số, đem về phơi khô, rồi bỏ vào cối dùng chày giã
nhuyễn cho mịn ra, lọc hết tạp chất, rễ cây, rễ cỏ, lấy đất mịn trộn cùng mạc cưa làm
nhang (bột hương) và keo ô dước tạo thành một hỗn hợp dẻo thơm. Lúc đó, Ông mới
bắt đầu nắn tượng, những bức tượng mịn màng, không nứt nẻ. Ngoài ra, Ông còn
nghiên cứu và ứng dụng cách đỡ cho việc nặn tượng đạt yêu cầu thẩm mỹ cao, Ông đã
dùng lưới kẽm, cây gỗ dựng sườn, sau đó dùng vải mùng bao lại và đắp nguyên liệu
hỗn hợp làm tượng lên, bề ngoài được phủ bằng một lớp sơn nước kim nhũ và dầu
bóng. Không chỉ có đôi tay khéo léo, tài hoa mà với tư duy tưởng tượng vô cùng
phong phú của ông hàng trăm bức tượng lớn, nhỏ được hình thành mà không trùng lắp.
Mỗi tượng một vẻ, thể hiện rõ cái thần sắc trên từng khuôn mặt.
Bước qua cổng tam quan của chùa thẳng theo con đường bê tông vào cửa bên hông, ta
sẽ bắt gặp một chú voi to màu trắng cao khoảng 2m như đón chào khách tham quan,
sau đó đến gian chính thờ Phật. Nét tiêu biểu trong cách bố trí tượng Phật ở đây nói
lên tư tưởng “Tam giáo cộng đồng” (Phật-Nho-Lão) với hệ thống Phật: A Di Đà, Quan
Thế Âm Bồ Tát, Khổng Tử, Ngọc Hoàng Thượng Đế, Lão Tử, Phật Di Lặc,.…
Ông Ngô Kim Tòng còn tạo nên các tác phẩm khác, trông đó nổi bật nhất là tháp Đa
Bảo được làm 1939 lúc ông mới 30 tuổi, cao khoảng 4m được thiết kế hết sức tinh vi.
Tháp có 13 tầng, mỗi tầng có 16 cửa, mỗi cửa có một tượng Phật, tổng cộng tháp Đa

35
Bảo có 208 cửa, 208 vị phật và xung quanh tháp có 156 con rồng uốn lượn chuyển
mình đang trong tư thế bay vút lên trời cao, hộ pháp cho tháp.
Bảo Tòa là công trình đặc sắc thứ 2 được xây dựng vào năm 1940, cao khoảng 2m.
Trên có hoa sen với 1000 cánh theo hình bát giác, dưới có 16 tiên nữ đứng hầu. Chân
tháp tạo hình 4 con vật trong tứ linh (lân, long, quy, phụng) và 12 con cá hóa long đặc
sắc, sinh động và đầy ấn tượng. Nhìn tổng thể tòa tháp và đài sen này, du khách sẽ
nghĩ ngay đến một nhà điêu khắc tài ba lỗi lạc đã tận dụng giáo lý Phật pháp để sáng
tạo ra những pho tượng biết nói ý Phật.
Trong gian thờ phía trên trần nhà, có treo một chùm đèn gọi là “Lục Long Đăng” cũng
bằng chất liệu đất sét, gồm ba chóp đỉnh với 6 con rồng uốn cong như tượng trưng cho
lục tỉnh miền Tây Nam bộ, đuôi chụm vào nhau, đầu trổ ra các phía. Thân rồng được
làm hoàn toàn bằng đất sét với nhiều chi tiết tinh xảo, nên trọng lượng khá nặng. Đáy
đèn là một tòa sen lặt úp tỏa cánh xuống điện thờ, cánh sen khá mỏng nhưng theo dấu
thời gian Lục Long Đăng không hề rơi hay sứt mẽ tí nào.
Chung quanh chùa, góp phần canh giữ cho hệ thống các tượng Phật, còn nhiều tượng
thú cũng bằng đất sét, nổi bật nhất và sắc sảo nhất là cặp Kim Lân đang ngẩng cao đầu
trước bệ thờ giữa điện, ngậm trái trân châu, chân gác lên quả cầu trông thật oai phong
lẫm liệt.
Những tác phẩm được làm từ đất sét do ông Ngô Kim Tòng tạo dựng cách đây hơn 60
năm vẫn còn nguyên vẹn với thời gian. Tuy nhiên, điều mà tất cả du khách đến tham
quan, chiêm ngưỡng và các nhà khoa học chưa thể lý giải nổi, tất cả những công trình
nổi tiếng và kỳ lạ hàng đầu thế giới này lại được tạo nên bởi một người tu hành mới
học hết lớp 3 trường làng và không hiểu biết gì về nghệ thuật hội hoạ.
Với những giá trị đó, chùa được xếp hạng là di tích lịch sử – văn hóa cấp tỉnh vào ngày
10.12.2010 và ngày 18.7.2013, Tháp Đa Bảo và Bảo Tòa Liên hoa của chùa được cấp
bằng xác nhận kỷ lục là hai hiện vật nhà Phật làm từ đất sét lớn nhất Việt Nam.
2.4 Giới thiệu Bạc Liêu, công tử Bạc Liêu, nghệ thuật Đờn Ca Tài Tử Nam bộ,
nhạc sĩ Cao Văn Lầu
I.GIỚI THIỆU TỔNG QUÁT VỀ BẠC LIÊU
Lịch sử hình thành
Trải qua bao biến cố, thăng trầm của lịch sử, vùng đất Bạc Liêu vẫn ngày càng trù phú
do phù sa bồi lấn ra biển và hơn hết là nhờ sự “chung sức, đồng lòng” dựng xây quê
hương của ba dân tộc Kinh, Khơme và Hoa.
Năm 1680, Mạc Cửu, một di thần nhà Minh ở Trung Quốc đến vùng Mang Khảm
chiêu tập một số lưu dân người Việt, người Hoa cư trú ở Mang Khảm, Phú Quốc, Rạch
Giá, Long Xuyên (Cà Mau), Luống Cày (Lũng Kỳ), Hưng úc (tức Vũng Thơm hay
Kompong som), Cần Bột (Campốt) lập ra những thôn xóm đầu tiên trên vùng đất Bạc
Liêu.
Năm 1708, Mạc Cửu dâng vùng đất Mang Khảm cho chúa Nguyễn Phúc Chu. Chúa
Nguyễn Phúc Chu đặt tên toàn bộ thôn xóm vùng này là trấn Hà Tiên, phong Mạc Cửu
36
là Tổng binh trấn Hà Tiên, với tước Cửu Ngọc Hầu. Mạc Cửu lập dinh trại đồn trú tại
Phương Thành, nhân dân quy tụ ngày càng đông.
Năm 1757, chúa Nguyễn Phúc Khoát thu nhập thêm vùng đất Ba Thắc, lập ra Trấn
Giang (Cần Thơ), Trấn Di (Sóc Trăng, Bạc Liêu). Toàn bộ vùng đất phương Nam
thuộc về chúa Nguyễn. Đến năm 1777, Trấn Giang, Trấn Di được bãi bỏ.
Năm 1802, vua Gia Long lên ngôi. Năm 1808, trấn Gia Định đổi là thành Gia Định cai
quản 5 trấn: Phiên An, Biên Hoà, Định Tường, Vĩnh Thanh (tức Vĩnh Long), Hà Tiên.
Năm 1832, vua Minh Mạng bỏ thành Gia Định, chia Nam Kỳ thành lục tỉnh: Biên
Hoà, Gia Định, Định Tường, Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên, bao gồm đất từ Hà Tiên
đến Cà Mau. Phần đất tỉnh An Giang, tính từ Châu Đốc đến Sóc Trăng và Bạc Liêu
tính đến cửa biển Gành Hào. Ngày 5-1-1867, thực dân Pháp chiếm 6 tỉnh Nam Kỳ.
Đến ngày 5-6-1876, Pháp chia Nam Kỳ thành 24 khu tham biện (inspection - có người
dịch là khu thanh tra) do các viên thanh tra hành chính (inspecteur) đảm nhiệm.
Năm 1877, Pháp điều chỉnh Nam Kỳ còn 20 khu tham biện. Đến ngày 18-12-1882,
Pháp cắt 3 tổng: Quảng Long, Quảng Xuyên, Long Thuỷ của đại lý (Dlégation) Cà
Mau thuộc địa hạt Rạch Giá (Arrondissement de Rach Gia) và hai tổng Thạnh Hoà,
Thạnh Hưng của đại lý Châu Thành thuộc địa hạt Sóc Trăng và thành lập địa hạt Bạc
Liêu (Arrondissement de Bạc Liêu). Địa hạt Bạc Liêu là địa hạt thứ 21 của Nam Kỳ,
lúc đầu có 2 đại lý: Vĩnh Lợi và Vĩnh Châu.
Ngày 20-12-1899, toàn quyền Đông Dương ký sắc lệnh bỏ xưng danh địa hạt, đổi
thành tỉnh, đại lý đổi thành quận. Ngày 1-1-1900, sắc lệnh trên được áp dụng cho toàn
Nam Kỳ.
Năm 1904, quận Vĩnh Lợi cắt một phần đất phía bắc nhập thêm vào quận Vĩnh Châu.
Diện tích của tỉnh Bạc Liêu lúc này là 740 nghìn ha.
Năm 1918, chính quyền thực dân Pháp cắt một phần đất phía nam quận Vĩnh Lợi và
một phần đất phía bắc quận Cà Mau thành lập quận Giá Rai.
Ngày 25-10-1955, Ngô Đình Diệm ký Sắc lệnh số 143/NV phân định lại địa phận
hành chính các tỉnh miền Nam, sáp nhập các quận Giá Rai, Vĩnh Lợi, Vĩnh Châu vào
Sóc Trăng, thành lập tỉnh Ba Xuyên. Toàn bộ vùng đất quận Cà Mau lập thành tỉnh An
Xuyên.
Ngày 8-9-1964, Ngụy quyền Sài Gòn ký Sắc lệnh số 254/NV tái lập tỉnh Bạc Liêu
gồm các quận: Giá Rai, Vĩnh Lợi, Vĩnh Châu và Phước Long (Rạch Giá). Địa phận
này tồn tại cho đến ngày 30-4-1975.
Về phía chính quyền cách mạng: việc phân chia địa giới hành chính tỉnh Bạc Liêu
trong kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ khác hẳn chính quyền Sài Gòn.
Năm 1947, quận Hồng Dân thuộc tỉnh Rạch Giá giao hai làng Vĩnh Hưng, Vĩnh Phú
về quận Vĩnh Lợi, tỉnh Bạc Liêu.
Năm 1948, tỉnh Bạc Liêu giao quận Vĩnh Châu và làng Hưng Hội về tỉnh Sóc Trăng,
đồng thời thành lập thêm quận mới lấy tên là quận Ngọc Hiển.

37
Ngày 13-11-1948, cắt 2 làng Vĩnh Trạch, Vĩnh Lợi để thành lập thị xã Bạc Liêu. Cùng
thời điểm này, tỉnh Sóc Trăng giao làng Châu Thới về Bạc Liêu. Làng Châu Thới hợp
nhất với làng Long Thạnh thành làng Thạnh Thới.
Năm 1951, thành lập thêm huyện Trần Văn Thời, gồm các xã: Khánh Bình Đông,
Khánh Bình Tây, Trần Hợi, Hưng Mỹ, Khánh An, Khánh Lâm. Đồng thời, tỉnh Bạc
Liêu tiếp nhận hai huyện An Biên, Hồng Dân của tỉnh Rạch Giá.
Sau Hiệp định Giơ-ne-vơ, năm 1955, huyện Vĩnh Châu được đưa về tỉnh Bạc Liêu,
huyện An Biên và huyện Hồng Dân đưa về tỉnh Rạch Giá. Huyện Vĩnh Lợi và thị xã
Bạc Liêu được tái lập.
Năm 1957, Liên Tỉnh uỷ miền Tây chia các huyện Giá Rai, Vĩnh Lợi, Vĩnh Châu,
Hồng Dân, thị xã Bạc Liêu về tỉnh Sóc Trăng. Tỉnh uỷ Sóc Trăng quyết định hợp nhất
huyện Vĩnh Châu và huyện Vĩnh Lợi, thành huyện Vĩnh Lợi - Vĩnh Châu.
Năm 1962, huyện Giá Rai sáp nhập vào tỉnh Cà Mau. Năm 1963, Tỉnh uỷ Sóc Trăng
quyết định tách huyện Vĩnh Châu khỏi huyện Vĩnh Lợi - Vĩnh Châu, thành lập huyện
Vĩnh Châu.
Tháng 11-1973, Khu uỷ Tây Nam Bộ quyết định tái lập tỉnh Bạc Liêu, gồm 4 đơn vị
hành chính cấp huyện: Vĩnh Lợi, Giá Rai, Hồng Dân và thị xã Bạc Liêu.
Vào đầu năm 1976, Hội đồng Chính phủ cách mạng lâm thời miền Nam Việt Nam hợp
nhất hai tỉnh Bạc Liêu - Cà Mau thành tỉnh Bạc Liêu - Cà Mau, đến gần giữa năm
1976 tỉnh Bạc Liêu - Cà Mau đổi tên thành tỉnh Minh Hải.
Ngày 1-1-1997, tỉnh Bạc Liêu được tái lập lần thứ hai và giữ nguyên cho đến ngày
nay.
Xuất xứ tên gọi Bạc Liêu
Danh xưng “Bạc Liêu”, đọc theo tiếng Trung, giọng Triều Châu là Pô Léo, có nghĩa là
xóm nghèo, làm nghề hạ bạc, tức nghề chài lưới, đánh cá, đi biển. Pô phát âm theo
tiếng Hán Việt là “Bạc” và Léo phát âm là “Liêu”.
Một giả thuyết khác cho rằng: Pô là bót, đồn. Liêu là Lào (Ai Lao) theo tiếng Khơme,
vì trước khi người Hoa kiều đến sinh sống, nơi đó có một đồn binh của người Lào.
Còn người Pháp, họ căn cứ vào tên Pô Léo theo tiếng Triều Châu nên gọi vùng đất này
là Phêcheri - chaume (đánh cá và cỏ tranh). Ngoài ra còn một số giả thuyết khác.
Vài nét về tính cách và văn hóa của người Bạc Liêu
Ở Bạc Liêu, có 3 dòng văn hóa đan xen nhau đó là: văn hóa Kinh, văn hóa Khơ-me,
văn hóa người Hoa, trong quá trình hội nhập, phát trển.Hàng năm trên vùng đất Bạc
Liêu có rất nhiều lễ hội. Người Kinh có lễ hội cúng đình, thờ thần hoàng bổn cảnh có
công với nước được triều đình nhà Nguyễn Sắc phong. Ngoài ra còn có đại lễ Kỳ Yên
còn gọi là lễ thượng điền giữa tháng 5 âm lịch, lễ thắp miếu còn gọi là lễ hạ điền vào
giữa tháng 12 âm lịch.Đồng bào Khơ-me có lễ hội vào năm mới (Chol-Chnam-Thmây)
vào giữa tháng 4 dương lịch, lễ hội chào mặt trăng (Oóc-Om-Boóc) vào ngày rằm

38
tháng 10 âm lịch, lễ hội Đôn-ta nhằm thực hiện việc xá tội vong nhân theo đạo lý nhà
Phật.
Đồng bào Hoa có lễ cúng Thanh Minh vào tháng 3 âm lịch, lễ thí giàng vào tháng 7
âm lịch.
Trong giao tiếp, lớp người trung niên giữa Kinh và Khơ-me hay kết thân nhau làm
“ní” (người cùng tuổi). Trai, gái Kinh và Hoa thường gọi nhau là “hia”, “chế” thay cho
từ anh, chị.Về văn hóa nghệ thuật Bạc Liêu, có bản vọng cổ của bác Sáu Lầu, chuyện
vui bác Ba Phi, nói thơ điệu Bạc Liêu của ông Thái Đắc Hàn, vè của ông Bửu Trượng.
Tính cách người dân Bạc Liêu dưới thời Pháp thuộc in đậm tính cách lưu dân người
Việt “đủ tinh thần thực tiễn, nhưng thiếu chữ; đủ đạo đức làm dân mà ít thuộc kinh
truyện”. Trước đây một số ngươi giàu ở Bạc Liêu có quan niệm “lấy táu đong lúa chứ
không ai lấy táu đong chữ”. Điển hình là Ba Huy con ông Hội đồng Trần Trinh Trạch,
một thời tiêu xài “xả láng” để đồng bào cả nước mỉa mai sự xa xỉ đó bằng tên gọi
“công tử Bạc Liêu”.
Vị trí địa lý
Tỉnh Bạc Liêu nằm ở miền Tây Nam Bộ, thuộc khu vực đồng bằng sông Cửu Long,
có toạ độ từ 9000’00’’ đến 9037’30’’ vĩ độ bắc và từ 105015’00” đến 105052’30” kinh
độ đông, cách thành phố Hồ Chí Minh 280 km (về phía bắc). Phía bắc giáp tỉnh Hậu
Giang và Kiên Giang, phía đông và đông bắc giáp tỉnh Sóc Trăng, phía tây và tây nam
giáp tỉnh Cà Mau, phía đông và đông nam giáp biển Đông.
Dân số
Dân số tỉnh Bạc Liêu là 856.250 người (01/4/2009), ba dân tộc chủ yếu là dân tộc
Kinh (chiếm khoảng 90% dân số) – dân tộc Khmer (chiếm khoảng 7% dân số) và dân
tộc Hoa (chiếm khoảng 3% dân số).
Đơn vị hành chính
Ngày 1-1-1997, Bạc Liêu được tái lập với 4 đơn vị hành chính gồm: 3 huyện (Hồng
Dân, Vĩnh Lợi, Giá Rai) và thị xã Bạc Liêu, trong đó thị xã Bạc Liêu là thị xã tỉnh lỵ
của tỉnh. Đến cuối năm 2005, tỉnh Bạc Liêu có 6 huyện (chia tách từ 3 huyện cũ) là
Phước Long, Hồng Dân, Vĩnh Lợi, Hoà Bình, Giá Rai, Đông Hải và thị xã Bạc Liêu.
Đất đai: Bạc Liêu có diện tích đất tự nhiên 2.594 km2.
Địa hình: khá bằng phẳng, không có đồi, núi nên không có các chấn động địa chất lớn.
Địa hình cơ bản là đồng bằng với các cánh đồng rộng mênh mông, sông rạch và kênh
đào chằng chịt.
Khí hậu
Bạc Liêu nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, thời tiết chia thành hai mùa rõ rệt:
mùa khô (mùa nắng) bắt đầu từ tháng 10-11 năm trước đến tháng 4 - 5 năm sau; mùa
mưa bắt đầu từ tháng 4 - 5 đến tháng 10 - 11.

39
Nhiệt độ trung bình năm 28,50C, nhiệt độ thấp nhất trong năm là 210C (vào mùa
mưa), nhiệt độ cao nhất trong năm là 360C (vào mùa nắng).
Tài nguyên
- Tài nguyên rừng và động - thực vật: rừng Bạc Liêu thuộc hệ sinh thái rừng ngập mặn
như: tràm, chà là, giá, cóc, lâm vồ,... Bên dưới là thảm thực vật gồm cỏ và các loài dây
leo. Theo Viện sinh học nhiệt đới, rừng Bạc Liêu có 104 loài thực vật, 10 loài thú nhỏ,
8 loài bò sát,...
Sau khi các kênh xáng được đào xong, đại bộ phận đất ngập úng ở Bạc Liêu được
ngăn mặn, xổ phèn. Kết quả, hơn 240 nghìn ha đất hoang hoá trở nên màu mỡ. Bạc
Liêu nhanh chóng trở thành tỉnh đứng đầu Nam Kỳ về diện tích trồng lúa nước; đứng
thứ hai (sau Kiên Giang) về nguồn lợi thuỷ sản.
Ngoài ra, Bạc Liêu có 01 vườn chim hoang dã (diện tích hơn 30 ha) ở xã Hiệp Thành,
cách thị xã Bạc Liêu khoảng 3 km (về phía đông); hai vườn cò ở thị trấn Phước Long
và Vĩnh Phú Tây (huyện Phước Long); một vườn chim với loài giang sen quý hiếm ở
huyện Đông Hải. Đặc biệt, vườn chim Bạc Liêu là vườn chim lớn nhất trong tỉnh với
khoảng hơn 40 loài chim, số lượng hơn 60 nghìn con, gồm nhiều loại như: điên điển,
quắm trắng, quắm đen, chằn bè, cò lông bông, le le, vịt nước, còng cộc, vạc, cò ngà, cò
trắng, giang sen, mỏ thác, ốc cao, thằng chài, diệc Sunatra,... Vườn chim Bạc Liêu là
một trong những khu vực được đưa vào hệ thống khu bảo tồn thiên nhiên quốc gia của
Việt Nam.
- Hệ thống sông ngòi: Bạc Liêu có hệ thống sông ngòi, kênh đào chằng chịt, cơ bản
chia làm hai nhóm:
Nhóm 1: chảy ra hải lưu phía nam, gồm: sông Gành Hào (dài 55 km) có các nhánh là
rạch Giồng Ké, rạch Lộ, rạch Nhà Thờ, rạch Cái Keo, rạch Gốc,...; sông Mỹ Thanh (70
km) có các nhánh là rạch Lé, rạch Bạc Liêu, rạch Trò Nho, rạch Trà Niêu, rạch Trà
Teo, trong đó rạch Bạc Liêu dài 35 km.
Nhóm 2: chảy ra sông Ba Thắc (thường gọi là sông Hậu, tức Hậu Giang). Nhóm này
gồm rạch Ba Xuyên và các nhánh nhỏ của rạch Ba Xuyên.
- Biển: Bạc Liêu có bờ biển dài 56 km. Biển Bạc Liêu có nhiều loài tôm, cá, ốc, sò
huyết,... Hàng năm, sản lượng khai thác đạt gần 100 nghìn tấn cá, tôm. Trong đó, sản
lượng tôm gần 10 nghìn tấn.
Bờ biển thấp và phẳng rất thích hợp để phát triển nghề làm muối, trồng trọt hoặc nuôi
tôm, cá. Hàng năm, sự bồi lấn biển ở Bạc Liêu ngày một tăng. Đây là điều kiện lý
tưởng cho Bạc Liêu phát triển thêm quỹ đất, đồng thời là yếu tố quan trọng đưa kinh tế
biển của Bạc Liêu phát triển.

II. NHÀ CÔNG TỬ BẠC LIÊU


40
Nói tới Bạc Liêu, người ta không chỉ nhắc tới Cao Văn Lầu cùng nghệ thuật Đờn Ca
Tài Tử, mà còn nhiều lắm những giai thoại về Ba Huy (Công tử Bạc Liêu), nổi danh ăn
chơi nức tiếng một thời.
Nhà Công tử Bạc Liêu hiện tọa lạc tại số 13 Điện Biên Phủ, phường 3, TP Bạc Liêu,
nằm cạnh bờ sông Bạc Liêu. Ngôi nhà mang kiến trúc phương Tây sang trọng, được
xây dựng từ năm 1917 đến năm 1919 thì hoàn thành. Ngôi nhà sở hữu kiến trúc bề thế
nhất lục tỉnh miền Tây thời điểm lúc đó nên được người dân nơi đây gọi với cái tên
“nhà lớn”.
Dinh thự do ông Trần Trinh Trạch, tức Hội đồng Trạch, cha Công tử Bạc Liêu xây khi
công tử mới 19 tuổi. Ông Trần Trinh Trạch là chủ sở hữu của 74 sở điền, với 110.000
ha đất trồng lúa, gần 100.000 ha ruộng muối. Khi đó toàn tỉnh Bạc Liêu lúc bấy giờ có
13 lô ruộng muối thì 11 lô là của ông. Ông Trạch có 7 người con, 4 gái, 3 trai. Trong 3
người con trai, Trần Trinh Huy ăn chơi khét tiếng và nổi tiếng mê gái. Được biết, tổng
số tài sản mà công tử Bạc Liêu được thừa hưởng và “tiêu hao” vào ăn chơi xa xỉ ước
tính lên tới trên 5 tấn vàng.
Ngôi biệt thự do kĩ sư người Pháp thiết kế, hầu hết vật liệu xây dựng được mang từ
Paris về. Nhiều chi tiết, vật liệu, đồ nội thất trong nhà được nhập khẩu từ Pháp, từ các
bù long, ốc vít cho đến các chi tiết xây dựng đều có đóng dấu chìm mẫu tự P thể hiện
xuất xứ.
Ngay khi bước chân vào ngôi nhà, du khách sẽ bị cuốn hút bởi những đường nét thiết
kế tỉ mỉ, tinh tế, toát lên vẻ sang trọng và hào hoa. Những chiếc đèn màu vàng tỏa ánh
sáng lung linh tạo cảm giác ấm cúng và lịch lãm. Trên mỗi cây cột của ngôi nhà đều
được trang trí nhiều hoa văn đẹp mắt.
Tầng một (tầng trệt) của dinh thự gồm 2 phòng ngủ, phòng khách cùng hai đại sảnh
rộng cùng với cầu thang lớn dẫn lên lầu. Trên lầu cũng có 2 phòng ngủ và hai đại sảnh
rộng, thoáng, hút nắng, gió, khiến cho dinh thự luôn thông thoáng, mát mẻ.
Cầu thang lên tầng hai được làm bằng đá cẩm thạch, chia làm 3 đoạn, mỗi đoạn 9 bậc
tượng trưng cho sự trường tồn, vĩnh cửu. Cầu thang gỗ dẫn lên sân thượng trước đây là
nơi ông hội đồng Trạch, cha của Công tử Bạc Liêu dùng để phơi tiền.
Đến nay, công trình đã hơn năm tuổi nhưng những giá trị kiến trúc, nghệ thuật tại dinh
thự của cậu Ba Huy, không những không bị “lạc hậu” so với thời thế mà trái lại, càng
trở nên quý giá và được đánh giá cao.
Phần nhà bếp của căn nhà được cải tạo thành quầy bán vé cho khách quan. Trong nhà
còn trưng bày nhiều đồ vật gắn liền với giai thoại của “Hắc công tử”. Đây chiếc ôtô
được ông Trần Trinh Trạch mua năm 1930 tại Sài Gòn để đón con trai là Công tử Bạc
Liêu đi du học Pháp trở về.
Tham quan nhà công tử Bạc Liêu hiện nay bạn sẽ được chiêm ngưỡng những hiện vật
quý giá còn sót lại như: 2 chiếc giường nóng và giường lạnh, bộ trường kỷ được làm từ
1 tấm gỗ nguyên, bộ bàn xoay “Tam lân” (bàn tròn mặt bằng đá, chân quỳ tam giác có
chạm 3 con lân), bộ “Tượng bành” (có hình chiếc bành đặt trên lưng voi), sạp “Tam
41
thành” (3 vách) là nơi ngủ của Trần Trinh Khương, em trai của Công tử Bạc Liêu),
giường ngủ của ông bà Hội đồng Trạch, giường cho khách hút thuốc phiện, bàn đánh
bài, bình hoa ,… đều là những vật dụng rất có giá trị.
Tuy trải qua thời gian có mất mát nhiều, nhưng những gì còn lại cũng đủ chứng minh
cho một cuộc sống hào hoa và vương giả của chủ nhân căn nhà.
Hầu hết đồ vật trong nhà Công tử Bạc Liêu được bảo tồn nguyên vẹn. Nhiều đồ dùng
như máy nghe nhạc, điện thoại bàn thậm chí vẫn còn hoạt động.
Một nơi mọi người dừng lại lâu nhất là bàn thờ ông Trần Trinh Huy và bà vợ đầu.
Người ta bảo không ai đếm được Công tử Bạc Liêu có bao nhiêu bà vợ nhưng người
vợ đầu tiên là bà Ngô Thị Đen được cưới hỏi đàng hoàng, con của một ông bá hộ giàu
có trong vùng. Những người còn lại là vợ lẽ của ông, trong đó có một phụ nữ quốc tịch
Pháp.
Theo các giai thoại này thì Công tử Bạc Liêu, là người Việt Nam sở hữu riêng máy bay
đầu tiên cả nước; đi thăm ruộng bằng máy bay đầu tiên; người tổ chức đấu xảo sắc đẹp
(tiền thân các cuộc thi sắc đẹp sau này) đầu tiên tại Nam kỳ… Là người Bạc Liêu, sở
hữu nhiều đất đai, sở muối (đất làm muối), khai thác than, phố lầu cho thuê nhiều nhất
nên rất giàu có. Điển hình là chuyện thi đốt tiền nấu chè với Bạch công tử hay “công
tử Bạc Liêu đốt tiền nấu trứng tỏ ra mình giàu” đã đi vào lời nhạc…
ĐỜN CA TÀI TỬ
Trải qua nhiều năm tháng con người định cư, lập nghiệp, các loại hình văn hoá, văn
nghệ truyền thống cũng dần có sự tiếp biến, kế thừa và phát triển thành các giá trị mới.
Và trên nền tảng đó, một loại hình âm nhạc đã được hình thành, mà âm hưởng của nó
vượt cả không gian và thời gian, được đông đảo công chúng đón nhận và trở thành một
phong trào rộng lớn. Đó chính là Đờn ca tài tử.
NGUỒN GỐC – LỊCH SỬ
Đờn ca tài tử hình thành vào khoảng cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX tại Nam Bộ. Khi
hưởng ứng theo phong trào Cần Vương, các nhạc sĩ, nhạc quan triều đình nhà Nguyễn
đã vào Nam và mang theo nền âm nhạc cung đình, ca Huế là loại nhạc vừa mang tính
bác học vừa mang tính nghi lễ có tính lan toả rộng lớn. Khi các nhạc sư dừng chân ở
vùng Ngũ Quảng, tiếng đàn, giọng hát xứ Huế đã có sự thay đổi, mang âm điệu hương
vị của vùng đất nơi đây.
Các nghệ nhân, nhạc quan cùng phối hợp âm nhạc Huế với các làn điệu dân ca Nam
Bộ và nhạc lễ Nam Bộ từng bước chỉnh biên (gần như thoát ly khỏi các âm luật của
nhạc lễ cung đình) hoặc sáng tác những bài bản mới để phù hợp, gần gũi hơn với tâm
tư, tình cảm phóng khoáng, đời thường của con người nơi này. Khi sinh hoạt âm nhạc
này càng được phổ biến rộng rãi, nhạc lễ dần thay đổi đối tượng sang quần chúng lao
động và con người bình dân, có thể được biểu diễn giải trí sau những ngày làm lao
động vất vả. Do đó mà có những bài bản của Đờn ca tài tử sau này tuy vẫn mang tên
những bản nhạc du nhập từ Huế nhưng cấu trúc đã được thay đổi cả về nhịp, điệu và
hơi nhạc, được giới mộ điệu yêu thích và truyền bá rộng khắp.
42
Nhạc tài tử ra đời và có sự phát triển mạnh mẽ, hội tủ đủ yếu tố bác học và dân gian là
cả một quá trình xây dựng, sáng tạo không ngừng của con người tại đất Nam Bộ, mà
thành phần chủ lực là các nghệ nhân, nhạc sĩ tài hoa. Trong đó có người mang tài năng
kiệt xuất được giới đờn ca tài tử sau này tôn là Hậu Tổ của bộ môn nghệ thuật đờn ca
tài tử Nam Bộ như có nghệ nhân, nhạc sư của triều đình Huế – Nguyễn Quang Đại
(hay còn gọi thầy Ba Đợi), ông Kinh lịch Trần Quang Quờn (thầy kí Quờn) và Nhạc sư
Lê Tài Khị (thường gọi ông là Nhạc Khị).

Các ông có công lớn trong việc đào tạo các nghệ sĩ, nghệ nhân thế hệ kế tiếp; sáng tác,
cải biên và hệ thống hoá các bài bản nhạc tài tử trong những năm tháng sơ khai của
loại hình này. Và với sự tiên phong của các nhạc sư nói trên, Đờn ca tài tử cũng bắt
đầu trở thành một phong trào bùng nổ rộng khắp khu vực Đông và Tây Nam Bộ. Bắt
đầu xuất hiện nhiều ban nhạc cùng tên tuổi các nghệ nhân tài danh với tiếng đờn, tiếng
ca làm say đắm khán giả mộ điệu.
Từ những năm 1911 -1917, Đờn ca tài tử tiếp tục phát triển mạnh mẽ và nảy sinh hình
thức “Ca ra bộ”. Năm 1913, ông Trương Duy Toản (1885 – 1957) – một trí thức yêu
nước trong phong trào Duy Tân và Đông Du, người rất yêu thích và am hiểu nghệ
thuật Đờn ca tài tử, đã dựa theo tác phẩm truyện thơ nổi tiếng “Lục Vân Tiên” của nhà
thơ yêu nước Nguyễn Đình Chiểu và bài bản “Tứ Đại Oán” để soạn ra bài “Bùi kiệm
thi rớt”. Bài này được biểu diễn thành công bởi ban đờn ca của ông Nguyễn Tống
Triều ở Mỹ Tho, gồm: ông Tống Triều chuyên sử dụng đàn kìm, ông Bảy Vô kéo đàn
cò, ông Chín Quán thủ cây đàn độc huyền, ông Mười Lý thổi ống tiêu, cô Hai Nhiễu
đàn tranh và cô Ba Đắc hát. Cô Ba Đắc được xem là một nữ danh ca nổi tiếng thời ấy
thông qua lối hát dậm thêm vài câu hài hước. Lúc này có ông Tống Hữu Định (còn gọi
là thầy Phó Mười Hai). Ông là người làng Long Châu, làm phó tổng Bình Long, từng
tham gia phong trào Duy Tân, mượn lý do trùng tu văn miếu Vĩnh Long (nơi có thờ
các cụ Võ Trường Toản, Phan Thanh Giản và Nguyễn Thông) để phát động cuộc dựng
bia với các thân hào nhân sĩ địa phương. Ông cũng đam mê đờn ca, cứ mỗi chiều ông
thường mời những người yêu thích nhạc tài tử đến nhà mình chơi, và một lần tình cờ
ghé nhà ga Mỹ Tho nghỉ chân, ông Tống Hữu Định có đi xem hát và được nghe cô Ba
Đắc diễn ca bài “Tứ đại oán”. Lúc này cô Ba Đắc không ngồi chung dàn nhạc ca mà
đứng riêng một mình. Sau khi quay về Vĩnh Long, ông Tống Hữu Định bèn nảy ra ý
tưởng cho các tài tử ca ở nhà mình đứng trên bộ ván ca và có ra điệu bộ minh họa (hay
còn gọi là Ca ra bộ). Có nghĩa là thay vì một tài tử ca đóng một lúc ba nhân vật Bùi
Ông, Bùi Kiệm, Nguyệt Nga trong lớp “Tứ đại oán” Bùi Kiệm mê sắc Nguyệt Nga
như ban nhạc tài tử của ông Nguyễn Tống Triều từng làm ở Mỹ Tho, ông Tống Hữu
Định đã phân vai cho mỗi người ca một đoạn: kẻ ca đoạn Bùi Kiệm, người ca đoạn
Nguyệt Nga, đối đáp nhau vừa ca vừa ra bộ. Do nội dung bài ca có kịch tính lại được
biểu diễn khá linh hoạt nên lớp ca được người xem nhiệt liệt vỗ tay hoan nghênh và
sau đó ngày càng được phổ biến rộng rãi. Bài ca “Bùi Kiệm thi rớt” đã tạo một dấu
gạch nối chuyển dần từ “ca ra bộ” sang hình thức biểu diễn sân khấu hát chập cải
lương, rồi hình thành sân khấu cải lương – một loại hình sân khấu kịch hát dân tộc mới
mẻ, độc đáo, tiếp nối các nghệ thuật sân khấu hát chèo, tuồng của dân tộc Việt Nam,
43
được mọi tầng lớp khán giả mộ điệu hoan nghênh, và phát triển suốt thế kỉ XX đến
nay.
Vào ngày 05/12/2013, phiên họp Uỷ ban liên Chính phủ về bảo vệ di sản văn hoá phi
vật thể lần thứ 8 của UNESCO diễn ra tại thành phố Baku, nước Cộng hoà Azerbaijan
đã khẳng định Nghệ thuật Đờn ca tài tử Nam Bộ của Việt Nam được công nhận vào
Danh sách di sản văn hoá phi vật thể đại diện của nhân loại.
NỘI DUNG – GIÁ TRỊ CỘNG ĐỒNG
Đờn ca tài tử hay Nhạc tài tử, là một khái niệm chung, chỉ những cuộc trình diễn bao
gồm những người đờn, những người ca với những nhạc khí trong dàn nhạc tài tử, và
những bài bản trong nhạc mục tài tử. Trong đó, chữ “tài tử” được hiểu là tài năng,
những bậc thầy tham gia trình diễn, người đàn thì được gọi là “tài tử đờn” và người ca
thì được gọi là “tài tử ca” . Cũng có một số ý kiến cho rằng tài tử có nghĩa là nghiệp
dư, nghĩa là hoạt động âm nhạc này chỉ để cho vui nhưng trên thực tế để trở thành một
nghệ nhân đờn ca thực sự, những người đờn ca phải có một quá trình học hỏi khá dài
và nghiêm túc.

Một cuộc chơi đờn ca tài tử lúc nào cũng sẽ có người chơi đờn, người ca với số lượng
không bắt buộc. Đôi khi sẽ chỉ thấy có một người nghệ nhân với một cây ghita phím
lõm, vừa đàn vừa hát cũng đã là đờn ca tài tử. Ban đờn sẽ bắt đầu so dây, nắn phím cho
âm thanh chỉnh chu, sau sẽ bắt đầu khảy những tiếng đờn chậm rãi, không theo cấu
trúc một “lồng bản” nào gọi là “rao đờn”, để người hát bắt được nhịp điệu, làn hơi của
bài mà mình sẽ hát. Điều đặc biệt, mỗi loại bài đều có cách “rao” khác nhau, như các
bài Bắc thì sẽ “rao” theo hơi Bắc, bản Nam thì sẽ rao theo hơi Nam…, người đờn đều
cũng có một phong cách “rao” khác nhau, và vì không theo một “lồng bản” nào nên
mỗi lẫn rao đều cũng sẽ có sự riêng biệt, nhưng vẫn giữ được cái hơi hướng của mỗi
bài bản. Và khi dứt tiếng “rao”, tiếng hát ngân lên hoà cùng tiếng đờn. Để một bài ca
hoàn chỉnh, thì không thể thiếu tiếng “song lang” gõ nhịp. Đây được xem là “mực
thước” của đờn ca tài tử; người đờn hay người ca đều phải nghe tiếng song lang để giữ
nhịp nhàng, và khi nghe tiếng gõ liên tục hai lần thì biết một bài hát đã kết thúc.

Các tác phẩm đờn ca tài tử đều dựa trên “lồng bàn ngũ cung”, trên đó ghi những chữ
đờn cơ bản được xếp sẵn nhịp nội, nhịp ngoại. Người chơi đờn sẽ phải học thuộc lồng
bản, rồi sau đó sử dụng các kĩ thuật đờn như run, nhấn, vỗ,… hay theo tâm tư, tình
cảm mà thêm thắt vào đó để tạo ra bản sắc riêng cho tiếng đờn của mình. Nhờ vậy mà
người nghe cũng có thể chỉ cần nghe tiếng đờn là có thể nhận biết đó là nghệ sĩ nào.
Cũng trên một bài “lồng bản” nhưng lúc này người nhạc sĩ sẽ viết lời cho bài bản đó,
để tạo thành một bài ca để hát. Tiếng đàn, tiếng hát sẽ không lúc nào giống nhau y
khuôn mà sẽ thay đổi theo tâm tư, tình cảm của người nghệ nhân thể hiện.
Từ những ngày đầu ra đời (trong giai đoạn thực dân Pháp xâm lược nước ta) đờn ca tài
tử trở thành nguồn động viên tinh thần cho nhân dân trong cuôc̣ chiến chống ngoại
xâm, đồng thời kiên cường chống chọi với những trào lưu nghệ thuật, âm nhạc mới từ
44
phương Tây tràn vào. Còn ngày nay, nhạc tài tử là loại hình nghệ thuật âm nhạc sinh
hoạt văn hóa gắn kết cộng đồng, phản ánh tâm tư, tình cảm và phù hợp với lối sống
cần cù, phóng khoáng, cởi mở và can trường của người dân Nam bộ. Tình làng nghĩa
xóm bắt đầu từ những lời ca, xây dựng nông thôn mới cũng bắt đầu từ đó.

Giá trị của đờn ca tài tử mang lại đó là sự gắn kết của mọi người, kể cả người thể hiện
bài hát lẫn người nghe hát. Sau một ngày làm việc căng thẳng, được ngồi cùng nhau
hát đờn ca, xua đi cái mệt mỏi của cả ngày làm việc chính là giá trị của đờn ca tài tử
mà không thể loại nhạc nào hay hình thức nghệ thuật nào khác có được.

Bên cạnh đó, được biểu diễn tại nhiều sự kiện như lễ hội, lễ giỗ và lễ kỷ niệm nên đờn
ca còn có mối liên hệ mật thiết với các thực hành và phong tục văn hóa khác, truyền
thống truyền miệng và thủ công mỹ nghệ.

HỆ THỐNG BÀI HÁT


Đờn ca tài tử có một lượng bài bản rất phong phú và đa dạng. Ngoài việc sử dụng một
số bài bản trong nhạc lễ, còn có các bài từ ca Huế, dân ca miền Trung, miền Nam, và
một lượng lớn do các nghệ nhân bậc thầy sáng tác và cải biên. Một số bài nổi tiếng
được nhiều người biết đến như: bài Bình Đán của ca Huế phát triển thành Bình Bán
Vắn trong nhạc tài tử, Lưu Thủy của Huế cải biên thành Lưu Thủy Đoàn, Kim Tiền
Huế thành Kim Tiền Bản…

Cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20, tại Nam Bộ đã có 2 nhóm nhạc Tài Tử tranh đua nhau
quyết liệt về sáng tác bài bản để thu hút môn đệ về mình.

Nhóm miền Tây thâu nạp một số bài bản có sẵn và đồng thời sáng tác mới nhưng vẫn
giữ nguyên vẹn phương thức, âm tiết của nhạc miền Trung. Do đó các sáng tác của
nhóm này mặc dầu có nhiều nhưng giới chơi nhạc Tài Tử không hưởng ứng.

Còn nhóm Nhạc Miền Đông vẫn tôn trọng nguyên tắc truyền thống nên không chủ
trương sáng tác nhiều bài bản mà chỉ sắp xếp chung một số bài tiêu biểu có cùng hơi
điệu. Sự sắp xếp này đã hình thành 4 loại bài bản tượng trưng cho 4 hơi điệu Bắc,
Nam, Hạ, Oán. Tuy chỉ gồm có 20 bài bản nhưng đó là 20 bản Tổ đã đại diện đầy đủ
hơi điệu đờn ca tài tử.

Bấy lâu, giới ca nhạc tài tử ít chú ý tới việc phân biệt cung, điệu , giọng, hơi…nhưng
từ khi hệ thống 20 bản Tổ xuất hiện thì giới chơi nhạc tài tử muốn tranh đua, thách
thức nhau đều mang 20 bài bản thuộc 4 hơi điệu này ra làm căn bản để so tài. 20 bài
45
bản này cũng với 72 nhạc cổ khác (được ông Nguyễn Văn Thịnh thường được gọi là
ông Giáo Thịnh – một nhạc sư có uy tín tại Sài Gòn đã đúc kết và phổ biến năm 1945)
chính là “nguồn” để các nghệ sĩ sáng tác, cải biên.

Các bài bản Tổ gồm có 20 bài chia ra thành 4 nhóm:

– Sáu bản Bắc, đại diện cho điệu Bắc mang diễn tả sự vui tươi, phóng khoáng là: Lưu
Thủy Trường, Phú Lục Chấn, Bình Bán Chấn, Cổ Bản Vắn, Xuân Tình Chấn và Tây
Thi Vắn.
– Ba bản Nam, đại diện cho điệu Nam diễn tả sự an nhàn, thanh thoát là: Nam Xuân,
Nam Ai, Nam Đảo (Đảo Ngũ Cung).
– Bảy bản Nhạc Lễ cũng còn gọi là 7 bài Cò, đại diện cho điệu Hạ dùng trong lễ tế có
tính trang nghiêm là: Xàng Xê, Ngũ Đối Thượng, Ngũ Đối Hạ, Long Đăng, Long
Ngâm, Vạn Giá và Tiểu Khúc.
– Bốn bản Oán, đại diện cho điệu Oán diễn tả cảnh đau buồn, chia ly là : Tứ Đại Oán,
Phụng Hoàng Cầu tức Phụng Hoàng, Cửu Khúc Giang Nam và Phụng Cầu Hoàng
Duyên tức Phụng Cầu.
ĐẶC ĐIỂM BIỂU DIỄN VÀ NGHỆ THUẬT
Bởi xuất phát từ cung đình do đó đờn ca xưa kia chủ yếu được biểu diễn trong các tư
gia hoặc phục vụ 1 số ít khán giả. Tuy nhiên theo thời gian và sức hấp dẫn của dòng
nhạc này mà ngày nay đờn ca đã được sân khấu hóa để biểu diễn phục vụ công chúng.
a. Nhạc cụ:
Khi biểu diễn nhạc tài tử, các nghệ sĩ thường chú trọng đến sự kết hợp của nhạc cụ có
âm sắc khác nhau, ít thấy có sự kết hợp giữa các nhạc cụ cùng âm sắc. Vì thế nhạc cụ
trong “Đờn ca tài tử” rất đa dạng, bao gồm đàn tranh, đàn tỳ bà, đàn kìm, đàn cò, đàn
tam, sáo thường là sáo bảy lỗ (phụ họa). Từ khoảng năm 1930 có thêm đàn ghita phím
lõm, violin, ghita Hawaii (đàn hạ uy cầm). Loại nhạc cụ này được khoét lõm các ngăn
sao cho khi đánh lên nghe giống nhạc cụ Việt Nam nhất (âm cao).
b. Trang phục:
Vì những người tham gia đờn ca tài tử phần nhiều là bạn bè, chòm xóm với nhau nên
thường chỉ mặc các loại thường phục khi tham gia trình diễn. Khi nào diễn ở đình,
miếu hoặc trên sân khấu họ mới mặc các trang phục biểu diễn.
c. Hình thức biểu diễn:
Ít khi nhạc công độc tấu, mà thường song tấu, tam tấu, hòa tấu. Thường thấy nhất là
song tấu đàn kim và đàn tranh, là sự kết hợp giữa tiếng tơ và tiếng sắt, mà theo các
chuyên gia thì được gọi là sắt cầm hảo hiệp. Cũng có khi là tam tấu đàn kim – tranh –
cò, kim – tranh – độc huyền, tranh – cò – độc huyền mà giới chuyên gia gọi là tam chi

46
liên hoàn pháp. Nếu một ban nhạc tài tử có 3 nhạc công và 1 ca sĩ thì được gọi là ban
tứ tuyệt, nếu có 4 nhạc công và 1 ca sĩ thì được gọi là ban ngũ nguyệt.
d. Biểu diễn:
Là một dòng nhạc có xuất phát từ cung đình do đó cách biểu diễn đờn ca tài tử khá đặc
biệt và đòi hỏi người nghệ sĩ phải có tài năng, trình độ thực sự.
Ngay từ tên gọi đã thể hiện phần nào phong cách chơi nhạc của hình thức nghệ thuật
này: “tài tử”. Dàn nhạc thường cùng ngồi trên một bộ ván hoặc chiếu để biểu diễn với
phong cách phong lưu thảnh thơi, lãng đãng. Ngoài ra, khán giả cũng có thể cùng tham
gia thực hành, bình luận và sáng tạo.
Người thực hành đờn ca tài tử gồm: người dạy đàn (thầy Đờn) có kỹ thuật đàn giỏi,
thông thạo những bài bản cổ, dạy cách chơi các nhạc cụ; người đặt lời (thầy Tuồng)
nắm giữ tri thức và kinh nghiệm, sáng tạo những bài bản mới; người dạy ca (thầy Ca)
thông thạo những bài bản cổ, có kỹ thuật ca điêu luyện, dạy cách ca ngâm, ngân,
luyến,…; người đờn (Danh cầm) là người chơi nhạc cụ và người ca (Danh ca) là người
thể hiện các bài bản bằng lời.
e. Đặc điểm nghệ thuật:
Đờn ca tài tử Nam Bộ bao gồm Đờn và Ca. Để tạo nên những bản đờn ca hay, cuốn
hút lòng người cần có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa cả đờn và ca.
– Đờn: Ở đây chỉ các loại đàn đa dạng trong Đờn ca
– Ca: Là ca theo bài bản có sẵn, người viết chỉ dựa vào đó mà đặt lời ca sao cho phù
hợp với âm nhạc. Người học ca (đơn ca, song ca) học những bài truyền thống, rồi trên
cơ sở đó sáng tạo cách nhấn nhá, luyến láy tinh tế theo nhạc điệu và lời ca của bài gốc
cho phù hợp với bạn diễn và thẩm mỹ cộng đồng.
Đó chính là điểm đặc biệt của hình thức nghệ thuật này. Đờn ca tài tử thường được
biểu diễn ngẫu hứng, dựa trên bản nhạc gốc truyền thống, người hát cải biên đi theo
cách riêng của mình. Sự khác biệt này khiến cho người nghe luôn cảm thấy mới lạ dù
nghe cùng một bài.

Phần hay nhất trong tài tử là ở phần rao của người đàn và nói lối của người ca. Người
đàn dùng rao – người ca dùng lối nói – để lên dây đàn và gợi cảm hứng cho bạn diễn
và người thưởng thức. Ngoài ra khi trình diễn các nghệ sĩ có thể dùng tiếng đàn của
mình để “ đối đáp” hoặc “thách thức” với người đồng diễn tạo sự sinh động và hấp dẫn
của dàn tấu. Đây cũng là điểm mới lạ cuốn hút trong nghệ thuật đờn ca tài tử.
NHẠC SỸ CAO VĂN LẦU
Cao Văn Lầu, thường gọi Sáu Lầu, (22 tháng 12 năm 1890 - 13 tháng 8 năm 1976) là
một nhạc sĩ và là tác giả bài "Dạ cổ hoài lang", một bài ca độc đáo và nổi tiếng nhất
trong nghệ thuật cải lương Việt Nam.

47
Cao Văn Lầu sinh ngày 22 tháng 12 năm 1890 tại xóm Cái Cui, làng Chí Mỹ, sau sát
nhập với làng Thuận Lễ trở thành xã Thuận Mỹ, huyện Vàm Cỏ, tỉnh Long An.
Khi Cao Văn Lầu được sáu tuổi (năm 1896), ông Chín Giỏi (chưa rõ tên thật, cha Cao
Văn lầu) vì nghèo, vì bị áp bức nên đã cùng vợ và sáu đứa con nhỏ xuống ghe, tìm đất
khác sinh sống.
Buổi đầu, ông Chín Giỏi đến tá túc trên đất của một người bà con ở Gia Hội (Bạc
Liêu). Sau 9 tháng đi làm mướn cật lực mà không đủ ăn, gia đình ông lại phải dời sang
Xà Phiên (nay thuộcLong Mỹ, tỉnh Hậu Giang), khẩn hoang làm ruộng.
Khoảng một năm sau, hơn 40 công đất, nhờ khó nhọc mới có được, bị địa chủ chiếm
lấy. Nhờ người giới thiệu, gia đình ông Chín Giỏi dọn về Họng Chàng Bè (Giá Rai,
Bạc Liêu) để tiếp tục khẩn hoang, nhưng rồi số đất này về sau cũng về tay người khác.
Xót cảnh trắng tay của ông Giỏi, hương sư Chơn ở làng Vĩnh Lợi tổng Thạnh Hòa, cho
ông cất một căn chòi lá ở trên đất công điền gần chùa Vĩnh Phước An (nay thuộc
phường 2, thị xã Bạc Liêu). Ở đó, vợ chồng ông và các con phải đi làm thuê, đi câu để
chạy ăn từng bữa.
Hòa thượng Minh Bảo (? - 1912), trụ trì chùa Vĩnh Phước An, thấy gia đình ông Chín
Giỏi vất vả quá mà không đủ ăn, nên đề nghị cho Cao Văn Lầu, lúc đó mới 8 tuổi, vào
chùa ở để chia sẻ gánh nặng. Kể từ đó chú bé Lầu, vừa kinh kệ, vừa được nhà sư dạy
chữ Nho.
Năm 1903, nhờ cha đến xin, Cao Văn Lầu được phép trở về nhà để học chữ Quốc ngữ.
Nhưng chỉ học đến "lớp nhì năm thứ hai" (Cours moyen 2e année) tức lớp 4 ngày nay,
thì ông Lầu phải thôi học vì nhà gặp thêm cảnh khó: anh đi ở rể, chị lấy chồng, cha già
yếu...Vậy là, năm 17 tuổi (1907), Cao Văn Lầu phải thay cha và anh chị đi làm những
việc nặng nhọc để nuôi gia đình.
Lúc bấy giờ tại xóm Rạch Ông Bổn có một thầy đàn nổi tiếng tên Lê Tài Khí, tục gọi
Hai Khị hay Nhạc Khị. Ông thầy này bị mù cả hai mắt thêm có tật ở chân, nhưng ngón
đàn của ông thật điêu luyện.
Năm 1908, Cao Văn Lầu nhờ cha dẫn đến thầy Hai Khị để xin học đàn mỗi đêm. Nhờ
yêu thích và siêng năng, ông mau chóng sử dụng thành thạo các loại nhạc cụ như đàn
tranh, cò, kìm, trống lễ; và trở thành một nhạc sĩ nồng cốt trong ban cổ nhạc của thầy.
Năm 1912, ông bắt đầu đi hát với Sáu Thìn và cô Phấn với bài Tứ đại oán Bùi Kiệm
thi rớt.
Năm 23 tuổi (1913), Cao Văn Lầu vâng lệnh cha mẹ đi cưới vợ, đó là cô Trần Thị Tấn,
một cô gái nết na ở điền Tư Ô (Chung Bá Khánh).
Khoảng thời gian này, ông sáng tác được một bản ngắn mang tên Bá điểu, sau đổi lại
Thu phong, gồm tám câu nhịp bốn. Sau nữa, bản nhạc này được soạn giả Trịnh Thiên
Tư đặt thêm lời ca và có tên mới là Mừng khi gặp bạn.
Năm 1917, ông sáng tác thêm một khúc gồm 22 câu, theo một chủ đề của thầy Nhạc
Khị đề xướng là "Chinh phụ vọng chinh phu" (chủ đề được rút ra từ bản Nam ai "Tô
48
Huệ chức cẩm hồi văn") nhưng chưa kịp sửa chữa và trình thầy thì gặp nghịch cảnh
đau lòng. Vợ ông đã ba năm mà vẫn chưa có dấu hiệu thai nghén, theo tục xưa, cha mẹ
buộc ông phải trả vợ về nhà cha mẹ ruột.
Khoảng một năm sau, trong tâm trạng nhớ thương vợ, bản nhạc trên được đem ra soạn
lại. Nghe bạn đồng môn tên Ba Chột góp ý, ông bỏ bớt 2 câu trùng lắp, bài nhạc còn
chẵn 20 câu nhịp đôi.
Tết Trung thu năm Mậu Ngọ (15 tháng 8 âm lịch, nhằm ngày 19 tháng 9 năm 1918),
ông cùng các bạn đến thăm thầy, luôn tiện trình bày bản nhạc chưa có tên trên. Nghe
xong, thầy Nhạc Khị hết sức khen ngợi.
Đêm đó có nhà sư Nguyệt Chiếu cùng tham dự, thầy Nhạc Khị liền nhờ nhà sư đặt tên
cho bản nhạc. Nhà sư nói:"... tuy nhạc và lời ca còn vài điểm bất nhất, nhưng cái
chung vẫn diễn tả được tâm tư của nàng Tô Huệ. Vậy cứ theo tích này mà đặt tên cho
bài là "Dạ cổ hoài lang" (Nghe tiếng trống đêm nhớ chồng). Kể từ đêm đó, bài ca này
được loan truyền nhanh chóng.
Năm 1919, ông Lầu làm nhạc công trong gánh hát cải lương của Ba Xú (Bạc Liêu).
Cách mạng tháng Tám thành công, ông tham gia Mặt trận Liên Việt ở ấp Vĩnh Phước,
xã Vĩnh Lợi, tỉnh Bạc Liêu.
Năm 1947, ông nhận nhiệm vụ đặc biệt là cứu một số cán bộ bị thực dân Pháp bắt, và
đã cứu được.
Từ 1918 đến năm 1974, ngoài bản "Dạ cổ hoài lang", mà sau này phát triển thành bản
"vọng cổ", làm thay đổi một phần bộ mặt cải lương; ông Cao Văn Lầu còn sáng tác
thêm 10 bản nữa, nhưng đa phần chỉ lưu hành ở Bạc Liêu.
Ông mất lúc 13 giờ ngày 13 tháng 8 năm 1976 tại Thành phố Hồ Chí Minh, thọ 85
tuổi.
2.5 Một số điểm du lịch Bạc Liêu: Mẹ Nam Hải, Nhà mát,…
MỘT SỐ ĐIỂM DU LỊCH Ở BẠC LIÊU
1. Một số thông tin về Mẹ Nam Hải Bạc Liêu
Khi có dịp du lịch ghé thăm xứ Bạc Liêu, ngôi chùa nổi tiếng nhất tỉnh với tên gọi
Quan Âm Phật đài Mẹ Nam Hải chính là điểm đến bạn không nên bỏ lỡ. Ngôi chùa
với bức tượng Quan Âm to lớn mà nhiều người gọi tắt là Mẹ Nam Hải thuộc hệ phái
Phật giáo Bắc Tông. Cụ thể có vị trí nằm ở đường Đê Biển, Phường Nhà Mát, tỉnh Bạc
Liêu.
Công trình Phật giáo có giá trị văn hóa lớn lao này chính là điểm nối tâm linh kết nối
người dân lại với nhau. Một lần ghé thăm để tận hưởng giá trị thiêng liêng mà chúng
mang lại bạn sẽ hiểu hơn về những ý nghĩa mang tính chất truyền thống này.
Sự tích về Mẹ Nam Hải Bạc Liêu

49
Tuy tại Bạc Liêu có rất nhiều địa điểm để du khách hành hương, lễ Phật nhưng người
ta tin rằng, ở Quan Âm Nam Hải với bức tượng Quan Thế Âm Bồ Tát cao 11m là nơi
linh thiêng nhất.
Bức tượng được hình thành mang trong mình nhiều câu chuyện kể. Thực hư của
những nội dung ấy ra sao thì thật khó nói. Chỉ biết là cứ thế hệ trước kể cho thế hệ sau
nghe, truyền đi truyền lại mãi mà thành sự tích.
Rằng, trước kia người dân Bạc Liêu bám biển mưu sinh. Người đàn ông ra khơi dăm
ba tháng mới trở về. Suốt thời gian đó chỉ có lẻ loi một mình người vợ ở nhà chăm lo
nhà cửa, con cái. Lắm lúc người phụ nữ hiu quanh đến tuổi thân mà chẳng làm được gì
hơn ngoài chờ đợi. Vậy nên những ngày chồng vào khơi là những buổi sum họp gia
đình hạnh phúc, quý giá và trọn vẹn nhất.
Một lần nọ, người chồng vừa mới ra khơi thì trên đất liền có thông báo bão dữ sắp ập
tới. Người vợ hoảng hốt và lo lắng nhưng không biết làm sao có thể thông báo cho
chồng mình hay được. Bằng tất cả sự quan tâm, người vợ cứ đứng bên cạnh bãi biển,
hướng mặt về phía Đông chờ người đàn ông của mình quay về. Mỗi một nhịp thở
người vợ đều niệm tụng một lời kinh Phật, vì chỉ có Bồ Tát lúc này mới có thể cứu
được người ngoài khơi.
Một ngày nọ, vẫn là hình ảnh người vợ hướng mặt về phía biển niệm kinh Phật. Bất
thình lình một bà cụ già xuất hiện. Thấy bà cụ già ốm yếu đang đói người vợ đã mang
cụ về mời một bữa cơm. Nhưng lạ thay khi người vợ ra ngoài mang đồ ăn đến thì bà
cụ kia biến mất.
Không gian trong nhà lúc này tự dưng nổi một quầng sáng, biết là Quan Âm Bồ Tát
vừa cải trang ngang qua thử lòng thành của mình nên người vợ đã vui mừng không
siết. Liền trong sáng hôm sau, đoàn thuyền đánh cá hôm trước cùng người chồng đã
trở về, thoát nạn một cách kì diệu.
Để đền đáp công ơn cứu mạng của Bồ Tát, 2 vợ chồng người ngư dân nghèo đã lập
một bức tượng Quan Âm có ánh nhìn hướng ra biển để thờ phụng. Từ đấy, cứ hễ trước
khi ra khơi là người dân trong vùng lại vào đây cầu nguyện bình an. Người bản địa ít
có ai gọi nơi đây bằng cái tên đầy đủ là Quan Âm Phật đài Mẹ Nam Hải mà bình
thường vẫn hay gọi tắt là Mẹ Nam Hải để bày tỏ sự gần gũi, thân thương.
Những nét kiến trúc độc đáo tại chùa Mẹ Nam Hải
Nói về mặt kiến trúc thì chùa Mẹ Nam Hải Bạc Liêu cũng vẫn được xây dựng dựa trên
lối kiến trúc Bắc Tông truyền thống. Tuy nhiên, nét chính mà chùa giữ chính là thờ
chuyên Mẹ Quan Âm. Ngoài ra thì các bộ phận khác như chánh điện, phòng khách,
nơi lưu trú của các sư đều tương tự như những ngôi chùa khác.
Điểm đặc biệt ở đây chính là một núi Quan Âm to lớn. Tiền xây dựng đến từ thùng
quỷ uyên góp của các Phật tử tích góp qua nhiều năm.
Riêng nói về bức tượng Quan Âm Nam Hải thì bức tượng sở hữu chiều cao 11m, vị trí
nằm ngay giữa không viên khu vực sân chùa, chiều rộng 90m, ngang 45m. Tổng kinh
phí đầu tư được công bố vào thời điểm ấy là khoảng 100 tỉ đồng.
50
Đi sâu vào bên trong bạn sẽ bắt gặp thêm nữa hơn chục tượng Phật Quan Âm đang
trong các tư thế, màu sắc khác nhau. Mỗi bức tượng nhỏ kích thước to bằng hình
người với điêu khắc tỉ mỉ và tinh xảo.
Lúc mới xây dựng thì tượng đài Mẹ Nam Hải được đặt sát mé biển. Bất tiện nhất là
mỗi đợt thủy triều lên nước dâng có khi ngập cả chân Phật. Thời gian qua dần, phía
tượng do là nằm ở bên bồi của dòng nước nên vị trí vì thế mà càng ngày càng cách
biển hơn đến nay tình trạng ngập nước đã không còn.
Bên trong khuôn viên có một dãy nhà rộng lớn nằm phía tay trái tượng Phật chính là
Điện Quan Âm. Về cơ bản thiết kế này cũng giống như đa phần những kiến trúc chùa,
đền khác tại Việt Nam.
3. Lễ hội Quan Âm Nam Hải
Lễ hội Quan Âm Nam Hải được diễn ra dưới chân tượng Mẹ Nam Hải Bạc Liêu tổ
chức định kì vào ngày 22, 23, 24 tháng 3 âm lịch hàng năm. Trong phạm vi tỉnh Bạc
Liêu thì chưa có lễ hội Phật giáo nào diễn ra với quy mô lớn như ở đây. Rất nhiều
người cả trong lẫn ngoại giáo đều đã công nhận đây là một lễ hội chính thức của Phật
giáo.
Bên cạnh dịp này thì những mùa lễ Quán Thế Âm, Vu Lan... chùa cũng đều tổ chức rất
hoành tráng.
Đến thăm tượng Quan Âm Nam Hải, ngoài thành tâm thắp hương cầu may thì du
khách còn được cảm nhận sự yên bình do thiên nhiên, cảnh vật và con người nơi đây
mang lại.
KHU LƯU NIỆM NHẠC SĨ CAO VĂN LẦU – BẠC LIÊU
Nhắc đến Đờn ca tài tử Nam Bộ, bản “Dạ cổ hoài lang” của cố nhạc sĩ Cao Văn Lầu
có lẽ là ca khúc nổi tiếng nhất. Vượt qua bao thăng trầm của cuộc sống, nhiều biến cố
lịch sử bản nhạc vẫn sống trong lòng cuộc đời. Trong chuyến du lịch miền Tây, nếu có
dịp dừng chân trên mảnh đất Bạc Liêu bạn đừng quên dành thời gian thăm khu lưu
niệm nhạc sĩ Cao Văn Lầu để nghe những câu chuyện về sự ra đời của bản nhạc.
Khu lưu niệm Nghệ thuật Đờn ca tài tử Nam Bộ và Nhạc sĩ Cao Văn Lầu thuộc
phường 2, TP. Bạc Liêu. Được biệt, khu lưu niệm trước đây là khu mộ của gia đình
nhạc sĩ, sau được tu bổ và xây dựng thêm các công trình nhằm mục đích tổ chức các
sự kiện quan trọng, đồng thời làm nơi tiếp đón du khách phương xa.
Với tổng diện tích hơn 12.000 m2, khu lưu niệm Nhạc sĩ Cao Văn Lầu đuợc xem là
điểm du lịch Bạc Liêu thú vị, nơi khẳng định vị thế của bản Dạ cổ Hoài lang và tôn
vinh tài hoa của nhạc sĩ Cao Văn Lầu. Khu lưu niệm nhạc sĩ Cao Văn Lầu đã được Bộ
Văn hóa, Thể thao và Du lịch quyết định đưa vào Danh mục Di sản văn hoá phi vật thể
quốc gia năm 2012.
Nhạc sĩ Cao Văn Lầu (hay Sáu Lầu), sinh ngày 22/12/1892 tại xóm Cái Cui, làng Chí
Mỹ, quận Vàm Cỏ, tỉnh Long An. Do hoàn cảnh khó khăn, gia đình ông trôi dạt nhiều
nơi trước khi dừng chân tại Bạc Liêu. Với sự hướng dẫn những bước đi đầu tiên của

51
nhạc sĩ cổ nhạc Lê Tài Khị, tài năng của một người nhạc sĩ lớn trong ông đã được phát
triển.
Khu tưởng niệm nhạc sĩ Cao Văn Lầu bao gồm nhiều công trình như khu mộ nhạc sĩ
Cao Văn Lầu cùng những người thân, tượng bán thân nhạc sĩ Cao Văn Lầu, khu trưng
bày hình ảnh, hiện vật của các ông tổ của nền cải lương Nam Bộ, khu vực biểu tượng
cây đàn kìm, sân khấu ngoài trời,…
Khi vừa đi qua cổng chính, du khách sẽ bắt gặp tượng đài ống tre hiện ra sừng sững
nằm ngay chính giữa khu lưu niệm, phía sau đài phun nước. Tượng đài này chính là
chiếc đàn kìm – biểu tượng của Đờn ca tài tử Nam Bộ – gắn liền với hình ảnh nhạc sĩ
Cao Văn Lầu – người con của tỉnh Bạc Liêu. Đàn kìm được cách điệu từ đốt tre, phần
đàn kìm được đục lõm tạo sự huyền bí, thiêng liêng, gợi lên sự hoài niệm và tưởng nhớ
về những người đã khuất. Đây cũng là nơi du khách thắp hương tưởng niệm.
Điểm nổi bật tại đây để tạo thêm tính thiêng liêng, huyền bí là các bậc thang lên đài
ống tre được bố trí các số bậc: 2,4,8,16,32 và 64, tượng trưng cho cung bậc, nhịp
phách của ca cổ cải lương tương ứng với từng nghệ nhân sáng tác. Đó là: nhịp 2 của
Cao Văn Lầu, nhịp 4 của Trịnh Thiên Tư, nhịp 8 của Lư Hòa Nghĩa, nhịp 16 của Mộng
Vân, nhịp 32 của Trần Tấn Hưng và nhịp 64 của Lý Khi.
Dẫn lên đài tre là lan can cầu thang bằng đá xanh Thanh Hóa được khắc họa hình dáng
rồng hướng lên theo bậc thang kết hợp với vân mây tạo nên sự sinh động hài hòa vì
Bạc Liêu được ví như là cái nôi đờn ca tài tử, phát triển mạnh nhất của Nam bộ, sức
mạnh này được ví như rồng.
Xung quanh tượng đài ống tre được khắc họa trên đá 20 bài tổ như 3 bản Nam, 6 bản
Bắc, 4 bản Oán, 7 bản Bắc lớn.
Đằng sau biểu tượng chiếc đàn Kìm là tượng đài nhạc sĩ Cao Văn Lầu với nhạc phẩm
“Dạ cổ hoài lang” được khắc ngay phía sau.
Sau biểu tượng đàn kìm là khu công viên với các biểu tượng các loại nhạc cụ trong
nghệ thuật đờn ca tài tử Nam Bộ , như sáo, đàn cò, đàn tranh, đàn bầu, ghuitar phím
lõm, … Điểm khác biệt của vườn nhạc cụ này là các nhạc cụ hoàn toàn được tạc bằng
đá xanh, nhìn rất vững chắc và có hồn.
Bên trái là nhà trưng bày lưu niệm cố nhạc sĩ Cao Văn Lầu; bên phải là các khối phục
vụ; phía cuối của dự án là khối nhà biểu diễn loại hình đờn ca tài tử bố trí nằm trên hồ
sen
Nếu muốn chiêm ngưỡng những tư liệu quý về nghệ thuật đờn ca tài tử hay ngắm nhìn
hình ảnh của các nghệ sĩ, nghệ nhân cải lương tiêu biểu của Bạc Liêu thì khu trưng bày
là nơi du khách nhất định phải tham quan. Tại đây, phục trang sân khấu của nhiều nghệ
sĩ cải lương nổi tiếng, những cảnh phục dựng đờn ca tài tử bằng sáp hay những nhạc
cụ cổ của các nghệ nhân đều có mặt.

Du khách sẽ được tìm hiểu về một thời hưng thịnh của nghệ thuật đờn ca tài tử và cải
lương Việt Nam cũng như tìm hiểu đôi chút về hoản cảnh lịch sử của bản “Dạ Cổ Hoài
52
Lang”. Dạ Cổ Hoài Lang (Nghe tiếng trống đêm nhớ chồng). Bản nhạc được ông viết
khi ông và vợ buộc phải xa cách sau 3 năm chung sống mà không có con. Trong thời
gian này vì nhớ thương vợ, đêm đêm ông ôm đàn ra gảy, những giai điệu những ca từ
đều nói lên tiếng lòng của ông dành cho người vợ của mình. Và ông tin rằng là một
người phụ nữ, vợ còn nhớ thương ông hơn nữa nên ông mới đặt tên cho bản nhạc lòng
này là Hoài Lang. Sau hơn 100 năm từ khi ra đời, bản tình ca bất hủ Dạ cổ hoài lang
của nhạc sĩ Cao Văn Lầu đến giờ vẫn làm rung động hàng triệu con tim người Việt vì
chứa đựng những tình cảm, nghĩa phu thê sâu đậm.

Song cùng với nhiều hạng mục kể trên, một trong những nơi tại khu lưu niệm cố nhạc
sĩ không thể không nhắc tới, đó chính là khu mộ của gia đình cố nhạc sĩ. Khu mộ là
nơi nằm cạnh nhau của thân sinh, thân mẫu và người vợ đoan trang của cố nhạc sĩ.
Đến viếng ngôi mộ điệu nhạc nhẹ buồn, không gian như làm cho người ta thấy yêu và
khâm phục hơn trước tài đức của cố nhạc sĩ Cao Văn Lầu.
Khu lưu niệm nhạc sĩ Cao Văn Lầu luôn là điểm đến mà nhiều du khách lựa chọn mỗi
khi có dịp ghé thăm Bạc Liêu. Không chỉ để bày tỏ tình cảm với vị nhạc sĩ tài hoa, mà
còn là cách để những người yêu thích môn nghệ thuật Đờn ca tài tử Nam Bộ tìm hiểu
sâu hơn những giá trị của môn nghệ thuật được UNESCO công nhận là Di sản văn hóa
phi vật thể. Với khu lưu niệm này, Bạc Liêu tự hào là vùng đất “địa linh nhân kiệt” đã
sinh ra và nuôi nấng những lớp nghệ nhân, nghệ sĩ tài hoa.

Khám phá “cánh đồng điện gió” Bạc Liêu


biển dài 56km, lại nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa nên Bạc Liêu có điều
kiện thuận lợi để phát triển công nghiệp điện gió. Trên địa bàn tỉnh hiện có 4 dự án nhà
máy điện gió đang được đầu tư xây dựng, trong đó Nhà máy Điện gió Bạc Liêu có quy
mô lớn, hiện đại và đẹp nhất. Từ lâu, nơi đây đã trở thành điểm du lịch hấp dẫn của
Bạc Liêu, được nhiều người biết đến với cái tên: “Cánh đồng điện gió”.
Biến gió thành điện năng
Nằm cách trung tâm thành phố Bạc Liêu khoảng 20km, theo đường Cao Văn Lầu đi về
phía biển, du khách sẽ tới “cánh đồng điện gió” hay Nhà máy Điện gió Bạc Liêu (ấp
Biển Đông A, xã Vĩnh Trạch Đông, thành phố Bạc Liêu). Con đường bê tông rộng 3m,
chạy dài hàng ki lô mét trên mặt biển rồi chia thành hai ngả, dẫn du khách tới gần
những trụ turbine như những chiếc chong chóng khổng lồ chầm chậm quay trong gió.
Từ dưới ngước lên ngắm nhìn những turbine đứng sừng sững trước biển, ít ai biết rằng
nơi đây trước kia là những cánh rừng bần, đước trải dài. Phía dưới con đường là lớp
lớp đá hộc được xếp xen kẽ, tạo thành “hàng rào đá” ngăn biển xâm thực, gây xói lở
đất. Giữa bốn bề gió và sóng biển gầm gào ngày đêm không nghỉ, càng cảm nhận rõ sự
nhỏ bé của con người trước thiên nhiên. Nhưng thiên nhiên đã phải khuất phục trước
trí tuệ của con người, khi gió - “đặc sản” của Bạc Liêu, được chuyển hóa thành năng
lượng để phục vụ đời sống.
53
Khởi công tháng 9/2010, đến nay dự án Nhà máy Điện gió Bạc Liêu đã hoàn thành 2
giai đoạn, lắp đặt được 62 trụ turbine công suất 16 - 83MW, trên diện tích 1.300ha, với
tổng mức đầu tư hơn 5.217 tỷ đồng. Mỗi trụ turbine có đường kính 4m, cao 80m, nặng
hơn 200 tấn, được làm bằng thép không rỉ. Cánh quạt làm bằng nhựa đặc biệt, dài
42m, được trang bị hệ thống tự gập khi có bão lớn. Chính thức hòa mạng lưới điện
quốc gia từ tháng 6/2013, đến nay nhà máy đã đóng góp sản lượng điện đạt 1 tỷ kWh.
Giai đoạn 3 khởi công từ tháng 1/2018, bổ sung 71 trụ turbine gió. Khi hoàn thành,
nhà máy sẽ có 133 trụ turbin gió, nâng tổng công suất lên 241,2MW. Đây là dự án điện
gió lớn nhất Việt Nam tính đến thời điểm hiện tại và là dự án đầu tiên được xây dựng
trên thềm lục địa ở khu vực Đông Nam Á. Nhờ biến gió thành điện năng, ngành Công
nghiệp điện gió đã trở thành một trong 5 trụ cột phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Bạc
Liêu, khẳng định lợi thế đặc biệt của vùng đất này.
Thu hút khách bằng sự khác biệt
Không chỉ đóng góp vào việc phát triển kinh tế - xã hội của địa phương, Nhà máy
Điện gió Bạc Liêu còn góp phần thúc đẩy khai thác nguồn năng lượng sạch, bảo vệ
môi trường, đồng thời là một trong những điểm du lịch hấp dẫn của tỉnh. Trước thời
điểm xảy ra dịch Covid-19, “cánh đồng điện gió” thu hút khoảng 200 nghìn lượt khách
tham quan mỗi năm. Chị Huỳnh Thị Bảo Trâm, một du khách đến từ Cần Thơ cho biết:
“Tôi thực sự bất ngờ khi được thấy quang cảnh hùng vĩ, nên thơ tựa như ở các nước
châu Âu của “cánh đồng điện gió” Bạc Liêu. Được tận mắt ngắm những trụ turbine gió
khổng lồ, tôi cảm thấy tự hào và khâm phục ý chí của những người đã tạo nên công
trình này. “Cánh đồng điện gió” đã mang lại cho tôi nhiều cảm xúc và trải nghiệm thú
vị, khác hoàn toàn so với những nơi tôi từng đến”.
Nhìn thấy khả năng phát triển nơi này trở thành một trong điểm du lịch hấp dẫn, tỉnh
Bạc Liêu đã kết hợp với mô hình du lịch sinh thái, nuôi trồng lâm, thủy sản. Phó Giám
đốc Sở Văn hóa, Thông tin, Thể thao và Du lịch tỉnh Bạc Liêu Thái Quốc Lưu cho
biết: “Đây là dự án tiên phong trong lĩnh vực năng lượng tái tạo, chống biến đổi khí
hậu, bảo vệ rừng phòng hộ. Bên cạnh đó, dự án còn thu hút một lượng lớn du khách
đến tham quan, góp phần tạo việc làm và cải thiện đời sống cho người dân, đồng thời
thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của địa phương. Năm 2019, nơi đây đã được
công nhận là điểm du lịch tiêu biểu của vùng Đồng bằng sông Cửu Long. Để khai thác
và phát huy tiềm năng của điểm du lịch này, Bạc Liêu đã và đang kêu gọi nhà đầu tư
xây dựng các khu nghỉ dưỡng cao cấp cùng dịch vụ vui chơi giải trí gần khu vực “cánh
đồng điện gió”, đồng thời xây dựng tour tuyến gắn với các điểm đến lân cận như chùa
Quan Âm Phật Đài, vườn nhãn cổ, nhà công tử Bạc Liêu... để gia tăng trải nghiệm cho
du khách”.
Bằng sự độc đáo, khác biệt, điểm du lịch “cánh đồng điện gió” đã góp phần tạo nên
những dấu ấn cho Bạc Liêu, giúp tỉnh thoát khỏi tình trạng trùng lặp sản phẩm với các
địa phương trong vùng Đồng bằng sông Cửu Long suốt nhiều năm qua.
2.6 Nhà thờ Tắc Sậy và đạo Công giáo
NHÀ THỜ TẮC SẬY:

54
1.Sơ lược về nhà thờ Tắc Sậy:
Với kiến trúc lạ, cùng câu chuyện cảm động về cuộc đời Linh Mục Trương Bửu Diệp –
người đã hy sinh tử vì đạo để cứu giáo dân, Nhà thờ Tắc Sậy đã trở thành điểm đến tín
ngưỡng thu hút hàng trăm tín đồ và du khách tới ghé thăm. Địa danh Tắc Sậy theo
người lớn tuổi địa phương cho biết là có một đường tắt nhỏ đi ngang qua nhà thờ nằm
giữa đám lau sậy, và vì phát âm của người miền Nam, chữ “tắt” thành chữ “tắc,” nên
gọi là “Tắc Sậy”.
Điểm thu hút khách du lịch đến đây là nơi an nghỉ của cố Linh Mục Trương Bửu Diệp,
được nhiều người biết đến gần 30 năm với lòng tôn kính và đức tin được toại nguyện
khi đến đây cầu nguyện. Nhiều người đồn rằng, đã có không ít trường hợp về đây xin
ơn và được ơn. Rồi tin đồn được loan đi một lúc một nhiều thêm, nhiều người từ khắp
nơi đã ùn ùn kéo đến, khiến Nhà Thờ Tắc Sậy trở thành điểm đến tín ngưỡng thu hút
du khách của tỉnh Bạc Liêu. Đặc biệt, trong số những người hành hương về đây, có
đến 70% không phải là người Công Giáo. Thánh đường mang kiến trúc độc lạ và độc
đáo, gồm có 3 tầng: Tầng trệt là nơi dành cho khách nghỉ ngơi, tầng 2 và tầng 3 là nơi
dâng thánh lễ với tiền sảnh rất rộng.
Nơi đặt phần mộ Cha xứ Trương Bửu Diệp được kiến trúc như một tòa nhà rộng lớn có
ba nóc, trong đó nóc chính giữa cao hơn hai nóc phụ có gắn đồng hồ lớn tạo nên điểm
nhấn nổi bật cho cả tòa nhà. Nhiều bức tượng gỗ được bày trí theo tinh thần tín
ngưỡng Công giáo và đa số đều bằng gỗ quý. Đến với nhà thờ Tắc Sậy ngoài việc
viếng thăm mộ phần của cha Bửu Diệp thì du khách có thể chiêm ngưỡng kiến trúc
độc đáo của nhà thờ, đây được xem là một trong những nhà thờ đẹp nhất trong các tỉnh
du lịch miền tây.
2.Vị trí:
Nhà thờ Tắc Sậy ngụ tại ấp 2 quốc lộ 1A, cách Bạc Liêu 37km về hướng Cà Mau
thuộc địa bàn Ấp 2, xã Tân Long, huyện Giá Rai, tỉnh Bạc Liêu. Từ Tp Hồ Chí Minh
đi nhà thờ Tắc Sậy khoảng 288km.
3.Lịch sử hình thành:
-Năm 1925 nhà thờ Tắc Sậy được thành lập.
-Tháng 8 năm 1926, cha Phaolô Trần Minh Kính được cử về làm cha xứ đầu tiên của
nhà thờ
-Tháng 3 năm 1930 thì cha Phanxico Trương Bửu Diệp về nhận nhiệm sở mới
Sau khi thay thế cha Phaolô Trần Minh Kính, Trần Bửu Diệp đã chuyển vị trí nhà thờ
từ bên trong ra ngoài mặt tiền đường lớn Cha Diệp là người có công lớn trong việc
phát triển nhà thờ Tắc Sậy vậy nên hiện tại nhà thờ này còn có tên gọi là nhà thờ Cha
Diệp.
Cha Trương Bửu Diệp là một người khi được ví như một vị thần bởi sự linh thiêng
giáng phúc cho những ai đã tin tưởng vào nhà thờ cầu nguyện, có nhiều câu chuyện về
cái chết của cha nhưng nội dung đều nói lên lòng dũng cảm năm dám hy sinh mạng
sống của mình đừng để bảo vệ người khác.
55
Được sự hỗ trợ của tín đồ trong và ngoài nước nhà thờ Cha Diệp Bạc Liêu hiện đã
được đầu tư trùng tu và xây dựng mới nhiều công trình hạng mục đồ sộ , nhà thờ Tắc
Sậy Bạc Liêu không chỉ là nơi chơi cầu nguyện tâm linh của các tín đồ đồ mà còn là
nơi tham quan du lịch cho nhiều du khách trong và ngoài nước.
4.Kiến trúc nhà thờ Tắc Sậy:
Tòa nhà nơi an nghỉ Cha Phanxicô Trương Bửu Diệp là một ngôi nhà rộng lớn được
xây dựng theo kiến trúc Á Đông nhưng vẫn mang nét đẹp của văn hoá Việt. Tòa nhà
gồm có 3 gian nhà được thông với nhau. Gian nhà chính giữa là nơi có cửa ra vào và
cũng là nơi đặt mộ của Cha Diệp. Nóc của tòa nhà cũng được chia ra thành 3 nóc riêng
lẻ khác nhau. Mỗi nóc đều được lợp ngói đỏ. Ở 4 góc của mỗi mái được trang trí biểu
tượng hình con rồng. Nóc giữa được xây cao nhất và được gắn một chiếc đồng hồ ở
giữa, tạo sự cân đối cho cả tòa nhà. Ở giữa gian nhà chính là một chiếc lư hương lớn
mà lúc nào cũng nghi ngút nhang khói. Phía sau là mộ Cha được đặt ở giữa gian nhà.
Kế bên là hai bức tượng hình Cha đang cầu nguyện và đọc sách. Chính giữa gian sau
mộ của Cha Diệp là một bức tượng Cha được làm bằng gỗ cầm thánh giá giơ cao. Toà
nhà này là nơi lúc nào cũng đông khách hành hương ra vào tạ ơn cũng như khấn xin.
Toà nhà có quy mô khá lớn. Nơi đây là nơi lưu trữ những tư liệu về Cha Diệp. Tầng
trệt của tòa nhà là nơi bạn có thể ghé qua thăm quan. Ngoài ra ở đây còn có bán những
món quà lưu niệm mà bạn có thể mua về làm quà cho người thân. Phía trên là các
phòng ở phục vụ cho việc lưu trú của các khách hành hương.
B ĐẠO CÔNG GIÁO:
Nguồn gốc đạo Công giáo:
Công giáo là một từ có nguồn gốc từ Hy Lạp, Thuật ngữ Catholic bắt nguồn từ chữ
καθολικός (katholikos) trong tiếng Hy Lạp , có nghĩa là "phổ quát". Chữ Katholikos là
dạng tính từ của chữ καθόλου (katholou) do sự kết hợp giữa hai từ κατὰ ὅλου (kata
holou), có nghĩa là "theo như toàn bộ". Từ nguyên nói trên được dịch sang Tiếng Việt
là "Công giáo".
Công giáo được du nhập vào nước ta những năm đầu thế kỷ 17, dưới thời Nguyễn tôn
giáo này còn có tên gọi là đạo Da Tô.
Chi tiết:
-Công giáo là một tôn giáo Cơ đốc, một sự cải cách của đức tin Do Thái tuân theo
những lời dạy của người sáng lập ra nó là Chúa Giêsu Kitô
-Giống như các tôn giáo khác của Thiên chúa giáo cũng như Do Thái giáo và Hồi giáo,
Công Giáo cũng là một tôn giáo Áp-ra-ham, và người Công giáo coi Áp-ra-ham là
giáo chủ cổ đại.
-Người đứng đầu nhà thờ hiện nay là Giáo hoàng, cư ngụ tại Thành phố Vatican.
-Có 2,2 tỷ người theo đạo Công giáo trên thế giới hiện nay, 40% trong số họ sống ở
Mỹ Latinh.

56
-Đạo Công giáo tôn thờ 1 Đấng duy nhất là Thiên Chúa. Người công giáo tin rằng
Thiên Chúa là Ba Ngôi nhưng lại là Một. Trong đó Ngôi Cha là Đấng sáng tạo, Ngôi
Con là Chúa Giêsu Kitô ( Đấng cứu chuộc) và Ngôi Thánh Thần ( Đấng thánh hóa).
Nói một cách dễ hiểu hơn, đạo Công Giáo là đạo mang Phúc Âm hay tin mừng của
Đức Kitô đến với mọi người. Họ quan niệm rằng những ai có niềm tin vào Thiên Chúa
sẽ nhận được những tin vui phước lành, được Người che chở và yêu thương, đặc biệt
là cứu vớt những tâm hồn tội lỗi.
-Những ngày lễ quan trọng của đạo Công Giáo:
+ Lễ Phục Sinh:
Lễ Phục sinh được tổ chức hàng năm và thường rơi vào tháng 4 để kỷ niệm ngày Chúa
Kitô sống lại sau 3 ngày chịu đóng đinh vì con người. Đây là một mùa lễ rất quan
trọng và là thời gian ăn chay lớn nhất của người Công giáo.
+Lễ Chúa lên trời:
Lễ tiễn Chúa Lên Trời thường diễn ra vào Thứ Năm, nhưng một số nhà thờ chuyển
sang Chủ Nhật tiếp theo để mọi người dễ dàng tham dự hơn. Theo lời tiên tri sau khi
Chúa sống lại và Ngài sẽ lên trời sau 40 ngày để chấm dứt sự hiện diện của Chúa trên
trần gian. Đây là câu chuyện liên quan đến nguồn gốc của ngày lễ trọng đại này mà ai
theo đạo đều biết.
+Lễ Chúa hiện xuống:
Sau khi Chúa lên trời, Chúa Thánh Thần hiện xuống và Giáo hội được thành lập, khai
sinh lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống trần gian. Đây được coi là một ngày lễ tôn giáo
lớn thường được cử hành vào ngày thứ 50 của mùa Phục sinh.
+Lễ Đức Mẹ lên trời:
Đức Mẹ Maria được biết đến rộng rãi nhờ lễ Đức Mẹ Lên Trời. Ngày lễ này thường rơi
vào ngày 15 tháng 8 hàng năm và tùy nơi có thể có thêm ngày tạ ơn và chuộc tội vào
ngày lễ Đức Mẹ.
+ Lễ giáng sinh:
Lễ Giáng sinh hay còn gọi là Noel được tổ chức vào ngày 25 tháng 12. Đây là ngày lễ
quan trọng nhất trong năm của những người theo đạo thiên chúa. Mọi người thường
chuẩn bị cho ngày lễ này trước một tháng để chào đón sự ra đời của Chúa Kitô.
Sự khác nhau của đạo Công Giáo và Đạo Thiên Chúa:
Đạo Công Giáo và đạo Thiên Chúa thực chất đây là hai tôn giáo độc lập với nhiều
điểm khác biệt. Đạo Công giáo là đạo do Chúa Kitô rao giảng và sáng lập trên cơ sở
các Tông đồ nhằm truyền bá và đem phúc lành đến cho mọi người. Đây là một tôn
giáo giúp cứu người khác khỏi những sai lầm của họ và đón nhận một cuộc sống mới
hạnh phúc hơn. Thiên Chúa chính là Đức Chúa Trời được coi là vua trên cõi trời là
người tạo ra vạn vật. Thiên chúa giáo do Đức chúa Giêsu mở ra bắt nguồn từ nước Do
Thái cách đây hơn 2000 năm.

57
NGÀY 3: NHÓM 3: THAM QUAN CÀ MAU

3.1 Tổng quan Cà Mau, Tp.Cà Mau


Tổng quan tỉnh Cà Mau
Lịch sử hình thành:
Tỉnh Cà Mau được mở mang cách đây 300 năm. Cuối thế kỷ 17, Mạc Cửu là tướng
của nhà Minh do không chấp nhận triều đình nhà Thanh nên đã dẫn một số
người Trung Hoa đến vùng Hà Tiên sinh sống. Sau khi Mạc Cửu dâng toàn bộ phần
đất này thần phục nhà Nguyễn, Mạc Thiên Tứ con của Mạc Cửu đã vâng lệnh triều
đình chúa Nguyễn lập ra đạo Long Xuyên.
Vào năm 1808, Thời Gia Long thứ 7, đổi tên đạo Long Xuyên thành huyện Long
Xuyên, thuộc trấn Hà Tiên. Năm 1825, Thời Minh Mạng thứ 6, nhà Nguyễn đã đặt ra
một quan tri huyện để cai trị.
Ngày 15 tháng 6 năm 1867, thực dân Pháp thành lập hạt Cà Mau gồm địa bàn huyện
Long Xuyên cũ. Tuy nhiên đến ngày 1 tháng 8 năm 1877, thực dân Pháp lại giải thể
hạt Cà Mau, nhập vào địa bàn hạt Rạch Giá.
Sau nhiều lần chia tách các huyện lỵ, Ngày 9 tháng 3 năm 1956, theo Sắc lệnh 32/VN,
chính quyền Việt Nam Cộng hòa lấy quận Cà Mau và 4 xã của quận Giá Rai là Định
Thành, Hoà Thành, Tân Thành, Phong Thạnh Tây lập thành tỉnh Cà Mau, tỉnh lỵ ban
đầu có tên là Cà Mau.
Điều kiện tự nhiên:
Vị trí địa lý: Cà Mau là một tỉnh ven biển cực nam của Việt Nam, thuộc vùng Đồng
bằng sông Cửu Long và nằm trọn trên bán đảo Cà Mau, phía bắc giáp tỉnh Kiên Giang,
phía đông giáp tỉnh Bạc Liêu và biển Đông, phía nam giáp biển Đông và phía tây giáp
vịnh Thái Lan.
Diện tích: 5.329 km², bằng 13,13% diện tích vùng đồng bằng sông Cửu Long
(ĐBSCL) và bằng 1,58% diện tích cả nước
Địa hình: Nhìn chung địa hình tương đối bằng phẳng và thấp, bằng phẳng và thường
xuên bị ngập nước. Độ cao thường khoảng 0,501,5m so với mặt nước biển. Hướng địa
hình nghiêng dần từ bắc xuống nam.
Khí hậu: Khí hậu tỉnh Cà Mau là khí hậu nhiệt đới gió mùa cận xích đạo, có nền nhiệt
cao (26,5°C), Cao nhất trong năm vào tháng 4 khoảng 27,6°C, thấp nhất vào tháng
Giêng khoảng 25°C. Nét đặc trưng là khí hậu phân mùa rõ rệt, mùa mưa từ tháng 5
đến tháng 11, mùa khô từ tháng 12 đến tháng 4 năm sau. Về cơ bản, khí hậu ôn hòa, ít
khắc nghiệt hơn các vùng khác. Thời điểm du lịch Cà Mau lý tưởng nhất là vào mùa
khô, vào tháng 7 và tháng 8, du khách sẽ được thưởng thức nhiều đặc sản.
Dân số: tính đến 2013 là 1,22 triệu người. tỉnh Cà Mau có cơ cấu đa dân tộc, trong tỉnh
có 20 dân tộc khác nhau, người Kinh chiếm chủ yếu, người Khmer chiếm gần 3%
người Hoa chiếm 0,95%.
58
Các nguồn tài nguyên
- Tài nguyên rừng: Với diện tích rừng ngập mặn và rừng tràm rộng lớn, có Khu dự trữ
sinh quyển mũi Cà Mau, 02 vườn quốc gia (Mũi Cà Mau và U Minh hạ), có các vườn
chim tự nhiên là những điều kiện để tỉnh Cà Mau phát triển du lịch sinh thái. Hiện nay,
du lịch rừng ngập mặn Cà Mau đang được đầu tư theo dự án du lịch chuyên đề quốc
gia. Nhờ đó, sản phẩm du lịch sinh thái của tỉnh Cà Mau ít bị trùng lặp với các tỉnh
khác trong vùng ĐBSCL (chủ yếu là sinh thái miệt vườn). Điều này cũng góp phần
phát triển loại hình du lịch sinh thái nơi đây.
- Tài nguyên khoáng sản: Cà Mau có tiềm năng lớn về dầu khí, có nhiều bể trầm tích
có triển vọng dầu khí. Các bãi cát ven biển nằm sát van biển dài tạo điều kiện để phát
triển du lịch. Than bùn ở Rừng tràm U Minh trữ lượng lớn nhất cả nước.
- Tài nguyên biển:
Cà Mau là một trong số 28 tỉnh ven biển của cả nước và là tỉnh có 3 mặt tiếp giáp với
biển. Biển đã và sẽ tạo ra vị thế phát triển cho tỉnh Cà Mau thông qua các lĩnh vực khai
thác thủy sản, du lịch, công nghiệp cơ khí và chế biến thủy sản, vận tải biển và đặc biệt
là nhiệm vụ quốc phòng an ninh vùng biển.
Với chiều dài bờ biển 254 km, có một số bãi cát ven bờ (Giá Lồng Đèn, Khai Long),
có cồn bồi lắng cửa sông, các cụm đảo gần bờ Hòn Khoai, Hòn Chuối, Hòn Đá Bạc là
tiềm năng để khai thác du lịch biển đảo.Vùng biển Cà Mau là một trong 4 ngư trường
trọng điểm của cả nước, có trữ lượng thủy hải sản lớn và đa dạng về loài, có nhiều loài
có giá trị kinh tế cao như tôm biển, mực, một số loài cá có giá trị như cá thu, cá mú, cá
chim… và nhiều chủng loại như thủy sản nước lợ, nước mặn lớn nhất nước tạo ra sự
phong phú về các món ăn đồ biển phục vụ du khách. Thích hợp phát triển du lịch biển
và khai thác, nuôi trồng thủy hải sản
- Tài nguyên văn hóa: Ở tỉnh Cà Mau có một số khu di tích lịch sử như Hồng Anh thư
quán, đình Tân Hưng, khu căn cứ Lung Lá Nhà Thể, căn cứ Xẻo Đước, khu chứng tích
tội ác Mỹ ngụy Hải Yến - Bình Hưng. Đây là những công trình văn hóa du lịch, đang
được đầu tư tôn tạo. Nghệ thuật đờn ca tài tử, văn hóa dân gian, lễ hội Nghinh ông,
hoạt động mua bán chợ nổi trên sông… là những yếu tố có thể khai thác trong hoạt
động du lịch lịch sử - văn hóa.
Tuy nhiên, các tài nguyên du lịch của tỉnh hiện chủ yếu còn ở dạng tiềm năng, để sớm
khai thác có hiệu quả đòi hỏi phải đẩy nhanh đầu tư kết cấu hạ tầng, nhất là giao thông
đường bộ, các doanh nghiệp cần có những ý tưởng mới về các sản phẩm du lịch, mô
hình kinh doanh du lịch…
Thành phố Cà Mau
Lịch sử hình thành
Cà Mau là thành phố tỉnh lỵ của tỉnh Cà Mau, Việt Nam. Trước năm 1975, thị xã có
tên là Quản Long, tỉnh An Xuyên. Năm 1999, thị xã Cà Mau được Thủ tướng Chính
phủ Việt Nam công nhận là đô thị loại III. và được công nhận là đô thị loại II trực
thuộc tỉnh Cà Mau vào Ngày 6 tháng 8 năm 2010.
59
Địa lý:
Phía đông giáp thị xã Giá Rai và huyện Đông Hải thuộc tỉnh Bạc Liêu
Phía tây giáp huyện Cái Nước và huyện Trần Văn Thời
Phía nam giáp huyện Đầm Dơi
Phía bắc giáp huyện Thới Bình.
Thành phố có diện tích 249,23 km², dân số năm 2019 là 226.372 người, mật độ dân số
đạt 908 người/km². Thành phố cách thủ đô Hà Nội 2.017 km về phía nam, cách Thành
phố Hồ Chí Minh 305 km về phía nam và cách thành phố Cần Thơ 149 km về phía
nam.
Điều kiện tự nhiên
Khí hậu ở Cà Mau mang đặc trưng của khí hậu nhiệt đới gió mùa cận xích đạo, chia 2
mùa rõ rệt là mùa mưa và mùa khô. Mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 11, mùa khô từ
tháng 12 đến tháng 4 năm sau. Nhiệt độ trung bình 26,5 °C. Thời gian nắng trung bình
2.200 giờ/năm. Lượng mưa trung bình khoảng 2.360 mm. Chế độ gió thịnh hành theo
mùa. Mùa mưa gió thịnh hành theo hướng Tây – Nam hoặc Tây. Mùa khô gió thịnh
hành theo hướng Đông Bắc và Đông. Cà Mau nằm ngoài vùng ảnh hưởng của lũ lụt ở
hệ thống sông Cửu Long, đồng thời ít bị ảnh hưởng của bão.
Kinh tế:
Thành phố có các hoạt động kinh tế trong nuôi trồng, chế biến và xuất khẩu thủy sản,
đặc biệt mặt hàng tôm sú, trong dầu khí, như Dự án Khí - Điện - Đạm Cà Mau, và
trong du lịch tham quan rừng ngập mặn (tràm, đước, sú, vẹt, mắm) sinh thái U Minh.
Kinh tế thành phố Cà Mau phát triển theo hướng tăng dần tỉ trọng đóng góp của khu
vực III, khu vực I chỉ còn chiếm trên 5% tổng sản phẩm trên địa bàn, nhưng vẫn đạt
giá trị đáng kể. Thành phố Cà Mau là trung tâm công nghiệp lớn thứ hai vùng Đồng
Bằng Sông Cửu Long (năm 2008), chủ yếu là sản xuất, chế biến nông- thủy sản- thực
phẩm. Thu nhập bình quân đầu người của thành phố năm 2015 đạt hơn 77 triệu đồng
(tương đương hơn 3.650 USD)
Du lịch:
- Khách du lịch đến thành phố Cà Mau có thể đi bằng đường bộ (350 km từ Thành phố
Hồ Chí Minh) và đường sông (130 km từ Cần Thơ), đường hàng không tại sân bay Cà
Mau. Các địa điểm tham quan là Đất Mũi, Hòn Khoai, Công viên văn hóa 19/5 nổi
tiếng. Thành phố có chùa Khmer và chùa người Hoa. Đến với Cà Mau du khách sẽ
được thưởng thức nhiều món ăn ngon như Bánh tầm cay, lẩu mắm, bún mắm, ba khía
muối,... Đặc biệt món bánh tầm cay trứ danh vùng đồng bằng sông Cửu Long làm cho
du khách thích thú với khẩu vị lạ, màu sắc đẹp mắt và rất mặn mà, sâu sắc làm cho
người ăn nhớ mãi khi đặt chân đến Cà Mau.
- Món bánh tầm cay ăn kèm cùng rau sống như giá, rau thơm,... tạo cho món bánh tầm
thêm ấn tượng và đỡ ngán hơn. Bánh tầm cay có nhiều loại cho du khách thỏa thích
lựa chọn như: xíu mại thịt, cánh gà, đùi gà, mề gà, huyết... và ăn kèm cùng bánh quẩy.
60
3.2 VQG Mũi Cà Mau, tuyến quốc lộ 1A
Giới thiệu đôi nét về Vườn quốc gia Mũi Cà Mau
- Vườn quốc gia Mũi Cà Mau, phần trên đất liền thuộc địa phận hành chính của các xã:
Đất Mũi, Viên An và Đất Mới, thuộc huyện Ngọc Hiển, tỉnh Cà Mau, cách thành phố
Cà Mau khoảng 100km và cách thành phố Hồ Chí Minh gần 400km.
- Vườn quốc gia Mũi Cà Mau được thành lập năm 2003 khi Khu bảo tồn thiên nhiên
Đất Mũi được chuyển thành Vườn quốc gia trong hệ thống các khu rừng đặc dụng của
Việt Nam. Đây là khu rừng ngập mặn nguyên sinh lớn nhất nước ta, nơi tiếp giáp với
biển Đông và biển Tây nên chịu ảnh hưởng cả hai chế độ thủy triều: bán nhật triều
biển Đông và nhật triều biển Tây, là bãi đẻ của nhiều loài thủy hải sản có giá trị kinh
tế, là điểm dừng chân của nhiều loài chim nước di cư trú đông. Tổng diện tích đất của
Vườn quốc gia Mũi Cà Mau vào khoảng 41.862 hecta. Trong đó, khoảng 15.262 hecta
là diện tích vùng đất liền; còn lại 26.600 hecta là diện tích vùng ven biển tiếp xúc với
đất liền; được chia thành 4 phân khu chính: phân khu bảo vệ nghiêm ngặt (12.203 ha),
phân khu phục hồi sinh thái (2.859 ha), phân khu hành chính – dịch vụ (200 ha), phân
khu bảo tồn biển (26.600 ha).
- Hiện nay, vườn quốc gia Mũi Cà Mau có số lượng động thực vật sinh sống rất phong
phú đa dạng, với khoảng 28 cho đến 32 loài cây ngập mặn; khoảng 26 loài thú, 93 loài
chim, 43 loài động vật bò sát, 139 loài cá khác nhau, với 9 loài lưỡng cư, 49 loài sinh
vật phù du, và còn nhiều loài quý hiếm khác… Trong đó có hai loài nằm trong sách đỏ
thế giới là khỉ đuôi dài (Macaca fascicularis), voọc bạc (Trachypithecus cristatus) và
bốn loài có trong sách đỏ Việt Nam.
- Ngày 26/5/2009, đảo Cù Lao Chàm (thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam) nằm cách
bờ biển Cửa Đại 15km cùng với Vườn quốc gia Mũi Cà Mau (huyện Ngọc Hiển)
và vườn quốc gia U Minh Hạ (huyện U Minh) thuộc tỉnh Cà Mau đã được UNESCO
đưa vào danh sách các Khu dự trữ sinh quyển thế giới. Vào ngày 13/4/2013, Ban thư
ký Công ước Ramsar thế giới công nhận VQG Mũi Cà Mau trở thành khu ramsar thứ
2.088 của thế giới.
Những trải nghiệm không nên bỏ qua
Khi du lịch Cà Mau đến với vườn quốc gia Mũi Cà Mau du khách sẽ phải ấn tượng bởi
những điều thú vị có một không hai của vùng Đất Mũi này. Mỗi một điểm đến sẽ là
một hành trình trải nghiệm mới độc đáo và sâu sắc.
- Tham quan Công viên Văn hóa Du lịch Mũi Cà Mau
- Ngắm mặt trời mọc và lặn
- Xuyên rừng đước ngập mặn đất mũi Cà Mau
- Thưởng thức nghệ thuật đờn ca tài tử
- Trải nghiệm cuộc sống của người dân Đất Mũi
3.3 Hệ sinh thái thực, động vật: cây đước, cây mắm, sú, vẹt…

61
Nói về địa hình và điều kiện tự nhiên, không nơi đâu đặc biệt bằng Cà Mau. Bởi ngoài
biển, rừng U Minh Hạ trù phú còn có rừng ngập mặn Cà Mau với hệ sinh thái đa dạng
độc đáo bậc nhất.
Quá trình kiến tạo hình thành nên vùng đất hình chữ V, giống một bán đảo có ba mặt
giáp biển. Yếu tố địa lý này đã tạo xây dựng nền tảng vững chắc cho sự phát triển của
chuỗi rừng ngập mặn Cà Mau đặc trưng. Ai về cực Nam mà chẳng phải qua, phải ghé
thăm rừng ngập mặn Cà Mau cho biết một lần.
Tổng quan rừng ngập mặn Cà Mau
Trong danh sách rừng ngập mặn thế giới, rừng ngập mặn Cà Mau chỉ đứng sau rừng
Amazon của Nam Mỹ. Với tổng diện tích lên đến 63.017 ha, rừng ngập mặn Cà Mau
trải dài 6 huyện Đầm Dơi, Phú Tân, Trần Văn Thời, U Minh, Ngọc Hiển và Năm Căn.
Và ở đó phần lớn diện tích nằm trong khu dự trữ sinh quyển thế giới Mũi Cà Mau và
hơn 15.000 ha thuộc vườn quốc gia Mũi Cà Mau.
Người xưa từng ví “Rừng vàng biển bạc” nhằm nhắc đến vai trò quan trọng của rừng,
của biển. Đặt trong vị trí địa lý ba mặt giáp biển của Cà Mau có thể thấy ngay vai trò
quan trọng hàng đầu của rừng ngập mặn: lá chắn ngăn chặn xâm thực, xói lở. Vì thực
tế, mảng rừng phòng hộ ven biển kéo dài từ Bạc Liêu đến Mũi Cà Mau rồi đi dọc sang
biển Tây tới cửa biển Khánh Hội huyện U Minh có tổng hiều dài 307 km thì có đến
254km thuộc địa phận tỉnh Cà Mau.
Một mặt chống xâm thực, mặt khác rừng ngập mặn còn giúp bồi biển, gia tăng diện
tích lãnh thổ cho nước ta. Cụ thể, phía Tây Mũi Cà Mau có một bãi bồi rộng lớn với
diện tích 6.456 ha, hàng năm nhờ phù sa bổi đắp lấn biển từ 50-80 mét. Đồng thời
cũng là nơi trú ngụ, sinh sản của các loài thủy sinh - nguồn cung cấp con giống thiên
nhiên vô tận cho ngành nuôi trồng thủy sản tỉnh Cà Mau. Ngoài ra, rừng ngập mặn Cà
Mau còn là lá phổi xanh của toàn vùng Đông Nam Bộ, đóng vai trò điều hòa khí hậu,
cân bằng xinh thái, bảo vệ môi trường.
Hệ sinh thái rừng ngập mặn Cà Mau
Có thể nói rừng ngập mặn là hệ sinh thái đa dạng và đặc trưng nhất trong các hệ rừng.
Về thảm thực vật, theo thống kê của Trung tâm nghiên cứu rừng ngập mặn Cà Mau
năm 2006 có 22 loài cây, trong đó nổi bật nhất loại cây chịu phèn chịu mặn như đước,
mắm, vẹt, bần, dá, su, cóc, dà, chà là, v.v. và có thêm các loại dương xỉ, dây leo khác.
Trong đó, đước là loài cây phổ biến nhất nên còn được gọi là rừng đước.
Về động vật, Trung tâm nghiên cứu rừng ngập mặn Cà Mau cùng thống kê được 13
loài thú (thuộc 9 họ), 74 loài chim (thuộc 23 họ), 17 loài bò sát (thuộc 9 họ), 5 loài
lưỡng cư (thuộc 3 họ), 14 loài tôm, 175 loài cá (116 giống và 77 họ), 133 loài động
thực vật phiêu sinh. Rừng trù phú tươi xanh, chim muông thú cũng sinh trưởng tốt; thế
nên đến rừng ngặp mặn Cà Mau mọi người dễ dàng bắt gặp nhiều loài chim quý, có cơ
hội thương thức nhiều đặc sản Cà Mau như cua, vọp, ba khía, cá dứa, v.v.
Du lịch là phải vừa chơi vừa ăn, rừng ngập mặn Cà Mau có đủ hai yếu tố đó. Du khách
có thể xuôi thuyền dưới tán rừng ngắm chim muông và nghỉ ngơi bằng những món ăn
62
dân dã từ rừng. Đặc biệt, có thể kết hợp xen kẽ một số hành trình tham quan khác như
khám phá đất mũi Cà Mau, đảo Hòn Khoai, bãi Khai Long,v.v.
QUỐC LỘ 1A
Quốc lộ 1, còn được biết đến với các tên gọi khác như Quốc lộ 1A, đường 1, đường cái
quan, đường thiên lý hay đường xuyên Việt là tuyến đường giao thông xuyên suốt Việt
Nam. Quốc lộ bắt đầu (km 0) tại cửa khẩu Hữu Nghị trên biên giới giữa Việt
Nam và Trung Quốc, nằm tại thị trấn Đồng Đăng thuộc huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng
Sơn, và kết thúc tại thị trấn Năm Căn thuộc huyện Năm Căn, tỉnh Cà Mau với
tổng chiều dài 2.482 km. Đây là tuyến đường quan trọng hàng đầu Việt Nam, nó đi qua
trung tâm của một nửa số tỉnh thành Việt Nam, nối liền 4 thành phố lớn: Hà Nội, Đà
Nẵng, Thành phố Hồ Chí Minh và Cần Thơ. Nằm rất gần với quốc lộ 1 huyết mạch
là đường cao tốc Bắc – Nam và đường sắt Bắc – Nam, cũng nối thông suốt giữa 2
miền Nam và Bắc Việt Nam
3.4 Cực Nam, Bắc, Đông, Tây của Việt Nam
Mỗi quốc gia đều có vùng lãnh thổ riêng được quy định bao gồm vùng trời, vùng đất,
vùng biển và được quốc tế công nhận. Giới hạn của vùng lãnh thổ trên đất liền được
quy định bằng các điểm cực (hay cực trị) - đó là những điểm có tọa độ xa nhất về phía
Đông, Tây, Nam và Bắc của một quốc gia khi so với bất kỳ vị trí nào khác trên lãnh
thổ của đất nước. Vậy, 4 điểm cực của Việt Nam là 4 điểm nào?
Điểm cực Đông - Mũi Đôi, Khánh Hòa
Điểm cực đông - nơi đón ánh bình minh đầu tiên trên đất liền Việt Nam nằm trên hòn
Mũi Đôi thuộc bán đảo Hòn Gốm, vịnh Vân Phong, xã Vạn Thạnh, Vạn Ninh, tỉnh
Khánh Hòa. Mũi Đô nằm ở phía nam đèo Cả, cách TP. Hồ Chí Minh khoảng 530km và
cách TP. Nha Trang khoảng 100km. Nơi đây là sự kết hợp hài hòa bởi hệ thống đường
mòn uốn lượn men theo bờ, xuyên qua những cánh rừng trập trùng.
Điểm cực Tây - A Pa Chải, Điện Biên
Không giống như điểm cực Đông, điểm cực Tây của Việt Nam nằm tại A Pa Chải, xã
Sín Thầu, huyện Mường Nhé, tỉnh Điện Biên lại là một địa điểm ai cũng có thể tới bởi
giao thông đến đây khá thuận lợi. A Pa Chải là nơi có cột mốc biên giới giữa 3 nước:
Việt Nam - Lào - Trung Quốc, bởi vậy, trong sổ tay của dân "phượt", nơi đây còn được
gọi là cột mốc số 0 hay là cột mốc không số.
Vị trí điểm cực Tây Việt Nam nằm ở ngã ba biên giới 3 nước, bởi vậy, nơi đây được
coi là địa điểm trọng yếu về mặt an ninh - quốc phòng. Du khách đến đây phải đăng ký
với Bộ Chỉ huy Bộ đội Biên phòng Điện Biên hoặc trực tiếp tại Đồn Biên phòng A Pa
chải và sẽ được chiến sĩ biên phòng dẫn đường lên thăm cột mốc. Đoạn đường từ Trạm
biên phòng lên cột mốc A Pa Chải khoảng 11km, nhưng hiện nay chỉ còn khoảng 3km
đường đất, còn lại đường đã đổ bê tông khá dễ đi.
Điểm cực Nam - Đất Mũi, Cà Mau
Điểm cực Nam của nước ta nằm trên địa phận xã Đất Mũi, huyện Ngọc Hiển, Tỉnh Cà
Mau. Xã Đất Mũi cách trung tâm thành phố Cà Mau khoảng 110km, trước kia thường
63
phải di chuyển bằng cano nhưng những năm gần đây, do du lịch ngày càng phát triển,
tuyến đường Hồ Chí Minh đoạn từ Năm Căn đến Đất Mũi đã được thông xe nên du
khách có thể đến điểm cực Nam của Tổ quốc bằng đường bộ thuận tiện hơn
Hiện nay nếu xét về mặt địa lý thì mũi Cà Mau không phải là điểm cực Nam trên đất
liền của Việt Nam, mà chỉ nằm ở vùng cực Nam của Việt Nam. Điểm cực nam trên đất
liền của tỉnh Cà Mau nằm ở xã Viên An, huyện Ngọc Hiển, có độ vĩ 8°30' Bắc. Mũi Cà
Mau là điểm cực Tây của tỉnh Cà Mau.
Điểm cực Bắc - Lũng Cú, Hà Giang
Điểm cực Bắc của nước ta được đánh dấu bằng điểm mốc cột cờ Lũng Cú nằm ở xã
Lũng Cú, huyện Đồng Văn, tỉnh Hà Giang. Cột cờ Lũng Cú là một cột cờ quốc gia
nằm ở đỉnh Lũng Cú hay còn gọi là đỉnh núi Rồng (Long Sơn), nơi có độ cao khoảng
1.470m so với mực nước biển. Cột cờ Lũng Cú đặt ở Đài vọng cảnh cách cực Bắc thực
tế của Việt Nam khoảng 3,3km theo đường thẳng nhưng vì đây là một điểm du lịch rất
thu hút nên nó cũng được coi là cột mốc cực Bắc của nước ta.
3.5 Đặc sản Cà Mau
Với vị trí địa lý khá thuận lợi có hệ thống kênh ngòi chằng chịt, sông nước mênh
mông, có biển và hệ thống rừng ngập mặn. Nơi đây là nơi của vô số sinh vật từ các
loại hải sản, cá sông, chim trời, ếch, chuột,...hay nổi tiếng với những loài côn trùng
đuông, nhộng, dế,..cùng hàng trăm loại cây ăn quả và đa dạng những loại rau. Với bấy
nhiêu đấy thôi, chắc hẳn cũng đã làm bạn tò mò về vùng đất Cà Mau. Cùng theo chân
chúng mình khám phá nền ẩm thực vùng đất Mũi nhé! Một phần không thể thú vị hơn
khi đến đất Mũi chính là thưởng thức những bữa ăn đậm chất Nam bộ dưới những mái
nhà lợp lá dừa nước, chung quanh gió mát rười rượi với rượu trái giác, được mệnh
danh là “vang Cà Mau” và nghe đờn ca tài tử, thì thật khó quên.
Cua Cà Mau - nổi tiếng nhất
Nhắc đến vùng đất tận cùng của Tổ Quốc thì cua chính là món đặc sản Cà Mau hàng
đầu phải kể đến. Không chỉ nổi tiếng trong nước, cua Cà Mau còn được xuất khẩu đi
các nước lân cận. Thế nên, đặt chân đến Đất Mũi mà không thưởng thức món cua thì
quả là một thiếu sót lớn.Với 2 loại cua đặc trưng cua thịt rất chắc thịt, vị ngọt và thơm,
cua gạch thì gạch đầy ú ụ đỏ ươm, béo ngậy thơm ngon. Chỉ cần nhìn thôi là phải
khiến bạn “nhỏ dãi”, bạn có thể thưởng thức vị thơm ngon của cua với các cách chế
biến như cua hấp, cua rang me, lẩu cua,...
*Giá tham khảo:
- Cua yếm: 300.000 VND/kg
- Cua gạch nhỏ: 450.000 VND/kg
- Cua gạch lớn: 490.000 VND/kg
- Cua thịt: 370.000 VND/kg
* Cách phân biệt các loại cua

64
Cua gạch son
Cua gạch son có yếm vuông. Sau khi lột
chúng biến thành cua cái. Cũng trong
khoảng thời gian này chúng tiến hành
giao phối thì phần gạch sẽ dần xuất hiện
nhiều.

Cua ốp
Sau khi lột mà không được giao phối thì
chúng không có gạch, thường được phân
biệt với cái tên cua cái ốp. Thịt cua vẫn
ngon nhưng không ngọt bằng cua gạch
son.Trọng lượng dao động khoảng 300-
500g.

65
Cua Y
Loại cua biển Cà Mau này phần thịt chiếm đến 70% trở lên. Những con khoảng
90% thịt thì vô cùng hiếm. Yếm cua và cạnh đáy hình tam giác, nhỏ trông
giống như chữ Y. Loại cua này được phân loại tùy theo trọng lượng. Thịt chắc,
ăn vào thấy thịt ngọt và ngon.
*Phân biệt cua thật – cua giả
- Đầu tiên, hãy nhìn vẻ bề ngoài của con cua. Vì cua Cà Mau vốn không đẹp
như các loại cua ở nơi khác nên cua thật nhìn sẽ có màu sẫm hơn, nhìn cứng
cáp hơn, trong khi cua giả (hoặc cua nuôi công nghiệp) thì có màu trắng, trong
xanh.
Tiếp theo, nhìn lớp da lụa trên càng cua, nếu có màu hồng tươi hoặc hồng sậm
thì mới nên mua vì cua này nhiều thịt. Đặc biệt hơn, nếu lớp da này thẳng bóng
chứng tỏ cua béo và còn tươi. Ngược lại là cua cũ, lớp da nhăn nheo, không
nên mua.
- Dùng ngón tay cái thử ấn vào nốt thứ 3 (trong 5 nốt) bụng cua, ở hai bên yếm.
Khi ấn thấy cứng tức là cua chắc thịt. Ngược lại thì cua ít thịt, yếm cua mềm.
Trong lúc lựa cua, nếu quan sát thấy yếm cua bám chắc vào thân cua chuyển
động chân và càng nhanh, phần gai trên càng cua và mai cua còn sắc, nguyên
vẹn, tức là con cua này còn khỏe, sau khi mua về dễ bảo quản.
- Hãy cân nhắc khi mức giá mà người bán cua đưa ra có vẻ bất thường. Đối với
cua giả, người bán sẽ rao với giá rẻ đến bất ngờ để thu hút được nhiều khách
hàng và kích thích họ mua cua. Mặt khác, nhiều người bán còn dùng chiêu lấy
dây to, nặng để buộc cua, nhằm tăng trọng lượng món hàng.
Cá Thòi Lòi nướng muối ớt
Một loại cá đặc trưng ở vùng ngập mặn, với vẻ ngoài tuy xấu xí, loài cá nhỏ bé
này nổi bật khi vừa biết bơi, chạy trên mặt nước hay trên cạn và còn có thể leo
cây. Và hơn hết, cá thòi lòi có nguồn dinh dưỡng cao, không có nhiều xương và
không tanh.
Nó trở thành một đặc sản Cà Mau dân dã nhưng là món ngon được nhiều du
khách ưa thích, với đa dạng cách chế biến. Bạn có thể thưởng thức món cá thòi
lòi nướng, nấu lẩu, kho tiêu. Hoặc bạn có thể tìm mua khô cá thòi lòi để làm
quà biếu cho bạn bè và người thân sau chuyến đi.
Lẩu mắm U Minh
Khi đặt chân đến vùng sông nước Miền Tây, món lẩu mắm vẫn là một đặc sản
mà bạn đừng nên bỏ qua. Với hương vị mắm đặc trưng, tại Cà Mau nước lẩu sẽ
được nấu bằng mắm cá Sặc, cùng với một ít sả băm nhuyễn làm dậy lên mùi
mắm thêm “nồng nàn” hơn.

66
Món lẩu mắm vùng U Minh thì chắc chắn không thể thiếu những món ăn kèm
như cá, tôm, mực và những loại rau rừng xanh tươi đặc trưng tại vùng rừng U
Minh như đọt nhãn lồng, rau đắng, càng cua, bông súng, đọt choại,...
Gỏi ong non
Sâu trong rừng U Minh Hạ có nghề gác ong thu mật nổi tiếng, ngoài thu những
miếng mật ngọt thơm, thì nhộng ong cũng là một nguyên liệu chế biến nên đặc
sản Cà Mau gỏi ong non.
Bạn nhất định không được bỏ qua món ngon đặc sắc này, nhộng ong non được
trộn với các loại rau thơm, rau quế, rau răm và nước mắm chua ngọt, việc trộn
gỏi sẽ giữ được những tinh tuý trong ong non và tạo nên một món ngon mang
đậm vị vùng rừng U Minh Hạ.
Mắm ba khía Rạch Gốc
Một đặc trưng tại vùng Đất Mũi mà bạn không thể bỏ qua là đặc sản Ba Khía
Rạch Gốc. Ba khía thuộc họ nhà Cua, thường sống trong vùng ngập mặn,
chúng ăn những trái mắm đen rụng xuống nên thịt rất chắc và có ít gạch son.
Ba khía thường được chế biến theo nhiều cách khác nhau như hấp, rang me,
nướng,... nhưng phổ biến và nổi tiếng nhất là mắm ba khía Rạch Gốc. Tuy làm
mắm nhưng ba khía vẫn giữ được nguyên vị đặc trưng, hãy một lần thưởng
thức món mắm ba khía với cơm nóng, tuy dân dã bình dị, những món đặc sản
độc đáo này đã níu chân nhiều du khách.
Rắn ri
Một loại rắn lành tính sống tại vùng nước ngọt U Minh Hạ, không chỉ là đặc
sản thơm ngon, món rắn ri rất giàu chất dinh dưỡng, rất tốt cho sức khỏe. Đặc
sản Cà Mau rắn ri thường được chế biến theo nhiều cách như hầm sả nước dừa,
xào lăn, hoặc nấu cháo.
Về vùng miền Tây sông nước, việc thưởng thức những đặc sản độc đáo phần
nào đó giúp bạn hiểu hơn về bản sắc ẩm thực đặc trưng nơi đây.
Bánh tằm gà cay
Về miền Đất mũi, hỏi đặc sản Cà Mau là gì, câu trả lời là món bánh tằm. Một
món ăn làm đa dạng thêm thực đơn buổi sáng của bạn khi du lịch đến cực Nam
của Tổ quốc. Với sự kết hợp hoàn hảo giữa những sợi bánh tằm mềm và những
miếng gà dai, cùng với nước dùng vị cà ri đậm vị sẽ làm bạn ăn mãi mà không
biết ngán.
Với hương vị đặc trưng kết hợp cùng rau xanh và giá làm cho món ăn càng
thêm hấp dẫn, thực khách sẽ cảm nhận được vị cay cay thơm thơm nồng nàn
nơi đầu lưỡi.

67
Mức giá bánh tằm Cà Mau cũng khá mềm, dao động từ 30.000 - 50.000
VND/phần. Hiện nay, nhiều quán bánh tằm gà cay trên địa bàn TP. Cà Mau
được nhiều thực khách yêu thích
Mắm tép Cà Mau
Một món ăn đặc trưng dân dã quen thuộc trong các bữa ăn của người dân tại
vùng Cà Mau là món mắm tép. Với hương vị đậm đà của tép giòn sần sật, vị
cay cay của ớt và gừng, hoà quyện cùng đu đủ giòn rụm và vị hơi chua đặc
trưng của mắm tép, tạo nên một món ăn vô cùng cuốn hút. Không nhất thiết
phải đến hàng quán sang trọng, chỉ cần ghé vào một khu chợ bất kỳ, bạn cũng
có thể dễ dàng tìm mua thức đặc sản này với mức giá khoảng 250.000 VND
cho loại mắm tép hũ 1kg và khoảng 170.000 VND cho loại mắm tép trộn đu
đủ.
Đuông Chà Là
Một món ăn hơi độc đáo và nhiều người không dám thưởng thức, nhưng bạn
đừng phí hoài cuộc đời, đã đến vùng U Minh thì đừng bỏ qua đặc sản Cà Mau
đuông chà là. Cây chà là thường có nhiều ở vùng rừng ngập mặn, và những con
đuông béo ngậy, trắng tròn thường cư ngụ trên những cây chà là ấy. Với cách
chế biến khá đơn giản, đuông chà là cho vào mắm ngon và ăn trực tiếp, tuy hơi
“đáng sợ” nhưng bạn hãy dũng cảm thử một lần, chắc chắn nó sẽ trở thành món
khoái khẩu của bạn.
Mật ong rừng U Minh
Mật ong rừng U Minh là tinh tuý của vùng rừng ngập mặn, với hương vị đặc
trưng thơm mùi hoa tràm, vị ngọt thanh đặc biệt rất tốt cho sức khỏe. Đây là
một đặc sản tại vùng đất mũi mà bạn nên mua về làm quà để biếu cho người
thân, bạn bè rất ý nghĩa. Tuy nhiên, đây cũng là đặc sản rất dễ bị nhái bởi mật
ong kém chất lượng.
Đặc sản Mũi Cà Mau mua về làm quà
Du khách còn có thể mua về làm quà cho người thân và bạn bè những sản
phẩm đặc trưng của vùng Đất Mũi như: tôm khô, khô cá dứa, khô các loại,
mắm ba khía, đũa đước, mật ong, những sản phẩm lưu niệm mang biểu tượng
Đất Mũi…sau khi kết thúc chuyến du lịch Cà Mau.
3.5 Cácđiểm tham quan du lịch ở Cà Mau: sân chim Cà Mau, đền thờ Bác
Hồ, Hòn Đá Bạc, VQG U Minh Thượng,….
Sân chim Cà Mau:
Cà Mau có rất nhiều sân chim, với hàng trăm loài chim, có nhiều loài thuộc
dạng quý hiếm cần được bảo tồn, quần tụ dưới tán rừng ngập mặn (rừng đước)
và rừng ngập lợ (rừng tràm). Trong đó, có một sân chim rất đặc biệt – sân chim
giữa lòng thành phố Cà Mau. Được hình thành và duy trì hơn 20 năm, sân chim
nằm trong Khu tưởng niệm chủ tịch Hồ Chí Minh, tọa lạc tại khóm 1, phường
68
1, thành phố Cà Mau. Sân chim có diện tích 4,5 ha. Theo nghiên cứu, vào năm
2018 vườn có khoảng 6600 cá thể chim với khoảng 53 loài chim khác nhau.
Tuy nhiên số lượng chim sẽ dao động theo từng mùa trong năm, vào thời kỳ
cao điểm có hơn 12.000 cá thể chim đến làm tổ, sinh con, đẻ cái rồi định cư ở
đây. Phần lớn là chim cò, chim còng cọc, chim vạc, chim điên điển, vẹt xám…
Buổi chiều, khi hoàng hôn buông xuống cũng là lúc đàn chim tìm về tổ ấm, du
khách dễ dàng thưởng thức bản hợp ca của hàng ngàn đôi cò rượt đuổi nhau,
chim non nhốn nháo gọi mẹ, chim trống cất tiếng gọi bạn tình… giữa chốn
phồn hoa phố thị.
Các chuyên gia về môi trường thế giới khi đến đây vừa ngạc nhiên, vừa thích
thú trước cảnh tượng hấp dẫn, lạ mắt: con bay, con đậu trên cành, con lò dò
dưới đất, với những bộ lông muôn màu, muôn sắc. Và đây cũng chính là điểm
du lịch tuyệt vời với du khách phương xa.
Sân chim Ngọc Hiển:
Sân chim Ngọc Hiển có địa chỉ tại huyện Ngọc Hiển, tỉnh Cà Mau hiện là một
trong những vườn nuôi chim lớn nhất ở nước ta. Vườn chim nổi tiếng này có
tổng diện tích 130ha, là nơi bảo tồn và phát triển nhiều giống chim quý hiếm.
Tham quan sân chim Ngọc Hiển Cà Mau du khách còn được tìm hiểu thảm
thực vật tươi xanh và hệ thống sông ngòi chằng chịt.
Có thể tới khu du lịch sinh thái Ngọc Hiển vào bất kỳ thời gian nào trong năm
đều đẹp. Tuy nhiên, để được chiêm ngưỡng những đàn sếu đầu đỏ biểu diễn thì
nên đi đến vào tầm tháng 4 tới tháng 5. Lúc này, có rất nhiều đàn sếu đầu đỏ di
chuyển tới sân chim Ngọc Hiển để tìm giống và mồi ăn. Đặc biệt, chúng ta sẽ
được chứng kiến cảnh nhảy múa và gọi bạn tình của giống sều đầu đỏ.
Ngoài ra, cũng có thể tới vườn chim Ngọc Hiển vào mùa nước nổi từ tháng 8
tới tháng 11. Khi đó, toàn bộ vườn chim ngập trong nước và khách tham quan
sẽ được di chuyển bằng thuyền trên những con kênh nhỏ để tham quan sâu bên
trong rừng.
Thời gian lý tưởng nhất để tham quan sân chim Ngọc Hiển là vào sáng sớm để
có thể bắt trọn hình ảnh từng đàn chim đi kiếm mồi. Khi buổi chiều hoàng hôn
buông xuống là lúc từng đàn chim ríu rít gọi nhau trở về tổ sau một ngày kiếm
ăn.
Mùa mưa là thời điểm các loài chim tại sân chim Ngọc Hiển bắt đầu sinh sản,
có lúc lên tới 10.000 cá thể. Trong đó, phổ biến nhất là bạc má, cò trắng, còng
cọc, diệc xám, điên điển, giang sen cho tới các loài lưỡng cư, bò sát. Ngành du
lịch Cà Mau đầu tư nguồn kinh phí lớn cho vườn chim Ngọc Hiển về mồi ăn và
cây xanh mục đích giữ chân các loài chim cư trú. Hiện tại, số lượng các loài
chim ở vườn Ngọc Hiển đang phát triển nhiều và trở thành khu sinh thái cần
được bảo tồn.

69
Đền thờ Bác:
Đền thờ Chủ tịch Hồ Chí Minh tại xã Viên An, huyện Ngọc Hiển nằm tại ngã
ba sông Ông Trang, cách trung tâm huyện Ngọc Hiển về phía tây 42 km.
Sau khi Chủ tịch Hồ Chí Minh qua đời và nhằm đáp ứng lòng mong mỏi, tình
cảm và nguyện vọng của nhân dân đối với Bác, ngày 10/9/1969, Đền thờ Bác
được khởi công xây dựng tại xóm Ông Bọng, ấp Ông Trang ngay ngã năm xã
Viên An. Đền thờ được xây dựng mỗi cạnh 4,5m; đòn tay, vách đóng bằng gỗ,
ván đước; mái nhà đền thờ cấu trúc 2 tầng, mái lợp tôn thiếc, trên đỉnh nóc có
hình con chim hòa bình, sơn màu lá cây đước. Bên trong, phía chính diện có
bục thờ và ảnh Chủ tịch Hồ Chí Minh dệt bằng vải, khổ 50 x 70 cm, sàn lót
bằng ván đước. Phía trước Đền thờ có dòng chữ “Đền thờ Chủ tịch Hồ Minh”.
Ngày 25/9/1969, Đền thờ Chủ tịch Hồ Chí Minh được khánh thành và có trên
600 cán bộ, nhân dân địa phương đã về dự.
Sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, thống nhất đất nước, ngày
10/5/1975, Chi bộ ấp Ông Trang thống nhất dời Đền thờ Chủ tịch Hồ Chí Minh
từ Ông Bọng, ấp Ông Trang về vàm Ông Trang hiện nay. Khi di dời, Chi bộ ấp
Ông Trang mượn 2 thuyền lớn có trọng tải trên 10 tấn làm thành bè, xung
quanh có quấn vải trắng với hình tượng con chim bồ câu trắng, có băng cờ,
khẩu hiệu, sau đó chở Đền thờ đi diễu hành từ Ông Trang đến thị xã Cà Mau,
với thời gian 4 ngày mới quay về vàm Ông Trang. Sau đó, xã tập trung lực
lượng khiên Đền thờ lên đặt ở vị trí vàm Ông Trang hiện nay. Đây là đền thờ
Bác được xây dựng sớm nhất ở Cà Mau.
Ngày 26/3/1996, Đền thờ Chủ tịch Hồ Chí Minh tại xã Viên An, huyện Ngọc
Hiển được UBND tỉnh Minh Hải công nhận là di tích lịch sử - văn hóa cấp tỉnh.
Hòn Đá Bạc:
Hòn Đá Bạc, cách thành phố Cà Mau khoảng 50 km, cách đất liền khoảng 500
mét, có diện tích 6,34 ha, nằm ở phía tây Bán đảo Cà Mau, thuộc địa phận ấp
Kinh Hòn, xã Khánh Bình Tây, huyện Trần Văn Thời.
Hòn Đá Bạc bao gồm Hòn Ông Ngộ, Hòn Đá Bạc, Hòn Đá Bạc Lẻ. Đỉnh cao
nhất của hòn khoảng 50 mét so với mặt nước biển. Tuy không phải là một hòn
đảo lớn nhưng Hòn Đá Bạc rất thuận tiện cho các loại phương tiện khai thác
biển vào neo đậu và tránh gió bão. Cùng với Hòn Khoai, Hòn Chuối, Hòn Đá
Bạc là một trong những cụm đảo có vị trí chiến lược về kinh tế – quốc phòng –
an ninh trên vùng biển - đảo Cà Mau.
Nhìn trên bản đồ, Hòn Đá bạc như một trạm tiền tiêu canh giữ vùng trời, vùng
biển phía tây nam Mũi Cà Mau. Hòn Đá Bạc – như tên gọi của nó – xung
quanh hòn, trên mặt nước, dưới đáy biển hàng ngàn viên đá granit đủ mọi kích
cỡ nằm chồng lên nhau tạo thành nhiều hình dáng như có sự sắp đặt của con
người. Đi trên Hòn Đá Bạc, du khách bắt gặp bàn tay Tiên, dấu chân Tiên,
giếng Tiên, bàn chân cọp. Trên đỉnh phía đông của Hòn Đá Bạc có các tảng đá
70
to và bề mặt khá rộng. Khoảng giữa hai mảng đá có khuyết một hố sâu giống
như hình bàn chân. Tương truyền rằng, dấu bàn chân ấy là bàn chân Tiên, còn
mảng đá này là sân Tiên.
Trên hòn có một vài ngôi chùa nhỏ như chùa Hang, chùa Tịnh độ. Đặc biệt,
trên đỉnh cao nhất của Hòn Đá Bạc là đền thờ Ông Nam Hải - nơi thờ bộ xương
cá Ông dài 13m. Ngày 20/5/1995, cá Ông dạt vào khu vực cửa sông Ông Đốc.
Khoảng 3 ngày sau, Ông lụy (chết), ngư dân Sông Đốc đem chôn và đến năm
1996 đưa bộ xương về Hòn Đá Bạc để thờ cúng. Ngư dân vùng này mỗi khi đi
biển gặp sóng to, gió lớn đều được cá Ông cứu giúp. Vì thế, ngư dân nơi đây
thầm cảm ơn Ông và đem thờ Ông như một vị thần cứu nhân độ thế. Tương
truyền, đền thờ Ông Nam Hải rất thiêng. Ngày nay, không chỉ ngư dân trong
khu vực mà cả du khách thập phương nghe tiếng Ông linh thiêng đều kéo về
cúng viếng và cầu mong Ông phù hộ độ trì cho gia đạo bình an, không gặp
sóng gió, trắc trở.
Trong những năm kháng chiến chống Mỹ cứu nước, địch đã chọn Hòn Đá Bạc
làm nơi đóng Trung đội pháo 105 ly để khống chế vùng căn cứ cách mạng
Khánh Bình Tây và tuyến ven biển phía Tây Cà Mau. Đây còn là địa điểm diễn
ra chuyên án CM12, đánh bại âm mưu nhập biên phá hoại, lật đổ chế độ xã hội
chủ nghĩa ở nước ta của tổ chức phản động “Việt Nam phục quốc” do Lê Quốc
Túy và Mai Văn Hạnh cầm đầu.
Ngày 22/6/2009, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch công nhận di tích: Hòn Đá
Bạc - Trung tâm chỉ huy kế hoạch phản gián CM12 (09/9/1981- 09/9/1984) là
Di tích lịch sử - văn hóa cấp Quốc gia. Bộ Công an và tỉnh Cà Mau đã xây
dựng Tượng đài chiến thắng CM12, Nhà truyền thống, đền thờ Bác Hồ tại khu
di tích nổi tiếng này.
Do địa thế nằm sát đất liền, Hòn Đá Bạc được Công ty TNHH thương mại
Minh Nhật đầu tư hàng chục tỷ đồng để xây dựng các công trình hạ tầng để
khai thác, đánh thức tiềm năng du lịch nơi đây như đường nội bộ, hệ thống
cung cấp nước sạch, chiếu sáng, nhà hàng, khách sạn. Đồng thời mạnh dạn đầu
tư xây dựng cầu vượt biển để nối liền các đảo ở Hòn Đá Bạc với đất liền, nhằm
tạo điều kiện cho du khách đến tham quan, nghỉ mát tại khu du lịch sinh thái
này.
Vườn quốc gia U Minh Hạ:
Ngày 20/01/2006, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 112/QĐ-TTg về
việc chuyển Khu bảo tồn thiên nhiên Vồ Dơi thành Vườn Quốc gia U Minh Hạ.
Nằm cách TP.Cà Mau khoảng 25km về phía Tây Bắc, vườn có tổng diện tích
8.527,8 ha thuộc địa giới hành chính 4 xã thuộc 2 địa bàn huyện U Minh và
huyện Trần Văn Thời. Ngoài ra, Vườn quốc gia U Minh Hạ còn có hơn 25.000
ha vùng đệm thuộc Công ty TNHH một thành viên Lâm nghiệp U Minh, Trại

71
giam K1 Cái Tàu và Trung tâm nghiên cứu ứng dụng rừng ngập Minh Hải quản
lý.
Vườn quốc gia U Minh Hạ là một trong hai vườn quốc gia tại tỉnh Cà Mau.
Ngày 26 tháng 5 năm 2009, cùng với Cù Lao Chàm - Quảng Nam, Vườn quốc
gia Mũi Cà Mau và U Minh Hạ được UNESCO đưa vào danh sách các khu dự
trữ sinh quyển của thế giới.
Đây là khu vực có hệ động thực vật đặc trưng vùng đất ngập nước trên lớp than
bùn do xác thực vật tích tụ lâu năm tạo thành. Đặc trưng là hệ sinh thái rừng
Tràm hình thành trong điều kiện ngập nước, úng phèn, trên nền đất than bùn là
loài cây tiêu biểu của đồng bằng Sông Cửu Long. VQG U Minh Hạ có hệ sinh
thái đa dạng và phong phú với 250 loài thực vật, 182 loài chim, 20 loài bò sát
và lưỡng thê, 40 loài thú và nhiều loài côn trùng khác, trong đó có nhiều loài
được ghi vào sách đỏ của Tổ chức Bảo tồn thiên nhiên Quốc tế.
Ngoài ra đây còn là nơi cư trú của nhiều loài chim loài thú có giá trị khoa học
và quý hiếm được ghi vào sách đỏ Việt Nam.
Đến với VQG U Minh Hạ chúng ta có thể lên đài quan sát cao 24m, để ngắm
toàn cảnh VQG U Minh Hạ. Lênh đênh trên những chiếc ghe dọc theo những
con kênh để ngắm nhìn thảm động thực vật đa dạng và phong phú, được nghe
những truyền thuyết từ thuở tiền nhân khai khẩn đất phương Nam. Ven theo các
con sông, lạch nước, du khách sẽ bắt gặp các nông dân buông ghe đánh cá dưới
tán rừng tràm, xem các loài thủy sản tươi rói mà họ mới đánh bắt được.
Vào mùa ăn ong từ tháng 12 đến tháng 6, đến tham quan rừng U Minh Hạ bạn
sẽ có dịp theo chân những người thợ gác kèo vào rừng lấy mật, vừa là trải
nghiệm lý thú vừa được thưởng thức món ong non vừa cắt xuống, chấm thêm tí
mật vàng óng dẻo quánh thì ngọt thanh đến thao đầu lưỡi.
Sau những chuyến xuyên rừng du khách có thể xem tát đìa tay tự tay giăng
lưới, câu cá, hái rau rừng, nhổ bông súng rồi thưởng thức nhiều món ăn đặc sản
của xứ sở rừng Tràm U Minh mà ít nơi nào có được như cá lóc nướng trui, cá
rô đồng nấu lẩu mắm, lươn um lá nhàu, chuột đồng chiên, …
Vườn quốc gia U Minh Hạ còn có nhiệm vụ bảo tồn, tái tạo các giá trị về cảnh
quan thiên nhiên, môi trường sinh thái và đa dạng sinh học của hệ sinh thái đất
ngập nước đặc thù, rừng tràm trên đất than bùn; bảo tồn và phát triển nguồn
gen các loài động thực vật quý, các giá trị văn hóa, tinh thần, di tích lịch sử,
phục vụ công tác nghiên cứu khoa học, tham quan và phát triển du lịch.
Vườn Quốc Gia U Minh Thượng:
Vườn quốc gia U Minh Thượng thuộc địa phận của tỉnh Kiên Giang, được ngăn
cách bởi con sông Trẹm và được xếp hạng vào loại rừng đặc thù, vừa độc đáo
vừa quý hiếm trên toàn thế giới. Địa điểm này được chuyển đổi từ khu bảo tồn

72
thiên nhiên thành vườn quốc gia vào ngày 14/1/2002 theo quyết định số số
11/2002/QĐ-TTG.
Rừng nguyên sinh chiếm phần lớn Vườn quốc gia U Minh Thượng và xứng
đáng là kiểu rừng úng phèn có giá trị độc đáo không chỉ tại Việt Nam mà cả thế
giới. Hiện tại, VQG được đầu tư để phục vụ cho việc nghiên cứu và bảo tồn các
nguồn gen quý hiếm. Bên cạnh đó là kết hợp phát triển các dự án du lịch sinh
thái cùng truyền thống nhằm thu hút nhiều du khách đến đây.
Chức năng chính của Vườn quốc gia U Minh Thượng chính là bảo tồn sự đa
dạng của hệ sinh thái rừng ngập nước, rừng tràm úng phèn trên điều kiện đất
than bùn, đặc biệt là bảo tồn nơi cư trú cho các loại chim nước và động vật quý
hiếm. Không những thế VQG còn là nơi lưu trữ và bảo tồn những di tích lịch
sử quan trọng trong thời kỳ chống Pháp và Mỹ.
Thời điểm thích hợp để khám phá U Minh Thượng là vào mùa nước nổi từ
tháng 8 đến tháng 11. Lúc này mực nước dâng cao, du khách có thể được trải
nghiệm ngồi ghe tham quan cảnh đẹp hay quan sát hệ sinh thái phát triển đa
dạng vào mùa này.
Nếu không, đến với VQG vào những tháng còn lại du khách sẽ cảm thấy dễ
chịu hơn với sắc trời mát mẻ, nhẹ dịu. Quang cảnh trời sắc nắng vàng, thiên
nhiên xanh ngát, những dòng nước biếc tạo nên bức tranh sinh động và hữu
tình.
Đến Vườn quốc gia U Minh Thượng, du khách sẽ được tự mình trải nghiệm
nhiều hoạt động khó quên. Điển hình như:
- Ngồi thuyền khám phá rừng ngập nước
Hoạt động được hầu hết mọi du khách lựa chọn khi đến với U Minh Thượng
chính là ngồi thuyền khám phá rừng tràm cùng những cảnh quan trên rừng
ngập nước. Đưa mắt quan sát mọi người sẽ thấy mặt nước đầy những mảng bèo
xanh hay điểm xuyết vào đó là sắc tím của hoa súng, bồn bồn… Sau những
ngày dài mệt mỏi, được thả mình vào khung cảnh tươi đẹp như vậy giúp mọi
người như được gột rửa sạch mọi muộn phiền.
- Tìm hiểu về lịch sử các cuộc chiến tranh hào hùng
Vườn quốc gia U Minh Thượng cũng được xem là chứng nhân lịch sử cho hai
cuộc kháng chiến hào hùng chống Pháp và Mỹ. Vậy nên đến đây, mọi người sẽ
được tìm hiểu về các di tích lịch sử, các cột mốc – giai đoạn quan trọng của dân
tộc trong thời kỳ chiến tranh…
- Quan sát hệ sinh thái đa dạng: Ngoài hệ thực vật rừng ngập nước đa dạng thì
U Minh Thượng còn là nơi cư ngụ của nhiều loài động vật quý hiếm. Đặc biệt
là một vài có tên có mặt trong sách đỏ Việt Nam như tê tê, bồ nông chân xám,
rái cá mũi lông, cầy vòi hương… Ngoài ngắm cảnh rừng nguyên sinh thì mọi
người còn được tìm hiểu về các loài động vật được bảo tồn tại đây.
73
- Câu cá trong rừng U Minh: Câu cá cũng là thú vui có tác dụng xả stress tốt.
Đến với VQG này, du khách có thể chọn thuê những chiếc thuyền nhỏ ngồi câu
cá trong rừng U Minh. Nếu muốn thì khu du lịch sinh thái U Minh Thượng còn
hỗ trợ du khách chế biến những món ăn do chính họ câu được.
- Tham quan máng dơi, trảng chim: Máng Dơi được biết đến là ngôi nhà của
hàng ngàn con dơi tụ họp từ nhiều nơi khác về đây. Cũng tương tự như Trảng
Chim là nơi cư ngụ của rất nhiều loại chim nước. Đến với U Minh Thượng mọi
người hãy dành ra thời gian ghé tới những địa điểm này nhé, để khám phá thêm
cuộc sống của hệ động vật đa dạng.
-Thưởng thức các món ngon đặc biệt tại đây
Đặc sản miền sông nước luôn là thứ níu kéo tâm hồn du khách ở lại mỗi khi
đến với U Minh. Nếu đã có dịp đến đây thì đừng bỏ lỡ cơ hội thưởng thức các
món ngon khó quên như: cá lóc nướng đất sét, cá thát lát ướp sả chiên giòn, cá
rô kho, cá trê nướng, cá lóc hấp bồn bồn…
3.6 Bác Ba Phi
Giới thiệu Bác Ba Phi
Chỉ cách đây trên dưới trăm năm, vùng đất Cà Mau vẫn còn “cọp um, sấu lội,
đĩa lềnh tựa bánh canh”, đời sống tuy vất vả nhưng sản vật vô cùng trù phú.
Dân gian có câu rằng:
"Ở đâu bằng xứ Lung Tràm
Chim kêu như hát bội, cá lội vàng tợ mắm nêm".
Trong buổi đầu khai hoang mở đất đầy gian khó ấy, bác Ba Phi và những câu
truyện cười của ông đã nổi lên như một hiện tượng riêng có của vùng đất U
Minh. Người ta nói, nghe chuyện bác Ba mà “cười lộn ruột”.Thế nhưng, đằng
sau những câu chuyện dân gian gọi là “nói dóc” ấy là những giá trị văn hóa lưu
giữ hồn cốt của đất và người Nam Bộ một thời đi khai mở đất U Minh.
Nhắc tới truyện dân gian ĐBSCL, không thể không nói đến bác Ba Phi. Không
chỉ sáng tác nhiều truyện tiếu lâm lưu truyền khắp Nam kỳ lục tỉnh, mà bác Ba
Phi còn là biểu tượng cho khí chất người miền Tây: chân chất, hào sảng, phóng
khoáng và nghĩa hiệp.
Theo tài liệu ghi chép, Bác Ba Phi tên thật là Trần Long Phi, sinh năm 1884, tại
Đồng Tháp. Do gia đình quá nghèo nên từ nhỏ ông phải đi cày thuê để nuôi 8
người em. Tuy cuộc sống cơ cực, ban ngày phải đi khẩn hoang, nhưng khi trời
vừa nhá nhem, ông thường tham gia tụ họp đờn ca và được bà con trong xóm
thương yêu bởi tính tình vui vẻ, dí dỏm, khẳng khái.
Vốn làm tá điền cho Hương quản Tế (tức Trần Văn Tế) - một địa chủ giàu có
vùng Bảy Ghe, ông được Hương quản hứa gả cô con gái Ba Lữ (tức Trần Thị
Lữ) với điều kiện phải làm công trong ba năm. Nhờ sự chịu thương chịu khó,
nên ba năm sau thì ông cưới được vợ. Sau khi gả con gái, Hương quản Tế giao
74
hàng nghìn công đất ruộng đang được khai hoang cho vợ chồng Ba Phi làm kế
sinh nhai.
Hai người lấy nhau một thời gian mà không có con, vì vậy bà Ba Lữ đã đứng ra
cưới vợ hai cho chồng. Vợ hai (tức bà Lê Thị Lượng) sinh được một người con
trai tên là Nguyễn Tứ Hải. Không rõ vì lý do gì mà khi Nguyễn Tứ Hải mới ba
tuổi, bà đã gửi con cho chồng rồi về quê ở Mỹ Tho cho đến lúc qua đời.
Ông Nguyễn Tứ Hải về sau lập gia đình với bà Nguyễn Thị Anh, sinh hạ một
người con trai – cháu đích tôn của bác Ba Phi – tên là Nguyễn Quốc Trị. Trong
những câu chuyện của bác Ba Phi thì đây chính là nhân vật thằng Đậu nổi
tiếng. Về sau bác Ba Phi cưới thêm vợ ba. Bà tên Lữ Thị Cham (còn gọi là Cà
Cham), là người dân tộc Khmer và sinh được hai người con gái.
Các nhà nghiên cứu văn hóa cho rằng, Bác Ba Phi thuộc lớp hậu duệ của những
tiền nhân đi khai mở đất rừng U Minh. Cả quãng đời của ông là quá trình khai
phá đất rừng U Minh nguyên sinh, vốn rất hào phóng mà cũng lắm khắc nghiệt.
Theo lời kể của bà Nguyễn Thị Thuận – con gái út của bác Ba Phi, thì Bác Ba
là người cao ráo, trán trợt, sức vóc nhưng hiền lành, hay cười nói. Ông từ Đồng
Tháp trôi dạt về miệt Cái Rắn (Cái Nước), rồi sau đó về Lung Tràm khẩn
hoang, an cư lập nghiệp. Cũng nhờ “chịu thương chịu khó” mà bác Ba Phi đã
làm chủ cả ngàn héc-ta đất nơi đây. Bác Ba được cái tính thương người, hào
sảng, hễ ai “sa cơ lỡ vận”, ông đều cưu mang, đùm bọc.
Câu chuyện bác Ba Phi gỡ bộ ván gỗ rất quý cho người nghèo xẻ ra đóng quan
tài chôn người chết và cả câu chuyện hiến ruộng cho làng xã để cấp cho dân
nghèo sản xuất vẫn được người đời lưu truyền cho đến tận bây giờ:
"Hồi đó thì vùng này tràm không à, không có ai mần ruộng, ba về đây ở khai
phá. Ổng không có tóc, hồi đó thì mặc quần lãnh, khăn quấn ngang, đội nón lá
chằm…", bà Thuận nói.
Cũng theo lời kể của bà Út Thuận, danh xưng bác Ba Phi thật ra là theo thứ bên
vợ. Mỗi bận kể câu chuyện tiếu lâm nào, cứ kết thúc thì ông luôn có một câu
kèm theo: “Không tin, hỏi bác Ba gái mầy coi”. Cả nhân vật thằng Đậu, cháu
nội của bác Ba lúc nào cũng theo sát bên ông. Các nhân vật chính cũng xoay đi,
xoay lại bấy nhiêu người trong nhà, cho thấy bác Ba rất trọng tình cảm gia
đình.Nhiều người đọc các truyện: “Thu hoạch lưỡi nai”, “Cọp xay gạo”, “Tàu
rùa”, “Cá nuôi của bác Ba”, “Rắn tát đìa”, “Săn heo”… đều thấy rằng, miệt
Lung Tràm hiện lên với nguồn huê lợi thiên nhiên trù phú. Trên thực tế, bác Ba
không “nói dóc” như nhiều người lầm tưởng, mà đó chỉ là cách nói “quá”, “nói
cho có ấn tượng” những điều mắt thấy tai nghe, bám sát vào hơi thở, nhịp sống
của người dân bấy giờ. Chẳng hạn như nói về cọp, về rùa, ở cái xứ U Minh hồi
đó “hà hà sa số”, nên những câu chuyện của Bác Ba Phi đều có cơ sở. Nó trở
nên gần gũi và dễ dàng đi vào đời sống xã hội là lẽ vậy: "Ba ổng nói lại là rùa
thì nhiều lắm, đi bắt một chút là đầy bao…".
75
Những câu chuyện hài điển hình của Bác Ba
Cọp xay lúa
Truyện kể về một đêm cọp mò về làng bắt heo, chó, gà, vịt. Vừa hay Bác Ba
Phi gái đem thóc đổ ra cối để xay, Bác Ba Phi trai liền gọi Bác gái vào để nói
chuyện. Mấy con chó lẩn quẩn đứng chung quanh cối, bỗng có một con cọp
không rõ đứng rình từ bao giờ, thấy bác gái vừa đi khỏi, nó liền nhảy vô nhà
bắt chó. Hai chân trước của cọp vồ trúng ngay giằng xay. Cọp gỡ mãi không ra,
cứ kéo lui, kéo tới, kéo hoài. Cối gạo vừa đổ một loáng đã xay hết. Bác Ba Phi
gái lại mang thúng thóc khác đổ vào cối cho cọp xay. Cọp cứ phải xay hoài.
Bác gái bắt nó xay hết 25 giạ lúa mới thả cho nó ra.
Ếch đờn vọng cổ
Bác Ba Phi có bầy vịt, cứ gần lớn là lần lượt bị mất sạch trơn. Tức quá, Bác
rình mò mấy bữa mới biết là bị ếch ăn. Thấy vậy, Bác mới lấy sợi dây thép quai
thùng dầu uốn thành một lưỡi câu, lấy sáu sợi dây chì bệnh lại làm nhợ, một
đầu buộc con vịt xiêm vừa ra ràng, một đầu buộc vào bụi tre để bẫy ếch. Sau đó
Bác ngồi rình, thấy một con ếch bà từ trong gốc tre đi ra. Con ếch thấy con vịt
này còn hôi lông nên bỏ đi. Bữa sau, Bác đổi một con vịt mái đang đẻ, mập
mạp. Trông thấy con vịt ta mập ú, con ếch nhanh chóng chồm tới bên con vịt.
Vì thế ếch liền vướng phải lưỡi câu.
Bác vụt đứng dậy la "ếch" một tiếng. Con ếch giật mình nhào ngang, bị lưỡi
câu xóc hàm hạ, nó giãy đùng đùng trên sáu sợi dây. Nó lúc la lúc lắc cái đầu,
sáu sợi dây chì rẽ quạt ra. Hai tay nó quay lia lịa. Sáu sợi dây bật ra những
tiếng kêu bỗng trầm khác nhau. Bác ngồi nghe, một hồi phát ngứa miệng, Bác
ứng thanh theo, ca bậy vài câu vọng cổ chơi.
Câu cá sấu
Một lần có người khách mới đến hỏi Bác Ba rằng xứ U Minh có nhiều sấu
không? Bác liền trả lời: “ Ôi! Sấu ở đây nó lên bờ nằm nhiều như củi lụt.”
Hôm ấy, Bác đi làm một cái đõi đi bắt con sấu, hai vợ chồng chèo thuyền đi.
Gặp con sấu lớn ở sông Quảng Phú. Bác kéo sợi đu trước mũi thuyền. Thế là
con sấu chạy, kéo luôn cả thuyền. Con sấu kéo thuyền chạy 15km từ Quảng
Phú đến vàm Cái Đôi. Lúc đó mới bắt được nó đấy!
Nai trầm thủy
Năm nọ, Bác đi rừng, gặp cái bàu lớn. Giữa trưa đang lúc nóng nực nên Bác
hăm hở lội ngay xuống tắm. Vừa khoác nước kỳ cọ, Bác vừa khoan khoái nghĩ:
"Chà, không ai sướng bằng ta lúc này. Giữa rừng, ngồi tắm mát một mình mà
còn có chỗ máng áo khô sạch nữa.
Đã thiệt...". Bác thò tay xuống lần mở mối lưng, cởi ra thêm chiếc quần đùi.
Bác vừa với tay sang nắm lấy nhánh chà, định máng tiếp cái quần thì bất ngờ...
cái nhánh chà "giật mình" vụt đứng dậy phóng chạy. Đó là con nai trầm thủy,
76
Bác Ba nhìn nhầm nó thành nhánh cây. Bác sợ mất cái áo, quýnh quáng tức tốc
đuổi theo con nai. Nghe có tiếng người chạy đuổi theo kêu la vang rừng phía
sau nên con nai càng sải bốn chân phóng hết tốc độ. Mệt quá, không còn cách
nào khác, Bác buộc lòng phải đứng lại, vừa thở hổn hển vừa chắp tay lên miệng
làm loa, vừa mệt vừa la: “mày không có áo "bận" thì tao tặng cho mày cái áo
đó. Còn gói thuốc trong Bác áo mày nhớ trả lại giùm. Tao ghiền... tội nghiệp
tao, nai ơi, nai ơi!”
Nét độc đáo trong truyện của Bác Ba Phi
Một điều khác biệt của truyện tiếu lâm bác Ba Phi so với những truyện cười
đương thời là không mang tính chỉ trích, mỉa mai, dè bĩu, lên án hay đả phá, mà
tiếng cười trong truyện bác Ba Phi rất vô tư, hào sảng.Không chỉ là vua tiếu
lâm, bác Ba Phi còn được xem là một trong những người có công khai phá
vùng đất Lung Tràm - Kinh Ngang ở Cà Mau. Thuở ấy nơi đây còn lắm hoang
sơ, “Chèo ghe sợ sấu ăn chưn / Xuống bưng sợ đỉa, lên rừng sợ ma”. Lúc bấy
giờ, bác Ba Phi đã đào những con kênh để người dân tiện việc đi lại và vận
chuyển hàng hóa, lúa thóc từ ruộng ra kênh lớn.
Một trong số những con kênh ấy là con kênh Lung Tràm mà người dân nơi đây
hay quen gọi là kênh Ba Phi. Trong chính cái không gian rừng U Minh thời
mới khai hoang ấy, với đặc trưng của con người Cà Mau vui tính, bác Ba Phi
đã sáng tác và kể miệng biết bao câu chuyện cười trong những lúc nghỉ ngơi
trên bờ mẫu hoặc những bữa tiệc trà dư tửu hậu, hay những lúc bộ đội hành
quân ngang nhà. Truyện cười Bác Ba Phi từ đó lưu truyền khắp nơi.
Bác Ba Phi qua đời ngày 3 tháng 11 năm 1964 tại ấp Đường Ranh, xã Khánh
Hải, huyện Trần Văn Thời, tỉnh Cà Mau. Phần mộ của ông được đặt giữa hai
ngôi mộ của bà Ba Lữ và bà Cham ở một góc rừng U Minh Hạ - trên mảnh đất
mà cả cuộc đời ông gắn bó.
Sau khi bác Ba Phi mất đi thì gia đình ông cũng bắt đầu lâm vào cảnh khốn
khó. Người con trai trưởng của bác Ba Phi - ông Nguyễn Tứ Hải cũng chết trận
trong rừng, không tìm được xác. Còn người cháu ngoại trai duy nhất: Liệt sĩ
Nguyễn Hoàng Ân (con bà Nguyễn Thị Thuận) hy sinh trong một trận đánh ác
liệt giữa ta và địch. Xui rủi lại ập đến khi “thằng Đậu” (anh Nguyễn Quốc Trị -
đứa cháu nội đích tôn của bác Ba Phi) đi biển bị chìm tàu, mất tích và không
tìm được xác trong cơn bão dữ.
Bác Ba Phi mất đi nhưng đã để lại một kho tàng truyện tếu lâm cho thế hệ sau,
mặc dù không được ghi chép rõ ràng nhưng những mẫu chuyện kể như: Tàu
rùa, Câu ếch, Rắn tát cá, Nếp dẻo, Cọp xay lúa,…vẫn được truyền miệng và lan
tỏa từ Bắc chí Nam. Hễ khi thấy ai nói “chuyện dóc” hay kể chuyện tếu lâm thì
mọi người đều ví von: “nói dóc như bác Ba Phi”.
3.7 Xẻo Rô – Tắc Cậu

77
“Tắc Cậu-Xẻo Rô” là tên gọi xuất phát từ hai dòng chảy: rạch Tắc Cậu và kênh
xáng Xẻo Rô. Qua thời gian, danh xưng này không chỉ để gọi cho riêng chuyến
phà nối giữa đôi bờ, mà mỗi cái tên đều gắn liền với những câu chuyện mở đất
và sự tích hào hùng năm xưa.
Đây là bến phà duy nhất ở miền Nam chạy dọc dòng ( không chạy ngang) sông
nhỏ Xẻo Rô và băng ngang cùng một lúc 2 con sông Cái Lớn, Cái Bé thuộc
tỉnh Kiên Giang. Đây cũng là trung tâm của vùng mà dân gian thường gọi là “
Miệt Thứ “ của đất trời U Minh Thượng.
Chỉ cần qua phà Tắc Cậu- Xẻo Rô là có thể về đến Miệt Thứ. Bên bờ Tắc Cậu
thuộc huyện Châu Thành và sang bờ Xẻo Rô là đến huyện An Biên, huyện đầu
tiên của Miệt Thứ. Chuyến phà vượt sông Cái Lớn, Cái Bé - nơi ra đời của
vọng cổ Hoa tím bằng lăng ngọt ngào ấy lúc nào cũng tấp nập người qua lại từ
sáng tới khuya, đến nỗi nhiều người nhận định bến phà là nơi đông vui nhất của
cái vùng đất này.
Chẳng biết mỗi ngày có bao nhiêu chuyến phà sang sông, chỉ biết rằng những
chuyến phà cứ nối đuôi nhau ngày qua ngày làm một công việc đưa rước khách
sang sông và không bao giờ có cái gọi là giờ nghỉ. Nếu bạn cũng là người Miệt
Thứ hoặc đã từng đến với vùng đất này chắc hẳn bạn sẽ không quên được cái
hay khi đi trên chuyến phà này. Ai cũng tranh thủ thật nhanh để mua vé qua
phà, nhà chờ lúc nào cũng đông nghẹt người, bạn chỉ có thể nhích xe lên từng
chút thôi. Lúc chờ phà như thế bạn có thể mua nước uống hay một vài tấm vé
số, được cái là cảnh bán dạo ở đây không lộn xộn, bạn sẽ không thấy bực mình
như những nơi khác.
Nếu đi phà vào ban ngày bạn sẽ có một cái thú rất hay là ngắm phong cảnh
sông nước bởi từ bến bạn phải vượt qua con sông Cái Lớn, sông Cái Bé và kinh
Xẻo Rô - một hành trình dài đủ để bạn ngắm nhìn mọi thứ. Dọc theo hai bên bờ
là ngút ngàn dừa xanh thẳm không thấy bến bờ, hàng dừa nước ở dưới sông
tranh màu xanh với những cây dừa trong vườn, cái màu xanh này sẽ làm bạn
cảm thấy rất dịu nhẹ và mát mẻ. Có khi cả đoạn sông không có ngôi nhà nào
chỉ có cây lá rợp mát cả trời. Còn thêm những cồn trồng đủ loại cây, nhiều nhất
là những vườn khóm nhìn rất xinh. Có mùa cả sông màu xanh điểm lên những
bông hoa tím mộng mơ - lục bình - làm những chiếc phà phải ngại ngùng khi
đáp bến. Cái khung cảnh cây cối mênh mông này mang một nét hoang sơ làm
người ta chạnh lòng nhớ tới câu hát “Má ơi đừng gả con xa. Chim kêu vượn hú
biết nhà má đâu. Sương khuya ướt đẫm giàn bầu. Em về miệt thứ bỏ sầu cho
ai....”(Em về miệt thứ - NS Hà Phương)
Nhưng rồi thời gian cùng với sự đổi mới của khoa học công nghệ hiện đại,dần
dần không chỉ riêng phà Xẻo Rô-Tắc Cậu mà hàng loạt những con phà đưa
người sang sông khác cũng lần lượt thế chỗ nhường lại sự phát triển tiện nghi
hơn khi tuyến đường Minh Lương-Thứ Bảy hoàn thành, sẽ có nhiều cây cầu
vượt sông, cư dân đôi bờ cũng sẽ đi lại dễ dàng, thông suốt. Và điều đó cũng
đồng nghĩa với việc, những chuyến phà nơi đây sẽ chấm dứt sứ mệnh lịch sử
78
của mình sau bao “năm dài tháng rộng” đưa đón khách sang sông.Nhưng mình
chắc chắn rằng đây sẽ là những khoảng khắc đang quên trong lòng của bà con
vùng dân miệt thứ.

3.8 Hệ thống giao thông từ Cà Mau qua Rạch Giá


Hệ thống giao thông từ Cà Mau đến Rạch Giá bao gồm nhiều phương tiện đi lại
khác nhau như ô tô, xe máy, tàu thuyền và xe khách. Tuy nhiên, phương tiện
phổ biến nhất để di chuyển giữa hai thành phố này vẫn là ô tô và xe khách.
Có hai tuyến đường chính để đi từ Cà Mau đến Rạch Giá là tuyến đường Quốc
lộ 1A và tuyến đường đường tỉnh 63. Tuyến đường Quốc lộ 1A là tuyến đường
chính, đi qua các tỉnh Bạc Liêu và Sóc Trăng. Tuyến đường này rộng và khá
phẳng, tốc độ xe có thể đạt được khá cao, tuy nhiên trên đoạn đường này cũng
có nhiều đoạn đường hẹp và giao thông khá đông đúc.
Tuyến đường tỉnh 63 là tuyến đường ngắn hơn, đi qua các huyện của tỉnh Cà
Mau. Đây là tuyến đường mới được xây dựng và đang được nâng cấp, nên chất
lượng đường và cảnh quan xung quanh đường còn tương đối tốt. Tuy nhiên,
tuyến đường này có nhiều cua, đèo và địa hình không phẳng, nên tốc độ xe
chạy trên đây không cao bằng tuyến đường Quốc lộ 1A.
Ngoài ra, bạn cũng có thể đi bằng tàu thuyền từ Cà Mau đến Rạch Giá trên
sông Cái Lớn. Tuyến tàu thuyền này khá phổ biến và thuận tiện, tuy nhiên thời
gian di chuyển sẽ lâu hơn so với đi bằng xe đường bộ.
Cuối cùng, bạn có thể sử dụng dịch vụ xe khách để đi từ Cà Mau đến Rạch Giá.
Có nhiều hãng xe khách chạy tuyến này và thời gian di chuyển khoảng 4-5 giờ
tùy thuộc vào tuyến đường bạn chọn.
NGÀY 4: NHÓM 4: RẠCH GIÁ - PHÚ QUỐC

4.1 Tổng quan Kiên Giang


Là tỉnh thuộc vùng đồng bằng sông Cửu Long - phía Tây Nam của Tổ quốc:
phía Bắc giáp Vương quốc Campuchia; phía Nam giáp tỉnh Cà Mau và Bạc
Liêu; phía Đông và Đông Nam giáp tỉnh An Giang, thành phố Cần Thơ và tỉnh
Hậu Giang; phía Tây giáp Vịnh Thái Lan. Diện tích tự nhiên của tỉnh là 6.269
km2, trong đó đảo Phú Quốc rộng 573 km2.
Kiên Giang có đủ các dạng địa hình từ đồng bằng, núi rừng và biển đảo. Vùng
hải đảo Phú Quốc và Kiên Hải có nhiều núi đá, địa hình khá phức tạp.
Tỉnh lỵ của Kiên Giang là thành phố Rạch Giá, một trong hai thành phố biển ở
Đồng bằng sông Cửu Long (Hà Tiên & Rạch Giá). cách Thành phố Hồ Chí
Minh 250 km về phía Tây. Kiên Giang tiếp giáp Campuchia ở phía Bắc với

79
đường biên giới dài 54 km. Vịnh Thái Lan ở phía Tây có đường bờ biển dài
hơn 200 km.
Kiên Giang có 3 thành phố và 12 huyện.
Lịch sử tỉnh Kiên Giang Trước đây là một trấn rất hoang vu của phủ Sài Mạt
thuộc Chân Lạp do Mạc Cửu (người Quảng Đông, Trung Quốc) di cư đến (sau
khi nhà Minh bị tiêu diệt hoàn toàn năm 1645) mở mang, khai phá và phát triển
buôn bán làm cho vùng đất này trở thành thành trù phú hơn vào khoảng cuối
thế kỷ 17, đầu thế kỷ 18. Vua Cao Miên đã phong cho Mạc Cửu chức Oknha
(Ốc nha) để cai quản vùng đất này. Tuy nhiên, do quân Xiêm La thường xuyên
quấy rối mà Cao Miên không đủ sức mạnh quân sự để bảo vệ nên năm 1708
Mạc Cửu đã phục thần Nguyễn Phúc Chu (chúa Minh) để được bảo hộ và vẫn
được giữ nguyên các chức vụ. Từ đó vùng đất này thuộc về Việt Nam và có tên
gọi là Hà Tiên. Sau này, con ông là Mạc Thiên Tích đã mở rộng thêm vùng đất
này. Năm 1774, Chúa Nguyễn Phúc Khoát chia Đàng trong thành 12 dinh,
nhưng vẫn để lại trấn Hà Tiên, phong Mạc Thiên Tích làm Đô đốc cai trị.Đến
đời vua Minh Mạng, năm 1832, Hà Tiên là một trong 6 tỉnh Nam Kỳ. Năm
1876, Pháp chia Nam Kỳ thành 4 khu vực hành chính lớn, mỗi khu vực hành
chính lại chia nhỏ thành các tiểu khu hay hạt tham biện (hành chính huyện) thì
tỉnh Hà Tiên cũ bị chia thành 2 hạt tham biện là Hà Tiên và Rạch Giá. Từ ngày
1 tháng 1 năm 1900 hai hạt tham biện Hà Tiên và Rạch Giá trở thành hai tỉnh
Hà Tiên và Rạch Giá. Từ thời Việt Nam Cộng Hòa, Hà Tiên và Rạch Giá hợp
nhất thành tỉnh Kiên Giang.
4.2 Đình Nguyễn Trung Trực
Là một điểm đến văn hóa tọa lạc tại số 14 trên đường Nguyễn Công Trứ thuộc
phường Vĩnh Thanh, Thành phố Rạch Giá. Tương tự Lăng Mạc Cửu Hà Tiên,
đây là một trong những địa điểm mang giá trị lịch sử vô cùng lớn đối với người
dân Kiên Giang. Hiện tại, trên địa bàn tỉnh Kiên Giang có đến chín ngôi đền
thờ phụng ông Nguyễn Trung Trực. Trong đó, ngôi đền tại phía Tây trung tâm
Rạch Giá này là có quy mô lớn và lịch sử lâu đời nhất.
Nguyễn Trung Trực là vị anh hùng của dân tộc là tấm gương của nhiều thế hệ
yêu nước về lòng quả cảm liều mình lẽ phải .Hiểu rõ được cuộc đời của vị anh
hùng này ta càng thêm kính trọng và nể phục ông hơn: Nguyễn Trung Trực còn
có tên là Chơn còn gọi là Năm Lịch ,sinh năm 1839 trong một gia đình làm
nghề đánh cá phủ Tân An tỉnh Gia Định nay thuộc ấp 1 xã Bình Đức huyện
Bến Lức Tỉnh Long An .Cùng với Trương Công Định ,Nguyễn Trung trực tham
gia trận đánh bảo vệ đồn Chí Hoà .Ong Được phân công chỉ huy một nhóm
nghĩa quân hoạt động ở Tây An .Ngày 10/12/1861 nghĩa quân dưới quyền chỉ
huy của Nguyễn Trung Trực đã đốt cháy chiến hạm Esperance của thực dân
Pháp trên sông Vàm Cỏ Đông .Sau đó ông kéo quân về hoạt động ở vùng Rạch
Giá–Phú Quốc .Tại đây ông lãnh đạo nghĩa quân tấn công Rạch Giá .Giặc Pháp
truy kích ,ông rút quân về Phú Quốc.Ong bị giặc bắt tại đây đưa về giam ở Sài
80
Gòn rồi bị xử tử tại Rạch Giá .Dân chúng thờ ông ở nhiều nơi .Đình làng Vĩnh
Thanh Vân ở thị xã Rạch Giá là một trong những di tích tiêu biểu .
Đình thờ Nguyễn Trung Trực vốn là Đình Thờ Cá Ong Voi .Ngày 27/9/1868
khi Nguyễn Trung Trực bị giặc xử chém ,dân làng Vĩnh Thanh Vân thờ Nguyễn
Trung Trực Trong đình và để che mắt địch ,biển đình vẫn ghi là “Đình Nam
Hải Đại Tướng Quân “.Tục truyền ,năm 1909,trong dịp lễ Kỳ Yên, Quan chức
Tây ta đến dự .
Ngoài địa điểm trên Nguyễn Trung Trực được thờ ở nhiều nơi khác :Tân Điền ,
Vĩnh Hoà Hiệp,Vĩnh Hoà ,Phú Quốc .......Việc tổ chức lễ hội Nguyễn Trung
Trực đến cách mạng Tháng Tám mới công khai và duy trì mãi đến nay .Mặt
khác Nguyễn Trung Trực từ lâu là đối tượng thờ tự quan trọng của các tín đồ
Bửu sơn Kỳ Hương.
Ở Phú Quốc có nhiều địa điểm liên quan đến Nguyễn Trung Trực vẫn còn bảo
lưu trong ký ức dân chúng :Hàm Ninh địa điểm đổ bộ ,Cửa Cạn ,Ba Trại ,Bãi
Ong Lang nơi cụ Nguyễn đánh trận cuối cùng ,đặc biệt tại Rạch Tràm là nghĩa
trang các nghĩa quân của Nguyễn Trung Trực và ngôi mộ của bà Quan Lớn
Tướng đuợc coi là vợ của Nguyễn Trung Trưc .
Hàng năm dân chúng tổ chức lễ cúng trọng thể vào ngày 9/3 âm lịch .Nói
chung các nơi thờ tự Nguyễn Trung Trực –vùng căn cứ ,chiến trường xưa của
cụ ở Phú Quốc là một vùng đất thiêng, một địa danh một ngôi mộ và một loạt
những tên người đều gắn bó hữu cơ với cuộc đời và sự nghiệp của người anh
hùng dân chài...Đền thờ Nguyễn trung Trực ở Rạch Giá có thể coi là ngôi đền
lớn nhất trong các ngôi đền thờ Nguyễn Trung Trực .Trong đền được bày trí tôn
nghiêm và đây là điểm hành hương của rất đông người họ cho rằng ông
Nguyễn rất linh thiêng. Trước đền thờ ông có một tượng đài được coi là một
trong những tượng đẹp nhất Việt Nam có dáng vẻ oai phong và dũng mãnh .
Đình Nguyễn Trung Trực được xây theo lối kiến trúc phương Đông với hình
chữ “Tam”. Trong đình bao gồm 3 khu vực là chánh điện, đông lan, tây lang
được trang trí một cách tỉ mỉ, cầu kỳ. Cổng đình được thiết kế theo lối kiến trúc
tam quan (ba cửa), mang màu sắc cổ kính cùng mái ngói hai tầng được trang trí
theo hình “lưỡng long tranh châu”.
Điểm ấn tượng của kiến trúc đình chính là bức tượng ông Nguyễn Trung Trực
được đúc bằng đồng có màu nâu đỏ. Trước đây, tượng này được an trí tại khu
“chợ nhà lồng” Rạch Giá. Sau này, tượng được sơn lại màu nâu đỏ và di dời về
đây.
Chánh điện của đình được thiết kế với mái ngói cong bốn góc cùng nhiều
đường viền trang trí hoa văn rộng và hoạ tiết thiên nhiên, cây cỏ. Phía trước
chánh điện có hai trụ cột đắp nổi hình rồng uốn lượn mang phong thái uy
nghiêm, ấn tượng.

81
Phần cột và kèo của chánh điện đều được làm bằng bê tông. Trong chánh điện
có tất cả mười cột. Mỗi cột trụ đều có chân hình bát giác vô cùng vững chãi.
Trong chánh điện của đình có những bàn thờ phụng các vị như Đức Phó cơ
Nguyễn Hiền Điều, Phó lãnh binh Lâm Quang Ky… và đặc biệt là ông Nguyễn
Trung Trực.
Hiện nay, trước cửa chánh điện còn có lăng mộ của ông Nguyễn Trung Trực.
Trong khuôn viên còn được đặt một hòn non bộ bên gốc đa cổ thụ lúc nào cũng
tỏa bóng mát sum suê. Tất cả mảng xanh ấy như một nét điểm xuyết nhẹ nhàng
cho không gian đình thờ thêm phần dịu mát.
4.3 Du lịch biển đảo: Phú Quốc, Nam Du, Hải Tặc

Đảo hải tặc


Đảo Hải Tặc là một tên gọi khác là quần đảo Hà Tiên, bao gồm 18 hòn đảo (16
hòn đảo lớn, nhỏ và 2 đảo chìm), tổng diện tích tự nhiên hơn 251 ha. Dân cư
sinh sống tập trung đông ở Hòn Tre Lớn – Hòn Đốc. Toàn bộ quần đảo thuộc
xã Tiền Hải, thành phố Hà Tiên, tỉnh Kiên Giang. Quần đảo này cách bờ biển
Hà Tiên khoảng 28km và cách đảo Phú Quốc khoảng 40km.
Đúng như tên gọi, đảo Hải Tặc gắn liền với nhiều câu chuyện và những bí ẩn
liên quan đến cướp biển. Nằm trong khu vực vịnh Hà Tiên – Rạch Giá ra đến
vịnh Thái Lan, một tuyến đường thông thương quan trọng từ Trung Quốc sang
các nước phương Tây, nên vào khoảng cuối thế kỷ 17, đầu thế kỷ 18, khu vực
này là nơi cướp biển đồn trú ẩn nấp, mai phục và tấn công các tàu buôn qua lại.
Đến tận những năm đầu thế kỷ 20, ở vùng biển này nạn cướp biển vẫn hoành
hành.
Tương truyền nổi tiếng nhất là băng cướp biển có tên gọi “Cánh buồm đen”.
Chúng lấy những hòn đảo hoang trong vịnh Xiêm La làm hang ổ ẩn mình. Từ
đây, bọn cướp bất ngờ xuất hiện, tấn công chớp nhoáng khiến các tàu buôn đi
lại trong vùng không kịp trở tay. Tiền, vàng cướp được, chúng mang lên đảo cất
giấu.
Có thể đi du lịch đảo Hải Tặc vào tất cả các mùa trong năm, tuy nhiên thời gian
đẹp nhất là vào mùa khô từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau. Vì khoảng thời gian
này biển khá êm và trong xanh, do vậy những bạn bị say sóng cũng sẽ giảm
được nhiều khó chịu khi di chuyển bằng tàu. Trước chuyến đi, nên theo dõi dự
báo thời tiết để tránh những ngày mưa bão.
Từ TP Hồ Chí Minh bạn có thể đi ô tô cá nhân hay xe khách xuống Hà Tiên, đi
tham quan các điểm ở Hà Tiên rồi từ Hà Tiên đi đảo Hải Tặc luôn.
Từ Hà Tiên, bạn cần đến bến tàu Hà Tiên (Đường Kim Dự, phường Tô Châu,
thị xã Hà Tiên, tỉnh Kiên Giang) mua vé tàu cao tốc, tàu thường để ra đảo Hải
Tặc. Tàu cao tốc mất 30 phút, hoặc tàu thường mất 75 phút. Vào Thứ Sáu, Thứ

82
Bảy & Chủ Nhật, mỗi ngày có 2 chuyến tàu từ Hà Tiên đi ra Quần đảo Hải Tặc
và 2 chuyến tàu từ Đảo về lại Hà Tiên khởi hành lúc 9h và về lúc 14h30. Còn
những ngày thường mỗi ngày chỉ có một chuyến tàu lúc 9h sáng từ Hà Tiên và
14h30 từ Quần đảo Hải Tặc. Vì vậy, các bạn cần chú ý sắp xếp thời gian hợp lí
khi có dự tính ra đảo trong khoảng thời gian này. Lưu ý, vào những ngày biển
động sẽ không có tàu ra đảo. Tốt nhất là nên gọi điện xuống bến tàu Hà Tiên để
hỏi trước thông tin.

Đảo Phú Quốc


Đảo Phú Quốc là một hòn đảo nằm trong huyện xã Phú Quốc, thuộc tỉnh Kiên
Giang, nằm trong vịnh Thái Lan, ngoài ra huyện đảo Phú Quốc còn được
UNNESSCO công nhận là khu dự trữ sinh quyển thế giới.
Cấu tạo của đảo Phú Quốc chủ yếu từ những loại đá trầm tích tụ hàng ngàn
năm mà thành, nơi đây từng là địa điểm mà người Hoa di cư sang trong đó có
Mạc Cửu được chúa Nguyễn cho làm tổng binh cai trị đảo đất xưa vào thế kỷ
18, và chính thức thuộc chủ quyền nước ta vào năm 1855.
Không chỉ vậy, nơi đây còn được nhắc tới với nhiều giai thoại lịch sử, truyền
thuyết như bà Kim Giao_ người hoàng tộc Chân Lạp, có công khai phá đất đai
trồng trọt gắn liền với hình ảnh những con trâu, giếng tiên_gắn liền với giai
thoại Nguyễn Ánh chạy trốn khỏi sự truy đuổi của nghĩa quân Tây Sơn,
Khuyển vương_ sự tích của loài chó Phú Quốc ngày nay rằng chúng có nguồn
gốc từ Ấn Độ dương đến Phú Quốc từ thuyền cướp biển, ông Đạo Đụng_
người dân xưa Phú Quốc được cho là đã đắc tạo thành tiên,…
Về giá trị văn hóa, đảo Phú Quốc lưu giữ nhiều nét đẹp văn hóa tôn giáo như
đạo Cao Đài, Phật giáo,…. qua những công trình chùa chiền, đền miếu hay
những tục lệ, lễ hội địa phương như lễ hội Nguyễn Trung Trực, lễ Dinh Bà Ông
Lăng, lễ Nghing Ông,….
Ngoài ra đảo Phú Quốc còn mang lại nguồn lợi khổng lồ từ những lượt khách
du lịch đến tham quan nơi đây cho địa phương cũng như nhà đầu tư, nổi tiếng
với nhiều loại đặc sản như mắm Phú quốc, còi biên mai, tiêu Phú Quốc, cá khô
Thiều, rượu Sim, nấm Tràm, rượu mỏ quạ, rượu Hải Mã, Hải Sản, Ngọc trai
biển, Cá bớp, Điều Phú Quốc, Cá Trích cùng với đặc sản hồ tiêu Phú Quốc. Nói
chung, đảo Phú Quốc chiếm một vị thế quan trọng đối với Việt Nam về nhiều
mặt; đem những nét đẹp văn hóa và thiên nhiên, đặc sản Việt Nam đến gần hơn
với bạn bè quốc tế.

Đảo Nam Du
Cách đảo Phú Quốc khoảng 70km hướng Đông Nam là đảo Nam Du. Tuy nơi
đây có 21 đảo lớn nhỏ nhưng dân cư chỉ sinh sống ở 7 đảo chính là chủ yếu:
83
hòn Bờ Đập, hòn Ngang, hòn Bỏ Áo, hòn Đụng Lớn, hòn Đụng Nhỏ, hòn Mấu.
hòn Trung. Thời điểm đẹp nhất để đi du lịch đảo Nam Du vẫn là vào tháng 12
đến tháng 5 năm sau.
Đảo Nam Du cách Rạch Giá hơn 80km đường biển, thuộc 2 xã đảo là xã An
Sơn và xã Nam Du, huyện Kiên Hải, tỉnh Kiên Giang. Để ra quần đảo Nam Du,
bạn cần phải di chuyển đến Rạch Giá – Kiên Giang. Phương tiện di chuyển dễ
nhất là xe khách tại bến xe miền Tây. Chúng ta nên đi chuyển 23h để tới Rạch
Giá lúc 6h sáng hôm sau.
Tiếp tục hành trình mua vé tàu cao tốc hoặc tàu thường để đi ra đảo. Hiện nay,
mỗi ngày có 4 chuyến tàu từ TP Rạch Giá đến hòn Củ Tron -đảo lớn nhất trong
quần đảo; cuối tuần thì có 6 chuyến. Tàu cao tốc di chuyển khoảng 2 tiếng, tàu
thường mất 5 tiếng.

Giai thoại
Một trong những giai thoại ở đảo này là Xương cá Ông trên đồi cao bãi Ngự.
Năm 2017, một con cá Ông (cá Voi) bị chết ngoài biển. Theo truyền thuyết,
ngư dân luôn tin tưởng cá Ông là loài cá linh thiêng. Nó luôn giúp đỡ những
ngư dân bị đắm tàu hay kẹt ngoài biển khơi. Nó như một vị thần biển hiền hòa
với những người ngư dân. Vì vậy, họ đã tìm cách đưa xác cá Ông về đảo.
Nhưng bao nhiêu tàu thuyền đều không di chuyển được. Sau đó, người ta khấn
vái, mong cá Ông sẽ về an nghỉ ở đảo phù hộ. Thì lạ thay, xác cá Ông bỗng nhẹ
nhàng hơn và người ta dễ dàng đem xác về đảo Nam Du. Họ đem xác cá Ông
lên đồi cao ở Bãi Ngự. Ngư dân cải táng và lập miếu thờ cá Ông. Hiện nay, bộ
xương của cá Ông vẫn còn ở trên miếu thờ. Các bạn có thể lên cúng viếng cá
Ông ở trên Bãi Ngự.

Lịch sử Nam Du
Nam du có từ lâu đời nhưng đến năm 2005 mới được chính thức trở thành một
đơn vị hành chính của Việt Nam. Tên gọi của nó có nhiều giả thuyết, nhưng
người ta nghiêng về cái tên bắt nguồn từ thời vua Gia Long. Nam Du là từ đọc
chạy của nam dự, nghĩa là đảo ở phía nam.
Đảo Nam Du bắt đầu làm du lịch từ năm 2014, đến năm 2015 thì bùng nổ. Đến
nay, khi nhắc các tuyến đảo miền Tây thì đây là lựa chọn hàng đầu các bạn trẻ
du lịch. Tốc độ tăng trưởng du lịch của nó cũng vô cùng mạnh mẽ.
Năm 2014, chỉ với vài ngàn lượt khách du lịch nhưng tăng trưởng đến 25.000 –
26.000 lượt khách vào năm 2015. Đến năm 2017 đã có đến 119.000 lượt khách.
Từ một hòn đảo hoang vu, Nam Du đã trở thành điểm du lịch thu hút với lượt
khách mỗi năm gấp vài chục lần dân số của đảo.

84
4.Thành phố Rạch Giá
Nằm ở trung tâm tỉnh Kiên Giang, có vị trí địa lý: Phía đông và phía nam giáp
huyện Châu Thành, Phía tây giáp vịnh Thái Lan, phía bắc giáp huyện Hòn Đất
và huyện Tân Hiệp. Thành phố có diện tích 105,86 km². Địa hình của thành
phố bằng phẳng, có độ cao từ 1m đến 2m so với mặt biển theo hướng thấp dần
từ Đông sang Tây và từ Bắc xuống Nam. Địa hình của thành phố bằng phẳng,
có độ cao từ 1m đến 2m so với mặt biển theo hướng thấp dần từ Đông sang Tây
và từ Bắc xuống Nam.
Thành phố Rạch Giá có trung tâm đô thị nằm trải dài bên bờ Đông vịnh Thái
Lan với 20 km đường bờ biển, chiếm 1/10 chiều dài bờ biển của tỉnh Kiên
Giang. Được bao quanh bởi sông Kiên ở phía Bắc và Đông Bắc, sông Cái Lớn
ở phía Nam. Rạch Giá cách Thành phố Hồ Chí Minh 245 km về hướng Tây
Nam, cách Cần Thơ 116 km về hướng Tây và cửa khẩu quốc tế Hà Tiên 95 km
về hướng Đông Nam.
Trong thành phố không có sông lớn, chỉ có các kênh đào như Kênh Rạch Giá -
Long Xuyên, Kênh Cái Sắn, Kênh Ông Hiển, Kênh Rạch Giá - Hà Tiên. Ngoài
các kênh nói trên, còn có nhiều rạch tự nhiên và kênh nhỏ như rạch Giồng, rạch
Vàm Trư, rạch Tà Mưa, rạch Tà Keo, rạch Đường Trâu, rạch Tắc Ráng, kênh
Đòn Dông, kênh Cống Đôi,... Các kênh rạch lớn nhỏ trên địa bàn thành phố chi
phối lẫn nhau về mực nước và lưu lượng. Nó vừa chịu tác động thủy văn của
sông Hậu, vừa chịu ảnh hưởng thủy triều của vịnh Rạch Giá.
Hiện tại tại Rạch Giá có 2 bến xe lớn: bến xe Rạch Sỏi và bến xe Rạch Giá, là
những bến xe lớn dùng để chuyên chở hành khách đi đến các huyện thị khác
trong tỉnh và các tỉnh thành khác.

4.4 Du lịch Hòn Chông - Kiên Lương


Khu du lịch Hòn Chông là một quần thể các di tích, danh lam thắng cảnh mang
vẻ đẹp non xanh nước biếc, sơn thủy hữu tình. Hòn Chông trước kia là đảo nằm
trong vịnh biển Cây Dương. Do sự bồi đắp của phù sa, ngày nay Hòn Chông đã
trở thành một bán đảo nên còn gọi là núi Hòn Chông. Hòn Chông có tên chữ là
Chung Sơn. Do địa hình đá vôi lởm chởm, có nhiều mỏm núi nhọn và dựng
đứng như những cây chông cắm ngược nên gọi là Hòn Chông. Đỉnh núi cao
nhất của Hòn Chông là 161 mét. Xưa kia đường vào Hòn Chông đất liền là
rừng rậm hiểm trở, đường biển phải qua hai quần đảo Bà Lụa và Bình Trị với
trên 70 đảo lớn nhỏ. Nơi đây có rất nhiều điểm tham quan hấp dẫn nhưng có ba
điểm tham quan chính là Chùa Hang, Hòn Phụ Tử và Bãi Dương…

85
Danh lam cổ tự chùa Hang
Chùa Hang là ngôi “Phật động” nổi tiếng, nằm trong ruột núi đá thâm u, mờ ảo.
Chùa có tên chữ là Hải Sơn Tự. Truyền thuyết kể rằng: Công chúa Ngọc Tuyền
là em gái chúa Nguyễn Ánh, đã mất tại đây trong khi đang trốn nghĩa quân Tây
Sơn. Sau này để tưởng nhớ người em gái của mình, Nguyễn Ánh cho xây chùa
trong hang núi để thờ phụng nên gọi là Chùa Hang. Địa thế núi Hải Sơn nằm
sát bờ, sóng biển đập vào chân núi quanh năm. Núi cao chót vót, vách dựng
đứng, sừng sững như một hải vọng đài.
Trước sân chùa thờ tượng Phật Di Lặc bằng đá Non Nước (Đà Nẵng) nặng tới
22 tấn. Ngẩng nhìn lên không gian phía trên là vách núi có nhiều cây cổ thụ
đứng cheo leo, buông ra giữa khoảng không những chùm rễ dài lơ lửng. Chánh
điện nằm gọn trong lòng núi với một động đá vôi hai cửa chạy thẳng theo trục
Đông Bắc –Tây Nam chiều dài hơn 50 mét, cửa động sau nhìn thông ra biển.
Động có nhiều thạch nhũ muôn hình, muôn vẻ, khi ta gõ vào các thạch nhũ thì
âm thanh ngân lên như tiếng chuông. Vì vậy người ta gọi là đá chuông. Trong
động là Hang Kim Cương có đường lên trời, còn Hang Phật Ngủ thì nửa tối
nửa sáng với tảng đá hình Phật nằm. Động sâu thăm thẳm, những tượng Phật
lung linh ẩn hiện tạo nên cảm giác tôn nghiêm huyền bí. Hàng năm Chùa Hang
tổ chức lễ hội long trọng từ ngày mùng 8 kéo dài đến ngày 15 tháng 4 âm lịch.

Hòn Phụ Tử
Từ cửa Chùa Hang du khách đứng trên những tảng đá hoặc ra bãi biển ngắm
nhìn Hòn Phụ Tử cách đó chừng 500 mét – từ lâu đã trở thành biểu tượng cảnh
đẹp ở Kiên Giang. Từ Chùa Hang có thể ra thăm Hòn Phụ Tử bằng tàu. Hòn
Phụ Tử là hai trụ đá cao nghiêng nghiêng cùng một chiều tượng trưng cho hình
hai cha con quấn quýt bên nhau trông ra biển cả. Hòn lớn cao chừng 33,6 mét
được hình dung là cha và khối đá nhỏ hơn chừng 32,9 mét là con. Hai khối đá
nối với nhau bằng một bệ đá cao hơn mặt nước biển khoảng 5 mét. Hai bên
Hòn Phụ Tử là hai đảo có hình dáng giống như một con thỏ quỳ hai chân sau để
giỡn với sóng biển và một con rùa. Hòn Phụ Tử đẹp và hấp dẫn hơn bởi vì nó
còn gắn liền với nhiều truyền thuyết mang tính nhân văn, có truyền thuyết rất
đẹp và xúc động về tình cha con... Sự kiện Hòn Phụ bị đổ ngày 9.8.2006 đã làm
biến đổi một trong những thắng cảnh Quốc gia nổi tiếng ở phương Nam, làm
cho chúng ta không khỏi nuối tiếc.
4.5 Tổng quan Phú Quốc
Thiên nhiên đã dành cho Phú Quốc vị trí địa lý, cảnh quan và thiên nhiên vô
cùng đặc sắc.
Đảo Phú Quốc nằm trong vịnh Thái Lan thuộc tỉnh Kiên Giang. Phú Quốc cách
Thành phố Rạch Giá khoảng 120km, Tp Hà Tiên khoảng 46 km và cách đường
lãnh hải Campuchia – Việt Nam khoảng 4,5km. Với vị trí khá hấp dẫn của
86
mình thì khoảng cách Phú Quốc – TP. Hồ Chí Minh tương đương Phú Quốc –
Bangkok là khoảng 2 tiếng hay Phú Quốc – Singapore – Malaysia còn gần hơn
đường bay Phú Quốc – HCM.
Đơn vị hành chính của Thành Phố đảo gồm 2 Phường là An Thới, Dương Đông
và 7 Xã là Bãi Thơm, Cửa Cạn, Cửa Dương, Dương Tơ, Gành Đầu, Hàm Ninh,
Thổ Châu. Và tại Phú Quốc phường Dương Đông chính là thủ phủ của Phú
Quốc được coi là nơi có nhiều cảnh đẹp nổi tiếng như: Dinh Cậu, Chùa Sùng
Hưng, bãi biển Dương Đông và con sông Dương Đông thơ mộng… và Dương
Đông là trung tâm hành chánh, kinh tế, văn hóa là đầu mối giao thông có sân
bay quốc tế Phú Quốc, cửa sông phục vụ cho việc giao lưu giữa đảo với khắp
nơi. Do vị trí đặc điểm của Đảo Phú Quốc nằm ở vĩ độ thấp lại lọt sâu vào vùng
vịnh Thái Lan, xung quanh biển bao bọc nên thời tiết mát mẻ mang tính nhiệt
đới gió mùa. Khí hậu chia hai mùa rõ rệt, mùa khô bắt đầu từ tháng 11 âm lịch
đến tháng 4 âm lịch năm sau và mùa mưa bắt đầu từ tháng 5 âm lịch đến tháng
10 âm lịch năm sau.

Đảo Phú Quốc có diện tích lớn nhất trong các hòn đảo thuộc quần đảo Phú
Quốc cũng như là các đảo ở Việt Nam Với diện tích khoảng 567 km2, dài
khoảng 49km và 150km đường bờ biển cát bao quanh đảo và diện tích của Phú
Quốc tương đương với diện tích đảo Quốc Singapore và là tp đảo duy nhất ở
nước ta.

Địa hình Phú Quốc cao ở phía Bắc và thấp dần ở phía Nam, nơi tập trung nhiều
núi nhất ở Bắc Đảo, rãi rác vài ngọn ở phía Nam. Hầu hết các núi này bên
Đông dốc đứng và thoai thỏai bên Tây.Núi cao nhất trong 99 ngọn núi của Phú
Quốc là núi chùa cao tới 603m. Bên cạnh đó cảnh quan thiên nhiên Phú Quốc
đa dạng. Khi 2/3 diện tích đảo là núi rừng với phía bắc đảo là vườn quốc gia
Phú Quốc và được UNESCO công nhận là khu dự trữ sinh quyển thế giới vào
năm 2006. Các sông rạch quan trọng như sông Dương Đông (15km), Cửa Cạn
(28km), rạch Cửa Lấp, rạchĐầm, rạch Hàm, rạch Tràm, rạch Vẹm ... phần lớn
đều bắt nguồn từ dãy núi Hàm Ninh và đỗ ra bờ Tây, chỉ riêng rạch Hàm và
rạch Đầm đổ về phía Đông Đảo.

Trên đảo hiện nay có 4 tôn giáo chính là Phật, Công Giáo, Tin Lành và Cao
Đài.
Như phần lớn người dân việt nam thì tại Phú Quốc số người dân theo phật giáo
là cao nhất và nơi đây cũng có các ngôi chùa hàng trăm năm tuổi như Hộ Quốc,
Sùng Hưng, SƯ Muôn… nhưng khu chùa tập trung chủ yếu ở phường Dương
Đông.

87
Ngoài ra tại phú quốc còn là nơi phát tích ra đạo Cao Đài. Ngày nay trên đảo có
hai Thánh thất Cao Đài ở thị trấn Dương Đông. Một là Thánh thất Dương Đông
thuộc Hội Thánh Cao Đài Tòa Thánh Tây Ninh, hai là Thánh thất Cao Đài Hội
Thánh thuộc phái Cao Đài Chiếu Minh Tam Thanh Vô Vi.
Hiện nay tại thánh thất Cao Đài Dương Đông, Phú Quốc có một phiến đá lớn,
có khắc hai chữ “huyện Chiêu”, do chính tôn ông Ngô Minh Chiêu khắc chạm.
Phiến đá được xem như thánh tích khai đạo.

Song song đó Phú Quốc còn là một nơi có nhiều điểm vui chơi giải trí bật nhất
ở ĐBSCL như Vinpearl Safari có hơn 3.000 cá thể động vật hoang dã quý hiếm
đến từ Nam Phi, châu Âu, Úc, Mỹ… Đây cũng là vườn thú bán hoang dã đầu
tiên và duy nhất tại Việt Nam.
hơn 3.000 cá thể động vật hoang dã quý hiếm đến từ Nam Phi, châu Âu, Úc,
Mỹ… Đây cũng là vườn thú bán hoang dã đầu tiên và duy nhất tại Việt Nam.
Vinwonder Phú Quốc được mệnh danh là khu vui chơi chủ đề lớn nhất Việt
Nam. Khu vui chời này có diện tích lên đến 50ha, nằm trong tổ hợp của
Vinpearl Phú Quốc. Tổng thể được chia làm 6 khu với 12 chủ đề. Các chủ đề
này đều lấy cảm hứng từ các nền văn minh, các câu chuyện cổ tích trên thế
giới.
Phú Quốc United center một siêu quần thể du lịch không ngủ cho bạn thỏa
thích khám phá Phú Quốc cả ngày lẫn đêm. Địa điểm này sở hữu có mình
nhiều con số ấn tương như: Diện tích lên đến 1000ha, view nhìn ra biển, phong
cảnh thiên nhiên vừa mới mẻ vừa hữu tình. Hơn 12.000 khách sạn, villa cao
cấp dành cho mọi đối tượng du lịch. Có tới 2000 trò chơi cho bất kì độ tuổi.
Hơn 1000 các cửa hàng, nhà hàng, quán ăn phục vụ cho lượng khách lớn.
Cung điện Hải Vương còn được biết đến với tên gọi Thủy cung Kim Quy hay
Thủy cung Vinpearl Phú Quốc - là một công trình kiến trúc, địa điểm vui chơi
mới của du lịch Phú Quốc nằm trong công viên chủ đề VinWonders Phú Quốc.
Đây là công trình thủy cung hình rùa lớn nhất Việt Nam và lọt top 5 thủy cung
lớn nhất thế giới được thiết kế bởi Legacy GGE (Mỹ), ATT (Úc) có tổng diện
tích lên đến 15.000m2 chia thành 3 tầng khang trang với 5 phân khu chính để
tham quan.
4.6 Giới thiệu các điểm tham quan tạo Phú Quốc
8. NHÀ TÙ PHÚ QUỐC
Trại giam Tù binh Chiến tranh Phú Quốc, hay Trại giam Tù binh Cộng sản Phú
Quốc là một trại giam nằm ở cực nam đảo Phú Quốc, tại xã An Thới. Trong
chiến tranh Đông Dương, trại giam này có tên là Nhà lao Cây Dừa. Đây là trại
giam tù binh trung tâm toàn Việt Nam Cộng hòa, từng giam giữ hơn 32.000 tù
binh (40.000 tù nhân nếu tính cả tù chính trị nhiều thời kỳ). Trong Chiến tranh
88
Việt Nam, tù binh chiến tranh Trại giam tù binh Phú Quốc đã phải chịu những
hình phạt, tra tấn như đóng đinh vào tay, chân, đầu; đốt dây kẽm cháy đỏ đâm
vào da thịt, đục răng, trùm bao bố chế nước sôi hoặc đổ lửa than, ném vào chảo
nước sôi, thiêu sống, chôn sống... Trong thời gian tồn tại không đầy 6 năm (từ
tháng 6/1967 đến 3/1973) trại giam tù binh Phú Quốc, có hơn 4.000 người chết,
hàng chục ngàn người bị thương tật tàn phế.
Trại giam Tù binh Chiến tranh Phú Quốc có tất cả là 12 khu (năm 1972) được
đánh số từ khu 1 đến khu 12. Riêng khu 13, 14 được xây dựng thêm vào cuối
năm 1972. Mỗi khu trại giam có khả năng chứa khoảng 3000 tù nhân. Năm
1972, có khoảng 12x 3000 = 36 000 tù nhân. Mỗi khu trại giam lại được chia
làm nhiều phân khu. Thường thì có 4 phân khu, trong 1 khu. Một phân khu
chứa được 950 tù binh. Riêng phân khu B2 dành riêng để giam giữ các sĩ quan.
Tù binh có cấp bậc lớn nhất là Thượng tá. Ngoài ra, Phú Quốc cũng có một trại
giam tù hình sự, giam giữ những tù nhân thường phạm bị kết án 10 năm trở lên,
ở thị trấn Dương Đông, mặt tây của đảo.
* TRONG CHIẾN TRANH ĐÔNG DƯƠNG
Cuối năm 1949 đầu năm 1950, quân của Trung Hoa Quốc dân đảng thua trận
trước Quân giải phóng Trung Quốc, rút chạy dạt sang Việt Nam. Lực lượng này
có trên 3 vạn người, được Pháp đưa ra đóng tại phía nam đảo Phú Quốc một
thời gian trước khi quay về Đài Loan theo Tưởng Giới Thạch.
Tận dụng nhà cửa có sẵn của trại lính Quốc dân đảng, quân Pháp lập một trại
giam tù binh trên một diện tích gần 40 hécta, gọi là “Căng Cây Dừa” (Trại Cây
Dừa). Trại gồm 4 khu nhà giam A, B, C, D. Các tù binh cộng sản bị Pháp bắt từ
các chiến trường Trung, Nam, Bắc Việt Nam bị tập trung đưa ra trại giam này ở
Phú Quốc. Số tù binh này gồm khoảng 14.000 người, đa số từ nhà tù Đoạn Xá
(Hải Phòng). Cũng như tại các nhà tù khác trong Chiến tranh Đông Dương, tù
nhân cộng sản tại Trại Cây Dừa sinh hoạt đấu tranh chống khủng bố, đàn áp, và
tổ chức vượt ngục. Sau hơn 1 năm ở trại, có 99 tù nhân bị chết, 200 người vượt
ngục.
Tháng 7 năm 1954, sau Hiệp định Genève, Pháp trao trả cho phía Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa hầu hết tù binh ở trại này.
* TRONG CHIẾN TRANH VIỆT NAM
Cuối năm 1955, chính quyền Ngô Đình Diệm xây dựng một trại giam ở địa
điểm Căng Cây Dừa cũ, với diện tích rộng 4 hecta, đặt tên là Trại huấn chính
Cây Dừa, còn gọi là Nhà lao Cây Dừa. Trại tù có nhà giam tù nam, nhà giam tù
nữ, nhà giam phụ lão. Ngày 5 tháng 1 năm 1956, 598 người tù từ trại Trung
tâm huấn chính Biên Hòa được đưa đến đề lao Gia Định, rồi đưa xuống tàu vận
tải Hắc Giang của hải quân chở từ Sài Gòn về đến Phú Quốc. Về sau còn có
thêm một số tù chính trị thuộc diện "Việt Cộng" hoặc "thân Cộng" cũng được
đưa đến Trại huấn chính Cây Dừa.
89
Trong 7 tháng, từ tháng 2 đến tháng 9 năm 1956, có khoảng 100 tù nhân vượt
ngục, trong đó có một số người bị bắn chết khi vượt rào. Các ông Phạm Văn
Khỏe (em ruột của Phạm Hùng), và Mai Thanh (Tỉnh ủy viên, Bí thư Thị ủy
Rạch Giá) cũng vượt ngục trong thời gian này. Thấy tình hình bất ổn, năm
1957, chính quyền Sài Gòn đưa số tù chính trị ở “Trại huấn chính Cây Dừa” về
đất liền, và đày một số ra nhà tù Côn Đảo.
Khi chiến tranh Việt Nam leo thang, số tù binh và tù chính trị tăng cao, chính
quyền Việt Nam Cộng hòa xây dựng thêm nhiều trại giam tù binh ở Biên Hòa,
Pleiku, Đà Nẵng, Cần Thơ, Quy Nhơn... Tại Phú Quốc, năm 1966, một trại
giam rộng hơn 400 ha được xây dựng ở thung lũng An Thới, cách “Căng Cây
Dừa” cũ 2km. Trại giam gồm 12 khu, mỗi khu có 4 phân khu A, B, C, D, với
trên 400 nhà giam, được gọi là Trại giam tù binh cộng sản Việt Nam / Phú
Quốc, thường được gọi là Trại giam tù binh Phú Quốc. Mỗi phân khu, ngoài 9
phòng để tù binh ở, có 2 phòng để thẩm vấn, phạt vạ hoặc biệt giam tù binh ...
Tất cả 11 phòng đều có cấu trúc vì kèo sắt, nóc tôn, vách tôn, mỗi phòng bề
ngang 5 mét, dài 20 mét, hai đầu chừa hai lối ra vào, bề ngang khoảng 8 tấc và
mỗi bên vách tôn có 4 cửa sổ, dưới vách tôn có khoảng trống chừng 3 tấc, có
rào dây kẽm gai. Để canh gác khu trại giam, chung quanh mỗi khu giam có một
pháo đài canh gác có đặt súng đại liên; tại cổng chính của khu giam có 2 vọng
gác; một vọng tổng kiểm soát đốc canh, 2 giờ thay phiên gác một lần, liên tục
24/24 giờ; hai xe tuần tra liên tục quanh khu giam; ban đêm còn có các toán
vào vòng rào giới hạn để kiểm soát lưu động tại các phân khu và 10 vọng gác
di động. Đứng đầu ban chỉ huy trại giam là một trung tá hoặc đại úy (có lúc là
một chuẩn tướng) Quân lực Việt Nam Cộng hòa, đằng sau là một cố vấn Mỹ.
Lực lượng canh giữ trực tiếp trại giam gồm có 4 tiểu đoàn quân cảnh, một liên
đội địa phương quân, một đại đội công binh, một đơn vị hải thuyền và một đội
quân khuyển.
Nhà tù Phú Quốc trở thành trại giam tù binh trung tâm toàn Việt Nam Cộng
hòa, giam giữ hơn 32.000 tù binh (40.000 tù nhân nếu tính cả tù chính trị nhiều
thời kỳ). Vào tháng 5-1969 tù binh đã tổ chức vượt ngục thành công tại khu
B2.
* NHỤC HÌNH
Trong Chiến tranh Việt Nam, tù binh chiến tranh Trại giam tù binh Phú Quốc
đã phải chịu những hình phạt, tra tấn như đóng đinh vào tay, chân, đầu; đốt dây
kẽm cháy đỏ đâm vào da thịt, đục răng, trùm bao bố chế nước sôi hoặc đổ lửa
than, ném vào chảo nước sôi, thiêu sống, chôn sống... Trong thời gian tồn tại
không đầy 6 năm (từ tháng 6/1967 đến 3/1973) trại giam tù binh Phú Quốc, có
hơn 4.000 người chết, hàng chục ngàn người bị thương tật tàn phế.
Một số nhục hình tại nhà tù Phú Quốc theo lời kể của các cựu tù nhân:

90
- "ĐÓNG KIM": Dùng những cây kim chích đã cũ, đóng từ từ vào 10 đầu ngón
tay.
- "CHUỒNG CỌP KẼM GAI": Loại chuồng cọp làm toàn bằng dây kẽm gai,
được đan chằng chịt xung quanh và trên nóc. Chuồng cọp này đặt ở ngoài trời
trong phân khu. Mỗi phân khu có đến hai, ba chuồng cọp - loại nhốt 1 người và
loại nhốt 3-5 người. Kích thước chuồng cọp rất đa dạng, có loại cho tù nhân
nằm trên đất cát, có loại buộc tù nhân phải nằm trên dây kẽm gai, có loại chỉ
nằm hoặc đứng; có loại chỉ ngồi lom khom; loại phải đứng lom khom, không
đứng thẳng được mà ngồi xuống thì sẽ phải ngồi trên dây kẽm gai. Tù nhân
phải cởi áo, quần dài, chỉ được mặc quần cụt để phơi nắng, phơi sương, dầm
mưa suốt ngày đêm.
- "ĂN CƠM NHẠT": Tù nhân không được ăn muối, sau hai tháng mắt sẽ bị
mờ, sau 5-6 tháng liền có người bị mù hẳn.
- "LỘN VỈ SẮT": Các tấm vỉ sắt loại có lỗ tròn và đầy mấu để mắc vào nhau
và lật ngửa làm "đường băng sân bay" rồi bắt tù binh cởi áo, cởi quần ngoài,
chỉ còn chiếc quần đùi. người tù bị bắt cắm đầu xuống vỉ sắt lộn ra sau, sau vài
lần là lưng người tù tóe máu, đầu bị bứt tóc, tróc da tơi tả.
- "GÕ THÙNG": Lấy thùng phuy úp lên tù nhân đang ngồi xổm, rồi gõ vào
thùng. Tù nhân sẽ bị đau đầu, sẽ bị điếc vì tiếng gõ mạnh và sức ép không khí.
Cũng bằng cách gõ vào thùng phuy đổ đầy nước, bên trong thùng là tù nhân.
Kiểu tra tấn này có thể khiến tù nhân bị hộc máu vì sức ép của nước.
- "ĐỤC RĂNG" VÀ "BẺ RĂNG": kê đục vào sát chân răng của người tù, dùng
búa đóng làm răng gẫy văng ra.
- "ROI CÁ ĐUỐI": Giám thị dùng những chiếc roi cá đuối dài, đem phơi để
đánh tù. Trước khi bị đánh, tù nhân phải cởi áo để bị đánh vào da thịt trần. Roi
cá đuối thường quấn lấy thân nạn nhân, rồi giật ra, làm da thịt bị đứt theo.
Giám thị sau đó có thể lấy muối ớt xát vào da thịt nạn nhân. Đầu năm 1970,
phái đoàn Hồng Thập Tự Quốc tế khi đến thị sát nhà tù Phú Quốc đã bắt gặp
một chiếc roi cá đuối dính máu khô.
- "ĐÓNG ĐINH": Những chiếc đinh 3 phân được dùng để đóng vào các ngón
tay của tù binh trong quá trình tra tấn. Mỗi lần bị đóng đinh, xương ngón tay
của người tù bị vỡ nát. Ngoài ra còn có loại đinh 7, 8 phân hoặc cả tấc để đóng
vào thân người tù ở các vùng: cổ chân, khớp vai, mắt cá, ống quyển, đầu. Có
người bị đóng đinh đến chết, sau này khi bốc mộ vẫn còn đinh găm trong hài
cốt.
- Lấy bao bố trùm lên người tù rồi ném vào chảo nước sôi. Ba người tù ở phân
khu C6 đã bị luộc chết.
- Dùng bóng đèn công suất lớn để sát mặt người tù trong thời gian dài cho nổ
con ngươi.
91
- Dùng lửa đốt miệng, bộ phận sinh dục.
Tổ chức Chữ thập Đỏ đã đến nhà tù Phú Quốc vào những năm 1969, 1972. Các
nhà quan sát của tổ chức này đã thấy sự tàn bạo có hệ thống và kéo dài tại nhà
tù. Họ tìm được các vật chứng của nhục hình ở các tù binh, trong đó có các vết
sẹo do tra tấn bằng điện, thể hiện của sự thiếu ăn, suy dinh dưỡng. Tháng 8
năm 1971, một điều tra viên của Sứ quán Mỹ tại Việt Nam Cộng hòa báo cáo
về sự đánh đập tù nhân tại Phú Quốc vẫn tiếp diễn. Trong Quân lực Việt Nam
Cộng hòa, lực lượng canh gác tại nhà tù được đánh giá chỉ bằng số tù binh trốn
trại, không có cố gắng nào trong việc kỷ luật các giám thị xử tệ với tù nhân.
Sau các kết quả điều tra của MACV và Sứ quán Mỹ, Tướng Cao Văn Viên,
tổng chỉ huy QLVNCH, vẫn khẳng định rằng các đoàn kiểm tra của tổ chức
Chữ thập Đỏ quốc tế đã báo cáo sai lệch về tình trạng ở nhà tù.
Năm 1995, Khu di tích lịch sử Nhà tù Phú Quốc được Bộ Văn hóa - Thông tin
công nhận di tích cấp quốc gia. Di tích lịch sử Nhà tù Phú Quốc gồm có tượng
đài hình nắm tay, là "biểu tượng của sự đàn áp khốc liệt và tinh thần hiên ngang
vùng lên phá xiềng của tù binh Phú Quốc” , nghĩa trang liệt sĩ, và khu Trại
giam Tù binh Phú Quốc được phục dựng.

CHỢ ĐÊM PHÚ QUỐC


Chợ đêm Phú Quốc nằm tại số 6 đường Bạch Đằng - thị trấn Dương Đông -
Phú Quốc, (sáp nhập giữa chợ đêm Dinh Cậu và chợ đêm Bạch Đằng cũ) là
điểm vui chơi, ăn uống, mua sắm nhộn nhịp, sầm uất bậc nhất tại Phú Quốc khi
về đêm.
Chợ đêm Dinh Cậu được thành lập vào tháng 9/2007, tuy nhiên do chưa có quy
hoạch và chính sách phát triển nên chợ đêm rất mất vệ sinh và mất mỹ quan
thành phố. Đến tháng 11/2016 UBND huyện Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang cho
"khai tử" chợ đêm Dinh Cậu, bố trí sang khu vực mới, sát nhập với chợ đêm
Bạch Đằng thành một chợ chung lấy tên là chợ đêm Phú Quốc. Chợ đêm hoạt
động từ khoảng 6h chiều đến 12h khuya có khi muộn hơn tuỳ vào lượt khách
tham quan thưa hay đông.
Giống như nhiều khu chợ khác, chợ đêm Phú Quốc được thiết kế theo dạng
“một đường thẳng chạy dài” từ đầu cho đến cuối. Hai bên đường là các gian
hàng bày bán đủ các loại hàng hóa được ưa chuộng hiện nay.
Tính tổng cộng toàn khu thì nơi đây có hơn 100 hàng quán được quy hoạch
thành 2 khu riêng biệt là:
Khu 1 – Nằm ở đầu chợ: Nơi đây tập trung các gian hàng chuyên về hải sản,
các loại khô và đặc sản mua về làm quà tặng như nước mắm, rượu sim và hồ
tiêu Phú Quốc,…

92
Khu 2 – Nằm ở phía cuối chợ: Đây là nơi hoạt động của các gian hàng bán quà
lưu niệm, đồ thủ công mỹ nghệ và cả loại ngọc trai đắt đỏ của hòn đảo trứ
danh,…

DINH CẬU
Nằm trên đỉnh ghềnh đá thiên tạo, được bàn tay tài hoa của tạo hoá tạc, đẽo
thành nhiều tuyệt tác tạo hình, vì vậy Dinh Cậu không chỉ hấp dẫn du khách
bằng những câu chuyện lung linh sắc màu huyền hoặc từ truyền thuyết xa xưa,
mà còn hấp dẫn khách phương xa bởi vẻ đẹp kỳ thú từ những thớ đá sống động.
Ra đời vào khoảng thế kỷ XVII, xây dựng 14/7/1937 ngày trùng tu 14/7/1997,
nằm cách thị trấn Dương Đông 200m về phía Tây, Dinh Cậu toạ lạc trên ghềnh
đá quay mặt ra biển quanh năm sóng vỗ, gió táp và nắng tràn, chính vì thế tuy
chỉ là mũi đá nhỏ ở cửa sông Dương Đông, nhưng nơi đây được ví như biểu
tượng của "Đảo ngọc Phú Quốc" bởi sự hoà trộn hài hoà giữa biển xanh - cát
trắng - nắng, gió và đá. Dinh Cậu còn có tên gọi là Miếu thờ Long Vương.
Miếu thờ này được đặt trong một khung cảnh thiên nhiên tuyệt đẹp, kỳ thú
được tạo nên từ ghềnh đá và biển, liên quan với đạo thờ Mẫu. Điều này chứng
tỏ từ khi mở đất người Việt đã đặt chân lên Phú Quốc và đặt nền móng cho văn
hóa Việt bén rễ ở vùng đảo xa này.Tại đây thiên nhiên đã tạo nên những múi đá
kỳ lạ để người dân nơi đây dựng lên Dinh Cậu, hương khói quanh năm. Mũi đá
Dinh Cậu cuốn hút du khách không chỉ bởi vẻ kỳ thú do thiên nhiên ban tặng,
mà còn vì sự huyền bí, linh thiêng qua những truyền thuyết xa xưa.Chuyện kể
rằng người dân Phú Quốc sống bằng nghề chài lưới, nhiều ngư dân ra khơi gặp
sóng dữ đã mãi mãi không về. Đột nhiên một mõm đá dần dần nổi lên nơi cửa
biển, người dân cho rằng đây là điềm tốt nên đến đây thờ cúng và quả nhiên
chuyến đi gặp được sóng êm biển lặng. Tin lành đồn xa, dần dần hình thành
nên tục thờ cúng tại mỏm đá này và đặt tên là DINH CẬU.
Để lên được Dinh thì từ bãi cát trắng xóa leo lên 29 bậc đá là đến miếu thờ. Uy
nghi trên nóc dinh là hình ảnh “lưỡng long tranh châu”. Bên trong chánh điện
thờ Chúa Ngọc nương nương và tượng thờ hai “Cậu” – những cao nhân bảo vệ
ngư dân vùng biển đảo. Đứng trên Miếu Dinh Cậu đưa mắt xa nhìn bao quát
được cả chợ Dương Đông.
Trên đường lên Dinh ta gặp Miếu Thổ Thần nhỏ và một hàng rào bằng bê tông
rất vững chãi bao quanh Dinh. Sân được láng bằng xi măng có đặt bàn thờ Ông
Thiên. Bên hành lang di tích là hàng cột đúc bằng xi măng với những câu liễn
đắp nổi bằng chữ Hán như:
“Tọa đại thạch đầu quy danh hiển
Vạn cổ anh linh thông tứ hải
Chấn phong bình lượng bảo lương dân
93
Phong điếu vũ thuận dân an lạc”
(Dinh Cậu nổi tiếng tọa lạc ở đầu của mõm đá giống con rùa
Từ xưa anh linh của Dinh Cậu đã vang khắp bốn biển
Dinh Cậu như tấm bình phong bảo vệ dân lành
Nhờ ơn cậu mà mưa thuận gió hòa dân cư an lạc).

Cửa chính được làm bằng gỗ trên vòm cửa có ghi ba chữ Thạch Sơn
Điện..Trước mỗi chuyến ra khơi hay vào dịp lễ tết, người dân đảo lại đến thắp
nhang cầu mong cho những chuyến đi biển được bình an. Lễ hội được tổ chức
hằng năm vào ngày 15, 16-10 âm lịch.
Nằm ở cửa Sông Dương Đông, Dinh Cậu được ví như biểu tượng của Phú
Quốc nơi biển, cát, nắng và đá hoà trộn với nhau thành một khung cảnh hữu
tình. Nơi đây không chỉ là một cảnh vật đẹp, có hình thù kỳ thú mà còn là nơi
đất thánh linh thiêng, cổ kính. Những bậc thang lãng mạn đưa bạn lên đỉnh để
cảm nhận được làn gió biển dịu dàng, ngắm nhìn mặt trời lặn qua các tảng đá bị
ăn mòn và thưởng thức cảnh thanh bình của dòng sông Dương Đông.
Tọa lạc trên một ghềnh đá vươn ra biển, Dinh Cậu luôn sừng sững, hiên ngang
trước sóng to gió lớn nhưng lại trở nên huyền diệu, lung linh.
4.7 Đặc sản Phú Quốc
Phú Quốc - Ngọc trai xanh của biển Đông, là hòn đảo nằm ở phía tây nam của
Việt Nam. Không chỉ nổi tiếng với bãi biển tuyệt đẹp, thiên nhiên hoang sơ,
Phú Quốc còn hấp dẫn du khách bởi sự đa dạng và độc đáo trong ẩm thực.Với
vị trí biên giới biển, vùng nước nguyên sơ và khí hậu nhiệt đới, Phú Quốc đã
tạo nên một nguồn tài nguyên ẩm thực vô cùng phong phú và độc đáo. Chuyến
hành trình khám phá ẩm thực Phú Quốc sẽ đưa chúng ta vào một thế giới ẩm
thực đa dạng và phong phú.
Nước mắm Phú Quốc là một sản phẩm thực phẩm đặc biệt, nổi tiếng và được
ưa chuộng không chỉ ở Việt Nam mà còn trên thế giới. Đây không chỉ là một
nguyên liệu trong nấu ăn mà còn là một phần của văn hóa và đời sống hàng
ngày của người dân Phú Quốc. Nước mắm có vị ngon thơm đặc biệt, có độ đạm
cao, khác hẳn với nước mắm những vùng biển khác. Nước mắm Phú Quốc
được sản xuất chủ yếu từ cá cơm ngon, một loại cá nhỏ có nguồn sống phong
phú ở vùng biển quanh đảo. Quy trình sản xuất nước mắm Phú Quốc khá độc
đáo và cần sự tinh tế trong từng bước.
Quy trình sản xuất nước mắm truyền thống Phú Quốc như sau:
Chuẩn bị nguyên liệu: gồm các loại cá cơm (cá cơm than, cá cơm đỏ, cá cơm
phấn chì, cá cơm sọc tiêu,...) được đánh bắt ở vùng biển Kiên Giang và Cà

94
Mau. Muối sử dụng để ướp cá là muối biển, có hàm lượng tạp chất thấp và
được lưu kho tối thiểu 3 tháng để giảm vị chát;
Làm chượp: người dân đánh bắt, làm sạch cá cơm và ướp muối ngay trên tàu ở
ngoài khơi nhằm đảm bảo nguyên liệu được tươi ngon;
Ủ chượp: khi tàu cá cập bến, chượp (là hỗn hợp cá ướp muối) được chuyển vào
các thùng gỗ lớn để ủ theo bí kíp truyền thống. Sau 9 - 15 tháng, các chượp
được ủ sẽ cho ra nước mắm Phú Quốc thành phẩm với màu cánh gián đặc
trưng.
Rượu sim:
Rượu Sim là loại rượu được làm từ trái sim. Sim thường mọc ở ven biển, trong
rừng tự nhiên, ven sông suối, trong các rừng ngập nước, rừng ẩm ướt. Khi quan
sát kỹ, bạn sẽ thấy quả sim có lông và lá mặt dưới màu trắng. Khi trái chín thì
có màu tím đen gần giống như trái chín của Việt Quất.
Cây sim có 2 loại, đó là Hồng sim và Tiểu sim. Rượu sim Phú Quốc thì chủ yếu
làm từ loại Hồng Sim vì có vị ngọt chát, mùi thơm khi chín rộ, trong đó có sắc
tố Antoxyanozit, tanin và vị đường ngọt của Hồng sim thì nhiều hơn Tiểu sim
nên mới có thể làm được rượu. Sim chín rộ vào dịp tháng giêng âm lịch nên có
nhiều mật ngọt nên khi chế biến rượu sim sẽ chất lượng và có hương vị thơm
ngon.
Các công dụng của rượu xiêm như là: kích thích tiêu hóa, giảm nhứt mỏi, cải
thiện tuần hoàn máu, giảm quá trình xơ vữa tĩnh mạch.
Sim sau khi được hái về, qua khâu chọn lọc sẽ được rửa sạch, xay nhuyễn. Tiếp
đó, sim được ủ men với đường cát 1 tháng theo tỷ lệ nhất định. Trải qua quá
trình này, khi uống thử, bạn sẽ cảm nhận được vị ngọt thanh, chan chát khá độc
đáo. Màu sắc của rượu hồng sẫm rất bắt mắt.
Nhum nướng:
Là một trong số những món ăn tiêu biểu của du lịch Phú Quốc, Nhum biển là
sản phẩm mà người dân Phú Quốc vừa thương vừa ghét, ghét là khi lặn xuống
biển rất thường gặp và gai của nó rất nhọn như con nhím. Nếu không cẩn thận
thì rất dễ bị xây xát rất khó chịu. Nhưng đổi lại con nhum là sản vật “ đáng
khoe” của người dân nơi đây.
Đây là cách ăn nhum phổ biến nhất ở Phú Quốc. Nhum nướng cũng có nhiều
kiểu làm miễn sao ăn cho thơm ngon, dậy vị của đồ nướng. Cách làm cơ bản
nhất là cắt đôi con nhum và nướng trên bếp than hồng, nhum nướng nhanh
chóng dậy mùi thơm. Chỉ cần nướng sơ, sau dùng muỗng nạo phần thịt và
chấm với muối tiêu chanh là ta sẽ được thưởng thức được món nhum nướng
ngon lành.
Người ta cũng có thể biến tấu thêm thắt gia vị sao cho thơm ngon như hành lá,

95
tiêu, lạc rang,vv... bên cạnh đó nhum còn có thể chế biến các món khác như là
cháo nhum hoặc tái chanh dành cho những người thích ăn đồ sống.

Gỏi cá trích:
Gỏi cá trích là món ăn truyền thống của người dân Phú Quốc. Cá trích sau khi
được lựa chọn kỹ càng sẽ được rửa sạch, làm sạch và tách phần thịt. Cùng với
các nguyên liệu như rau sống như rau sống, hành tím, tỏi, ớt, gia vị và nước
mắm Phú Quốc. Quá trình chế biến tạo nên hương vị thơm ngon, mùi vị mặn
mòi và ngọt tự nhiên từ cá trích.
Gỏi cá trích không chỉ ngon mắt với màu sắc tươi sáng mà còn có hương vị độc
đáo, cân bằng giữa các thành phần. Món ăn này thường được dùng kèm với
bún và bánh tráng, tạo nên sự hòa quyện và ngon miệng.
Còi biên mai:
Còi biên mai Phú Quốc có thể được chế biến thành nhiều món nướng, xào,
lẩu… Nhưng ngon nhất là món nướng, vì sẽ giữ được độ dai, giòn và có vị
thơm.
Tại các nhà hàng, món nướng này được chế biến từ ba cách ướp khác nhau:
Ướp chao, sa-tế, muối ớt. Sau khi ướp các loại gia vị người ta đem nướng trên
than hoa cùng với măng hoặc cá. Món ăn dậy mùi rất thơm sẽ kích thích vị giác
của bạn.
Ghẹ hàm ninh:
Nếu nói đến ghẹ thì không nơi nào tuyệt vời hơn Ghẹ Hàm Ninh – Phú Quốc.
Hàm Ninh là một làng chài ven biển Phú Quốc thuộc Đông đảo cách trung tâm
Phú Quốc khoảng 20km.
Ở đây, Ghẹ là đặc sản của vùng mà hầu như lúc nào cũng có. Ghẹ Hàm Ninh có
rất nhiều cách chế biến nhưng ngon nhất vẫn là luộc - hấp chấm muối tiêu
chanh để giữ nguyên hương vị ngon ngọt gốc của ghẹ.
Tại Phú Quốc, du khách có cơ hội thử nhiều món ngon độc đáo khác nhau. Bên
cạnh những món ngon đã được trình bày ở các chương trước, còn có nhiều món
ngon khác như gỏi cá hồi, sò điệp xào me, cua nướng mỡ hành, chả cua, món
chả cá hấp dẫn và nhiều loại hải sản khác.
Phú Quốc cũng nổi tiếng với các món tráng miệng ngon và hấp dẫn như kem
chuối, nước mía ép, và nhiều loại trái cây ngọt ngào.

4.8 Du lịch biển đảo Vịnh Thái Lan


Vịnh Thái Lan nằm ở phía Tây Nam của Biển Đông,được bao bọc bởi bờ biển
Việt Nam, Cam-pu-chia, Thái Lan, Ma-lai-xi-a.
96
Vịnh Thái Lan có diện tích khoảng 293.000 km2. Đây là một vịnh nông, nơi
sâu nhất chỉ khoảng 80 m. Vịnh Thái Lan có nhiều nguồn lợi hải sản (trữ lượng
cá của Việt Nam khoảng 51 vạn tấn) và có tiềm năng dầu khí lớn mà hiện nay
các nước liên quan đang tiến hành thăm dò, khai thác.
Giữa bờ biển Việt Nam và Campuchia có trên 150 hòn đảo lớn và nhỏ, được
chia thành bảy cụm và một số đảo lẻ. Ngoài một số đảo lớn như Phú Quốc có
diện tích 573 km2, Phú Dự - 25 km2, Thổ Chu - 10 km2 và một số đảo như
Hòn Dứa, Nam Du trên dưới 5 km2, còn lại các đảo đều nhỏ có diện tích dưới
1 km2.
Vịnh Thái Lan, với vẻ đẹp hoang sơ và cảnh quan thiên nhiên tuyệt đẹp, đã trở
thành một trong những điểm đến du lịch biển đảo hấp dẫn nhất thế giới. Với
hàng loạt các hòn đảo tuyệt đẹp, bãi biển trắng mịn và nước biển trong xanh,
Vịnh Thái Lan đang chờ đón du khách từ khắp nơi để khám phá và trải nghiệm
cảm giác tuyệt vời của cuộc sống biển.
Đảo Phuket - Ngọc của Biển Andaman:
Đảo Phuket, hòn ngọc của biển Andaman của Thái Lan là điểm đến quyến rũ
với bãi biển đa dạng và văn hóa độc đáo. Bãi biển Patong thu hút người thích
vui chơi sôi động, còn bãi biển Kata mang đến sự tĩnh lặng và bãi biển Karon là
nơi tận hưởng không gian riêng tư. Khám phá biển bằng cách lặn biển, lướt
sóng, chèo thuyền kayak hoặc thậm chí thử trải nghiệm lướt ván điều khiển
bằng buồm. Cả những người yêu thích phiêu lưu và những người muốn thư
giãn đều có nhiều hoạt động để tham gia.
Đảo Koh Kong nằm ở phía tây nam của Campuchia, tiếp giáp với biên giới
Thái Lan. Đây là một trong những đảo lớn và đa dạng về thiên nhiên ở
Campuchia, nằm ở cửa ngõ của Vịnh Thái Lan.
Đảo Koh Kong không chỉ có bãi biển tuyệt đẹp với cát trắng mịn và nước biển
trong xanh, mà còn có các khu rừng núi phong phú và thác nước hoang sơ. Đây
là điểm đến lý tưởng cho những người muốn khám phá thiên nhiên hoang dã
của Campuchia và tận hưởng môi trường tự nhiên không gian yên bình.

Quần đảo Hà Tiên, nằm ở vùng biển phía Tây Nam của Việt Nam, là một điểm
đến du lịch hấp dẫn với cảnh quan thiên nhiên tuyệt đẹp, bãi biển tuyệt vời và
cơ hội khám phá văn hóa địa phương. Dưới đây là một cái nhìn tổng quan về
du lịch tại quần đảo Hà Tiên:
1. Cảnh quan đẹp tự nhiên: Quần đảo Hà Tiên được bao quanh bởi biển xanh
biếc, bãi biển trắng mịn và những dãy núi nhỏ, tạo nên cảnh quan hoang sơ và
tươi đẹp. Nếu bạn yêu thích thiên nhiên và biển cả, đảo Hà Tiên là một điểm
đến tuyệt vời để thư giãn và tận hưởng.

97
2. Hoạt động biển phong phú: Tại quần đảo Hà Tiên, bạn có thể tham gia vào
nhiều hoạt động biển thú vị như lặn biển, snorkeling, đi thuyền kayak, lướt ván
và thậm chí là câu cá. Rạn san hô đa dạng và động vật biển phong phú tạo điều
kiện tốt để bạn khám phá cuộc sống dưới biển.
3. Khám phá văn hóa địa phương: Vùng Hà Tiên có văn hóa và phong tục độc
đáo của người dân dân tộc Khmer, tạo nên một môi trường đa dạng về văn hóa.
Bạn có thể thăm các ngôi đền và chùa nơi thể hiện nét văn hóa tôn thờ và tôn
giáo của người dân địa phương.
4. Khám phá đảo lân cận: Ngoài việc khám phá quần đảo chính, bạn cũng có
thể dễ dàng thăm các đảo lân cận như đảo Hòn Chông, đảo Bãi Đá, và đảo Nam
Du. Mỗi đảo đều có nét đẹp và trải nghiệm riêng, từ bãi biển hoang sơ cho đến
thị trấn nhỏ đáng yêu.
Quần đảo Nam Du là một điểm đến du lịch tuyệt vời nằm ở vùng biển phía
Nam của Việt Nam. Với cảnh quan thiên nhiên hoang sơ, bãi biển tuyệt đẹp và
không gian yên bình, quần đảo Nam Du đã thu hút sự quan tâm của nhiều du
khách muốn tận hưởng môi trường biển tự nhiên và tìm kiếm khoảnh khắc thư
giãn.
1. Cảnh quan thiên nhiên tuyệt đẹp: Quần đảo Nam Du được bao quanh bởi
biển xanh biếc và bãi biển trắng mịn. Các đảo nhỏ trong quần đảo cung cấp
một bức tranh thiên nhiên hoang sơ, với những cánh rừng núi xanh mướt và
không gian biển trong lành.
2. Bãi biển tuyệt vời: Những bãi biển ở quần đảo Nam Du là điểm đặc biệt của
chuyến du lịch. Bãi biển Bai Ngu, Bai Men và Bai Cay nổi tiếng với cát trắng
mịn và nước biển trong xanh, tạo điều kiện lý tưởng cho việc tắm biển, nghỉ
ngơi và thư giãn.
3. Hoạt động biển đa dạng: Tại quần đảo Nam Du, bạn có thể tham gia vào
nhiều hoạt động biển thú vị như lặn biển, snorkeling, lướt ván, chèo thuyền
kayak và câu cá. Đây là cơ hội để bạn khám phá cuộc sống dưới biển và trải
nghiệm sự thú vị của thế giới biển cả.
NGÀY 5: NHÓM 5: PHÚ QUỐC - HÀ TIÊN

5.1 Tổng quan Hà Tiên


Vị trí địa lý: Hà Tiên là thành phố nhỏ nằm ở phía tây bắc của tỉnh Kiên Giang
(trước đây nằm trong huyện Hà Tiên thuộc tỉnh Rạch Giá và sau đó thuộc tỉnh
Kiên Giang). Bắc giáp Campuchia với đường biên giới dài 13,7 km, Đông giáp
huyện Giang Thành, Nam giáp huyện Kiên Lương, Tây giáp vịnh Thái Lan với
đường bờ biển dài 26 km.
Hiện nay, Hà Tiên không phải là tỉnh lị của tỉnh Kiên Giang, mà tỉnh lị là thành
phố Rạch Giá. Tuy nhiên, Hà Tiên lại từng là tỉnh lỵ của tỉnh Hà Tiên cũ vào
98
thời Pháp thuộc trước năm 1956. Đặc biệt, Hà Tiên lại là lỵ sở của toàn bộ tỉnh
Hà Tiên vào thời nhà Nguyễn độc lập. Địa bàn tỉnh Hà Tiên khi đó bao gồm
tỉnh Kiên Giang, tỉnh Cà Mau và một phần các tỉnh Bạc Liêu, Hậu Giangngày
nay.
Về hành chính, thành phố Hà Tiên bao gồm 5 phường: Bình San, Đông Hồ, Mỹ
Đức, Pháo Đài, Tô Châu và 2 xã: Thuận Yên, Tiên Hải. Riêng xã đảo Tiên Hải
bao gồm các đảo trong quần đảo Hà Tiên (quần đảo Hải Tặc) như: hòn Đốc,
hòn Long, hòn Đước…
Địa hình: Thành phố Hà Tiên là một dải đất hẹp nằm ven biển, với đầy đủ các
dạng địa hình: vũng, vịnh, đồng bằng, núi, sông, hang động, hải đảo…
Sông Giang Thành bắt nguồn từ Campuchia, chảy vào khu vực Hà Tiên, dài
khoảng 23 km. Sông đổ vào vũng Đông Hồ với chiều rộng cửa sông trên 200
m. Sông Giang Thành nối liền với kênh Vĩnh Tế tạo nên tuyến đường thủy
quan trọng từ thành phố Châu Đốcđến thành phố Hà Tiên. Ngoài ra còn có
sông Tô Châu và kênh Hà Tiên – Rạch Giá.
Các ngọn núi trên địa bàn thành phố hầu hết đều là những thắng cảnh như: núi
Tô Châu, núi Đá Dựng, núi Bình San, núi Thạch Động… Ven biển Hà Tiên có
nhiều bãi biển đẹp như: bãi biển Lộc Trĩ (bãi biển Mũi Nai). Ngoài khơi có
quần đảo Hải Tặc với nhiều đảo đẹp, có tiềm năng du lịch.
Hà Tiên với nhiều cảnh đẹp (Hà Tiên thập vịnh) đã là đề tài xướng họa của Tao
đàn Chiêu Anh Các dưới thời Đô đốc Mạc Thiên Tứ cai quản xứ sở này.
Khí hậu: Hà Tiên nằm trong vùng nhiệt đới gió mùa cận xích đạo, khí hậu ở
đây có những đặc điểm chính như sau: Số giờ nắng trung bình từ 6,5 đến 7,5
giờ/ngày. Năng lượng bức xạ trung bình 150 – 160 kcal/cm² năm. Nhiệt độ
trung bình hàng năm khoảng 27 °C, nhiệt độ trung bình thấp nhất là 23,9 °C,
thường rơi vào khoảng tháng 12 – tháng 1; nhiệt độ cao nhất là 30,20C, thường
rơi vào tháng 4 – 5. Nhiệt độ tuyệt đối thấp nhất có lần đo được là 14,8 °C,
nhiệt độ tuyệt đối cao nhất là 37,6 °C. Độ ẩm trung bình 81,9%. Mùa mưa từ
tháng 5 đến tháng 10, có nhiều năm mùa mưa đến sớm và kết thúc muộn hơn
các khu vực khác của đồng bằng Sông Cửu Long. Lượng mưa lớn, trung bình
2.118 mm/năm.
Tài nguyên
Đất: Diện tích tự nhiên năm 2015 của thành phố là 10.048,83 ha, trong đó đất
nông – lâm nghiệp và nuôi trồng thủy sản là 7.472,7 ha (chiếm 74,36 %), trong
đó nhiều diện tích có độ phèn mặn cao, nếu ứng dụng khoa học kỹ thuật tốt để
nuôi trồng thủy sản để đem lại hiệu quả kinh tế cao. Diện tích đất phi nông
nghiệp là 2.373 ha. Đất chưa sử dụng là 203,07 ha (chiếm 2,02%) chủ yếu là
bãi bồi, núi đá không có cây cối…

99
Nước: Hà Tiên nhận nước ngọt cung cấp từ sông Hậu qua kênh Vĩnh Tế, sông
Giang Thành, kênh Rạch Giá – Hà Tiên.
Biển: Hà Tiên có khoảng 22 km chiều dài bờ biển, vũng Đông Hồ chia thành
phố làm hai khu riêng biệt: phía Đông Nam là phường Tô Châu và xã Thuận
Yên; phía Tây Bắc là phường Đông Hồ, phường Bình San, phường Pháo Đài
và phường Mỹ Đức. Xã đảo Tiên Hải (quần đảo Hải Tặc) gồm 15 đảo lớn nhỏ
là ngư trường đánh bắt và nuôi trồng thủy hải sản đầy tiềm năng.
Lịch sử
Thời phong kiến
Hà Tiên là tên gọi đã có từ xa xưa, qua từng thời kỳ, địa giới thay đổi từ vùng
thành trấn, chuyển sang tỉnh, đổi thành quận, huyện và bây giờ là thành phố.
Giữa thế kỷ 17, khi Mạc Cửu đến đây khai phá thì vùng đất này vẫn còn hoang
sơ, vắng vẻ. Cuối thế kỷ trên, thì Hà Tiên đã trở thành một thương cảng sầm
uất.
Năm 1708, khi Mạc Cửu dâng đất lên cho chúa Nguyễn, chúa Nguyễn dùng hai
chữ Hà Tiên để đặt tên cho cả vùng đất bao gồm toàn bộ tỉnh Kiên Giang và
một số vùng lân cận ngày nay.
Khi Gia Long lên ngôi, Hà Tiên được đặt thành trấn của Nam Kỳ, trong trấn có
huyện Hà Tiên. Năm 1825, để không trùng tên với trấn, vua Minh Mạng đổi
huyện Hà Tiên thành huyện Hà Châu. Năm 1832, vua Minh Mạng lại đổi trấn
Hà Tiên thành tỉnh Hà Tiên.
Thời Pháp thuộc
Năm 1867, thực dân Pháp chiếm Nam kỳ lục tỉnh và chia tỉnh Hà Tiên thành
các hạt tham biện Hà Tiên, Rạch Giá và Bạc Liêu.
Từ ngày 1 tháng 1 năm 1900 hạt tham biện Hà Tiên trở thành tỉnh theo Nghị
định ngày 20 tháng 12 năm 1899 của Toàn quyền Đông Dươngđổi tên tất cả
các hạt tham biện thành tỉnh. Năm 1903, đảo Phú Quốc được đặt dưới quyền
của đại diện chủ tỉnh Hà Tiên. Tỉnh lỵ là tỉnh thành Hà Tiên.
Từ năm 1913 đến năm 1924, tỉnh Hà Tiên được đặt dưới quyền chủ tỉnh Châu
Đốc.. Ngày 9 tháng 2 năm 1924, Hà Tiên lại trở thành một tỉnh độc lập. Năm
1924, tỉnh Hà Tiên gồm 4 quận: Châu Thành, Giang Thành, Hòn Chông và Phú
Quốc. Tỉnh lỵ Hà Tiên đặt tại làng Mỹ Đức thuộc quận Châu Thành.
Giai đoạn 1956-1976
Việt Nam Cộng hòa
Ngày 22 tháng 10 năm 1956, Tổng thống Việt Nam Cộng hòa Ngô Đình Diệm
ký Sắc lệnh 143/VN để ” thay đổi địa giới và tên Đô thành Sài Gòn – Chợ Lớn
cùng các tỉnh và tỉnh lỵ tại Việt Nam”. Theo Sắc lệnh này, địa phận Nam Phần
của Việt Nam Cộng Hoà gồm Đô thành Sài Gòn và 22 tỉnh. Lúc này, tỉnh Hà
100
Tiên bị bãi bỏ và 4 quận là Châu Thành, Hòn Chông, Giang Thành, Phú Quốc
được sáp nhập vào tỉnh Rạch Giá để thành lập tỉnh Kiên Giang.
Khi đó, địa bàn tỉnh Hà Tiên cũ được chuyển thành quận Hà Tiên và quận Phú
Quốc cùng thuộc tỉnh Kiên Giang. Trong đó, địa bàn quận Hà Tiên bao gồm
các quận Châu Thành, Giang Thành và Hòn Chông trước năm 1956.
Ngày 31 tháng 5 năm 1961, chính quyền Việt Nam Cộng hòa cho thành lập
quận Kiên Lương thuộc tỉnh Kiên Giang. Quận Kiên Lương gồm 5 xã tách từ
quận Kiên Thành và quận Hà Tiên là: An Bình, Bình Trị, Thổ Sơn, An Hoà,
Dương Hoà. Quận lỵ đặt tại xã An Bình. Ngày 04 tháng 09 năm 1961, quận
Kiên Lương thành lập mới xã Đức Phương.
Thời Việt Nam Cộng Hòa, Hà Tiên chỉ là một quận của tỉnh Kiên Giang. Quận
Hà Tiên gồm 3 xã Mỹ Đức, Phú Mỹ và Thuận Yên, 15 ấp. Quận lỵ đặt tại xã
Mỹ Đức.
Từ năm 1976 đến nay
Tháng 2 năm 1976, Hà Tiên là huyện của tỉnh Kiên Giang, bao gồm thị trấn Hà
Tiên và 9 xã: Bình An, Bình Sơn, Dương Hòa, Hòa Điền, Mỹ Đức, Phú Mỹ,
Tân Khánh Hòa, Thuận Yên, Vĩnh Điều.
Ngày 11 tháng 9 năm 2018, Ủy ban Thường vụ Quốc hội thông qua Nghị quyết
về việc thành lập phường Mỹ Đức thuộc thị xã Hà Tiên và thành lập thành phố
Hà Tiên thuộc tỉnh Kiên Giang.
Giáo dục: Năm 2000 – 2001, trên địa bàn thành phố Hà Tiên có 13 trường, gồm
1 trường mầm non và 12 trường thuộc ngành giáo dục phổ thông (7 trường tiểu
học, 3 trường Trung học cơ sở, 1 trường Phổ thông Trung học, 1 trung tâm giáo
dục kỹ thuật hướng nghiệp dạy nghề). Đến nay, các xã phường đều có trường
tiểu học và đã đầu tư hoàn thành Trường Trung học Phổ thông thành phố, chia
tách trường cấp II và cấp III đi vào hoạt động năm học 2000 – 2001.
Y tế: Toàn thành phố hiện có 1 bệnh viện tại trung tâm thành phố quy mô 60
giường bệnh, 1 trung tâm y tế, 1 phòng y tế, 7 trạm y tế xã – phường gồm
phường Đông Hồ, phường Pháo Đài, Phường Tô Châu và xã Tiên Hải, phường
Mỹ Đức, xã Thuận Yên.
Kinh tế: Thành phố nằm trong vùng tứ giác Long Xuyên, có đường biên giới
với Campuchia cả trên đất liền và biển, cách tỉnh Kampot của Campuchia
60km và cảng Kep của thành phố Kep 20 km, rất thuận lợi trong việc phát triển
kinh tế cửa khẩu với Campuchia, tạo mối quan hệ với Thái Lan qua mạng lưới
đường thủy, hàng không.
Giao thông: Trên địa bàn thành phố Hà Tiên hiện có 23,5 km đường quốc lộ;
9,04 km tỉnh lộ; 26,13 km đường nội ô thành phố và 27,5 km đường giao thông
nông thôn. Trong đó, quan trọng nhất là tuyến quốc lộ 80, nối thành phố Rạch
Giá – thành phố Hà Tiên và sang tận Campuchia. Kể từ tháng 12 năm 2008, có
101
thêm tuyến tàu khách cao tốc đi đến huyện đảo Phú Quốc. Hiện nay, đã có
tuyến xe buýt của các hãng du lịch có chất lượng đi từ Hà Tiên – Campuchia.
5.2 Dòng họ Mạc và các di tích nhân vật liên quan: Mạc Cửu Mạc Thiên
Tích,...
Khi nhắc đến dòng họ ở Hà Tiên thì không thể không nhắc đến Mạc Cửu và
Thiên Tích. Đầu tiên ta sẽ nói về
Mạc Cửu
Mạc Cửu hay Mạc Kính Cửu (1655-1735), có công khai phá vùng đất Hà Tiên
(Kiên Giang ngày nay) ở Việt Nam
Cuối thế kỷ XVII cũng như Trần Thượng Xuyên và Dương Ngạn Địch, Mạc
Cửu không chịu nhận chủ quyền Mãn Thanh, bỏ quê hương mà dắt bộ hạ
xuống miền Nam Hải, nhưng Dương và Trần ghé vào Quảng nam (1679) qui
phục chúa Nguyễn Phúc Tần, được chúa cho vào chiếm đất Đồng nai và Mĩ tho
để tự kinh lí lấy mà lập nên một nơi buôn bán thịnh vượng là Cù lao Phố (Biên
hòa)
Về nhà Mạc thì tiến xa hơn, tới địa phận Chân lạp làm chức “ốc nha”, một chức
quan lớn Chân lạp. Ông thấy người ở các nước tụ tập mở trường đánh bạc để
lấy xâu, gọi là thuế hoa chi, bèn thầu mua thuế ấy, lại còn đào được một hầm
bạc nên bỗng trở thành giàu có. Sau đó ông chiêu mộ người dân lưu tán ở các
xứ trong đó có người Việt và lập thành bảy xã thôn
Vốn có óc tổ chức, Mạc Cửu chiêu tập dân xiêu tán người Hoa, Việt mở phố
xá, xây thành lũy, đẩy mạnh khai hoang lập ra bảy thôn trải dài ven biển về tận
Cà Mau. Ông để cho dân khai hoang tự do, không thu tô thuế, chỉ đứng ra tổ
chức mua sản phẩm để bán lại cho khách buôn. Chính điều này đã quy tụ dân
cư đến Mang Khảm ngày càng đông. Ghe thuyền các nơi, kể cả nước ngoài đến
mua bán tấp nập. Sự thịnh vượng khiến cho đất này gặp tai họa.
Trong khoảng thời gian 1687 – 1688, quân Xiêm vào cướp phá Mương Khảm,
bắt Mạc Cửu đưa về Xiêm ở Vạn Tuế Sơn. Sau đó, ông trốn về Lũng Kỳ (Lũng
Cả), dân xiêu tán tụ về với ông ngày một đông, nhưng do địa thế chật hẹp,
khoảng năm 1700, ông trở về Phương Thành (Hà Tiên). Năm 1680, Mạc Cửu
đã lập ấp rải rác từ Vũng Thơm, Trủng Kè, Cần Vọt, Rạch Giá, Cà Mau, Hà
Tiên trở thành thương cảng quan trọng. Ông lập ra 7 sòng bạc dọc bờ
biển.Tiếng đồn vang xa, lưu dân gốc Hoa từ khắp nơi trong vịnh Thái Lan xin
vào đây lập nghiệp, dần dần vùng đất này trở thành một lãnh địa phồn vinh với
tên gọi mới: Căn Khẩu Quốc. Đảo Koh Tral cũng đổi tên thành Phú Quốc
(vùng đất giàu có).
Mạc Thiên Tích
Mạc Thiên Tích là danh thần đời chúa Nguyễn Ông là con Tổng binh Mạc Cửu
- người được chúa Nguyễn phong là Tông Đức hầu.
102
Khi cha ông qua đời (1735), lúc ấy ông đã 18 tuổi, ông nối nghiệp cha mở
mang đất Hà Tiên, được chúa Nguyễn Phúc Trú phong chức Tổng binh Đại đô
đốc. Ông tiếp tục sự nghiệp khai khẩn miền Tây Nam Bộ, biến vùng đất Hà
Tiên trở thành đất văn hiến, phồn vinh, nhiều lần chống trả lại các cuộc tấn
công của các lân bang Xiêm La và Chân Lạp.
Năm1936, thành lập Chiêu Anh các, một tao đàn kiêm một nghĩa thục, có thờ
Khổng Tử. Có cha là Trung hoa, mẹ Việt nên ông rất đa tài: trị nước, ngoại
giao, cầm quân, đặc biệt là có tài văn thơ mà lại rất trọng tiếng Nôm, chiêu tập
được 36 (có sách chép là 32) văn nhân thi sĩ vô Chiêu Anh Các trong số đó sáu
vị là người Việt, còn thì là Trung hoa, người Minh hương.
Theo Trịnh Hoài Đức, họ sáng tác được sáu bộ sách gồm ba tập truyện và ba
tập thơ. Ba tập truyện này đã lạc, còn ba tập thơ thì có lẽ là:
– Tập Hà tiên thập vịnh gồm 320 bài, toàn bằng thơ Hán, mỗi bài do Mạc
Thiên Tích thủ xướng, còn các bài kia do các vị trong Chiêu Anh các họa.
– Tập Hà tiên thập cảnh khúc vịnh bằng thơ nôm của Mạc Thiên Tích.
– Tập Minh Bột di ngư thi thảo gồm những bài thi, phú chữ Hán cũng của
Thiên Tích.
Những sáng tác của nhóm Chiêu Anh Các nổi tiếng ngay từ thời đó với những
bài thơ chữ Hán và chữ Nôm đóng góp to lớn vào nền văn học Việt Nam lúc
bấy giờ. Tiếc thay nền văn học Hà tiên bừng lên rực rỡ được có 31 năm; đến
năm 1771, Hà tiên bị quân Xiêm đánh chiếm, Thiên Tích phải chạy về Gia
định. Chiêu Anh Các tan rã, sách vở bị tiêu hủy. Đến năm 1778 Thiên Tích phải
trốn tránh Tây Sơn, qua Xiêm, và hai năm sau, 1780, ông tuẫn tiết ở kinh đô
Xiêm, từ đó Hà Tiên cũng cùng họ Mạc mà suy tàn.
Các di tích nhân vật liên quan: Mạc Cửu Mạc Thiên Tích
Lễ hội giỗ Đức khai trấn Mạc Cửu – Hà Tiên
Đã trở thành truyền thống hằng năm, Hà Tiên đều tổ chức lễ giỗ đức khai trấn
Mạc Cửu, là người có công đầu trong việc khai phá nên vùng đất Hà Tiên hơn
300 năm trước. Vào đầu thế kỷ XVIII, Mạc Cửu trên đường tha hương lập
nghiệp, ông đã đặt chân đến Hà Tiên, còn gọi là Phương Thành, một vùng đất
có vị trí thông thương thuận lợi, phong cảnh hữu tình. Ông đã quyết định dừng
chân nơi đây bắt đầu cho công cuộc mở đất. Ông được Chúa Nguyễn Phúc Chu
phong là Tổng binh, tước Cửu Lộc Hầu, cho đổi vùng đất này thành Hà Tiên
Trấn. Dần dần Hà Tiên trở thành một vùng đất trù phú và một thương cảng
quan trọng ở Đông Nam Á. Để ghi nhớ công lao của ông, sau khi ông mất (năm
1735), nhân dân Hà Tiên đã lập đền thờ và tổ chức lễ giỗ ông vào các ngày 26-
27 tháng 5 âm lịch hằng năm. Phần lễ được giữ theo thông lệ với các nghi lễ
truyền thống như cúng tiền hiền, hậu hiền, chiêm bái. Tại đền thờ Họ Mạc, mọi
người tổ chức lễ thỉnh sắc và dâng hương tại Tượng đài Mạc Cửu. Ngoài ra
103
phần hội được mở rộng với các hoạt động phong phú như: Hội chợ thương mại,
biểu diễn võ thuật, biểu diễn lân sư rồng, biểu diễn văn nghệ và các trò chơi
dân gian.
Lễ hội Tao đàn Chiêu Anh Các - Hà Tiên
Lễ hội được tổ chức hằng năm vào Tết Nguyên tiêu (rằm tháng riêng), tại Lăng
Mạc Cửu, Hà Tiên. Vào năm 1736, tại trấn Hà Tiên, Tổng binh Mạc Thiên Tích
đã cùng 32 danh sỹ đương thời lập nên Tao đàn Chiêu Anh Các. Tạo đàn không
chỉ là nơi bình thơ văn, mà còn là một trung tâm sáng tác văn thơ, một số cơ sở
đào tạo nhân tài đương thời, có tác dụng cổ vũ tinh thần yêu nước, mở mang
văn hóa Việt Nam, tạo ra giai đoạn phát triển rực rỡ nhất của Hà Tiên xưa. Tao
Đàn Chiêu Anh Các đã sinh ra một khối lượng văn chương đồ sộ, trong đó có
tuyệt tác “Hà Tiên thập vịnh” bằng chữ Nôm. Lễ hội có các hoạt động dâng
hương tế trời đất, thi họa thơ Chiêu Anh Các, ứng tác câu đối, thư pháp,... Lễ
hội thu hút rất đông các nhà văn hóa, nghệ sỹ và người yêu thơ về dự
Nhà thờ, lăng Mộ nhà họ Mạc
Tại thị xã Hà Tiên, trên một ngọn đồi cách Hà Tiên 2km về phía Tây là nơi có
nhiều lăng tẩm của dòng họ Mạc Cửu được xây dựng cách đây hơn 300 năm.
Bên cạnh nhà thờ là 50 ngôi mộ con cháu như Tổng binh Đại đô đốc Mạc
Thiên Tích, Tham tướng Mạc Tử Hoàng, lăng bà Mạc Thiên Tích, Mạc Công
Du, Mạc Công Tây Đền thờ dòng họ Mạc luôn mở rộng cửa đón khách đến
tham quan và thắp nén nhang tưởng nhớ đến vị khai trấn Quốc công Mạc Cửu,
người có công khai phá vùng đất hoang xưa trở thành thị xã Hà Tiên sầm uất
ngày nay. Trong đền có nhiều di vật và nhiều cây quý. Tại thị xã Hà Tiên, trên
một ngọn đồi cách Hà Tiên 2km về phía Tây là nơi có nhiều lăng tẩm của dòng
họ Mạc Cửu được xây dựng cách đây hơn 300 năm. Bên cạnh nhà thờ là 50
ngôi mộ con cháu như Tổng binh Đại đô đốc Mạc Thiên Tích, Tham tướng
Mạc Tử Hoàng, lăng bà Mạc Thiên Tích, Mạc Công Du, Mạc Công Tây... Nhà
thờ, lăng mộ dòng họ Mạc Nơi đây còn dấu tích của một chiến lũy là một bờ
thành trồng tre gai dài gần 2km, rộng khoảng 1km do Mạc Thiên Tích xây
dựng để ngăn chặn giặc bên ngoài đến xâm phạm bờ cõi nước ta.
Chùa Tam Bảo (Sắc Tứ Tam Bảo tự)
Chùa Tam Bảo do Thống binh Mạc Cửu - một tướng người Hoa có công khai
phá vùng đất Hà Tiên, dựng vào năm 1730, nay ở số 328, tổ 2 ấp Ao Sen,
đường Phương Thành, thị xã Hà Tiên. Ngôi chùa xưa bị phá hỏng hoàn toàn,
chùa hiện nay do Hòa thượng Phước Ân tổ chức xây dựng vào năm 1930. Ở
điện Phật, có pho tượng đức A Di Đà bằng đồng. Khuôn viên chùa có 16 mộ
tháp. Phía trước chùa là tượng Quan Âm Bồ Tát đứng trên đài sen. Cổng chùa
có hai câu đối: “Nhất trần bất nhiễm bồ đề địa/ Vạn thiện đồng quy bát nhã
môn” (ý: ở đây không nhiễm bụi trần).
5.3 Hà Tiên thập cảnh
104
1. TIÊU TỰ THẦN CHUNG (CHÙA TAM BẢO)
Rừng thiền sít sát án ngoài tào,
Chuông giống chùa Tiêu tiếng tiếng cao.
Chày thỏ bạt vang muôn khóm sóng;
Oai kình tan tác mấy cung sao.
Não phiền kẽ nấu sôi như vạc.
Trí tuệ người mài sắc tựa đao.
Mờ mịt gẫm dường say mới tỉnh;
Phù sinh trong một giấc chiêm bao.

Tương truyền, sau khi ổn định cơ ngơi, Mạc Cửu cho người về Trung Quốc đón
mẹ sang Hà Tiên, lúc này bà đã hơn 80 tuổi và là người rất sùng mộ đạo Phật,
có ý muốn đi tu. Năm 1730, ông đã cho xây gần dinh cơ của mình một ngôi
chùa, gọi là Tiêu Tự, để mẹ sớm mỏ chiều kinh. Chùa xây trong khuôn viên
chùa Tam Bảo hiện nay. Trong một ngày lễ Phật, bà đã mất ngay trước Phật
Đài. Mạc Cửu cho đúc một tượng Phật và một chuông đồng để thờ. Nghe tiếng
chuông mà tưởng niệm đấng từ thân. Ngôi chùa xưa đã bị quân Xiêm tàn phá
khi xâm chiếm Hà Tiên năm 1771. Đến năm 1799, con cháu họ Mạc mới trùng
tu lại. Ngôi chùa Tam Bảo hiện nay đã qua nhiều lần trùng tu lớn và nhỏ (lần
trùng tu lớn nhất là năm 1940). Phía sau chùa hiện nay còn mộ của Thái Thái
Bà Bà (mẹ ông Mạc Cửu). Trong chùa chỉ còn tượng Phật bằng đồng, chuông
đồng đã bị mất khi quân Xiêm xâm chiếm. Xung quanh chùa hiện nay còn lại
bức tường cổ, họ Mạc cho xây dựng để ngăn giặc, vật liệu làm bằng vôi và ô
dước nhưng vẫn bền vững gần 300 năm nay. Mạc Thiên Tích đã vịnh cảnh
“Tiêu Tự Thần Chung” như để nói lên tâm tư của ông ở nơi dinh thự khi nghe
tiếng chuông chùa vào buổi sớm. Tiếng chuông chùa buổi sớm ngân vang tạo
cho một vùng không gian Hà Tiên thêm êm đềm, thanh tịnh. Chùa Tam Bảo là
một di tích lịch sử gắn liền với dòng họ Mạc, nằm ngay trung tâm thị xã Hà
Tiên, có một khuôn viên khá rộng, không khí trong lành, khoáng đãng, yên
tĩnh, là nơi mà hầu hết du khách đến Hà Tiên đều muốn ghé qua thăm viếng.

2. KIM DỰ LAN ĐÀO (NÚI PHÁO ĐÀI)


Kim là vàng, dự là hòn đảo nhỏ, lan là ngăn chặn, đào là sóng to. Kim Dự Lan
Đào là hòn đảo vàng ngăn chặn sóng gió. Ý nói, trước hải khẩu trấn Hà Tiên có
hòn đảo nhỏ ngăn chặn sóng gió, gìn giữ cho nội địa được yên ổn.
Kim dự này là núi chốt then,
Xanh xanh dành trấn cửa Hà Tiên.
Ngăn ngừa nước dữ không vùng vẫy,
Che chở dân lành khỏi ngửa nghiêng.
Thế cả vững vàng trên Bắc hải;
105
Công cao đồ sộ giữa nam thiên.
Nước yên chẳng chút lông thu động,
Rộng bủa nhơn xa tiếp bách xuyên.
Kim Dự là một quả đồi nhỏ phía Tây Nam thị xã Hà Tiên. Thường gọi là núi
Pháo Đài. Vì trên đó, từ hồi Triều Nguyễn đến hồi bị Pháp thuộc vẫn là cứ
điểm quân sự để trấn giữ cửa biển, bảo vệ trấn Hà Tiên chống giặc ngoại xâm.
Cách đây hơn một thế kỷ, Pháo Đài vẫn còn tách rời đất liền. Nay Pháo Đài
dính với đất liền là do công sức xây đắp của các tù nhân thời thực dân Pháp.
Sách Đại Nam Nhất Thống Chí cho Pháo Đài là Đại Kim Dự, còn một cảnh
Tiểu Kim Dự nữa. Có lẽ là chỗ đối cảnh với Đại Kim Dự về hướng Nam, mà
nay đã dính liền vào đầu sơn phận núi Tô Châu, chỗ doi đất hiện giờ có miễu
thờ Thủy Thần và miễu thờ Cá Ông Nam Hải. Ngày nay, chiếc cầu Tô Châu đã
nối liền hai bờ Đại Kim Dự và Tiểu Kim Dự. Và dưới chân Pháo Đài là ngọn
Hải Đăng, làm cho đôi bờ cửa biển Hà Tiên càng thêm duyên dáng, đáng yêu.
Nơi đây rất lý tưởng cho những du khách thích thưởng ngoạn ngắm cảnh trời
mây non nước và tận hưởng gió mát. Từ đây, ta có thể ngắm toàn cảnh thị xã
Hà Tiên, thưởng thức “ Đông Hồ Ấn Nguyệt “ trong những đêm trăng sáng và
ngắm cảnh hoàng hôn trên biển.
3. LỘC TRĨ THÔN CƯ (CẢNH ĐẸP MŨI NAI)
Lộc là nai, trĩ là mõm núi, mũi núi. Lộc Trĩ là Mũi Nai, thôn cư là chỗ thôn
trang dân cư. Lộc Trĩ Thôn Cư tạm dịch là xóm núi Mũi Nai. Xóm dân cư này
đã đi vào văn học qua bài thơ Lộc Trĩ Thôn Cư của Tao Đàn Chiêu Anh Các.
Lâm lộc ai rằng thú chẳng thanh.
Nửa kề nước biếc nửa non xanh
Duỗi co chẳng túng kiền khôn hẹp
Cúi ngửa vì vâng đức giáo lành
Lưu loát hưởng dư ơn nước thạnh
Ê hề sẵn có của trời dành
Đâu no thì đó là an lạc
Lựa phải chen cân chốn thị thành.
Bãi tắm Mũi Nai cách trung tâm Thị Xã Hà Tiên khoảng 6 km về hướng Tây,
gồm hai điểm: bãi trước và bãi sau. Bãi tắm Mũi Nai không sâu thẳm mà thoai
thoải dần và sóng ở đây ít ồn ào, hung hãn, rất yên tĩnh và hiền lành. Từ bờ ra
chừng trăm mét vẫn an toàn, chúng ta có thể an tâm đùa giỡn với sóng nước.
Mũi Nai nằm trong vùng biển vịnh Thái Lan. Xa xa có nhiều hòn đảo nhấp
nhô, chếch về phía bên trái là quần đảo Hải Tặc, xa hơn nữa là đảo ngọc Phú
Quốc nằm trãi dài mà chúng ta có thể nhìn rõ hơn trong những ngày trời quang
mây tạnh. Đến Mũi Nai, tắm biển, hưởng nắng và gió biển sẽ giúp du khách
thêm vui tươi, khỏe khoắn. Chúng ta có thể nằm võng hoặc ghế bố mà ngắm
cảnh thiên nhiên, nhìn sóng nước từng đợt nhấp nhô, xô lượn vào bờ. Bạn sẽ
thấy tâm hồn thanh thản, nhẹ nhàng. Chúng ta sẽ thưởng thức các đặc sản biển
106
như: ốc nhảy, hào đá, cua, ghẹ, mực,. .. Bãi biển Mũi Nai là nơi mà tất cả các
du khách đến Hà Tiên đều muốn thăm qua. Có thể nói khu vực đồng bằng sông
Cửu Long, bãi tắm Mũi Nai là nơi lý tưởng nhất cho những du khách yêu thích
biển đến tham quan du lịch.
4. NAM PHỐ TRỪNG BA (BÃI BIỂN PHÍA NAM)
Trong năm cặp thắng cảnh đối nhau thì “Nam Phố trừng Ba” là cảnh đối lại với
“Đông Hồ Ấn Nguyệt”. Nam Phố là bãi biển ở phía Nam. Trừng là nước lặng
lẽ. Ba là sóng. Nam Phố Trừng Ba là bãi biển phía Nam sóng nước lặng lẽ.
Dòng Nam phẳng lặng khách dầu chơi.

Hai thức như thêu nước với trời


Bãi khói dưới kia hương lại bủa
Hồ gương trong đó gấm thêm rơi
Sóng chôn vảy ngạc tình chi xiết
Nhạn tả thơ trời giá mấy mươi
Một lá yên ba dầu lỏng lẻo
Đong trăng lường gió nước vơi vơi.
Nam Phố là một bãi biển cách thị xã Hà Tiên về hướng Nam khoảng 11km,
thuộc ấp Bãi Ớt, xã Dương Hòa, huyện Kiên Lương. Bãi biển ở đây gần giống
như một cái vịnh nhỏ được che chở bởi các ngọn núi, nên biển ở đây thường
yên lặng hơn các nơi khác, gần như quanh năm êm đềm lặng sóng. Những ghe
thuyền qua lại gặp mùa động Nam, muốn tránh sóng gió đều vào đây ẩn núp
cho qua cơn trời động. Cảnh vật nơi đây còn rất hoang sơ và gần với thiên
nhiên. Bãi tắm ở đây cũng khá đẹp và lý tưởng. Dân cư ở đây rất hiền hòa,
sống bằng nghề trồng tiêu và làm nghề biển. Đến đây, chúng ta sẽ được thưởng
thức những món đặc sản địa phương như gỏi cá trích, gỏi cá nhòng, con cà xỉu,
… với hương vị rất riêng của miền biển.
5. THẠCH ĐỘNG THÔN VÂN (THẮNG CẢNH THẠCH ĐỘNG)
Thạch động là một khối đá vôi khổng lồ, có độ cao khoảng 48m, nằm sát quốc
lộ 80, cách trung tâm thị xã Hà Tiên về hướng Tây Bắc 3km. Từ xa trông
Thạch Động như hình chiếc mũ lông của lính kỵ mã Anh quốc.
Thạch Động đã đi vào thơ ca qua tác phẩm “Hà Tiên Thập Cảnh” của Mạc
Thiên Tích, là một trong mười cảnh đẹp tiêu biểu của Hà Tiên với tên gọi
Thạch Động Thôn Vân. Thạch Động là động đá. Thôn là nuốt. Vân là mây.
Thạch Động Thôn Vân là động đá nuốt mây. Nhân cảnh mây phong khói tỏa,
quanh quẩn ở chỗ cửa động, mà thi nhân nghĩ như là động khẩu hút khói nuốt
mây.

107
Quỷ trổ thần xoi nổi một tòa,
Chòm cây khóm đá dấu tiên gia
Hang sâu thăm thẳm mây vun lại;
Cửa rộng thinh thinh gió thổi qua.
Trống lổng bốn bề thâu thế giới;
Chang bang một dãy chứa yên hà.
Chân trời mới biết kho trời đấy
Cân đái hèn chi rở ỷ la.
Tương truyền rằng, có lần Tổng trấn Mạc Thiên Tích sai người theo cửa hang
đi xuống để xem sao, người đó đi mãi chỉ nghe tiếng sóng, sợ quá phải quay trở
lên. Một tương truyền khác, có người thử xem hang này ra sao, họ khắc chữ
đánh dấu vào những trái dừa khô rồi thả xuống hang. Ít lâu sau, những người đi
biển vùng Hà Tiên, Phú Quốc đều lượm được những trái dừa đó. Do hang sâu
nguy hiểm nên đã được lấp từ những năm 1960. Trong hang có một ngôi chùa
thờ Phật, ngôi chùa được dựng lên khi nào chưa rõ, cửa chùa cũng là cửa hang
chính của Thạch Động, phía trên có ghi ba chữ “Tiên Sơn Tự ” với hai câu đối
bằng chữ Hán: “Thạch thượng linh cơ lưu ngọc dịch; Động trung tĩnh địa ẩn
kim tiên”. Thạch Động còn có tên cổ là núi Vân Sơn, theo sách Đại Nam Nhất
Thống Chí, tập 05 quyển 26, mục Sơn Xuyên Chí có chép như sau: “Núi Vân
Sơn ở huyện Hà Tiên, cách Địa Tạng khoảng một dặm, có núi cao chừng bốn
trượng, bốn bên vách đứng như cái cột kình thiêng, núi có động rộng 4_5
trượng, trong có chùa Bạch Vân”. Và mục Tự quán có chép: “Chùa Bạch Vân ở
thôn Mỹ Đức, huyện Hà Tiên, trước do người Minh Hương là Đoàn Tân dựng,
năm Thiệu Trị thứ 7 Tuần Phủ Phan Tùng bổ…”.
Đầu thế kỷ XX, có hai nhà sư từ miền Trung tới trụ trì ngôi chùa. Một vị là
Nguyên thọ thượng chánh hạ quả, dòng tu Lâm Tế đời thứ 39, tục danh là Lê
Thế Duyên, quê ở Phú Yên. Hòa thượng từ trần ngày 21 tháng 12 năm Quý
Sửu (1913), thọ 78 tuổi. Một vị là Húy quảng sĩ thượng thiên hạ học, dòng tu
Lâm Tế thứ 40, tục danh là Trịnh Tấn Phước, người Bình Định. Thiền sư từ
trần ngày 02 tháng 09 năm Ất Dậu (1945 ), thọ 75 tuổi. Sau khi hai nhà sư qua
đời, đệ tử của sư Trịnh Tấn Phước là bà Cam Thị Nam (thường gọi cô Hai
Nàm), kế thừa đạo nghiệp trụ trì ngôi chùa. Năm 1948, Bà bị thực dân Pháp bắt
cùng với ba người nữa làm ruộng cho nhà chùa, chúng đêm cả bốn người về
giam tại đồn Hà Tiên. Chúng bắt được quả tang bà Hai Nam tiếp tế và nuôi dấu
cán bộ cách mạng. Ngay đêm bị bắt, giặc Pháp đã giết bà tại cầu tàu Hà Tiên.
Người nữ tu hành này là tấm gương sáng về tinh thần yêu nước.
Trong hai cuộc kháng chiến và những năm tháng chiến tranh biên giới, nơi đây
đã từng diễn ra những trận chiến ác liệt chống quân xâm lược, góp phần tô đậm
truyền thống anh hùng của quân dân Hà Tiên. Hiện nay dưới chân Thạch Động
có bia căm thù tưởng niệm 130 người đã bị bọn diệt chủng Pôn Pốt tàn sát vào
ngày 14.03.1978 tại xã Mỹ Đức.

108
Ra các cửa hang phía sau của Thạch Động, chúng ta sẽ được tận huởng những
cơn gió mát lồng lộng, một không gian khoáng đãng, một vùng trời biên giới
cùng với biển xanh, đảo nhỏ xa xa nhấp nhô. Không gian khoáng đãng, cảnh
vật hữu tình, không khí tĩnh lặng cùng những pho tượng Phật uy nghiêm làm
cho ta vơi bớt bụi trần trong giây lát, xua tan nỗi mệt nhọc sau những ngày lao
động vất vả. Đến Hà Tiên, thăm Thạch Động với cảnh thiên nhiên thật thơ
mộng và hùng vĩ, tạo cho ta cảm giác vô cùng thích thú.

6 .ĐÔNG HỒ ẤN NGUYỆT (NGẮM BINH MINH TRÊN SÔNG ĐÔNG HỒ)


Đông Hồ là một đầm nước mặn, rộng khoảng 14 km2, nằm ở phía Đông thị xã
Hà Tiên. Đông Hồ là một thắng cảnh thiên nhiên đẹp nổi tiếng của Hà Tiên đã
đi vào thơ ca hàng trăm năm nay qua tác phẩm “Hà Tiên Thập Cảnh” của Mạc
Thiên Tích với tên gọi “Đông Hồ Ấn Nguyệt “.
Một hồ lẻo lẻo tiết thu quang.
Giữa có vầng trăng nổi rõ ràng.
Đáy nước chân mây in một sắc;
Ả Hằng nàng Tố ló đôi phương.
Rạng thanh đã hứng thuyền
Tô tử Lạnh lẽo càng đau một kiến Nhạc xương
Cảnh một mà tình người dễ một
Kẻ thì ngả ngớn kẻ sầu thương.
Đông Hồ là hồ ở phía Đông thành Hà Tiên, ấn nguyệt là trăng in. Thi nhân đã
nhìn thấy bóng trăng in xuống mặt hồ y như cái ấn tròn đóng trên tờ giấy bạch.
Và không phải bất kỳ lúc nào ta cũng được như thế mà đòi hỏi ta phải có lòng
thành yêu cảnh, thăm tìm và chờ đợi. Vào đêm 16, 17 âm lịch, khoảng 07-08
giờ tối, ra bờ hồ, nhìn thẳng về hướng Đông mà đợi, đợi đến lúc trăng lên,
chúng ta sẽ được nhìn chiếc ấn nguyệt in tròn vành vạnh trên mặt hồ. Vào
những đêm trăng cảnh vật trên Đông Hồ rất đẹp, ánh trăng lung linh trên sóng
nước mặt hồ mà ngày xưa Mạc Thiên Tích tưởng chừng tiên nữ lạc bước trần
gian, đã làm nao lòng mạc khách đề thơ. Chúng ta có thể thả thuyền thưởng
ngoạn trên Đông Hồ trong những đêm trăng cùng với bằng hữu, có nhạc, có
thơ, có rượu, có những món ăn truyền thống của Hà Tiên, đắm mình trong
không khí tao nhã như người xưa đã từng thưởng thức Đông Hồ, ta mới cảm
nhận hết cái đẹp, cái thơ mộng của Đông Hồ. Đông Hồ chứa nước từ sông
Giang Thành đổ vào và ăn thông ra biển để có hai mùa mặn ngọt, là nơi lý
tưởng cho nhiều loại thủy cầm sinh sống. Những loài thủy cầm này đã góp
phần nuôi sống con người Hà Tiên trong biết bao thế kỷ qua. Đông Hồ còn có
hai ngọn núi Tô Châu ngày đêm soi bóng cùng với những thuyền chài, những
ghe lưới, … càng làm tăng vẽ thơ mộng và hữu tình của Đông Hồ.
7. GIANG THÀNH DẠ CỔ (TIẾNG TRỐNG CẦM CANH BÊN BỜ SÔNG)

109
Giang Thành là thành lũy đóng ở bên sông. Dạ là ban đêm. Cổ là tiếng trống.
Giang Thành Dạ Cổ là tiếng trống cầm canh ở chỗ đồn thú bên bờ sông, về ban
đêm.
Trống quân giang thú nổi uy phong,
Nghiêm giống đòi canh ỏi núi sông.
Đánh phá mặt gian người biết tiếng;
Vang truyền lịnh sấm chúng nghiêng lòng.
Phao tuông đã thấy yên ba vạc;
Nhiệm nhặt chi cho lọt mảy lông
Thỏ lụn sớm hầu chờ bóng ác;
Tiếng xe sầm sạt mới nên công.
Sau khi tiếp nối cơ nghiệp của cha, Mạc Thiên Tích tăng cường việc xây dựng
và bố phòng chung quanh Phương Thành. Do vị trí địa lý, việc thông tin từ
vùng phía Bắc về Hà Tiên rất khó khăn (lúc này kinh Vĩnh Tế chưa được đào,
chỉ có sông Giang Thành). Ông đã cho đắp một con đường nhỏ, chủ yếu dùng
cho việc liên lạc hỏa tốc, đủ một người một ngựa, bắt đầu từ Đá Dựng chạy dài
đến bờ Bắc sông Giang Thành với nhiều vọng gác. Tục truyền, cứ bắt đầu một
hồi trống gác đánh từ Hà Tiên đến hồi trả lại là đúng một giờ. Đường này còn
có tên là lộ sứ Tự Đức, đến nay hầu như không còn để lại dấu vết. Giang Thành
ngày nay chỉ là một địa danh thuộc xã Tân Khánh Hòa, huyện Kiên Lương,
cách thị xã Hà Tiên khoảng 10km, là chỗ ngã ba tiếp giáp kinh Vĩnh Tế từ
Châu Đốc chảy sang, liền với thượng lưu con sông Giang Thành. Mà trước đây
vào thời Minh Mạng, Giang Thành đã từng là một quận của tỉnh Hà Tiên.
8. LƯ KHÊ NGƯ BẠC (XÓM CHÀI RẠCH VƯỢC)
Lư Khê Ngự Bạc là cảnh thứ mười trong “Hà Tiên Thập Cảnh”. Lư là loài cá
Vược. Khê là khe, là rạch. Ngư là thuyền chài, người lưới cá, câu cá. Bạc là
thuyền đỗ bến. Lư Khê Ngư Bạc là cảnh Rạch Vược, nơi thuyền ngư đỗ bến
hay còn gọi là xóm chài Rạch Vược.
Bến Vược nhà ngư chật mấy từng
Trong nhàn riêng có việc lăng xăng.
Lưới chài phơi trải đầy trời hạ,
Gỏi rượu say sưa tọai nghiệp hằng,
Nghề Thuấn hãy truyền bền trác trác,
Dân Nghiêu còn thấy đủ răng răng.
So đây mười cảnh thanh hòa lạ,
Hòa cảnh Đào nguyên mới sánh chăng.
Cách đây mấy thế kỷ, trong địa phận xã Thuận Yên, cách thị trấn Hà Tiên
khoảng ba cây số có một con rạch nhỏ từ kinh Rạch Giá – Hà Tiên ăn thông ra
biển, nơi đây loại cá vược tụ tập rất nhiều, len lỏi qua các khe núi Nhọn, núi
Ông Đội và núi Nhỏ, tạo thành một cảnh sơn thủy kỳ thú. Mạc Thiên Tích đã

110
cho dựng ở đây một ngôi “điếu đình” làm chỗ nhàn hạ buông câu, làm nơi tiêu
dao ngoạn cảnh, nghỉ ngơi, di dưỡng tinh thần. Và nơi đây còn được gọi là Lư
Khê Nhàn Điếu. Bây giờ con rạch Lư Khê không còn ăn thông ra biển và loài
cá vược ở đây cũng không còn nhiều như xưa nữa. Vì từ khi Quốc lộ 80 được
xây dựng thì con rạch đã bị lắp ngang. Dòng Lư Khê vẫn chảy êm đềm qua
những khe núi để hòa vào Đông Hồ và cảnh vật ở Rạch Vược vẫn thanh bình,
êm ả.

9. BÌNH SAN ĐIỆP THÚY (THẮNG CẢNH TRÊN NÚI BÌNH SAN)
Bình San Điệp Thúy là cảnh đẹp thứ hai trong “Hà Tiên Thập Cảnh” của Mạc
Thiên Tích. Bình San là dãy núi dựng như bức bình phong, ở sau thành Hà
Tiên. Cũng như tiếng lan đào của Kim Dự, ngụ ý che đỡ kín đáo cho thành nội.
Điệp là trùng trùng điệp điệp, lớp lớp từng từng. Thúy là màu xanh chim trả.
Bình San Điệp Thúy là ngọn núi như tấm bình phong sắc xanh lớp lớp.

Một bước càng thêm một thú yêu,


Lằn cây vết đá vẽ hay thêu.
Mây tùng khói liễu, chồng rồi chập;
Đàn suối ca chim, thấp lại cao.
Luật ngọc trâu ông chẳng phải trổi;
Ngòi sương Ma cật đã thua nhiều.
Đến đây mới biết lâm tuyền quý,
Chẳng trách Sào Do lánh Đế Nghiêu.

Quần thể núi Bình San có một vị trí khá đặc biệt. Ở đây, thi sĩ họ Mạc đã ví
như “một bức tường thành che chắn mặt phía Tây thành Hà Tiên”. Họ Mạc đã
chọn khu vực này để xây lăng mộ của dòng họ và các tôi thần trung nghĩa. Và
cũng chính điều này mà nhân dân còn gọi Bình San là núi Lăng. Trên núi thì có
lăng tẩm của vị Khai Trấn Quốc Công Mạc Cửu, vị tướng kiêm nhà thơ Mạc
Thiên Tích cùng lăng mộ con cháu dòng họ Mạc và lăng mộ các tướng sĩ đã
theo giúp họ Mạc xây dựng và bảo vệ Hà Tiên. Còn dưới chân núi là đền thờ họ
Mạc, hay còn gọi là Mạc Công Miếu với hai câu đối: “Nhất môn trung nghĩa
gia thịnh trọng; Thất diệp phiên hàn quốc sủng vinh”, như ghi lại công lao của
họ Mạc đối với đất Hà Tiên. Trong miếu còn có bút tích của ông Nguyễn Thần
Hiến là một nhà yêu nước tham gia hoạt động cách mạng chống Pháp trong hai
thập kỷ đầu của thế kỷ XIX, trên tường ghi lại những bài thơ chữ nôm do Mạc
Thiên Tích sáng tác (qua nhiều lần trùng tu, bút tích này được phục chế khắc

111
trên gỗ). Trước đền, hiện có ba ao trồng sen. Riêng ao bìa bên trái (từ cổng nhìn
ra), xưa kia được gọi là “bán nguyệt liên trì” vì có dạng nửa hình tròn được đào
từ thời Mạc Thiên Tích để lấy nước cho dân sử dụng. Trên Bình San còn hai di
chỉ của nền Sơn Xuyên và nền Xã Tắc do Mạc Thiên Tích lập ra để hành lễ vào
các ngày trọng đại. Nền Sơn Xuyên là chỗ tế thần núi thần sông, ở chỗ cao chót
núi, chỗ nhìn ra Kim Dự. Nền Xã Tắc là chỗ tế hậu thổ thần nông, ở chỗ thấp
giữa lưng núi, chỗ bây giờ đã có vườn tược trồng trọt. Đối với Nhà Nguyễn,
thời Mạc Cửu và Mạc Thiên Tích, Hà Tiên được hưởng một chế độ cai trị đặc
biệt, như một “tiểu quốc”. Do đó, họ Mạc cho lập hai nơi này để tế cáo trời đất
(giống như Vua_Chúa nhà Nguyễn). Từ năm 1708 đến năm 1770, Trấn Hà Tiên
dưới thời Mạc Cửu và nhất là Mạc Thiên Tích (con Mạc Cửu), đã là một
thương cảng sầm uất, mà sử thần nhà Nguyễn là Trịnh Hoài Đức viết “là một
nơi đô hội ở miền biển”.
Cũng từ Lăng Mạc Cửu, ta có thể đi vòng qua triền núi phía Tây để viếng mộ
Mạc Mi Cô (Mạc Mi Cô là con gái của Mạc Thiên Tích_dân địa phương còn
gọi là Bà Cô Năm ), do truyền tích linh thiêng nên từ lâu rất được nhiều người
sùng bái. Và ta cũng có thể vòng qua triền núi phía Bắc để thăm ngôi “Phù
Dung Cổ Tự”, một trong những ngôi chùa cổ của Hà Tiên và có thể nói là của
cả Kiên Giang, đặc biệt chỉ có chùa Phù Dung có điện thờ Ngọc Hoàng phía
sau chùa. Ngôi chùa này được biết nhiều qua vở tuồng dã sử “Áo cưới trước
cổng chùa” do thi sĩ Kiên Giang Hà Huy Hà dàn dựng từ tiểu thuyết “Nàng Ái
Cơ trong chậu úp” của nữ sĩ Mộng Tuyết được hư cấu từ hai nhân vật có thật là
Tổng Binh Đại Đô Đốc Mạc Thiên Tích và người vợ thứ của ông là bà Nguyễn
Thị Xuân, mà nhân dân địa phương kính trọng gọi là Bà Dì Tự. Hiện nay, núi
Lăng thuộc địa phận phường Bình San, thị xã Hà Tiên. Đến Hà Tiên, lên núi
Lăng để sống lại một chút với Hà Tiên thời mở đất.

10. CHÂU NHAM LẠC LỘ (THẮNG CẢNH ĐÁ DỰNG)


Đá Dựng cách trung tâm thị xã Hà Tiên khoảng 6km, cách Thạch Động về
hướng Tây Bắc, từ quốc lộ 80 đi vào khoảng 1850m, chơ vơ giữa đồng có một
dãy núi đá vôi, thường gọi là Đá Dựng. Đá Dựng có độ cao gần 100m, nhìn xa
Đá Dựng như một hình thang cân. Gọi là núi Đá Dựng vì đá ở đây dựng đứng
như vách.
Đá Dựng có tên cổ là núi Bạch Tháp, theo sách “Gia Định Thành Thông Chí”
do sử gia Triều Nguyễn là Trịnh Hoài Đức (viết xong năm Canh Thìn,
1820_đời Minh Mệnh) ở mục Sơn Xuyên Chí (chép về núi sông), về trấn Hà
Tiên có ghi về núi Đá Dựng như sau: Bạch Tháp ở phía Bắc núi Vân Sơn (tức
Thạch Động) năm dặm, sông núi quanh co, cỏ cây rậm rạp, nhà sư Quy Nhơn
là Hòa Thượng Hoàng Long Đại vân du, cắm gậy ở đây. Năm Đinh Tỵ (1737),
Túc Tông Hiếu Minh Hoàng Đế thứ 13, Hòa Thượng tịch, đồ đệ xây tháp bảy
cấp để cất xá lợi. Hàng năm cứ đến ngày Tam nguyên và Phật đản thì chim hạc
112
đến múa vượn xanh dâng quả, lưu luyến bồi hồi như có ý tham thiền nghe kệ,
có thể gọi là cảnh chùa tiêu sái. Còn trong Hà Tiên thập cảnh, Đá Dựng với tên
gọi là Châu Nham Lạc Lộ (Cò về núi ngọc). Đặt là châu nham vì núi Đá Dựng
có loại thạch nhủ tinh quang lấp lánh như kim cương, có nhiều màu sắc đẹp
như châu ngọc. Nham là núi đá cao, có nhiều hang hốc. Lạc là rơi rụng. Nói về
vật nhẹ từ trên cao rơi xuống, như lá cây rụng, như đám mây bay thấp xuống.
Lộ là loài chim phần nhiều loại lông trắng, loại thủy cầm sinh sống ở chỗ đầm,
ao vũng vực, ăn cá ăn tôm. Châu Nham Lạc Lộ là cảnh đàn cò trắng bay về dãy
núi Châu Nham. Châu Nham là dãy núi đá vôi có nhiều hang động, xa xa
chung quanh có đầm nước. Loại chim cò sáng đi ăn ở các đầm vũng, ở bãi biển
mé gành, buổi tối bay về nghỉ cánh ẩn vào hang đá, trốn mưa, trốn nắng, trốn
người săn bắt.

Biết chỗ mà nương ấy mới khôn,


Bay về đầm cũ mấy mươi muôn
Đã giăng chữ nhất dài trăm trượng,
Lại sắp bàn vây trắng mấy non.
Ngày giữa ba xuân ngân phấn vẽ;
Đêm trường chín hạ tuyết sương còn.
Quen cây chim thể người quen chúa,
Dễ đổi nghìn cân một tấc son.

Hiện nay, trong các hang hốc của Đá Dựng, có nhiều vỏ hào, vỏ ốc còn dính lại
trên vách đá, chứng tỏ xưa kia nơi đây là đầm nước. Ao đầm vũng vực, chính là
nơi thích nghi cho loại chim, loại cò, loại le le, vịt nước sinh hoạt. Cứ như thơ
văn sách vỡ cũ xét thấy thì dãy Đá Dựng này xưa kia là một sân chim như các
sân chim ở Rạch Giá, Cà Mau. Các sách chữ Hán viết là Điểu Đình. Do quá
trình thay đổi về địa chất và địa hình qua hàng nghìn năm đã tạo nên núi Đá
Dựng ngày nay. Đá Dựng có một vị trí chiến lược quân sự quan trọng nên đã
trở thành căn cứ cách mạng của Đảng bộ và Quân dân Hà Tiên trong cuộc
kháng chiến chống Mỹ và trong công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Cụ thể
là: lực lượng ta chưa đến 100 người với lòng quả cảm và ý chí kiên cường, các
chiến sĩ cách mạng đã giữ vững căn cứ Đá Dựng qua cuộc chiến đấu suốt 27
ngày đêm tháng 05 năm 1970. Bây giờ ở các hang của Đá Dựng dấu tích của
trận chiến năm xưa vẫn còn. Đến tham quan Đá Dựng để hiểu vì sao иá Dựng
đi vào lịch sử đấu tranh của Đảng bộ và Quân dân Hà Tiên như một truyền
thống hào hùng. Mỗi hang của Đá Dựng có một vẻ đẹp riêng và rất huyền bí.
Các hang với những tên gọi như: hang Mẹ Sanh, hang Bồng Lai, hang Thần
Kim Qui, hang Biệt Động, hang Khổ Qua,…
113
Đá Dựng là một điểm tham quan độc đáo bởi thạch nhủ trong các hang của Đá
Dựng có những hình thù khác nhau: thạch nhủ có hình như trái khổ qua, khối
đá xanh hình con rùa, phiến đá như chiếc đĩa bay, đá trên vách hang nhô ra như
đầu con bò, đầu con khủng long, vách đá nghiêng nhìn như chiếc áo cà sa lung
linh ánh chớp,… Đá Dựng, một di tích lịch sử, một nơi tham quan du lịch hấp
dẫn. Đến Đá Dựng như trở về cội nguồn lịch sử , cũng như khám phá vẻ đẹp kỳ
bí của các hang động.
5.4 Cửa khẩu quốc tế Hà Tiên
Đây là cửa khẩu thuộc khu vực Hà Tiên, Kiên Giang. Nơi đây còn có tên gọi là
cửa khẩu Xà Xíu và là điểm thông thương với vùng Prek Chak - cửa khẩu
thuộc huyện Kampong của tỉnh Campot, Campuchia.
Do đó, khu vực này đã trở thành địa điểm du lịch, tham quan được rất nhiều du
khách yêu thích. Nếu bạn muốn thực hiện hành trình khám phá vương quốc
Campuchia thì bạn có thể lựa chọn điểm đến này để có thể thuận tiện nhất
trong hành trình khám phá nơi đây.
Tại đây có cột mốc 313 nằm giữa 2 vùng biên giới của 2 nước. Đặc biệt, cộc
mốc biên giới này cũng nằm trong tuyến đường xuyên biên giới của 3 nước
Việt Nam - Campuchia - Thái Lan. Nhờ có vùng mốc biên giới tại cửa khẩu Hà
Tiên này mà kinh tế của các vùng giáp ranh giữa 2 nước này mới có thể phát
triển hơn.
Hiện tại, vùng biên giới giáp ranh này đã được 2 nước phối hợp quản lý chặt
chẽ để có thể đảm bảo an ninh cho khu vực này được tốt hơn. Đặc biệt, ngăn
chặn vấn đề tội phạm, buôn lậu xảy ra. Những năm gần đây, cửa khẩu quốc tế
Hà Tiên đã trở thành địa điểm hút lượng lớn du khách tới tham quan, du lịch.
ơi đây được thiên nhiên ưu ái khi ban tặng cho rất nhiều cảnh sắc thiên nhiên
tươi đẹp. Trong đó, phải kể tới một số cái tên nổi bật như núi Đá Dựng, lăng
Mạc Cửu hay chùa Phù Dung. Đây đều là những điểm đến lý tưởng để bạn có
thể trải nghiệm và tìm hiểu.
Ngoài ra, tại khu vực gần cửa khẩu này còn có rất nhiều bãi biển Hà Tiên đẹp
để bạn khám phá như Mũi Nai, bãi Nò hay bãi Bàng. Những bãi biển này sẽ
giúp bạn thỏa sức tắm mát, nô đùa. Chắc chắn, bạn sẽ cảm thấy rất thoải mái và
dễ chịu khi được đắm mình trong làn nước biển trong xanh, mát rượi.
Nếu bạn muốn khám phá di tích lịch sử còn sót lại của vùng đất Hà Tiên này thì
ngay gần cửa khẩu Hà Tiên có khu địa đạo Lợi Thuận để bạn có thể chọn làm
điểm dừng chân khám phá dành cho mình.
Điều đặc biệt nhất khi tới khu vực cửa khẩu này để khám phá đó là bạn có thể
dễ dàng ghé thăm đất nước Campuchia thông qua địa điểm cửa khẩu này. Bạn
chỉ cần lên kế hoạch từ trước và chuẩn bị cho mình đầy đủ các loại giấy tờ cá

114
nhân cần thiết là có thể yên tâm sang Campuchia du lịch mà không phải đi lại
và di chuyển quá xa.
hi phí để bạn sở hữu một tấm hộ chiếu đi Campuchia cũng không quá đắt. Đó
là quy định dành cho các nước không thuộc khối Asean cần phải có visa hộ
chiếu mới có thể di chuyển tới Campuchia. Tuy vậy, nếu là công dân Việt Nam,
bạn sẽ không cần phải xin hộ chiếu bởi cả Việt Nam và Campuchia đều là các
nước thuộc khối Asean. Do đó, khi đi qua cửa khẩu Xà Xía Hà Tiên để sang
Campuchia, bạn sẽ không phải chuẩn bị visa.Khi thực hiện chuyến đi du lịch
Campuchia thông qua cửa khẩu Hà Tiên, bạn sẽ phải mất phí là
50.000vnđ/người. Mức phí này chỉ mất 1 lần và khi quay trở về bạn sẽ không
phải mất nữa.
Khi tới được đất nước Campuchia, bạn sẽ được tham gia rất nhiều những trải
nghiệm thú vị dành cho mình. Bởi đất nước này có rất nhiều điều hấp dẫn đang
chào đón bạn tới khám phá. Một số địa điểm du lịch đẹp rất thích hợp để bạn
ghé thăm khi đến Campuchia như thị xã Kampot, bãi biển Kep, suối Teuk
Chhou và núi Bokor...
5.5 Chùa Phù Dung
Chùa Phù Dung hay còn gọi là chùa Phù Cừ hay Phù Dung Cổ Tự là ngôi chùa
cổ tự danh tiếng, trọng điểm du lịch của tỉnh Kiên Giang. Tọa lạc tại chân núi
Bình Sam, thị xã Hà Tiên, nên chùa là nơi thuận lợi để du khách hành hương lễ
phật và cầu may mỗi khi đến với mảnh đất Kiên Giang.
Ngôi chùa này còn là một trong những danh lam cổ tự thiêng liêng nổi tiếng tại
Hà Tiên có phong cảnh thiên nhiên độc đáo, điểm tô cho non nước cõi biên nét
uy nghiêm trầm mặc. Được xây dựng vào khoảng cuối thế kỷ 18 nên chùa vẫn
mang nhiều nét kiến trúc phật giáo cổ điển từ thời nhà Lê.
Chùa Phù Dung gắn liền với sự tích về nữ trụ trì đầu tiên của chùa. Tên của bà
là Phù Dung hay còn thường gọi là Dì Tự được cắt nghĩa ra thành “Bà Dì ở Am
Tự”. Tương truyền rằng, Mạc Lịnh Công có bà vợ thứ tên là Phù Dung rất
được sủng ái. Chính điều này, khiến cho bà vợ cả là Thái phu nhân Nguyễn
Hiếu Túc sinh lòng ghen tức. Nhân lúc Mạc Công đi vắng bà bày kế hãm hại
Phù Dung phu nhân nhưng không thành. Kể từ sau đó, Phù Dung trở nên chán
chường xin đi tu và được Mạc Công cất cho 1 ngôi am tự để tu hành. Và nơi
đây trở về sau trở thành chùa Phù Dung.
Thời điểm thích hợp nhất để bạn vừa đi chùa lễ phật cầu may, vừa vãn cảnh
ngắm chùa và cảnh đẹp Hà Tiên là sau tết Nguyên Đán cho tới tháng 5. Vì khí
hậu nơi đây thuộc khí hậu vùng nhiệt đới gió mùa cận xích đạo, nên mùa mưa
thường bắt đầu từ khoảng cuối tháng 5 – tháng 10, sẽ không thuận tiện cho việc
đi lại tham quan của bạn. Nhưng có nhiều năm mùa mưa đến sớm và kết thúc
muộn hơn, bạn cần chú ý theo dõi thời tiết trước khi thực hiện chuyến đi.

115
Kiến trúc của chùa Phù Dung khá đơn giản và hòa hợp với không gian xung
quanh có phần sân và phần thờ tách biệt. Ngay phía sân chùa là một pho tượng
Phật Quan Thế Âm cao chừng 4m, được sơn trắng và đứng trên đài cao. Kế bên
là chính diện được trang trí trang nghiêm với vị trí chính giữa là tượng Thích ca
Mâu Ni, phía hai bên là hai đại đệ tử Anan và Ca diếp.
Toàn cảnh ngôi chùa được bố trí hài hòa, nổi bật với 4 bức phù điêu lớn, mỗi
bức cao 1,3 m và ngang 2,3 m. Những bức phù điêu là minh họa cho 4 cảnh
đức Phật đản sanh, xuất gia, thuyết pháp và nhập niết bàn. Tiến sâu vào sau
lưng ngôi chính diện là một khoảng sân nhỏ với một tòa lầu gác cao hai tầng có
tên gọi “Ngọc Hoàng bửu điện”. Đến đây du khách sẽ biết được nơi thờ Ngọc
Hoàng thượng đế cùng hai vị Nam Tào và Bắc Đẩu.
Nhưng có lẽ điều đặc biệt nhất khi vãn cảnh Phù Dung cổ tự là du khách được
tìm lại dấu ấn xưa của mảnh đất Hà Tiên, nghe kể lại câu chuyện tình lãng mạn
và cảm động để chuyến du hành thêm phần hấp dẫn hơn

5.6 Tổng quan An Giang: vùng thất Sơn, văn hóa Óc Eo, các tín ngưỡng và
tôn giáo
Vùng thất Sơn
Nguồn gốc:
Bảy Núi có tên chữ là Thất Sơn (Hán-Việt), các tín đồ Bửu Sơn Kỳ Hương tôn
xưng là Bửu Sơn, gồm bảy ngọn núi không liên tục, đột khởi trên đồng bằng
miền Tây Nam Bộ thuộc huyện Tri Tôn và thị xã Tịnh Biên, tỉnh An Giang,
Việt Nam. Ngược dòng lịch sử khoảng một triệu năm trước, trong thời kỳ
Pleistocene, hàng loạt các hoạt động tân kiến tạo đã làm vỏ trái đất ở khu vực
Bảy Núi bị nức nẻ, lún sụt hoặc nhô cao nhiều nơi. Sau đó là những đợt biển
tràn ngập cả vùng Nam Bộ khoảng 10.000 đến 11.000 năm thì chấm dứt. Dấu
tích của những thời biển tiến này còn để lại các bậc thềm biển cổ ở những vùng
quanh như: núi Cấm, núi Dài, núi Phú Cường,... của thị xã Tịnh Biên, tỉnh An
Giang. Phần nhô cao tức đồi núi ở An Giang gồm nhiều đỉnh có hình dạng, độ
cao và độ dốc khác nhau, phân bố theo vành đai cánh cung kéo dài gần 100km.
Khởi đầu từ xã Phú Hữu (huyện An Phú) qua xã Vĩnh Tế (thị xã Châu Đốc),
bao trùm lên gần hết hai huyện Tri Tôn và Tịnh Biên, về tận xã Vọng Thê,
Vọng Đông rồi dừng lại ở thị trấn Núi Sập của huyện Thoại Sơn. Và vùng Bảy
Núi khi xưa là đất của Chân Lạp. Rồi trong một cuộc tranh giành quyền lực,
Nặc Ông Tôn được chúa Nguyễn giúp đỡ đã trở lại ngôi vua. Để tạ ơn, Nặc
Ông Tôn hiến đất Tầm Phong Long, trong đó có Bảy Núi, vào năm 1757.
Giới thiệu:
Tên Thất Sơn lần đầu được biên chép trong Đại Nam Nhất Thống Chí (phần An
Giang tỉnh, mục Sơn Xuyên), và gồm các núi: Tượng, Tô, Cấm, Ốc Nhẫm,

116
Nam Vi, Tà Biệt và Nhân Hòa. Sau đó, Hồ Biểu Chánh trong Thất Sơn huyền
bí và Nguyễn Văn Hầu trong Thất Sơn mầu nhiệm, cho rằng đó là các núi:
Tượng, Tô, Cấm, Trà Sư, Két, Dài, Bà Đội Ôm.
Còn theo Việt Nam tự điển của Lê Văn Đức, xuất bản tại Sài Gòn vào năm
1972; được Vương Hồng Sển dẫn lại trong Tự Vị Tiếng Nói Miền Nam, thì đó
là các núi: Tượng, Tô, Cấm, Sam, Két, Dài, Tà Béc…
Đến năm 1984, Trần Thanh Phương cho xuất bản Những Trang sử về An
Giang, đã kể tên bảy Núi là:Núi Cấm (Thiên Cẩm Sơn), Núi Dài Năm Giếng
(Ngũ Hồ Sơn), Núi Cô Tô (Phụng Hoàng Sơn), Núi Dài (Ngọa Long Sơn), Núi
Tượng (Liên Hoa Sơn), Núi Két (Anh Vũ Sơn), Núi Nước (Thủy Đài Sơn).
a. Núi Cấm (Thiên Cấm Sơn)
Địa chỉ: xã An Hảo, huyện Tịnh Biên
Cao 705m với đỉnh Bồ Hong hay dân địa phương còn gọi với tên Điện Bồ
Hong là đỉnh núi cao nhất trong Thất Sơn, được mệnh danh là “nóc nhà của
miền Tây” và được xem là trái tim của vùng Bảy Núi. Trên núi có các danh lam
và danh thắng như: Chùa Vạn Linh, chùa Phật Lớn, tượng Phật Di Lặc, hồ
Thủy Liêm, v.v…
Ngoài ra, dọc theo những lối mòn từ chân lên tới đỉnh núi có nhiều điểm tham
quan như: suối Thanh Long, suối Tiên, điện Cây Quế, điện Mười Ba, điện Tam
Thanh, điện Huỳnh Long, hang Ông Thẻ, hang Ông Hổ, hang Bác Vật Lang,
động Thủy Liêm. Ngoài ra, dọc theo những lối mòn từ chân lên tới đỉnh núi có
nhiều điểm tham quan như: suối Thanh Long, suối Tiên, điện Cây Quế, điện
Mười Ba, điện Tam Thanh, điện Huỳnh Long, hang Ông Thẻ, hang Ông Hổ,
hang Bác Vật Lang, động Thủy Liêm. Dưới chân núi Cấm, về phía Đông là khu
du lịch Lâm Viên, với diện tích khoảng 100 ha, có cảnh quan đẹp, có đường
tráng bê tông khá rộng lên đến đỉnh, đặc biệt có cáp treo núi Cấm đã được hoàn
thành và đưa vào phục vụ khách du lịch từ ngày 14 tháng 02 năm 2015.
b. Núi Dài Năm Giếng (Ngũ Hồ Sơn)
Địa chỉ: xã Thới Sơn, huyện Tịnh Biên
Núi Dài Năm Giếng còn được gọi là Núi Dài Nhỏ. Đây là ngọn núi cao đứng
hàng thứ tư trong Bảy Núi thuộc tỉnh An Giang, Việt Nam (cao 265m).
Sở dĩ có tên Núi Dài 5 Giếng vì trên núi có năm nơi mặt đất trũng sâu như
giếng nước. Núi tuy hiểm trở nhưng có nhiều cảnh đẹp, nhiều vườn cây trĩu trái
quanh năm, như: ổi, xoài, bưởi, mận, sầu riêng, thanh long… Cho nên có người
mô tả “nhìn theo hướng mỏ Két của núi Két, phía trước mặt là dãy Ngũ Hồ
Sơn, có thể ví như một hòn non bộ khổng lồ tuyệt đẹp”. Và cũng nhờ những
câu chuyện tâm linh kì bí ấy, Ngũ Hồ Sơn đã trở thành điểm du lịch thu hút
nhiều sự quan tâm của du khách từ khắp mọi miền đất nước. Ngoài ra ở chân
núi còn có vườn thanh long ruột đỏ nữa, ra trái vào khoảng tháng 6 hàng năm.
117
c. Núi Cô Tô (Phụng Hoàng Sơn)
Địa chỉ: xã Cô Tô, huyện Tri Tôn
Cao 614 m, xuất phát từ tên gọi Phnom-Ktô của người dân tộc Khmer, núi Cô
Tô được kể lại là nơi có lưu lại dấu chân phượng hoàng từ thuở khai thiên lập
địa. Nằm ở sườn phía Đông núi Cô Tô là một hồ nước có vẻ đẹp hoang sơ,
nước hồ luôn xanh biếc và phẳng lặng thích hợp để cho du khách ngắm cảnh
hoặc ghi lại những bức ảnh kỉ niệm cùng người thân và gia đình.
d. Núi Dài (Ngọa Long Sơn)
Địa chỉ: thuộc địa phận 3 xã gồm Châu Lăng, Lương Phi, Lê Trì và một phần
của thị trấn là Ba Chúc, huyện Tri Tôn
Là núi dài nhất trong Bảy Núi; nay thuộc tỉnh An Giang, Việt Nam (dài khoảng
8.000 m, cao 580 m).Đây là núi có độ dốc lớn, thách thức tinh thần chinh phục
của du khách. Tuy nhiên, nơi đây xứng đáng là một trong những ngọn núi đẹp
nhất vùng Thất Sơn, khi sở hữu nhiều loại đá và cây rừng quý hiếm. Ngoài ra,
núi Dài còn có rất nhiều nương rẫy, vườn cây ăn trái và thắng cảnh. Nhưng đặc
biệt hơn cả đó là căn cứ Ô Tà Sóc, một căn cứ cách mạng trước năm 1975 đã
được xếp hạng là Di tích Lịch sử cấp quốc gia.
e. Núi Tượng (Liên Hoa Sơn)
Địa chỉ: thị trấn Ba Chúc, huyện Tri Tôn
Dù độ cao chỉ 145m nhưng núi Tượng là nơi được rất nhiều du khách ghé
thăm, bởi nơi đây gắn liền với những chứng tích của cuộc thảm sát từ thời kì
Pôn Pốt xâm lược An Giang. Vì ở một vùng bán sơn địa và vì do cấu tạo địa
chất đặc biệt, nên nhiều nơi bên trong núi là một hệ thống hang động ngầm như
tổ ong lớn, rất kiên cố và vững chắc.
f. Núi Két (Anh Vũ Sơn)
Địa chỉ: thị trấn Nhà Bàng, huyện Tịnh Biên
Cao 225m với đặc trưng là một tảng đá nằm nhô ra ngoài vách núi với hình
dạng giống một con két, nên còn được dân nơi đây gọi là Núi Ông Két. Đường
lên đỉnh núi Két dài khoảng 600 mét, được xây bậc thang và đều có hành lang
an toàn. Đi dần lên núi có các địa điểm đáng tham quan như: Sân Tiên, Giếng
Tiên, điện Chư Thần, điện Phật Thầy, điện Phật Mẫu, điện Ngọc Hoàng, điện
Huỳnh Long, điện Ba Cô, điện U Minh, điện Chư Vị Năm Non Bảy Núi và tiêu
biểu nhất là “mỏ ông Két” cùng với nhiều truyền thuyết dân gian…Tuy nhiên,
ở gần chân núi có ba di tích rất được nhiều người đến thăm viếng và chiêm bái
hơn cả, đó là Đình Thới Sơn, Chùa Thới Sơn, Chùa Phước Điền, vì các nơi thờ
này đều gắn liền với thời lưu dân đi mở đất và với giáo phái Bửu Sơn Kỳ
Hương.
g. Núi Nước (Thủy Đài Sơn)
118
Địa chỉ: thị trấn Ba Chúc, huyện Tri Tôn
Chiều cao khiêm tốn nhất trong 37 ngọn núi ở An Giang, chỉ với 54m nhưng
Núi Nước vẫn được xếp vào Thất Sơn. Lý do được người dân địa phương giải
thích bởi Thuỷ Đài Sơn được người xưa ca tụng là nơi quy tụ nhiều linh khí của
đất trời, góp phần không nhỏ trong quá trình khai thiên lập địa cho vùng đất
này.
Ngay chân núi có chùa Linh Bửu, do Ngô Lợi (Giáo chủ đạo Tứ Ân Hiếu
Nghĩa) cho xây dựng vào ngày 9 tháng 6 năm Giáp Thân (1884). Tương truyền
trên đỉnh núi, thuở xa xưa ai đó đã chôn sâu một trụ đá khắc chữ Hán, cốt để
trấn ếm long mạch, nhưng sau này đã được Giáo chủ Ngô Lợi cho đào lên phá
hủy. Tuy nhỏ và có dáng dấp như một hòn non bộ lớn, nhưng núi cũng có một
ít cây cổ thụ, một ít hang động nhỏ…
Lịch sử:
Thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, quân dân ta đã bám trụ chiến đấu
dựa vào địa thế Thất Sơn và sự đùm bọc của đồng bào ở các xóm làng phum
sóc từ biên giới trải dài về đến chân các ngọn núi. Núi Dài, núi Tượng, núi Két,
núi Cấm hay đồi Ma Thiên Lãnh, Ô Tà Sóc... đều có dấu tích những hang đá
mà bộ đội ta chọn làm nơi chôn cất vũ khí, ẩn nấp và chiến đấu.
Đế quốc Mỹ tập trung những khí tài hiện đại nhất đổ vào dãy Thất Sơn, đặc
biệt là đồi Tức Dụp. Đây là một ngọn đồi nhỏ với diện tích hơn 2ha, cao chừng
300m được thiên nhiên tạo dựng, kết cấu đặc biệt bởi những hòn đá lớn nhỏ
xếp chồng lên nhau chẳng khác gì hòn non bộ. Các ngách vách đá đã hình
thành một hệ thống hang đá với những đường ngoằn ngoèo thông nhau với
những con suối tự nhiên ngày đêm róc rách. Dựa vào địa thế đó, Tỉnh ủy An
Giang, Huyện ủy Tri Tôn đã chọn đồi Tức Dụp làm căn cứ. Đây còn là cầu nối
trung gian quan trọng của bộ đội trong tuyến đường từ Bắc vào Nam theo hành
lang biên giới Campuchia vào miền Tây Nam Bộ. Chính vì thế, đế quốc Mỹ đã
huy động lực lượng gần 18.000 quân với các vũ khí hiện đại, trong đó có cả
máy bay ném bom B-57, F-4 và "pháo đài bay" B-52 tấn công vào đây trong
suốt 128 ngày đêm, với ước tính hao tổn gần 2 triệu USD. Tuy nhiên, cuộc
oanh tạc quy mô ấy vẫn không lay chuyển được căn cứ của quân dân ta, đặc
biệt là thế trận lòng dân nơi này.
Vùng Bảy Núi còn gắn liền với những dấu mốc lịch sử quan trọng của cuộc
chiến tranh bảo vệ biên giới Tây Nam, đặc biệt là núi Tượng, nơi ghi dấu cuộc
thảm sát hơn 3.000 thường dân do bọn diệt chủng Pol Pot gây ra. Núi Tượng
đau thương, nhưng núi Tượng cũng anh hùng với những chiến tích các trận
đánh không chỉ từ thời chống Mỹ như trận Cầu Sắt Vĩnh Thông mà đến cả thời
kỳ truy quét tàn quân Pol Pot như trận Phú Cường, Lạc Qưới, Vĩnh Gia... Bên
cạnh đó, những ngọn núi Sam, núi Đất cũng ghi dấu những trận đánh bảo vệ
biên cương với những chiến tích oai hùng.

119
Huyền thoại:
- Có rất nhiều người giờ đây vẫn một mực tin rằng quyền năng của bùa ngải mà
các đạo sĩ Thất Sơn chế ra có thể xoay chuyển càn khôn, đỡ đần hoặc là tuyệt
hạ những phận người. Hay là Thất Sơn vẫn còn mãnh xà, hổ dữ, còn trăn gió
quăng mình qua mấy quả đồi, còn cây cổ thụ ẩn náu oan hồn... Vùng Bảy Núi
xưa nay chứa nhiều câu chuyện kỳ lạ, đồn thổi và linh thiêng, có thể vì thế mà
vùng đất này càng trở nên hấp dẫn để phát triển du lịch văn hóa tâm linh càng
dễ dàng không?
- Dân gian có câu: “Tu Phật núi Yên, tu tiên Bảy Núi” là để nói một thời Thất
Sơn là nơi tu luyện của nhiều tu sĩ đạo giáo. Họ dựa vào nơi có cánh đồng lớn,
có lương thực dồi dào và địa thế hiểm trở, hoang vu của các ngọn núi để ẩn trú.
Ngụy trang thêm cho dễ bề ẩn náu, họ phóng tác các câu chuyện ly kỳ về vùng
đất này, tạo ra các huyền tích linh diệu để người ta càng ít lui tới, càng hoang
vắng càng tốt. Vùng này lại giáp ranh với biên giới sang Campuchia, dễ bề ứng
biến nếu có loạn lạc. Người dân thường không mấy ai lên núi hoặc bén mảng
tới các hang đá, điện thờ, am tháp, các vồ (chỏm núi nhô ra có đặt am thờ) nên
núi càng huyền bí và càng là mảnh đất màu mỡ để thêu dệt bao nhiêu câu
chuyện hoang đường. Chuyện về voi lớn, hổ dữ, bùa ngải, ma dẫn lối quỷ đưa
đường... đều được truyền kể rất nhiều nhưng thực tế chưa ai nhìn thấy.
Văn hóa Óc EoVăn hóa Óc Eo là một nền văn hóa cổ hình thành và phát triển ở
Nam Bộ Việt Nam từ thế kỷ 1 đến thế kỷ 7 sau Công Nguyên. Đây là một nền
văn hóa lớn trong lịch sử Việt Nam, gắn liền với đất nước, con người ở vùng
châu thổ hạ lưu sông Mê Kông và có quan hệ mật thiết với lịch sử Đông Nam
Á cổ đại.
Óc Eo vốn là tên một gò đất trên cánh đồng phía đông nam núi Ba Thê (nay
thuộc thị trấn Óc Eo, huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang), là nơi đầu tiên tìm thấy
những di chỉ quan trọng của nền văn minh này vào năm 1944.Văn hóa Óc Eo là
nền văn hóa bản địa gắn liền với sự tồn tại của Phù Nam – một vương quốc
hùng mạnh tại Đông Nam Á trong những thế kỷ đầu Công nguyên. Phạm vi
phân bố của nền văn hóa này trải rộng không chỉ ở Nam Bộ Việt Nam, mà còn
ảnh hưởng sang Campuchia, Thái Lan, Myanmar và một phần Malaysia hiện
nay. Tại Nam Bộ, nhiều di tích văn hóa Óc Eo đã được khai quật ở các tỉnh
thành như An Giang, Kiên Giang, Đồng Tháp, Cần Thơ, Bạc Liêu, Vĩnh Long,
Tiền Giang, Long An, Tây Ninh, Thành phố Hồ Chí Minh, Đồng Nai... Khu
vực Óc Eo – Ba Thê được xem là trung tâm của nền văn hóa này.
Theo tư liệu điều tra của một số nhà khoa học trước đây thì tỉnh An Giang là
địa phương có sự tập trung nhiều nhất các di tích văn hóa Óc Eo với hàng trăm
di tích. Năm 2018, cuộc điều tra, điền dã khảo sát toàn tỉnh được Ban Quản lý
Di tích văn hóa Óc Eo thực hiện ở giai đoạn 1 đã xác định di tích văn hóa Óc
Eo phân bố khắp 10/11 huyện, thị, thành. Trong đợt điều tra này, Ban Quản lý
Di tích văn hóa Óc Eo đã tiến hành xây dựng bản đồ phân bố của 84 di tích còn
120
nhận diện rõ ràng ở 10/11 huyện thị và sẽ tiếp tục khảo sát, bổ sung di tích Óc
Eo vào các giai đoạn sau này.
Các di tích tập trung chủ yếu ở các vùng có địa hình cao như huyện Thoại Sơn
với các trung tâm Đá Nổi, Óc Eo – Ba Thê. Ở khu vực phía đông Bảy Núi,
cũng tập trung một loạt các di tích dày đặc trải dài từ từ xã Châu Lăng của
huyện Tri Tôn cho đến xã Thới Sơn của huyện Tịnh Biên. Ở khu vực xung
quanh núi Sam của thành phố Châu Đốc, cũng ghi nhận một lượng lớn các di
tích văn hóa Óc Eo bao gồm các di chỉ cư trú nằm xen kẽ với các di tích kiến
trúc tôn giáo. Ngoài ra, một số lượng lớn các di tích còn được phát hiện khi đã
phân bố rộng khắp các huyện Châu Thành, huyện Châu Phú, huyện An Phú,
huyện Phú Tân, thị xã Tân Châu và huyện Chợ Mới.
Khu di tích khảo cổ Óc Eo-Ba Thê là di tích cấp quốc gia đặc biệt trên địa bàn
tỉnh An Giang, đang trong giai đoạn làm hồ sơ đề nghị UNESCO ghi danh là
Di sản văn hóa thế giới. Quần thể di tích này là một địa điểm khảo cổ học có
phạm vi phân bố rộng, chứa đựng một khối lượng lớn di tồn văn hóa cổ của cư
dân văn hóa Óc Eo xưa. Kết quả của các chương trình khai quật khảo cổ học
cho thấy Óc Eo-Ba Thê mang tầm vóc của một đô thị cổ xưa, là một trong
những thành phố ra đời sớm nhất ở Đông Nam Á. Nhiều loại hình di tích được
phát hiện như kiến trúc đền thờ tôn giáo, khu cư trú, mộ táng, công xưởng thủ
công, hào thành, kênh cổ… Cùng với đó là nhiều bộ sưu tập hiện vật có số
lượng khổng lồ và đa dạng, phong phú về loại hình-chất liệu, phản ánh chân
thực về đời sống của cư dân cổ xưa, đặc biệt là những hiện vật mang tính
thương mại quốc tế tới từ nhiều quốc gia cổ đại phía tây. Khu Di tích khảo cổ
Óc Eo - Ba Thê có tổng diện tích bảo vệ là 433,2 ha, chia ra Khu A ở sườn và
chân núi Ba Thê là 143,9 ha, Khu B ở cánh đồng Óc Eo 289,3 ha. Một số di
tích tiêu biểu đã khai quật, bảo tồn như sau:Khu A: Di tích trong khu vực chùa
Linh Sơn, Di tích Nam Linh Sơn Tự, Di tích Linh Sơn Bắc, Di tích Gò Cây
Me… Khu B: Di tích Gò Giồng Cát, Di tích Gò Óc Eo, Di tích Gò Cây Thị,...
Các tín ngưỡng và tôn giáo
Về tôn giáo, bao gồm 12 tổ chức, hệ phái tôn giáo: Phật giáo Việt Nam (Bắc
tông và Nam tông Khmer), Phật giáo Hòa hảo, 4 hệ phái Cao đài (Cao đài Tây
Ninh, Cao đài Ban Chỉnh đạo, Cao đài Tiên thiên, Cao đài Chơn lý); Công
giáo, Hồi giáo, Tin lành, Tịnh độ cư sĩ, Tứ ân Hiếu nghĩa và Bửu sơn Kỳ
hương. Đặc biệt, An Giang là nơi khai đạo của ba tôn giáo: Phật giáo Hòa hảo,
Tứ ân Hiếu nghĩa và Bửu sơn Kỳ hương. Toàn tỉnh có hơn 530 cơ sở thờ tự hợp
pháp và còn nhiều cơ sở chưa được công nhận; có gần 590 chức sắc và gần
3.400 chức việc.
Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên: Có thể nói tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên là một
trong những tín ngưỡng điển hình, có lịch sử lâu đời và sức sống mãnh liệt nhất
trong văn hóa Việt Nam. Thờ cúng tổ tiên là sản phẩm của sự phối hợp hài hòa
giữa sùng bái vật linh và tín ngưỡng phồn thực, ngoài nền tảng chung hình
121
thành trong chiếc nôi văn hóa truyền thống chung của dân tộc, nó thường khoác
lên mình những nét đặc thù của riêng từng vùng đất mà tín ngưỡng này hiện
diện. Tại vùng đất Thoại Sơn, tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên có nền tảng triết lý,
hiện trạng thực hành tín ngưỡng và ý nghĩa văn hóa của nó khá tương đồng với
đặc điểm chung của khu vực ĐBSCL.
Tục thờ các anh hùng dân tộc và các chiến sĩ: Đối với cư dân Thoại Sơn, nhà
có tổ tiên, làng xóm có các bậc anh linh tiền bối, hiện diện rõ nét nhất là các
bậc anh hùng dân tộc có công lao to lớn cho quá trình khai phá vùng đất này
cũng như quá trình đấu tranh giải phóng dân tộc. Nhiều gia đình ở Thoại Sơn
coi các nhân vật Thoại Ngọc Hầu, Nguyễn Trung Trực, Hồ Chí Minh như
những vị tổ tiên chung, chính vì vậy nhân dân cất đình thờ hoặc phối tự trong
các đình, đền thờ quan trọng.
Tín ngưỡng thờ Ông Tà: Tín ngưỡng thờ Neak Tà hay thờ Ông Tà tồn tại từ
thời sơ khai của người dân Nam Bộ. Neak Tà là vị thần thuộc Tà thần, được
người dân Khmer tôn kính, cúng vái cầu những việc mà ta mong muốn. Về
nguồn gốc, Naek Tà là một trong những loại hình tín ngưỡng cổ xưa, xuất phát
từ Bà la môn giáo, có nghĩa như sau: " Neak" là ý nói đến con người nói chung
và "Tà" là chỉ một người đàn ông có tuổi hoặc thuôc phái nam. Có thể hiểu,
Neak Tà là vị thần có hình là người đàn ông có tuổi. Về quyền năng, dân chúng
quan niệm Ông Tà là một vị phúc thần và là thần bảo hộ trong phum sóc của
người Khmer. Nếu như người Việt, người Hoa có thờ Ông Địa và Thành Hoàng
thì người Khmer thờ Ông Tà như là một vị thần cai quản đất đai nơi chung
quanh Ông ở. Người Khmer An Giang tin rằng, Ông Tà là thần bảo hộ xung
quanh cho phum sóc của mình. Khi có việc gì thì đến miếu Ông Tà vái xin, dù
việc lớn hay nhỏ, quan trọng hay bình thường thì cũng đến cúng như: đau bệnh,
làm ăn không khá, xui xẻo,...
Tín ngưỡng thờ Mẫu và nữ thần: Bà Chúa Xứ là một dạng tín ngưỡng đặc
trưng của vùng đất Nam Bộ, tổ miếu nằm ở Núi Sam (Châu Đốc, An Giang),
hình thành trên cơ sở tổng hợp hài hòa giữa môi trường tự nhiên sông nước -
đồng bằng và núi non kết hợp với sự tổng hòa đa văn hóa Việt (tín ngưỡng thờ
Mẫu), văn hóa Chăm (tục thờ Thiên Yana Thánh Mẫu), văn hóa Hoa (Bà Thiên
Hậu Thánh mẫu) và văn hóa bản địa (thần Vishnu) trên nền tảng của văn hóa
người Việt. Bà Chúa Xứ được xem là vị nữ thần linh thiêng, có thể phù hộ cho
những người đến cầu xin sự hỗ trợ của Bà, đồng thời có thể trừng phạt những
ai xúc phạm hay sống không thánh thiện.
5.6 Khu nhà mồ Ba Chúc, chùa Phi Lai và chiến tranh biên giới
Khu nhà mồ Ba Chúc
Di Tích Nhà mồ Ba Chúc thuộc thị trấn Ba Chúc, huyện Tri Tôn, An Giang đã
được công nhận là di tích lịch sử quốc gia vào ngày 10/7/1980. Nơi đây lưu giữ
1.159 bộ hài cốt của những người dân vô tội bị sát hại và được xem là một bản
cáo trạng về tội ác diệt chủng của Pôn Pốt, muôn đời còn ghi nhớ. Đồng thời
122
khẳng định giá trị nhân văn, tính chính nghĩa và nghĩa vụ quốc tế cao cả của
Quân tình nguyện Việt Nam đối với sự nghiệp giải phóng Campuchia khỏi chế
độ diệt chủng và tái thiết đất nước.
Ban đầu, nhà mồ Ba Chúc có kiến trúc khá đơn giản, chỉ là một hình lục giác
vơi 4 cánh tay cầm 4 thanh kiếm cắm xuống đất. Đến năm 2013, nhà mồ Ba
Chúc được ủy ban nhân dân tỉnh An Giang đầu tư xây dựng lại. Hiện tại, nhà
mồ này đã trở thành một quần thể bao gồm nhà mồ, nhà lưu niệm, chùa Tam
Bửu, chùa Phi Lai và hội trường. Tổng diện tích nhà mồ Ba Chúc khoảng 5ha.
Hình lục giác với 4 cánh tay cầm 4 thanh kiếm đã được thay thế bằng hình hoa
sen 8 cánh úp ngược màu trắng. Mỗi nhóm hài cốt theo độ tuổi, giới tính được
xếp vào một cánh hoa sen như: 86 phụ nữ trên 60 tuổi; 155 phụ nữ từ 21 đến 40
tuổi; 88 thiếu nữ từ 16 đến 20 tuổi; 264 trẻ em từ 3 đến 15 tuổi; 23 nam từ 16
đến 20 tuổi…. Các yếu tố độ tuổi và giới tính của hài cốt được xác định dựa
vào giám định hộp sọ. Ngày 16/3 âm lịch hàng năm, nhân dân và Đảng bộ Ba
Chúc đều tổ chức lễ giỗ tập thể cho 1.159 người ở đây. Thường ngày, khu nhà
mồ này vẫn có những người dân đến thắp hương khấn vái.
Khu lưu niệm trong quần thể nhà mồ Ba Chúc trưng bày nhiều di vật, tranh ảnh
về cuộc thảm sát Ba Chúc. Du khách có thể thấy những chiếc tủ kính đựng hộp
sọ có ghi chú về giới tính, tuổi tác của nạn nhân, một số hộc tủ chứa hài cốt. Để
lưu giữ được những bộ xương cốt này, các nhà khoa học đã nấu sôi sáp và phủ
lên ngoài xương, đồng thời dùng vật chống ẩm. Tuy nhiên, nhiều hộp sọ và
xương cốt đã để lộ sự hưu hại, ngả màu và mục nát. nhiều tranh ảnh ghi lại các
cảnh giết người man rợ thời đó và một số dụng cụ được thu thập lại như cọc,
dùi, dao, búa… mà quân Pôn Pốt dùng để hành hạ, giết chóc người dân Ba
Chúc nói riêng, An Giang nói chung được đặt nằm im ắng trong các lồng kính,
nhưng chứa đựng sức mạnh tố cáo tội ác ghê gớm chỉ cần qua vài dòng mô tả
đính kèm.
Câu chuyện thảm sát Ba Chúc trong chiến tranh biên giới Tây Nam
Cách đây 40 năm, Ba Chúc là 1 xã thuộc huyện Bảy Núi, cách biên giới Việt
Nam - Campuchia chỉ 3,5km. Vào đầu năm 1977, dân số của Ba Chúc hơn
16.000 người, chủ yếu sống bằng nghề nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp
truyền thống, buôn bán nhỏ. Đây cũng là vùng đất khởi nguồn và trung tâm của
đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa, với nhiều buổi sinh hoạt lễ hội, lễ cúng phản ánh đời
sống tinh thần phong phú của người dân địa phương.
Vào đêm 30-4-1977, cùng lúc với 14 xã biên giới của tỉnh An Giang, Pôn Pốt
đã xua quân tấn công, tàn sát đồng bào ta một cách man rợ. Đỉnh cao của tội ác
này là cuộc thảm sát 3.157 người dân Ba Chúc từ ngày 18-4 đến 30-4-1978.
Qua 12 ngày đêm bị bọn Pôn Pốt chiếm đóng, Ba Chúc bị dìm trong biển máu.
Đi đến đâu chúng cũng cướp bóc tài sản, đốt phá nhà cửa, các công trình công
cộng; tàn sát đồng bào ta không kể già trẻ, nam nữ. Những cảnh giết người

123
hàng loạt, dã man diễn ra khắp nơi, không bút mực nào tả hết. Hàng trăm gia
đình phải sống cảnh “màn trời chiếu đất” vì bọn Pôn Pốt đốt phá nhà cửa.
Chùa Phi Lai là một trong những địa điểm bị phá hủy nặng nề. Nơi đây, bọn
Pôn Pốt giết gần 300 người dân vô tội.Quân Pôn Pốt bắn xối xả, tung lựu đạn
giết chết tại chỗ hơn 80 người. Những người dân hốt hoảng tháo chạy ra cửa, bị
quân Pôn Pốt dùng cây đập vào đầu hoặc bắn chết hơn 100 người nữa. Có 40
người đang ẩn trốn dưới bàn Phật, cũng bị tung lựu đạn làm chết 39 người, chỉ
một phụ nữ còn sống sót nhờ nép trong góc và nhờ những xác người che chắn..
Tại chùa Tam Bửu, quân Pôn Pốt bắt hơn 800 người dẫn ra cầu sắt Vĩnh Thông,
giồng Ông Tướng và nhiều nơi khác bắn chết. Cánh đồng núi Phú Cường, Ba
Chúc, núi Tượng mất đi màu xanh mát mắt, thay vào đó là hàng trăm người
chết nằm chồng lên nhau. Họ tử vong trong cảnh đau thương, thân thể không
lành lặn. Người và tài sản bị thiệt hại nặng nề, động vật cũng chịu chung số
phận. Tất cả đều bị giết. Bà Hà Thị Nga (sinh năm 1939) là người duy nhất
sống sót khi cha mẹ, anh chị em ruột, chồng, 6 đứa con, cùng cả dòng họ trên
100 người bị thảm sát. Bà Nguyễn Thị Ngọc Sương (sinh năm 1967) thành trẻ
mồ côi lúc mới 11 tuổi sau buổi chiều ngày 14-4 định mệnh ấy.
“Sau thảm sát, Ba Chúc chỉ còn lại là một vùng đất tan hoang với những nỗi
đau thương đến tận cùng. Đó là giai đoạn khó khăn nhất của Ba Chúc. Một số
người sống sót thì mất người thân, không dám trở về quê vì bị ám ảnh bởi
những ký ức kinh hoàng. Nhưng cũng có những người đã bám trụ lại vì nghĩa
tình với người đã khuất cũng như sống trọn với vùng đất quê hương. Nhiều
người dân chạy giặc trở về đối diện với muôn vàn khó khăn: không nhà cửa,
trâu bò vật nuôi bị giết hết, hoa màu vườn tược bị phá nát” - PGS.TS Trần Thị
Thanh Vân và Lê Hoàng Kháng (Trường Đại học Sài Gòn) đã ghi nhận như thế
trong bài nghiên cứu của họ.
Chứng tích muôn đời cho thế hệ mai sau
Thảm sát qua đi, hơn 30 phái đoàn ngoại giao, báo chí và Liên Hiệp quốc đã
đến nơi để chứng kiến tận mắt tội ác của bọn Pôn Pốt đối với đồng bào Ba
Chúc. Hội Chữ thập đỏ An Giang tham gia giúp dân gom xác của người đã
khuất để hỏa táng vào tháng 4-1978. Mọi người tranh thủ tìm kiếm những gì
còn sót lại sau thời gian Pôn Pốt chiếm đóng tại xã. Đống xương người được
cất giữ tại nhà mồ, dựng tạm sau chùa Phi Lai. Di vật xương sọ đều bị sứt mẻ
do bị đập đầu hoặc đạn xuyên phá.

Đến hôm nay, nhiều người vẫn tìm đến chứng tích căm thù Nhà mồ Ba Chúc,
nơi được xem là một bản cáo trạng về tội ác diệt chủng của Pôn Pốt, muôn đời
còn ghi nhớ. Nỗi đau này mãi mãi vẫn còn trong ký ức của dân tộc Việt Nam
và của những người yêu chuộng cuộc sống hòa bình trên thế giới. Ở đó, 1.159
bộ hài cốt được gìn giữ, là những gì còn sót lại của 3.157 người dân bị thảm

124
sát, được sắp xếp theo độ tuổi, như: 86 phụ nữ trên 60 tuổi; 155 phụ nữ từ 21
đến 40 tuổi; 88 thiếu nữ từ 16 đến 20 tuổi; 264 trẻ em từ 3 đến 15 tuổi; 23 nam
từ 16 đến 20 tuổi...

Năm 1979, quần thể Nhà mồ được xây dựng gồm 7 hạng mục: Nhà mồ, bia
căm thù, nhà truyền thống, nhà thủy tạ, hồ sen, nhà khách và vòng rào. Khu
Nhà mồ Ba Chúc được xây dựng lên giữa hai ngôi chùa để khắc ghi tội ác diệt
chủng được cho là do bọn Pôn Pốt gây ra. Nền nhà cao, có chín bậc thềm, bốn
cạnh hình vuông, bốn chiếc cột đỡ trắng ngà tạo hình lưỡi kiếm chống thẳng
xuống đất, vì kèo bên trên, chỗ tiếp giáp với cột có hình bàn tay nắm chặt chuôi
gươm. Ở giữa là nhà kính xây hình bát giác, mỗi mặt xếp nhiều tầng các sọ
người, với hai hốc mắt đang nhìn vào du khách; bên trong, xếp ngay ngắn
xương ống chân, ống tay. Để kéo dài tuổi thọ những bộ xương này, ngành
chuyên môn phải dùng sáp nấu sôi phủ bên ngoài xương tránh oxy hoá, dùng
vật chống ẩm. Tuy nhiên, số hài cốt có hiện tượng ngả màu và mục ở phần
xương sụn và xương trẻ em. Năm 1989, Sở Văn hoá và Bảo tàng An Giang đã
tiến hành lấy số hài cốt này ra làm vệ sinh, lau chùi, ngâm tẩm hoá chất rồi
phơi khô.
Chùa Phi Lai
Chùa Phi Lai nằm đối diện chùa Tam Bửu, tổ đình của đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa,
cách núi Tượng khoảng 200m về hướng Đông, thuộc thị trấn Ba Chúc, huyện
Tri Tôn, tỉnh An Giang.
Chùa do Ngô Lợi cùng với tín đồ xây dựng vào ngày 19 tháng 1 năm 1877. Và
giống như chùa Tam Bửu, chùa Phi Lai còn phải trùng tu vài lần vì bị thực dân
Pháp đến đốt phá (Đạo nạn), mới có được diện mạo như ngày nay.
Cảnh tượng chết chóc bên trong và quanh ngôi chùa Phi Lai khiến không ai
cầm nổi lòng mình. Rất nhiều vết bàn tay máu in trên tường, rồi vết máu hình
người dựa vào tường. Cả một đoạn tường dài cả chục mét thấm đẫm máu
người. Một vòng máu búng lên tường cao đến 4 mét. Máu đọng thành vũng
dưới nền chùa, thấm dọc ven tường đến 20cm.
5.7 Rừng Tràm Trà Sư và hệ sinh thái rừng tràm
1. Vị trí địa lý & tài nguyên thiên nhiên
-Rừng Tràm Trà Sư (An Giang) – là khu rừng ngập nước tiêu biểu cho vùng
Tây sông Hậu, là nơi sinh sống nhiều loài thực vật và chim cò quý hiếm được
ghi vào sách đỏ thuộc hệ thống rừng đặc dụng Việt Nam. Rừng Trà Sư được
trồng vào năm 1983 từ một vùng trũng hoang hóa, bị nhiễm phèn nặng đã được
Lâm trường Tịnh Biên trồng tràm thử nghiệm để góp phần cải tạo đất và ngăn
lũ đầu nguồn và được công nhận là khu bảo vệ cảnh quan năm 2005.

125
-Từ thị xã Châu Đốc, rẽ trái khoảng 17km đến thị trấn Nhà Bàng thuộc huyện
Tịnh Biên. Từ đây, đi theo đường tỉnh lộ 948 đến Km số 6, du khách tiếp tục rẽ
trái đi theo một con đường nhỏ dài khoảng gần 4km đến rừng tràm Trà Sư.
-Du khách đến rừng tràm Trà Sư, mỗi lúc lại thêm ngỡ ngàng và thích thú, vì
được nhận ra bao điều kỳ diệu của thiên nhiên mà cây rừng đang gìn giữ trong
sắc lá và hương tràm ngào ngạt. Với diện tích gần 850ha, rừng Trà Sư là nơi cư
trú của 70 loài chim, cò, trong đó có hai loài có tên trong “Sách đỏ Việt Nam”
là cò lạo Ấn Độ (giang sen) và cò cổ rắn (điêng điểng). Hệ sinh thái cũng rất
phong phú với 22 loài bò sát, 11 loài thú, 23 loài thủy sản, trong đó có 2 loài có
giá trị khoa học và đang đứng trước nguy cơ tuyệt chủng là cá trê trắng và cá
còm. Không chỉ phong phú về động vật, rừng tràm Trà Sư còn rất đa dạng về
thực vật với 140 loài thuộc 52 họ và 102 chi, trong đó có gần 80 loài dược liệu.
2. Thời điểm du lịch
-Mùa nước nổi là quãng thời gian thích hợp nhất để đến với rừng tràm. (tháng
8–11 ). Du khách đi thuyền xuyên rừng sẽ được ngắm cánh rừng biếc xanh bạt
ngàn mênh mông, nở đầy những bông hoa tràm trắng tinh khiết trong nắng
sớm, hương tràm thoảng đưa nhẹ nhàng khiến tinh thần trở nên thư thái, lâng
lâng. Nếu đi vào các thời điểm buổi sáng (khoảng 07:00 – 09:00) hoặc buổi
chiều lúc hoàng hôn (17:00 – 18:00) thì sẽ có thể thấy các đàn chim bay về tổ
rợp trời, kết hợp với ánh sáng trong của buổi sớm hoặc ngược ánh hoàng hôn
thì đây sẽ là khung cảnh vô cùng tuyệt hảo. Vừa ngắm cảnh đẹp, du khách có
thể vừa tự tay hái các loại rau muống, rau dừa, điên điển… trước khi đi sâu vào
rừng khám phá thế giới của các loài chim.
-Giá vé tham quan và sử dụng các dịch vụ tại rừng tràm Trà Sư mới nhất:.
+Giá vé vào cổng: 100.000 VND/ người (bắt buộc)
+Dịch vụ chèo xuồng ba lá vào rừng tràm: 50.000 VND/ người (không bắt
buộc)
+Dịch vụ di chuyển bằng tắc ráng: 50.000 VND/ người (không bắt buộc)
+Dịch vụ quan sát bằng kính viễn vọng: 5.000 VND/ người (không bắt buộc)
-Lưu trú:
+Hiện trong khu vực rừng tràm chưa có cơ sở lưu trú, nhưng phía trước cổng
vào đã có nhà nghỉ với tiện nghi tương đối. Hoặc bạn có thể tham quan trong
ngày, tối chạy về thị trấn Nhà Bàng, thị trấn Chi Lăng, TP. Châu Đốc nghỉ ngơi.

+Nếu bạn muốn thử cảm giác ngủ đêm trong rừng, bạn có thể liên hệ với cán
bộ kiểm lâm để được cho phép nghỉ đêm trên Đài Quan Sát. Nhớ mang theo
lều, mùng, mền và thuốc chống muỗi.
3. Dân tộc

126
-Ngoài những giá trị phong phú về mặt tài nguyên thiên nhiên, rừng tràm Trà
Sư còn chứa đựng những yếu tố văn hóa độc đáo của cộng đồng dân cư sống
ven rừng. Quanh rừng Trà Sư có khá nhiều đồng bào Khơ-me và Kinh sinh
sống với nhiều ngành nghề thủ công mỹ nghệ truyền thống như dệt thổ cẩm,
nấu đường thốt nốt, chưng cất tinh dầu tràm, nuôi ong lấy mật…
4.Tài nguyên du lịch( Tiềm năng phát triển du lịch sinh thái)
Du ngoạn rừng tràm với tắc ráng và xuồng chèo:
-Theo đó, khu du lịch sinh thái rừng tràm Trà Sư có các loại hình cảnh quan
như: hệ sinh thái đất ngập nước; sinh cảnh rừng tràm ngập nước; sinh cảnh
kênh, mương và các loài thực vật sen, súng, bèo; sinh cảnh đồng cỏ, đầm lầy
ngập nước theo mùa; các loài chim nước, thủy sản và động vật hoang dã vùng
đất ngập nước...
-Do đó, rừng tràm Trà Sư có rất nhiều hạng mục cho du khách tham quan. Một
trong những điểm không thể bỏ lỡ chính là việc du ngoạn trên sông bằng tắc
ráng. Tắc ráng là tên gọi của xuồng máy, hay còn gọi là võ lãi, là phương tiện
sinh sống gắn liền với người dân miền sông nước. Đến cổng rừng tràm, du
khách sẽ được đổi từ vỏ lãi sang xuồng chèo tay, mỗi xuồng chỉ khoảng 2 - 3
người ngồi kèm theo đó là một bác chèo thuyền kiêm cả việc hướng dẫn viên
cho du khách nơi đây. Phía dưới sông những dãi bèo cám xanh mướt khiến
khách du lịch thích thú vừa ngắm cảnh, vừa chụp ảnh lưu niệm.
-Vào sâu bên trong, rừng tràm Trà còn có một ngọn tháp cao 30m được xây
dựng để du khách dễ dàng ngắm toàn cảnh từ trên cao của khu du lịch sinh thái
này. Ở đây có kính viễn vọng (tầm nhìn đạt 25 km), để quan sát, và nếu may
mắn sẽ thấy hàng vạn con cò trắng bay về tổ như tấm vải khổng lồ phủ trên nền
rừng xanh. Ngoài ra từ đài quan sát này, du khách sẽ nhìn thấy một số ngọn núi
trong dải Thất Sơn như núi Ông Két (Anh Vũ Sơn), núi Cấm (Thiên Cấm Sơn),
hay tượng Phật Di Lặc cao 33,6m nằm trên núi Cấm hay cũng có thể thấy cả
dãy núi Sam…
Tháp vọng cảnh - chiêm ngưỡng toàn cảnh rừng tràm Trà Sư:
-Từ bến tắc ráng, du khách men theo một cồn đất để lên tháp vọng cảnh. Từ
đây, có thể chiêm ngưỡng sự hùng vĩ của thiên nhiên, nhìn thấy nếp sinh hoạt
của cộng đồng dân cư người Chăm ven rừng tràm, cũng như cảm nhận được sự
bao la, rộng lớn của rừng tràm Trà Sư.
Cầu tre vạn bước:
-Gần tháp vọng cảnh là cầu tre vạn bước - cây cầu dài 10 km được khánh thành
vào đầu năm 2020. Với kiến trúc độc đáo là những thanh tre ghép lại với nhau,
mới đây, cầu tre đã được Tổ chức Kỷ lục Việt Nam ghi nhận là “Cầu tre dài
nhất Việt Nam trong rừng tràm đẹp và nổi tiếng nhất Việt Nam”.

127
Tổ chim bồ câu:
-Ở ngay bến xuồng vào rừng là nơi làm tổ của chim bồ câu, được khá nhiều du
khách check-in. Thi thoảng sẽ có từng đàn bồ câu xuất hiện, tạo nên khung
cảnh đẹp mắt.
5. Ẩm thực:
-Ẩm thực tại khu rừng tràm cũng mang một nét đặc trưng riêng, với những
món ăn đúng chất Tây Nam bộ như món cá lóc nướng rơm, canh chua cá hoa
điên điển, chuột đồng nướng, gỏi sầu đâu cá sặc, cá nàng hai chiên giòn,…
5.8 Kênh Vĩnh Tế, biên giới
1.Lịch sử hình thành
-Kênh Vĩnh Tế bắt đầu đào vào tháng Chạp năm 1819, xuất phát từ bờ Tây
sông Châu Đốc, chạy song song với đường biên giới Việt Nam – Campuchia và
kết thúc tại điểm nối tiếp với sông Giang Thành (thị xã Hà Tiên, tỉnh Kiên
Giang). Kênh được đào dưới sự chỉ huy của Thoại Ngọc Hầu cùng với 2 ông
Nguyễn Văn Tuyên, Nguyễn Văn Tồn. Sau có thêm Tổng trấn thành Gia Định
Lê Văn Duyệt, cùng 2 Phó Tổng trấn Trương Tấn Bửu , Trần Văn Năng và
Thống chế Trần Công Lại cùng góp sức chỉ huy đến năm 1824 thì hoàn thành.
-Chuỗi sử sách chép lại về vùng đất phương Nam, tất thảy đều không che giấu
mục đích đào kênh, tầm quan trọng về mặt quân sự của kênh Vĩnh Tế. Việc đào
kênh nối liền Châu Đốc và Hà Tiên dẫn nước Hậu Giang ra biển Tây không
những đã mở mang bờ cõi, lợi nông ích thương, mà còn là việc quyết định đến
quan hệ quân sự quốc phòng với Cao Miên thời bấy giờ.
-Sách Gia Định thành thông chí ghi rõ, sau khi hoàn thành hệ thống đồn trú
vùng Châu Đốc, vua Gia Long xem địa đồ rồi phán rằng, xứ này nếu mở đường
thủy thông với Hà Tiên, nông thương đều lợi cả. Nếu mở kênh thì dân ở càng
đông, đất mở càng rộng dần sẽ thành một trấn to. Như vậy, đào xong kênh
Thoại Hà, thống chế Thoại Ngọc Hầu, lúc bấy giờ là Trấn thủ Trấn Vĩnh
Thanh, Gia Định nhận chiếu chỉ tiếp tục đào con kênh dọc theo biên giới Tây
Nam kéo từ Châu Đốc tới Hà Tiên trở thành công trình trị thủy trấn biên nổi
danh trong lịch sử - kênh Vĩnh Tế.
-Vua Gia Long cũng là vị vua triều Nguyễn nổi tiếng với khát vọng chinh phục
đất phương Nam, mở mang bờ cõi. Kênh Vĩnh Tế nằm trong chiến lược phân
định biên giới với nước láng giềng bằng cách tạo ra cuộc sống dân cư đông đúc
bền vững. Người dân canh tác lúa nước sinh cơ lập nghiệp ở vùng đất vốn là
sình lầy hoang vu này.
- Kênh Vĩnh Tế dài 87km, rộng 30m, 5 năm trời ròng rã với 80 nghìn binh lính,
sức người và công cụ thô sơ, kênh Vĩnh Tế hoàn thành và trở thành niềm tự hào
quân sự của đất phương Nam cho đến ngày nay. Công trình là tổng hòa sức
mạnh quân sự, trí tuệ của triều đại và công sức của hàng vạn dân phu. Phương
pháp đào kênh thời bấy giờ là cách tiếp sức, ngày đêm không nghỉ. Ban đêm,
128
họ dùng cách cắm cọc tiêu đốt đuốc rồi cứ theo hình chiếu 3 điểm để đào. Đây
là phương pháp thô sơ nhất để nối con kênh thẳng tắp từ Châu Đốc xuống Hà
Tiên và chỉ gấp khúc ở một vài đoạn nương theo đường biên giới. Rõ ràng, mục
đích quân sự trấn biên của con kênh là tiêu chí đầu tiên để hy sinh sức người,
sức của cho công trình này.
-Khi dòng nước phóng xuống biển Tây là lúc nhìn lại những lớp người đã phải
nằm xuống cho con kênh khai mở. Phu nhân Châu Vĩnh Tế, người vợ trợ thủ
đắc lực cho thống chế Thoại Ngọc Hầu được lấy tên đặt cho con kênh là bà
Châu Thị Vĩnh Tế (1766-1826) hay còn có tên khác là Châu Thị Tế. Bà là
người cù lao Dài, nay thuộc xã Quới Thiện, huyện Vũng Liêm, tỉnh Vĩnh Long
và là trưởng nữ của ông Châu Huy (có sách chép là Châu Vĩnh Huy) và bà Đỗ
Thị Toán. Và cũng từ đây bóng dáng của màu sắc văn hóa có hơi hướng mẫu hệ
riêng có của vùng bảy núi Châu Đốc với lễ hội Vía bà và hệ thống đền thờ thần
đất, thần sông, thần núi cũng được hình thành.
2. Kênh Vĩnh Tế- Biên giới ngày nay
-Trải qua hơn 200 năm lịch sử, kênh Vĩnh Tế cho đến nay đã được ghi nhận là
công trình tạo nên bằng sức người quý giá khẳng định bờ cõi , gìn giữ biên
cương xã tắc và khẩn hoang cả vùng Tứ giác Long Xuyên góp một phần không
nhỏ trong việc đưa nước ngọt của sông Cửu Long vào tháo chua, rửa phèn cho
ruộng đồng ngày một thêm màu mỡ làm nên vùng đất vựa lúa lớn nhất của
đồng bằng sông Cửu Long. Con kênh lúc nào cũng ghe thuyền tấp nập chở
hàng hóa gia dụng, chở thóc lúa vào mùa gặt lên các nhà máy xay lúa. Hai bên
bờ kênh quả thật đã không còn cảnh đìu hiu, sình lầy với mênh mông nước
ngập hoang vắng nhiều cá sấu, muỗi và cỏ lác như đã từng ghi chép trong sử
sách.
-Điều đặc biệt là hiện nay, nước từ dòng kênh Vĩnh Tế vẫn được bơm lên rồi xử
lý lọc sạch, sau đó cung cấp cho hơn 200 hộ dân trong vùng làm nước sinh
hoạt. Tùy theo mỗi năm, lượng nước lên xuống thất thường, các đoạn kênh
Vĩnh Tế được mở khẩu, khơi dòng vào các kênh cựa gà, sang biên giới cung
cấp nước tưới tiêu thủy lợi cho cánh đồng lúa của người dân Campuchia bên
đó.
-Như vậy, thụ hưởng dòng nước từ lịch sử không chỉ có người Việt mà là toàn
bộ cư dân biên giới hai bên Việt Nam và Campuchia. Có đoạn dòng kênh cặp
sát biên giới, mùa nước lớn người dân hai bên vẫn dùng dòng kênh chở lúa,
thăm đồng, vận tải nhu yếu phẩm. Về kỹ thuật canh tác và giống lúa, thủy nông
người dân hai bên biên giới Việt Nam - Campuchia có thói quen đời sống nông
nghiệp tương tự, cũng là quy định từ một dòng kênh thủy lợi mà nên.
-Dòng kênh như một chứng nhân lịch sử mà tầm ảnh hưởng của nó lên văn hóa
đời sống người dân ở biên giới Tây Nam khắc sâu và bền vững. Đường biên

129
thủy nông như dòng cương thổ ngàn đời mãi mãi phân định biên giới quốc gia,
duy trì sự ổn định lâu dài bằng sức vóc con người.
- Tham quan dòng kênh Vĩnh Tế là một trong những trải nghiệm thú vị mà du
khách nên thử nếu có dịp đến với An Giang, đặc biệt là vào mùa nước nổi.
Vào mùa nước lên, nước từ kênh tràn vào đồng ruộng chảy cuồn cuộn. Ðây
cũng là thời điểm cá từ biển hồ xuôi về sông Hậu, theo kênh Vĩnh Tế chảy lên
các cánh đồng mùa nước nổi. Du lịch kênh Vĩnh Tế mùa này du khách sẽ có cơ
hội ngắm nhìn những cánh đồng trắng xóa mênh mông, ngắm nhìn những
người nông dân lênh đênh trên chiếc xuồng nhỏ giăng lưới đánh bắt cá mưu
sinh.
-Con kênh Vĩnh Tế không những mang phù sa bồi đắp cho những cánh đồng
rộng hàng ngàn hecta mà còn đem về nguồn lợi dồi dào nuôi sống người dân
nơi đây. Người ta ví kênh Vĩnh Tế như cái túi cá, nước tới đâu cá tới đó, tha hồ
đánh bắt.
-Vào những ngày này thuyền bè ngược xuôi trên dòng kênh đông như trẩy hội.
Xuồng chài, xuồng câu lưới đậu san sát nhau, người người thay nhau đánh bắt,
tiếng nói cười giòn giã không dứt tạo nên khung cảnh làng quê thanh bình
nhưng hồ hởi.
-Cá đánh bắt về nếu ăn và bán không hết, người dân thường làm mắm để dự
trữ. Ðó cũng là nguyên do khiến miệt này trở thành "thủ phủ" mắm cá của cả
vùng đồng bằng sông Cửu Long. Các thương hiệu mắm ở Châu Ðốc nổi tiếng
khắp cả nước nhờ cách ủ mắm thơm ngon, nhất là độ ngọt của cá đồng đánh
bắt được trên dòng kênh Vĩnh Tế.
NGÀY 6: NHÓM 6: HÀ TIÊN – CHÂU ĐỐC

6.1 Giới thiêu về Châu Đốc, người Chăm ở An Giang.


Vị trí địa lí:
Châu Đốc là thành phố biên cương với diện tích tự nhiên là 104,7 km2, nằm ở
phía Tây Nam Tổ Quốc, phía Bắc giáp với huyện An Phú, Tây Bắc giáp
Campuchia, phía Nam giáp huyện Châu Phú, Tây giáp huyện Tịnh Biên và
Đông giáp huyện Phú Tân
Với số dân hiện nay trên 119 ngàn người và đông đảo khách vãng lai, du lich.
Châu Đốc là thành phố trực thuộc tỉnh An Giang, là đô thị loại II, gồm có 05
phường: Châu phú A, Châu phú B, Núi sam, Vinh mỹ, Vinh Ngươn và 02 xã:
Vĩnh Tế, Vĩnh Châu.
Châu Đốc là trung tâm du lịch nổi tiếng của tỉnh An Giang cũng như vùng
Đồng bằng sông Cửu Long. Châu Đốc có khu danh thắng Núi Sam với nhiều di
tích văn hóa được xếp hạng cấp Quốc gia, trong đó có Miếu Bà Chúa Xứ nổi
tiếng cả nước.
130
Lịch sử hình thành thành phố Châu Đốc
Năm 1757, vua Chân Lạp hiến dâng vùng đất Tầm Phong Long ( bao gồm
An Giang, Đồng Tháp, Cần Thơ, Sóc Trăng ngày nay) cho chúa Nguyễn Phúc
Khoát. Nguyễn Cư Trinh thừa lệnh Chúa Nguyễn đặt làm 3 đạo: Đông Khẩu
(túc Sa Đéc), Tân Châu và Châu Đốc, chính thức thiết lập nên hành chính toàn
Nam Bộ. Ngay từ đầu Chúa Nguyền đặt Đạo biên phòng tại Châu Đốc đóng vai
trò đồn trú phòng án ngữ sông Hậu. Đến năm 1788, sau khi chiếm lại Gia Định
từ tay nhà Tây Sơn, Nguyễn Ánh sắp xếp hành chính Nam Bộ, Châu Đốc thuộc
trấn Vĩnh Định, Năm 1802, đổi thành trấn Vĩnh Thạnh (gồm An Giang. Vĩnh
Long). Năm 1832, Minh Mạng mới đổi tên thành Tỉnh An Giang gồm 2 phủ và
4 huyện.
Trong cuộc kháng chiến thực dân Pháp, năm 1948, Ủy ban kháng chiến hành
chính Nam Bộ sát nhập và phân định ranh giới tỉnh Long Xuyên, Châu Đốc lập
thành 2 tỉnh Long Chầu Tiền và Long Châu Hậu. Châu Đốc thuộc tỉnh Long
Châu Hậu. Cuối năm 1950, Long Châu Hậu nhập thêm Hà Tiên thành tỉnh
Long Châu Hà. Cuối 1954, Xứ ủy ban Nam bộ lập lại 2 tỉnh Long Xuyên và
Châu Đốc. Ngày 22/10/1956, chính quyền Ngô Đình Diệm hợp nhất Long
Xuyên và Châu Đốc thành tỉnh An Giang. Năm 1964, chính quyền Sài Gòn
tách An giang thành 2 tỉnh: Châu Đốc và An Giang. Năm 1965 Châu Đốc nâng
lên thành thị xã của An Giang. Sau khi miền Nam hoàn toàn giải phóng, thành
lập tỉnh An Giang và Châu Đốc trở thành thị xã của tỉnh An Giang sau Long
Xuyên, Cuối cùng đến năm 2013, Thủ tướng mới ký nghị quyết thành lập thành
phố Châu Đốc thuộc tỉnh An Giang.
Người ở Chăm An Giang
Đến với vùng đất An Giang bạn sẽ biết thêm rằng ở đây có sự tồn tại của hơn
17 nghìn người Chăm đang sinh sống và làm việc tại. Hiện nay, người Chăm
An Giang phân bố đều ở 9 làng Chăm thuộc 9 xã, phường trên địa bàn tỉnh.
Đồng bào Chăm ở đây có nguồn gốc từ vùng Nam Trung Bộ, cụ thể hơn là ở
Ninh Thuận, Bình Thuận. Các làng Chăm được trải đều dọc hai bên bờ và các
nhánh sông Hậu. Nơi đây hiện vẫn còn giữ những nét truyền thống lâu đời và
độc đáo trong đời sống văn hóa hằng ngày.

Chín làng Chăm tại An Giang gồm:


- Làng Chăm Châu Phong (ấp Phũm Soài & ấp Châu Giang) – Thị xã Tân
Châu.
- Xã Đa Phước – Huyện An Phú.
- Xã Nhơn Hội (Búng Bình Thiên) – Huyện An Phú.
- Xã Quốc Thái (Ấp Đồng Ky) – Huyện An Phú.
- Xã Vĩnh Trường (Ấp Lama) – Huyện An Phú.
- Xã Khánh Bình – Huyện An Phú.
- Xã Khánh Hòa (ấp Khánh Mỹ) – Huyện Châu Phú.
131
- Xã Vĩnh Hanh – Huyện Châu Thành.
Nghề nghiệp chủ yếu của người Chăm An Giang
Bà con đồng bào Chăm tại An Giang sống chủ yếu bằng nghề đánh bắt thủy
sản, buôn bán hàng hóa và giao thương với nước Campuchia. Bên cạnh đó,
nghề dệt thổ cẩm của người Chăm An Giang cũng là một nghề có truyền thống
lâu đời, nó như một nét văn hóa đặc trưng của bà con nơi đây. Từ ngày trước,
trong mỗi căn nhà nho nhỏ của đồng bào Chăm nơi đây luôn có ít nhất một
khung dệt. Theo thời gian, nhiều người đổi sang các công việc khác để phục vụ
cho cuộc sống sinh hoạt của mình nhưng nghề dệt thổ cẩm vẫn được gìn giữ và
phát triển
Tín ngưỡng tôn giáo của người Chăm An Giang
Đạo Hồi giáo Islam được người Chăm nơi đây lựa chọn làm tôn giáo của mình.
Khi theo đạo này, bà con chỉ tôn thờ duy nhất trong tâm hình ảnh của thượng
đế Allah, ngoài ra, họ sẽ không thờ tranh ảnh, tượng của bất cứ vị thần, Phật
nào.
Nét đặc sắc trong trang phục của đồng bào Chăm tại tỉnh An Giang
Với người Chăm An Giang là nam thì trang phục sẽ gồm có sà-rông, đội mũ.
Vào những dịp lễ hội thì người nam sẽ mặc những chiếc áo dài theo truyền
thống của Arab.
Phụ nữ sẽ được mặc những chiếc đầm dài, che mặt, quấn khăn mat’ra qua đầu.
Khăn mat’ra được ví như hình ảnh chiếc nón lá của người Việt, chiếc khăn ấy
thể hiện được sự dịu dàng, nữ tính, hồn hậu, cần mẫn của người phụ nữ đồng
bào Chăm. Đặc biệt, người nữ phải ăn mặc kín đáo, không được hở hang và
càng không được mặc đồ bó sát. Khi quấn khăn che đầu thì cần lưu ý không để
lộ ra phần da thịt, dù chỉ là một sợi tóc cũng không được để lộ.
Tiếng nói và chữ viết của dân tộc Chăm tại An Giang
Từ xa xưa, dân tộc Chăm ở bất kì nơi đâu cũng đều có tiếng nói và chữ viết
riêng của. Người Chăm An Giang luôn tạo điều kiện hết mức để có thể bảo tồn
và phát huy được những nét văn hóa đặc trưng của dân tộc. Hiện nay ở các
Thánh đường đều mở các lớp dạy Thiên Kinh Qur’an, tiếng nói và chữ viết của
dân tộc.
6.2 Miếu bà Chúa xứ - tín ngưỡng thờ Mẫu, Núi Sam
6.2.1 Miếu Bà Chúa Xứ
Là một vùng đất với nền văn hóa truyền thống đặc trưng lâu đời, Châu Đốc
(An Giang) – vùng đất nơi ngự một ngôi Miếu linh thiêng mầu nhiệm là Miếu
Bà Chúa Xứ Núi Sam ( Miếu Bà Chúa Xứ tọa lạc dưới chân núi Sam thuộc
phường núi Sam, ấp Vĩnh Tế 1, TP Châu Đốc, tỉnh An Giang), được lập vào
đầu thế kỷ XIX.
Lịch sử của miếu Bà có 2 truyền thuyết: thử nhất, miếu Bà do dân xây dựng để
cúng bái vì tin vào sự linh thiêng của Bà; thứ hai là do Thoại Ngọc Hầu đứng ra
xây dựng theo lời trắng trối của vợ (bà Châu Thị Tế). Ban đầu miếu bằng tre lá.
132
Năm 1870, miếu được xây dựng lại bằng gạch đã mãi lợp ngói. Đến năm 1972,
miếu được xây mới đồ sộ theo lối kiến trúc cổ của phương Đông, mái cong
nhiều tầng lợp ngói xanh. Bao bọc xung quanh là các dãy Đông lang, Tây lang,
nhà khách,... cũng với kiến trúc mái cong, ngói xanh, trên mặt bằng rộng.
Trong miếu thờ tượng Bà Chúa tạc bằng đá xanh có giá trị nghệ thuật cao.
Tượng tạc vào thế kỷ VI theo mô típ tượng thần Visnu thường có ở các quốc
gia Lào, Căm-pu-chia, Ấn Độ. Lễ hội miếu Bà Chúa Xứ tổ chức hằng năm rất
lớn vào các ngày cuối tháng 4 âm lịch. Hàng vạn người đổ về đây dự lễ tắm
tượng Bà, lễ dâng hương cầu phúc lành.
Bà Chúa Xứ là vị nữ thần quan trọng trong tâm thức của người dân nơi đây. Ở
Núi Sam (An Giang) truyền thuyết về Bà Chúa Xứ đã có hàng trăm năm nay,
Bà Chúa Xứ được cư dân nơi đây vô cùng tôn kính, thể hiện rõ nhất qua việc
xây dựng cơ sở thờ tự, cách bày trí tượng thờ, qua trang phục, lễ vật dâng cúng,
đặc biệt là nghi thức cúng và long trọng tổ chức lễ hội Vía Bà hàng năm. Nổi
tiếng và thu hút hàng triệu du khách đến với nơi này để tham quan, hành
hương, cúng bái,...đặc biệt là vào các dịp lễ, Tết.
6.2.2 Tín Ngưỡng Thờ Mẫu
Tín ngưỡng thờ Mẫu là một tín ngưỡng nội sinh, phản ánh khát vọng của ngư
dân nông nghiệp trồng lúa nước về một cuộc sống cơm no áo ấm, mưa thuận
gió hòa. Tín ngưỡng thờ Mẫu có sự biến đổi cùng với sự biến đổi của đời sống
xã hội; có sự ảnh hưởng của Phật giáo, Nho giáo, Đạo giáo vào trong nội dung
và nghi lễ của mình và ngày càng đáp ứng nhu cầu tâm linh phong phú,đa dạng
của người Việt.
Đây được xem là một loại hình tín ngưỡng dân gian thuần Việt. Thần thánh
trong tín ngưỡng thờ Mẫu mang hình ảnh của người mẹ, người phụ nữ đôn hậu
với quyền năng sinh sôi, sáng tạo, che chở và ban phúc cho con người. Đỉnh
cao của tín ngưỡng thờ Mẫu chính là hệ thống thờ Tam phủ-Tứ phủ cùng với sự
ra đời của Thánh Mẫu Liễu Hạnh.
Tam phủ: Tam: Là ba; Phủ: Là nơi làm việc của các quan; Tam phủ: Là nơi làm
việc của các quan âm, chư vị thần linh của ba Miền:
Thiên Phủ, địa phủ, thoải phủ: Thiên phủ ( Màu Xanh – Vua cha Ngọc Hoàng):
Bao gồm các chư vị thần linh cai quản bầu trời; Địa phủ (Màu Vàng – Vua cha
Diêm vương): Bao gồm các chư vị thần linh cai quản vùng đất đai; Thủy Phủ
( Màu Trắng – Vua cha bật hai): Bao gồm các chư vị thần linh cai quản miền
sông nước.
Theo lịch sử phát triển của Tín ngưỡng Tam tứ phủ, thì khái niệm Tam phủ có
trước, Tứ phủ có sau. Vào Thời kỳ khởi nguyên của Tam phủ người ta cho rằng
tam phủ gồm ba miền: Thiên, Địa, Thoải. Lúc đó Nhạc Phủ chưa có.
Tứ phủ: Tứ phủ là nơi làm việc của các quan âm, chư vị thần linh của bốn
Miền: Thiên Phủ, địa phủ, thoải phủ, Nhạc phủ
· Thiên phủ ( Màu Đỏ – Mẫu Cửu): Bao gồm các chư vị thần linh cai quản
bầu trời.
133
· Địa phủ (Màu Vàng – Mẫu Liễu) : Bao gồm các chư vị thần linh cai quản
vùng đất đai
· Thủy Phủ ( Màu Trắng – Mẫu Thoải): Bao gồm các chư vị thần linh cai
quản miền sông nước.
· Nhạc Phủ ( Màu Xanh – Mẫu Thượng ngàn): Bao gồm các chư vị thần
linh cai quản miền rừng, sơn lâm
Theo sắp sếp thứ tự của các cụ ngày xưa là: Thiên, địa, thoải, nhạc (vì nhạc
xuất hiện sau). Ngày nay thì trong các khoa cúng và bản chầu văn sắp xếp theo
thứ tự cao nhất là tầng Trời, tiếp đến cao nguyên rừng núi, sau đó là vùng sông
nước, cuối cùng vùng địa phủ.
1. Đệ nhất thượng thiên
2. Đệ nhị thượng ngàn
3. Đệ tam thoải phủ
4. Đệ tứ khâm sai (Đệ tứ địa phủ)
Như vậy tứ phủ vạn linh là chỉ toàn bộ chư thánh của tín ngưỡng thờ mẫu mà
đứng đầu là Thánh Mẫu).
Tín ngưỡng thờ hình tượng người phụ nữ (làm nền tảng đầu tiên cho tín
ngưỡng thờ Mẫu) xuất hiện từ thời kỳ nguyên thủy sơ khai, khi con người có ý
niệm về linh hồn người chết. Đã có nhiều lời giải cho sự ra đời, nguồn gốc hình
thành tín ngưỡng thờ Mẫu. Có ý kiến cho rằng:“nguyên nhân khởi phát tín
ngưỡng thờ Mẫu là từ chế độ mẫu hệ. Trong thời kỳ nguyên thủy khi mà người
phụ nữ đóng vai trò là chủ gia đình, là người có quyền quyết định mọi vấn đề
to lớn trong gia đình, bộ tộc thì họ cũng góp phần quyết định vào sự tồn tại của
xã hội”.Tín ngưỡng thờ Mẫu là sản phẩm của xã hội nông nghiệp, ở đó còn
những tàn dư của xã hội mẫu hệ,và vai trò của người phụ nữ được đề cao.Tín
ngưỡng thờ Mẫu tôn vinh các nhân vật như: Quốc Mẫu, Vương Mẫu, Thánh
Mẫu... Tín ngưỡng thờ Mẫu còn được hiểu theo một nghĩa hẹp hơn,đó là tín
ngưỡng Mẫu Tam phủ-Tứ phủ.Trong đời sống của người Việt, thờ Mẫu là một
tín ngưỡng nội sinh, xuất hiện từ rất sớm. Theo tín ngưỡng đó,các thần linh
(như trời, đất, sông nước, rừng núi...)có khả năng siêu phàm điều khiển được
thiên nhiên. Trong quá trình mưu sinh dựa vào đặc tính của vùng nông nghiệp
canh tác lúa nước,người Việt luôn dựa vào thiên nhiên; họ tôn thờ các hiện
tượng tự nhiên, coi tự nhiên là Nữ thần và Mẫu thần để cầu mong được bảo trợ
và cứu giúp khỏi mọi khổ đau. Cho tới nay, người ta chưa biết chính xác tín
ngưỡng thờ Mẫu có từ khi nào, nhưng nhiều nhà nghiên cứu cho rằng,tín
ngưỡng thờ Mẫu của người Việt xuất hiện vào khoảng thế kỷ thứ III hoặc thứ II
trước Công nguyên. Tín ngưỡng thờ Mẫu có nguồn gốc ở miền Bắc từ lúc
người Việt khai thác đồng bằng Bắc Bộ. Bên cạnh đó,một số nhà nghiên cứu
cho rằng, tín ngưỡng thờ Mẫu lưu giữ kho tàng văn hóa dân gian của nhiều dân
tộc, trong kho tàng đó có nhiều truyện kể về nguồn gốc ra đời của các tộc
người..

134
Những tài liệu văn bản ghi chép về các Thánh Mẫu thường xuất phát từ thần
thoại, huyền thoại, truyện kể dân gian và đồng thời cũng có hiện tượng ngược
lại là huyền thoại hóa, dân gian hóa các văn bản thần thần tích, thần phả. Các
truyện kể dân gian về 3 vị thánh mẫu: Liễu Hạnh, Mẫu Thượng Ngàn, Mẫu
Thoải lưu truyền trong dân gian khá phong phú, sau này một số được ghi chép
lại trong các sách cổ như Việt điện u linh, ngoài ra còn có các truyện kể dân
gian khác về các vị nữ thần được các sách sau này tập hợp và ghi chép lại.
Thờ Mẫu thần là lớp thờ thứ hai trong tín ngưỡng thờ Mẫu, xuất hiện muộn hơn
lớp thờ Nữ thần, phát triển từ thờ Nữ thần, mang biểu tượng cho sự sinh sôi
sáng tạo, bảo trợ và che chở cho con người. Tín ngưỡng thờ Mẫu là sự bày tỏ
lòng kính trọng, tôn vinh đối với người phụ nữ, nói lên khát vọng của con
người luôn muốn vươn tới những điều tốt lành trong cuộc sống. Thờ Mẫu Tam
phủ-Tứ phủ là bước phát triển cao so với tín ngưỡng thờ Nữ thần và Mẫu thần.
Xuất phát từ một dân tộc có truyền thống nông nghiệp trồng lúa nước, người
Việt luôn ước vọng có cơm no áo ấm, mưa thuận gió hòa, vụ mùa bội thu,
nhưng ước vọng ấy không phải lúc nào cũng được toại nguyện do ảnh hưởng
của thiên tai. Vì thế, người Việt đã theo đuổi và đặt lòng tin của mình vào lực
lượng siêu nhiên đầy quyền năng; họ tôn thờ các vị thần linh thiên nhiên (trong
đó có hình tượng các nữ thần Mây, Mưa, Sấm, Chớp), các nữ thần này đại diện
cho các hiện tượng tự nhiên. Tín ngưỡng thờ Mẫu là một tín ngưỡng dân gian
thuần Việt.Thần thánh trong tín ngưỡng thờ Mẫu mang hình ảnh của người Mẹ,
người phụ nữ đôn hậu với quyền năng sinh sôi, sáng tạo, bao bọc, ban phúc và
che chở cho con người. Cùng với sự biến đổi của xã hội, xã hội phụ quyền thay
thế xã hội mẫu quyền, nhưng vai trò của người phụ nữ trong gia đình và xã hội
vẫn không thay thế được. Những người phụ nữ tài giỏi, có công đánh giặc giữ
nước hay dạy nghề cho dân làng khi mất được nhân dân tôn thờ thành các
thánh Mẫu. Lớp thờ Mẫu thứ hai sau lớp thờ Nữ thần chính là thờ Mẫu thần.
Trải qua lịch sử, trong quá trình phát triển, tín ngưỡng thờ Mẫu không những
tiếp nhận sự ảnh hưởng tích cực của các tôn giáo (như Phật giáo, Đạo giáo và
Nho giáo), mà còn tích hợp được văn hóa đặc sắc của các dân tộc thiểu số ở
Việt Nam. Nhờ đó tín ngưỡng thờ Mẫu cóvị trí trong đời sống tâm linh của
người Việt và trở thành một bộ phận không thể thiếu trong bản sắc văn hóa
truyền thống của dân tộc Việt Nam.
Ngày 01 tháng 12 năm 2016, tại phiên họp của Ủy ban liên chính phủ về bảo vệ
di sản văn hóa phi vật thể lần thứ 11 của UNESCO diễn ra tại thành phố Addis
Ababa (Cộng hòa Dân chủ Liên bang Ethiopia), di sản “Thực hành Tín ngưỡng
thờMẫu Tam phủ của người Việt” đã chính thức được UNESCO công nhận là
Di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại.
6.2.3 Núi Sam
Tín Ngưỡng Thờ Bà Chúa Xứ Núi Sam
Tín ngưỡng thờ Bà Chúa Xứ là tín ngưỡng phổ biến trong phạm vi cả vùng
ĐBSCL nói chung và toàn tỉnh An Giang nói riêng. Về nguồn gốc của tín
ngưỡng thờ Bà Chúa Xứ, một số nhà khoa học cho rằng tín ngưỡng này xuất
phát từ tục thờ vợ của thần Shiva trong Bà La Môn giáo với hai hóa thân đối
135
lập nhau: là phúc thần với tên gọi nữ thần Uma, hiển linh trông coi và bảo trợ
cho các bà mẹ, hài nhi, phụ nữ, hoa màu, mùa màng và gia súc; là hung thần
với tên gọi nữ thần Kali với thân thể màu đen, nét mặt dữ dằn, miệng có răng
nanh dài, hiển linh bằng sự trừng phạt. Người Khmer trước khi theo Phật giáo
Nam Tông đã từng chịu ảnh hưởng của Bà La Môn giáo nên đã thờ nữ thần
Kali với tên gọi là tín ngưỡng Bà Đen. Tín ngưỡng thờ Bà Chúa Xứ với cái gốc
là tục thờ Mẫu đã đáp ứng được nhu cầu tâm linh không chỉ của người Việt mà
còn của tất cả các tộc người Khmer, Chăm, Hoa trong vùng. Bà Chúa Xứ trở
thành hình ảnh một bà mẹ nhân từ, phúc hậu đầy quyền uy. Đến với Bà người
ta tin rằng sẽ được Bà phù hộ và ban cho tài lộc, sức khỏe, sự thành công trong
làm ăn buôn bán, trong công việc và trong cả cuộc đời
Khu Du Lịch Núi Sam:
Nằm cách mặt nước biển 284m, núi Sam là một trong những địa điểm du lịch ở
An Giang nổi tiếng. Tại đây có đến 200 ngôi đền, chùa, am, miếu nằm rải rác
từ chân núi, sườn núi cho tới tạn trên đỉnh. Trong đó nổi tiếng linh thiêng nhất
chính là chùa Bà Chúa Xứ, vào mùa lễ hội có rất nhiều du khách khắp cả nước
đã tìm về đây hành hương, cúng viếng cầu bình an. Ngoài tên gọi là núi Sam,
ngọn núi này được nhiều người biết tới với những tên khác như Vĩnh Tế Sơn
hay Ngọc Lãnh Sơn. Núi thuộc địa phận xã Vĩnh Tế, nay là phường Núi Sam,
thành phố Châu Đốc, tỉnh An Giang, Việt Nam. Đặc biệt, với những người yêu
du lịch An Giang đều biết tới “Thất Núi” nhưng núi Sam lại không nằm trong
dãy Thất Sơn này. Núi Sam cách trung tâm thành phố Châu Đốc chỉ vài km về
hướng tây và trung tâm thành phố Long Xuyên khoảng 62km về hướng tây bắc.
Nếu bạn đang ở Sài Gòn thì có thể bắt xe xuống Châu Đốc hoặc Long Xuyên
rồi đi theo các tuyến đường sau.
– Từ thành phố Long Xuyên, các bạn đi dọc theo tuyến quốc lộ 91 tới thành
phố Châu Đốc, rồi đi thêm vài km nữa là đến với Khu du lịch Núi Sam.
– Từ thành phố Châu Đốc, các bạn cũng đi theo quốc lộ 91 cũ khoảng 6km là
đến Khu du lịch Núi Sam.
Các điểm tham quan tại khu du lịch Núi Sam:
1. Miếu Bà Chúa Xứ:
Chắc hẳn bất kì người dân Nam Bộ nào, kể cả du khách các miền khác cũng
đều nghe nói và biết đến Miếu Bà tại An Giang. Tọa lạc ngay dưới chân núi
Sam thuộc thành phố Châu Đốc, tỉnh An Giang – Miếu Bà Chúa Xứ đã trở
thành một điểm du lịch tâm linh vô cùng linh thiêng thu hút hàng triệu lượt du
khách trong và ngoài nước tham quan, lễ bái hàng năm. Miếu Bà Chúa xứ là
một ngôi miếu bề thế giữa một không gian rộng lớn tịnh yên và thơ mộng. Với
kiến trúc tháp dạng hoa sen nở, mái tam cấp ba tầng, ngói xanh cùng với các
hoa văn đậm nét nghệ thuật, khá đặc sắc với những nét trạm trổ tinh tế công
phu và những bức hoành phi vàng son càng làm tăng thêm sự cổ kính, tôn
nghiêm. Lễ hội Vía Bà Chúa Xứ Núi Sam diễn ra vào ngày 22 – 23 tháng 4 âm
lịch, là lễ hội cấp quốc gia lớn nhất Nam Bộ mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc
136
của cư dân vùng sông nước đồng bằng sông Cửu Long. Hàng năm có rất đông
du khách thập phương đến với miếu Bà Chúa Xứ cúng bái, xin phúc cầu may
đầu năm. Tạo nên một không gian lễ hội sôi nổi và náo nhiệt tại khu du lịch núi
Sam.
2. Lăng Thoại Ngọc Hầu:
Đây là một trong những công trình kiến trúc tiêu biểu được xây dựng từ thời
nhà Nguyễn vẫn còn nguyên vẹn trong quần thể di tích núi Sam ngày nay.
Không chỉ một công trình bề thế mà còn mang rất nhiều ý nghĩa về văn hóa,
lịch sử. Đặc biệt, lăng Thoại Ngọc Hầu núi Sam được nhà nước công nhận là di
tích cấp Quốc gia.Trong đền còn có nhiều bảo vật có giá trị khác như văn bia,
những bức hoành phi, liễn đối, văn tế, những áng văn thơ hùng tráng… ca ngợi
công đức những bậc tiền nhân, gợi lên một thời oanh liệt của ông cha trong
những năm tháng đi khai hoang, mở mang bờ cõi, để lại tài sản vô giá cho con
cháu muôn đời sau. Giữa đền là tượng bán thân Thoại Ngọc Hầu, với đủ cân
đai áo mão như lúc đương triều, mắt dõi ra kênh Vĩnh Tế huyền thoại, tạo nên
một không khí hết sức trang nghiêm.
3. Chùa Tây An:
Ngôi chùa này nằm trong khu di tích lịch sử núi Sam, với sự kết hợp giữ lối
kiến trúc nghệ thuật Ấn Độ và cổ truyền dân tộc Việt Nam đã thu hút rất nhiều
du khách tới tham quan, chiêm ngưỡng. Và chùa Tây An cũng được xếp hạng
là di tích kiến trúc nghệ thuật cấp quốc gia cần được bảo tồn. Điểm ấn tượng
của chùa là mặt chính với ba ngôi cổ lầu nóc tròn hình củ hành, màu sắc sặc sỡ;
bên trong được trang trí bởi những hoa văn và đường nét của nhiều lối kiến trúc
đan xen nhau một cách hài hòa.
4. Chùa Hang:
Hay còn được gọi với cái tên khác là chùa Phước Điền, được xây dựng vào
khoảng năm 1840 – 1845, tính đến hiện tại, chùa Hang có niên đại hơn 100
năm tuổi. Được thiết kế với kiến trúc đền chùa rất độc đáo, lại có địa thế nằm ở
lưng chùng núi đã tạo cho ngôi chùa một khung cảnh thanh bình và vô cùng
thanh tịnh.
5. Khu du lịch Cáp treo Núi Sam:
Đến khu du lịch cáp treo núi Sam, du khách được tham quan các điểm đến
gồm: nhà ga và trụ cáp treo hiện đại theo phong cách châu Âu, tổ hợp các chùa
đền có thể tham quan và cúng viếng đền Một Cột, đền Dược Sư, đền Phật Quan
Âm… Đặc biệt, du khách hành hương còn được dịp chiêm bái tượng Phật
ngọc, Phật Vàng thiên thủ thiên nhãn trên núi Sam trong quần thể các đền,
miếu được xây dựng tôn tạo uy nghiêm với nhiều kiểu kiến trúc đặc sắc, đa
dạng.
Với hệ thống cáp treo đang xây dựng, khi hoàn thành sẽ đưa du khách lên núi
Sam để chiêm bái Phật Ngọc và thưởng ngoạn toàn cảnh vùng đất linh thiêng,
hùng vĩ của thành phố Châu Đốc, An Giang
6. Tháp Pháo đài:
137
Vào khoảng năm 1896, chánh tham biện người Pháp xây dựng ngôi biệt thự
kiên cố, có tháp cao hình trôn ốc để lên hóng gió. Từ đó, đỉnh núi Sam có tên
gọi Pháo Đài. Ngày nay, Pháo Đài vẫn là căn cứ quân sự nhưng ngôi biệt thự
không còn nữa. Bên cạnh Pháo Đài có ngôi nhà mát chênh vênh trên sườn núi;
bên trong là bệ đá, tương truyền là nơi đặt tượng Bà Chúa Xứ núi Sam ngày
xưa. Có hai con đường chính lên pháo đài:
Đường ở sau lưng Thoại Ngọc Hầu: Đường này gần hơn, nhưng dốc đứng, phải
đi theo gộp đá hoặc nấc thang nên chỉ dành cho người đi bộ. Đường Tháp: đường
dài 2 km, xe hơi và xe máy có thể chạy thẳng lên. Đi trên con đường này du khách
sẽ có dịp ghé qua quán Vườn Đào, Vườn Tao Ngộ, đền thờ cụ Cúc Nông Trương
Gia Mô, chùa Long Sơn, nhà nghỉ mát Bác sĩ Nu.
7. Đặc sản Núi Sam:
Đến thăm núi Sam du khách đừng quên thưởng thức đặc sản bò bảy món nơi
đây như bò nướng, lòng bò, nẫu bò, lẩu bò…tại quán bò Tony, Tư Thiêng,
Trường Nhựt gần khu vực Núi Sam và các món ăn nổi tiếng của Châu Đốc như
bún cá, gỏi sầu đâu, lẩu mắm, chuột đồng.

6.3 Tây An cổ tự - Phật Thầy Tây An, Phật giáo Hòa Hảo Sơ lược
6.3.1 Tây An cổ tự - Phật Thầy Tây An
Trước hết, nói về Tây An cổ tự, có thể gọi là Tây An tự, hay đơn giản là chùa
Tây An, như đã đề cập tọa lạc dưới chân Núi Sam, phường Núi Sam, thành phố
Châu Đốc, tỉnh An Giang. Công trình tôn giáo lâu đời đồng thời là địa điểm du
lịch An Giang được đông đảo du khách biết đến này nằm cách trung tâm thành
phố Châu Đốc khoảng 5km. Ngôi chùa thuộc quần thể di tích - khu du lịch núi
Sam, cùng với các địa danh nổi tiếng khác như: chùa Hang, lăng Thoại Ngọc
Hầu và đặc biệt là miếu Bà Chúa Xứ núi Sam.
Chùa Tây An Núi Sam đã được xếp hạng là Di tích Kiến trúc nghệ thuật cấp
Quốc gia vào ngày 10/07/1980. Sau đó, ngôi chùa này còn được Trung tâm
Sách kỷ lục Việt Nam ghi nhận là Ngôi chùa kết hợp phong cách kiến trúc nghệ
thuật Ấn Độ và kiến trúc cổ dân tộc đầu tiên tại Việt Nam. Hàng năm, vào ngày
12/8 âm lịch, rất nhiều khách thập phương và các tăng ni phật tử sẽ tụ họp về
đây để dâng lễ và bái Phật.
Lịch sự hình thành
Ngược dòng thời gian quay về quá khứ của thế kỷ XIX, năm Đinh Mùi 1847,
nhằm năm Thiệu Trị thứ 7 (1847), Tổng đốc An-Hà là Doãn uẩn (1795-1850)
vô cùng vui mừng sau khi lập được đại công đánh tan sự xâm lược của quân
Xiêm La, bình định được Chân Lạp, nên ông đã cho xây dựng một ngôi chùa
nhỏ bằng tường gạch, nền cuốn đá xanh, mái lợp ngói; và lấy tên là Tây An tự.
Thời điểm ấy, khi người từ mọi nơi đến để khai khẩn đất đai, mở rộng bờ cõi;
do đó ngôi tự này ra đời như một nơi để đáp ứng nhu cầu tâm linh của nhân
138
dân. Dần dà theo thời gian, ngồi chùa trở thành tâm điểm về tôn giáo của vùng.
Chịu sự bào mòn của thời gian, dù đã liên tục được tu sửa nhưng Tây An tự vẫn
chẳng thể chống lại thời gian gây thiệt hại lên kiến trúc ngôi chùa. Nhưng sự tái
kiến thiết kịp thời đã phần nào hạn chế sự biến chuyển của thời gian, thông qua
những lần trùng tu.
Đến nay, chùa Tây An đã trải qua hai ần đại trùng tu: lần đầu vào năm 1861, do
Hòa thượng Nhất Thừa chủ trì trùng tu khu vực chánh điện và nhà Tổ rộng rãi
thêm và có thêm nhiều công trình điêu khắc tinh xảo và trang nhã hơn; và gần
100 năm sau đến 1958, thì Hòa thượng Thích Bửu Thọ đã kêu gọi được sự
quyên góp từ bá tánh để xây dựng thêm ba ngôi cổ lầu, tiền đường, xây và sửa
lại chánh điện chùa; Ngài cũng đã là người đặt những nét đẹp của văn hóa Ấn
Độ vào trong kiến trúc Việt Nam để tạo công trình mang đậm nét giao thoa văn
hóa độc đáo này.
Sự việc trùng tên
Giải thích về tên gọi Tây An này, có nhiều nguồn lý giải như chùa Tây An là
ngôi chùa nằm phía Tây của An Giang, một số khác lại cho rằng, Tây An là kết
hợp giữa các yếu tố tạo nên ngôi chùa như vật liệu từ Trấn Tây, Tây Thành và
chùa nằm trên địa phận An Giang. Song, cũng có nhiều nguồn một lại nghiêng
về cách lý giải Tây An là mong cầu bình an cho miền Tây Nam của nước ta để
người dân được an cư lạc nghiệp trên vùng sông nước này. Nhưng dù cho
nguồn gốc ban đầu là gì đi chăng nữa thì mục đích thành lập của ngôi cổ tự vẫn
ngụ ý mong cầu cho muôn dân an yên. Còn có một vấn đề liên quan đến tên gọi
của chùa Tây An, đó chính là sự trùng tên với một ngôi chùa cũng có tên là Tây
An và cách đó không xa. Thật vậy, tọa lạc xã Long Kiến, nay thuộc xã Long
Giang, huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang, cũng tồn tại một ngôi chùa mang tên
Tây An. Lý giải cho điều này, Tây An cổ tự mà đoàn đang viếng thăm đã từng
là nơi tu tập và viên tịch của ông Đoàn Minh Huyên, hay còn được tôn phong
là Phật Thầy Tây An trong thời gian gần cuối đời của ông. Vào những năm
tháng trước đó, ông đã từng phát tâm trị bệnh trong lúc dịch tả hoành hành tại
cù lao Ông Chưởng, nên dù rời đi nhưng ông vẫn rất luyến lưu chốn cũ. Đến
khi người dân tự nguyện xây dựng một ngôi chùa thờ Tam bảo ở khu vực đó,
thì ông Đoàn Minh Huyên đã đích thân đặt tên cho ngôi tự là Tây An cổ tự. Sự
việc trùng tên xảy ra khi Tây An tự nơi chúng đang tham quan vượt ngoài 150
tuổi thì chùa đã được tôi từ “Tây An tự” thành “Tây An cổ tự”.
Kiến trúc Tây An cổ tự
Cổng tam quan và khuôn viên
Nhìn từ xa ngôi cổ tự hiện lên sừng sửng với kiến trúc chữ “tam” rực rỡ màu
vàng chói lóa hiện lên trên khu đất rộng gần 15ha. Toàn bộ chùa được xây dựng
bằng gạch ngói và xi măng, trải qua những biến đổi thời gian chùa vẫn giữ
nguyên được nét đẹp từ thuở mới được trùng tu. Tựa lưng vào Núi Sam như

139
bức bình phong làm nổi bật ngôi chùa với một màu xanh thẫm, như một bức
bình phong của thiên nhiên hùng vĩ, tráng lệ và làm cho quang cảnh chùa trang
nghiêm, thanh tịnh và rất tuyệt mĩ. Dẫn chứng cho điều này, sách Đại Nam
Thống chí từng đề rằng: “Chùa ở địa phận thôn Vĩnh Tế, huyện Tây Xuyên,
nguyên tổng đốc Doãn Uẩn cho xây dựng năm Thiệu Trị thứ 7 (1847). Chùa
đứng trên núi, mặt trước trông ra tỉnh thành, phía sau dựa vào vòm núi, tiếng
người vắng lặng, cổ thụ âm u, cũng là một thắng cảnh thiền lâm vậy”.
Điểm nhấn ấn tượng nhất của chùa là 3 ngôi cổ lầu nóc tròn hình củ hành, màu
sắc sặc sỡ nhưng hài hòa. Cũng như bao ngôi chùa khác, công trình kiến trúc
đầu tiên mà chúng ta bước qua đó là cổng tam quan. Cổng tam quan ở chùa
Tây An bao gồm 3 cửa: cửa chính ở giữa là nơi thờ phụng tượng Quan Âm, hai
vọng cửa trái và phải lần lượt đề bảng “Tây An cổ tự”. Trên mái che có trang trí
sư tử, lưỡng long tranh châu, các hoa văn hình hoa mai, hoa sen, hoa cúc,…
Bước qua cổng tam quan là một khuôn viên rộng rãi, thoáng mát rộp bóng cây
xanh, hoa lá tươi mát, và sừng sững ở sân chùa có một chiếc cờ phướn cao đến
16m.
Mặt tiền của chùa Tây An mang lối kiến trúc khác biệt hơn hẳn những ngôi
chùa khác trong cung khu vực. Ở ngay giữa là một tòa lầu chính cao hai tầng,
tầng trên thờ Phật Thích Ca đặt trong khuôn hình bát giác, lầu dưới tôn thờ các
vị hộ pháp. Chống đỡ cho tòa lầu là bốn chiếc cột vững chắc được trấn bởi các
vị hộ háp. Bao quanh phần mái là những chia tiết hình hoa sen cách điệu trông
rất giống với rắn thần Naga trong Ấn Độ giáo. Và điều khác biệt ở đây tuy
mang rất nhiều chất của Ấn Độ nhưng phần mái ngói của chùa Tây An lại được
lộp bằng ngối âm dương, một loại ngói đặc trưng của văn hóa Á Đông. Nhìn từ
phía trên tòa lầu xuống mặt đất, ngay tại lối vào phía trước có tượng hai chú
voi. Tượng voi đen 2 ngà đại diện cho sức mạnh đối đãi thiện ác, xung khắc vô
minh, và có công giúp đại phá quân giặc; voi trắng 6 ngà đại diện cho lục căn
thanh tịnh, dẫn tích là hoàng hậu Maya đã hạ sinh thái tử Sĩ Đạt Ta
(Siddhartha), ngụ ý điềm lạnh và phước báu. Hai bên lần là lối tiến vào phía
bên trong chánh điện của chùa, dành cho tăng ni, phật tử và khách viếng thăm
phân biệt theo lối đi nam tã nữ hửu.
Khu vực chánh điện
Chính điện là dãy nhà rộng, hai tầng mái, lợp ngói đại ống, cột gỗ căm xe, nền
lát gạch bông. Hai bên là lầu chiêng và lầu trống hình tứ giác, trên đỉnh trang trí
các tượng tứ linh (long, lân, qui, phụng) rất mỹ thuật. Đại hồng chung ở lầu
chuông được tạo vào năm Tự Đức thứ 32 (1879). Trên đỉnh chánh điện được
chạm khắc hình ảnh tứ linh: long, lân, quy, phượng và trang trí vô cùng tinh
xảo.
Tọa lạc ngay chánh điện của chùa, khi bước vào ta có thể tận mắt chiêm bái là
bàn thờ chính của chùa Tây An. Bàn thờ vô cùng trang nghiêm với tượng Đức
Phật Thích Ca ngồi trên cùng phản phất trong từng làn khói mờ ảo từ những
140
nén hương đang cháy đỏ càng khiến cho không gian thêm thanh tịnh, và kì ảo.
Phía dưới tượng Phật Thích Ca là hai tôn giả của Ngài là A-nan-đà (Ānanda),
và Ma-ha-ca-diếp (Mahākāśyapa) là một trong thập đại để tử của Đức Phật.
Phía dưới là tôn tượng của hai vị Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát tọa trên thanh sư và
Phổ Hiền Bồ Tát tọa trên bạch tượng, cùng với Phật Thích Ca, ba vị tạo nên
Thích Ca Tam Thánh, hay Hoa Nghiêm Tam Thánh theo kinh điển của Phật
giáo Đại thừa. Trên cao nhìn xuống, ngay giữa bên dưới chính là tượng Đức
Phật Đản Sanh biểu trưng cho lòng cảm kích, tôn trọng về sự đản sanh của Đức
Phật Thích Ca. Xung quanh khu vực bàn thờ là sự hiện diện của Tứ Đại Thiên
Vương, Bát Bộ Kim Cang, cùng với Ngọc Hoàng Thượng… cùng với tượng
Đức Phật Đản Sanh ở ngay giữa phía dưới của ban thờ. Khu vực chính điện,
bên cạnh bàn thờ luôn nghi ngút khói hương, là hơn 150 pho tượng lớn nhỏ
khác, hầu như được tạc bởi nhữnh danh mộc, chạm trổ công phu, tiêu biểu cho
nền nghệ thuật điêu khắc Việt Nam vào thế kỷ 19. Ngoài ra, chùa còn có nhiều
hoành phi và câu đối, màu sắc rực rỡ. Khu vực chính điện trang nghiêm, thanh
tịnh, thoảng hương trầm, những lời tụng niệm du dương, cầu nguyện cho muôn
sự bình an của muôn dân thập phương gửi gắm theo áng mây hương dâng lên
Phật.
Khu mộ phần hòa thượng Thích Bửu Thọ
Mang theo nén hương và lòng thành kính bước ra hậu viện của chùa Tây An,
chúng ta đi vào những khu mộ phần của những vị hòa thượng đã viên tịch tại
đây. Tiêu biểu là mộ phần của hòa thượng Thích Bửu Thọ, người có công trùng
tu ngôi cổ tự. Xây thêm 3 ngôi lầu cổ, mặt tiền chùa và sửa lại chánh điện, tạo
thêm nét kiến trúc phương Đông kết hợp với kiến trúc Ấn Độ. Nói về vị cố hòa
thượng, hòa thượng pháp danh Như Mật, húy Bửu Thọ, thuộc dòng thiền Lâm
Tế Gia Phổ đời thứ 38. Ngài thế danh là Nguyễn Thế Mật, sinh năm Quý Tỵ
1893, tại làng Vĩnh Tế, Núi Sam, Châu Đốc. Thân sinh là cụ ông Nguyễn Văn
Hạc và cụ bà Trịnh Trị Quyên. Ngài đưọc sinh ra trong một gia đình Nho học
và kính tin Tam bảo một cách thuần thành. Ông bà cụ thân sinh của ngài vốn là
đệ tử của Tổ Nhứt Thừa-Minh Võ, đời thứ 38 dòng phái Lâm Tế-Nguyên
Thiều, nguyên là trụ trì tiền nhiệm của Tây An cổ tự. Năm 1914, Tổ Hoằng Ân
viên tịch, Ngài đảm nhiệm vị trí trụ trì đời thứ bảy của chùa Tây An sau nhiều
năm tu học tại đây.
Về đức hạnh, ngài bản tánh vốn khiêm cung, mẫu mực bình dị, nên trong
những Trường hương, Trường kỳ, lễ cúng dường trai tăng nào, chư sơn thiền
đức và tín chủ đều cung thỉnh ngài vào ngôi vị chứng minh khai hội. Dù nhận
lời làm chánh tọa hay chứng minh, nhưng ngài ít khi tham dự trực tiếp, mà chỉ
hỗ trợ tịnh tài và tứ sự cúng dường giúp đỡ các lễ hội. Ngài thường tâm niệm
rằng, để lại cái đức thơm cho đời, chứ không muốn làm cái hữu tướng chứng
minh hay chứng trai.

141
Về công hạnh, ngài nổi tiếng là người hay ủng hộ việc trùng tu kiến tạo. Hầu
hết các chùa cảnh tại vùng Châu Đốc đều có sự trợ giúp tài lực của ngài để
được khang trang rộng rải, xứng tầm những ngôi danh thắng Tam bảo. Công
đức hỗ trợ của ngài lan tỏa xa rộng đến khắp nơi, như khuyến hóa cất chùa Già
Lam ở ngả bảy Phụng Hiệp, ủng hộ trùng tu các ngôi chùa có dấu tích hoằng
hóa của Tổ Tiên Giác-Hải Tịnh và Hoằng Ân-Minh Khiêm ở Bạc Liêu, Hà
Tiên, Đồng Tháp, Mỹ Tho…
Năm 1958, để vâng thừa ý nguyện Tổ sư phó chúc ngôi cổ tự cho ngài với hoài
bão trùng tu kiến tạo ngày một đẹp đẽ trang nghiêm tráng lệ, ngài đã cho xây
dựng ba ngôi cổ lầu ở mặt tiền chùa và sửa chữa chánh điện, mang dáng dấp
kiến trúc phương Đông và kết hợp kiến trúc Ấn - Hồi với các loại vật liệu bền
chắc. Đây là ngôi chùa có kiểu dáng kiến trúc rất khác so với kiểu dáng truyền
thống xưa nay. Ngài cũng là vị trụ trì ngôi cổ tự này lâu nhất, với 60 năm gắn
bó tôn tạo giữ gìn dáng vẻ kiến trúc này.
Năm 1972, đến lúc gần kề tuổi đức Như Lai, ngài thường xuyên dặn dò đồ
chúng về những yếu chỉ thâm thúy của giáo lý Phật đà qua kinh nghiệm của
ngài suốt một đời công phu tu tập. Ngài chỉ dẫn cặn kẽ cho hàng hậu học làm
hành trang tự lèo lái con thuyền đạo pháp, vì sẽ không còn thầy dẫn bước nữa.
Sau ngày lễ vía đức Phật Di Đà 4 ngày, sức khoẻ vẫn tốt, nhưng nhận biết phút
giây giã từ đã điểm, ngài đắp y áo, bảo đồ chúng dìu lên chùa lạy Phật lạy Tổ
xong, ngài đọc bài kệ vô thường rồi chắp tay niệm Phật, viên tịch. Lúc ấy là giờ
Thìn sáng ngày 21 tháng 11 năm Tân Hợi, nhằm ngày 8.12.1972. Hòa thượng
trụ thế 79 tuổi đời, hạ lạp 59 mùa an cư, với hơn 60 năm gắn liền với chốn tổ
Tây An.
Đến nay đã hơn 50 năm qua đi, hòa thượng Bửu Thọ cũng đã yên nghỉ ở chùa
Tây An, nhưng những tạo tác tuyệt mỹ mà Ngài dây dựng vẫn còn mãi với thời
gian của non nước Việt Nam.
Khu mộ Phật Thầy Tây An
Chùa Tây An đã từng là nơi Đức Thầy theo sự chỉ định của chính quyền Triều
đình Huế về đó an định và tu tập. Tại đây, Đức Phật Thầy đã thế phát, quy y
Tam Bảo, và lấy pháp danh là Pháp Tạng. Tuy chỉ sinh sống và tu học tại đây
trong 6 năm ngắn ngủi, nhưng Đức Thầy vẫn tiếp tục trị bệnh cho bá tánh, phổ
truyền giáo pháp, thu nhận nhiều đệ tử, tín đồ, mở rộng việc cấp lòng phái Bửu
Sơn Kỳ Hương.
Phật Thầy Đoàn Minh Huyên viên tịch ngày 12 tháng 8 năm Bính Thìn- 1856
(nhằm ngày 10/9/1856 dương lịch), hưởng dương 50 tuổi. Phần mộ của Ông
hiện nay nằm tại chùa Tây An, phường Núi Sam, thành phố Châu Đốc.
6.3.2 Phật giáo Hòa Hảo
Tên gọi: “Phật giáo Hòa Hảo” được khai sinh bởi người giáo chủ tối cao được
tôn thờ bởi những tín đồ của tôn giáo này chính là Đức Huỳnh giáo chủ - người
142
làng Hòa Hảo, quận tân Châu, tỉnh Châu Đốc (nay thuộc thị trấn Phú Mỹ,
huyện Phú Tân, tỉnh An Giang). Từ đó, có thể thấy đơn giản là Đức Huỳnh giáo
chủ muốn truy tôn quê hương của mình nên mới sử dụng tên của làng Hòa Hảo
ghép với hai chữ “Phật giáo” mà hình thành nên tên gọi nêu trên. Mặt khác, tên
gọi của đạo cũng đồng thời là tôn chỉ hoạt động, mục đích tối yếu của giáo
phái, đó là hướng đến tinh thần “hiếu hòa” và “giao hảo”. Nói tóm lại, tên gọi
tuy đơn gian nhưng chất chứa nhiều tầng ý nghĩa quan trọng và bộc lộ được
tinh thần giáo phái một cách dễ tiếp thu nhất.
Người sáng lập: ngài Huỳnh giáo chủ ra đời tại làng Hòa Hỏa, quận Tân Châu,
tỉnh Châu Đốc, vào ngày 15 tháng 11 năm 1920 (nhằm ngày 25 tháng 11 năm
Kỷ Mùi) với thế danh là Huỳnh Phú Sổ. Thân phụ là Hương Cả Huỳnh Công
Bộ, một bậc địa chủ được nhận xét là điềm đạm, ít nói, và xa lánh thị phi; thân
mẫu là bà Lê Thị Nậm.
Hoàn cảnh ra đời: Thập niên 40 của thế kỉ XX, , nước ta phải chịu cảnh “một
cổ hai tròng”, Nhật Pháp thi nhau đàn áp khủng bố các phong trào yêu nước,
đời sống nhân dân lầm than, cơ cực, đói khổ và khủng hoảng. Chính vì lẽ đó,
nhu cầu về mặt tinh thần, tâm linh như là một cứu cánh giúp họ vượt qua khổ ải
là một điều cấp thiết. Đại bộ phận nhân dân lao động, xuất thân nông dân, tuy
chiếm số đông, giàu lòng yêu nước ,chính họ là trái tim của quốc gia, đã cùng
với những bậc hiền tài như Đinh Tiên Hoàng, Lê Lợi, Quang Trung đại phá
ngoại xâm, chấn hưng dân tộc; nhưng đáng tiếc thay lại dốt nát, cơ cực, và
không có ai lãnh đạo để có được một cuộc sống tốt hơn. Vì lý do đó mà Phật
Giáo Hòa Hỏa ra đời giữa thời cuộc binh biến loạn lạc, như một chiếc phao cứu
sinh cho tầng lớp dân đen đang bị chìm trong khổ ải; Phật giáo Hòa Hảo ra đời
để giúp họ tự thân giải thoát, và góp công giải phóng dân tộc.
Hệ thống giáo lý của đạo Hòa Hảo được thể hiện qua những bài sấm kệ do
Huỳnh giáo chủ biên soạn, bao gồm 6 tập: Sấm khuyên người đi tu niệm, Kệ
của người Khùng, Sấm giảng, Giác mê tâm kệ, Khuyến thiện, Những điều sơ
học cần thiêt của kẻ tu hiền.
Người thuộc tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo thờ cúng ba ngôi hương án tại nhà, bao
gồm: Thứ nhất là Ngôi thờ Tam Bảo: thờ Thập phương Phật, Pháp, Tăng. Ngôi
thờ này có đặt một tấm vải màu nâu (gọi là Trần Dà) tượng trưng cho sự thoát
tục và sự đoàn kết; Thứ hai là bàn thờ thông thiên: được dựng trước sân nhà
hoặc mái nhà. Theo Đức Thầy nếu nhà chật hẹp thì chỉ cần 1 bài Thông thiên;
Thứ ba là Ngôi thờ Cửu Huyền Thất Tổ: thờ cúng tổ tiên, theo đạo lý uống
nước nhớ nguồn
Các ngày lễ của đạo Hòa Hảo (theo âm lịch) ngoài Tết Nguyên Đán, lễ Thượng
nguyên, Phật đản, lễ Trung nguyên, Hạ nguyên còn có các lễ khai đạo (ngày 18
tháng 5), lễ vía Phật Thầy Tây An (ngày 12 tháng 8), lễ Phật A Di Đà (ngày 15
tháng 1), lễ sinh nhật ông Huỳnh Phú Sổ (ngày 25 tháng 11), lễ phật thành đạo
(ngày 8 tháng Chạp)
143
Với hơn 80 năm tồn tại và phát triển, Phật giáo Hòa Hỏa ra đời dựa trên tinh
thần chấn hưng Phật giáo, là chỗ dựa tinh thần cho người dân khi niềm tin vào
cuộc sống bị lung lay bởi nhiều bể khổ, và ách xâm lăng, bạo loạn. Đến nay,
đạo Hòa Hảo đã có được cho mình số lượng tín đồ đông đảo với hơn 38% tổng
dân số của người dân miền Tây Nam Bộ, đóng góp được nhiều công quỹ, công
trình cho xã hội đúng như tinh thần tu nhân của giáo này. Họ chủ trương quyên
tiền hỗ trợ cho đồng bào khó khăn hơn là việc đổ xô xây chùa chiền quy mô
hoành tráng, nguy nga, cũng như xây cầu, làm đường,… thay đổi cảnh quan
của vùng nông thôn Nam Bộ khó khăn.
6.4 Đặc sản Châu Đốc
1. Bún cá Châu Đốc
Bún cá luôn đứng trong Top những đặc sản Châu Đốc được nhiều du khách
thập phương tìm đến nhất, thứ tạo nên sức hút nhất là nước lèo với mùi vị cực
kỳ đậm đà. Bún cá còn được ăn kèm với bắp chuối, bông điên điển, rau diếp cá,
húng quế mang đến một đặc trưng rất miền Tây.
Địa chỉ gợi ý:Bún cá dì Lệ - Lê Công Thành, Thành Phố Châu Đốc, Bún cá Bé
Hai - Đường Chi Lăng, P. Châu Phú A, T.p Châu Đốc.
2. Gỏi sầu đâu
Gỏi với nguyên liệu chính từ lá và hoa sầu đâu, một loại cây có rất nhiều tại
khu vực Châu Đốc. Phần lá và hoa sầu đâu khi được hái về sẽ được làm sạch
với nước sôi, sau đó để ráo rồi mang trộn với tôm, thịt hay cá là sẽ có món gỏi
sầu đâu. Gỏi sầu đâu khi ăn sẽ có một chút vị đắng từ hoa sầu đâu cùng với vị
chua từ xoài cũng như sự đậm đà từ hải sản
Địa chỉ gợi ý: Gỏi sầu đâu - 104 Đống Đa, P. Châu Phú A, T.p Châu Đốc, An
Giang.
3. Xôi Xiêm Châu Đốc
Xôi xiêm Châu Đốc sử dụng các loại gạo nếp cực ngon, nấu chỉ vừa chín
không được quá khô hay nhão. Xôi sử dụng lá dứa để tăng mùi vị thu hút khi
ăn, cùng với đó là nước sốt hơi đặc sệt phủ lên trên bề mặt.
Địa chỉ gợi ý: Tiệm xôi Xiêm cô Tư Liên - Tân Châu, An Giang
4. Bánh bò thốt nốt Châu Đốc
Món bánh bò thốt nốt Châu Đốc mang đến đặc trưng là màu sắc vàng tươi đẹp.
Bánh còn có thêm vị béo béo từ nước cốt dừa cực đã và nếu muốn ngon thì hãy
ăn bánh khi còn nóng chính là cách tốt nhất.
Địa chỉ gợi ý: Bánh Bò Út Dứt - Số13 Nguyễn Thị Minh Khai, P. Long Thạnh
Thị xã Tân Châu, An Giang.
5. Khô Châu Đốc

144
Châu Đốc còn là nơi được mệnh danh là “vương quốc của các loại khô” nữa
đấy. Đặc biệt là tại chợ Châu Đốc, nơi đây chuyên bày bán đầy đủ các loại khô,
mắm cho du khách lựa chọn như: khô cá linh, khô cá rô, khô cá lóc, khô cá sặc,
khô cá trèn, khô cá chốt,... với giá cực kỳ rẻ.
Địa chỉ gợi ý: Chợ Châu Đốc - Số 44 Phan Văn Vàng, Châu Phú A, An Phú, An
Giang.
6. Lẩu mắm Châu Đốc
Lẩu mắm có nguyên liệu khá đơn giản với bông điên điển, rau đắng, càng cua,
bông lục bình,... nấu chung với nhiều lựa chọn như cá linh, lươn, cá kèo, mực...
Địa chỉ gợi ý: Quán Đồng Quê - 108 Trưng Nữ Vương, Phường 8, TP Châu
Đốc.
7. Bò tái me
Bò tái me sử dụng các loại thịt tươi ngon, được xào chín tới kết hợp cùng khổ
qua, hành tây và gừng,... Bò tái me có thể ăn kèm với bánh đa hay bánh phồng
tôm và chấm cùng nước mắm chua ngọt. Bò tái me cũng là một trong những
món thường xuất hiện trên bàn nhậu
Địa chỉ gợi ý: Khu vực Núi Sam, Châu Đốc, An Giang
8. Cá lóc nướng trui
Cá lóc đồng sau khi bắt lên sẽ được làm sạch, sau đó mang lên than hồng và
nướng đến khi chín tới, nhưng không được để khô hay quá nhão. Cá lóc khi
nướng đều sẽ có phần thịt trắng, mùi thơm cực ngon. Món này ăn kèm với bánh
tráng, bún tươi, các loại rau thơm và chấm với nước mắm chua ngọt hay nước
mắm me đều được.
Địa chỉ gợi ý: Phượng - Quán Hải Sản - Số 70 Lê Lợi, P. Châu Phú B, TP Châu
Đốc, An Giang.
6.5 Mùa nước nổi
Đây là một đặc trưng không thể thiếu khi nhắc đến vùng miền tây sông nước –
Đồng Bằng sông Cửu Long, Việt Nam. Mùa nước nổi (mùa lũ sông Cửu Long)
là tên gọi dân gian của mùa lũ từ tháng 7 đến tháng 10 âm lịch ở vùng đồng
bằng Tây Nam Bộ. Tùy vào thời tiết mà mùa nước nổi bắt đầu và kết thúc sớm
muộn khác nhau. Lũ lên cao nhất vào khoảng nửa cuối tháng 8 đến đầu tháng 9
dương lịch. Vào mùa này, nước từ thượng nguồn sông Mekong đổ về Đồng
Bằng sông Cửu Long, nước ở các sông ngòi kênh rạch dâng lên tràn bờ, nhiều
khi ngập nhà cửa. Nước nổi gây ra nhiều khó khăn vất vả cho người dân, đây là
một dạng lũ lụt nhưng không được coi là thiên tai gây nhiều thiệt hại nặng nề.
Vì nó đem lại nhiều sản vật tự nhiên và bồi đắp phù sa cho vùng đất này. Người
dân ở đây, đã sống chung với lũ và xem nó như người bạn nghề, coi mùa nước
nổi như là một mùa để đổi phương thức canh tác. Thay vì canh tác nông
145
nghiệp, cô chú ở đây sẽ thay bằng phương thức canh tác nguồn lợi thủy sản dồi
dào do hiện tượng ngập lụt mang lại. Hàng năm, mùa nước nổi bồi dưỡng 1
lượng rất lớn phù sa cho các vùng đất canh tác ở hạ lưu sông Mekong Việt Nam
lẫn Campuchia. Bên cạnh đó, lũ còn làm cho những vùng đất này được nghỉ
ngơi sau những mùa làm việc với bà con vất vả, lũ giúp đất rửa trôi những
nguồn sâu bệnh cho cây trồng nông nghiệp. Bà con miền tây mình còn gọi mùa
mùa nước nổi với những tên gọi khác như mùa nước lên, mùa nước lớn, mùa
nước lũ…Người ta thường nói “tháng bảy nước nhảy khỏi bờ”, những cánh
đồng lúa xanh tận giờ đã trở thành 1 vùng nước mênh mông mang lại 1 mùa
tôm cá bội thu cho bà con mình. Mùa nước nổi về, Miền Tây như được thay
một màu áo mới. Đây cũng là mùa chim bay về làm tổ đầy đàn. Hay nói cách
khác, đây thời điểm tất cả mọi thứ ở vùng đất này sinh sôi nảy nở.
Tại sao có mùa nước nổi?
Hàng năm, từ giữa mùa hè, các cơn bão và áp thấp nhiệt đới gây ra mưa nhiều
ở vùng thượng nguồn làm mực nước sông Mê kông tăng lên nhanh chóng. Khi
chảy về cuối nguồn, một phần lưu lượng nước đổ vào Biển Hồ Tonlé Sap ở
Campuchia, phần nhiều theo hai nhánh sông Tiền và sông Hậu ồ ạt vượt qua
biên giới đổ vào Việt Nam và chảy ra biển Đông theo nhiều cửa. Một diện tích
khá lớn ở đầu nguồn sông Cửu Long có địa hình trũng thấp nên bị nước tràn bờ
gây ngập kênh rạch, ao hồ, ruộng đồng trong một thời gian dài (khoảng vài
tháng).
Những khu vực ở miền Tây có mùa nước nổi: Mùa nước nổi rõ nét nhất là ở
các tỉnh đầu nguồn sông Cửu Long, trong đó phải kể đến là: Vùng Tứ Giác
Long Xuyên, gồm các tỉnh An Giang, Kiên Giang; Vùng Đồng Tháp Mười,
gồm các tỉnh Đồng Tháp, Tiền Giang, Long An.
Đặc điểm của mùa nước nước nổi: Con nước lên từ từ và xuống từ từ, vận
hành theo quy luật, có tính chu kỳ nên người dân miền Tây không gọi là lũ mà
gọi là “mùa nước nổi”.
Mùa nước nổi đem lại nhiều tài nguyên và lợi ích cho người dân: Bồi đắp một
lượng phù sa lớn làm đất đai thêm màu mỡ. Giúp thau chua, rửa phèn giúp “hồi
sinh” một vùng đất hoang hóa rộng lớn. Nước nổi mang theo nguồn lợi thủy
sản phong phú với nhiều loại cá tôm quý hiếm: cá linh, cá hô, cá bông lau…
Nhiều sản vật ăn theo mùa nước nổi: bông điên điển, bông sung, lúa trời…
Nhiều hoạt động trải nghiệm lý thú cho du khách đi du lịch miền Tây.
Những trải nghiệm không thể quên – bạn nên 1 lần thử khi đến với mùa
nước nổi miền tây: chèo xuồng đi hái bông điên điển, hái bông súng, giăng
lưới, đóng dớn bắt cá linh, lội ruộng hái ấu, xem chim mớm mồi về tổ, chèo
xuồng đập lúa lúa ma (lúa trời) Học cách chế biến các món ăn đặc sản mùa
nước nổi miền Tây, săn chuột đồng mùa nước nổi ở miền Tây

146
Đặc sản của miền Tây mùa nước nổi: Du lịch miền tây mùa nước nổi không
chỉ là để khám phá hay chiêm ngưỡng, trải nghiệm vẻ đẹp của thiên nhiên và
văn hóa của người dân bản địa mà du khách còn có thể thưởng thức các món ăn
độc đáo, hấp dẫn chỉ có ở miền Tây thời điểm này. Nước về mang theo nhiều
sản vật bên kia bên giới đổ về, trong đó có con cá linh nổi tiếng. Cá chỉ to bằng
đầu đũa nhưng có thể sử dụng làm nguyên liệu cho nhiều món ngon khác nhau.
Đầu tiên phải là món mắm cá linh, tiếp theo là lẩu cá linh bông điên điển với vị
chua chua ngọt ngọt đặc trưng. Món cuối cùng làm từ cá linh nhất định du
khách phải thử chính là cá linh kho tộ ăn với cơm trắng. Ngoài ra trong mùa
nước nổi, du khách có thể thưởng thức món chuột đồng quay lu, gỏi cá sặc lá
sầu đâu, bánh xèo bông điên điển…
6.6 Giới thiệu TP.Long Xuyên, du lịch ở Long Xuyên
Tổng quan Thành Phố Long Xuyên
An Giang là vùng đất mới được phát hiện hơn 300 năm, mặc dù An Giang
không có lịch sử phong phú như nhiều vùng khác, nhưng nơi đây lại hội tụ
nhiều nền văn hóa khác nhau, phong cảnh thiên nhiên độc đáo cùng với phong
cách ẩm thực thú vị. Những điểm khác biệt này đã làm cho An Giang trở nên
nổi bật và ngày một thu hút khách du lịch. Nếu bạn cảm thấy mệt mỏi với sự
nhộn nhịp của thành phố, hãy đến An Giang, nơi có những cánh đồng lúa rộng
lớn và bầu không khí thoáng mát sẽ giúp bạn xua tan những căng thẳng và mệt
mỏi trong tâm hồn ngay lập tức. Và trong đó, thành phố Long Xuyên là một
trong những sắc màu tạo nên vẻ đẹp mặn mà của An Giang.
Thành phố Long Xuyên là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa, khoa học kỹ
thuật của tỉnh An Giang, là đô thị trẻ, năng động nằm bên bờ Tây sông Hậu
(Hậu Giang), có vị trí địa kinh tế - chính trị quan trọng trong hệ thống các đô
thị khu vực Đồng bằng sông Cửu Long. Thành phố có diện tích tự nhiên 114,96
km2, là đô thị loại 2 trực thuộc tỉnh, nằm bên hữu ngạn sông Hậu. Long Xuyên
cách thủ đô Hà Nội 1950 km về phía Nam, cách Thành phố Hồ Chí Minh (Sài
Gòn cũ) 189 km về phía Tây Nam, cách biên giới Campuchia 45 km đường
chim bay.
Tây Bắc giáp huyện Châu Thành Đông Bắc giáp huyện Chợ Mới Nam giáp
quận Thốt Nốt (Thành phố Cần Thơ), Tây giáp huyện Thoại Sơn.
Long Xuyên có dân số khoảng 253.048 người (theo số liệu do Cục Thống kê
tỉnh An Giang cung cấp ngày 5 tháng 7 năm 2001). Dân số trung bình năm
2022 là 272.484 người; với 13 đơn vị hành chính gồm 11 phường, 02 xã.
Cơ cấu kinh tế thành phố chủ yếu là thương mại – dịch vụ (75%); công nghiệp
– xây dựng (21,5%); nông nghiệp (3,5%). Tổng thu ngân sách của thành phố
bình quân hàng năm từ 1.200 tỷ đồng. Tính đến cuối năm 2022 Thành phố cơ
bản xóa hộ nghèo, tỷ lệ hộ nghèo còn 0,14% (101 hộ); hộ cận nghèo 2,27%
(1.671 hộ).
147
Chất lượng giáo dục luôn đứng đầu toàn tỉnh trong nhiều năm qua, hiện thành
phố có 46/56 trường đạt chuẩn Quốc gia (đạt tỷ lệ 82,14%); có 09 di tích được
xếp hạng, trong đó Khu lưu niệm Chủ tịch Tôn Đức Thắng được xếp hạng di
tích cấp quốc gia đặc biệt, 02 di tích được xếp hạng cấp quốc gia (Đình Mỹ
Phước và Chùa Ông Bắc) và 06 di tích được xếp hạng cấp tỉnh.
Du lịch Long Xuyên
Là một trong những điểm đến hấp dẫn của du lịch miền Tây Nam Bộ. Long
Xuyên là một trong những thành phố còn giữ lại đậm đà sắc miền tây cùng với
thiên nhiên hữu tình, vẻ đẹp chất phát và nét sinh hoạt rất sơ nguyên miền quê
sông nước. Một số địa điểm du lịch bạn nên đi khi đến với Long Xuyên:
1.Khu vực tưởng niệm Chủ tịch Tôn Đức Thắng
Một nơi mà bạn có thể đến và ghé thăm là khu tưởng niệm Chủ tịch Tôn Đức
Thắng ở xã Mỹ Hòa Hưng, Long Xuyên, An Giang trên đảo Ông Hồ. Nơi đây
là đền, nhà tưởng niệm và một ngôi nhà gỗ nơi Tổng thống Tôn Đức Thắng
sống suốt thời thơ ấu. Để đến khu tưởng niệm, bạn có thể đến bến phà Ô Môi
trên đường Phan Huy Chú, hoặc nếu bạn đi xe ô tô có sức chứa trên 10 người,
bạn có thể đến đảo Ông Hổ từ phà Trà Ôn.
Đài tưởng niệm này được xây dựng vào năm 1997 và được dựng lên vào tháng
8 năm 1998 vào sinh nhật lần thứ 110 của Chủ tịch Tôn Đức Thắng trong
khuôn viên rộng 1.600 mét vuông gần ngôi nhà cũ của gia đình ông. Ngôi đền
có cấu trúc cổ xưa gồm ba cấp độ, các chi tiết đều làm bằng gỗ gỗ quý. Vị trí
trung tâm được trang trí với một nửa bức tượng của Chủ tịch Tôn Đức Thắng,
hai mặt của tấm được chạm khắc hình của cây tre, phía dưới là hình ảnh một
con cá chép. Xung quanh ngôi đền được trang trí với các biểu tượng của Ngũ
lạc (giàu sang, tài lộc, trường thọ, sức khỏe tốt, an ninh).
Ngôi nhà cổ là nơi cố tổng thống sống trong thời thơ ấu và được ông Ton Van
De, cha ông xây vào năm 1887. Ngôi nhà có kiến trúc chữ Quốc (một nhân vật
Trung Quốc) với những cột gỗ, mái ngói, đường chân trời 12m và chiều dài
13m. Đằng sau ngôi nhà này, có 4 ngôi mộ của cha, mẹ và anh trai của Tổng
thống và vợ. Ngôi nhà được công nhận là di tích quốc gia vào tháng 12 năm
1989 bởi Bộ Văn hóa Thông tin.
2. Cù Lao Ông Hổ
Cù Lao Ông Hổ thuộc phố Mỹ Hòa Hưng, thành phố Long Xuyên. Cù lao xanh
ngắt bóng tre và cây ăn trái, thấp thoáng những mái nhà nhỏ bé, yên bình. Từ
dưới bến phà vào cù lao đã thấy hai bức tượng hổ to lớn được tạc bằng đá uy
nghi đứng trấn cổng vào. Đó là biểu tượng của vùng đất này từ 300 năm qua.
Năm 1984, Bộ Văn hóa đã ra quyết định công nhận đây là Di tích Lịch sử Quốc
gia.

148
Sự tích: Từ 300 năm qua, mảnh đất cù lao luôn chào đón mọi người bằng hai
bức tượng hổ to lớn. Hai bức tượng con hổ này được tạc bằng đá, hàng trăm
năm qua vẫn đứng uy nghi ngay tại cổng vào. Theo người dân địa phương, cù
lao Ông Hổ gắn liền với nhiều truyền thuyết về tên gọi của nó. Xưa kia, có hai
vợ chồng ông lão đang cùng nhau chèo xuống đánh bắt cá thì chợt bắt gặp một
con mèo bám trên mảng lục bình trôi. Tuy nhiên, khi họ lại gần thì nhận ra
không phải con mèo. Đó là một hổ con vừa đói, vừa rét. Ông bà cảm nhận tình
cảnh đáng thương của con hổ nên đem nó về nuôi dưỡng. Hổ con lớn dần trong
tình thương bao la của ông bà lão. Sau một thời gian ông bà ra đi nên hổ đã rút
vào rừng sâu. Tuy nhiên chú hổ này vẫn ghi nhớ công ơn nuôi dưỡng chăm sóc
của 2 người nên mỗi khi đến ngày giỗ của ân nhân, con hổ đều mang về một
con heo rừng hoặc nai rừng đặt bên bên mộ rồi quay đi. Do đó, khi con hổ chết,
dân làng vì thương tình nên lập miếu thờ Ông Hổ. Từ đó, mọi người truyền tai
nhau về cái tên cù lao Ông Hổ.
3. Du lịch Bảo tàng An Giang tại Thành phố Long Xuyên - Tỉnh An Giang
Ở đây, bạn sẽ được tìm hiểu về dấu tích lịch sử hào hùng của những anh hùng
dân tộc nơi đây. Bạn có thể được đọc một cách tường tận về các tài liệu hay tận
mắt nhìn thấy các hiện vật và hình ảnh phản ánh lịch sử, văn hoá và quá trình
phát triển của tỉnh An Giang, tất cả đều được ghi chép và lưu giữ cẩn thận tại
đây. Với có kiến trúc cổ kính, khuôn viên rộng đẹp, vườn là hoa sứ luôn tỏa
hương thơm dịu nhẹ tại bảo tàng sẽ mang đến cho bạn sự sảng khoái dễ chịu.
4. An Giang vốn nổi tiếng với du lịch tâm linh như miếu: Bà Chúa Xứ núi Sam,
chùa Tây An, lăng Thoại Ngọc Hầu, chùa Hang. Tại Long Xuyên thì chúng ta
cũng có những địa danh không kém phần tâm linh, lôi cuốn. Như du lịch Tịnh
xá Ngọc Giang tại Thành phố Long Xuyên - Tỉnh An Giang.
5. Du lịch Chùa Quảng Tế tại Thành phố Long Xuyên - Tỉnh An Giang
Chùa Quảng Tế tọa lạc tại số 51/4 Lý Thái Tổ, phường Mỹ Long, TP. Long
Xuyên. Với sự thanh tịnh, trầm mặc pha lẫn nét cổ kính, chùa Quang Tế đang
dần trở thành điểm đến yêu thích của du khách thập phương muốn thư giãn và
khám phá cảnh sắc thiên nhiên đẹp, hùng vĩ.
6. Du lịch Chùa Ông Bắc tại Thành phố Long Xuyên - Tỉnh An Giang
Chùa Ông Bắc nằm trên đường Phạm Hồng Thái thuộc phường Mỹ Long,
thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang. Chùa Ông Bắc còn được gọi là Quảng
Đông Tỉnh Hội Quán là một di tích kiến trúc chính thống của người Việt gốc
Hoa với các di vật cổ có giá trị cao. Chùa được xây dựng cách đây trên 100
năm bởi những người Hoa từ tỉnh Quảng Đông (Trung Quốc) để làm nơi hội
họp, sinh hoạt. Chùa đã được công nhận di tích lịch sử - văn hoá cấp quốc gia
vào tháng 6/1987.
7. Chợ nổi Long Xuyên – một ngôi chợ đặc trưng ở miền Tây

149
Nhắc đến chợ nổi – sản phẩm du lịch đặc trưng của khu vực miền Tây Nam Bộ,
người ta sẽ nhớ ngay đến chợ nổi Cái Răng, Cái Bè mà ít ai nghĩ đến cái tên
chợ nổi Long Xuyên. Chợ nổi Long Xuyên, nằm trên khu vực sông Hậu đã
xuất hiện từ rất lâu, là nơi tụ họp buôn bán đồ nông sản của người dân An
Giang và các tỉnh lân cận bằng thuyền, ghe. Mặc dù quá trình đô thị hóa diễn ra
mạnh mẽ, đường sá giao thông thuận lợi hơn song chợ nổi Long Xuyên vẫn giữ
nguyên vẹn hồn chợ xưa, người dân vẫn mua bán, di chuyển bằng tàu, ghe.Trải
dài cả khúc sông khoảng 2km từ bến đò Ô Môi, chợ nổi Long Xuyên hoạt động
buôn bán từ 4-5h sáng. Chỉ cần thuê một xuồng máy với giá từ 200.000đ là du
khách đã có thể khám phá tất cả vẻ đẹp của chợ nổi Long Xuyên qua góc nhìn
của chính mình. Tầm 7h là chợ nổi đông vui nhất với hoạt động mua bán nông
sản
6.7 Tổng quan tỉnh Đồng Tháp
Đồng Tháp nằm trong khu vực đồng bằng sông Cửu Long, là một trong ba tỉnh
của vùng Đồng Tháp Mười, có tổng diện tích 3.374 km², dân số gần 1,7 triệu
người; phía bắc giáp Cam-pu-chia, phía nam giáp Vĩnh Long và Cần Thơ, phía
tây giáp An Giang, phía đông giáp Long An và Tiền Giang. Đồng Tháp là tỉnh
nằm trong vùng trọng điểm về sản xuất lương thực - thực phẩm của cả nước,
đứng thứ ba cả nước về tổng sản lượng lúa với trên 3,07 triệu tấn/năm, sản
lượng lúa hàng hóa trên 2 triệu tấn. Thủy sản được coi là thế mạnh thứ 2 sau
cây lúa. Đồng Tháp hiện là tỉnh đứng đầu cả nước về sản lượng cá tra xuất
khẩu.
Tỉnh có hệ thống sông, ngòi, kênh, rạch chằng chịt; nhiều ao, hồ lớn. Sông
chính là sông Tiền (một nhánh của sông Mê Kông) chảy qua tỉnh với chiều dài
132km. Dọc theo hai bên bờ sông Tiền là hệ thống kênh rạch dọc ngang.
Đường liên tỉnh giao lưu thuận tiện với trên 300km đường bộ và một mạng lưới
sông rạch thông thương.
Khí hậu: Đồng Tháp nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới, chia 2 mùa rõ rệt: mùa
mưa từ tháng 5 đến tháng 11 và mùa khô từ tháng 12 đến tháng 4 năm sau.
Nhiệt độ trung bình 26,6ºC.
Dân tộc và tôn giáo: Ở Đồng Tháp có nhiều tôn giáo như Cao Đài, Hòa Hảo,
Phật giáo và Công giáo. Tính cách người dân Đồng Tháp mang đậm nét đặc
trưng chung của đồng bằng Nam Bộ: cần cù, hiền lành, phóng khoáng, cởi mở
và giàu lòng mến khách.
Giao thông: Thành phố Cao Lãnh cách quốc lộ 1A 36km, cách Tp. Hồ Chí
Minh 162km. Nằm trên bờ sông Cao Lãnh (một nhánh nhỏ của sông Tiền tách
ra sau 15km lại chảy vào sông Tiền), ở ngay sát Đồng Tháp Mười mênh mông,
là trung tâm kinh tế của Đồng Tháp. Có tuyến xe khách trực tiếp từ Tp. Hồ Chí
Minh, Mỹ Tho, Cần Thơ, Vĩnh Long và Long Xuyên tới Cao Lãnh. Thành phố
Sa Đéc cách Tp. Hồ Chí Minh 143km, nằm ở nút giao giữa Vĩnh Long và Long
Xuyên.
2. Tiềm năng, lợi thế phát triển
150
Tiềm năng phát triển du lịch
Vùng đất Đồng Tháp Mười ngày xưa nổi tiếng hoang vu với lắm bưng, trần,
đìa, bàu, với bạt ngàn đưng, lác, năng, sen, súng và lau, sậy,...Đây là giang sơn
của các loài động vật hoang dại như: rắn, rùa, chuột ếch, chim muông, cua, cá
sấu.
Giờ đây về thăm Đồng Tháp du khách như trở về với cội nguồn thiên nhiên bởi
bầu không khí trong lành, mát mẻ của những cánh đồng lúa phì nhiêu, đến
viếng Khu Di tích Mộ Cụ Phó Bảng Nguyễn Sinh Sắc, đài liệt sĩ, Khu Di tích
Gò Tháp, Chùa Kiến An Cung, Vườn Quốc Gia Tràm Chim - Tam Nông, Khu
Di tích Xẻo Quít, làng hoa kiểng Tân Qui Đông, các vườn cây ăn trái Cao
Lãnh, Châu Thành, Lai Vung, Thạnh Hưng...
Tiềm năng phát triển kinh tế
Đồng Tháp cũng là tỉnh có nhiều quốc lộ đi qua địa bàn, hệ thống giao thông
thuận lợi tạo điều kiện để Đồng Tháp kết nối chặt chẽ với thành phố Hồ Chí
Minh, Cần Thơ và các tỉnh lân cận, kể cả sang nước bạn Campuchia. Hai nhánh
sông Cửu Long là sông Tiền và sông Hậu chảy qua tạo nên hệ thống giao thông
bằng đường thủy tại Đồng Tháp rất thuận lợi. Hai bến cảng nằm bên bờ sông
Tiền giúp vận chuyển hàng hoá thuận tiện ra biển Đông và Campuchia.
Là một tỉnh nông nghiệp, Đồng Tháp sản xuất nhiều lương thực và các loại
nông, thủy sản có giá trị xuất khẩu. Đất đai Đồng Tháp màu mỡ bởi phù sa do
hai con sông Tiền và sông Hậu cung cấp hàng năm, xóm làng trù phú giữa bốn
bề cây cối xanh tươi. Vì thế Đồng Tháp được biết đến như một vựa lúa của cả
nước. Ở đây có giống lúa nổi một loài lúa mọc tự nhiên từ tháng 4, tháng 5 đến
tháng 10 thu hoạch mà không cần chăm bón. Đồng Tháp cũng là vùng đầy triển
vọng về các loại cây công nghiệp ngắn ngày như mía, bông, thuốc lá, đậu
tương và cây ăn trái như xoài Cao Lãnh, nhãn Châu Thành, quít Lai Vung,
bưởi Phong Hòa, chôm chôm, vú sữa, mãng cầu có quanh năm
6.8 Giới thiệu khái quát vùng Đồng Tháp Mười
Đồng Tháp Mười là tên gọi của phần trong lãnh thổ Việt Nam của một
vùng đất ngập nước phía đông sông Tiền ven biên giới Việt Nam - Campuchia,
trải rộng trên ba tỉnh Long An, Tiền Giang và Đồng Tháp mà trung tâm là thị
xã Kiến Tường. Vùng Đồng Tháp Mười rộng 697.000 hecta, có khu bảo tồn đất
ngập nước Láng Sen, vườn quốc gia Tràm Chim. Trong các cuộc chiến tranh
chống Pháp và chiến tranh Việt Nam, Đồng Tháp Mười là một trong những
chiến khu quan trọng nhất. Trong thập niên 1980, ba tỉnh nói trên đã đẩy
mạnh khai hoang vùng Đồng Tháp Mười. Đây là một trong những nguyên nhân
quan trọng góp phần đưa Việt Nam từ một nước thiếu lương thực thành một
trong những nước xuất khẩu lúa gạo quan trọng trên thế giới.
Đồng Tháp Mười là một đồng lụt kín được bao quanh bởi các giồng đất cao
ven biên giới Việt Nam – Campuchia, đê tự nhiên dọc sông Tiền và giồng biển
cổ dọc theo Quốc lộ 1 (Tân Hiệp – Nhị Quý, Cai Lậy) và chặn lại bởi sông
Vàm Cỏ Đông (Long An).

151
Hệ sinh thái
Hệ sinh thái rừng tràm có thể tìm thấy khá nhiều trong đồng bằng ngập nước.
Phạm vi xuất hiện của hệ sinh thái này khá đa dạng, từ vùng triền của đất dốc
tụ cho đến đất phèn hoạt động. Những cánh rừng tràm có thể phát triển trên
những cánh đồng, đồng thời cũng có thể phát triển khá nhiều dọc theo sông
rạch. Tuy nhiên, những cánh rừng tràm nguyên sinh dường như không còn nữa
mà chỉ có thể tìm thấy một phần rừng tràm tái sinh với diện tích quá nhỏ so với
một vùng Đồng Tháp Mười rộng lớn.
Hệ sinh thái đồng cỏ ngập nước theo mùa khá phổ biến và chiếm ưu thế trong
vùng này xưa kia. Thảm thực vật với các quần xã thay đổi theo môi trường tự
nhiên trong từng vùng. Những cánh đồng hoàng đầu ấn, cỏ năng, cỏ ống, cánh
đồng cỏ mồm, cỏ lác trải rộng khắp vùng này xưa kia vẫn còn tìm gặp khá
nhiều ở các khu bảo tồn và vườn quốc gia
Các khu bảo tồn thiên nhiên: Vườn quốc gia Tràm Chim và Khu bảo tồn đất
ngập nước Láng Sen là hai khu bảo tồn thiên nhiên đất ngập nước rất điển hình
được thành lập nhằm thực hiện những mục tiêu bảo tồn đa dạng sinh học và các
hệ sinh thái vùng đất ngập nước Đồng Tháp Mười.
NGÀY 7: NHÓM 7: CAO LÃNH-TP HCM

7.1 Giới thiệu về cao lãnh


Cao Lãnh là thành phố tỉnh lỵ của tỉnh Đồng Tháp, Việt Nam. Biệt danh Thủ
phủ Đất sen hồng. Thành phố Cao Lãnh hiện đang là đô thị loại II và là đô thị
tỉnh lỵ trung tâm quan trọng của tỉnh Đồng Tháp.
Vị trí địa lí: Thành phố Cao Lãnh nằm ở tả ngạn sông Tiền dọc theo quốc lộ
30, cách Thành phố Hồ Chí Minh 154km, Thành phố Cần Thơ 80km, có vị trí
địa lý:
Phía Bắc và phía Đông giáp huyện Cao Lãnh
Phía Nam giáp huyện Lấp Vò, tỉnh Đồng Tháp, qua sông Tiền.
Phía Tây giáp huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang, qua sông Tiền
Lịch sử hình thành:
- Vào cuối thế kỷ 17, chúa Nguyễn cho di dân từ các tỉnh miền Trung vào khai
phá Nam bộ và đồng bằng sông Cửu Long, trong số lưu dân có nhiều người từ
thôn Bả Canh thuộc phủ Quy Nhơn, trấn Bình Định đã vào sinh sống ven bờ
rạch Cái Sao Thượng và sông Con (sông Cao Lãnh ngày nay) hình thành nên
xóm Bả Canh và phát triển thành khố trường Bả Canh.
- Khố trường Bả Canh giải thể, thôn Mỹ Trà được hình thành
- Qua quá trình lịch sử trải dài, sau nhiều lần bị phân chia thì đến năm 1913,
Pháp lập quận Cao Lãnh thuộc tỉnh Sa Đéc. Từ năm 1956, chính quyền Sài

152
Gòn thành lập tỉnh Kiến Phong, lấy khu vực thị tứ Mỹ Trà của quận Cao Lãnh
làm tỉnh lỵ và tồn tại đến ngày giải phóng hoàn toàn Miền Nam.
- Năm 1976, tỉnh Đồng Tháp được thành lập trên cơ sở hợp nhất hai tỉnh Sa
Đéc và Kiến Phong, khu thị tứ Mỹ Trà – Cao Lãnh trở thành thị trấn của huyện
Cao Lãnh.
- Năm 1989 trở thành thị xã tỉnh lỵ của tỉnh Đồng Tháp.
- Ngày 16 tháng 01 năm 2007, thị xã Cao Lãnh được Chính phủ công nhận là
thành phố thuộc tỉnh Đồng Tháp
Du lịch tại Cao Lãnh
Du lịch văn hóa lịch sử tại khu vực trung tâm: Công viên Văn Miếu tại phường
1, khu di tích lăng cụ phó bảng Nguyễn Sinh Sắc…
Du lịch sinh thái miệt vườn: Khu du lịch sinh thái cồn Tân Thuận Đông, một
số dự án đang được xây dựng tại khu vực ven sông Tiền. Cồn Tân Thuận Đông
đang phát triển loại hình du lịch sinh thái miệt vườn với không gian gần 1000
ha trồng xoài nằm giữa sông Tiền.
Loại hình du lịch homestay phát triển kết hợp trong khu di tích lăng cụ phó
bảng, tại khu vực làng Hòa An.
7.2 Lăng mộ Phó Bảng Nguyễn Sinh Sắc
Khu di tích Nguyễn Sinh Sắc thành phố Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp, Việt Nam.
Đây là nơi an nghỉ của Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc (1862–1929), là một nhà
nho yêu nước, và là thân sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Di tích được xếp
hạng di tích cấp quốc gia ngày 9 tháng 4 năm 1992.
Cụ Nguyễn Sinh Sắc sinh ra và lớn lên tại Nam Đàn, tỉnh Nghệ An. Năm Tân
Sửu (1901), cụ đỗ Phó bảng và năm 1906 nhậm chức “Thừa biện Bộ Lễ” và
sau đó là Tri phủ lĩnh nhiệm Tri huyện Bình Khê (Bình Định). Trong thời gian
làm quan, cụ luôn đứng về phía dân nghèo, trừng trị bọn cường hào ác bá và
chỉ làm quan được một thời gian ngắn thì bị Triều đình nhà Nguyễn cách chức.
Sau khi bị cách chức quan, Nguyễn Sinh Sắc vào Nam Bộ làm thầy thuốc, dạy
học giúp dân nghèo, sống cuộc đời thanh bạch tại làng Hòa An (nay thuộc
thành phố Cao Lãnh), cho đến khi qua đời
Cảm phục trước tấm lòng yêu nước, thương dân của ông, người dân địa
phương đã góp tiền mua đất an táng ông tại miếu Trời Sanh (cạnh chùa Hòa
Long hiện nay), và gìn giữ cho đến khi đất nước hết chiến tranh (1975). Sau đó,
chính quyền địa phương và nhân dân tỉnh Đồng Tháp đã tổ chức xây dựng lại
phần mộ của ông để tỏ lòng biết ơn và tôn kính, và công trình được khánh
thành vào ngày 31 tháng 12 năm 1977.
Ngày nay sau nhiều lần tôn tạo, khu phần mộ đã trở thành một quần thể di tích
lịch sử - văn hóa cấp quốc gia.Trên bề mặt viên rộng 10 ha; nhiều công trình
vừa mang tính dân tộc, vừa mang tính hiện đại đã được xây dựng. Nổi bật có:

153
Mộ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc (quan trọng nhất): Mộ được ốp bằng đá hoa
cương. Núm mộ hình chữ nhật màu xám tro, yên vị trên nền mộ bằng đá mài
trắng, hình lục giác không đều mở rộng dần ra hai bên và phía trước. Vòm mộ
hướng về phía Đông, là một cánh hoa sen cách điệu, có dáng dấp hình bàn tay
xòe úp xuống, trên là chín con rồng cách tân đậm nét dân gian, vươn ra trước
thành 9 đầu hồi, tượng trưng cho hình ảnh nhân dân đồng bằng sông Cửu Long
chở che, ôm ấp phần mộ. Trên mộ có một đỉnh trầm bằng đá Ngũ Hành Sơn
(Đà Nẵng). Đặc biệt, tại đây có cây khế gần 300 tuổi (nằm bên trái mộ) và cây
sộp hơn 300 tuổi (nằm bên phải mộ). Cách vòm mộ 25 m về phía trước là hồ
sen hình ngôi sao năm cánh, giữa hồ sừng sững một đài sen trắng cách điệu cao
6,5 m, tượng trưng cho cuộc đời thanh bạch, lương tâm trong sạch của Nguyễn
Sinh Sắc, và cũng là biểu tượng cho quê hương Đồng Tháp luôn yêu quý ông.
Tượng Nguyễn Sinh Sắc (tượng ngoài trời đặt trong khuôn viên), nhà trưng bày
giới thiệu về cuộc đời của Nguyễn Sinh Sắc: Khu nhà lưu niệm trưng bày nhiều
hiện vật, tư liệu liên quan đến cuộc đời và sự nghiệp của cụ, nhất là thời gian
cụ ở Cao Lãnh. Nơi đây tái hiện chân thực từng giai đoạn gắn liền cuộc đời cụ
Phó bảng từ quê hương và gia đình, tình cảm của cụ Nguyễn Sinh Sắc với nhân
dân Hòa An và tình cảm của nhân dân Hòa An cùng cả nước đối với cụ… Hàng
năm, tại đây tổ chức lễ giỗ long trọng Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc vào ngày 27
tháng 10 (âm lịch).
7.3 Khu du lịch sinh thái Xẻo Quýt và các điểm du lịch sinh thái ở Đồng
Tháp
7.3.1 Khu du lịch sinh thái ở Đồng Tháp
Đồng Tháp có khá nhiều di tích lịch sử mà Xẻo Quýt là một trong những điểm
du lịch về nguồn ý nghĩa, khu di tích Xẻo Quýt với diện tích khoảng 50 ha,
trong đó có 20 ha rừng tràm nguyên sinh, thuộc 2 xã Mỹ Hiệp và Mỹ Long,
huyện Cao Lãnh, Tỉnh Đồng Tháp. Nằm cách trung tâm thành phố Cao Lãnh
khoảng 30km, khu di tích lịch sử kết hợp khu sinh thái Xẻo Quýt sẽ mang đến
cho du khách cảm giác như lạc vào rừng nguyên sinh với khung cảnh tự nhiên
hoang dã. Khác với những địa điểm du lịch sinh thái khác, Xẻo Quýt là sự kết
hợp phong phú nhiều hoạt động: Thăm quan các di tích lịch sử, văn hoá, khám
phá đồng sen, tham gia các trò chơi dân dã, tự nấu ăn,...
Cái tên “ Xẻo Quýt” đặc biệt: Xẻo Quýt, cái tên nghe khá lạ tai và gây tò mò
cho bất cứ ai khi mới nghe đến lần đầu. Theo như tìm hiểu, tên gọi “Xẻo Quýt”
được lý giải theo hai cách. Theo cách giải thích thứ nhất thì “Xẻo” nghĩa là một
con lạch nhỏ còn “Quýt” là ý nói cây quýt trong vườn. Trước đây người dân địa
phương trong vùng trồng rất nhiều quýt nên lấy luôn tên gọi là “Xẻo Quýt”.
Cách giải nghĩa thứ hai có vẻ đơn giản và ngắn gọn hơn, “Quýt” là tên của
người đầu tiên đã có công khai phá khu vực nên lúc đầu còn gọi là Xẻo ông
quýt, sau gọi tắt thành “Xẻo Quýt”.
Thời điểm du lịch Xẻo Quýt: Khu du lịch Xẻo Quýt Đồng Tháp đẹp nhất vào
những tháng cận cuối năm tháng 8 hoặc tháng 10, 11. Vào tháng 10, 11 khi
nước lên sẽ được đi thuyền trên cánh đồng ngập nước, trên chiếc xuồng ba lá.

154
Đôi nét về Xẻo Quýt: Tận dụng địa thế vốn có của rừng nguyên sinh rậm rạp
và rừng ngập mặn, Xẻo Quýt đã trở thành căn cứ địa của nhân dân Đồng Tháp
trong công cuộc chống Mỹ những năm 1960 - 1975. Hiện, Xẻo Quýt đã được
phong tặng di tích lịch sử cấp quốc gia và lưu giữ rất nhiều chứng tích như
công sự chiến đấu chữ Z và chữ L, phòng họp và nhà lán của các chiến sĩ cách
mạng, bãi lựu đạn chống đổ quân bằng trực thăng,... Trong suốt hành trình cuộc
kháng chiến, Xẻo Quýt đã phải hứng chịu rất nhiều trận mưa bom, bão đạn của
kẻ thù. Được công nhận di tích lịch sử quốc gia năm 1992, Xẻo Quýt là điểm
du lịch về nguồn và là nơi lưu giữ vết tích của thời kỳ đấu tranh gian khổ của
quân dân Đồng Tháp.
Khám phá khu di tích Xẻo Quýt: Tham quan khu di tích, du khách có hai
phương tiện để di chuyển. Nếu thích len lỏi dưới những tán cây rừng, du khách
có thể đi bộ theo con đường độc đạo trong khu di tích, dài khoảng 1,5 km vào
mùa khô.
Cách thứ hai là di chuyển thuyền ba lá, chầm chậm len lỏi theo các con lạch
nhỏ. Du khách thực sự sẽ được tận hưởng khoảng trời thiên nhiên thực thụ khi
trải nghiệm du lịch tại khu du lịch sinh thái Xẻo Quýt. Ngoài ra, còn có những
“bãi ngù – tử địa” có gài lựu đạn chống trực thăng và xe tăng bộ binh, nhà đón
khách Tỉnh ủy, các nơi hội họp, làm việc và sinh hoạt của cán bộ, bộ đội trong
suốt thời kỳ chiến đấu ác liệt. Điều đặc biệt của khu căn cứ này là không có bê
tông, không có tường vôi, gạch đá mà hầu hết các công trình đều được phục
chế bằng gỗ, tre, tràm, lá dừa nước,… Mang lại cảm giác tự hào về một vùng
căn cứ oanh liệt của quân và dân Đồng Tháp sẽ tới với bất cứ ai đã từng tham
quan và tận mắt chứng kiến.
Hệ sinh thái: Sự đa dạng sinh học lại là một đặc điểm thú vị khác lôi kéo du
khách lạc vào những trải nghiệm. Hiện Xẻo Quýt có 170 loài thực vật với 158
loài hoang dại và 12 loài cây thân gỗ, tuy không quý hiếm nhưng lại là giống
cây thích nghi với điều kiện ngập nước. Hệ động vật có 200 loài hoang dã, đặc
biệt ở đây có 13 loài động vật quý hiếm được ghi vào sách đỏ Việt Nam như
trăn mốc, rắn hổ trâu, rùa hộp, chim sả mỏ rộng và loài rái cá thường…
Ngoài ra, Xẻo Quýt còn làm say lòng du khách với khu vui chơi, du lịch dã
ngoại rộng 25ha với những dòng kênh, cánh đồng, ao sen… Tạo thành một khu
liên hợp với nhiều trò chơi dân gian mang tính giáo dục và trải nghiệm thực tế
thú vị. Một điểm thú vị khi đến Xẻo Quýt là du khách sẽ được “Đi xuồng gỡ
chài”, lắc lư trên xuồng ba lá men theo rừng tràm để đi gỡ chày bắt cá, tôm,…
Những sản phẩm thu được sẽ được người dân địa phương chế biến thành những
món đặc sản như cá trê chiên mắm xoài, ốc bưu hấp,… Ngoài tham quan, nghỉ
ngơi, du khách còn có thể học cách đan lát các vật dụng trong gia đình như giỏ
đi chợ, kệ đựng sách báo… từ những cây bèo tây hay còn gọi là lục bình phơi
khô.
Đến Xẻo Quýt ăn gì? Sau khi tham quan, vui chơi thỏa thích, khu ẩm thực và
nhà hàng Xẻo Quýt mang đậm chất quê sẽ là điểm dừng chân lý tưởng để bạn
thưởng thức các món đặc sản trứ danh xứ này, như cá lóc nướng sen, chuột
đồng nướng, lươn đồng nấu chua, ếch nướng mọi, lẩu cá linh… Và càng đặc
155
biệt hơn khi vừa dùng cơm vừa thưởng thức và giao lưu đờn ca tài tử, rồi tự do
khám phá tham quan rừng tràm nguyên sinh, câu cá giải trí, hoặc mắc võng
nằm nghỉ dưới tán rừng tràm.
Do đặc thù về khí hậu, tự nhiên, miền Tây nói chung rất phù hợp để phát triển
du lịch sinh thái như các miệt vườn cây ăn trái, sân chim, rừng ngập mặn…
luôn là điểm đến hấp dẫn níu chân du khách. Ngoài khu du lịch Xẻo Quýt,
Đồng Tháp cũng là miền đất hội tụ nhiều cảnh quan đẹp, các địa điểm tâm linh
thiêng và nhiều hoạt động hấp dẫn khác.
7.3.2 Các điểm du lịch sinh thái khác
Khu du lịch sinh thái Gáo Giồng
Địa chỉ: Ấp 6, xã Gáo Giồng, huyện Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp. Thời gian du
lịch Gáo Giồng lý tưởng nhất là từ tháng 9 đến tháng 11 lúc Miền Tây vào mùa
nước nổi. Vào mùa nước nổi nước phủ ngập cánh đồng biến Gáo Giồng trở
thành một ốc đảo giữa trời nước mênh mông. Nổi lên màu vàng của hoa điên
điển, màu tím của hoa súng hòa lẫn sắc hồng của những cánh sen, màu xanh
mướt của rừng tràm.
Đặc điểm:
Nằm cách thành phố Cao Lãnh khoảng 17km và có diện tích 36ha. Khi đến khu
du lịch, du khách sẽ bị choáng ngợp trước hệ sinh thái loài chim. Nơi đây có
hơn 15 loại chim khác nhau sinh sống với số lượng có thể lên đến hàng ngàn
con. Dễ dàng có thể bắt gặp những loại chim quý như le le, vịt trời, diệc, đồng,
… Trong đó, cò là loài có số lượng nhiều nhất, biến Gáo Giồng trở thành một
trong những vườn cò lớn nhất ở Đồng Tháp Mười. Được xem là một trong
những khu du lịch sinh thái đẹp nhất Đồng Tháp Mười, khu du lịch sinh thái
Gáo Giồng là địa điểm tham quan lý tưởng cho những ai muốn khám phá thiên
nhiên, kênh rạch đặc trưng của miền Tây. Khách du lịch đến đây có thể leo lên
những chiếc xuồng nhỏ đi qua những rặng rừng tràm, điên điển, lau sậy xanh
mát, ngắm khung cảnh thiên nhiên thơ mộng và các loại động vật sinh sống nơi
đây. Sau khi bơi xuồng dạo quanh khu du lịch, du khách có thể leo lên đài quan
sát cao 18m để có thể ngắm nhìn trọn vẹn toàn bộ khu du lịch từ trên cao. Đặc
biệt, nhờ hệ thống kênh rạch chằng chịt nên nơi đây cũng có nguồn hải sản vô
cùng phong phú. Khu du lịch phục vụ rất nhiều món ăn đặc sản ngon miệng
như cá linh nấu canh chua bông điên điển, cá lóc nướng đọt sen, mắm kho
chấm rau dừa, lá sâu nhái chấm với mắm me,…
Khu du lịch sinh thái Đồng Sen Tháp Mười
Địa chỉ: Tọa lạc ở xã Mỹ Hòa, cách trung tâm thành phố Cao Lãnh khoảng
35km, khu du lịch Đồng Sen Tháp Mười được thành lập từ đầu thế kỷ XXI, với
vai trò quan trọng trong số những di tích thuộc cấp quốc gia cần được bảo tồn.
Đến năm 2007, khu du lịch sinh thái này được được cải tạo và phát triển trở
nên đa dạng hơn. Là một điểm du lịch không phụ thuộc quá nhiều vào khí hậu
nên du khách có thể đến Đồng Sen Tháp Mười bất cứ thời gian nào trong năm.
Tuy nhiên, theo kinh nghiệm của nhiều người thì du khách nên đến đây vào
mùa hè từ tháng đầu tháng 6 đến tháng 10.
156
Đặc điểm:
Nằm cách thành phố Cao Lãnh khoảng 39km.
Đúng như tên gọi, khu du lịch Đồng Sen có trồng rất nhiều hoa sen. Đây là nơi
sinh sống của 149 loại động vật và 112 loại chim. Trong đó, có cả những loại
động vật quý hiếm như sếu đầu đỏ, rắn ráo, trăn đất,…Hoạt động được nhiều
khách du lịch đến đây yêu thích bậc nhất là ngồi trên những chiếc xuồng lá nhỏ
và dạo chơi trên những kênh mương xanh mát. Ngồi trên xuồng bạn vừa được
nghe những điệu hò của người dân miền Tây vừa được ngắm nhìn khung cảnh
thiên nhiên thơ mộng, những đàn cò trắng và tiếng chim chóc hót líu lo. Diện
tích trồng sen lên tới hơn 11ha, vì thế du khách đến đây có thể thấy những cánh
đồng sen bao la. Xen kẽ giữa các đồng sen là những chòi nghỉ dành cho du
khách dừng chân. Mùa sen nở là mùa hè, lúc này những cánh hoa sen bung nở
khiến cánh đồng được phủ một mùa hồng tinh khiết, du khách có thể đến đây
ngắm sen, thưởng hoa, chụp ảnh hoặc ngồi nhâm nhi chén trà sen để tận hưởng
không gian thanh mát. Du khách cũng có thể tự mình chèo xuồng đi hái sen,
câu cá, ở đây có phục vụ những món ăn miền Tây và nơi này không thể thiếu
những món ăn từ sen như cơm chiên sen, gỏi ngó sen, sữa sen, hạt sen tươi, hạt
sen chiên…
Khu du lịch hoa kiểng Sa Đéc
Địa chỉ: Ấp Khánh Nhơn, xã Tân Khánh Đông, Sa Đéc, Đồng Tháp.
Đặc điểm:
Làng hoa Sa Đéc khởi nguyên là làng hoa Tân Quy Đông, một làng nghề
truyền thống hơn trăm năm tuổi, nằm bên bờ sông Tiền quanh năm lộng gió,
màu mỡ phù sa, ngập tràn ánh nắng và được mệnh danh là xứ sở của các loài
hoa kiểng. Nơi đây cuốn hút khách du lịch bởi vẻ đẹp nên thơ và những trải
nghiệm đầy lãng mạn. Khu du lịch Hoa Kiểng Sa Đéc được ví như “vườn hoa
kiểng cổ lớn nhất Nam Bộ ” với bàn tay các nghệ nhân đã thổi hồn vào những
cây kiểng bonsai, các loại hoa đủ muôn sắc, với diện tích lên đến 20.000 m².
Khu du lịch hoa kiểng Sa Đéc là một không gian tràn đầy tính nghệ thuật với
nhiều loài hoa rực rỡ, những cây bonsai được cắt tỉa công phu. Nơi đây còn có
vườn hồng được xếp vào một trong những vườn hồng lớn nhất Sa Đéc với hơn
30.000 chậu hoa, hơn 150 giống hoa hồng. Hiện tại, khu du lịch đã cơ bản hoàn
thành các hạng mục để đưa vào phục vụ khách tham quan gồm: Khu trưng bày
hơn 3 nghìn tác phẩm kiểng cổ và bonsai, hòn non bộ, tháp hoa hồng cao 9m,
gồm 19 bậc thang, chất đầy 9999 chậu hoa hồng, bên dưới là khu cánh đồng
hoa rộng hơn 1 ha với hơn 40 ngàn chậu hoa các loại với nhiều tiểu cảnh phục
vụ khách tham quan chụp ảnh như: cối xay gió, nhà lá Nam bộ, cửa sổ tình yêu,
cung đàn tình yêu. Du khách đến đây có thể cắm trại, làm tiệc BBQ ban đêm,
thưởng thức các món đặc sản địa phương và tham gia học cách tỉa bonsai, cách
trồng hoa, chăm sóc các giống hoa…
Khu Du Lịch Sinh Thái Thuận Hiếu
Địa chỉ: Ấp 6B, xã Trường Xuân, huyện Tháp Mười, tỉnh Đồng Tháp.

157
Đặc điểm: Đến với khu du lịch sinh thái Thuận Hiếu, thực khách sẽ ngạc nhiên
với không gian ở đây rộng rãi, thoáng mát, Những chiếc cầu được xây dựng
bằng sắt trên dòng sông xung quanh là hoa sen màu hồng được bao phủ bởi
những lá sen trông thật đẹp và bình yên, có những chiếc chòi được xây dựng
ngay trên sông. Thêm vào đó, Thuận Hiếu có xây dựng những khung sắt theo
hình hoa sen, rất nổi bật và ấn tượng với thực khách khi đến với khu du lịch
sinh thái. Khi đã đến đây đừng quên order cho mình những món ăn mang đậm
miền sông nước, là đặc sản của người dân miền tây, menu ở quán khá đa dạng
với nhiều món ăn khác nhau như cá lóc nướng chui, lẩu mắm và có các món
đặc sản về sen như hạt sen sấy khô,… đậm chất dân dã của người miền tây.
Ngoài ra, khu du lịch sinh thái Thuận Hiếu có nhiều địa điểm check in để cho
thực khách có thể nhìn ngắm và chụp những bức ảnh đẹp
Khu du lịch sinh thái Mỹ Phước Thành
Địa chỉ: Khu du lịch sinh thái Mỹ Phước Thành nằm ở thành phố Cao Lãnh,
tỉnh Đồng Tháp.
Đặc điểm: Có diện tích lên đến 65.000 m2 toàn bộ khu du lịch sinh thái Mỹ
Phước Thành được quy hoạch theo phong cách miền Tây mộc mạc, giản dị
nhưng cũng đầy tính nghệ thuật. Điểm nhấn lớn nhất của khu du lịch là cánh
đồng lúa mênh mông, bát ngát và con đường đê trải dài. Đầm sen rộng thênh
thang, được lấp kín bằng những bông sen hồng – loài hoa đặc trưng của vùng
Đồng Tháp. Trong không gian làng quê thanh bình, những cây cầu gỗ, những
chòi lá giữa đồng sen đẹp hơn bao giờ hết.
Thời điểm lý tưởng để đi khu du lịch sinh thái Mỹ Phước Thành vì nằm trong
vùng khí hậu nhiệt đới ẩm gió mùa, thời tiết ở Cao Lãnh được phân hoá thành 2
mùa rõ rệt là mùa mưa và mùa khô. Do đó, du khách có thể ghé thăm vùng đất
này vào bất kỳ thời điểm nào trong năm mà mình muốn. Đến khu du lịch sinh
thái Mỹ Phước Thành du khách sẽ được mặc đồ ba bá, hóa thân thành người
dân miền Tây hiền hòa, chịu khó, chèo xuồng ra hồ sen, đua xuồng, đặt lợp hay
bắt cá,…
Khu du lịch văn hoá Phương Nam
Địa chỉ: Toạ lạc tại xã Long Hưng A, huyện Lấp Vò, tỉnh Đồng Tháp. Đây là
địa điểm vô cùng hấp dẫn của tỉnh Đồng Tháp vì vừa là nơi tham quan, vui
chơi, tìm hiểu lịch sử, văn hóa lại vừa là điểm sống ảo nổi tiếng.
Đặc điểm: Khu du lịch văn hóa Phương Nam là một quần thể công trình văn
hóa tâm linh, thờ các nhân vật lịch sử đất phương Nam, thờ thủy tổ họ Đặng và
thủy tổ các dòng họ khác khắp vùng miền. Công trình được xây dựng bằng
những khối gỗ cũ và mới theo phong cách kiến trúc nhà Việt Nam, mang dấu
ấn thời Nguyễn, cải tiến kiểu kiến trúc nhà ở Nam Bộ. Toàn bộ khuôn viên khu
du lịch được quy hoạch trên tổng diện tích 17ha gồm 5 hạng mục công trình
chính gồm: Nam Phương linh từ, Bảo tàng Đặng tộc, Bảo tàng Nam Bộ, Đặng
tộc Nam Phương linh từ và dãy trường lang tượng trưng cho 5 Châu.Ngoài ra,
trong khuôn viên khu du lịch còn có những công trình ấn tượng khác.
7.4 Khu di tích Gò Tháp
158
Khu di tích Gò Tháp là khu di tích cấp quốc gia đã được công nhận từ năm
1998, chứa đựng nhiều giá trị văn hóa - lịch sử của dân tộc và nhân loại. Nơi
đây hiện còn quần thể di tích của Vương quốc Phù Nam cách đây hơn 1.500
năm, có di tích gắn liền với 2 thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp và đế
quốc Mỹ cùng nhiều tầng văn hóa dân gian.
Khu di tích Quốc gia đặc biệt Gò Tháp tọa lạc tại ấp 1, xã Tân Kiều, huyện
Tháp Mười, tỉnh Đồng Tháp.
Gò Tháp được xem là nơi hội tụ của những giá trị đặc biệt về văn hóa, lịch sử,
khảo cổ và tâm linh gắn liền với mỗi giai đoạn lịch sử khác nhau. Vào ngày
27/09/2012, Di tích lịch sử và khảo cổ Gò Tháp được công nhận là Di tích quốc
gia đặc biệt. Từ những năm cuối thế kỷ XIX và vào những thập kỷ đầu thế kỷ
XX, một số nhà nghiên cứu người Pháp đã đến đây khảo sát và công bố những
phát hiện quan trọng về một số dấu tích kiến trúc cổ, tượng thờ, bia đá và văn
tự cổ. Từ sau khi đất nước hòa bình và thống nhất vào năm 1975, các nhà khảo
cổ học Việt Nam cũng đặc biệt quan tâm đến khu di tích Gò Tháp. Nhiều nhà
khảo cổ học phát hiện nhiều dấu tích, di vật, hiện vật cổ thuộc nền văn minh Óc
Eo. Các nhà khảo cổ trong các lần khai quật di chỉ Gò Tháp vào các năm 1984,
1993 đã phát hiện nhiều di vật của nền văn hóa Óc Eo dưới lòng đất cát pha sét,
có niên đại cách đây trên 1.500 năm. Các tượng thần của Hindu giáo như
Vishinu, Ganesa, Shiva và các mẫu vật sành sứ, ấm chén, khuôn chế tác nữ
trang hiện đang được trưng bày khá phong phú tại bảo tàng Đồng Tháp. Di tích
mộ táng được phát hiện ở các gò cát, qua nhiều đợt khai quật đã phát hiện 13
mộ táng, thu được trên 1000 hiện vật, tùy táng chôn theo như mảnh vàng có
chạm khắc hoa văn, đá quý, đầu tượng, đồ gốm, nhẫn vàng… Và di tích kiến
trúc được phát hiện ở các gò cao như Gò Minh Sư, Gò Tháp Mười, Miếu bà
Chúa Xứ, Chùa Tháp Linh. Hầu hết di tích kiến trúc tìm thấy nằm sâu trong
lòng đất, được xây dựng công phu có tường thành bao bọc xung quanh để
chống sự xâm thực của gió và nước, kiến trúc xây dựng ở trình độ cao. Cuối
thế kỷ XVII - đầu thế kỷ XVIII, một bộ phận cư dân người Việt từ đàng ngoài
đã vào đây khai hoang lập nghiệp, mở mang bờ cõi trên vùng đất còn hoang
hóa với nhiều rừng rậm, sình lầy, muỗi bầy, thú dữ.
Quần thể di tích Gò Tháp có tên Prasat Pream Loven gồm có 5 di tích tiêu biểu:
Gò Tháp Mười, tháp Cổ Tự, mộ và đền thờ anh hùng Thiên hộ Dương (Võ Duy
Dương) và Đốc binh Kiều, gò Minh Sư, miếu Bà Chúa Xứ. Gò Tháp Mười là
nơi cao nhất nằm ở phía nam khu di tích, trong thời kỳ chiến tranh chống Pháp
và Mỹ, Gò Tháp Mười từng là căn cứ của các cơ quan kháng chiến ở Nam Bộ.
Cách Gò Tháp Mười 100m về phía Bắc là chùa Tháp Linh Cổ Tự, tương truyền
rằng đã có từ đời Thiệu Trị (1841-1847), xa xưa là ngôi tháp thờ các vị thần của
Hindu giáo
Giá trị văn hóa khảo cổ học: Những ghi nhận sớm nhất về khảo cổ học ở Khu
di tích Gò Tháp vào khoảng những năm 1881, do Đại úy Silvestre - một thanh
tra người Pháp làm việc tại đây. Cho đến nay, qua các đợt nghiên cứu, khảo sát,
thăm dò và khai quật, Khu di tích Gò Tháp được các nhà khảo cổ xác định là
một tiểu quốc của vương quốc Phù Nam. Nơi đây lưu giữ gần như khá nguyên
159
vẹn các di tích của nền văn hóa Óc Eo và vương quốc Phù Nam, với hơn 10 di
tích kiến trúc đền thần Hindu giáo, ao thần, giếng thần, đường đi cùng nhiều di
tích cư trú, xưởng chế tác,… và nhiều bộ sưu tập hiện vật độc đáo như: tượng
thần Hindu giáo (trong đó có 02 tượng thần Vishnu được công nhận là Bảo vật
Quốc gia), tượng Phật gỗ và đặc biệt là bộ sưu tập hơn 400 hiện vật vàng gồm
các lá vàng, khuyên tai vàng, nhẫn vàng, sợi dây chuyền vàng,… Đã được tổ
chức Kỷ lục Việt Nam xác nhận là “Bộ sưu tập hiện vật vàng Óc Eo - Gò Tháp
nhiều nhất Việt Nam”.
Giá trị lịch sử: Khu di tích Gò Tháp có “trang sử vàng son” trong cuộc chiến
đấu bảo vệ đất nước. Nơi đây từng là “Đại bản doanh” của hai vị anh hùng dân
tộc Thiên hộ Võ Duy Dương và Đốc binh Nguyễn Tấn Kiều trong cuộc đấu
tranh chống Thực dân Pháp xâm lược những năm 1862 – 1866. Sau năm 1945,
Gò Tháp là “địa chỉ đỏ” của cuộc kháng chiến chống Pháp. Nơi đây được Xứ
uỷ và Ủy ban kháng chiến Hành chánh Nam Bộ chọn làm căn cứ kháng chiến
trong giai đoạn từ năm 1946 đến năm 1949. Trong kháng chiến chống Mỹ cứu
nước, Gò Tháp còn là nơi ghi dấu chiến công oanh liệt đánh sập Tháp Mười
Tầng (Viễn vọng đài) của chính quyền Ngô Đình Diệm vào ngày 04 tháng 01
năm 1960 của quân và dân tỉnh Kiến Phong.
Giá trị về văn hóa tâm linh: Khu di tích Gò Tháp còn nổi bật qua những giá
trị tâm linh với các di tích tín ngưỡng, tôn giáo với các di tích như: Miếu thờ
Bà Chúa Xứ, Miếu Hoàng Cô, Đền thờ Thiên hộ Võ Duy Dương, Đền thờ Đốc
Binh Nguyễn Tấn Kiều và chùa Tháp Linh. Hằng năm có hai kỳ lễ hội truyền
thống lễ Vía Bà Chúa Xứ vào rằm tháng 3 âm lịch và Lễ giỗ hai vị anh hùng
dân tộc Thiên hộ Võ Duy Dương và Đốc binh Nguyễn Tấn Kiều vào rằm tháng
11 âm lịch. Mỗi kỳ lễ hội ở Gò Tháp đã thu hút hàng trăm ngàn du khách thập
phương về tham dự.
Giá trị về sinh thái: Khu di tích Gò Tháp còn có khu sinh thái rộng hơn 160ha
đã được Bộ Tài Nguyên và Môi Trường công nhận là Khu bảo tồn đa dạng sinh
học vào năm 2015. Khu sinh thái ở Khu di tích Gò Tháp là nơi bảo lưu nhiều
nét hoang sơ của hệ sinh thái vùng Đồng Tháp Mười với nhiều loài động - thực
vật đặc hữu, nơi được xem là vương quốc của sen. Hoa sen Gò Tháp cũng đã đi
vào thơ ca, trở thành biểu tượng của tỉnh Đồng Tháp, để mỗi khi nhắc tới Đồng
Tháp, người ta nghĩ ngay đến hai câu thơ của nhà thơ Bảo Định Giang: “ Tháp
Mười đẹp nhất bông sen, Việt Nam đẹp nhất có tên Bác Hồ”.
Với những giá trị lịch sử, văn hóa và khoa học đặc biệt đó, Khu di tích Gò
Tháp đã được Bộ Văn hóa Thông tin công nhận là Di tích Quốc gia năm 1989
và năm 2012 được Thủ tướng Chính phủ xếp hạng là Di tích Quốc gia đặc biệt
về loại hình di tích khảo cổ và kiến trúc nghệ thuật.
7.5 Sen ở Đồng Tháp
Dù là loài hoa được mọc lên từ đầm lầy, thế nhưng hoa sen không bị ô nhiễm
mà lại có khả năng làm thay đổi hoàn cảnh sống, vì hoa sen hễ mọc ở nơi nào
thì sẽ làm cho nước đục nơi đó lắng trong. Hoa sen có cả hương lẫn sắc, mùi
hương sen không quá nồng mà dịu, sắc sen kín đáo, đằm thắm, cánh trắng phớt

160
hồng, nhụy vàng gợi lên một bông hoa sen với tinh thần cao thượng ngút ngàn,
kể từ khi nở cho đến khi tàn không hề bị ong bướm bén mảng tới
Sự tích Sen hồng
Cảm thương một con người vì chống lại sự áp bức mà phải rời xa người thân,
rời xa quê hương mình sống lưu lạc nơi xứ người cả cuộc đời còn có công
mang cây quý về trồng ở đây. Vừa có bông làm đẹp cảnh quan vùng Đồng
Tháp Mười, vừa có ích cho cuộc sống hàng ngày nên khi nói tới đó người ta
nói “cây bông do ông Sen trồng”. Qua năm tháng, người dân tự nhiên cũng
quen gọi tên cây bông này là “cây bông sen” cho đến ngày nay.
Trải dài khắp mảnh đất hình chữ S từ Bắc đến Nam, không khó để bắt gặp và
nghe thấy tiếng thơm từ hoa Sen. Nhưng để cảm nhận trọn vẹn giá trị và ý
nghĩa của Sen, du khách khó lòng bỏ qua Tỉnh Đồng Tháp - Vùng đất Sen
Hồng.
Nhắc tới Đồng Tháp là người ta nhớ ngay đến câu thơ “Tháp Mười đẹp nhất
bông sen”. Những bông sen hồng cùng nhụy vàng, đài hoa nhô cao cùng lá
xanh mươn mướt tạo nên một khung cảnh bình yên đến lạ. Trong các đồng sen
ở Đồng Tháp thì nổi bật nhất là Đồng Sen Tháp Mười ở xã Mỹ Hòa, huyện
Tháp Mười, tỉnh Đồng Tháp. Đến với Khu du lịch Đồng Sen Tháp Mười ngắm
sen thưởng thức đặc sản miền Tây sông nước là một trải nghiệm tuyệt vời thú
vị cho du khách.
Đồng sen Tháp Mười, cách thành phố Cao Lãnh chừng 35 km, cách TPHCM
khoảng 150 km. Đường đến nơi đây cũng rất thuận tiện, không có nhiều
phương tiện đông đúc thường thấy ở các khu du lịch. Với diện tích rộng lớn
nên khi đến đồng sen Tháp Mười du khách sẽ có được những khoảng không
gian riêng tư mà không phải chen lấn hay tranh giành để có thể ngắm sen. Sen
Đồng Tháp Mười bắt đầu nở buổi sáng. Hoa sen lúc đầu có sắc trắng, đến giữa
trưa thì chuyển sang hồng. Đến khoảng 15 giờ chiều, sen chuyển màu hồng
đậm, rồi chuyển sang đỏ khi mặt trời lặn. Qua ngày sau, sen tiếp tục nở và
chuyển màu theo chu kỳ như vậy trong 3 ngày rồi chuyển sang màu tím thẫm
và tàn. Cứ hoa này tàn thì hoa khác lại mọc lên và đua nhau nở rộ.
Khách đến thăm có thể đi xuồng di chuyển sâu vào bên trong, vừa ngắm cảnh
đồng quê, vừa cảm nhận sự gần gũi, yên bình từ thiên nhiên. Để tạo không gian
dừng chân, nghỉ ngơi cho du khách, người ta xây những chòi lá và tại những
chòi lá này, mọi người có thể thưởng thức các món đặc sản địa phương, trong
đó tất nhiên không thể thiếu sự góp mặt của sen. Nào cá lóc nướng cuốn lá sen
non, nào gỏi gà ngó sen, xôi sen, chè sen… Đặc biệt, đến đồng sen vào mùa lũ,
du khách còn được ăn cá linh, bông điên điển, chuột đồng nướng, chuột rô ti…
Tất cả đều được chế biến theo một phương pháp rất riêng của những người dân
nơi đây nên mang một hương vị rất riêng không phải nơi đâu cũng có được.
7.6 VQG Tràm Chim
Một trong các điểm du lịch Đồng Tháp nổi bật là Vườn quốc gia Tràm Chim –
khu Ramsar có tầm quan trọng quốc tế, xếp thứ 2.000 trên thế giới và thứ 4 ở
Việt Nam.
161
Vườn quốc gia Tràm Chim là vùng đất nằm trong địa phận của 7 xã (Tân Công
Sính, Phú Đức, Phú Thọ, Phú Thành A, Phú Thành B, Phú Hiệp), thị trấn Tràm
Chim thuộc huyện Tam Nông. Vườn quốc gia Tràm Chim có tổng diện tích hơn
7500 ha là mô hình thu nhỏ đặc trưng của vùng Đồng Tháp Mười, với hệ sinh
thái đa dạng, nơi du khách khám phá những nét đặc trưng của miền Tây sông
nước.
Vùng đất “sáu tháng đồng khô cỏ cháy, sáu tháng nước ngập trắng đồng” này là
nơi phát triển của thảm thực vật phong phú với hơn 130 loài khác nhau. Hệ
động vật ở đây nổi bật với hệ chim nước giàu có gồm 233 loài, thuộc 25 chi, 49
họ. Trong đó, 88% được tìm thấy vào mùa khô, chiếm ¼ tổng số các loài chim
đã phát hiện ở Việt Nam. Và đặc biệt là loài Sếu đầu đỏ, lớn nhất trong họ Hạc
– một tài sản thiên thiên vô giá của vườn quốc gia Tràm Chim ở Đồng Tháp.
Hệ cá ở vườn quốc gia Tràm Chim cũng không kém phần phong phú, vừa đóng
vai trò cân bằng sinh thái vừa là nguồn thức ăn cho các loài chim. Trong đó có
một số loài cá nằm trong sách đỏ Việt Nam như: cá Còm, cá Mang hổ, cá Ngựa
nam, cá Duồng bay, cá Ét mọi, cá Hô…
Nằm cách xa trung tâm thành phố Cao Lãnh khoảng 35 km, thế nhưng đường
đi đến vườn quốc gia Tràm Chim lại khá dễ dàng. Bạn có thể tham khảo cung
đường di chuyển gợi ý sau. Bắt đầu tại trung tâm thành phố Cao Lãnh (công
viên thiếu nhi Tp Cao Lãnh đường 30 tháng 4) – bạn đi theo quốc lộ 30 (QL30)
đến ngã tư gần với trung tâm y tế huyện Thanh Bình – tiếp tục bạn rẽ phải một
mạch đến Tràm Chim theo bảng chỉ dẫn đường.
Mùa nước nổi từ tháng 8 đến tháng 11 âm lịch (khoảng tháng 9 – 12 dương
lịch) là mùa du lịch vườn quốc gia Tràm Chim. Vào mùa khô từ tháng 12 đến
tháng 5 âm lịch (khoảng tháng 1 – 6 dương lịch) là mùa ngắm vũ điệu của sếu
đầu đỏ ở vườn quốc gia Tràm Chim. Bởi khác với nhiều loài chim trong vùng,
sếu đầu đỏ chỉ kiếm ăn trên mặt đất nên vào mùa nước nổi ở Ðồng Tháp Mười
thì chúng phải đi kiếm ăn nơi khác. Vì vậy, chỉ có thể ngắm sếu đầu đỏ vào
mùa khô, dễ trông thấy nhất là từ tháng 2 – 5 dương lịch hàng năm. Mùa Hoa
Hoàng đầu ấn được xem là “đặc sản” xứ này, thường bắt đầu khoe sắc từ tháng
12 đến tháng 2 hàng năm. Hoa Nhĩ cán tím hay còn gọi là Rong ly tím, sống ở
vùng đất ngập nước theo mùa tự nhiên. Hoa bắt đầu nở từ tháng Giêng và kéo
dài khoảng 30-40 ngày, là loại thủy sinh chìm, sinh sống những nơi có địa hình
thấp và đất ngập nước phèn chua, thường xuyên lẫn trong quần xã sen súng.
Đây là một trong những loài thực vật quý hiếm, rất quan trọng nhằm duy trì hệ
sinh thái của VQG Tràm Chim. Hoa có màu sắc đẹp, tạo cảnh quan kỳ thú cho
du lịch. Hoa chỉ nở một lần trong năm.
7.7 Ẩm thực vùng Đồng Tháp Mười
Nghề làm bánh phồng tôm Sa Giang nổi tiếng từ lâu. Từ con tôm nước ngọt
như tôm tích, tép mòng, tép ròng,... qua bàn tay chế biến khéo léo của con
người đã trở thành bánh phồng tôm Sa Giang, sản phẩm truyền thống đặc trưng
của người địa phương Đồng Tháp. Những chiếc bánh hình tròn, gọn, cỡ lòng
bày tay, có màu vàng gạch non nhạt của thịt tôm xay nhuyễn, khi chiên phồng
lên, cắn một miếng, bánh tan trong miệng với hương vị thơm nồng mùi thịt
162
tôm, cay cay. béo đặc trưng. Sa Giang là tên gọi của người Sa Đéc xưa đặt cho
dòng sông chảy qua thị tứ sầm uất ở xứ sở này. Chính vì được xuất phát bên bờ
Sa Giang nổi tiếng xưa mà cho đến nay trên nhiều thương hiệu hàng hóa và
những sản phẩm thủ công truyền thống.
Nem Lai Vung: “ Lai Vung là xứ lạ lùng, Nem chua mà ngọt, thơm nồng mà
say”.Lai Vung cũng nổi tiếng khắp vùng đồng bằng Nam Bộ với nghề làm nem
truyền thống. Nằm ở phía Bắc sông Hậu, làng nghề làm nem ở Lai Vung được
hình thành hơn 60 năm nay. Nem Lai Vung Giáo Thơ được ra đời do vợ chồng
ông Nguyễn Thành Thơ nối nghiệp bà Tư Mặn và cho ra thương hiệu này. Ông
Thơ có xuất thân từ một giáo viên, sau đó bén duyên với nghề nem và đã làm
nên sự nghiệp ngày như ngày hôm nay.
Cách chế biến: Thịt nạc lọc hết gân, mỡ, xắt mỏng cho vào cối, thêm đường,
muối vừa đủ và xay nhuyễn. Xay xong cho da heo (bì), thính vào trộn, không
quên rắc vài hạt tiêu và miếng tỏi xắt mỏng. Sau đó, nem được gói vào lá chùm
ruột hay lá vông non, bên ngoài bọc một lớp lá chuối. Mức độ lên men, chua
mau hay chậm là do lớp lá bọc bên ngoài dày hay mỏng. Cột ném bằng dây
nylon, kết 10 chiếc gọi là xâu nem. Một ngày sau khi gói, nem bắt đầu lên men
chua, đến ngày thứ ba thì thật sự “chua” rộ. Khi tháo ra ăn, nem tạo nên sự hỗn
hợp hương vị chua, cay, mặn, ngọt, thêm độ giòn của mấy cọng bì càng tăng vị
độc đáo khi thưởng thức.Nem có màu đỏ hồng, gói trong lá chuối hoặc hộp
nhựa.
7.8 Kết tour
Vừa rồi chúng ta đã trải qua một chuyến đi tour 7 ngày 6 đêm. Có đầy đủ
những khoảnh khắc vui buồn hay thậm chí là những kỉ niệm đáng nhớ. Đối với
em chuyến đi tour này chính là một sự trải nghiệm vô cùng với mẻ vì với một
người con sinh ra và lớn lên tại Sài Gòn thì miền Tây là hoàn toàn mơ hồ đối
với em. Nhưng thật may khi nhờ chuyến đi tour này cả nhà chúng ta cũng như
là em học được rất nhiều điều cũng như là mở mang tầm mắt. Miền Tây sông
nước này đã cho em thấy được cái gọi là sự dân dã không phải là những gì xa
hoa tráng lệ trên đất sài thành. Đây chính là một trong những chuyến đi mà dù
cho sau này em có đi đến bất cứ đâu hay trở thành một ai đó thì em cũng không
bao giờ quên được chuyến đi này. Một lần nữa xin cảm ơn tất cả mọi người em
xin gửi lời cảm ơn đến bác tài đã đưa chúng em đi đến nơi về đến chốn, cảm ơn
các thầy cô đã tạo cho chúng em chuyến đi này và một lần nữa chúc cho mọi
người thật nhiều sức khỏe và luôn thành công trong công việc.

163

You might also like