You are on page 1of 17

1. Kinh tế thị trường là gì?

Kinh tế thị trường là nền kinh tế mà ở đó tồn tại nhiều thành phần kinh tế, nhiều loại hình
sở hữu cùng tham gia, cùng vận động và phát triển trong một cơ chế cạnh tranh bình đẳng
và ổn định.
Trên thế giới có nhiều quan điểm khác nhau về kinh tế thị trường. Theo Xmit (Adam
Smith), với lí thuyết “bàn tay vô hình" thì nền kinh tế thị trường là nền kinh tế tự điều
tiết, vận động theo quy luật của thị trường, hầu như không có sự can thiệp của Nhà nước.
Kinh tế thị trường được hiểu dưới góc độ khác là có sự can thiệp trực tiếp của Nhà nước
“bàn tay hữu hình" mà đại diện cho thuyết này là Kâynơ (J. M. Keynes) với “Lí thuyết
chung về việc làm, lãi suất và tiền tệ".
Ở Việt Nam, xây dựng và phát triển nền kinh tế theo cơ chế thị trường có sự quản lí của
Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa đã được đặt ra từ Đại hội lần thứ VỊ Đảng
Cộng sản Việt Nam (năm 4986), được chính thức ghi nhận trong Hiến pháp năm 1992 và
các văn kiện của Đảng và Nhà nước. Từ việc phát triển kinh tế trong cơ chế cũ - cơ chế
kế hoạch hoá tập trung, bao cấp trước đây với hai thành phần kinh tế là kinh tế Nhà nước
và kinh tế tập thể (kinh tế tư bản, tư nhân không được thừa nhận), đến nay, trong nền
kinh tế Việt nam đã có nhiều thành phần kinh tế cùng tồn tại và phát triển với những hình
thức sở hữu khác nhau, trong đó, đáng chú ý là sự hiện diện của thành phần tư bản nước
ngoài đang đầu tư kinh doanh tại Việt Nam. Nhà nước Việt Nam khuyến khích và bảo
đảm bằng hệ thống pháp luật, chính sách để các thành phần ` kinh tế cùng có cơ hội phát
triển trong một môi š trường cạnh tranh lành mạnh.

2. Ưu điểm kinh tế thị trường


Trong nền kinh tế thị trường, nếu lượng cầu hàng hóa cao hơn lượng cung, thì giá cả
hàng hóa sẽ tăng lên, mức lợi nhuận cũng tăng khuyến khích người sản xuất tăng lượng
cung. Người sản xuất nào có cơ chế sản xuất hiệu quả hơn thì cũng có tỷ suất lợi nhuận
cao hơn, cho phép họ tăng quy mô sản xuất, và do đó các nguồn lực sản xuất sẽ chảy về
phía những người sản xuất hiệu quả. Những người sản xuất có cơ chế sản xuất kém hiệu
quả sẽ có tỷ suất lợi nhuận thấp, khả năng mua nguồn lực sản xuất thấp, sức cạnh tranh
kém sẽ bị đào thải. Do đó, nền kinh tế thị trường tạo ra động lực để các doanh nghiệp có
thể đổi mới, phát triển mình, bởi khi các doanh nghiệp đó muốn cạnh tranh và đáp ứng tốt
nhu cầu của thị trường thì đòi hỏi họ phải đổi mới về công nghệ, về quy trình sản xuất,
quản lý, về các sản phẩm của mình.
Ở nền kinh tế thị trường thì con người mong muốn tìm ra phương án cải tiến cho phương
thức làm việc, đúc rút cho bản thân nhiều kinh nghiệm. Kinh tế thị trường là nơi để phát
hiện, đào tạo, tuyển chọn, sử dụng những người có năng lực tốt, nâng cao quy trình quản
lý kinh doanh, cũng là nơi để đào thải những nhà quản lý chưa đạt được hiệu quả cao.
Kinh tế thị trường tạo xu thế liên doanh, liên kết đẩy mạnh giao lưu kinh tế, các nước
đang phát triển có cơ hội được tiếp xúc được chuyển giao công nghệ sản xuất, công nghệ
quản lý từ các nước phát triển để thúc đẩy công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế ở
nước mình. Trong thương mại quốc tế, mức độ thị trường hóa nền kinh tế có thể được sử
dụng làm tiêu chí trong xác định điều kiện thương mại giữa hai bên.
Các nền kinh tế thị trường có xu hướng cung cấp nhiều việc làm hơn. Một ví dụ là các
doanh nghiệp vừa và nhỏ chiếm 99,7% tổng số doanh nghiệp tại Hoa Kỳ, các doanh
nghiệp có ít hơn 20 nhân viên ở Hoa Kỳ chiếm 89,6% lực lượng lao động tại nước này.
Với nền kinh tế thị trường, sự tập trung vào đổi mới cho phép các doanh nghiệp nhỏ này
tìm ra những thị trường ngách và cung cấp các công việc với mức lương cao ở địa
phương.

3. Nhược điểm kinh tế thị trường


Cơ chế phân bổ nguồn lực trong nền kinh tế thị trường có thể dẫn tới bất bình đẳng trong
xã hội và quan niệm. Người giàu sẽ sử dụng lợi thế về tài sản để chiếm hữu ngày càng
nhiều của cải và quyền lực hơn, trong khi người nghèo sẽ ngày càng nghèo hơn. Cuối
cùng sẽ dẫn tới phân chia giai cấp: thiểu số người giàu nắm quyền lực cai trị xã hội, còn
đa số là người nghèo có đời sống khó khăn. Chênh lệch giàu nghèo quá mức sẽ dẫn tới
nguy cơ bất ổn xã hội khi người nghèo đấu tranh (nhiều khi bằng bạo loạn, lật đổ) để có
cuộc sống tốt hơn.
Sau một thời gian cạnh tranh "cá lớn nuốt cá bé", các nhà sản xuất nhỏ lẻ sẽ bị các hãng
sản xuất lớn mạnh hơn thôn tính. Cuối cùng chỉ còn lại một số ít các nhà sản xuất lớn có
tiềm lực mạnh, họ sẽ thâu tóm phần lớn các ngành kinh tế, toàn bộ nền kinh tế sẽ chỉ do
một vài nhà tài phiệt nắm quyền thao túng. Kinh tế thị trường sẽ dần biến thành kinh tế
độc quyền chi phối. Các doanh nghiệp độc quyền không có đối thủ cạnh tranh nên tùy ý
chi phối thị trường, nếu Nhà nước không can thiệp thì họ sẽ cố ý tăng giá, giảm chất
lượng sản phẩm để tăng thêm lợi nhuận, gây ra tổn thất cho xã hội và người tiêu dùng.
Do chạy theo lợi nhuận nên các doanh nghiệp sẽ đầu tư mở rộng sản xuất liên tục, sớm
muộn sẽ dẫn đến mất cân bằng cung cầu. Trong giai đoạn đầu, các công ty đầu tư phát
triển sản xuất khiến nguồn cung tăng mạnh trong khi cầu tăng không tương xứng với
cung. Hiện tượng này tích lũy qua nhiều năm sẽ dẫn đến khủng hoảng thừa: hàng hoá bị
ứ đọng, giá cả sụt giảm, do không bán được hàng để thu hồi chi phí đầu tư nên hàng loạt
doanh nghiệp phá sản và dẫn đến khủng hoảng kinh tế. Cuộc Đại khủng hoảng ở Mỹ năm
1929 chính là kết quả của sự tăng trưởng sản xuất quá mức trong thập kỷ 1920 mà không
có sự điều tiết hợp lý của chính phủ.
Đó là chưa kể vấn đề về sự sai và sót trong thông tin có thể dẫn tới việc phân bổ nguồn
lực không hiệu quả. Do một số nguyên nhân, giá cả có thể không linh hoạt trong các
khoảng thời gian ngắn hạn khiến cho việc điều chỉnh cung cầu không suôn sẻ, dẫn tới
khoảng cách giữa tổng cung và tổng cầu. Đây là nguyên nhân của các hiện tượng thất
nghiệp và lạm phát.
Trong một số tình huống, thị trường tự do đi ngược lại lợi ích chung của xã hội. Việc quá
đề cao tính thị trường mà không có sự điều tiết của Nhà nước sẽ tạo cơ hội cho sự ích kỷ
cá nhân, vì lợi ích cá nhân mà vô cảm cộng đồng, nhất là trong những tình huống ngặt
nghèo thì sẽ có những người vì lòng tham lợi nhuận mà sẵn sàng gây tổn hại cho xã hội.
Ví dụ: 1 vùng xảy ra dịch bệnh nên bị thiếu thuốc men, nếu Nhà nước không can thiệp
(quy định mức giá tối đa, cấm đầu cơ tích trữ) thì các nhà buôn thuốc sẽ lợi dụng tình
trạng này để đẩy giá bán thuốc chữa bệnh lên cao, phần lớn dân nghèo sẽ không đủ tiền
mua thuốc và sẽ phải chết vì bệnh dịch. Hoặc thị trường sản xuất phim ảnh, ca nhạc, giải
trí vì chạy theo lợi nhuận mà sản xuất những tác phẩm mang nội dung phản cảm, đồi trụy,
gây tổn hại tới đạo đức xã hội.
Để cơ chế thị trường không phát sinh tiêu cực trong cạnh tranh, thì các điều kiện sau đây
phải được thỏa mãn: thị trường phải có cạnh tranh hoàn hảo, thông tin minh bạch, không
có các ảnh hưởng ngoại lai, không có đầu cơ, không có vi phạm đạo đức kinh doanh,
không có lách luật v.v... Tuy nhiên, trong thực tế không có nước nào đáp ứng hoàn hảo
các điều kiện này, nên có những trường hợp cơ chế thị trường sẽ không thể phân bổ tối
ưu các nguồn lực kinh tế, thậm chí góp phần gây ra khủng hoảng kinh tế hoặc khủng
hoảng nhân đạo. Khi đó sẽ có thất bại thị trường. Một ví dụ tiêu biểu là Hoa Kỳ: nền y tế
nước này hoàn toàn do tư nhân kiểm soát, bệnh viện và đội ngũ bác sĩ Hoa kỳ có chất
lượng hàng đầu thế giới, nhưng viện phí ở Hoa Kỳ cũng đắt đỏ bậc nhất thế giới. Nếu
không có bảo hiểm y tế, một bệnh nhân có thể tiêu tốn hàng trăm nghìn USD cho mỗi lần
chữa bệnh, kết quả là những người thu nhập thấp sẽ không được hệ thống y tế này cứu
chữa. Hoạt động xét nghiệm y tế ở Hoa Kỳ không được kiểm soát trên toàn quốc, nước
này cũng không có hệ thống chăm sóc sức khỏe tập trung và xét nghiệm y tế tập trung do
chính phủ quản lý. Vì những điểm yếu này, khi Đại dịch COVID-19 xảy ra, Hoa Kỳ đã
trở thành nước bị ảnh hưởng nặng nhất thế giới với hàng chục triệu ca nhiễm bệnh, trong
đó vài trăm nghìn người đã chết
Trong điều kiện Kinh tế chiến tranh thì kinh tế thị trường lại không hiệu quả bằng kinh tế
kế hoạch. Khi xảy ra chiến tranh, kinh tế thị trường không cho phép tập trung các nguồn
tài nguyên, năng lực sản xuất vào mục tiêu quan trọng nhất là sản xuất quốc phòng (bởi
các nhà sản xuất chỉ quan tâm đến lợi nhuận của bản thân, họ sẽ vẫn tập trung sản xuất
các mặt hàng khan hiếm như thực phẩm, hàng tiêu dùng chứ không ưu tiên sản xuất trang
bị cho quân đội). Một số nhà sản xuất thậm chí sẽ đi ngược lại lợi ích của quốc gia, ví dụ
như bán vũ khí, bí mật công nghệ cho nước đối thủ, hoặc nhận hối lộ của nước đối thủ để
ngừng sản xuất hàng hóa thiết yếu cho đất nước. Do vậy, nếu xảy ra chiến tranh, Chính
phủ các nước thường chuyển đổi sang nền kinh tế kế hoạch để ngăn chặn tình trạng
khủng hoảng xã hội, huy động thêm ngân sách để mở rộng quy mô quân đội, đồng thời
tập trung tài nguyên cho sản xuất quốc phòng và khôi phục trật tự kinh tế và xã hội. Tiêu
biểu như Hoa Kỳ: khi Thế chiến 2 nổ ra, nước này đã đình chỉ một phần nền kinh tế thị
trường để chuyển sang Kinh tế chiến tranh. Trong thời kỳ cao điểm của Thế chiến 2, gần
40% GDP Hoa Kỳ là để cung ứng cho chiến tranh. Chính phủ ưu tiên cho các ngành sản
xuất phục vụ cho mục đích quân sự, gần như tất cả những yếu tố đầu vào (nguyên liệu,
nhân công) được phân bổ cho sản xuất chiến tranh. Nhiều loại hàng hoá được phân phối
cố định theo tem phiếu, giá cả và tiền lương được Chính phủ kiểm soát, và nhiều loại
hàng hoá tiêu dùng bị cấm sản xuất. Một phần lớn lực lượng lao động được Chính phủ
Mỹ điều động vào quân đội. Các nước tham chiến khác như Anh, Đức, Nhật, Ý... cũng
thi hành những chính sách tương tự.
Trong thực tế hiện nay, để hạn chế mặt trái của kinh tế thị trường, không có nước nào có
một nền kinh tế thị trường hoàn toàn tự do - tự phát, các chính phủ luôn can thiệp vào thị
trường dù ít hay nhiều. Cũng như vậy, không có nước nào có nền kinh tế kế hoạch hóa
tập trung hoàn toàn (ngay cả kinh tế Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên cũng có 1
phần nhỏ là kinh tế tư nhân, kinh tế hộ gia đình). Thay vào đó, hầu hết các nước có nền
kinh tế hỗn hợp. Tùy ở mỗi nước mà các yếu tố thị trường và yếu tố can thiệp của Nhà
nước nhiều hay ít. Ví dụ như tại Hoa Kỳ, tuy có nền kinh tế chủ yếu là thị trường tư nhân
nhưng nước này vẫn có Đạo luật Sản xuất Quốc phòng (DPA), cho phép tổng thống Mỹ
có quyền yêu cầu doanh nghiệp buộc phải nhận và ưu tiên đơn hàng chế tạo vật liệu, thiết
bị được coi là cần thiết với quốc phòng, dù điều đó có thể gây thua lỗ cho doanh nghiệp,
Tổng thống Mỹ cũng có quyền quy định những mặt hàng bị cấm tích trữ hoặc đầu cơ tăng
giá.

1. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là gì?

Khái niệm nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được chính thức sử dụng
trong các văn kiện Đại hội IX (tháng 4-2001) của Đảng; theo đó, “Đảng và Nhà nước ta
chủ trương thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát triển kinh tế hàng hóa nhiều
thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng
xã hội chủ nghĩa, đó chính là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”.

Đại hội XII của Đảng (tháng 1-2016) tiếp tục bổ sung, phát triển: “Nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nền kinh tế vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các
quy luật của kinh tế thị trường, đồng thời bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa phù hợp
với từng giai đoạn phát triển của đất nước. Đó là nền kinh tế thị trường hiện đại và hội
nhập quốc tế; có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa”. Đây là bước đột
phá dũng cảm nhưng hết sức khoa học về tư duy lý luận của Đảng ta.

Từ góc độ lịch sử chúng ta thấy, trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, suốt một
thời gian dài, cả về mặt lý luận và thực tiễn, người ta đã đem đối lập một cách tuyệt đối
và siêu hình chủ nghĩa xã hội với chủ nghĩa tư bản; coi những gì có trong chủ nghĩa tư
bản thì chủ nghĩa xã hội phải xóa đi hết và ngược lại, trong đó có kinh tế thị trường vốn
là thành quả phát triển của lịch sử loài người. Cần nhận thức rõ rằng, xã hội cộng sản
với tính cách một hình thái kinh tế – xã hội không thể có sẵn mọi thứ trong lòng xã hội tư
bản nhưng cũng đã có những tiền đề về nhiều mặt quan trọng cho sự ra đời của một hình
thái kinh tế – xã hội mới. Một trong những tiền đề ấy là nền kinh tế thị trường đã rất phát
triển nhờ sự phát triển hết sức cao và mạnh mẽ của lực lượng sản xuất.

Chính V.I. Lê-nin cũng đã sớm nhận ra sai lầm nóng vội khi đề ra và thực hiện Chính
sách cộng sản thời chiến nên đã kịp thời sửa chữa sai lầm ấy bằng cách đề ra Chính sách
kinh tế mới (NEP) để nước Nga chấp nhận phát triển nền sản xuất hàng hóa nhiều thành
phần và bước đầu đi vào nền kinh tế thị trường. Về điều này, V.I. Lê-nin đã khẳng định
mạnh mẽ rằng, “chúng ta không hình dung một thứ chủ nghĩa xã hội nào khác hơn là chủ
nghĩa xã hội dựa trên cơ sở tất cả những bài học mà nền văn minh lớn của chủ nghĩa tư
bản đã thu được”.

Việc dứt khoát từ bỏ chế độ kinh tế tập trung, quan liêu bao cấp để chính thức đi vào nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là sự lựa chọn khách quan, sáng tạo, độc
lập và phù hợp với xu thế vận động chung của nền kinh tế thế giới hiện đại. Chúng ta
thực hiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa nhằm xây dựng một đất
nước tất cả đều vì con người và do con người. Một nền kinh tế như vậy, một mặt, tôn
trọng và tuân theo các quy luật khách quan của kinh tế thị trường; nghĩa là sản xuất và
kinh doanh phải thu được lợi nhuận, phải chấp nhận cạnh tranh theo pháp luật để thúc
đẩy sản xuất, kinh doanh phát triển; mặt khác, quan trọng hơn là nền kinh tế ấy phải tạo
được một lực lượng sản xuất ngày càng phát triển, trong đó con người vừa phải là động
lực, vừa phải là mục tiêu của sự phát triển.

Đồng thời, nền kinh tế thị trường mà chúng ta chủ trương xây dựng phải được hướng dẫn
bởi các nguyên tắc thuộc bản chất của chủ nghĩa xã hội về quyền sở hữu, về cách thức tổ
chức sản xuất và về phương thức phân phối thành quả lao động.

Đảng và Nhà nước ta chủ trương và nhất quán vận hành nền kinh tế thị trường chủ yếu
bằng cơ chế thị trường và thông qua cơ chế thị trường nhưng coi trọng sự quản lý và sự
điều tiết của Nhà nước, thực hiện phân phối công bằng, nhưng không cào bằng thành quả
thu được cho mọi thành viên để không ai, kể cả những người yếu thế, bị bỏ lại phía sau.
Đó chính là định hướng cực kỳ quan trọng cho toàn bộ quá trình phát triển theo định
hướng xã hội chủ nghĩa.

Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam là:
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là tên gọi mà Đảng Cộng sản Việt
Nam đặt ra cho mô hình kinh tế hiện tại của nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam.
Nó được mô tả là một nền kinh tế thị trường nhiều thành phần, trong đó nhà nước giữ vai
trò chủ đạo và có trách nhiệm định hướng nề kinh tế, với mục tiêu dài hạn là xây
dựng chủ nghĩa xã hội.[1]
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là sản phẩm của thời kỳ Đổi Mới, thay
thế nền kinh tế kế hoạch bằng nền kinh tế hỗn hợp hoạt động theo cơ chế thị trường.
Những thay đổi này giúp Việt Nam hội nhập với nền kinh tế toàn cầu. Cụm từ "định
hướng xã hội chủ nghĩa" mang ý nghĩa là Việt Nam chưa đạt đến chủ nghĩa xã hội mà
đang trong giai đoạn xây dựng nền tảng cho một hệ thống xã hội chủ nghĩa trong tương
lai. Mô hình kinh tế này khá tương đồng với mô hình kinh tế thị trường xã hội chủ
nghĩa (socialist market economy) của Đảng Cộng sản Trung Quốc, trong đó các mô hình
kinh tế tập thể, nhà nước, tư nhân cùng tồn tại, và khu vực nhà nước giữ vai trò chủ đạo
Nền kinh tế thị trường theo đại hội 12 là:
Văn kiện Đại hội XII đã nêu phương hướng hoàn thiện thể chế, phát triển kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa trong nhiệm kỳ tới, trong đó có những điểm mới như
sau:

Tiếp tục thống nhất nhận thức nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; có giá
trị định hướng, cần được tiếp tục cụ thể hóa, thể chế hóa phù hợp với từng giai đoạn phát
triển trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Đại hội XII đã có bước phát triển mới rất rõ nét, xác định đặc trưng cơ bản của nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam như sau: "Nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nền kinh tế vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các
quy luật của kinh tế thị trường, đồng thời bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa phù hợp
với từng giai đoạn phát triển của đất nước. Đó là nền kinh tế thị trường hiện đại và hội
nhập quốc tế; có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng
sản Việt Nam lãnh đạo, nhằm mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh

Cách thể hiện như trên đã khái quát rõ nét những vấn đề cơ bản kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, trong đó vấn đề định hướng xã hội chủ nghĩa thể hiện ở năm
điểm: có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa; do Đảng Cộng sản Việt
Nam lãnh đạo; phát huy vai trò làm chủ của nhân dân trong phát triển kinh tế - xã hội;
xác lập quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp để thúc đẩy phát triển mạnh lực lượng sản xuất;
và nhất là: thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội trong từng bước, từng chính sách phát
triển.

2. Tính ưu việt của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa:

Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta là nền kinh tế hàng hoá
nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, dưới sự
lãnh đạo của Đảng Cộng sản; vừa vận động theo những quy luật của kinh tế thị trường,
vừa được dẫn dắt, chi phối bởi các nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội.

Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN của Việt Nam có một số đặc trưng cơ bản sau:

a) Vị trí đặc thù của kinh tế thị trường trong công cuộc xây dựng CNXH

Nền kinh tế thị trường là cơ sở kinh tế của xã hội quá độ tiến lên CNXH ở VN . Đặc trưng
này hàm ý không có một nền kinh tế nào khác ngoài kinh tế thị trường có thể đảm nhiệm
vai trò là cơ sở kinh tế để xây dựng CNXH ở nước ta. Đây là sự khẳng định trên thực tế
VN nguyên lý kinh điển của C.Mác về vai trò của kinh tế thị trường trong tiến trình phát
triển của loài người.

b) Mục tiêu phát triển của nền kinh tế


Tính định hướng XHCN trong phát triển kinh tế – xã hội quy định phát triển kinh tế thị
trường ở nước ta nhằm “xây dựng là một xã hội: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công
bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng
sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu”.

Không thể làm cho “dân giàu, nước mạnh” nếu không có tăng trưởng kinh tế trên cơ sở
đẩy mạnh CNH, HĐH. Không thể có tăng trưởng kinh tế nếu không phát triển và quản lý
có hiệu quả nền kinh tế thị trường. Chỉ có sức mạnh của nền kinh tế thị trường hỗn hợp
nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần mới là cơ sở kinh tế của sự phát triển theo định
hướng XHCN chứ không phải chỉ duy nhất kinh tế quốc doanh như có thời lầm tưởng.

c) Lực lượng sản xuất của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN

Trong điều kiện hiện đại, nền kinh tế XHCN phải có LLSX đạt trình độ cao hơn về chất
so với tiêu chuẩn đặt ra trong quan niệm truyền thống về CNXH. Trình độ đó không chỉ
đo bằng chuẩn “đại CN cơ khí” mà còn được đo bằng chuẩn công nghệ cao. Trong nền
kinh tế này, yếu tố ngày càng có vai trò quyết định là khoa học – kỹ thuật và trí tuệ con
người.

Điều này đúng với dự đoán của C. Mác trước đây: sau giai đoạn đại công nghiệp cơ khí,
tức là sau CNTB, khoa học kỹ thuật sẽ trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp.

Do có sự thay đổi như vậy, quan niệm truyền thống về công nghiệp hoá XHCN, vốn gắn
với cơ chế kế hoạch hoá tập trung và bị nguyên lý tự cấp – tự túc chi phối, đã không còn
thích hợp. Cần phải có một cách thức, một mô hình CNH mới phù hợp có khả năng đáp
ứng yêu cầu phát triển mới này. Trong thời đại ngày nay, CNH không chỉ gắn với các
mục tiêu, giải pháp truyền thống mà phải đạt tới mục tiêu hiện đại, được thực hiện dựa
trên các công cụ và giải pháp hiện đại. Theo nghĩa đó, CNH cũng chính là và phải là quá
trình HĐH. Khái niệm CNH, HĐH, vì vậy, được hiểu là quá trình CNH với các mục tiêu
và giải pháp phù hợp với điều kiện và xu hướng phát triển hiện đại. Đây là một trong
những nội dung – đặc điểm quan trọng bậc nhất của nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN ở nước ta.

d) Đa dạng hình thức sở hữu

Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam là nền kinh tế hỗn hợp, bao gồm
nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế cùng tồn tại trong một thể thống nhất,
trong đó, chế độ công hữu ngày càng trở thành nền tảng vững chắc. Không thể có nền
kinh tế định hướng XHCN nếu trong nó, chế độ công hữu không đóng vai trò nền tảng.
Đây là một cấu trúc đặc thù của nền kinh tế thị trường theo nghĩa:
– Không loại trừ các quan hệ sở hữu tư nhân và sở hữu TBCN, thừa nhận tính chất “hỗn
hợp” sở hữu như bất cứ nền kinh tế thị trường nào;

– Khu vực kinh tế nhà nước chứ không phải bất cứ lực lượng kinh tế nào khác đóng vai
trò chủ đạo, dẫn dắt sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế.

Theo quan niệm của C. Mác, sở hữu công cộng (chế độ công hữu) là sở hữu được xã hội
hoá và mang tính xã hội trực tiếp. Công hữu phải từng bước trở thành nền tảng vững chắc
là vấn đề có tính nguyên tắc không chỉ đối với nền kinh tế XHCN mà còn đối với nền
kinh tế định hướng XHCN. Tuy nhiên, vai trò nền tảng của nó trong nền kinh tế thị
trường định hướng XHCN chưa thể đậm nét như trong nền kinh tế XHCN. Nhưng sự
khác biệt ở đây không phải là về bản chất mà là về quy mô, mức độ và phạm vi tác động

Chế độ sở hữu trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN dựa trên hai hình thức cơ
bản là sở hữu công cộng (công hữu) và sở hữu tư nhân (tư hữu). Còn sở hữu hỗn hợp
được hình thành trên cơ sở đan xen, hỗn hợp giữa các hình thức sở hữu và là kết quả của
sự hợp tác, liên doanh giữa các chủ sở hữu khác nhau là nhà nước, tập thể (nhóm) và tư
nhân. Công hữu ngày càng trở thành nền tảng vững chắc, các hình thức sở hữu khác cùng
phát triển mạnh mẽ không hạn chế và đan xen, hỗn hợp với nhau theo luật định cần được
xem là chế độ kinh tế cơ bản của giai đoạn phát triển theo định hướng XHCN ở nước ta.

Trước đây, theo quan niệm truyền thống, các hình thức sở hữu là đơn nhất: nhà nước, tập
thể hoặc tư nhân. Trong gần 20 năm đổi mới, kinh tế hỗn hợp đang được hình thành và
từng bước phát triển mạnh; chế độ cổ phần đang dần trở thành hình thức tổ chức chủ yếu
của kinh tế công hữu. Vì thế, công hữu không chỉ bao gồm sở hữu nhà nước và sở hữu
tập thể đơn nhất mà còn bao gồm cả phần sở hữu của nhà nước và tập thể trong kinh tế
hỗn hợp.

Cũng như vậy, tư hữu không chỉ bao gồm sở hữu tư nhân đơn nhất mà còn bao gồm cả
phần sở hữu của tư nhân trong kinh tế hỗn hợp. Trong quá trình phát triển kinh tế thị
trường định hướng XHCN ở nước ta, hình thức đơn nhất của công hữu có xu hướng giảm
nhưng ý nghĩa nền tảng của công hữu ngày càng được củng cố vững chắc và được tăng
cường ở những lĩnh vực then chốt, thể hiện ở:

– Vốn của kinh tế công hữu (bao gồm kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể và phần công hữu
trong kinh tế hỗn hợp) vẫn đóng vai trò quan trọng trong tổng vốn đầu tư XH.

– Kinh tế nhà nước nắm giữ các vị trí then chốt trong nền kinh tế.

Một yêu cầu khách quan của thị trường và kinh tế thị trường là phải xác nhận và xác định
quyền sở hữu dưới dạng tiền tệ những đóng góp tài sản, tiền vốn, trí tuệ, v.v. vào kinh
doanh nhằm lượng hoá quyền sở hữu của từng chủ sở hữu. Không có quyền sở hữu chung
chung, vô chủ, cũng không có quyền sở hữu như nhau cho tất cả mọi người trong nền
kinh tế thị trường định hướng XHCN.

e) Vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước trong nền kinh tế

Trong nền kinh tế nhiều thành phần, kinh tế nhà nước phải nắm giữ vai trò chủ đạo ở một
số lĩnh vực then chốt. Đó là những “đài chỉ huy”, là huyết mạch chính của nền kinh tế.
Đây là điều kiện có tính nguyên tắc bảo đảm tính định hướng XHCN. Nó thể hiện sự
khác biệt về bản chất của mô hình kinh tế thị trường định hướng XHCN so với các mô
hình kinh tế thị trường khác.

Vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước được thể hiện trước hết và chủ yếu ở sức mạnh định
hướng, hỗ trợ phát triển và điều tiết nền kinh tế chứ không phải ở quy mô và sự hiện diện
của các doanh nghiệp 100% vốn nhà nước ở tất cả hoặc hầu hết các ngành, các lĩnh vực.

Đồng thời với việc nhấn mạnh vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước và vai trò điều tiết
của Nhà nước, cần coi trọng vai trò của các thành phần kinh tế khác. Các thành phần này
gắn bó hữu cơ với nhau trong một thể thống nhất, không tách rời kinh tế nhà nước ở tất
cả các giai đoạn phát triển và đều là những thực thể của nền kinh tế thị trường định
hướng XHCN. Mọi DN đều được khuyến khích phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh
trong khuôn khổ pháp luật; quyền bình đẳng về cơ hội phát triển và lợi ích chính đáng
được pháp luật bảo vệ.

Tính định hướng xã hội chủ nghĩa là:

xã hội xã hội chủ nghĩa. Đó là cơ sở kinh tế để xây dựng một xã hội công bằng, bình
đẳng, tiến bộ, quan hệ tốt đẹp giữa người và người. Tuy nhiên, đây là quá trình khó khăn,
phức tạp, lâu dài, không thể thực hiện chóng vánh, ngay lập tức được. Trong hoàn cảnh
của Việt Nam, theo Hồ Chí Minh, “Muốn cho chủ nghĩa cộng sản thực hiện được, cần
phải có kỹ nghệ, nông nghiệp và tất cả mọi người đều được phát triển hết khả năng của
mình. Ở nước chúng tôi những điều kiện ấy chưa có đủ”.

 Về chính trị - xã hội, xã hội xã hội chủ nghĩa là một xã hội dân chủ, Nhà nước xã hội
chủ nghĩa vừa mang bản chất của giai cấp công nhân vừa mang tính nhân dân rộng
rãi. Xã hội xã hội chủ nghĩa là một chế độ dân chủ, quyền lực cao nhất thuộc về nhân
dân. Bản chất giai cấp công nhân của Nhà nước thể hiện trước hết nó là một công cụ
để bảo vệ lợi ích của giai cấp công nhân. Song lợi ích của giai cấp công nhân về cơ
bản là thống nhất với lợi ích của nhân dân lao động, do vậy, Nhà nước xã hội chủ
nghĩa còn mang tính nhân dân rộng rãi.
Định hướng xã hội chủ nghĩa, thể hiện ở các điểm đó là có sự quản lý của Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa; do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo; phát huy vai trò
làm chủ của nhân dân trong phát triển kinh tế - xã hội; xác lập quan hệ sản xuất tiến
bộ phù hợp để thúc đẩy phát triển mạnh lực lượng sản xuất; và nhất là: Thực hiện tiến
bộ, công bằng xã hội trong từng bước, từng chính sách phát triển. Định hướng xã hội
chủ nghĩa nhằm mục đích cuối cùng là dân giàu, nước mạnh, tiên tiến hiện đại trong
xã hội do dân làm chủ, nhân ái, có văn hóa, có kỷ cương, xóa bỏ áp bức bất công, tạo
điều kiện cho mọi người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc.

Đặc điểm của nền kinh tế thị trường là:

Đặc trưng của nền kinh tế thị trường


So với những tổ chức kinh tế xã hội khác, kinh tế thị trường có đặc trưng riêng như:

 Các thành phần kinh tế, loại hình sở hữu tham gia vào kinh tế thị trường phải đa dạng.
Bởi vì đây được xem là điều tất yếu đối với kinh tế thị trường. Góp phần quan trọng tạo
môi trường cạnh tranh, thúc đẩy nền kinh tế vận động và phát triển. Sự cạnh tranh ở
đây vừa là môi trường, vừa là động lực để phát triển.
 Bản chất của kinh tế thị trường là nền kinh tế mở. Theo đó, thị trường trong nước sẽ
gắn liền cùng với thị trường quốc tế.
 Giá cả của các sản phẩm, dịch vụ được hình thành theo nguyên tắc của thị trường.
 Với chủ thể sản xuất, động lực tham gia vào nền kinh tế thị trường là lợi ích kinh tế.
Còn với chủ thể nhà nước, khi tham gia vào kinh tế thị trường bên cạnh lợi ích kinh tế,
động lực còn phải đảm bảo được lợi ích xã hội.
 Các thành phần trong nền kinh tế có tính tự chủ cao, hoạt động hoàn toàn độc lập. Mỗi
chủ thể tham gia kinh tế thị trường sẽ tự quyết định hoạt động của mình.
 2. Đặc điểm kinh tế thị trường hiện đại:
 Các đặc điểm và tiêu chí cơ bản của yếu tố thị trường trong nền kinh tế thị
trường hiện đại và điều kiện toàn cầu hóa bao gồm:
 – Thứ nhất, là có đầy đủ tất cả các loại thị trường, bao gồm thị trường các nhân tố
sản xuất, thị trường hàng hóa và dịch vụ và các loại thị trường khác; các loại thị
trường đó đều phát triển; về cơ bản là thị trường cạnh tranh công bằng, kết nối các
nền kinh tế khu vực và trên toàn cầu.
 – Thứ hai, sở hữu tài sản và quyền sở hữu tài sản rõ ràng, được xác định cụ thể và
được bảo vệ một cách chắc chắn với độ tin cậy cao.
 – Thứ ba, các chủ thể thị trường cần phải độc lập về pháp lý và đa dạng về loại
hình; có quyền tự chủ và tự do kinh doanh; tức là tự do quyết định sản xuất cái gì,
sản xuất bao nhiêu, sản xuất như thế nào, tự do quyết định giá và trao đổi theo
cung cầu thị trường.
 – Thứ tư, thị trường tất cả các loại đều có cạnh tranh công bằng và trật tự; độc
quyền kinh doanh được kiểm soát có hiệu quả; cạnh tranh không công bằng,
không lành mạnh bị loại trừ
 – Thứ năm, tự do kinh doanh, cạnh tranh thị trường công bằng và có trật tự là hai
yếu tố cơ bản chi phối phân bổ nguồn lực trong nền kinh tế, chi phối sự lựa chọn
của các chủ thể thị trường.
 – Thứ sáu, giá cả tất cả các loại hàng hóa, dịch vụ và các yếu tố sản xuất (vốn, đất
đai, lao động, tài nguyên thiên nhiên…) đều được quyết định dựa trên sự khan
hiếm, cạnh tranh và quan hệ cung – cầu của yếu tố thị trường.
 – Thứ bảy, cuối cùng đó là sự đào thải sáng tạo, hay chính là cạnh tranh thị trường
một cách công bằng và có trật tự sẽ lựa chọn người thắng cuộc.
 Các đặc điểm và tiêu chí cơ bản của yếu tố nhà nước trong nền kinh tế thị
trường hiện đại và toàn cầu hóa, bao gồm:
 – Nhà nước cần quản lý và duy trì ổn định kinh tế vĩ mô.
 – Nhà nước cần xây dựng hệ thống pháp luật đầy đủ và bảo đảm hiệu lực thực thi,
trong đó, các điểm nổi bật là xác lập rõ ràng, cụ thể các loại tài sản, quyền sở hữu
tài sản, bảo vệ có hiệu quả quyền sở hữu tài sản; bảo đảm quyền tự do hợp đồng
và thực thi các hợp đồng; bảo đảm cạnh tranh công bằng, bình đẳng và kiểm soát
hiệu quả độc quyền kinh doanh dưới mọi hình thức; kiểm soát loại bỏ được cạnh
tranh không công bằng, không lành mạnh dưới mọi hình thức,…
 – Nhà nước cần khắc phục khiếm khuyết, thất bại của thị trường; đồng thời, không
làm cho thị trường hoạt động một cách méo mó, sai lệch, không tạo ra những tín
hiệu thị trường sai lệch đối với các chủ thể thị trường
 – Nhà nước cần làm đối tác và tạo cơ hội phát triển đối với khu vực tư nhân và các
tổ chức xã hội khác.
 – Nhà nước cần tạo điều kiện và đảm bảo công bằng về cơ hội phát triển đối với
tất cả công dân; thực hiện phân phối lại thu nhập nhằm giảm bớt bất công, bất bình
đẳng trong xã hội và hỗ trợ, nâng đỡ nhóm xã hội yếu thế, các vùng, địa phương
kém phát triển
 – Nhà nước cần đảm bảo hệ thống hạ tầng kinh tế – xã hội, tổ chức cung ứng các
loại dịch vụ công, dịch vụ xã hội thiết yếu và thực hiện các nhiệm vụ xã hội khác.

I - Vì sao Việt Nam lựa chọn mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ?

1- Như mọi người đã biết, kinh tế thị trường là một kiểu tổ chức kinh tế phản ảnh trình độ
phát triển nhất định của văn minh nhân loại. Từ trước đến nay nó tồn tại và phát triển chủ
yếu dưới chủ nghĩa tư bản, là nhân tố quyết định sự tồn tại và phát triển của chủ nghĩa tư
bản. Chủ nghĩa tư bản đã biết lợi dụng tối đa ưu thế của kinh tế thị trường để phục vụ cho
mục tiêu phát triển tiềm năng kinh doanh, tìm kiếm lợi nhuận, và một cách khách quan nó
thúc đẩy lực lượng sản xuất của xã hội phát triển mạnh mẽ. Ngày nay, kinh tế thị trường
tư bản chủ nghĩa đã đạt tới giai đoạn phát triển khá cao và phồn thịnh trong các nước tư
bản phát triển.

Tuy nhiên, kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa không phải là vạn năng. Bên cạnh mặt tích
cực nó còn có mặt trái, có khuyết tật từ trong bản chất của nó do chế độ sở hữu tư nhân tư
bản chủ nghĩa chi phối. Cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất, càng ngày mâu
thuẫn của chủ nghĩa tư bản càng bộc lộ sâu sắc, không giải quyết được các vấn đề xã hội,
làm tăng thêm tính bất công và bất ổn của xã hội, đào sâu thêm hố ngăn cách giữa người
giàu và người nghèo. Hơn thế nữa, trong điều kiện toàn cầu hóa hiện nay, nó còn ràng
buộc các nước kém phát triển trong quỹ đạo bị lệ thuộc và bị bóc lột theo quan hệ "trung
tâm - ngoại vi". Có thể nói, nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa toàn cầu ngày nay là
sự thống trị của một số ít nước lớn hay một số tập đoàn xuyên quốc gia đối với đa số các
nước nghèo, làm tăng thêm mâu thuẫn giữa các nước giàu và các nước nghèo.

Chính vì thế mà, như C. Mác đã phân tích và dự báo, chủ nghĩa tư bản tất yếu phải
nhường chỗ cho một phương thức sản xuất và chế độ mới văn minh hơn, nhân đạo hơn.
Chủ nghĩa tư bản mặc dù đã và đang tìm mọi cách để tự điều chỉnh, tự thích nghi bằng
cách phát triển "nền kinh tế thị trường hiện đại", "nền kinh tế thị trường xã hội", tạo ra
"chủ nghĩa tư bản xã hội", "chủ nghĩa tư bản nhân dân", "nhà nước phúc lợi chung"..., tức
là phải có sự can thiệp trực tiếp của nhà nước và cũng phải chăm lo vấn đề xã hội nhiều
hơn, nhưng do mâu thuẫn từ trong bản chất của nó, chủ nghĩa tư bản không thể tự giải
quyết được, có chăng nó chỉ tạm thời xoa dịu được chừng nào mâu thuẫn mà thôi. Nền
kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa hiện đại đang ngày càng thể hiện xu hướng tự phủ
định và tự tiến hóa để chuẩn bị chuyển sang giai đoạn hậu công nghiệp, theo xu hướng xã
hội hóa. Đây là tất yếu khách quan, là quy luật phát triển của xã hội. Nhân loại muốn tiến
lên, xã hội muốn phát triển thì dứt khoát không thể dừng lại ở kinh tế thị trường tư bản
chủ nghĩa.

2 - Mô hình chủ nghĩa xã hội kiểu Xô-viết là một kiểu tổ chức xã hội, tổ chức kinh tế
muốn sớm khắc phục những khuyết tật của chủ nghĩa tư bản, muốn nhanh chóng xây
dựng một chế độ xã hội tốt đẹp hơn, một phương thức sản xuất văn minh, hiện đại hơn
chủ nghĩa tư bản. Đó là một ý tưởng tốt đẹp, và trên thực tế suốt hơn 70 năm tồn tại, chủ
nghĩa xã hội hiện thực ở Liên Xô đã đạt được nhiều thành tựu vĩ đại, làm thay đổi hẳn bộ
mặt của đất nước và đời sống của nhân dân Liên Xô. Nhưng có lẽ do nôn nóng, làm trái
quy luật (muốn xóa bỏ ngay kinh tế hàng hóa, áp dụng ngay cơ chế kinh tế phi thị
trường), không năng động, kịp thời điều chỉnh khi cần thiết cho nên rút cuộc đã không
thành công.

Thực ra, khi mới vận dụng học thuyết Mác vào xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước Nga
sau Cách mạng Tháng Mười, V.I.Lê-nin cũng đã từng chủ trương không áp dụng mô hình
kinh tế thị trường mà thực hiện "chính sách cộng sản thời chiến". Nhưng chỉ sau một thời
gian ngắn, Người đã phát hiện ra sai lầm, khắc phục sự nóng vội bằng cách đưa ra thực
hiện "chính sách kinh tế mới" (NEP) mà nội dung cơ bản của nó là khuyến khích phát
triển kinh tế hàng hóa, chấp nhận ở mức độ nhất định cơ chế thị trường. Theo V.I.Lê-nin,
để xây dựng chủ nghĩa xã hội ở một nước còn tương đối lạc hậu về kinh tế như nước
Nga, cần phải sử dụng quan hệ hàng hóa - tiền tệ và phát triển kinh tế hàng hóa nhiều
thành phần, đặc biệt là sử dụng chủ nghĩa tư bản nhà nước để phát triển lực lượng sản
xuất. Tuy chỉ mới thực hiện trong thời gian ngắn nhưng NEP đã đem lại những kết quả
tích cực cho nước Nga: hồi phục và phát triển nền kinh tế bị chiến tranh tàn phá, nhiều
ngành kinh tế bắt đầu hoạt động năng động, nhộn nhịp hơn. Tiếc rằng, tư tưởng của
V.I.Lê-nin về xây dựng chủ nghĩa xã hội với chính sách NEP đã không được tiếp tục thực
hiện sau khi Người qua đời. Sự thành công và sự phát triển mạnh mẽ suốt một thời gian
khá dài của Liên Xô trong công cuộc công nghiệp hóa đất nước bằng mô hình kinh tế dựa
trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, kế hoạch hóa tập trung cao độ; phân phối thu
nhập mang tính bình quân; kinh tế hàng hóa, kinh tế thị trường bị loại bỏ đã có sức hấp
dẫn lớn đối với nhân loại và làm cho giới lý luận kinh tế các nước xã hội chủ nghĩa và các
nước đang phát triển tuyệt đối hóa, biến thành công thức để áp dụng cho tất cả các nước
đi theo con đường xã hội chủ nghĩa.

Cũng cần nói thêm rằng, trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, giới lý luận ở một số
nước cũng cảm thấy có cái gì "chưa ổn", cũng đã đưa ra những kiến nghị, những đề xuất,
đại loại như quan điểm "chủ nghĩa xã hội thị trường",... nhưng không được chấp nhận.

Vào cuối những năm 70 của thế kỷ XX, những hạn chế, khuyết tật của mô hình kinh tế
Xô-viết bộc lộ ra rất rõ cộng với sự yếu kém trong công tác lãnh đạo, quản lý lúc bấy giờ
đã làm cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và các nước Đông Âu rơi vào
tình trạng trì trệ, khủng hoảng. Một số người lãnh đạo chủ chốt của Đảng và Nhà nước
Liên Xô lúc đó muốn thay đổi tình hình bằng công cuộc cải cách, cải tổ, nhưng với một
"tư duy chính trị mới", họ đã phạm sai lầm nghiêm trọng cực đoan, phiến diện (ở đây
chưa nói tới sự phản bội lý tưởng xã hội chủ nghĩa của họ và sự phá hoại thâm hiểm của
các thế lực thù địch), dẫn tới sự tan rã của Liên Xô và sự sụp đổ của hệ thống xã hội chủ
nghĩa thế giới. Sự sụp đổ của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa khác ở Đông Âu vào
cuối những năm 80, đầu những năm 90 của thế kỷ XX đã làm lộ rõ những khuyết tật của
mô hình kinh tế cứng nhắc phi thị trường, mặc dù những khuyết tật đó không phải là
nguyên nhân tất yếu dẫn đến sự sụp đổ.

3 - Việt Nam là một nước nghèo, kinh tế - kỹ thuật lạc hậu, trình độ xã hội còn thấp, lại bị
chiến tranh tàn phá nặng nề. Đi lên chủ nghĩa xã hội là mục tiêu lý tưởng của những
người cộng sản và nhân dân Việt Nam, là khát vọng ngàn đời thiêng liêng của cả dân tộc
Việt Nam. Nhưng đi lên chủ nghĩa xã hội bằng cách nào ? Đó là câu hỏi lớn và cực kỳ hệ
trọng, muốn trả lời thật không đơn giản. Suốt một thời gian dài, Việt Nam, cũng như
nhiều nước khác, đã áp dụng mô hình chủ nghĩa xã hội kiểu Xô-viết, mô hình kinh tế kế
hoạch tập trung mang tính bao cấp. Mô hình này đã thu được những kết quả quan trọng,
nhất là đáp ứng được yêu cầu của thời kỳ đất nước có chiến tranh. Nhưng về sau mô hình
này bộc lộ những khuyết điểm; và trong công tác chỉ đạo cũng phạm phải một số sai lầm
mà nguyên nhân sâu xa của những sai lầm đó là bệnh giáo điều, chủ quan, duy ý chí, lối
suy nghĩ và hành động đơn giản, nóng vội, không tôn trọng quy luật khách quan, nhận
thức về chủ nghĩa xã hội không đúng với thực tế Việt Nam.

Trên cơ sở nhận thức đúng đắn hơn và đầy đủ hơn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi
lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Đại hội VI của Đảng Cộng sản Việt Nam (tháng 12-
1986) đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện đất nước nhằm thực hiện có hiệu quả hơn
công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đại hội đưa ra những quan niệm mới về con
đường, phương pháp xây dựng chủ nghĩa xã hội, đặc biệt là quan niệm về công nghiệp
hóa xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ quá độ, về cơ cấu kinh tế, thừa nhận sự tồn tại khách
quan của sản xuất hàng hóa và thị trường, phê phán triệt để cơ chế tập trung quan liêu bao
cấp, và khẳng định chuyển hẳn sang hạch toán kinh doanh. Đại hội chủ trương phát triển
nền kinh tế nhiều thành phần với những hình thức kinh doanh phù hợp; coi trọng việc kết
hợp lợi ích cá nhân, tập thể và xã hội; chăm lo toàn diện và phát huy nhân tố con người,
có nhận thức mới về chính sách xã hội. Đại hội VI là một cột mốc đánh dấu bước chuyển
quan trọng trong nhận thức của Đảng Cộng sản Việt Nam về chủ nghĩa xã hội và con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Đó là kết quả của cả một quá trình tìm tòi, thử
nghiệm, suy tư, đấu tranh tư tưởng rất gian khổ, kết tinh trí tuệ và công sức của toàn
Đảng, toàn dân trong nhiều năm.

Hội nghị Trung ương 6 (tháng 3-1989), khóa VI, phát triển thêm một bước, đưa ra quan
điểm phát triển nền kinh tế hàng hóa có kế hoạch gồm nhiều thành phần đi lên chủ nghĩa
xã hội, coi "chính sách kinh tế nhiều thành phần có ý nghĩa chiến lược lâu dài, có tính
quy luật từ sản xuất nhỏ đi lên chủ nghĩa xã hội".

Đến Đại hội VII (tháng 6-1991), Đảng Cộng sản Việt Nam tiếp tục nói rõ hơn chủ trương
này và khẳng định đây là chủ trương chiến lược, là con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của
Việt Nam. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã
hội của Đảng khẳng định: "Phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định
hướng xã hội chủ nghĩa, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước".
Đại hội VIII của Đảng (tháng 6-1996) đưa ra một kết luận mới rất quan trọng: "Sản xuất
hàng hóa không đối lập với chủ nghĩa xã hội mà là thành tựu phát triển của nền văn minh
nhân loại, tồn tại khách quan cần thiết cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và cả khi
chủ nghĩa xã hội đã được xây dựng". Nhưng lúc đó cũng mới nói nền kinh tế hàng hóa,
cơ chế thị trường, chưa dùng khái niệm "kinh tế thị trường". Phải đến Đại hội IX của
Đảng (tháng 4-2001) mới chính thức đưa ra khái niệm "kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa". Đại hội khẳng định: Phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa là đường lối chiến lược nhất quán, là mô hình kinh tế tổng quát trong suốt thời kỳ
quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Đây là kết quả sau nhiều năm nghiên cứu, tìm
tòi, tổng kết thực tiễn; và là bước phát triển mới về tư duy lý luận của Đảng Cộng sản
Việt Nam.
Đặc trưng của kinh tế thị trường ở Việt Nam:
Các đặc trưng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam được
thể hiện ở những điểm sau:

 Là nền kinh tế hỗn hợp, vừa vận hành theo cơ chế thị trường, vừa có sự điều tiết của
nhà nước.
 Là nền kinh tế đa dạng các hình thức sở hữu và đa dạng các thành phần kinh tế, trong
đó khu vực kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Đất đai thuộc sở hữu toàn dân.
 Việc phân phối được thực hiện chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, đồng
thời theo mức đóng góp vốn cùng các nguồn lực khác và phân phối thông qua hệ
thống an sinh xã hội, phúc lợi xã hội.
 Là nền kinh tế thị trường do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam quản lý, điều tiết vì mục tiêu "dân giàu, nước mạnh,
dân chủ, công bằng, văn minh".
 Là nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế.

Thể chế kinh tế là gì:


Thể chế kinh tế bao gồm các yếu tố chủ yếu là các đạo luật, quy chế, quy tắc, chuẩn mực
về kinh tế gắn với các chế tài về xử lý vi phạm, các tổ chức kinh tế, các cơ quan quản lý
nhà nước về kinh tế, truyền thống văn hóa và văn minh kinh doanh, cơ chế vận hành nền
kinh tế.
Trình bày theo một cách khác, thể chế kinh tế còn được hiểu là toàn thể các luật chơi
chính thức và phi chính thức điều tiết và chi phối các quan hệ, hoạt động mang tính kinh
tế của con người trong xã hội. Nói cụ thể hơn thể chế kinh tế là: các bộ quy tắc, các luật,
các lệ điều chỉnh, chế định các hành vi, các hoạt động, các quan hệ kinh tế; là bộ công cụ
để điều chỉnh các chủ thể tham gia hành vi kinh tế. Vị trí, vai trò, chức năng, năng lực,
các mối quan hệ và phương thức tổ chức vận hành của các chủ thể tham gia các hoạt
động kinh tế (nhà nước, doanh nghiệp, người dân, các hiệp hội...); Cơ chế, cách thức, các
luật lệ nhằm đạt được mục tiêu mà các chủ thể khi tham gia hành vi kinh tế mong muốn.

Các thành tố cấu thành thể chế kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa:

Các bộ phận cơ bản của thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam gồm:

(1) Các luật lệ, quy tắc điều hành nền kinh tế

(2) Các chủ thể tham gia vào hoạt động trong nền kinh tế;
(3) Cơ chế thực thi các luật, quy tắc và điều chỉnh các mối quan hệ giữa các chủ thể; (4)
Hệ thống thị trường.

Các luật, quy tắc điều chỉnh thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta bao
gồm khung khổ pháp lý do nhà nước ban hành và các quy tắc, chuẩn mực xã hội khác
như những quy định của các hiệp hội, các tổ chức xã hội nghề nghiệp… Trong hệ thống
quy tắc và chuẩn mực đó thì thể chế do nhà nước ban hành đóng vai trò quyết định đến
các hành vi kinh tế của các chủ thể trong nền kinh tế thị trường, trong khi những quy tắc,
chuẩn mực xã hội khác cũng đóng vai trò quan trọng đối với hoạt động của các chủ thể
kinh tế.

Các chủ thể trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN bao gồm các cơ quan quản
lý nhà nước về kinh tế, doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế, các tổ chức xã hội,
nghề nghiệp, cộng đồng dân cư và người dân. Gần đây một số tài liệu xếp các tổ chức
nghề nghiệp và hiệp hội vào nhóm các tổ chức xã hội dân sự. Cả ba nhóm chủ thể này
đều có vai trò quan trọng trong quá trình vận hành, tồn tại và phát triển của nền kinh tế
thị trường định hướng XHCN. Trong đó doanh nghiệp là trung tâm, nhà nước thực hiện
chức năng kiến tạo phát triển, đề ra luật và các quy định, chuẩn mực buộc các chủ thể
khác phải thực hiện đồng thời kiểm tra, giám sát việc thực hiện. Các tổ chức xã hội dân
sự và người dân có vai trò giám sát và phản biện cả cơ quan nhà nước và doanh nghiệp.

Cơ chế thực thi các quy tắc, chuẩn mực và điều chỉnh các quan hệ giữa các chủ thể của
thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN bao gồm các cơ chế vận hành của kinh tế
thị trường và cơ chế quản lý của nhà nước như: cơ chế cạnh tranh thị trường, cơ chế phân
cấp, cơ chế phối hợp và tham gia, cơ chế theo dõi và đánh giá, giải trình…

Hệ thống thị trường bao gồm thị trường hàng hoá dịch vụ cuối cùng, thị trường yếu tố sản
xuất (như thị trường vốn, lao động, khoa học công nghệ, bất động sản…). Các loại thị
trường là nơi diễn ra tương tác giữa các chủ thể kinh tế.

You might also like