You are on page 1of 24

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

ĐẠI HỌC KINH TẾ - LUẬT

LÝ THUYẾT TÀI CHÍNH TIỀN TỆ


Chủ đề: Hoạt động và quản trị của công ty bảo hiểm, quỹ hữu trí
GVHD: Cô Hồ Thị Hồng Minh
Mã lớp học phần: 231TC1016
Nhóm 6

Họ và Tên MSSV

Nguyễn An Khang K224070880

Nguyễn Thị Khánh Linh K224070886

Nguyễn Bá Vũ K224070922

Lý Thị Trang K224070913

Bùi Tuấn Đạt K224070868

Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 16 tháng 10 năm 2023


MỤC LỤC

A. Công ty bảo hiểm................................................................................................................. 3


I. Khái niệm, chức năng....................................................................................................... 3
1. Khái niệm:.................................................................................................................. 3
2. Vai trò:........................................................................................................................ 6
3. Thặng dư và các khoản dự trữ....................................................................................7
4. Doanh thu và lợi nhuận.............................................................................................. 8
5. Chính sách điều hành tác động lên các quyết định đầu tư của công ty bảo hiểm... 9
II. Hợp đồng bảo hiểm và phí bảo hiểm.............................................................................10
1. Hợp đồng bảo hiểm.................................................................................................. 10
2. Phí bảo hiểm............................................................................................................. 11
III. Rủi ro............................................................................................................................ 11
1. Khái quát về rủi ro....................................................................................................11
a. Định nghĩa:......................................................................................................... 11
b. Mức độ rủi ro:.....................................................................................................11
c. Phân loại rủi ro................................................................................................... 12
2. Lựa chọn nghịch và rủi ro đạo đức...........................................................................12
a. Lựa chọn nghịch................................................................................................. 12
b. Rủi ro đạo đức trong thị trường bảo hiểm.......................................................... 13
3. Bảo đảm chính phủ...................................................................................................13
IV. Các nguyên tắc quản trị bảo hiểm................................................................................ 14
1. Sàng lọc.................................................................................................................... 14
2. Phí bảo hiểm rủi ro hợp lý........................................................................................14
3. Các điều khoản hạn chế............................................................................................15
4. Phòng ngừa gian lận................................................................................................. 15
5. Hủy bỏ hợp đồng...................................................................................................... 15
6. Khấu trừ....................................................................................................................16
7. Đồng bảo hiểm......................................................................................................... 16
8. Giới hạn số tiền thanh toán bảo hiểm.......................................................................16
B. Quỹ hưu trí.........................................................................................................................17
I. Khái niệm và đặc điểm của quỹ hưu trí (Pension Fund).................................................17
1. Khái niệm................................................................................................................. 17
2. Đặc điểm của quỹ hưu trí......................................................................................... 17
II. Cách thức hoạt động của quỹ hưu trí.............................................................................18
III. Các loại hình.................................................................................................................19
IV. Lợi ích và hạn chế của quỹ hưu trí............................................................................... 20
KẾT LUẬN.................................................................................................................22
TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................................. 23

1
LỜI MỞ ĐẦU

Công ty bảo hiểm và quỹ hưu trí là hai ngành công nghiệp quan trọng đóng vai trò
quan trọng trong việc bảo vệ tài sản cá nhân và tài chính cho các cá nhân và doanh
nghiệp. Cả hai đều phục vụ mục tiêu quan trọng của việc giảm thiểu rủi ro tài chính và
đảm bảo sự ổn định trong tương lai. Tuy nhiên, để đạt được mục tiêu này, cả hai cũng
đối mặt với nhiều rủi ro và thách thức riêng biệt.

Công ty bảo hiểm chủ yếu hoạt động bằng cách thu tiền từ khách hàng và cam kết bồi
thường cho họ trong trường hợp xảy ra sự kiện mà họ đã bảo hiểm. Điều này bao gồm
nhiều loại bảo hiểm, từ bảo hiểm xe hơi đến bảo hiểm y tế và bảo hiểm nhân thọ.
Chúng tôi sẽ xem xét cách mà các công ty bảo hiểm đánh giá rủi ro, định giá bảo
hiểm, và quản lý danh mục đầu tư của họ để đảm bảo khả năng thanh toán các yêu cầu
bồi thường.

Ngược lại, quỹ hưu trí hoạt động bằng cách thu tiền từ những người tham gia và đầu
tư số tiền đó để tạo ra thu nhập hưu trí trong tương lai. Chúng tôi sẽ xem xét cách quỹ
hưu trí quản lý danh mục đầu tư của họ, tạo ra các kế hoạch tiết kiệm hưu trí và đảm
bảo tính ổn định của thu nhập cho người tham gia sau khi họ nghỉ hưu.

Bên cạnh những cơ hội và lợi ích mà công ty bảo hiểm và quỹ hưu trí mang lại, chúng
tôi cũng sẽ nghiên cứu các rủi ro tiềm ẩn và cách họ đối phó với chúng. Những thách
thức này có thể bao gồm biến động trong thị trường tài chính, biến đổi trong quy định
và luật pháp, cũng như sự biến đổi trong mô hình kinh doanh và cách thức công ty
quản lý rủi ro.

Chúng tôi hi vọng rằng thông qua việc tìm hiểu chi tiết về hoạt động và rủi ro của
công ty bảo hiểm và quỹ hưu trí, bạn sẽ có cái nhìn sâu rộng hơn về những yếu tố
quan trọng đằng sau những dịch vụ này và cách chúng ảnh hưởng đến cuộc sống của
mọi người. Bài tiểu luận này sẽ cung cấp cái nhìn tổng quan và hiểu biết sâu sắc về
hai ngành này, giúp tạo ra một cơ sở hiểu biết mạnh mẽ để đánh giá và quản lý rủi ro
tài chính trong tương lai.

2
A. Công ty bảo hiểm
I. Khái niệm, chức năng

1. Khái niệm:

Công ty bảo hiểm (insurance company) là trung gian tài chính cung cấp nhiều loại
hình bảo hiểm khác nhau để bảo vệ cá nhân và doanh nghiệp, chống lại những rủi ro
về tổn thất tài chính bằng cách tập hợp rủi ro của rất nhiều người đóng bảo hiểm với
nhiệm vụ chi trả cho các sự kiện không mong đợi với khoản phí hay giá cả nhất định.

Trong quá trình bảo hiểm, người bảo hiểm cam kết bồi thường cho người được bảo
hiểm trong trường hợp xảy ra rủi ro được quy định trong hợp đồng bảo hiểm. Điều
kiện để nhận được bồi thường là người được bảo hiểm đã đóng phí bảo hiểm.

Công ty bảo hiểm huy động vốn bằng cách bán các chứng nhận bảo hiểm cho công
chúng và thu được tiền từ khách hàng. Số tiền thu được từ việc bán chứng chỉ bảo
hiểm này sẽ được sử dụng để hỗ trợ công ty hoạt động và chi trả các yêu cầu bồi
thường từ khách hàng.
Theo điều 73, Nghị định 73/2016/NĐ-CP, lợi nhuận của doanh nghiệp bảo hiểm là
khoản chênh lệch giữa tổng doanh thu và tổng chi phí của doanh nghiệp bảo hiểm.
Lợi nhuận thực hiện trong năm của doanh nghiệp bảo hiểm bao gồm lợi nhuận hoạt
động kinh doanh bảo hiểm, lợi nhuận hoạt động tài chính và lợi nhuận hoạt động
khác.

Sử dụng vốn thu được đầu tư trên thị trường tài chính. Điều này có thể bao gồm đầu tư
vào các công cụ tài chính như cổ phiếu, trái phiếu, quỹ đầu tư, bất động sản, và các tài
sản tài chính khác (quy định tại Điều 98 Luật Kinh Doanh Bảo Hiểm). Mục tiêu của
việc đầu tư này là để tăng lợi nhuận và tạo ra lợi ích tài chính cho công ty bảo hiểm.

❖ Phân loại bảo hiểm:


+ Căn cứ vào ý chí của các bên, bảo hiểm gồm hai loại: bảo hiểm tự nguyện và
bảo hiểm bắt buộc.
+ Căn cứ vào mục tiêu của hành động bảo hiểm, bảo hiểm gồm có hai loại: bảo
hiểm thương mại và bảo hiểm phi thương mại.

3
+ Căn cứ vào đối tượng bảo hiểm, bảo hiểm gồm: bảo hiểm con người, bảo
hiểm tài sản, bảo hiểm trách nhiệm dân sự.

- Bảo hiểm nhân thọ:


+ Bảo hiểm nhân thọ là hợp đồng cam kết giữa công ty bảo hiểm và người
tham gia với các điều khoản đã được thỏa thuận. Phát hành chủ yếu cho
tính mạng của chủ sở hữu. Công ty cam kết chi trả một hay nhiều lần
cho người hưởng quyền lợi sản phẩm. Nội dung trong hợp đồng đều
được sự đồng ý của cả hai bên, đảm bảo quyền lợi và nghĩa vụ của
người mua lẫn doanh nghiệp bảo hiểm.
+ Khi mua một chính sách bảo hiểm nhân thọ, người được bảo hiểm
thường đóng một khoản tiền phí định kỳ cho công ty bảo hiểm. Theo đó,
trong trường hợp không may, người mua bảo hiểm qua đời, công ty sẽ
trả cho người được bảo hiểm hoặc người thụ hưởng một khoản tiền bồi
thường tùy theo điều khoản và điều kiện của hợp đồng bảo hiểm.
+ Bảo hiểm nhân thọ thường mang lại một lợi ích tài chính cho người
được bảo hiểm và gia đình, giúp giảm thiểu rủi ro tài chính trong trường
hợp xảy ra sự cố không mong muốn. Nó cũng có thể được sử dụng như
một công cụ tiết kiệm hoặc đầu tư để tích lũy giá trị tiền tương lai.
+ Các loại hình bảo hiểm nhân thọ phổ biến:
● Bảo hiểm trọn đời.
● Bảo hiểm tử kỳ.
● Bảo hiểm sinh kỳ.
● Bảo hiểm trả tiền định kỳ.
● Bảo hiểm hỗn hợp.

- Bảo hiểm phi nhân thọ:


+ Bảo hiểm phi nhân thọ là sản phẩm bảo hiểm dành cho con người và tài
sản. Bảo hiểm khỏi các rủi ro không liên quan đến việc sống hay chết,
tức là không liên quan đến sự tử vong. Thay vì bồi thường trong trường
hợp tử vong, bảo hiểm phi nhân thọ thường cung cấp tiền bồi thường khi

4
xảy ra các biến cố như tai nạn, bệnh tật, mất khả năng làm việc, hay các
sự kiện không mong muốn khác.

+ Người tham gia đóng phí một lần duy nhất. Công ty bảo hiểm sẽ cam kết
chi trả, bồi thường cho người mua bảo hiểm nếu có những rủi ro xảy ra
gây tổn thất về vật chất, cơ thể, tai nạn con người. Trong trường hợp đối
tượng được bảo hiểm không gặp bất kỳ rủi ro nào thì sau khi kết thúc
hợp đồng, người tham gia sẽ không được nhận số tiền đã đóng.
+ Các loại hình bảo hiểm phi nhân thọ phổ biến:
● Bảo hiểm sức khỏe và bảo hiểm tai nạn con người.
● Bảo hiểm cháy, nổ.
● Bảo hiểm tín dụng và rủi ro tài chính.
● Bảo hiểm tài sản và bảo hiểm thiệt hại.

❖ So sánh bảo hiểm nhân thọ và bảo hiểm phi nhân thọ:
- Điểm giống:
+ Là bảo hiểm tự nguyện, giúp người tham gia giảm bớt khó khăn khi xảy
ra các rủi ro khó lường trước.
+ Có đối tượng được bảo hiểm, người thụ hưởng, phạm vi bảo vệ... được
quy định rõ ràng trên hợp đồng.
- Điểm khác:

Bảo hiểm nhân thọ Bảo hiểm phi nhân thọ

Đối tượng Con người Con người, tài sản và trách


nhiệm dân sự

Tính chất - Bảo vệ đối tượng được bảo Bảo vệ đối tượng được bảo
hiểm trước rủi ro về tính hiểm trước rủi ro khác
mạng
- Tiết kiệm
- Đầu tư sinh lời

Hình thức đóng Đóng phí định kỳ theo Đóng phí một lần.
phí tháng/quý/năm.

Thời hạn đóng phí Kéo dài 10-20 năm hoặc trọn 1-2 năm hoặc ngắn hơn.
đời.

5
Yếu tố ảnh hưởng - Tuổi tác (tuổi càng cao thì - Xác suất rủi ro.
mức phí đóng càng cao). - Số tiền bảo hiểm.
- Tình trạng sức khỏe (tham - Chế độ bảo hiểm.
gia lúc còn khỏe mạnh là
cách tốt nhất để tối ưu phí
đóng).
- Giới tính (mức phí đóng của
nam giới thường cao hơn so
với nữ giới).
- Nghề nghiệp (ngành nghề
có mức độ rủi ro cao thì mức
phí cao hơn những ngành
nghề khác).
- ...

Điều kiện chi trả - Sự kiện bảo hiểm xảy ra (sự - Chỉ chi trả chi có rủi ro
kiện khách quan được thỏa xảy ra.
thuận trong hợp đồng).
- Đáo hạn hợp đồng (kết thúc
hợp đồng)

Người thụ hưởng - Người mua bảo hiểm - Là nạn nhân trực tiếp hoặc
- Người được bảo hiểm gián tiếp của sự cố
- Hoặc bất kỳ ai được đề cập
trong hợp đồng.

2. Vai trò:

- Ổn định tài chính cho các tổ chức, cá nhân khi gặp rủi ro: Đối với các doanh
nghiệp, vai trò của bảo hiểm đó là giúp doanh nghiệp tránh khỏi các sự cố trong
quá trình hoạt động kinh doanh, đồng thời bảo đảm về sự an toàn và ổn định về
mặt tài chính. Trên thực tế, việc các doanh nghiệp bảo hiểm bồi thường cho
doanh nghiệp khi xảy ra sự kiện bảo hiểm giúp cho các tổ chức bảo toàn được
nguồn vốn, tài sản; đối với các cá nhân và gia đình có thể khắc phục được các
khó khăn về tài chính và tránh rơi vào tình trạng kiệt quệ về cả tinh thần và vật
chất.
- Chuyển gánh nặng rủi ro: Công ty bảo hiểm giúp chuyển gánh nặng rủi ro từ cá
nhân hoặc doanh nghiệp đến công ty bảo hiểm. Bằng cách đó, công ty bảo
hiểm giúp bảo vệ các cá nhân và doanh nghiệp khỏi những mất mát tài chính

6
không mong muốn do các sự cố xảy ra, như tai nạn, thảm họa tự nhiên hoặc
bệnh tật.
- Khuyến khích đầu tư và phát triển kinh tế: Công ty bảo hiểm thu thập các
khoản phí bảo hiểm từ khách hàng và sử dụng chúng để đầu tư. Nhờ vào các
khoản đầu tư này, công ty bảo hiểm có khả năng tạo ra lợi nhuận và tăng
trưởng kinh tế. Điều này có thể tạo điều kiện thuận lợi cho việc đầu tư, phát
triển kinh tế và tạo ra việc làm.
- Ổn định ngân sách nhà nước: Nhờ có các doanh nghiệp bảo hiểm mà ngân sách
Nhà nước chi cho các khoản như trợ cấp tai nạn, trợ cấp thiên tai,... cũng giảm
đáng kể. Không những thế, ngân sách nhà nước còn tăng thêm nhờ vào những
khoản như thuế thu nhập, thuế giá trị gia tăng,... của các doanh nghiệp bảo
hiểm.
- Tạo lòng tin và ổn định trong thị trường: Công ty bảo hiểm đóng vai trò quan
trọng trong việc tạo lòng tin và ổn định trong thị trường tài chính và kinh tế.
Bằng cách cung cấp bảo hiểm và đảm bảo việc chi trả bồi thường, công ty bảo
hiểm giúp người dân và doanh nghiệp có lòng tin và an tâm hơn trong việc đầu
tư, kinh doanh và lập kế hoạch tài chính.

3. Thặng dư và các khoản dự trữ

Thặng dư của công ty bảo hiểm là khoản chênh lệch giữa tài sản và nghĩa vụ của công
ty. Các nghiệp vụ kế toán dành cho các tài sản và nghĩa vụ được thực hiện bởi các quy
định pháp lý dành cho các công ty bảo hiểm, do đó thặng dư này còn được gọi là
thặng dư pháp quy. Để xác định thặng dư pháp quy ta cần phải xác định giá trị của các
tài sản và các nghĩa vụ và đặc biệt là giá trị các nghĩa vụ vì nó khá phức tạp khi phải
chi trả ở những thời điểm nhất định trong tương lai và các khoản trên là không chắc
chắn và phụ thuộc vào sự kiện có xảy ra hay không. Vì vậy, để thể hiện chính xác và
phù hợp các nghĩa vụ không chắc chắn trên trong báo cáo tài chính, công ty bảo hiểm
phải thực hiện một tài khoản dự trữ được gọi tắt là dự trữ. Dự trữ không phải là khoản
tiền mặt mà công ty bảo hiểm để dành riêng ra mà chỉ đơn giản là một dạng tài khoản.
Có nhiều dạng tài khoản dự trữ trong công ty bảo hiểm với các mục tiêu tương ứng.

7
Thặng dư pháp quy đóng vai trò rất quan trọng vì các cấp điều hành quản lý xem đây
như là quy mô tổng số quỹ cuối cùng của công ty mà dựa trên cơ sở này, công ty dùng
chi trả cho người được bảo hiểm. Sự tăng trưởng của các khoản thặng dư của công ty
bảo hiểm này sẽ xác định có bao nhiêu doanh nghiệp và dạng hoạt động kinh doanh
nào có thể bảo hiểm rủi ro. Hiện nay, khả năng của một công ty bảo hiểm nhận các rủi
ro liên quan với các hợp đồng bảo hiểm được xác định đánh giá bằng tỉ số sau:

𝑇ổ𝑛𝑔 𝑝ℎí 𝑡ℎ𝑢 ℎà𝑛𝑔 𝑛ă𝑚


Khả năng nhận rủi ro = 𝑇ℎặ𝑛𝑔 𝑑ư 𝑝ℎá𝑝 𝑞𝑢𝑦

Thông thường thì tỉ lệ này là 2:1 hay 3:1. Nghĩ là 2$ hay 3$ thu phí hàng năm được hỗ
trợ bảo hiểm bởi 1$ thặng dư pháp quy.

4. Doanh thu và lợi nhuận

Doanh thu của công ty bảo hiểm được huy động từ 2 nguồn là thu phí bảo hiểm và thu
nhập đầu tư

+ Từ thu phí bảo hiểm: Là số tiền thu được thông qua hoạt động bán hợp đồng
bảo hiểm của công ty. Không phải tất cả các khoản phí thu được trong năm
báo cáo là thu nhập tính cho năm đó mà chỉ tính những khoản thu nhập nhận
được trong năm tài chính đó, không lấy giá trị của hợp đồng bảo hiểm hay
những khoản thu nhập mà trong tương lai chắc chắn có nhưng không thuộc
năm tài chính đó để tính vào thu nhập của năm đó. Ví dụ, tháng 11 năm nay
ông A ký ngân phiếu 1.200$ cho công ty bảo hiểm B để trả phí bảo hiểm ô tô
cho 12 tháng tới. Giả sử rằng năm kết toán của công ty kết thúc vào ngày
31/12 thì lúc này công ty chỉ có khoản phí bảo hiểm là 200$ cho tháng 11 và
tháng 12.

+ Thu nhập đầu tư: Thông thường các công ty bảo hiểm sẽ dùng một phần số
tiền thu được từ phí bảo hiểm để cất giữ phòng trường hợp thanh toán hợp
đồng hoặc chi trả bảo hiểm. Số tiền còn lại sẽ được dùng để đầu tư thu lời.

Lợi nhuận của công ty bảo hiểm sẽ được xác định bằng cách lấy doanh thu trừ đi chi
phí. Vì vậy ta cần xác định các khoản chi phí này. Có 2 dạng chi phí là:

8
+ Chi phí bù vào khoản bổ sung cho dũ trữ
+ Chi phí liên quan đến các hoạt đồng bán hợp đồng bảo hiểm
Nếu hoạt động thu về lợi nhuận thì phần lợi nhuận này sẽ không được chia cho các
chủ sở hữu công ty như một dạng cổ tức mà phải nhập vào thặng dư pháp quy. Còn
nếu thua lỗ thì thì thặng dư pháp quy sẽ giảm đúng bằng số tiền bị thua lỗ.

Tổng lợi nhuận hay thua lỗ của công ty bảo hiểm được chia làm hai phần:
+ Thu nhập đầu tư là thu nhập từ danh mục các tài sản đầu tư
+ Thu nhập bảo hiểm là khoản chênh lệch giữa phí thu được và các chi phí phân
phối nghĩa vụ.

5. Chính sách điều hành tác động lên các quyết định đầu tư của công ty bảo
hiểm.

Đầu tư chủ yếu của các công ty bảo hiểm được điều hành chủ yếu bởi cấp chính quyền
trung ương hay các các cơ quan chuyên ngành trung ương để đảm bảo tính an toàn và
tin cậy của ngành hoạt động này trong nước và trong khu vực.

Để đảm bảo thực hiện các chính sách điều hành, các công ty bảo hiểm phải được các
cơ quan chức năng trung ương (hay tương đương) cấp giấy phép. Các công ty bảo
hiểm hàng năm phải cung cấp cụ thể các báo cáo trong đó bao gồm các báo cáo tài
sản, nghĩa vụ và thặng dư của công ty. Các nhà điều hành sẽ xem xét cẩn thận các
khoản thặng dư của công ty là tiêu chuẩn xếp hạng bởi vì đây là một trong những chỉ
số xác định quy mô doanh nghiệp mà công ty có thể nhận bảo hiểm. Báo cáo hàng
năm phải thực hiện tương ứng với các nguyên tắc kế toán cơ bản hiện hành trong
nước.

Có 3 lĩnh vực chính tác động lên quyết định đầu tư của các công ty bảo hiểm

- Các yêu cầu vốn rủi ro.


- Phương pháp đánh giá tài sản cho các mục tiêu báo cáo.
- Các xu hướng đầu tư.

Các nhà điều hành theo dõi, kiểm soát tình hình tài chính của các công ty bảo hiểm.
Đánh giá tình hình tài chính của công ty liên quan đến vốn của công ty trong đó có
quy mô nguồn vốn được xác định qua phí thu được. Vốn có ý nghĩa rõ ràng và đặc
trưng trong ngành bảo hiểm: vốn bảo hiểm là thặng dư pháp quy cộng với các giá trị
điều chỉnh đặc trưng theo pháp quy và được gọi là vốn điều hành.

9
Trong tất cả các yếu tố rủi ro tính đến trong quá trình xác định các yêu cầu vốn rủi ro,
rủi ro tài sản là yếu tố liên quan trực tiếp đến quyết định quản trị danh mục đầu tư của
công ty bảo hiểm.

Các yếu tố vốn sẽ tác động lên quyết định của nhà quản trị danh mục bằng hai cách:

- Các công ty bảo hiểm với thặng dư pháp quy tiếp sẽ phải giới hạn khả năng đối
phó của họ với các tài sản với rủi ro tín dụng cao.
- Quyết định phân bổ quỹ vốn cho từng thứ hạng tài sản đặc trưng sẽ phụ thuộc
không những vào thu nhập tiềm năng từ việc đầu tư vào dạng tài sản này mà
còn phụ thuộc vào yêu cầu vốn rủi ro.

Chính sách hoạt động đầu tư của các công ty bảo hiểm còn phụ thuộc vào tính chất
hoạt động, tính chất nghĩa vụ và xác suất xảy ra các rủi ro mà công ty nhận bảo hiểm.

II. Hợp đồng bảo hiểm và phí bảo hiểm

1. Hợp đồng bảo hiểm

Là hợp đồng có bảo đảm pháp luật trong đó người giữ hợp đồng hay người được bảo
hiểm đóng các khoản phí nhất định để các công ty bảo hiểm chi trả một khoản tiền bảo
đảm trong trường hợp rủi ro cụ thể trong tương lai. Hoặc hợp đồng bảo hiểm là hợp
đồng giao kết về các quyền lợi và trách nhiệm giữa công ty và Chủ hợp đồng cũng
như các thành viên được bảo hiểm tham gia sản phẩm Bảo hiểm nhân thọ tử kỳ nhóm.
Hợp đồng bảo hiểm bao gồm nhưng không hạn chế các văn bản sau: Giấy chứng nhận
bảo hiểm, Điều khoản bảo hiểm, danh sách các thành viên được bảo hiểm, các giấy tờ
và phụ lục khác có liên quan.

Bên mua bảo hiểm là tổ chức, cá nhân giao kết hợp đồng bảo hiểm với doanh nghiệp
bảo hiểm và đóng phí bảo hiểm. Bên mua bảo hiểm có thể đồng thời là người được
bảo hiểm hoặc người thụ hưởng.
Doanh nghiệp bảo hiểm là doanh nghiệp được thành lập, tổ chức và hoạt động theo
quy định của pháp luật có liên quan để kinh doanh bảo hiểm, tái bảo hiểm.

Công ty bảo hiểm đứng ra chịu rủi ro một phần hay toàn bộ đối với những sự kiện rủi
ro không định trước được. Tuy nhiên, bên cạnh việc đứng ra chịu rủi ro đó thì các
công ty bảo hiểm cũng rất quan tâm đến những điều kiện cụ thể của cá nhân, tổ chức
sử dụng bảo hiểm; đánh giá những rủi ro có thể xảy ra cũng như xác suất của các rủi

10
ro để từ đó để có thể ký những hợp đồng có lợi cho mình cũng như người sử dụng bảo
hiểm.

Hình thức của hợp đồng bảo hiểm phải được lập thành văn bản. Bằng chứng giao kết
hợp đồng là giấy chứng nhận hay đơn bảo hiểm.

2. Phí bảo hiểm

Phí bảo hiểm là các khoản tiền mà bên mua bảo hiểm phải đóng cho doanh nghiệp bảo
hiểm theo thời hạn và phương thức do các bên thỏa thuận trong hợp đồng bảo hiểm.

Tương tự như những hợp đồng khác, hợp đồng bảo hiểm sẽ bị huỷ bỏ khi người được
bảo hiểm không đóng phí, đóng phí không đủ, hoặc không đúng thời hạn.

III. Rủi ro

1. Khái quát về rủi ro

a. Định nghĩa:

Rủi ro là một điều không may mắn, không lường trước được về khả năng xảy ra, về
thời gian và không gian xảy ra, cũng như mức độ nghiêm trọng và hậu quả của nó.
Nhìn chung, rủi ro là nguyên nhân khách quan và không lường trước được ở bốn khía
cạnh thể hiện trong định nghĩa trên.
Ví dụ: Việt Nam thường hay có bão vào mùa hè tại miền Bắc và miền Trung nhưng
không lường trước được một cách cụ thể nơi và thời gian xảy ra bão, cường độ của nó
và thiệt hại do nó gây ra. Cho nên bão là một rủi ro. Như vậy, những gì con người cố ý
gây ra cho chính mình, những gì lường trước được về không gian và thời gian xảy ra
không phải là rủi ro.
b. Mức độ rủi ro:

Sẽ không đúng nếu cho rằng tất cả mọi rủi ro đều có khả năng phát sinh như nhau và
gây tác hại như nhau.
● Để đánh giá một rủi ro, người ta dùng 2 tiêu thức:

11
- Tần suất xuất hiện rủi ro: là số lần có thể xảy ra rủi ro trong một khoảng
thời gian nhất định hay là khoảng cách thời gian trung bình giữa các lần rủi
ro xuất hiện.
- Mức độ nghiêm trọng của rủi ro hay tính khốc liệt của tổn thất. Tổn thất là
hậu quả của rủi ro. Đối tượng chịu ảnh hưởng của rủi ro khác nhau thì tổn
thất gây ra cũng khác nhau. Giá lạnh có thể gây tổn thất cho loại cây trồng
này nhưng không gây thiệt hại cho loại cây trồng khác.
c. Phân loại rủi ro

- Rủi ro tài chính và rủi ro phi tài chính


+ Rủi ro tài chính là những rủi ro mà hậu quả của nó có thể đo được bằng
tiền. Tài sản bị hư hỏng sẽ dẫn đến thiệt hại về tài chính, đó là chi phí
khôi phục, sửa chữa tài sản, chi phí thay thế bộ phận tài sản bị hỏng, chi
phí mua tài sản khác tương tự thay thế tài sản đã bị hư hại, thiệt hại do
gián đoạn kinh doanh.
+ Rủi ro phi tài chính là những rủi ro không đo được bằng tiền. Ví dụ, bạn
mua một cái xe máy hay đặt một món ăn không hợp sở thích. Đây cũng
có thể coi là một rủi ro nhưng hậu quả của nó không gây thiệt hại tài
chính, mà chỉ làm cho bạn cảm thấy không hài lòng.

2. Lựa chọn nghịch và rủi ro đạo đức

a. Lựa chọn nghịch

Lựa chọn nghịch là một tình trạng kinh tế có thể nảy sinh do tồn tại tình trạng thông
tin phi đối xứng, người lựa chọn thứ tốt lại lựa chọn phải thứ không tốt, đây là một
loại thất bại thị trường. Bên cung cấp dịch vụ bảo hiểm chấp nhận mức trả bảo hiểm
cáo cho khách hàng có ít nguy cơ. Song họ lại có ít thông tin về thứ họ được đề nghị
bảo hiểm hơn so với người mua bảo hiểm. Nếu người mua bảo hiểm cung cấp những
thông tin không trung thực, thì công ty bảo hiểm có thể sẽ ký hợp đồng trả tiền cao
cho đối tượng có nhiều nguy cơ. Ví dụ, người mua bảo hiểm nhân thọ có thể dấu
thông tin về bệnh tình, tình trạng sức khoẻ thật của mình (ung thư,...) và cam đoan với

12
công ty bảo hiểm rằng sức khỏe của mình rất tốt từ đó dẫn tới việc công ty bảo hiểm
đi ký hợp đồng bảo hiểm với người sắp chết.

b. Rủi ro đạo đức trong thị trường bảo hiểm

Trong hợp đồng bảo hiểm, rủi ro đạo đức xảy ra khi hợp đồng bảo hiểm khuyến khích
các bên nhận lấy rủi ro để tăng khả năng được thanh toán tiền bảo hiểm theo hợp
đồng. Hầu hết những người mua bảo hiểm đều mua những bảo hiểm có lợi cho mình
nhất, nghĩa là nếu họ gặp rủi ro thì đa phần rủi ro được chuyển cho các công ty bảo
hiểm. Nên khi bán hợp đồng bảo hiểm cho những người này, công ty bảo hiểm có khả
năng tổn thất lượng lớn tiềm năng của mình.

Rủi ro đạo đức có thể thấy rất rõ trong thị trường bảo hiểm. Giả sử bạn mua một hợp
đồng bảo hiểm về sức khỏe, hợp đồng này sẽ bảo vệ bạn mọi chi phí y tế có thể phát
sinh. Nếu bạn bị đau ốm có thể được trả toàn bộ chi phí. Khi đó, thái độ của bạn đối
với sức khỏe sẽ như thế nào? Bạn đã được cởi bỏ mọi rủi ro sức khỏe, bạn sẽ có xu
hướng ít quan tâm hơn đến sức khỏe của mình cho dù phí y tế trong tương lai như thế
nào – đã có công ty bảo hiểm chi trả hết. Do vậy, bạn sẽ có xu hướng lơ là việc chăm
sóc sức khỏe của bản thân, thậm chí sẽ buông lỏng và trở nên sống không lành mạnh.
Khi đó, khả năng bạn bị bệnh sẽ cao lên và công ty bảo hiểm phải hứng chịu. Điều
này sẽ khiến công ty bảo hiểm chịu thua lỗ khi mà người mua bảo hiểm bị bệnh nhiều
hơn. Đây được gọi là hiện tượng rủi ro đạo đức.

Rủi ro đạo đức xảy ra khi một bên được lợi và bên khác gánh chịu rủi ro. Bạn là người
được lợi khi mua bảo hiểm, trong khi công ty bảo hiểm là người chịu rủi ro của hợp
đồng. Trong trường hợp này, rủi ro của người mua bảo hiểm đã được chuyển giao qua
công ty bảo hiểm. Người mua sẽ coi thường rủi ro đó, dẫn đến khả năng xảy ra biến cố
xấu là cao hơn.

3. Bảo đảm chính phủ

Không như các tổ chức tín dụng và các tổ chức tài chính khác, công ty bảo hiểm
không được bất kỳ cơ quan nhà nước hay chính quyền nào đảm bảo. Hoạt động của

13
các công ty bảo hiểm cũng được xem như là hoạt động của các công ty, doanh nghiệp
khác và chịu tác động của luật doanh nghiệp.

IV. Các nguyên tắc quản trị bảo hiểm

Như các công ty tài chính khác, nếu công ty bảo hiểm thu được số tiền đủ nhiều từ các
khoản phí và đầu tư thì công ty đó tạo ra lợi nhuận, ngược lại là thua lỗ. Vấn đề rủi ro
đạo đức xảy ra làm tăng khả năng bên được bảo hiểm nhận lấy rủi ro để hưởng được
khoản tiền bồi thường từ công ty bảo hiểm. Những trường hợp này có thể do vô tình
hoặc cố ý đều đem đến những tổn thất tiềm năng lớn, gây ra những khoản tổn thất
nghiêm trọng, cần có những nguyên tắc đảm bảo giảm thiểu rủi ro sau:

1. Sàng lọc

Các công ty bảo hiểm cố gắng chọn lọc những người bảo hiểm tốt khỏi các đối tác
kém. Để thực hiện được việc này cần phải có phương pháp tập hợp và phân tích thông
tin có hiệu quả để tránh rủi ro đạo đức và lựa chọn nghịch. Từ những đánh giá đó,
công ty bảo hiểm sẽ quyết định chấp nhận hoặc từ chối yêu cầu bảo hiểm.

VD: Công ty bảo hiểm sẽ chọn lọc những người ít có nguy cơ tử vong đột ngột bằng
cách khảo sát chế độ ăn uống, lối sống, giờ giấc sinh hoạt của người có ý định đăng ký
bảo hiểm,...

2. Phí bảo hiểm rủi ro hợp lý

Đây là nguyên tắc quản lý bắt buộc với các công ty bảo hiểm, vì đây là một trong
những yếu tố sống còn đến mức độ sinh lợi của công ty. Việc thu phí đối với từng mức
độ rủi ro, tương ứng với từng đối tác khách hàng cụ thể sẽ giúp công ty bảo hiểm phải
chi trả một mức bảo hiểm hợp lý hơn cho các trường hợp mà họ gặp phải bởi từng
nhóm đối tượng khác nhau, thì mức độ và phân loại rủi ro là không hề giống nhau.

VD: Cùng thuộc nhóm đối tượng cùng tuổi, nhưng những người thường xuyên sử
dụng rượu bia, thuốc lá lại có nguy cơ mắc các bệnh tim mạch và dễ tử vong hơn
nhóm những người không hoặc ít sử dụng, điều đó cho thấy khi ký hợp đồng bảo hiểm
với họ thì công ty bảo hiểm sẽ ít có lợi hơn,...

14
3. Các điều khoản hạn chế

Được xem là những công cụ quản trị giúp giảm thiểu rủi ro đạo đức của người tham
gia bảo hiểm. Các điều khoản này yêu cầu hành vi cư xử hợp lý từ phía người được
bảo hiểm để tránh trường hợp đòi bồi thường hoặc thậm chí là làm cho họ cảm thấy
nản lòng mà chẳng muốn thực hiện các hành vi rủi ro để công ty bảo hiểm phải chi trả.
Bằng cơ chế tương tự như các điều khoản hạn chế cho vay, các điều khoản này giúp
giảm thiểu đáng kể những hành động không mong muốn.

VD: Các công ty bảo hiểm có thể hủy bỏ tiền trợ cấp tử tuất trong trường hợp người
mua bảo hiểm tự tử; các công ty cho thuê xe máy được yêu cầu cung cấp đầy đủ nón
an toàn cho người thuê xe,...

4. Phòng ngừa gian lận

Để tránh trường hợp những cá nhân được bảo hiểm có ý định gian dối hoặc khiếu nại
một cách vô căn cứ nhằm đòi số tiền bồi thường, các công ty bảo hiểm sẽ phải đưa ra
những quy định đảm bảo khiếu nại đó là có căn cứ và hợp lý mới được thanh toán.
Điều này cũng giúp hạn chế cả những cá nhân không tuân thủ hợp đồng hoặc khiếu
nại về những việc chưa thật sự xảy ra với họ.

VD: Khi yêu cầu được bồi thường thương tật thân thể, người được bảo hiểm sẽ phải
chứng minh được đó là do tai nạn, kèm theo những báo cáo với số liệu khách quan
được đảm bảo bởi các tổ chức uy tín thì công ty bảo hiểm mới thanh toán khoản khiếu
nại đó,...

5. Hủy bỏ hợp đồng

Có thể nói đây là biện pháp chủ động hơn là phòng ngừa. Bởi khi công ty bảo hiểm
phát hiện cá nhân được bảo hiểm có các dấu hiệu cố tình vi phạm các điều khoản hợp
đồng hoặc các rủi ro đạo đức khác, họ có thể đe dọa, thậm chí chủ động hủy bỏ hợp
đồng. Điều này sẽ làm giảm mong muốn chủ quan của cá nhân muốn vi phạm luật.
VD: Công ty bảo hiểm xe sẽ hủy hợp đồng với cá nhân thường có hành vi điều khiển
xe vi phạm luật giao thông,...

15
6. Khấu trừ

Là khoản tiền được bớt ra khi công ty bảo hiểm phải thanh toán cho khoản bồi thường
của người được bảo hiểm, trên danh nghĩa chi phí quản trị rủi ro đạo đức, được thể
hiện ở dạng phần trăm chiết khấu hay cố định trong hợp đồng. Khoản khấu trừ này
làm người được bảo hiểm có cảm giác họ cũng sẽ chịu tổn thất nếu tai nạn xảy ra,
đồng nghĩa họ sẽ cùng công ty bảo hiểm gánh khoản tiền bồi thường đó, từ đó mà các
rủi ro đạo đức giảm do người được bảo hiểm hành động theo hướng có lợi cho công ty
bảo hiểm

VD: Hợp đồng quy định khấu trừ 10% khoản đền bù thiệt hại trong trường hợp hư
hỏng xe cộ, nghĩa là nếu như tai nạn xảy ra, với mức bồi thường 100.000.000đ thì
công ty bảo hiểm chỉ cần chi trả 90.000.000đ do trừ đi khoản chiết khấu,...

7. Đồng bảo hiểm

Tương tự như khấu trừ, việc dàn xếp chi trả giữa công ty bảo hiểm và cá nhân được
bảo hiểm bằng một tỉ lệ phần trăm nhất định được xem là đồng bảo hiểm.

VD: Với một số loại bảo hiểm y tế, người nhận phải chi trả đến 80% và bảo hiểm chỉ
chi trả cho họ 20% hóa đơn thanh toán,...

8. Giới hạn số tiền thanh toán bảo hiểm

Để quản trị rủi ro đạo đức, số tiền chi trả bảo hiểm phải có giới hạn bất kể cá nhân
mua bảo hiểm có thể sẵn sàng bỏ ra số tiền lớn hơn. Điều này được giải thích là do số
tiền bỏ ra càng lớn, rủi ro đạo đức càng có xu hướng gia tăng và gây thiệt hại cho công
ty bảo hiểm. Việc giới hạn số tiền bồi thường khiến nó không đủ lớn để trở thành
nguyên nhân gây ra rủi ro đạo đức.

VD: Người bỏ ra sống tiền vài tỷ để bảo hiểm sinh mạng có thể đến một lúc nào đó
liều mình, vì người đó biết rằng sau cái chết đó, gia đình của họ sẽ có một khoản bồi
thường khổng lồ; ngược lại nếu số tiền bỏ ra để mua bảo hiểm chỉ dừng lại ở vài chục
triệu đồng, họ sẽ cẩn thận hơn với sinh mạng của mình vì biết rằng sau cái chết của
họ, gia đình cũng chẳng khá lên là bao nhiêu,...

16
Các công cụ quản lý khiến không chỉ giúp các công ty bảo hiểm chọn lọc được những
khách hàng tiềm năng mà còn khiến người được bảo hiểm tin rằng họ khó được bảo
hiểm hỗ trợ thỏa đáng khi có rủi ro xảy ra. Tuy nhiên việc này cũng nên được thực
hiện trên nguyên tắc hợp lý và không quá khắt khe để đảm bảo lợi nhuận của công ty
bảo hiểm bằng việc duy trì số lượng người tham gia bảo hiểm và số tiền họ bỏ vào.

B. Quỹ hưu trí


I. Khái niệm và đặc điểm của quỹ hưu trí (Pension Fund)

1. Khái niệm

Quỹ hưu trí là định chế tài chính quản lý tiền hưu trí tự nguyện và theo hợp đồng của
cá nhân, công ty và chính phủ. Quỹ hưu trí hàng ngày thu tiền đóng góp của người
thuê lao động và người lao động, cũng như thanh toán tiền cho những người về hưu.
Quỹ hưu trí chuyên môn hóa vào các khoản đầu tư dài hạn như mua cổ phiếu, trái
phiếu công ty, chứng khoán chính phủ và bất động sản.

2. Đặc điểm của quỹ hưu trí

Đặc điểm của quỹ này là liên quan đến việc đầu tư vào một tài sản rất kém tính thanh
khoản, đó là hợp đồng về tiền hưu trí. Tài sản này không được đem sử dụng cho đến
khi về hưu.

Đối tượng thành lập quỹ bao gồm các doanh nghiệp, các cơ quan nhà nước, các
nghiệp đoàn lao động và các cá nhân có nhu cầu, trong đó huy động vốn thông qua
khoản đóng góp của các thành viên tham gia để đầu tư và tiền được trả lại cho các
thành viên của quỹ dưới hình thức tiền lương hưu. Như vậy hoạt động của các quỹ
hưu trí không chỉ đảm bảo khoản thu nhập thường xuyên ổn định cho những người về
hưu mà còn góp phần lưu chuyển vốn nhàn rỗi đến những nơi có nhu cầu về vốn.

Một trong những yếu tố chính tác động đến sự hình thành và phát triển nhanh chóng
của các quỹ hưu trí chính là chính sách thuế của chính phủ: các khoản đóng góp của
chủ doanh nghiệp cho các kế hoạch hưu trí của nhân viên sẽ được giảm hoặc miễn
thuế hoàn toàn.Tài sản của quỹ được tách rời khỏi doanh nghiệp tài trợ và không
được thể hiện trên bảng cân đối kế toán của doanh nghiệp, vì thế không bị đánh thuế

17
thu nhập.Thêm vào đó, chính sách miễn giảm thuế trên các kế hoạch hưu trí còn
khuyến khích các doanh nghiệp và các cá nhân tạo ra lá chắn thuế cho mình từ các
quỹ hưu trí.

II. Cách thức hoạt động của quỹ hưu trí

Các khoản tiền quỹ trợ cấp hưu trí thu được dùng để đầu tư nhằm đạt được mức sinh
lời nhất định trong khi vẫn đảm bảo an toàn cho khoản vốn. Vì lượng tiền hưu và lãi
suất phải trả hàng tháng hoặc hàng năm là một con số hầu như được xác định trước và
rất định kỳ, cho nên phần lớn vốn của quỹ được xem như có thời gian rất chủ động và
rất dài. Do vậy, các quỹ thường đầu tư vào chứng khoán hoặc tài sản dài hạn để có lãi
cao. Tập hợp của quỹ hưu trí thường bao gồm các trái phiếu, chứng khoán và cho vay
dài hạn có thế chấp. Ngoài ra, các quỹ này còn đầu tư vào các tài sản tài chính có độ
rủi ro thấp như tiền gửi ngân hàng, các loại kỳ phiếu do ngân hàng phát hành…

Mối quan tâm chủ chốt của công tác quản trị quỹ hưu trí bao gồm các vấn đề quản trị
tài sản: những nhà quản trị quỹ hưu trí cố gắng giữ các tài sản với suất sinh lời cao và
rủi ro thấp thông qua sự đa dạng hóa danh mục đầu tư. Họ cũng áp dụng các kỹ thuật
quản trị rủi ro tín dụng và rủi ro lãi suất khác nhằm hạn chế tối đa mức độ rủi ro.
Chiến lược hoạt động của các quỹ hưu trí phụ thuộc vào tình hình kinh tế chung và
mức chi tiêu lâu dài của chủ sở hữu và quản trị quỹ. Có quỹ hưu trí chủ yếu giữa các
trái phiếu chính phủ dài hạn để đảm bảo tính an toàn. Có quỹ thì giữ tỉ lệ lớn các
chứng khoán cổ phiếu công ty để có mức lãi suất cao hơn…

Chẳng hạn, tại Mỹ sau Chiến tranh Thế giới thứ II, thị trường chứng khoán Mỹ không
ổn định, vì thế nên tài sản của các quỹ hưu trí ở Mỹ là các trái phiếu chính phủ dài
hạn, trong khi đó số cổ phiếu công ty chỉ chiếm chưa tới 1% tổng số tài sản. Nhưng
trong những năm 1950, 1960, thị trường chứng khoán bắt đầu ổn định và sôi động với
tỷ suất sinh lời cao. Trước tình hình kinh tế chung, các quỹ hưu trí cần có lợi nhuận
cao hơn vì thế nên các quỹ bắt đầu đầu tư vào cổ phiếu. Hiện nay tài sản cổ phiếu
chiếm khoảng 2/3 trong danh mục tài sản của các quỹ hưu trí. Các quỹ hưu trí là
những người tham gia chủ chốt trên thị trường tài chính các nước trên thế giới. Nếu
như đầu những năm 1960, các quỹ hưu trí chỉ nắm giữ khoảng 10% số cổ phiếu trên

18
thị trường chứng khoán thì hiện nay đã lên đến gần 25%, nhiều hơn so với các tổ chức
phi ngân hàng khác. Quỹ hưu trí là một trong các nhà đầu tư tổ chức lớn tại các nước
phát triển.

Ngoài ra, các chương trình lương hưu còn quy định thời gian tối thiểu phải tham gia
đóng góp hoặc số năm tối thiểu phải làm việc tại một công ty để được nhận lương hưu
từ quỹ trợ cấp hưu trí của công ty đó. Thông thường, các công ty yêu cầu nhân viên
phải làm việc 5 năm trước khi được công nhận có quyền lợi đối với các lợi ích của
quỹ hưu trí, nếu nhân viên rời khỏi công ty trước thời hạn 5 năm, bất kể bỏ việc hay bị
buộc thôi việc thì sẽ mất đi mọi quyền lợi từ quỹ hưu trí. Nguyên tắc để thiết lập mức
độ trợ cấp là các mức trợ cấp luôn luôn thấp hơn mức tiền lương khi làm việc. Điều
này được lý giải bởi các cơ sở là người không làm việc thì không thể được hưởng trợ
cấp lương hưu bằng thu nhập khi đang làm việc, bởi vì khi làm việc thì người lao
động phải tiêu hao công sức.

III. Các loại hình

Dựa vào phương pháp chi trả, ta có thể chia quỹ hưu trí làm 2 loại:
● Nếu lợi nhuận được xác định bởi những đóng góp vào kế hoạch và các khoản
thu nhập của kế hoạch hưu trí – ta gọi là kế hoạch hưu trí theo đóng góp
được xác định (defined-contribution plan).
● Nếu các khoản chi trả thu nhập tương lai được định trước – ta gọi là kế hoạch
hưu trí với lợi nhuận xác định (defined-benefit plan). Hình thức quỹ hưu trí
này thường được gọi là loại quỹ truyền thống, là chương trình lương hưu trong
đó số tiền người tham gia được hưởng khi về hưu được xác định không căn cứ
vào mức độ đóng góp mà vào các yếu tố khác như thời gian làm việc, mức
lương,… của người đó. Trong trường hợp quỹ hưu trí với lợi nhuận xác định,
các khoản đóng góp sẽ liên quan đến việc kế hoạch hưu trí được tài trợ và cấp
vốn như thế nào. Một kế hoạch hưu trí tài trợ hoàn toàn (fully funded) nếu
các khoản đóng góp và thu nhập của người tham gia vào quỹ qua các năm là đủ
chi trả cho họ khi đến hạn về hưu. Nếu các khoản đóng góp và thu nhập không
đủ để trả cho số tiền mà người lao động sẽ nhận được sau khi về hưu thì kế
hoạch hưu trí này là dưới mức tài trợ (underfunded).

19
Căn cứ vào cách tổ chức và người bảo đảm cho quỹ thì thường các quỹ hưu trí
hoạt động dưới 2 hình thức:
● Các kế hoạch hưu trí cá nhân và các doanh nghiệp
Các kế hoạch hưu trí cá nhân thường được các ngân hàng, các công ty bảo
hiểm hay một người quản trị quỹ hưu trí tổ chức thực hiện. Trong các kế hoạch
hưu trí do chủ doanh nghiệp tài trợ, các khoản đóng góp thường được chia sẻ
giữa chủ và nhân viên. Hoạt động của các chương trình này luôn gặp rủi ro
không đủ tiền để trả lương hưu do khoản đóng góp không đủ để tài trợ cho việc
chi trả hoặc do yếu kém trong việc đầu tư gây thất thoát tiền quỹ… Chính vì
vậy Luật các nước thường quy định việc báo cáo định kỳ theo những tiêu chuẩn
nhất định về hoạt động của các quỹ, các tiêu chuẩn báo cáo, thông báo thông
tin, các quy tắc vesting và mức độ dưới tài trợ của quỹ hưu trí, đặt ra các hạn
chế trong việc thực hiện đầu tư từ quỹ hưu trí, cũng như giao trách nhiệm giám
sát cho một cơ quan chức năng (Bộ Lao động và xã hội).
● Các kế hoạch hưu trí cộng đồng do chính phủ quản lý
Theo chương trình này hầu hết những người lao động tại các tổ chức, doanh
nghiệp đều phải tham gia và sẽ được nhận trợ cấp khi hưu trí. Vốn của chương
trình được thành lập từ đóng góp định kì của người lao động theo một tỉ lệ nhất
định tính trên mức lương của họ. Chương trình này còn gọi là bảo hiểm xã hội
bao gồm các khoản tài trợ: tiền thu nhập hưu trí, tiền thanh toán y tế và trợ cấp
mất sức lao động.
IV. Lợi ích và hạn chế của quỹ hưu trí

Lợi ích Hạn chế

● Rủi ro thấp ● Thời gian


Quỹ hưu trí là một quỹ tương đối an Thời gian đáo hạn của các quỹ này là
toàn.Vì quỹ hưu trí thường đầu tư vào tương đối dài, và người lao động không
các loại chứng khoán dài hạn.Mặt khác được rút tiền trước một độ tuổi xác định
việc đầu tư vào nhiều loại chứng khoán nào đó. Do đó đây là một loại hình đầu
khác nhau làm đa dạng hóa danh mục tư có tính thanh khoản kém, nếu muốn
đầu tư, do đó hạn chế đến mức thấp nhất đầu tư ngắn hạn thì đây không phải là
các rủi ro loại hình phù hợp.

20
● Lãi suất cao ● Lợi nhuận không ổn định
Quỹ hưu trí là một quỹ dài hạn. Lợi Nói chung lợi nhuận từ quỹ hưu trí là
nhuận thu được của quỹ là từ đầu tư tương đối cao nhưng không phải là quá
chứng khoán và cho vay dài hạn nên có lớn. Nếu như là loại kế hoạch hưu trí
mức lãi suất cao hơn. Mặt khác quỹ hưu theo đóng góp được xác định thì lợi
trí là một trong những nhà đầu tư tổ nhuận phụ thuộc vào biến động của thị
chức lớn, nắm giữ nhiều cổ phiếu trường chứng khoán. Nếu như là loại
mạnh trên thị trường nên tỷ suất sinh quỹ hưu trí với lợi nhuận xác định, mức
lời là tương đối cao. lợi nhuận được xác định từ ban đầu
● An sinh xã hội nhưng người lao động có thể chịu rủi ro
Ngoài mục đích thu lợi nhuận như từ việc lạm phát hoặc tổ chức quỹ dưới
những trung gian tài chính khác, quỹ mức tài trợ không có khả năng chi trả.
hưu trí còn có lợi ích về mặt xã hội khi ● Lá chắn thuế
đảm bảo sẽ giúp cho người lao động sẽ Do các chính sách miễn giảm thuế trên
có một cuộc các kế hoạch hưu trí nên các doanh
sống sung túc hơn khi về già, đảm bảo nghiệp và cá nhân có thể thông qua các
an sinh xã hội cho người già. quỹ hưu trí để tạo ra lá chắn thuế cho
mình.Ngoài ra còn có các hạn chế trong
công tác quản lý, đầu tư,...

21
KẾT LUẬN

Công ty bảo hiểm là những tổ chức quan trọng trong việc cung cấp bảo hiểm cho
cá nhân và doanh nghiệp. Chúng hoạt động bằng cách thu tiền từ khách hàng và
cam kết bồi thường trong trường hợp xảy ra các sự kiện mà họ đã bảo hiểm.
Điều này bao gồm nhiều loại bảo hiểm khác nhau, từ bảo hiểm xe hơi, bảo hiểm
y tế đến bảo hiểm nhân thọ. Trong quá trình này, công ty bảo hiểm đánh giá rủi
ro dựa trên các yếu tố như tuổi, sức khỏe, lối sống và lịch sử bảo hiểm của khách
hàng. Dựa trên đánh giá này, họ định giá bảo hiểm và tạo ra các hợp đồng để
cam kết bồi thường trong tương lai.
Ngoài việc đánh giá rủi ro và định giá bảo hiểm, công ty bảo hiểm còn phải quản
lý danh mục đầu tư của họ. Họ đầu tư tiền từ các khách hàng để tạo ra thu nhập
và đảm bảo rằng họ có đủ tiền để thanh toán các yêu cầu bồi thường. Một phần
quan trọng của quản lý này là đảm bảo tính ổn định của lợi nhuận và đảm bảo sự
an toàn cho khách hàng.
Quỹ hưu trí, ngược lại, đóng một vai trò quan trọng trong việc đảm bảo sự ổn
định tài chính cho người tham gia sau khi họ nghỉ hưu. Quỹ hưu trí hoạt động
bằng cách thu tiền từ người tham gia và đầu tư số tiền đó để tạo ra thu nhập hưu
trí trong tương lai. Chúng tạo ra các kế hoạch tiết kiệm hưu trí và đảm bảo tính
ổn định của thu nhập cho người tham gia sau khi họ nghỉ hưu.
Tuy nhiên, cả công ty bảo hiểm và quỹ hưu trí đều đối mặt với những rủi ro đặc
biệt. Các sự kiện không mong muốn, như thảm họa tự nhiên hoặc biến động lớn
trong thị trường tài chính, có thể ảnh hưởng đến khả năng thanh toán của họ.
Chính vì vậy, họ phải có các chiến lược quản lý rủi ro để đối phó với những
thách thức này và đảm bảo tính ổn định của dịch vụ mà họ cung cấp.
Tổng kết lại, công ty bảo hiểm và quỹ hưu trí đóng một vai trò quan trọng trong
cuộc sống của mọi người, bảo vệ tài sản và đảm bảo sự ổn định tài chính trong
tương lai. Điều quan trọng là họ phải luôn duy trì sự tin cậy và khả năng thanh
toán cho khách hàng, đồng thời phải đối phó với các rủi ro và thách thức để giữ
vững tính bền vững của họ trong thời gian dài.

22
TÀI LIỆU THAM KHẢO

Khái niệm về công ty bảo hiểm, từ


https://luatminhkhue.vn/cong-ty-bao-hiem-insurance-company-la-gi.aspx

Hoạt động của công ty bảo hiểm, từ


https://thuhienbaohiem.com/blog-kien-thuc/cong-ty-bao-hiem-hoat-dong-the-nao.html

Phân loại bảo hiểm, từ


https://ibaoviet.vn/cac-cong-ty-bao-hiem-co-nhung-loai-hinh-dich-vu-nao/

https://www.baoviet.com.vn/insurance/Kien-thuc-Bao-hiem/Kien-thuc-chung-ve-bao-
hiem-phi-nhan-tho/Phan-loai-cac-loai-hinh-bao-hiem/201/3470/MediaCenterDetail/

Rủi ro bảo hiểm là gì?, phân loại rủi ro bảo hiểm?, từ


https://www.baoviet.com.vn/insurance/Kien-thuc-Bao-hiem/Kien-thuc-chung-ve-bao-
hiem-phi-nhan-tho/Rui-ro-va-nhung-khai-niem-lien-quan-trong-Bao-hiem/201/3474/
MediaCenterDetail/

Quỹ hưu trí (Pension Fund) là gì?, từ


https://www.vib.com.vn/vn/cam-nang/ngan-hang-so/tien-ich-va-trai-nghiem/quy-huu-t
ri

Cách thức hoạt động của quỹ hưu trí, từ


https://thitruongtaichinhtiente.vn/thuc-trang-hoat-dong-cua-cac-quy-huu-tri-tu-nguye
n-tai-viet-nam-25028.html

23

You might also like