You are on page 1of 24

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

BÀI THU HOẠCH


KHÓA BỒI DƯỠNG THEO TIÊU CHUẨN CHỨC DANH NGHỀ
NGHIỆP GIÁO VIÊN TIỂU HỌC HẠNG III

Họ và tên học viên: .....................


Ngày sinh: ......................
Cơ quan công tác: .........................
Địa điểm học: .................

TỈNH ....... – NĂM 2021


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

BÀI THU HOẠCH

KHÓA BỒI DƯỠNG THEO TIÊU CHUẨN CHỨC DANH NGHỀ NGHIỆP
GIÁO VIÊN TIỂU HỌC HẠNG III

Chủ đề 1

Chính sách công: Khái niệm, hình thức biểu hiện, tầm quan trọng và
chu trình của chính sách công.

Phân tích những thuận lợi và khó khăn trong hoạch định và thực thi
chính sách công ở Việt Nam hiện nay.

TỈNH/TP.... – 2021

1
PHẦN I - MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Chính sách công là một trong những công cụ cơ bản được Nhà nước sử
dụng để phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Thực thi chính sách là một khâu
quan trọng quyết định sự thành bại của một chính sách công.Việc thực thi chính
sách công không chỉ góp phần thực hiện thắng lợi các mục tiêu của chính sách mà
còn khẳng định tính đúng đắn của chính sách, vai trò của chủ thể trong việc thực
thi chính sách, góp phần nâng cao niềm tin của đối tượng quản lý đối với chủ thể
chính sách cũng như niềm tin của nhân dân đối với các cấp ủy Đảng và chính
quyền.Nhận thức đúng đắn vị trí, vai trò, ý nghĩa của việc thực thi chính
sách;những năm qua, các cấp ủy Đảng, chính quyền đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo,
phát huy sức mạnh của cả hệ thống chính trị trong việc phối hợp triển khai thực
hiện các chính sách của nhà nước và đạt được những kết quả tích cực.Nền kinh tế
có bước phát triển và tăng trưởng khá; đất nước ta từng bước vượt ra khỏi tình
trạng các nước kém phát triển; chủ động tham gia vào quátrình hội nhập kinh tế
quốc tế. An ninh quốc phòng được giữ vững; chính trị ổn định. Vị thế của nước ta
trên trường quốc tế được nâng cao, góp phần xây dựng một thế giới, hòa bình, dân
chủ và tiến bộ xã hội.Tuy nhiên, vì nhiều lý do khác nhau, việc tổ chức thực thi
chính sách trong thời gian qua vẫn còn nhiều bất cập, chưa đáp ứng yêu cầu, nhiệm
vụ trong tình hình mới. Vì vậy việc tim hiểu hoạch định và thực thi chính sách
công ở Việt Nam hiện nay là một việc cần thiết nên tôi chọn chủ đề 1.
“Chính sách công: Khái niệm, hình thức biểu hiện, tầm quan trọng và
chu trình của chính sách công. Phân tích những thuận lợi, khó khăn trong
hoạch định và thực thi chính sách công ở Việt Nam hiện nay?
2. Mục đích nghiên cứu
Trên cở sở làm rõ các vấn đề lý luận cơ bản về hoạch định và thực thi chính
sách công ở Việt Nam hiện nay nhằm đưa ra các biện pháp nâng cao chất lượng
vấn đề này.
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
- Khách thể: Hoạch định và thực thi chính sách công ở Việt Nam hiện nay.

1
- Đối tượng nghiên cứu: Chính sách công: Khái niệm, hình thức biểu hiện,
tầm quan trọng và chu trình của chính sách công. Những thuận lợi, khó khăn trong
hoạch định và thực thi chính sách công.
4. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu lý thuyết: Phân tích các tài liệu có liên quan đến
phạm vi nghiên cứu, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài để thu thập thông tin cơ sở lý
luận cho đề tài.
- Các phương pháp nghiên cứu thực tiễn: Phương pháp quan sát, Phương pháp
thống kê; Phương pháp tổng kết kinh nghiệm: Phân tích, khái quát thông tin từ đó
rút ra kết luận; Phương pháp thực nghiệm sư phạm.

NỘI DUNG
1. Giới thiệu về đơn vị công tác
- Trường Tiểu học .................
Địa chỉ: .......................
1.1. Điều kiện cơ sở vật chất
- Trường có đủ 35 phòng học theo quy định của Bộ GG&ĐT, Bộ Khoa học
và Công nghệ, Bộ Y tế; đảm bảo 100% học sinh được học 2 buổi/ngày.
- Các phòng làm việc của Ban Giám Hiệu, phòng Hội đồng, phòng hành
chính, phòng thường trực, phòng Thiết bị đồ dùng, .. đều được trang bị đầy đủ bàn
làm việc, tủ hồ sơ tài liệu, máy tính kết nối Internet… đúng theo quy định.
- Phòng Y tế, phòng học Tin học, phòng Nghệ thuật, phòng Ngoại ngữ:
được trang bị đầy đủ các phương tiện hiện đại phục vụ việc dạy và học.
- Khu thể chất: Khu giáo dục thể chất, sân cỏ nhân tạo giúp cho học sinh vui
chơi, tập luyện TDTT hiệu quả, an toàn.
- Phòng truyền thống và Hoạt động Đội: đầy đủ, đúng quy định.
- Thư viện: có đầy đủ hồ sơ, được trang bị SGK, tài liệu tham khảo, báo, tạp
chí và hoạt động đúng quy định
- Khu nhà bếp: được thiết kế xây dựng theo hệ thống bếp ăn một chiều, hiện
đại đảm bảo VSATTP.

2
- Có 10 khu vệ sinh cho GV, học sinh nam và nữ riêng biệt, đảm bảo đúng
theo quy định và sạch sẽ. Hiện nay, để tích cực phòng chống bệnh sốt xuất huyết,
100% nhà vệ sinh được trang bị đèn tinh dầu thơm chống muỗi.
- Có 02 khu để xe cho CBGV-NV & Khách, có hệ thống mái che hiện đại;
có nguồn nước máy. Hệ thống thoát nước, thu gom rác đảm bảo vệ sinh sạch sẽ
hàng ngày.
1.2. Đội ngũ cán bộ, giáo viên, nhân viên và các hoạt động của nhà
trường
- Tập thể nhà trường là một khối đoàn kết nhất trí, có năng lực, năng động,
sáng tạo trong phong trào đổi mới phương pháp dạy học; tận tình và có trách
nhiệm trong công tác giáo dục học sinh.
- Hiệu trưởng có kinh nghiệm lãnh đạo, Ban giám hiệu làm việc khoa học,
sáng tạo, tâm huyết, phối hợp chặt chẽ với các tổ chức trong và ngoài nhà trường
trong việc giáo dục học sinh.
- Hoạt động của nhà trường có kỉ cương, nền nếp. Các phong trào thi đua
được phát động và thực hiện sôi nổi, có tác dụng tốt tới giáo viên, học sinh.
- Học sinh ngoan, chăm chỉ, có ý thức kỉ luật và học tập tốt.
- Cha mẹ học sinh rất quan tâm tới việc học tập và rèn luyện của con em,
nhiệt tình ủng hộ các hoạt động của nhà trường.
1.3. Thành tích đạt được
- Trường đạt trường chuẩn quốc gia.
- Trường có nhiều giáo viên dạy giỏi cấp Quận, học sinh tham gia các cuộc
thi vẽ tranh, Toán, Tiếng Việt, Tiếng Anh qua mạng đạt kết quả cao.
2. Cơ sở lí luận vấn đề cần nghiên cứu
2.1. Chính sách công
2.1.1. Khái niệm chính sách công
Chính sách là nội dung, công cụ nhà nước sử dụng trong quản lí xã hội. Có
nhiều quan niệm khác nhau về khái niệm chính sách, như:
- Chính sách là sách lược và kế hoạch nhằm đạt một mục đích nhất định;
được xây dựng dựa trên đường lối chính trị chung và tình hình thực tế."
3
"Từ điển tiếng Việt, Hoàng Phê (Chủ biên), NXB Hồng Đức, 2016.
- Chính sách là một quá trình hành động có mục đích mà một cá nhân hoặc
một nhóm theo đuổi một cách kiên định trong việc giải quyết vấn đề.
Trên cơ sở phân tích các quan niệm về chính sách có thể đi đến khái niệm
tổng quát về chính sách như sau: Chính sách là những hành vi ứng xử của chủ thể
quản lí đối với các đối tượng quản lí nhằm đạt được mục đính quản lí.
- Chính sách công là cái chính phủ lựa chọn làm hay không làm.
- Chính sách công là một chuỗi các quyết định hoạt động của Nhà nước
nhằm giải quyết một vấn đề chung đang đặt ra trong đời sống kinh tế - xã hội.
2.1.2. Hình thức biểu hiện
Tuỳ theo mục đích, yêu cầu của chủ thể quản lí để lựa chọn độc lập hay kết
hợp giữa các cách phân loại sau đây chứ không nhất thiết phải cứng nhắc, máy
móc theo một cách cụ thể nào:
- Phân loại chính sách theo chủ thể ban hành gồm có: Chính sách của Nhà
nước (còn gọi là chính sách công), chính sách của các doanh nghiệp, chính sách
của các tổ chức phi nhà nước khác. Theo cách phân loại trên thì chính sách công
làm nền tảng cho chính sách của các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế, xã hội, Bởi
vậy tính ổn định, tỉnh bao hàm của chính sách công thường cao hơn,
- Phân loại chính sách theo lĩnh vực hoạt động gồm có: Chính sách kinh tế,
văn hoá - khoa học - xã hội, an ninh quốc phòng, giáo dục, y tế, môi trường Mặc
dù cách phân loại này giúp chúng ta nắm được chính sách khả cụ thể, nhưng số
lượng chính sách nhiều và tản mạn nên khó kiểm soát,
- Phân loại theo thời gian tồn tại của chính sách gồm có: chỉnh sửch dài hạn,
trung hạn và ngăn hạn. Thời gian tồn tại của một chính sách tối thiểu cũng phải đủ
để thực hiện được mục tiêu định hướng của chính sách (ngoại trừ đó là những
chính sách Nai), nên thường không ngắn. Từ đó, có thể thấy chính sách dài hạn
thường là những chính sách cơ bản có ảnh hưởng đến nhiều lĩnh vực hoạt động
khác nhau và quyết định đến mục tiêu phát triển chung của đất nước, có đôi tương
tác động ít thay đổi như chính sách dân tộc, tôn giáo, chính sách kinh tế nhiều
thành phần. Các chính sách có đối tượng tác động hay thay đổi như kỉ thuật,
CNTT, giá cả hàng hoá,... là những chính sách ngắn hạn. Còn các chính sách khác

4
được coi là trung hạn. Để tránh phân loại sai theo thời gian chúng ta cần phân biệt
chính sách với chương trinh và dự án.
- Phân loại chính sách theo phạm vi quan hệ gồm có: Chính sách đối nội,
chính sách đối ngoại. Chính sách đổi nội là những chính sách được áp dụng trong
lãnh thổ, quốc gia để giải quyết các vấn đề phát sinh nội tại. Trong chính sách đổi
nội có thể chia thành chính sách tổng thể, chính sách khu vực, lĩnh vực. Tuy
nhiên giữa chính sách đối nội và đối ngoại luôn có mối liên hệ mật thiết và tác
động qua lại lẫn nhau.
- Phân loại chính sách theo tính chất ứng phó của chủ thể gồm có: Chính
sách chủ động và chính sách thụ động. Chính sách chủ động là do Nhà nước chủ
động đưa ra mặc dù chưa có nhu cầu chung của xã hội. Còn chính sách thụ động là
chính sách đưa ra để giải quyết một vấn đề đã phát sinh có ảnh hưởng đến đời sống
cộng đồng.
- Phân loại chính sách theo tính chất tác động gồm có: Chính sách thúc đẩy
hay kìm hãm, chính sách điều tiết hay tạo lập môi trường, chính sách tiết kiệm hay
tiêu dùng,... Cách phân loại này giúp chúng ta quan tâm nhiều hơn đến việc tìm
kiếm các giải pháp thực hiện mục tiêu chính sách.
- Hiện nay nhiều quốc gia trên thế giới thực hiện phân loại chính sách theo
mục tiêu tác động nên bao gồm ba loại cơ bản là: Chính sách phát triển con người,
chính sách đối nội và chính sách đối ngoại.
2.1.3. Vai trò của chính sách công trong quản lí nhà nước
Để thực hiện mục tiêu phát triển, Nhà nước dùng chính sách làm công cụ
chủ yếu để giải quyết những vấn đề công nhằm thúc đẩy các quá trình kinh tế - xã
hội theo định hướng. Vai trò của chính sách công được thể hiện trên những khía
cạnh dưới đây:
- Vai trò định hướng cho các hoạt động kinh tế - xã hội.
- Vai trò khuyến khích và hỗ trợ các hoạt động kinh tế - xã hội theo định
hướng.
- Phát huy những mặt tốt của thị trường, đồng thời khắc phục những hạn chế
do chính thị trường gây ra.

5
- Vai trò tạo lập các cân đối trong phát triển giữa các thành phần, các khu
vực kinh tế,...
2.1.4. Chu trình của chính sách công
Chuỗi các giai đoạn kế tiếp liên quan chặt chẽ với nhau được gọi là “chu
trình”. Như vậy chu trình chính sách là một chuỗi các giai đoạn kế tiếp có liên
quan với nhau từ khi lựa chọn được vấn đề chính sách công đến khi kết quả của
chính sách được đánh giá'.
Các bước trong chu trình chính sách công gồm:
- Tìm kiếm lựa chọn đề xuất vấn đề chính sách;
- Hoạch định chính sách;
- Phê duyệt chính sách;
- Thực thi chính sách;
- Đánh giá chính sách;
- Điều chỉnh chính sách.
2.2. Hoạch định chính sách công
2.2.1. Khái niệm
Hoạch định chính sách công là toàn bộ quá trình nghiên cứu, xây dựng và
ban hành đầy đủ một chính sách công. Sau khi được ban hành, chính sách công sẽ
có hiệu lực thực thi trong xã hội. Giá trị pháp lí của một chính sách công được thể
hiện ở thể thức, nội dung và thẩm quyền ban hành của các cơ quan QLNN.
Hoạch định chính sách công cũng được coi là một loại quyết định quản lí
đặc biệt cho cả một giai đoạn tồn tại phát triển của xã hội nhằm đạt mục tiêu quản
lý, Nếu quyết định đúng đắn, khoa học sẽ giúp cho thực thể có nhiều thuận lợi
trong quá trình vận động đến mục tiêu. Nếu quyết định sai sẽ làm cho thực thể
không những mất phương hướng trong quá trình vận động, mà còn gây ra những
hậu quả không mong muốn trong quá trình quản lí.
Một chính sách tốt sẽ có những ý nghĩa to lớn sau đây:
- Hoạch định chính sách mở đường cho cả tiến trình chính sách;
- Hoạch định chính sách sẽ khởi xướng được những vấn đề mà xã hội cần
giải quyết bằng chính sách;
6
- Hoạch định chính sách giúp cho việc củng cố niềm tin của nhân dân vào
Nhà nước;
- Hoạch định chính sách sẽ thu hút được các bộ phận chức năng của toàn hệ
thống quản lí vào những hoạt động theo định hướng
- Hoạch định chính sách sẽ truyền đạt được cơ chế quản lí của Nhà nước đến
nền kinh tế trong từng thời kÌ.
2.2.2. Quy trình hoạch định chính sách
Mục tiêu của chính sách công luôn gắn liền với đường lối phát triển của
Đảng cầm quyền, là những bộ phận cấu thành của mục tiêu định hướng; biện pháp
của chính sách thường mang tính cơ chế trên cơ sở mối quan hệ giữa cơ chế hoạt
động theo quy luật của các đối tượng quản lí và cơ chế điều hành của chủ thể. vì
thể tác động của chính sách đến xã hội toàn diện, sâu sắc hơn các công cụ quản lí
khác. Đặc tính này của công cụ chính sách công đòi hỏi các nhà nước phải rất thận
trọng khi cho ra đời một chính sách, trong đó trước hết phải tiến hành có kết quả
các bước hoạch định sau đây:
- Lí do hoạch định chính sách;
- Xây dựng dự thảo các phương án chính sách;
- Lựa chọn phương án dự thảo tốt nhất;
- Hoàn thiện phương án lựa chọn;
- Thẩm định phương án chính sách;
- Quyết định ban hành chính sách;
- Công bố chính sách công, đây là bước cuối cùng trong tiến trình hoạch
định chính sách. Công bố chính sách để cho các cơ quan QLNN vả mọi tầng lớp
nhân dân biết về một chính sách mới để họ có tinh thần đón nhận và chuẩn bị thực
hiện.
2.3. Thực thi chính sách công
2.3.1. Khái niệm và tầm quan trọng của thực hiện chính sách công
Tổ chức thực hiện chính sách công là toàn bộ quá trình hoạt động của các
chủ thể quản lí theo các phương thức khác nhau, nhãm hiện thực hoá nội dung
chính sách công một cách hiệu quả.

7
Tổ chức thực thi chính sách công là một khâu hợp thành chu trình chính
sách, là toàn bộ quá trình chuyển hoá ý chí của chủ thể trong chính sách thành hiện
thực với các đối tượng quản lí nhằm đạt mục tiêu định hướng. Tổ chức thực thị
chính sách là trung tâm kết nối các bước trong chu trình chính sách thành một hệ
thống, nhất là với hoạch định chính sách. So với các khâu khác trong chu trình
chính sách, tổ chức thực thi có vị trí đặc biệt quan trọng, vì đây là bước hiện thực
hoả chính sách trong đời sống xã hội.
Nếu đưa vào thực thi một chính sách tốt không những mang lại lợi ích to lớn
cho các nhóm đối tượng thụ hưởng, mà còn góp phần làm tăng uy tín của Nhà
nước trong quá trình quản lí xã hội. Tuy nhiên, để có được một chính sách tốt các
nhà hoạch định phải trải qua một quá trình nghiên cứu, tìm kiếm rất công phu. Tuy
vậy, một chính sách tốt cũng trở nên vô nghĩa nếu nó chỉ là lí thuyết và không
được ứng dụng trong thực tiễn.
2.3.2. Các bước tổ chức thực hiện chính sách công
Để tổ chức điều hành có hiệu quả công tác thực thi chính sách, trước tiên
cần tuân thủ các bước tổ chức thực thi cơ bản sau đây:
a) Xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện chính sách
Kế hoạch triển khai thực thi chính sách công được xây dựng trước khi đưa
chính sách vào cuộc sống. Các cơ quan triển khai thực thi chính sách từ Trung
ương đến địa phương đều phải xây dựng kế hoạch, chương trình thực hiện Kế
hoạch triển khai thực thi chính sách bao gồm những nội dung cơ bản sau: kế hoạch
về tổ chức, điều hành; kế hoạch cung cấp các nguồn vật lực; kế hoạch thời gian
triển khai thực hiện; kế hoạch kiểm tra, đôn đốc thực thi chính sách; dự kiến những
nội quy, quy chế về tổ chức, điều hành, về trách nhiệm, nhiệm vụ, và quyền hạn
của cán bộ, công chức và các cơ quan nhà nước tham gia tổ chức điều hành chính
sách, về các biện pháp khen thưởng, kỷ luật cá nhân, tập thể trong tổ chức thực thi
chính sách,...
b) Phổ biến, tuyên truyền chính sách công
Đây là một hoạt động quan trọng, có ý nghĩa lớn với cơ quan nhà nước và
các đối tượng thực thi chính sách. Phổ biến, tuyên truyền chính sách tốt giúp cho
các đối tượng chính sách và mọi người dân tham gia thực thi hiểu rõ về mục đích,
yêu cầu của chính sách; về tính đúng đắn của chính sách trong điều kiện hoàn cảnh

8
nhất định và về tính khả thi của chính sách,... để họ tự giác thực hiện theo yêu cầu
quản lý của Nhà nước
Đồng thời còn giúp cho mỗi cán bộ, công chức, viên chức có trách nhiệm tổ
chức thực thi nhận thức được đầy đủ tính chất, trình độ, quy mô của chính sách với
đời sống xã hội để chủ động tích cực tìm kiếm các giải pháp thích hợp cho việc
thực hiện mục tiêu chính sách và triển khai thực thể có hiệu quả kế hoạch tổ chức
thực hiện chính sách được giao.
c) Phân công, phối hợp thực hiện chính sách công
Hoạt động phân công, phối hợp cần được thực hiện theo tiến trình, có kế
hoạch một cách chủ động, sáng tạo để luôn duy trì chính sách được ổn định, góp
phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả chính sách
d) Duy trì chính sách công
Đây là những hoạt động nhằm đảm bảo cho chính sách tồn tại được và phát
huy tác dụng trong môi trường thực tế. Muốn vậy phải có sự đồng tâm, hợp lực của
cả người tổ chức, người thực thi và môi trường tồn tại. Đối với các cơ quan nhà
nước - người chủ động tổ chức thực thi chính sách - phải thường xuyên quan tâm
tuyên truyền, vận động các đối tượng chính sách và toàn xã hội tích cực tham gia
thực thi chính sách. Trong một chừng mực nào đó, để đảm bảo lợi ích chung của
xã hội, các cơ quan nhà nước có thể kết hợp sử dụng biện pháp hành chỉnh để duy
trì chính sách.
e) Điều chỉnh chính sách
Điều chỉnh chính sách được thực hiện bởi cơ quan nhà nước có thẩm quyền
để cho chính sách ngày càng phù hợp với yêu cầu quản lí và tình hình thực tế,
Theo quy định, cơ quan nào ban hành chính sách thi được quyền điều chỉnh bổ
sung chính sách, nhưng trên thực tế việc điều chỉnh các biện pháp, cơ chế chính
sách diễn ra rất năng động, linh hoạt, vì thể cơ quan nhà nước các ngành, các cấp
chủ động điều chỉnh biện pháp, cơ chế chính sách để thực hiện có hiệu quả chính
Sắch miễn là không làm thay đổi mu tiên chính sách
Kiểm tra, theo dõi sát sao tình hình tổ chức thực thi chính sách vừa kịp thời
bổ sung, hoàn thiện chính sách, vừa chấn chỉnh công tác tổ chức thực thi chính
sách, giúp cho việc nâng cao hiệu lực, hiệu quả thực hiện mục tiêu chính sách.
g) Đánh giá, tổng kết, rút kinh nghiệm
9
Đánh giá tổng kết trong bước tổ chức thực thi chính sách được hiểu là quá
trình xem xét, kết luận về chỉ đạo, điều hành và chấp hành chính sách của các đối
tượng thực thi chính sách,
3. Thuận lợi, khó khăn thuận lợi, khó khăn trong hoạch định và thực thi
chính sách công ở Việt Nam hiện nay
Trong nền hành chính nhà nước, CSC là bộ phận nền tảng trọng yếu của thể
chế hành chính, là cơ sở và chi phối các yếu tố cấu thành khác của nền hành chính
như: bộ máy hành chính; đội ngũ cán bộ - công chức; tài chính công.
Ở Việt Nam, với hoạt động quản lý, điều hành của Chính phủ trong nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN) thì CSC là công cụ tiền đề,
không thể thay thế và chi phối các công cụ quản lý khác như pháp luật, kế hoạch,
phân cấp - phân quyền… Điều đó giải thích vì sao trong những năm gần đây Đảng
và Nhà nước ta luôn đặc biệt quan tâm tới việc nâng cao vai trò của CSC như là
một công cụ hữu hiệu nhằm nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước nói riêng và đẩy
mạnh chất lượng của sự nghiệp đổi mới nói chung.
Ứng dụng các yếu tố của kỹ thuật số trong cách mạng công nghiệp 4.0 vào
hoạch định chính sách công ở Việt Nam. Các yếu tố cốt lõi của kỹ thuật số (KTS)
trong cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 (CMCN 4.0) là: Trí tuệ nhân tạo (AI), Vạn
vật kết nối (IoT) và Dữ liệu lớn (Big Data) 2đều có thể hỗ trợ cho việc thực hiện các
hoạt động chính của xây dựng chính sách, chẳng hạn cung cấp, thu thập, trao đổi
thông tin, dữ liệu (IoT và Big Data); xử lý thông tin và phân tích thông tin để giải
quyết vấn đề (AI). Việc áp dụng này sẽ mang lại nhiều lợi ích như làm tăng tốc độ
và hiệu quả xây dựng chính sách, tăng được tính công khai và minh bạch của quá
trình xây dựng chính sách, nâng cao chất lượng của chính sách
Tuy nhiên, quá trình hoạch định và thực thi chính sách vẫn còn nhiều
khó khăn
Một là, đời sống kinh tế – xã hội đang còn nhiều vấn đề bức thiết đặt ra
nhưng chưa có sự tác động bởi chính sách của Nhà nước, từ đó tạo ra các khoảng
trống trong hoạt động quản lý. Ví dụ, kết quả báo cáo sản xuất kinh doanh của các
doanh nghiệp cùng ngành nghề ở khu vực nhà nước và khu vực có vốn đầu tư nước
ngoài cho thấy, khu vực doanh nghiệp nhà nước có kết quả kinh doanh tốt hơn khu
vực có vốn đầu tư nước ngoài. Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài báo

10
cáo lỗ nhiều hơn là lãi và thực tế hiện nay mới chỉ có một thông tư của Bộ Tài
chính quy định về vấn đề chuyển giá.
Hai là, các văn bản quy phạm pháp luật thường xuyên được thay đổi; trong
một số lĩnh vực có nhiều quy định thay đổi liên tục. Ví dụ, trong lĩnh vực đầu tư
xây dựng cơ bản, từ 2005 đến nay đã có 4 luật về đầu tư, 48 nghị định của Chính
phủ về đầu tư, 132 thông tư của các bộ, ngành và 362 quyết định của Thủ tướng
Chính phủ và bộ trưởng các bộ liên quan đến vấn đề này. Vấn đề chính sách vận
động không ngừng và thay đổi theo thời gian, môi trường, vì thế các chính sách
đưa ra cũng cần có sự điều chỉnh cho phù hợp với thực tế. Nhưng việc thay đổi liên
tục các chính sách này có thể gây khó khăn cho đối tượng thực thi và các đối tượng
mà chính sách hướng tới. Trong lĩnh vực kinh tế, đặc biệt là lĩnh vực đầu tư, các
văn bản pháp luật và chính sách thay đổi liên tục sẽ tạo ra tâm lý lo ngại cho các
doanh nghiệp, làm hạn chế nguồn đầu tư vào Việt Nam.
Ba là, một số chính sách được ban hành nhưng vì những lý do khác nhau đã
không có hiệu lực trên thực tế. Ví dụ như quy định cấm hút thuốc lá ở nơi công
cộng. Những chính sách như vậy được ban hành đã phản ánh nỗ lực của Nhà nước
trong việc giải quyết các vấn đề gây bức xúc trong xã hội; tuy nhiên, khi đưa ra
những chính sách này, các nhà hoạch định chưa xem xét đến khả năng thực hiện
của chúng và cơ chế để đảm bảo các chế tài được thực hiện một cách nghiêm túc.
Vì vậy, mặc dù có mục tiêu rất tốt nhưng các chính sách này không có khả năng
để đảm bảo được thực hiện.
Bốn là, nhiều chính sách còn thiếu tính hợp lý. Một trong những yêu cầu
quan trọng của chính sách “tốt” là phải có tính hợp lý, nếu không thì dù chính sách
có được hoạch định theo đúng trình tự, thủ tục và mục tiêu, biện pháp có tốt đến
đâu cũng không được đảm bảo thực hiện khi tổ chức thực thi trên thực tế. Chính
sách được ban hành là để giải quyết các vấn đề phát sinh trong đời sống cộng
đồng, bảo đảm quyền lợi cho cộng đồng, nhưng nếu thiếu tính thực tế sẽ không áp
dụng được. Chính sách thiếu tính hợp lý vừa gây tốn kém cho Nhà nước khi nghiên
cứu, ban hành, vừa gây ra tâm lý bất ổn trong nhân dân. Ví dụ, Nhà nước quy định
cộng điểm thi tốt nghiệp trung học phổ thông cho những người là con của người
hoạt động cách mạng trước năm 1945 hay cộng điểm cho Bà mẹ Việt Nam anh
hùng khi thi đại học… Những quy định này ngay sau khi được ban hành đã bị dư
luận xã hội phản ứng nên buộc phải sửa đổi hoặc loại bỏ.

11
Bên cạnh đó, nhiều chính sách tuy được thực thi trên thực tế nhưng kém
hiệu quả. Ví dụ, trong giai đoạn 2 của chính sách xóa đói giảm nghèo, Nhà nước đã
chi ra một khoản kinh phí rất lớn, song chỉ có 6% số xã thoát nghèo, nhiều xã tỉ lệ
nghèo còn cao và có khả năng tái nghèo. Một số chính sách được ban hành còn
chưa bảo đảm sự công bằng, đặc biệt là ngân sách phân bổ cho lĩnh vực y tế và an
sinh xã hội. Tỉ lệ chi ngân sách nhà nước cho các lĩnh vực này chủ yếu tập trung ở
Trung ương và cấp tỉnh, trong khi người nghèo tập trung ở các vùng nông thôn,
vùng sâu, vùng xa thì lại chưa được đầu tư thỏa đáng…
Trong khâu thực thi chính sách bộc lộ những hạn chế, bất cập, chủ yếu là
không bảo đảm tính kịp thời, đồng bộ, nhất quán trong tổ chức thực hiện, nhất là ở
một số chính sách về kinh tế - xã hội và bảo vệ môi trường trong thời gian gần đây.
Việc thể chế hóa các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước, xây dựng
kế hoạch, chương trình triển khai thực hiện còn chưa kịp thời. Tình trạng ban hành
văn bản không đồng bộ (luật chờ nghị định, nghị định chờ thông tư...), việc hiểu và
hướng dẫn không thống nhất giữa các bộ, ngành, giữa cơ quan ban hành và cơ
quan thực hiện, không rõ cơ chế phối hợp và trách nhiệm giải trình, bị tác động của
lợi ích cục bộ, lợi ích nhóm đã ảnh hưởng đến việc triển khai và thực thi chính
sách.
Những quy định, thủ tục đề ra trong quá trình tổ chức thực thi chính sách
thường không ổn định. Thủ tục hành chính còn rườm rà, phức tạp, gây khó khăn
cho việc thực thi chính sách, như thủ tục thẩm định, phê duyệt các chương trình,
dự án; thủ tục cấp phát, chi tiêu tài chính... Chẳng hạn, năm 2016, Bộ Tư pháp
kiểm tra hơn 3.000 văn bản do các bộ, ngành, địa phương ban hành, phát hiện 124
văn bản trái luật về nội dung, thẩm quyền; qua thẩm định 678 thủ tục hành chính
đã đề nghị không quy định hoặc xem xét tính hợp lý, hợp pháp, trong đó đề xuất
không cần thiết ban hành 141 thủ tục và đề nghị sửa đổi 537 thủ tục...(2)
Công tác tuyên truyền, phổ biến chính sách tới những đối tượng liên quan
(nhà chức trách, những người thực thi và người dân) còn chưa kịp thời, chưa đầy
đủ, rõ ràng, dẫn đến hiểu không đầy đủ, thậm chí hiểu sai chính sách.
Tình trạng thiếu năng lực, trình độ hạn chế, thói hách dịch, cửa quyền, quan
liêu, tham nhũng của một bộ phận cán bộ, công chức trong thực thi chính sách
đang là một trong những nguyên nhân cản trở, thậm chí đi ngược lại mục tiêu của
chính sách.
12
Tình trạng chưa coi trọng việc bảo đảm các yếu tố điều kiện và nguồn lực
cho triển khai và thực hiện chính sách còn chịu ảnh hưởng nặng của cơ chế xin -
cho, bao cấp, tư duy nhiệm kỳ, chủ nghĩa thành tích, chủ quan duy ý chí, dựa dẫm
vào đầu tư công từ ngân sách nhà nước... đã làm cho nhiều chính sách bị vô hiệu
hóa, bất cập, không thể đi vào cuộc sống.
Công tác kiểm tra, giám sát chưa kịp thời, còn hình thức, thiếu thực chất.
Việc xử lý khiếu nại, tố cáo các vi phạm pháp luật trong quá trình thực hiện còn
chậm, nhiều trường hợp chưa bảo đảm sự công bằng, nghiêm minh đã ảnh hưởng
xấu đến thực hiện chính sách công. Công tác tổng kết thực tiễn, rút kinh nghiệm
cho hoạch định và thực thi chính sách chưa được coi trọng, chưa làm thường
xuyên, kịp thời. Điều này làm cho việc đánh giá kết quả thực hiện các chính sách
gặp khó khăn do thiếu các thông tin đáng tin cậy về quá trình thực hiện và những
nội dung, biện pháp cần bổ sung, hoàn thiện.
4. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả hoạch định và thực thi chính sách
công ở Việt Nam
Để khắc phục những hạn chế, bất cập, nâng cao chất lượng, hiệu quả xây
dựng và thực thi chính sách công ở nước ta hiện nay, cần quan tâm một số vấn đề
sau:
Một là, tiếp tục xây dựng và hoàn thiện thể chế hoạch định chính sách công
Tại Đại hội XII, Đảng ta chủ trương: “Tiếp tục đổi mới tư duy, hoàn thiện
các cơ chế, chính sách, tháo gỡ kịp thời những khó khăn, vướng mắc nhằm khơi
dậy mọi tiềm năng và nguồn lực của đất nước, tạo động lực mới cho sự phát triển
nhanh và bền vững”(3).
Một trong những nhược điểm lớn nhất của quy trình lập pháp và hoạch định
chính sách công ở nước ta thời gian qua là đồng nhất quy trình hoạch định và xây
dựng chính sách công với quy trình làm luật; lồng ghép việc xây dựng chính sách
và xây dựng luật. Điều đó dẫn đến tình trạng có khi luật được ban hành nhưng
chưa thể đi vào cuộc sống hoặc không phù hợp với cuộc sống do việc nghiên cứu,
hoạch định chính sách còn yếu, không tương thích với luật. Để khắc phục những
hạn chế, bất cập trên, ngày 22-6-2015, Quốc hội đã ban hành Luật Ban hành văn
bản quy phạm pháp luật chung cho các cơ quan nhà nước thay thế hai Luật Ban
hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2004 và 2008. Luật năm 2015 đã chú trọng

13
hơn đến quy trình phân tích, hoạch định chính sách bằng việc bổ sung những quy
định cụ thể về trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân đề xuất chính sách và đề
cao sự tham gia rộng rãi của các tầng lớp nhân dân. Điểm nhấn quan trọng là Luật
mới dành Điều 35 để quy định về trách nhiệm, nội dung đánh giá tác động của
chính sách trong đề nghị xây dựng luật, pháp lệnh. Vấn đề quan trọng hiện nay là
triển khai các văn bản pháp luật nói trên vào quá trình hoạch định và tổ chức thực
thi chính sách công của chính phủ, các bộ, ngành và địa phương, kịp thời loại bỏ
những cách làm và những văn bản không phù hợp, trái với quy định của luật.
Hai là, đổi mới quy trình hoạch định chính sách công theo hướng dân chủ,
công khai, minh bạch; thể chế hóa sự tham gia của các chủ thể trong xây dựng
chính sách; thiết lập quy trình xây dựng chính sách công với sự tham gia của tất
cả các bên có liên quan: chính phủ, doanh nghiệp, các tổ chức chính trị - xã hội,
người dân, các nhà khoa học, chuyên gia...
Nói cách khác, việc xây dựng chính sách công từ chỗ chỉ là chức năng đặc
quyền của các cơ quan nhà nước trở thành mối quan tâm và trách nhiệm của toàn
xã hội. Việt Nam cần có một đội ngũ những người hoạch định chính sách chuyên
nghiệp, với sự tham gia của nhiều thành phần xã hội khác nhau. Cụ thể là:
- Tăng cường sự tham gia của người dân vào quá trình hoạch định chính
sách,coi đây là một yêu cầu bắt buộc trong quá trình hoạch định chính sách, tạo
điều kiện để mọi người dân nắm được thông tin và đóng góp vào các dự thảo chính
sách liên quan trực tiếp đến mình, tránh để tình trạng “chính sách trên trời được
ban hành cho dân dưới đất” vì không đủ điều kiện để thực hiện.
- Tăng cường đối thoại chính sách giữa Chính phủ và các nhóm lợi ích, đặc
biệt là các doanh nghiệp. Tiếp tục tổ chức và thực hiện diễn đàn đối thoại giữa
doanh nghiệp với Thủ tướng để giám đốc các doanh nghiệp có thể trao đổi trực
tiếp với Thủ tướng về những vấn đề của doanh nghiệp. Thông qua đối thoại, Chính
phủ hiểu các doanh nghiệp muốn gì và các doanh nghiệp biết Chính phủ định làm
gì.
- Thành lập nhóm các chuyên gia giỏi, hình thành những “Think tanks” giúp
việc cho Thủ tướng Chính phủ trong việc nghiên cứu và thiết kế chính sách, được
lựa chọn từ các công chức cao cấp, có năng lực, trình độ từ các bộ, ngành, kể cả
các chuyên gia là người Việt Nam đang sinh sống ở nước ngoài. Nhóm chuyên gia,
những “Think tanks” này thường xuyên có sự tương tác hai chiều với Thủ tướng và
14
các bộ, ngành thực thi chính sách. Ngày 28-7-2017, Thủ tướng Chính phủ đã ký
Quyết định 1120/QĐ-TTg thành lập Tổ Tư vấn kinh tế của Thủ tướng để tư vấn
cho Thủ tướng Chính phủ các vấn đề phát triển kinh tế gồm 15 thành viên là những
chuyên gia kinh tế hàng đầu trong và ngoài nước.
- Thiết lập cơ chế cạnh tranh trong ý tưởng chính sách và các báo cáo chính
sách trên cơ sở phát huy vai trò của các trường đại học, các cơ quan nghiên cứu
độc lậpvà các tổ chức nghiên cứu chính sách của quốc gia.
Ở Việt Nam hiện nay còn thiếu vắng các tổ chức nghiên cứu và phản biện
chính sách độc lập mà hoạt động của các tổ chức này sẽ giúp cho Chính phủ nhìn
nhận chính sách từ nhiều góc độ, bảo đảm khách quan hơn. Vì vậy, cần sớm tổ
chức lại hệ thống các cơ quan nghiên cứu chính sách, tiếp tục đổi mới và hoàn
thiện thể chế để tạo môi trường cho sự phát triển các loại hình tổ chức nghiên cứu
chính sách, trong đó có các cơ quan nghiên cứu độc lập, các tổ chức nghiên cứu
chính sách hoạt động không dựa vào ngân sách nhà nước.
Các trường đại học, viện nghiên cứu cần được tổ chức lại theo hướng loại bỏ
những cấu trúc tương tự như các cơ quan hành chính, phụ thuộc vào cơ chế xin
cho, bao cấp. Việc đào tạo và nghiên cứu phải gắn với thực tiễn, góp phần phát
hiện, đề xuất những ý tưởng chính sách, đáp ứng những yêu cầu của cuộc sống đặt
ra. Ngoài ra, Nhà nước cần tạo điều kiện vật chất, môi trường và không gian
nghiên cứu học thuật tốt ở các trường đại học, viện nghiên cứu về chính sách, góp
phần sớm hình thành hệ thống lý luận nghiên cứu chính sách cơ bản, đồng bộ ở
Việt Nam. Khuyến khích các nghiên cứu chính sách dựa trên bằng chứng nhằm
nâng cao tính thuyết phục cho hoạch định chính sách. Trên cơ sở tiếp cận đa
ngành, liên ngành, cần khuyến khích sự tham gia nghiên cứu phân tích chính sách
từ các phân ngành của khoa học xã hội như kinh tế học, tâm lý học, xã hội học để
cung cấp những bằng chứng số liệu định lượng về kinh tế, xã hội được phân tích
một cách khoa học.
- Cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa Chính phủ, các bộ, ngành, các cơ quan
hữu quan trong hoạch định chính sách, tránh chồng chéo, mâu thuẫn nhau.
Hiện nay, có tình trạng mỗi bộ, ngành đều có những đề xuất chính sách
nhưng lại không xác định được lĩnh vực ưu tiên, thiếu kế hoạch hành động cụ thể.
Do đó, để xây dựng chính sách một cách toàn diện nhất, cần xây dựng các quy
định phối hợp và phân công trách nhiệm rõ ràng giữa các bộ, ngành, đồng thời xác
15
định trách nhiệm giữa các cơ quan một cách cụ thể hơn. Cần có sự hợp tác chặt chẽ
giữa Chính phủ, các bộ liên quan, hiệp hội doanh nghiệp, các nhà khoa học, các
chuyên gia nước ngoài trong quá trình hoạch định, điều chỉnh chính sách.
Ba là,các nhà tổ chức thực thi chính sách, các lực lượng tham gia và các đối
tượng chịu ảnh hưởng của chính sách cần nhận thức đầy đủ, đúng đắn, hiểu rõ
mục tiêu, ý nghĩa, nội dung của chính sách và các giải pháp thực hiện, từ đó tạo ra
sự đồng thuận trong xã hội, tạo nên sức mạnh tổng hợp tổ chức thực hiện có hiệu
quả chính sách.
Đẩy mạnh tuyên truyền, phổ biến chính sách đến các tầng lớp nhân dân;
thực hiện công khai chính sách để mọi người biết, bàn, thực hiện và kiểm tra chính
sách. Tùy từng đối tượng mà tổ chức các hình thức tuyên truyền, phổ biến phù hợp
như: mở các lớp tập huấn, tuyên truyền, bàn các giải pháp và phân công thực hiện
chính sách; gửi các tài liệu hướng dẫn chính sách cho các tổ chức, doanh nghiệp
liên quan.
Sau khi chính sách ban hành, cần phải cụ thể hóa bằng các chương trình
hành động, các kế hoạch thực hiện; ban hành các văn bản hướng dẫn thực hiện
chính sách, các biểu mẫu báo cáo (nếu có); xây dựng các đề án, dự án.
Chuẩn bị nguồn lực cho việc thực hiện chính sách: huy động các nguồn lực
(nhân lực, vật lực, kinh phí...) từ Trung ương, các địa phương, các tổ chức quốc tế.
Có thể khai thác các nguồn lực trong nhân dân nhằm giảm bớt chi phí từ ngân sách
nhà nước, khai thác sự tài trợ của các tổ chức quốc tế và các chính phủ. Nguồn
kinh phí cần sử dụng đúng mục đích và có hiệu quả. Cơ quan nhà nước có thẩm
quyền giám sát, kiểm tra chặt chẽ việc sử dụng kinh phí và đánh giá hiệu quả.
Tổ chức thực hiện một cách khoa học, hợp lý, phân công trách nhiệm cụ thể
cho các tổ chức, cá nhân liên quan; xác định người chịu trách nhiệm chính và
những người tham gia phối hợp trong quá trình tổ chức thực hiện chính sách.
Trong phân công nhiệm vụ, cần chú ý đến khả năng, tính chất CM và thế mạnh của
từng người; hạn chế tình trạng chồng chéo nhiệm vụ và không rõ trách nhiệm.
Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát về tiến độ, hiệu quả thực
hiện chính sách công. Mục đích của hoạt động này là phát hiện, phòng ngừa và xử
lý vi phạm (nếu có); phát hiện sơ hở trong cơ chế quản lý, trong chính sách và
pháp luật để kiến nghị với cơ quan có thẩm quyền có biện pháp khắc phục. Đồng

16
thời, thông qua đó để phát huy nhân tố tích cực góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu
quả quản lý nhà nước, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của
cá nhân, cơ quan, tổ chức liên quan.
Bốn là, đề cao vai trò của hoạt động phân tích, đánh giá chính sách công
như là một điều kiện tiên quyết để từng bước cải thiện chất lượng của quy trình
hoạch định và thực thi chính sách.
Việt Nam cần đưa việc đánh giá chính sách thành một nội dung bắt buộc đối
với một số chính sách quan trọng của Nhà nước. Đặc biệt, cần tăng cường thực
hiện một cách thực chất quy trình đánh giá dự báo tác động của các văn bản luật và
chính sách, đánh giá tác động xã hội, môi trường, sinh kế đối với các quyết định
đầu tư công cũng như giám sát thực thi chính sách công.
Xây dựng các tiêu chí đánh giá chính sách công một cách đầy đủ và đúng
đắn, dựa trên các tiêu chí như: tính phù hợp, tính hiệu lực của chính sách, tính hiệu
quả, tính công bằng của chính sách, tác động của chính sách, mức độ giải quyết
vấn đề của chính sách.
Quan tâm đến dư luận xã hội, ý kiến, nguyện vọng của nhân dân để thấy
được các bất cập trong hoạch định và quá trình thực thi chính sách; có cơ chế ràng
buộc các cơ quan nhà nước trong việc phản hồi ý kiến, tiếp nhận các kết quả
nghiên cứu, phân tích, đánh giá chính sách công.
Tổ chức các nhóm đánh giá độc lập, gồm các thành viên hoạt động với tư
cách chuyên gia đánh giá, có thể từ các cơ quan nhà nước hoặc ngoài nhà nước,
làm việc một cách độc lập, khách quan theo mục tiêu và nhiệm vụ cụ thể của
nhóm. Dành nguồn kinh phí thỏa đáng cho việc đánh giá chính sách; tăng cường
đào tạo chuyên gia đánh giá chính sách công; coi trọng hoạt động tổng kết thực
tiễn về hoạch định, thực thi chính sách công.
PHẦN 2
KẾ HOẠCH HOẠT ĐỘNG CỦA BẢN THÂN SAU KHÓA BỒI DƯỠNG
2.1. Yêu cầu của hoạt động nghề nghiệp đối với bản thân
+ Giới thiệu sơ lược về bản thân:
Tôi tên là .......... sinh ngày .............. hiện đang là giáo viên trường Tiểu
học ...................... Nhiệm vụ chính của tôi là giảng dạy bậc tiểu học và làm công
tác chủ nhiệm lớp.
+ Các yêu cầu của hoạt động nghề nghiệp đối với bản thân.
17
Thực hiện công tác giảng dạy theo phân công.

18
Thực hiện công tác chủ nhiệm lớp.
Soan giảng, lên lịch báo giảng, chuẩn bị đồ dùng dạy học đầy đủ.
Thực hiện kiển tra đánh giá học sinh.
Chuẩn bị đầy đủ các đầu sổ theo quy định….
2.2. Đánh giá hiệu quả của hoạt động nghề nghiệp của cá nhân trước
khi tham gia khóa bồi dưỡng
* Ưu điểm của bản thân trong hoạt động nghề nghiệp.
- Phẩm chất tốt, đáp ứng đầy đủ yêu cầu theo chuẩn nghề nghiệp giáo viên tiểu học.
- Năng lực chuyên môn tốt,vững vàng tay nghề, tích cực nhiệt tình trong mọi công
việc.
* Một số tồn tại trong hoạt động nghề nghiệp của bản thân
- Kĩ năng sử dụng ngoại ngữ chưa thành thạo.
- Khả năng sử dụng công nghệ thông tin chưa linh hoạt.
2.3. Kế hoạch hoạt động cá nhân sau khi tham gia khóa bồi dưỡng nhằm
đáp ứng yêu cầu của tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp.
Tích cực vận dụng một cách thường xuyên những kiến thức thu lượm được
vào hoạt động công tác của bản thân.
Thường xuyên chia sẻ với đồng nghiệp trong quá trình công tác.

D. BÀI HỌC KINH NGHIỆM

Qua quá trình được học tập và nghiên cứu cũng như sự hướng dẫn, truyền đạt
của các thầy, cô giáo trường Đại học Vinh, tôi sẽ áp dụng thực tế và đánh giá được
việc vận dụng những kiến thức về giáo dục học và tâm sinh lý lứa tuổi vào thực
tiễn giáo dục học sinh tiểu học của bản thân và đồng nghiệp. Nắm vững những
kiến thức lí luận từ các chuyên đề bồi dưỡng có liên quan đến hoạt động nghề
nghiệp, truyền tải những nội dung mình nắm bắt được đến những giáo viên chưa
được tham gia lớp học. Tích cực vận dụng một cách thường xuyên những kiến thức
thu lượm được vào hoạt động công tác của bản thân. Thường xuyên chia sẻ kinh
nghiệm với đồng nghiệp.
PHẦN 3
KIẾN NGHỊ VÀ ĐỀ XUẤT
Nội dung kiến nghị:
1. Nội dung của các chuyên đề
Những nội dung phù hợp cần tiếp tục trang bị cho người học. vì có nội dung
phù hợp với xu thế hiện nay trong đổi mới giáo dục Việt Nam, phù hợp với nhu
cầu trong công việc của giáo viên.
2. Hình thức tổ chức lớp học:
+ Việc bố trí thứ tự của các chuyên đề rất hợp lý, áp dụng được các phương
pháp dạy học mới giúp học viên có điều kiện để vận dụng, thực hành những kỹ
năng mới, kích thức khả năng tư duy và tự giác tích cực của người học. Hình thức
tổ chức dạy học phù hợp, học liệu đầy đủ và đảm bảo

3. Đề xuất.

Sở Giáo dục và Đào tạo, Phòng giáo dục, lãnh đạo nhà trường tiếp tục tạo
điều kiện thuận lợi để giáo viên được tham gia các lớp tập huấn, bồi dưỡng thường
xuyên về chuyên môn, nghiệp vụ. Tăng cường đầu tư, trang bị tốt hơn về cơ sở vật
chất, phương tiện, thiết bị dạy học hiện đại tạo điều kiện thuận lợi cho việc sử dụng
các phương pháp, kĩ thuật dạy học tích cực.

Yên Bái ngày ... tháng ... năm 202...

Người viết:

MỤC LỤC
PHẦN I: MỞ ĐẦU.............................................................................................1
1. Lí do chọn đề tài.......................................................................................1
2. Mục đích nghiên cứu..............................................................................1
4. Khách thể và đối tượng nghiên cứu........................................................2
5. Phương pháp nghiên cứu.........................................................................2
PHẦN II: NỘI DUNG........................................................................................2
1. Giới thiệu về đơn vị công tác..................................................................2
2. Cơ sở lí luận vấn đề cần nghiên cứu.........................................................3
2.1. Chính sách công ......................................................................................3
2.1.1.Khái niệm chính sách công.................................................................3
2.1.2. Hình thức biểu hiện ...........................................................................4
2.1.3. Vai trò của chính sách công................................................................5
2.2. Hoạch định chính sách công.………………………………………...5
2.2.1. Khái niệm........................................................................................5
2.2.2 Quy trình hoạch định chính sách.......................................................7
2.3. Thực thi chính sách công........................................................................7
2.3.1. Khái niệm ..........................................................................................8
2.3.1.Các bước tổ chức thực hiện chính sách công ....................................8
3. Thuận lợi, khó khăn trong quá trình hoạch định và thực thi chính sách
công ...............................................................................................................9
4. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả hoạch định và thực thi chính sách
Công .............................................................................................................13
PHẦN 2: KẾ HOẠCH HOẠT ĐỘNG CỦA BẢN THÂN SAU KHÓA
BỒI DƯỠNG ......................................................................................................18
PHẦN III: KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ............................................

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Thông tư liên tịch số 22/2015/TTLT-BGDĐT-BNV ngày 16/9/ 2015 quy


định mã số, tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp giáo viên trung học cơ sở công lập.
2. Thông tư số: 23/2015/TTLT-BGDĐT-BNV thông tư liên tịch quy định mã
số, tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp giáo viên trung học phổ thông công lập.

3. Thông tư 39/2013/TT-BGDĐT ngày 04/12/2013 của Bộ trưởng Bộ Giáo


dục và Đào tạo về việc hướng dẫn thanh tra chuyên ngành trong lĩnh vực giáo dục.

4. Tài liệu” Bồi dưỡng theo tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp giáo viên tiểu
học hạng III.

You might also like