You are on page 1of 3

January 22 Ngày 22 tháng 01

Alexander Men Alexander Men

Orthodox Priest and Martyr (1935–1990) Linh mục Chính Thống, tử đạo (1935 – 1990)

“I have always wanted to be a Christian living not by “Tôi luôn muốn trở thành một Kitô hữu sống
candlelight, but in the direct light of the sun.” không phải dưới ánh nến, nhưng dưới ánh sáng
trực tiếp của mặt trời.”
In the last years of the Soviet Union, visitors were often
struck by the evidence of widescale spiritual revival. Vào những năm cuối của liên bang Xô-viết, nhiều
After so many decades of enforced atheist propaganda, du khách đã được gân ấn tượng bởi dấu vết của
it was remarkable to find young people crowding the việc phục hồi tinh thần. Sau rất nhiều thập kỷ
ancient churches and clamoring for religious instruction. tuyên truyền vô thần, thật đáng kinh ngạc khi thấy
This was on the one hand a reflection of just how deeply nhiều người trẻ trong các nhà thờ cổ kính và la
rooted was the Orthodox faith in the hearts of the hét đòi được hướng dẫn tôn giáo. Điều này một
Russian people. But on the other hand it reflected the mặt phản ánh đức tin Chính thống giáo đã ăn sâu
serious spiritual void which many people had come to vào trong tâm khảm của người dân Nga. Nhưng
experience, a sign of the moral, as well as practical, mặt khác, nó phản ánh sự trống rỗng tinh thần
failure of the communist experiment. nghiêm trọng mà nhiều người đã trải qua, một dấu
hiệu cho thấy sự thất bại về mặt đạo đức cũng như
thực tế của cuộc thử nghiệm cộng sản.

One of the most dynamic figures in the modern revival Một trong những nhân vật năng động nhất trong
of Christianity in Russia was the Orthodox priest cuộc phục hưng Kitô giáo hiện đại ở Nga là linh
Alexander Men. A scholar, pastor, and courageous mục Chính thống giáo Alexander Men. Là một
witness, Men was one of a number of priests who nhà tri thức, mục tử và chứng nhân dũng cảm,
preached the gospel without compromise. Through his Men là một trong số nhiều linh mục rao Tin Mừng
writings, preaching, and spiritual direction he had mà không có sự thỏa hiệp. Thông qua các bài viết,
become, by the time of his death, a symbol of the bài giảng và linh hướng của mình, cho đến khi qua
resurgence of spiritual values in the era of glasnost. đời, ông đã trở thành biểu tượng cho sự trỗi dậy
của các giá trị tinh thần trong kỷ nguyên glasnost.

Men sinh ngày 22 tháng 01 năm 1935, ngay giữa


Men was born on January 22, 1935, in the heart of the thời kỳ Stalin. Ông được thụ phong linh mục vào
Stalinist era. He was ordained a priest in 1960. Most of năm 1960. Phần lớn hoạt động của ông dành cho
his career was spent in relatively obscure pastoral những công việc mục vụ tương đối ít người biết
assignments. Though subject, like all priests, to the đến. Mặc dù, giống như tất cả các linh mục, phải
threat of harassment and persecution, he was able to đối mặt với mối đe dọa quấy rối và đàn áp, ông
carve out his small zone of operation in several churches vẫn có thể thiết lập khu vực hoạt động nhỏ của
in the area of Moscow. Through the 1970s he worked mình tại một số nhà thờ ở khu vực Mát-xcơ-va.
quietly to establish small Christian communities which Trong suốt những năm 1970, ông đã âm thầm làm
emphasized prayer and Bible study. việc để thành lập các cộng đoàn Kitô giáo nhỏ
nhấn mạnh đến việc cầu nguyện và học hỏi Kinh
thánh.
Gradually, however, Men began to assume an Tuy nhiên, dần dần, Men bắt đầu đảm nhận một
increasingly visible role. He was known as the “priest of vai trò ngày càng rõ ràng. Ông được mệnh danh là
the intellectuals,” a friend of dissidents like Alexander “linh mục của giới trí thức”, bạn của những người
Solzhenitsyn. But he was also a priest who attracted bất đồng chính kiến như Alexander Solzhenitsyn.
religious seekers and who was responsible for drawing a Nhưng ông cũng là một linh mục thu hút những
widening circle of converts into communion with the người tìm kiếm tôn giáo và là người chịu trách
church. In the early post-Brezhnev years, when it nhiệm cho việc tạo ra một phạm vi mở rộng đối
seemed the government was determined to cling more với những người trở lại đạo được hiệp thông với
tightly than ever to the “ideals” of communism, Men Giáo hội. Trong những năm đầu hậu Brezhnev,
and other church leaders were subjected to increasing khi dường như chính phủ đã quyết tâm bám chặt
harassment. He was regularly picked up by the KGB for hơn bao giờ hết vào những “lý tưởng” của chủ
questioning. When friends from abroad asked if it nghĩa cộng sản, Men và các lãnh đạo giáo hội
wasn’t wise for him to try to leave the country, he khác ngày càng phải chịu sự quấy rầy. Ông
couched his response in a thinly veiled code: My illness, thường xuyên bị KGB (Uỷ ban an ninh quốc gia)
which is progressing in a menacing manner, is only part bắt để tra hỏi. Khi bạn bè ở nước ngoài hỏi liệu
of the general epidemic. No remedy exists. To move to việc rời khỏi đất nước có phải là điều khôn ngoan
another less infested region is impossible, and not không, ông đã diễn tả câu trả lời của mình trong
something I particularly want to do. All that can be done một mật mã được che đậy mỏng manh: Căn bệnh
is to believe, to hope, and to continue to live. của tôi đang tiến triển một cách đáng sợ, chỉ là
một phần của bệnh dịch nói chung. Không có
phương thuốc nào tồn tại. Di chuyển đến một khu
vực ít bị lây nhiễm hơn là điều không thể và đó
không phải là điều tôi đặc biệt muốn làm. Tất cả
những gì có thể làm là tin tưởng, hy vọng và tiếp
tục sống.

But then came the regime of Mikhail Gorbachev, who Nhưng sau đó đến chế độ của Mikhail Gorbachev,
set in motion a process of reform that quickly assumed người đã khởi động một quá trình cải cách nhanh
its own momentum. The year 1988 marked the chóng có được động lực riêng. Năm 1988 đánh
celebration of the first Christian millennium in Russia. dấu việc kỷ niệm thiên niên kỷ Kitô giáo đầu tiên
The government authorized the official observation of ở Nga. Chính phủ cho phép quan sát chính thức sự
this occasion, one of the many signs of change. For the kiện này, một trong nhiều dấu hiệu của sự thay
first time Men was able openly to publish his spiritual đổi. Lần đầu tiên Men có thể công khai xuất bản
writings and to offer public lectures on Christianity and các tác phẩm tâm linh của mình và đưa ra các bài
the Bible. Despite the public thaw, however, he warned giảng công khai về Kitô giáo và Kinh thánh. Tuy
of the challenges to come: “The most difficult moment nhiên, chấp nhận sự lành lùng của công chúng,
for the church will come when everything is permitted ông đã cảnh báo về những thách thức sắp đến:
us. Then we will be ashamed because we are not ready “Thời điểm khó khăn nhất đối với giáo hội sẽ đến
to bear witness.” khi mọi thứ đều được phép. Khi đó chúng ta sẽ
xấu hổ vì chúng ta chưa sẵn sàng làm chứng”.
For the time being he worked at a frantic pace, as if
aware that his time was limited. He said, “At present I Lúc này ông làm việc với tốc độ điên cuồng, như
am like the sower in the parable. I have been given a thể biết rằng thời gian của mình có hạn. Ông nói:
unique chance to spread the seed.” His work, however, “Hiện tại tôi giống như người gieo giống trong dụ
attracted resentment on the part of the same people who ngôn. Tôi đã được ban cho một cơ hội duy nhất để
disapproved of the pace of change, who felt that gieo hạt giống.” Tuy nhiên, công việc của ông đã
Gorbachev was betraying the ideals of the Revolution thu hút sự phẫn nộ từ phía những người tương tự.
by granting liberty to religious zealots like Men. người không tán thành tốc độ thay đổi, người cảm
thấy rằng Gorbachev đang phản bội lý tưởng của
Cách mạng bằng cách trao quyền tự do cho những
người nhiệt thành tôn giáo như Men.
On September 9, 1990, unknown assailants accosted
Father Men on his way to church. They struck him on Vào ngày 9 tháng 9 năm 1990, những kẻ tấn công
the head with an axe, killing him instantly. The identity không rõ danh tính đã tấn công Cha Men trên
and motives of the killers were never learned. This was đường ngài đến nhà thờ. Họ dùng rìu đánh vào
a fate that Men had anticipated. He had accepted it with đầu ngài, giết chết ngài ngay lập tức. Danh tính và
confidence that those who might take his life were động cơ của những kẻ giết người không bao giờ
ultimately powerless to suppress the gospel. As he wrote được biết. Đây là số phận mà Men đã lường trước.
to a friend, shortly before his death: “Do not be worried Ngài đã chấp nhận điều đó với sự tin tưởng rằng
about me. . . . I am only an instrument that God is using những kẻ có thể lấy đi mạng sống của ngài cuối
for the moment. Afterwards, things will be as God cùng đều bất lực trong việc đàn áp Tin Mừng .
wants them.” Như ngài đã viết cho một người bạn ngay trước
khi qua đời: “Đừng lo lắng cho tôi. . . . Tôi chỉ là
See: Yves Hamant, Alexander Men: A Witness for một công cụ mà Chúa đang sử dụng vào lúc này.
Contemporary Russia (Torrance, Calif.: Oakwood Sau này mọi chuyện sẽ như ý Chúa muốn.”
Publications, 1995).

You might also like