Professional Documents
Culture Documents
Tạp chí Digest về Vật liệu nano và Cấu trúc sinh học Tập. 11, số 1, tháng 1 - tháng 3 năm 2016, tr. 7 - 14
ẢNH HƯỞNG CỦA LỚP PHỦ POLYETHYLENE GLYCOL (PEG) ĐẾN CÁC TÍNH CHẤT CẤU TRÚC NAM CHÂM VÀ ĐỘ
ỔN ĐỊNH DẠNG DẠNG CỦA
HẠT NANO Co0.8Mg0.2Fe2O4 CHO CÁC ỨNG DỤNG Y SINH TIỀM NĂNG
cKhoa Khoa học Sinh học, Đại học Covenant, PMB 1023, Ota, Nigeria
Ảnh hưởng của lớp phủ polyethylen glycol (PEG) đến đặc tính cấu trúc từ và độ ổn định keo của hạt
nano từ tính Co0,8Mg0,2Fe2O4 (MNP) đã được nghiên cứu với các ứng dụng y sinh tiềm năng của chúng
bằng phương pháp nhiễu xạ tia X (XRD), Phát xạ trường Kính hiển vi điện tử quét (FESEM), từ kế
mẫu rung (VSM) và đo điện thế zeta. Các MNP Co0.8Mg0.2Fe2 được tổng hợp bằng phương pháp hóa học
gồm hai bước bao gồm quá trình tổng hợp đốt cháy dung dịch, sau đó là chức năng hóa bằng PEG.
Các mẫu XRD chỉ ra rằng cấu trúc tinh thể một pha lập phương được giữ lại sau khi phủ PEG. Ngoài
ra, sau khi phủ PEG, kích thước tinh thể (theo công thức Scherrer) tăng từ 50 lên 56 nm. Các phép
đo từ tính của cả hạt được phủ và không được phủ cho thấy bản chất sắt từ ở nhiệt độ phòng với
mẫu được phủ PEG ghi lại mô men từ cao hơn. Các hạt được phủ PEG thu được tạo thành huyền phù ổn
định hơn trong môi trường nước và cũng có độ ổn định đáng kể trong dung dịch đệm phốt phát (PBS)
ở pH sinh lý. Độ từ hóa và độ ổn định keo cao hơn được ghi nhận với lớp phủ PEG là một thông số
quan trọng trong các ứng dụng y sinh.
Từ khóa: Hạt nano từ tính; Tổng hợp đốt cháy; tăng thân nhiệt từ tính;
Độ ổn định keo; CỌC
1. Giới thiệu
Công nghệ nano là một lĩnh vực tiên phong trong khoa học, kỹ thuật và sản xuất đã mang
lại những cơ hội mới cho việc cải thiện việc điều trị y tế. Ứng dụng công nghệ nano vào y học,
được gọi là y học nano, liên quan đến việc sử dụng các vật liệu được thiết kế chính xác ở quy
mô phân tử để phát triển các thiết bị chẩn đoán và điều trị mới thường bao gồm 1–
500 nm [1-3].
Các hạt nano từ tính (MNP) là một trong những phân nhóm quan trọng của vật liệu nano được áp
dụng trong chẩn đoán và điều trị ung thư [4]. Trong vài năm qua, MNP chủ yếu được sử dụng làm
nguồn nhiệt trong điều trị khối u bằng phương pháp tăng thân nhiệt và làm vật liệu nano để phân
phối thuốc có kiểm soát [5,6].
Các hạt nano Ferrite rất phù hợp cho các ứng dụng y sinh vì kích thước của chúng có thể
được điều khiển và bề mặt của chúng cũng có thể được chức năng hóa bằng các phân tử thích hợp
để khiến chúng có tính chọn lọc cao đối với mục tiêu của chúng [7,8]. Việc sử dụng các hạt nano
oxit sắt (magnetite) như Fe3O4 và các oxit sắt thay thế (MFe2O4 trong đó M = Co, Mn, Zn, Mg,
v.v.) cho các ứng dụng y sinh đã được nghiên cứu rộng rãi [9]. Các hạt nano oxit sắt siêu thuận từ có
số 8
hấp dẫn nhất vì tính tương thích sinh học của chúng, khả năng mất mát cụ thể được tăng cường và chức
năng dễ dàng. Tuy nhiên, người ta đã phát hiện ra rằng trong hầu hết các thử nghiệm lâm sàng gần đây về
tăng thân nhiệt cục bộ, chẳng hạn, cần phải tiêm một lượng lớn (mức miligam) các hạt nano này vào khối
u do hiệu suất chuyển đổi năng lượng thấp của các hạt siêu nhỏ này. MNP [10]. Do đó, việc lựa chọn các
vật liệu có lợi nhất cho điều trị tăng thân nhiệt lâm sàng cũng như các ứng dụng y sinh khác vẫn còn là
vấn đề tranh luận [11]. Một chiến lược được sử dụng trong thiết kế lõi từ cho các ứng dụng y sinh là
tổng hợp các ferit hỗn hợp, trong đó các ferit đơn giản với một loại ion từ (trừ sắt) được pha tạp với
các loại ion khác.
Điều này được thực hiện để tận dụng các tính năng nổi bật khác nhau của các ion khác nhau [12]. Ở đây,
20% ion magie được sử dụng để pha tạp coban ferit nhằm khai thác tiềm năng của nó trong việc tăng nhiệt
độ từ trường. Các hạt nano cobalt ferrite (CoFe2O4) có độ từ hóa bão hòa cao và tính dị hướng từ giúp
cải thiện tốc độ truyền nhiệt. Trong các ứng dụng y sinh, đây là những đặc tính mong muốn khi sử dụng
MNP làm chất trung gian gia nhiệt trong điều trị tăng thân nhiệt và làm chất mang thuốc vì chúng có thể
dễ dàng được điều khiển bằng từ trường ứng dụng. Và các hạt nano MgFe2O4 đã được chứng minh là độc hại
đối với tế bào ung thư [13].
Các hạt nano có bề mặt kỵ nước với tỷ lệ bề mặt trên thể tích lớn do đó các hạt bị kết tụ và
tạo thành các cụm có thể dễ dàng hấp thụ protein huyết tương. Vì vậy, để ngăn chặn quá trình opsonin hóa
và tránh sự nhận biết của đại thực bào dẫn đến sự thanh thải MNP, cần phải có lớp phủ bề mặt của MNP.
Lớp phủ có thể bao gồm các phối tử hữu cơ chuỗi dài hoặc polyme vô cơ/hữu cơ, trong đó các phối tử hoặc
polyme này có thể được đưa vào trong quá trình (lớp phủ tại chỗ) hoặc sau quá trình tổng hợp (lớp phủ
sau tổng hợp). MNP được phủ PEG cho thấy độ ổn định và khả năng hòa tan tuyệt vời trong môi trường phân
tán nước và trong môi trường sinh lý [14]. Lớp phủ PEG đã được sử dụng để làm giảm quá trình thực bào
của các hạt nano bởi hệ thống miễn dịch, điều này có thể kéo dài thời gian lưu thông của hạt nano và sự
tích tụ sau đó trong mô mục tiêu [15]. Vỏ PEG dường như không ảnh hưởng đến các đặc tính nhiệt và có
thể làm cho chất lỏng từ tính hữu ích cho điều trị tăng thân nhiệt [16].
Tất cả các ứng dụng y sinh của MNP đều yêu cầu các hạt nano có giá trị từ hóa cao, với kích
thước nhỏ hơn 100 nm và phân bố kích thước hạt hẹp [17]
đều rất nhạy cảm với các phương pháp tổng hợp. Có nhiều phương pháp tổng hợp ferrite khác nhau bao gồm
phương pháp đồng kết tủa hóa học và phương pháp đốt cháy. Mặc dù phương pháp đồng kết tủa hóa học phù
hợp để sản xuất hàng loạt MNP nhưng nó đòi hỏi phải điều chỉnh độ pH cẩn thận. Phương pháp đốt được
biết đến vì hiệu quả về chi phí, thời gian phản ứng thấp, sản xuất hàng loạt lớn và tính đồng nhất giữa
các sản phẩm [18]. Ngoài ra, không cần xử lý nhiệt thêm đối với các mẫu được chuẩn bị bằng phương pháp
đốt [19]. Vì vậy, nghiên cứu hiện nay là về quá trình tổng hợp đốt cháy dung dịch tinh thể nano
Co0.8Mg0.2Fe2O4 sử dụng tiền chất hỗn hợp glycine-nitrat sau đó được ổn định bằng PEG. Do lớp phủ polyme
trên bề mặt MNP có thể làm thay đổi một số tính chất quan trọng của hạt nên ảnh hưởng của lớp phủ PEG
đến các đặc tính cấu trúc, hình thái và từ tính sẽ được thảo luận chi tiết. Độ ổn định keo của
Co0.8Mg0.2Fe2O4MNP trần và được phủ PEG trong nước đã được kiểm tra. Độ ổn định keo của Co0.8Mg0.2Fe2O4MNP
được phủ PEG trong dung dịch đệm phốt phát (PBS) ở pH 7,4 (pH sinh lý) và pH 5,0 (pH nội sinh của tế
bào ung thư) cũng đã được nghiên cứu để làm nổi bật tính ổn định của nó trong các môi trường sinh lý
khác nhau.
2. Thực nghiệm
Phân tích cấp Co(NO3)2.6H2O (độ tinh khiết 99% của Sigma-Aldrich), Mg(NO3).6H2O (độ tinh khiết
99% của Alfar Aesar), Fe(NO3)3.9H2O (độ tinh khiết 99% của Sigma Aldrich) được lấy làm chất oxy hóa,
trong khi glycine (G, C2H5NO2) thu được từ SD Fine Chem. Ltd., Mumbai, được sử dụng làm nhiên liệu để
thúc đẩy quá trình đốt cháy. Polyethylene glycol (PEG-6000, MW: 5000-7000) thu được từ Spectrochem, Ấn
Độ được sử dụng để phủ bề mặt các hạt nano. Nước cất hai lần đã được sử dụng trong suốt các thí nghiệm.
Tất cả các thuốc thử đã được sử dụng mà không cần tinh chế thêm.
Machine Translated by Google
2.3 Tổng hợp các MNP Co0.8Mg0.2Fe2O4 được phủ PEG Các
MNP được phủ PEG theo phương pháp [21] nhưng có một số sửa đổi.
Dung dịch PEG nước (2% w/v) đã được chuẩn bị. Hỗn hợp gồm 100 mg Co0.8Mg0.2Fe2O4MNP và nước cất (100
mL) được đồng nhất hóa bằng siêu âm trong 30 phút. Sau đó, dung dịch nước PEG được thêm vào huyền phù
Co0.8Mg0.2Fe2O4 trong nước với tốc độ khuấy chậm.
Sau khi khuấy trong 24 giờ, hỗn hợp MNP và PEG được rửa ba lần bằng nước cất để loại bỏ PEG dư rồi sấy
khô ở 60oC trong 1 giờ.
Ảnh nhiễu xạ tia X của MNP không phủ và phủ PEG được ghi lại bằng máy đo nhiễu xạ tia X (D8
Advance, Bruker, Đức), được trang bị nguồn bức xạ Cu Kα (λ
= 1,5406 A˚) và kích thước tinh thể được tính theo hệ thức Debye-Scherrer nổi tiếng.
0,9
D (1)
Vì
Trong đó β là độ rộng toàn phần ở nửa cực đại (tính bằng radian) của đỉnh nhiễu xạ cường độ mạnh nhất
(311), λ là bước sóng của bức xạ và θ là góc của đỉnh đặc trưng mạnh nhất.
phương trình. 2. được sử dụng để tính tham số mạng (a) bằng cách sử dụng giá trị khoảng cách d của
đỉnh nhiễu xạ cường độ mạnh nhất.
2 2
adhkl
2
hkl (2)
trong đó h, k, l là chỉ số Miller của các mặt phẳng tinh thể và dhkl là khoảng cách của các mặt phẳng mạng
Mật độ tia X (Dx) được tính toán theo phương trình 3.
M
DX
số 8
(3)
Na 3
Trong đó M là trọng lượng phân tử, N là số Avogadro và a là hằng số mạng. Hình thái bề mặt
của MNP không phủ và được phủ PEG đã được kiểm tra bằng Kính hiển vi điện tử quét phát xạ trường, Nova
Nano SEM 600 (Công ty FEI, Hà Lan). Các đặc tính từ tính được thực hiện bằng Từ kế quét rung (dòng
Lake Shore cryotronics-7400) ) trong trường ứng dụng ± 20.000 G ở nhiệt độ phòng. Các phép đo điện thế
Zeta được thực hiện bằng cách sử dụng máy đo zeta (dụng cụ Nano Zs, Nano series Malvern).
Các phép đo được thực hiện trong nước và trong PBS. Các phép đo điện thế Zeta được thực hiện ba lần
cho mỗi mẫu ở 30 chu kỳ điện cực.
Machine Translated by Google
10
3.2 Phân tích cấu trúc và pha của MNP phủ PEG Co0.8Mg0.2Fe2O4
Giản đồ XRD của mẫu tinh thể nano Co0.8Mg0.2Fe2O4 được phủ PEG được thể hiện trong Hình 2.
2. Ảnh hưởng của lớp phủ PEG đến tính chất cấu trúc của Co0,8Mg0,2Fe2O4MNP được trình bày trong Bảng 1. Giống
như XRD của mẫu không phủ, các đỉnh nhiễu xạ có các đỉnh đặc trưng của cấu trúc lập phương một pha Spinel (Thẻ
JCPDS số 22 -1086). Điều này cho thấy rõ rằng mẫu vẫn giữ được cấu trúc Spinel ngay cả sau khi phủ PEG nhưng có
sự triệt tiêu các đỉnh nhiễu xạ rõ ràng là do sự hiện diện của lớp phủ PEG. PEG có thể gây ra sức căng bên trong
do sự không khớp mạng, tức là sức căng mạng giữa polymer và MNP tại bề mặt phân cách, dẫn đến việc giảm cường độ
của các đỉnh [22]. Có sự thay đổi rõ rệt về đặc tính cấu trúc tính toán của mẫu có lớp phủ so với mẫu không có
lớp phủ, trong đó mẫu có lớp phủ ghi giá trị tất cả các đặc tính cấu trúc được tính toán cao hơn mẫu không có
lớp phủ.
Kích thước tinh thể được tính toán (D) cho MNP không phủ và được phủ lần lượt là 50 nm và 56 nm (Bảng 1). Sự gia
tăng kích thước tinh thể tính toán cũng gây ra sự gia tăng các đặc tính cấu trúc khác có thể là do sự hiện diện
của lớp phủ PEG. Có khả năng là khi có mặt PEG, các hạt nhỏ có xu hướng liên kết với nhau và tạo thành các hạt
lớn. Sự gia tăng kích thước tinh thể với lớp phủ polymer (PVA) đã được báo cáo đối với Ni0.3Zn0.7Fe2O4 MNP [23].
)113(
)044(
12
)2 5(
14
)022(
)004(
(Một)
)335(
)222(
nU
g) ư(
ờA
ộ C
đ
)111(
(b)
20 30 40 50 60 70 80
2 Theta (độ)
Hình 2: Giản đồ nhiễu xạ tia X của (a) MNP Co0.8Mg0.2Fe2O4 không phủ và (b) MNP Co0.8Mg0.2Fe2O4 được phủ PEG
Machine Translated by Google
11
Bảng 1: Ảnh hưởng của lớp phủ PEG đến đặc tính cấu trúc của MNP Co0.8Mg0.2Fe2O4
Co0,8Mg0,2Fe2O4 Kích thước tinh thể, Hằng số mạng, a, Khối lượng tế bào đơn vị, Mật độ tia X, Dx,
MNP D, (nm) (nm) V, nm3 g/cm3
Phủ PEG 50 0,838 0,589 5.140
không tráng 56 0,840 0,593 6.090
3.3 Phân tích hình thái của MNP phủ PEG Co0.8Mg0.2Fe2O4
Hình 3 thể hiện các hình ảnh FE-SEM điển hình của MNP Co0.8Mg0.2Fe2O4 không phủ và được phủ PEG .
Có thể thấy trong Hình 3 rằng có sự mở rộng của các hạt Co0.8Mg0.2Fe2O4 sau khi phủ PEG. Do
đó, ảnh FE-SEM xác nhận dữ liệu XRD liên quan đến việc phóng to các hạt bằng lớp phủ PEG. Như
đã nêu trước đó, khi có PEG, các hạt nhỏ có xu hướng liên kết với nhau và tạo thành các hạt
lớn. Ngoài ra, có thể quan sát từ hình ảnh FE-SEM rằng các mẫu không được phủ ở dạng kết tụ cao
trong khi mẫu được phủ PEG hiển thị độ phân tán tốt hơn nhiều. Sự cải thiện khả năng phân tán
sau khi phủ có thể là do sự có mặt của lớp bề mặt không từ tính của PEG làm giảm tương tác
giữa các hạt dễ dàng.
Hình 3: Ảnh FESEM của các mẫu Co0.8Mg0.2Fe2O4 (a) không phủ (b) phủ PEG
12
(Một)
(b)
60
40
20
a)
/um ừg
ó
e T
h
(
0
-20000 -15000 -10000 -5000 0 5000 10000 15000 20000
Trường(G)
-20
-40
-60
Hình 4: Đường cong trễ từ của Co0.8Mg0.2Fe2O4 (tự cháy) được đo ở nhiệt độ phòng
đối với (a) mẫu không tráng phủ (b) mẫu phủ PEG
Bảng 2: Tính chất từ của MNP Co0.8Mg0.2Fe2O4 không phủ và PEG được phủ
13
Jesse V Jokerst1,
Co0.8Mg0.2Fe2O4-PEG
Co0,8Mg0,2Fe2O4
-11,55 mV -8,26 mV
Hình 5: Phân bố thế năng Zeta của Co0.8Mg0.2Fe2O4 trần và được phủ PEG
hạt nano sử dụng nước cất làm chất phân tán
4. Kết luận
Pha Spinel khối đơn của MNP Co0.8Mg0.2Fe2O4 nano tinh thể thu được bằng quá trình tổng
hợp đốt qua trung gian glycine mà không cần xử lý nhiệt thêm. Bề mặt của các MNP tổng hợp được
chức năng hóa bằng PEG, nhờ đó mang lại các đặc tính hóa học, vật lý và sinh lý phù hợp cho các
ứng dụng tăng thân nhiệt từ tính. Từ XRD, mẫu được phủ PEG vẫn giữ được cấu trúc tinh thể nhưng
có sự giảm nhẹ các pic và kích thước tinh thể tăng lên sau khi phủ. Các MNP Co0.8Mg0.2Fe2O4
được phủ PEG ghi nhận sự gia tăng về đặc tính cấu trúc và từ tính so với mẫu không được phủ. Sự
gia tăng các đặc tính cấu trúc được cho là do xu hướng các hạt nhỏ liên kết với nhau và tạo
thành các hạt lớn khi có mặt PEG, điều này cũng có thể là nguyên nhân làm tăng các đặc tính từ
tính.
Độ ổn định keo được cải thiện với lớp phủ PEG trong môi trường nước và cũng là một
độ ổn định đáng kể trong PBS ở pH sinh lý làm nổi bật các ứng dụng y sinh tiềm năng thuận lợi
của MNP Co0.8Mg0.2Fe2O4 được phủ PEG .
Sự nhìn nhận
Công việc này sẽ không thể thực hiện được nếu không có sự tài trợ nghiên cứu đến thăm dành cho Tiến sĩ.
Ehi-Eromosele CO của Trung tâm Khoa học Vật liệu Quốc tế, Trung tâm Nghiên cứu Khoa học Tiên tiến
Jawarharlal Nehru, Bangalore, Ấn Độ.
[1] OC Farokhzad, R. Langer, Đánh giá phân phối thuốc nâng cao 58, 1456 (2006).
[2] Y. Liu, H. Miyoshi, M. Nakamura, Tạp chí Quốc tế về Ung thư 120, 2527 (2007).
[3] L. Zhang, FX Gu, JM Chan, AZ Wang, RS Langer, OC Farokhzad, Lâm sàng
Dược lý và Trị liệu 83(5),761 (2008).
[4] AB Salunkhe, VM Khot, SH Pawar, Các chủ đề hiện tại về Hóa dược
14(5), 572 (2014).
[5] M. Kallumadil, M. Tada, T. Nakagawa, M. Abe, P. Southern, QA Pankhurst, J. Magn.
Magn. Mater.321, 1509 (2009).
[6] SS Banerjee, DH Chen, Chem. Mater.19, 6345 (2007)
[7] DL Leslie-Pelecky, RD Rieke, Chem. Mẹ ơi. Ngày 8 tháng 8 năm 1770 (1996).
[8] T. Suzuki, M. Shinkai, M. Kamihira, M. Kobayashi,Công nghệ sinh học. ứng dụng. Hóa sinh.
21, 335 (1995).
Machine Translated by Google
14
[9] S. Laurent, D. Forge, M. Port, A. Roch, C. Robic, L. Vander Elst, RN Muller, Chem. Rev.
108, 2064 (2008).
[10] K. Maier-Hauff, F. Uldrich, D. Nestler, H. Niehoff, P. Wust, B. Thiesen, H. Orawa,
V. Budach, A. Jordan, J. Neuro-Oncol.103, 317 (2011).
[11] CSSR Kumar, F. Mohammad, Adv. Giao Thuốc. Rev. 63, 789 (2011).
[12] R. Arulmurugan, B. Jeyadevan, G. Vaidyanathan, S. Sendhilnathan,J. Magn. Magn. Mẹ ơi.
288, 470 (2005).
[13] S. Kanagesan, M. Hashim, S. Tamilselvan, NB Alitheen, I. Ismail, G. Bahmanrokh, Tạp chí
Vật liệu nano, 1(2013).
[14] E. Umut, Biến đổi bề mặt của các hạt nano được sử dụng trong các ứng dụng y sinh Trong: Phương
pháp điều trị kỹ thuật bề mặt hiện đại, Ed. của Mahmood Aliofkhazraei.InTech 185-208 (2013).
[15] EKU Larsen, T. Nielsen, T. Wittenborn, H. Birkedal, T. Vorup-Jensen, MH Jakobsen,
L. Østergaard, MR Horsman, F. Besenbacher, KA Howard, J. Kjems,ACS Nano 3, 1947
(2009).
[16] VM Khot, AB Salunkhe, JM Ruso, SH Pawar,J. Magn. Magn. Mẹ ơi. 384, 335 (2015).
[17] NHƯ Teja, PY Koh,Prog. Pha lê. Sự phát triển. Tính cách. 55,22(2009).
[18] VM Khot, AB Salunkhe, ND Thorat, MR Phadatare, SH Pawar,J. Magn. Magn. Mẹ ơi.
332, 48 (2013).
[19] M. Syue, F. Wei, C. Chou, C. Fu, Tạp chí Vật lý ứng dụng 109,07A324 (2011).
http://dx.doi.org/10.1063/1.3560880.
[20] CO Ehi-Eromosele, BI Ita, EEJ Iweala, Tạp chí Khoa học và Công nghệ Sol-Gel 76(2), 298
(2015).
[21] ÔNG Phadatare, VM Khot, AB Salunkhe, ND Thorat, SH Pawar,J. Magn. Magn. Mẹ ơi.
324, 770 (2012).
[22] SV Jadhav, DS Nikam, VM Khot, SS Mali, CK Hong, SH Pawar, Đặc tính vật liệu 102,
209 (2015).
[23] M. Rahimi, P. Kameli, M. Ranjbar, H. Salamati,J. Magn. Magn. Mater.347, 139(2013).
[24] NHƯ Prasad, SN Dolia,J. Magn. Magn. Mẹ ơi. 324, 869 (2012).
[25] M. Colombo, S. Carregal-Romero, MF Casula, L. Gutierez, MP Morales, IB Bohm, [26]
JT Heverhagen, D. Prosperi, WJ Parak,Chem. Sóc. Bản sửa đổi 41, 4306(2012).
[27] D. Sakellari, K. Brintakis, A. Kostopoulou, E. Myrovali, K. Simeonidis, A. Lappas,
M. Angelakeris, Khoa học và Kỹ thuật Vật liệu C 58, 187 (2016).
[28] G. Salas, S. Veintemillas-Verdaguer, MP Morales,Int. J. Hyperth. 29, 768 (2013).
[29] JV Jokerst, T. Lobovkina, RN Zare, SS Gambhir,Nanomedicine6(4), 715 (2011).