You are on page 1of 21

CÔNG TY ĐẦU TƯ

Những vấn đề cơ bản về công ty đầu tư


Các công ty đầu tư là những trung gian tài chính bán cổ phần ra công chúng và
đầu tư số tiền thu được vào một danh mục đa dạng hóa các chứng khoán. Mỗi cổ
phần bán ra thể hiện một phần lợi ích trong danh mục chứng khoán mà công ty sở
hữu. Các chứng khoán được công ty mua vào có thể giới hạn trong những loại tài
sản cụ thể, như cổ phiếu phổ thông, trái phiếu chính phủ, trái phiếu công ty hay các
công cụ của thị trường tiền tệ.
Các công ty đầu tư thường chào bán nhiều quỹ đầu tư tách biệt. Chúng được gọi
là những tổ hợp quỹ, được định nghĩa là một nhóm quỹ đặt dưới sự quản trị chung,
bao gồm một hoặc nhiều dòng quỹ. Lợi thế của các nhà đầu tư của các tổ hợp quỹ
là các khoản đầu tư có thể được chuyển dịch giữa các quỹ khác nhau trong cùng
một dòng một cách rất dễ dàng và nhanh chóng. Thêm vào đó, thông tin về tài
khoản có thể được tổng hợp tóm tắt để giúp các nhà đầu tư duy trì được trạng thái
tổ chức của các tài sản của họ. Phần lớn các công ty đầu tư đều đòi hỏi một lượng
đầu tư tối thiểu khi mở tài khoản.
Phân loại công ty đầu tư
Có hai loại công ty đầu tư chính, là các quỹ dạng mở và quỹ dạng đóng. Ngoài ra
còn có quỹ tín thác đơn nguyên, có những đặc điểm chung với cả hai loại quỹ này.
Quỹ dạng mở. Quỹ dạng mở, hay thường gọi là quỹ tương hỗ, là loại cấu trúc
quỹ phổ biến nhất. Cổ phần quỹ dạng mở có thể được bán ra và mua lại bất cứ lúc
nào, với mức giá bằng phần giá trị của nó trong danh mục đầu tư (NAV). Mức giá
này được tính hàng ngày tại lúc đóng cửa thị trường. Việc bán ra và mua vào cổ
phần quỹ có thể do chính Công ty đầu tư thực hiện, có thể thông qua các hãng môi
giới. Nếu giao dịch thực hiện thông qua môi giới thì phải có hoa hồng. Việc quỹ
cho phép mua và bán cổ phần thường xuyên như thế vừa tạo ra tính thanh khoản
của các cổ phần quỹ, đồng thời tạo ra những thách thức đối với hoạt động quản trị
quỹ do tổng lượng vốn luôn biến động và do đòi hỏi về tính thanh khoản để đáp
ứng nhu cầu mua lại cổ phần khi khách hàng yêu cầu.
Quỹ dạng đóng. Trái lại với quỹ dạng mở, một quỹ đầu tư dạng đóng bán cổ
phần một lần, với số lượng cố định và sau đó không mua lại những cổ phần đó.

1
Những cổ phần này sẽ được giao dịch trên thị trường OTC hay trên Sở Giao dịch
chứng khoán, giống như các cổ phiếu phổ thông khác. Nhà đầu tư muốn mua hay
bán cổ phần quỹ đóng sẽ phải trả phí hoa hồng môi giới.
Giá thị trường của những cổ phần quỹ đóng bị quy định bởi cung và cầu trên
thị trường, dao động theo giá trị của những tài sản mà quỹ nắm giữ. Tuy nhiên,
khác với quỹ dạng mở, giá cổ phần quỹ đóng có thể cao hơn hoặc thấp hơn phần
giá trị của chúng trong giá trị của những tài sản mà quỹ nắm giữ, tức NAV.
Một đặc điểm đáng chú ý của quỹ đóng là các nhà đầu tư ban đầu phải chịu chi
phí bảo lãnh phát hành các cổ phần quỹ. Số tiền thu được, mà sẽ do các nhà quản
trị quỹ điều hành, bằng tổng số tiền mà những người mua cổ phần lần đầu đã trả trừ
đi tất cả chi phí của đợt phát hành trong đó có khoản hoa hồng trả cho các hãng môi
giới bán lẻ tiến hành phân phối ra công chúng. Hoa hồng cao là động lực mạnh thúc
đẩy các hãng môi giới bán lẻ khuyến nghị khách hàng của họ (các nhà đầu tư cá
nhân) mua những cổ phần này.
Trong quá khứ quỹ dạng đóng đã từng được ưa chuộng hơn nhiều so với quỹ
dạng mở, với tổng khối lượng vốn được ước tính gấp 12 lần so với các quỹ mở (ở
Mỹ). Song gần đây các quỹ mở lại tăng được sức hấp dẫn với các nhà đầu tư cá
nhân, chủ yếu là vì sự chú trọng vào các danh mục đầu tư quốc tế.
Loại quỹ thứ ba, Quỹ tín thác đơn nguyên, giống với quỹ dạng đóng ở chỗ nó
phát hành một lượng cố định cổ phần, được gọi là chứng chỉ đơn nguyên, nhưng
cũng giống quỹ mở ở chỗ chứng chỉ quỹ chỉ do công ty phát hành bán ra và mua
lại. Loại quỹ này chỉ đầu tư vào trái phiếu và trên nhiều phương diện nó khác với
các các quỹ mở và quỹ đóng chuyên môn hóa trong đầu tư trái phiếu. Thứ nhất, các
trái phiếu trong danh mục của các quỹ tín thác hoàn toàn không được giao dịch
năng động. Một khi công ty môi giới hay tổ chức bảo lãnh phát hành trái phiếu đã
thành lập quỹ tín thác và chuyển nó cho một tổ chức nhận tín thác, tổ chức này sẽ
nắm giữ tất cả các trái phiếu cho tới khi chúng được bên phát hành thu hồi. Thông
thường, trường hợp duy nhất mà tổ chức nhận tín thác có thể bán một trái phiếu
trong danh mục là khi chất lượng tín dụng của công ty phát hành bị giảm sút
nghiêm trọng. Điều này có nghĩa là chi phí vận hành quỹ tín thác sẽ thấp hơn nhiều
so với chi phí vận hành một quỹ tương hỗ hay một quỹ dạng đóng. Thứ hai, các
quỹ tín thác đơn nguyên có một ngày kết thúc được ấn định trong khi các quỹ

2
tương hỗ và quỹ đóng không có. Thứ ba, khác với hai dạng quỹ kia, nhà đầu tư vào
quỹ tín thác đơn nguyên biết rõ danh mục bao gồm một tập hợp xác định các trái
phiếu và không lo việc tổ chức nhận tín thác này sẽ thay đổi danh mục đầu tư.
Lợi tức của nhà đầu tư và giá trị tài sản ròng (NAV) của quỹ đầu tư
Lợi nhuận mà nhà đầu tư nhận được do việc đầu tư vào các cổ phần quỹ phản
ánh ba khía cạnh của danh mục đầu tư cơ sở của tài sản của quỹ. Thứ nhất, thu
nhập nhận được trên những tài sản đó; thứ hai, lợi vốn phát sinh khi tài sản được
quỹ bán đi với một mức giá cao hơn mức giá đã mua vào; thứ ba, khoản tăng giá
của những tài sản cơ sở được nắm giữ trong danh mục đầu tư, cộng thêm vào giá trị
của cổ phần quỹ. Khoản thứ ba này thường được điều chỉnh theo thị trường hàng
ngày, tức là nhà quản trị quỹ tính toán giá trị hiện hành của từng cổ phần quỹ bằng
cách lấy giá trị thị trường hàng ngày của tổng danh mục tài sản của quỹ chia cho
số lượng cổ phần quỹ đang lưu hành. Kết quả nhận được được gọi là giá trị tài sản
ròng (NAV) của quỹ. Đây là mức giá mà nhà đầu tư nhận được khi bán cổ phần trở
lại cho quỹ vào ngày hôm đó, hoặc mua cổ phần mới của quỹ vào ngày đó.
Giá trị tài sản ròng là tổng giá trị thị trường của các cổ phiếu, trái phiếu, tiền, và
những tài sản khác của quỹ đầu tư, trừ đi mọi khoản nợ phải trả, chia cho số lượng
cổ phần đang lưu hành của quỹ.
Ví dụ về tính NAV trên cổ phần quỹ, tại một ngày xác định
Tiền mặt 100 000 000 đồng
Cổ phiếu đang nắm giữ và giá thị trường hiện hành
10000 cổ phần A x 50 000 đồng = 500000000 đồng
20000 cổ phần B x 30 000 đồng = 600000000 đồng
50000 cổ phần C x 10 000 đồng = 500000000 đồng
Tổng giá trị thị trường của cổ phiếu: 1 600 000 000 đồng
Trái phiếu (theo giá thị trường hiện hành) 500 000 000 đồng
Tổng giá trị tài sản 2 200 000 000 đồng
Trừ các khoản phải trả 200 000 000 đồng
Giá trị tài sản ròng 2 000 000 000 đồng

3
Số cổ phần quỹ đang lưu hành: 100 000
Giá trị tài sản ròng (NAV) trên cổ phần 20 000 đồng

Giá trị tài sản ròng có thể tăng hoặc giảm khi giá trị của những tài sản cơ sở
thay đổi. Ví dụ, giả sử giá trị của danh mục cổ phiếu do quỹ đầu tư nắm giữ tăng
20%, và giá trị của danh mục trái phiếu lại giảm 1% trong khoảng thời gian một
năm. Nếu tiền mặt và số lượng cổ phần quỹ không thay đổi, giá trị tài sản ròng mới
sẽ là
Tiền mặt 100 000 000 đồng
Cổ phiếu (theo giá thị trường hiện hành) 1 920 000 000 đồng
Trái phiếu (theo giá thị trường hiện hành) 495 000 000 đồng
Tổng giá trị tài sản 2 215 000 000 đồng
Trừ các khoản phải trả 100 000 000 đồng
Giá trị tài sản ròng 2 115 000 000 đồng
Số cổ phần quỹ đang lưu hành 100 000
Giá trị tài sản ròng trên cổ phần:

Lợi suất trên khoản đầu tư vào quỹ này là

Giá trị của quỹ, và do đó NAV của quỹ, cũng có thể tăng lên do quy mô đầu tư
tăng lên. Chẳng hạn nếu vào một ngày nào đó, có thêm một số lượng cổ phần quỹ
được bán ra và quỹ có thêm tiền để đầu tư. Nếu quỹ đầu tư số tiền đó vào những cổ
phiếu tăng giá mạnh thì tổng giá trị quỹ trên một cổ phần quỹ (NAV) có thể tăng
lên.
Chi phí của quỹ

4
Các công ty đầu tư đòi hỏi ở cổ đông một mức giá, tức phí, cho các dịch vụ mà
họ cung cấp – tức là việc quản trị một danh mục đa dạng hóa các tài sản tài chính.
Có hai loại phí mà nhà đầu tư phải nộp là phí tính trên doanh số và chi phí hoạt
động của quỹ. Cụ thể hơn các loại phí này lại chia ra thành bốn loại nhỏ. Đó là:
1. Phí nhập quỹ, phí thoát quỹ. Phí nhập quỹ được tính khi mua cổ phần quỹ. Với
một khoản đầu tư 10000$ vào một quỹ có phí nhập quỹ 5%, nhà đầu tư sẽ chỉ
có 9500$ thực sự được đầu tư, khoản phí sẽ là 500$, tức 5,26% của số tiền thực
sự đầu tư. Với các mức giá chào bán và NAV của cổ phần quỹ, có thể tính được
mức phí nhập bằng công thức: Phí nhập quỹ = (Giá cổ phần quỹ - NAV)/Giá cổ
phần quỹ. Phí thoát quỹ do khách hàng trả cho hãng môi giới nếu họ bán cổ
phần quỹ ngay sau khi mua vào. Nó có thể là 5% nếu cổ phần được bán trong
năm đầu, 4% trong năm thứ hai … cho tới sau năm thứ năm, tính trên khoản
đầu tư gốc. Nếu giá cổ phần giảm sút thì khoản phí này có thể được tính trên số
tiền thu được khi bán lại cổ phần. Tùy thuộc vào việc có tính loại phí này không
mà các quỹ đầu tư được gọi là quỹ tính phí và quỹ không tính phí.
2. Phí dịch vụ thường xuyên, do một công ty đầu tư trả cho các hãng môi giới và
những nhân viên bán hàng khác cho sự trợ giúp cá nhân tới các khách hàng, chủ
yếu là tư vấn đầu tư.
3. Chi phí quản trị và điều hành thường xuyên. Loại chi phí này là một phần trong
hệ số chi phí. Công ty quản lý quỹ khấu trừ những khoản chi phí này theo từng
món một. Chi phí quản trị do công ty tư vấn đòi cho các hoạt động phân tích
chứng khoán và quản trị danh mục đầu tư. Khoản phí này có thể khá cao, tùy
thuộc vào chất lượng, thành tích và uy tín của các hoạt động đó. Ngoài ra các
quỹ mở còn đòi hỏi các khoản chi phí thường xuyên như chi phí phục vụ cổ
đông, phí lưu ký và đại lý chuyển nhượng, chi phí lập báo cáo cho cổ đông, phí
pháp lý, kiểm toán, chi lãi, v.v.
4. Các loại chi phí gắn với giao dịch các chứng khoán trong danh mục. Tần suất
giao dịch càng cao thì chi phí giao dịch cũng càng lớn.
Tất cả các loại phí này dù là trực tiếp hay gián tiếp cũng đều do các nhà
đầu tư phải gánh chịu. Vì thế các nhà đầu tư phải cân nhắc rất kỹ cơ cấu chi phí của
từng quỹ trước khi quyết định đầu tư.

5
Cơ cấu tổ chức
Quỹ đầu tư, dù thuộc dạng đóng hay mở, đều được cơ cấu theo mô hình công
ty. Các bộ phận then chốt của công ty đầu tư bao gồm:
Hội đồng quản trị. Thông thường hội đồng quản trị bao gồm từ năm tới mười
thành viên, do những cổ đông của quỹ bầu chọn, có nhiệm kỳ từ một tới ba năm.
Hội đồng quản trị có trách nhiệm điều hành tổng thể hoạt động của quỹ và giám sát
công ty quản lý quỹ hoặc tổ chức cố vấn đầu tư. Hội đồng quản trị có thể phải bao
gồm một số lượng tối thiểu thành viên bên ngoài hay thành viên độc lập.
Công ty quản lý quỹ. Chức năng quản trị hoạt động hàng ngày của quỹ có thể do
chính công ty đã tổ chức ra quỹ đảm nhiệm, hoặc do quỹ đi thuê để quản trị tài sản
của nó và được trả phí. Công ty quản lý quỹ - hay còn gọi là tổ chức cố vấn đầu tư -
có nhiệm vụ nghiên cứu đầu tư, quản trị danh mục đầu tư và thực hiện các công
việc hành chính khác. Một số quỹ có thể tách rời chức năng quản trị và chức năng
điều hành hành chính. Hợp đồng với công ty này sẽ được hội đồng quản trị xem xét
lại hàng năm. Mức phí trả cho công ty quản lý quỹ căn cứ vào khối lượng tài sản
được quản lý và được tính theo tỷ lệ phần trăm giảm dần khi tổng tài sản tăng lên.
Một công ty quản lý quỹ có thể quản trị nhiều quỹ cùng lúc.
Nhà quản trị danh mục đầu tư. Chức danh này là nhân sự của công ty quản lý
quỹ, trực tiếp đưa ra các quyết định trên danh mục đầu tư, đảm bảo chiến lược và
thành quả hoạt động của nó phù hợp với những mục tiêu đã được đưa ra trong bản
cáo bạch của quỹ.
Tổ chức lưu ký độc lập. Tổ chức này (thường là một ngân hàng hay công ty tín
thác) có chức năng lưu giữ tài sản của quỹ, bảo vệ cổ đông của quỹ tránh những
hành động gian dối của ban điều hành, xử lý các khoản thanh toán và nhận tiền của
các giao dịch chứng khoán của quỹ. Công ty quản lý quỹ chỉ mua và bán các chứng
khoán thay mặt cho quỹ.
Đại lý chuyển nhượng. Tổ chức này – thường hiện diện trong quỹ mở - có chức
năng xử lý việc bán và mua lại các cổ phần quỹ, duy trì sổ sách cổ đông, tính toán
NAV hàng ngày và phân phối cổ tức và lợi vốn.
Tổ chức bảo lãnh phát hành – hay nhà phân phối quỹ. Tổ chức này giúp việc
bán cổ phần quỹ tới công chúng đầu tư, có thể bán buôn tới các nhà giao dịch

6
chứng khoán để rồi họ sẽ bán lại tới các nhà đầu tư, có thể bán lẻ trực tiếp tới công
chúng.
Lợi thế của quỹ đầu tư
Các quỹ đầu tư thuộc tất cả các loại đều có chung những ưu điểm sau đây
Đa dạng hóa. Đây là một lợi thế quan trọng, bởi nhiều nhà đầu tư cá nhân không có
đủ tiền để thiết lập được ít nhất là từ 10 tới 12 vị thế trên những cổ phiếu khác
nhau. Lý thuyết danh mục đầu tư hiện đại nói rằng điều này là cần thiết để loại bỏ
hầu hết rủi ro riêng của công ty ra khỏi một danh mục đầu tư. Tất nhiên đa dạng
hóa trên cổ phiếu nội địa không xóa bỏ được tính biến động vốn có trên thị trường
này, do đó đa dạng hóa quốc tế là cần thiết để giảm hơn nữa rủi ro của một danh
mục đầu tư. Nhiều nhà đầu tư – mà thực sự là những nhà đầu cơ – đã phải chịu
những khoản thua lỗ khổng lồ chỉ vì họ đã không đa dạng hóa được một cách phù
hợp. Họ bỏ hết trứng vào một rổ, hay chỉ một vài rổ, với hy vọng đạt được những
món lợi nhuận đáng kể. Nhưng những khoản lợi tiềm năng này phải gánh chịu rủi
ro không đáng có ở mức độ không phải là nhỏ. Hơn nữa, các cá nhân có tài khoản ở
công ty môi giới có thể bị ám ảnh bởi giấc mơ giàu lên trong phút chốc nhờ hoạt
động đầu cơ. Họ có thể đánh mất trong chốc lát toàn bộ số tiền tiết kiệm cả đời do
việc mua chỉ một hay hai cổ phiếu đầu cơ. Đầu tư vào quỹ sẽ giảm được khả năng
thiệt hại thảm khốc cho những người có khuynh hướng đầu cơ hay đánh bạc.
Quản trị chuyên nghiệp. Lợi thế về quản trị chuyên nghiệp của quỹ đầu tư là quan
trọng đối với những người không có thời gian để nghiên cứu các khoản đầu tư của
mình, bao gồm các công đoạn nghiên cứu kinh tế, nghiên cứu ngành, nghiên cứu
các công ty. Phần lớn các nhà đầu tư đều thuộc loại này, họ có thể quá bận rộn với
nghề nghiệp của mình và biết rằng thời gian đang ngày càng trở thành một nguồn
lực khan hiếm. Mặt khác, do thiếu kiến thức và kỹ năng, các nhà đầu tư cá nhân có
thể thổi phồng lợi nhuận tiềm năng hoặc đánh giá không hết những rủi ro tiềm ẩn
trong khi lựa chọn các sản phẩm đầu tư. Trong các công ty đầu tư, các chuyên gia
có kỹ năng và kinh nghiệm sẽ định kỳ thẩm định hiệu quả đầu tư của danh mục,
đảm bảo khả năng thành công cao. Những người nào làm việc không hiệu quả sẽ bị
thay thế.
Nhiều lựa chọn danh mục đầu tư. Một công ty đầu tư có thể chào cùng một lúc
nhiều dòng quỹ, tức là nhiều danh mục đầu tư đáp ứng những mục tiêu khác nhau
7
của những loại khách hàng khác nhau. Chẳng hạn, tùy theo đặc điểm của khách
hàng (mục tiêu đầu tư, mức độ chấp nhận rủi ro, lợi nhuận kỳ vọng…) các quỹ đầu
tư có thể lựa chọn một kết hợp hợp lý giữa cổ phiếu thượng hạng, cổ phiếu tăng
trưởng, cổ phiếu thu nhập, cổ phiếu tăng trưởng-và-thu nhập, cổ phiếu chu kỳ hay
cổ phiếu phòng vệ, với các trái phiếu chính phủ, trái phiếu công ty có kèm theo
những lựa chọn khác nhau, với những phong cách đầu tư khác nhau v.v.. Nhà đầu
tư có thể chọn một số trong những danh mục này theo bất kỳ kiểu kết hợp nào mà
ông ta thích, và cũng có thể dễ dàng thay đổi cơ cấu danh mục của mình khi nhu
cầu của ông ta thay đổi qua thời gian.
Tiết kiệm nhờ quy mô. Đối với các nhà đầu tư nhỏ thì lợi thế này của các quỹ đầu tư
là đặc biệt quan trọng. Thông qua quá trình trung chuyển tài sản, bằng cách phát
hành cổ phần với mệnh giá nhỏ và mua những khối lớn chứng khoán, các công ty
đầu tư có thể được lợi thế về những khoản chiết khấu hoa hồng môi giới theo khối
lượng và có thể mua được những danh mục chứng khoán đa dạng hóa. Công ty đầu
tư cho phép các nhà đầu tư nhỏ được hưởng lợi ích chi phí giao dịch thấp hơn, và
điều đó có nghĩa là hiệu quả đầu tư cao hơn.
Ngoài những lợi thế chung trên đây, mỗi loại quỹ lại có những ưu điểm (và
nhược điểm) riêng.
Đặc điểm của Công ty đầu tư dạng quỹ mở
Tính thanh khoản. Đây là ưu điểm nổi bật của quỹ mở, đề cập tới sự nhanh chóng,
dễ dàng và chi phí thấp trong việc mua hoặc bán một tài sản, mà ở đây là cổ phần
quỹ. Do việc quỹ luôn luôn sẵn sàng mua, bán cổ phần của nó với các nhà đầu tư
trên cơ sở NAV được tính hàng ngày, trong nhiều trường hợp cổ phiếu quỹ mở
thanh khoản hơn nhiều so với các cổ phiếu riêng lẻ hoặc so với quỹ đóng. Những
khối lượng tiền lớn có thể được đầu tư vào hoặc rút ra khỏi quỹ trong ngày, cộng
với một khoản phí giao dịch hay trừ đi một khoản phí thu hồi. Hơn nữa tiền có thể
dịch chuyển một cách hữu hiệu giữa một quỹ cổ phiếu và một quỹ thị trường tiền
tệ, với chi phí rất thấp hoặc bằng 0.
Dịch vụ dành cho cổ đông. Các dòng quỹ tương hỗ cung cấp nhiều dịch vụ hữu ích
cho cổ đông. Một trong số dịch vụ quan trọng nhất là tái đầu tư tự động các khoản
phân phối cho những người có nhu cầu. Khi các khoản cổ tức và lợi vốn được sử
dụng để mua thêm cổ phần quỹ, nhà đầu tư có thể nhân bội của cải của họ nhanh
8
chóng hơn. Những người sở hữu các cổ phiếu riêng lẻ thường thiên hơn về hướng
nhận cổ tức bằng tiền để chi tiêu. Nhiều quỹ có các chương trình rút tiền trên hệ
thống, rất tiện dụng cho những người về hưu. Các dịch vụ quan trọng khác bao
gồm những chương trình đầu tư tự động, các chương trình hưu trí, lưu giữ sổ sách
cho mục đích tính thuế, và khả năng thực hiện các giao dịch hay chuyển đổi giữa
các quỹ qua điện thoại.
An toàn trước những mất mát gây ra bởi những vi phạm đạo đức. Nếu những
khoản nắm giữ trong quỹ bị giảm giá, nhà đầu tư có thể chắc chắn sẽ bị mất tiền.
Song mất mát có nguyên nhân từ lừa đảo, những vụ bê bối hay phá sản liên quan
tới công ty quản lý quỹ thì có xác suất rất thấp. Bằng cách chuyển rủi ro đầu tư cho
các cổ đông, các công ty đầu tư dạng quỹ mở giảm nhẹ bớt những vấn đề từng gây
thiệt hại to lớn cho dân chúng khi thực hiện các giao dịch với các ngân hàng thương
mại và công ty bảo hiểm.
Các nhà đầu tư cần phải đánh giá cơ cấu phí của một quỹ đầu tư rất cẩn thận
trước khi đầu tư, vì phí có thể biến thiên trong khoảng từ 0,5% tới 8% một năm.
Đặc điểm của Công ty đầu tư dạng quỹ đóng
Một số lợi thế
Tính ổn định của vốn. Đây là lợi thế quan trọng nhất của cấu trúc quỹ đóng: nhà
quản trị quỹ không cần phải đối phó với những dòng vốn lớn đổ ra hoặc đổ vào vào
những thời điểm bất lợi, như trong trường hợp quỹ mở. Đặc tính này khiến cho cấu
trúc đóng đặc biệt thích hợp với những quỹ đầu tư vào các chứng khoán có tính
biến động cao hơn và giao dịch kém năng động hơn (ví dụ những cổ phiếu có mức
vốn hóa thị trường nhỏ hay những cổ phiếu giao dịch trên các thị trường đang nổi).
Đầu tư nhằm mục tiêu tổng lợi suất. Các nhà quản trị quỹ đóng có thêm một động
lực để quản trị danh mục đầu tư của họ vì mục tiêu lợi suất tổng thể cao chứ không
phải là lợi suất hiện hành cao. Điều này đặc biệt đúng với các quỹ trái phiếu. Đó là
vì với một quỹ đóng, cách thức chủ yếu để làm gia tăng giá trị tài sản là nâng cao
lợi suất tổng thể, chứ không thể trông đợi vào việc có thêm các nhà đầu tư đổ tiền
vào quỹ như với quỹ mở. Ban điều hành quỹ thường kiếm được một tỷ lệ lợi nhuận
nhất định so với tổng tài sản được quản trị. Do đó khối lượng tài sản được quản trị
càng lớn thì lượng tiền tuyệt đối kiếm được cũng càng lớn.

9
Lợi thế trong giao dịch. Các nhà đầu tư quỹ đóng thường giao dịch thông qua một
hãng môi giới và sẽ đặt lệnh giới hạn để mua và bán cổ phần tại những thời điểm
có lợi nhất. Lệnh giới hạn được chuyển tới người môi giới để mua hoặc bán một cổ
phiếu tại một mức giá “giới hạn” cụ thể, hoặc tốt hơn. Quỹ đóng cho phép nhà đầu
tư tận dụng cơ hội thị trường cổ phiếu biến động mạnh hơn của hôm nay. Và chính
các quỹ cũng thể hiện một mức độ biến động nhất định khi các khoản chiết khấu và
phụ trội của họ cũng luôn tăng, giảm.
Khoản chiết khấu và khoản phụ trội
Khi cổ phần quỹ đang được bán tại một mức giá thị trường thấp hơn NAV, người ta
gọi đó là cổ phần đang bán với giá chiết khấu. Trái lại nếu giá thị trường của nó cao
hơn NAV thì cổ phần quỹ này đang được bán với giá phụ trội. Mức chiết khấu hay
phụ trội được tính theo công thức sau:

Giá cổ phần quỹ - NAV


Chiết khấu hay phụ trội =
NAV

Sử dụng công thức này thì khoản chiết khấu sẽ có dấu âm (-) còn khoản phụ trội
sẽ có dấu dương (+).
Giả sử Quỹ đóng XYZ có NAV bằng 10$ và đang giao dịch tại một mức giá cổ
phần quỹ là 8,5$. Khoản chiết khấu của nó sẽ là (- 0,15) = (8,5 – 10)/10 = 15%.
Nếu giả định quỹ đang giao dịch tại mức giá 12$ với NAV là 10, thì quỹ này đang
được bán với khoản phụ trội 20%.
Một cách khác để quan sát mức chiết khấu và mức phụ trội là sử dụng hệ số
giá/NAV. Ví dụ một quỹ đang giao dịch tại giá 8$ với NAV là 10$ sẽ có hệ số
giá/NAV là 80%. Nếu quỹ đang giao dịch tại mức giá 12% thì hệ số giá/NAV của
nó sẽ là 120%. Về thực chất hệ số giá/NAV chính là hệ số giá/giá trị sổ sách được
sử dụng để định giá những cổ phiếu thông thường. Chỉ khác là NAV của một quỹ
đóng là một ước tính giá trị chính xác hơn nhiều so với giá trị sổ sách của cổ phiếu
thông thường.
Yếu tố rủi ro
Khoản chiết khấu của quỹ dạng đóng thực sự là một bộ phận hợp thành rủi ro
bổ sung đối với các nhà đầu tư. Với một quỹ dạng mở rủi ro cơ bản là do những
dao động trong giá trị của những chứng khoán trong danh mục đầu tư của quỹ,
10
được phản chiếu bởi những dao động trong NAV. Nhưng với một quỹ dạng mở, có
hai nguồn cơ bản của tính không chắc chắn đối với các nhà đầu tư, đó là:
1. Những dao động trong giá trị của danh mục cơ sở (tức NAV), giống như với
quỹ dạng mở.
2. Những thay đổi ngẫu nhiên trong mức chiết khấu và mức phụ trội xoay quanh
NAV.
Vì thế các nhà đầu tư coi các quỹ đóng là rủi ro hơn và trả một mức giá thấp
hơn để mua cổ phần của quỹ nhằm bù đắp cho rủi ro tăng thêm này. Đây là một yếu
tố góp phần tạo ra khoản chiết khấu. Nhưng nếu với một quỹ thu phí trước 8%, nhà
đầu tư chỉ nhận được 920$ của các chứng khoán của quỹ tương ứng với 1000$ đầu
tư, thì với một quỹ đóng, ông ta có thể đang trả mức giá thấp hơn nhiều so với
NAV, nhưng có khi lại nhận được các chứng khoán trị giá 1000$ với mức giá chỉ là
850$, nếu quỹ này đang giao dịch tại mức chiết khấu 15%.
Trong những thời kỳ thị trường giảm sút thì các quỹ thường có xu hướng được
bán với những mức chiết khấu tương đối lớn so với NAV, giống như nhiều cổ
phiếu bán với hệ số P/E thấp. Đây là thời điểm lý tưởng để mua các cổ phần quỹ
đóng, vì trên thị trường có thể có một số mức giá bán tháo. Nếu cổ phần quỹ được
mua vào thời điểm mức chiết khấu của nó là đặc biệt lớn và thị trường nói chung bị
sụt giảm sâu, thì nhà đàu tư có thể được lợi theo hai cách khi thị trường phục hồi:
1. NAV của quỹ tăng lên khi giá trị các chứng khoán mà nó nắm giữ tăng.
2. Mức chiết khấu được thu hẹp, càng làm cho giá cổ phiếu tăng mạnh thêm, thậm
chí có thể đạt tới một mức giá phụ trội. Đây là một dạng đòn bẩy.
Việc mua cổ phiếu quỹ tại một mức giá chiết khấu thực chất đã tạo cho người
mua một đòn bẩy miễn phí, vì nó có thể khuếch đại lợi nhuận mà người mua không
phải trả tiền cho đòn bẩy đó như khi mua cổ phiếu trên tài khoản ký quỹ. Giả sử cổ
phần Quỹ A được mua với giá 9$/cổ phần trong khi NAV của nó là 10$ - một mức
chiết khấu 10%. Thị trường tăng giá mạnh trong năm tiếp theo và NAV của quỹ
cũng tăng tới 12$, khoản chiết khấu này tiến tới 0 nên giá cổ phiếu là 12$. Như vậy
giá thị trường tăng 33% (từ 9$ lên tới 12$) nhưng NAV chỉ tăng 20% (từ 10$ lên
12$). Đó là tác dụng của đòn bẩy.

11
Nhưng ngay cả khi khoản chiết khấu không thu hẹp thì quỹ đóng vẫn có thể
chào bán cổ phần với một mức chiết khấu lớn, hấp dẫn, vì lợi suất sẽ được tăng lên.
Điều này đúng ngay cả khi khoản chiết khấu này tăng nhẹ sau khi cổ phần quỹ
được mua vào. Về căn bản, nếu quỹ đang được bán tại mức chiết khấu 20% thì các
nhà đầu tư được hưởng phần phân phối cổ tức và lợi vốn tính trên giá trị đầy đủ của
danh mục đầu tư, bởi đòn bẩy không mất tiền đang thực sự có lợi cho họ. Với một
khoản đầu tư 80 cent, các nhà đầu tư được hưởng thu nhập và sự tăng giá trên một
đô la giá trị tài sản.
Để làm rõ hơn lô-gic của mức lợi suất cao hơn do việc mua quỹ dạng đóng tại
mức giá chiết khấu, hãy giả sử một định chế tài chính bán chứng chỉ tiền gửi có
mệnh giá 100000$, thời hạn 1 năm. Thông thường, nhà đầu tư sẽ phải bỏ ra
100000$ mua chứng chỉ tiền gửi này để được nhận lãi 10% tính trên 100000$ mệnh
giá, với thời hạn 1 năm. Nhưng nhà đầu tư lại được chào cơ hội đầu tư chỉ 80000$,
được nhận tiền lãi 10% của một chứng chỉ đủ 100000$, và đến cuối năm sẽ nhận
được 80000$ gốc cộng với 10000$ tiền lãi. Như vậy nhà đầu tư này đang được
chào bán một chứng chỉ 100000$ tại mức chiết khấu 20%. Lãi suất hiệu dụng sẽ là
12,5%, tức bằng khoản lãi năm 10000$ chia cho khoản đầu tư 80000$.
Bây giờ giả sử khoản chiết khấu mở rộng một chút, và đến cuối năm nhà đầu
tư chỉ nhận lại 79000$ của khoản đầu tư ban đầu 80000$. Khoản lời ròng sẽ là
9000$ (lãi 10000$ trừ khoản mất vốn 1000$), tạo thành mức lợi suất 11,25% trên
khoản cam kết 80000$. Về cơ bản thì đó chính là cách mà nhà đầu tư nhận được
mức lợi suất cao hơn khi mua một cổ phần Quỹ đầu tư tại một mức giá chiết khấu.
Rủi ro của việc mua một quỹ đóng tại một mức giá phụ trội, tại NAV, hay
thậm chí tại một mức giá chiết khấu tương đối hẹp, sẽ là sự biến mất của khoản phụ
trội và sự mở rộng mức chiết khấu. Chẳng hạn, nếu Quỹ A được mua với giá 15$
trong khi NAV của nó là 12$ (một mức phụ trội 25%) và sau đó một năm, NAV
của nó giảm còn 10$ và giá của nó còn 9$ (chiết khấu 10%), giá đã giảm 40% trong
khi NAV chỉ giảm 17%.
Như vậy nếu một nhà đầu tư mua một quỹ cổ phiếu dạng đóng với mức phụ
trội 5% trong một thị trường bò, sau đó thị trường giảm sút và giá cổ phiếu quỹ sụt
xuống một mức chiết khấu 20%, lỗ sẽ lớn hơn nhiều so với một quỹ dạng mở,

12
không có cả chiết khấu lẫn phụ trội. Điều đó cũng giống như khi các cá nhân đã
mua cổ phiếu tại những tỷ lệ P/E quá cao, sau đó phải thất vọng về lợi nhuận.
Một số điểm cần lưu ý khi phân tích hoạt động của quỹ đầu tư
Việc phân tích một quỹ đầu tư thường sử dụng các thông tin lấy từ Bảng chỉ
tiêu tính trên cổ phần của quỹ đó, một trong những phần hữu ích nhất của bản cáo
bạch.
Bảng… Chỉ tiêu tính trên cổ phần quỹ
QUỸ XYZ

Năm kết thúc vào 31 tháng 12


2004 2005 2006
THU NHẬP VÀ CHI PHÍ TRÊN CỔ PHẦN
1. Thu nhập đầu tư 0,20$ 0,18$ 0,14$
2. Trừ chi phí 0,10 0,1 0,09
3. Thu nhập đầu tư ròng 0,1 0,08 0,05
4. Cổ tức từ thu nhập đầu tư ròng (0,10) (0,08) (0,05)
THAY ĐỔI VỐN TRÊN CỔ PHẦN
5. Lợi (lỗ) ròng được thực hiện và không được 1,00 0,10 1,50
thực hiện trên đầu tư
6. Phân phối lợi vốn ròng được thực hiện (0,70) (0,40) (1,00)
7. Tăng (giảm) ròng NAV 0,30 (0,30) 0,50
8. NAV đầu năm 8,20 8,50 8,00
9. NAV cuối năm 8,50$ 8,20 8,50
CÁC HỆ SỐ VÀ LƯỢNG CỔ PHẦN ĐANG LƯU
HÀNH
10. Hệ số chi tiêu/tài sản ròng bình quân 1,20% 1,20% 1,09%
11. Hệ số thu nhập đầu tư ròng/tài sản ròng bình 1,2% 0,96% 0,61%
quân
12. Tốc độ chuyển đổi danh mục đầu tư 61% 70% 55%
13. Cổ phần đang lưu hành (ngàn) vào cuối năm 39500 34000 32000

Tùy theo mục tiêu đầu tư và theo đó là danh mục đầu tư của từng quỹ mà việc
đánh giá chất lượng hoạt động của từng quỹ sẽ có những tiêu chí và phương pháp
cụ thể khác nhau. Dưới đây là một số tiêu chí để đánh giá hoạt động của quỹ và ban
điều hành quỹ cùng với những nguyên tắc áp dụng khi phân tích những tiêu chí đó,
tùy theo đó là quỹ mở hay quỹ đóng.

13
Tổng lợi suất
Với một quỹ dạng mở, lợi suất tổng thể được hợp thành từ ba bộ phận:
1. Cổ tức từ thu nhập đầu tư ròng. Thu nhập đầu tư (dòng 1, Bảng… ) bao gồm cổ
tức và tiền lãi nhận được từ danh mục đầu tư của quỹ, trừ đi các khoản chi phí
(dòng 2), trên cơ sở đó cổ tức của quỹ được công bố (dòng 4). Luật thuế thường
đòi hỏi các quỹ phải phân phối một tỷ lệ tối thiểu thu nhập đầu tư ròng, ở Mỹ tỷ
lệ này là 98%. Khối lượng được trả cho cổ đông quỹ được ghi trong ngoặc đơn.
2. Những khoản phân phối từ lợi vốn ròng được thực hiện. Dòng 5 thể hiện những
khoản lợi (lỗ) được thực hiện và không được thực hiện ròng trên các khoản đầu
tư. “Được thực hiện” có nghĩa là các vị thế cổ phiếu hay trái phiếu đã “đóng” lại
để thu được một khoản lợi nhuận hoặc một khoản lỗ, còn “không được thực
hiện” hàm ý những vị thế đó vẫn đang được nắm giữ. Ít nhất 98% của khoản lợi
ròng được thực hiện phải được phân phối cho cổ đông, theo luật định ở Mỹ
(dòng 6). Cũng như với cổ tức ở dòng 4, những con số này cũng được đưa vào
trong ngoặc. Giữa các dòng 5 và 6 không có một quan hệ phần trăm nào được
xác định.
3. Tăng (giảm) ròng trong giá trị tài sản ròng (NAV). Thay đổi trong NAV (dòng
7) phản ánh sự tăng giá hay giảm giá trong những tài sản mà quỹ hiện vẫn đang
nắm giữ. Thêm vào đó, nó còn bao gồm bất kỳ một khoản lợi vốn ròng hay thu
nhập đầu tư ròng nào mà đã được thực hiện nhưng chưa phân phối.
Cách quan trọng nhất để biết chất lượng hoạt động của quỹ là xem xét lợi
suất tổng thể của nó, bao gồm cả tác động của tăng giá và của cổ tức nếu có.
Nhà đầu tư có thể tìm kiếm thông tin này trên các báo, tạp chí tài chính, hoặc tự
tính lấy theo công thức:

Các khoản phân phối + thay đổi trong NAV


Tổng lợi suất =
NAV đầu kỳ

Trong ví dụ về Quỹ XYZ trên đây, mỗi cổ phần mua vào ngày 1/1 năm 2004 tại
NAV bằng 8,2$, có một khoản phân phối lợi vốn là 0,7$ và phân phối thu nhập là

14
0,1$. NAV vào cuối năm là 8,5$. Tổng lợi suất năm 1992 là 13,41% = (0,70 + 0,10
+ 8,50 – 8,20)/8,20.
Bản thân con số 13,41% không nói lên điều gì. Tổng lợi suất cần được phân tích
trên cơ sở so sánh, như được giải thích ở phần sau.
Với một quỹ đóng, công thức tính tổng lợi suất, áp dụng cho kỳ nắm giữ từ một
năm trở lại, sẽ là
Tổng lợi suất = (Thu nhập + Lợi vốn + Thay đổi giá)/Giá ban đầu
Ví dụ: một nhà đầu tư trả 8$/cổ phần quỹ XYZ khi cổ phiếu quỹ này được bán
tại mức giá chiết khấu 20% từ NAV bằng 10%, và giữ cổ phiếu này trong một năm.
Đến cuối năm, NAV của cổ phần quỹ XYZ tăng lên tới 10,5$, khoảng chiết khấu
thu hẹp lại và quỹ được giao dịch ở mức giá 9,5$/cổ phần. Một điểm quan trọng
cần nhớ khi tính tổng lợi suất là mức giá đã tăng thêm 1,5$, (bằng 9,5$ trừ 8$). Giả
sử thêm rằng tổng các khoản phân phối thu nhập trong năm là 0,2$/cổ phần, và
phân phối lợi vốn là 0,8$/cổ phần. Như vậy, áp dụng công thức trên:
Tổng lợi suất = (0,20 + 0,80 + 1,50)/8 = 2,50/8,00 = 31,25%.
Sự thu hẹp khoảng chiết khấu từ mức 20% ban đầu còn 9,5% vào cuối năm đã
đóng góp phần đáng kể vào tổng lợi suất. Nếu ta tính tổng lợi suất trên cơ sở NAV
và sự thay đổi của nó thì kết quả thu được chỉ là 15% = (0,2 + 0,8 + 0,5)/10. Mức
lợi suất 15% phản ánh thành tích của nhà quản trị quỹ, còn 31,25% cho thấy thành
tích của nhà đầu tư. Để cho đơn giản, ta bỏ qua thuế và chi phí giao dịch. Công
thức này chỉ phù hợp nếu quỹ được nắm giữ từ một năm trở lại. Nếu thời gian nắm
giữ dưới một năm thì lợi suất phải tính quy đổi về năm, còn nếu thời gian nắm giữ
dài hơn một năm thì phải tính thành lợi suất kép, theo cách tính thông thường.Với
quỹ đóng thành tích hoạt động nên được xem xét trong một khoảng thời gian tương
đối dài.
Phân tích chi phí
Hệ số chi tiêu là tỷ lệ của tổng chi phí so với tài sản ròng bình quân. Số liệu
thống kê này rất quan trọng, phản ánh hiệu quả hoạt động và tính hiệu quả chi phí
của một quỹ. Hệ số này càng nhỏ càng tốt. Các hệ số chi tiêu trong quá khứ có thể
tìm thấy trong Bảng các chỉ tiêu tính trên cổ phần.

15
Vì hệ số chi tiêu có thể thay đổi nên nó thường được tính thành số bình quân
trong một khoảng thời gian, ba hoặc năm năm gần nhất. Quỹ XYZ có hệ số chi tiêu
bình quân trong ba năm qua là 1,16%.
Tùy theo danh mục đầu tư, hệ số chi tiêu có thể thay đổi trong khoảng từ dưới
0,5% cho tới trên 5%. Hệ số chi tiêu dưới 1% được coi là thấp. Đôi khi nhà đầu tư
có thể phải chấp nhận một con số cao hơn nếu họ cần có một loại danh mục đầu tư
cụ thể nào đó. Cần chú ý bốn điểm sau đây:
1. Những quỹ nhỏ thường có hệ số chi tiêu cao hơn so với các quỹ lớn là những
quỹ được hưởng lợi ích kinh tế nhờ quy mô, vì phí quản lý và các loại chi phí
khác được rải trên một cơ số tài sản lớn hơn.
2. Nếu các yếu tố khác là như nhau thì các quỹ có quy mô trung bình của tài sản
nhỏ hơn thường có hệ số chi tiêu cao hơn. Những quỹ này thường có ngưỡng
đầu tư tối thiểu thấp. Tài khoản nhỏ hơn kéo theo chi phí dịch vụ cổ đông cao
hơn.
3. Các quỹ đầu tư quốc tế thường có hệ số chi tiêu cao hơn nhiều so với các danh
mục đầu tư nội địa, do có chi phí nghiên cứu và các khoản chi phí khác gắn với
đầu tư ra nước ngoài.
4. Các quỹ cổ phiếu có hệ số chi tiêu cao hơn so với các danh mục có thu nhập cố
định.
Phân tích các khoản phân phối
Các khoản phân phối của một quỹ bao gồm phân phối thu nhập (cổ tức và tiền
lãi) và phân phối lợi vốn. Có thể phân tích gộp chung hai chỉ tiêu này hoặc phân
tích tách rời.
Với một quỹ dạng mở, hệ số thu nhập là thu nhập đầu tư ròng chia cho tài sản
ròng bình quân, tương tự như tỷ suất cổ tức của một cổ phiếu. Hệ số này chỉ tập
trung vào thu nhập nên nó phải nhỏ hơn tổng lợi suất. Quỹ XYZ trên đây có hệ số
thu nhập bình quân trong ba năm là 0,92%. Những danh mục chỉ tập trung vào mục
tiêu tăng vốn sẽ có hệ số này rất thấp, có khi bằng 0. Trái lại những quỹ cổ phiếu
định hướng vào thu nhập và các danh mục cân bằng có thể có hệ số này bằng 4%
hay 5%, thậm chí cao hơn.

16
Với quỹ đóng, khi phân tích thu nhập người ta có thể sử dụng hai chỉ số là 1) hệ
số tổng các khoản phân phối bình quân trên NAV bình quân, và 2) hệ số các khoản
phân phối thu nhập đầu tư ròng bình quân trên tổng các khoản phân phối bình quân.
Trong bảng dưới đây, hệ số các khoản phân phối thu nhập bình quân là 24,82% =
0,68/2,74. Con số này cho biết nhà đầu tư có thể kỳ vọng khoản phân phối trong
tương lai sẽ ổn định đến mức nào. Hệ số này dao động trong khoảng từ 0 tới 100%.
Một quỹ định hướng mạnh hơn vào thu nhập mà có giá trị này càng cao thì khoản
phân phối này càng có nhiều khả năng được duy trì. Tuy nhiên, khoản lợi vốn thì
tương đối khó dự đoán hơn, và một quỹ mà có phân phối lợi vốn cao trong một vài
năm gần đây đồng thời thu nhập rất thấp hoặc không có thu nhập thì có thể không
duy trì được khoản phân phối này.
Bảng… Các khoản phân phối trên cổ phần của quỹ dạng đóng OPQ ($)

Các khoản phân phối hàng năm (trên cổ


Cuối năm NAV phần)
Thu nhập Lợi vốn Tổng
1989 18,35 0,7 1,36 2,06
1988 16,11 0,5 1,32 1,82
1987 15,92 0,78 2,66 3,44
1986 19,51 0,71 3,74 4,45
1985 20,54 0,72 1,2 1,92
BÌNH QUÂN 18,09 0,68 2,06 2,74

Khoản tăng giá không được thực hiện


Với các nhà đầu tư vào quỹ cổ phiếu, một chỉ tiêu rất được quan tâm là khối
lượng của khoản tăng giá không thực hiện trên các cổ phiếu trong danh mục đầu tư
của quỹ. Thông tin này có thể xuất hiện trên những phần khác nhau trong bản báo
cáo gửi cho cổ đông của các quỹ khác nhau. Những quỹ có khối lượng của khoản
tăng giá không thực hiện lớn có thể được bán với mức chiết khấu lớn, bởi vì nếu
khoản lợi vốn được thực hiện, các nhà đầu tư của quỹ sẽ phải chịu một nghĩa vụ
thuế tức thời trên tỷ lệ sở hữu của họ, không cần biết họ đã là cổ đông của quỹ
trong thời gian bao lâu.
Nếu nhà đầu tư thích đầu tư lâu dài vào một quỹ nào đó, họ có thể tránh được
khoản thuế phải trả trên phần tăng giá không thực hiện bằng cách đưa khoản tăng

17
giá đó vào một chương trình hưu trí tránh thuế, khi đó khoản tăng giá đó dù được
thực hiện cũng không làm phát sinh nghĩa vụ thuế.
Để tiện so sánh khoản tăng giá không thực hiện của các quỹ với nhau, có thể lấy
khối lượng tăng giá không thực hiện đó chia cho tổng tài sản của quỹ, và so sánh
trực tiếp chỉ tiêu này giữa các quỹ.
Tỷ lệ thay thế danh mục đầu tư
Chỉ tiêu này đo khối lượng mua và bán mà ban điều hành quỹ đã thực hiện. Nó
được tính bằng số lượng tài sản đã mua vào hoặc đã bán ra (tùy theo số nào nhỏ
hơn) chia cho tài sản ròng của quỹ.
Tỷ lệ thay thế 100% có nghĩa là ban điều hành quỹ đã nắm giữ mỗi cổ phiếu
hay trái phiếu trung bình trong một năm. Tương tự, tỷ lệ thay thế 50% cho biết các
vị thế được nắm giữ trong hai năm; 200% tương ứng với thời gian nắm giữ sáu
tháng, v.v Quỹ cổ phiếu trung bình có tỷ lệ thay thế từ 75% tới 85%, song cũng có
những danh mục có tỷ lệ này trên 500% hay thậm chí tới 1000%, và cũng có những
tỷ lệ thấp, chỉ 10%. Sự khác biệt này là do loại hình quỹ và triết lý đầu tư của người
quản trị quỹ quy định. Một số nhà quản trị tìm kiếm lợi nhuận nhanh chóng và sẽ
có khuynh hướng mua vào bán ra với tần suất cao. Một số người lại theo đuổi chiến
lược dài hạn, mua và nắm giữ. Các quỹ dựa nhiều vào các quyền chọn, hợp đồng
tương lai hay chiến lược bán khống thường có tỷ lệ thay thế cao hơn và chi phí giao
dịch cũng cao hơn. Nhưng nếu hoạt động này không đem lại kết quả tốt một cách
thường xuyên, thì phải lựa chọn một hướng khác. Với các điều kiện khác không
thay đổi, nhà đầu tư nên xây dựng các danh mục cổ phiếu với tỷ lệ thay thế không
quá 60%, tỷ lệ lớn hơn thế có nghĩa là chi phí giao dịch có thể đang quá lớn.
Ngoài khoản hoa hồng môi giới mà quỹ phải trả được đưa vào bản cáo bạch của
quỹ, có những khoản chi phí còn quan trọng hơn mà thực sự là không thể thể hiện ở
đó được. Chúng bao gồm khoản chênh lệch giá mà các nhà giao dịch được hưởng
và các tác động của quy mô giao dịch, cả hai yếu tố này đều có thể giảm lợi suất
đầu tư. Khoản chênh lệch giá mà các quỹ phải trả là một phần của chi phí giao
dịch, cùng với hoa hồng, nhưng lại không dễ dàng giảm thiểu được như đối với hoa
hồng. Nó thường lớn hơn hoa hồng môi giới, đặc biệt là nếu nhà quản trị quỹ giao
dịch những cổ phiếu nhỏ, kém thanh khoản. Nếu một cổ phiếu được giao dịch thưa
thớt trong khi nhà quản trị lại muốn mua hoặc bán nó thật nhanh, thì ông ta sẽ gặp
18
phải những tác động bất lợi về giá. Những lệnh có khối lượng lớn gửi đi một tín
hiệu rằng một điều gì đó không bình thường có thể đang xẩy ra với cổ phiếu, và
nhà giao dịch sẽ nhanh chóng phản ứng bằng việc điều chỉnh mức giá yết.
Những khoản chi phí này không thể hiện trên bản cáo bạch, song chúng có thể
phương hại tới thành tích đầu tư. Chính vì thế những quỹ thực hiện ít giao dịch lại
là những quỹ làm giàu hơn cho các nhà đầu tư.

Tóm tắt chương

 Quỹ đầu tư tập trung tiền của nhiều nhà đầu tư nhỏ và mua những lượng chứng
khoán lớn. Có rất nhiều loại quỹ được thiết kế để hấp dẫn đa số các chiến lược
đầu tư. Các quỹ được cấu trúc theo mô hình công ty đầu tư. Và một công ty
quản trị quỹ lại có thể quản trị nhiều dòng quỹ.

 Quỹ đóng có lượng cung cổ phần là cố định. Cổ phần của quỹ đóng được giao
dịch trên thị trường thứ cấp giống như bất kỳ cổ phiếu nào khác. Quỹ mở sẵn
sàng mua vào và bán ra cổ phần quỹ theo nhu cầu của khách hàng, lượng cung
cổ phần quỹ tăng hay giảm tùy theo khối lượng và tần suất của việc mua bán đó.
Quỹ có thể thu phí hoặc không thu phí. Phí là một yếu tố quan trọng ảnh hưởng
tới lợi nhuận của quỹ, và rất khác nhau giữa các quỹ.

 Một thông số quan trọng là cơ sở để hình thành giá trị thị trường của các cổ
phần quỹ là NAV. Đó là giá trị tài sản ròng trên một cổ phần của một quỹ. Với
quỹ mở, các cổ phần được mua, bán theo NAV được tính vào cuối mỗi ngày
giao dịch. Với quỹ đóng, giá giao dịch cổ phần quỹ do cung, cầu xác định, xoay
quanh NAV. Phần chênh lệch giữa mức giá giao dịch của cổ phần so với NAV
của nó được gọi là khoản chiết khấu hay khoản phụ trội. Đối với quỹ đóng, diễn
biến của khoản chiết khấu và khoản phụ trội là rất quan trọng.

 Để đánh giá hoạt động của một quỹ đầu tư làm cơ sở cho việc ra quyết định đầu
tư, có thể xem xét, tính toán và phân tích nhiều tiêu chí của quỹ, như tổng lợi
suất, thu nhập, phân phối, chi phí, tỷ lệ thay thế danh mục đầu tư, khoản tăng

19
giá không thực hiện…mặc dù với từng loại quỹ, cách tính toán chi tiết và tầm
quan trọng của từng loại tiêu chí có thể ít nhiều có khác biệt.

Câu hỏi và bài tập


1. Thế nào là một quỹ tương hỗ? Vì sao lại gọi nó là một trung gian tài chính?
2. Trình bầy những lý do kinh tế cho sự tồn tại của quỹ đầu tư (tức là những lợi
ích mà quỹ đầu tư cung cấp cho các nhà đầu tư). Vì sao các nhà đầu tư cá nhân
chứ không phải là các công ty cổ phần là người nắm giữ phần lớn cổ phần quỹ
đầu tư?
3. Ba thành phần trong lợi tức mà một nhà đầu tư có thể nhận được từ một quỹ đầu
tư là gì?
4. Một nhà đầu tư mua chứng chỉ một quỹ tương hỗ với giá 50$. Quỹ trả cổ tức
1,5$, phân phối khoản lợi vốn 2$ và đòi mức phí 2$ khi chứng chỉ được bán sau
đó một năm, với giá 52,5$. Lợi suất ròng trên khoản đầu tư này là bao nhiêu?
5. Một quỹ tương hỗ có 400 cổ phần Fiat hiện đang giao dịch với giá 7$, và 400 cổ
phần Microsoft hiện đang giao dịch với giá 70$. Quỹ có 100 cổ phần đang lưu
hành (chứng chỉ quỹ)
a. Giá trị tài sản ròng (NAV) của quỹ là bao nhiêu?
b. Nếu các nhà đầu tư dự tính giá của các cổ phần Fiat tăng lên tới 9$ và cổ
phần Microsoft giảm còn 55$ vào cuối năm, NAV dự tính vào cuối năm sẽ
là bao nhiêu?
c. Giả sử giá dự tính của cổ phần Fiat trở thành hiện thực, 9$. Mức giảm giá
tối đa có thể xẩy ra đối với cổ phần Microsoft là bao nhiêu để NAV vào
cuối năm bằng với mức NAV dự tính?
6. Cho biết sự khác nhau giữa quỹ đầu tư dạng đóng và quỹ đầu tư dạng mở. Loại
quỹ nào có xu hướng chuyên môn hóa mạnh hơn khi lựa chọn tài sản đầu tư.
Một quỹ đầu tư dạng đóng cung cấp thêm một nguồn lợi tức nữa mà từ đó một
nhà đầu tư có thể hoặc là thu lời hoặc bị lỗ. Hãy giải thích điều này.

20
7. Quỹ đầu tư dạng mở A có 100 cổ phần AT&T có giá trị 100$/cổ phần và 50 cổ
phần Toro, 50$/cổ phần. Quỹ đóng B có 75 cổ phần AT&T và 100 cổ phần
Toro. Mỗi quỹ đều có 100 cổ phần quỹ đang lưu hành.
a. Với những mức giá trên đây, NAV của mỗi quỹ là bao nhiêu?
b. Giả sử sau một tháng, giá cổ phiếu AT&T tăng lên tới 105$/cổ phần và giá
cổ phiếu Toro giảm còn 45$. Những thay đổi này tác động tới NAV của cả
hai quỹ như thế nào? Nếu cổ phần các quỹ được mua tại mức giá NAV trong
câu (a) và được bán vào cuối tháng, thì lợi suất được thực hiện trên các
khoản đầu tư này sẽ là bao nhiêu?
c. Giả sử có thêm 100 cổ phần AT&T được bổ sung vào Quỹ A. NAV của Quỹ
A thay đổi như thế nào nếu giá cổ phiếu vẫn giữ nguyên như ban đầu?

Những thuật ngữ quan trọng


Công ty đầu tư
Quỹ dạng mở
Quỹ dạng đóng
Quỹ tín thác đơn nguyên
Phí nhập quỹ (front-end loads)
Phí thoát quỹ (back-end loads)
Giá trị tài sản ròng (net asset values)
Khoản chiết khấu (discount)
Khoản phụ trội (premium)
Khoản tăng giá không thực hiện (unrealized – appreciation)
Tỷ lệ thay thế danh mục đầu tư (portfolio turnover)
Quỹ tính phí (load fund)
Quỹ không tính phí (no-load fund)

21

You might also like