You are on page 1of 74

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI


VIỆN ĐÀO TẠO BÁO CHÍ VÀ TRUYỀN THÔNG

TIỂU LUẬN CUỐI KÌ


HỌC PHẦN: LÝ LUẬN BÁO CHÍ TRUYỀN THÔNG

Giảng viên: TS. Đỗ Anh Đức

Sinh viên thực hiện: Hà Tuấn Minh – 22030036


Kiều Thu An – 22030001

K67 Báo chí

Hà Nội, tháng1 06 năm 2023


TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
VIỆN ĐÀO TẠO BÁO CHÍ VÀ TRUYỀN THÔNG

ĐỀ TÀI: THỰC TRẠNG ĐỊNH HƯỚNG NGHỀ NGHIỆP CỦA SINH


VIÊN BÁO CHÍ TRONG THỜI ĐẠI SỐ HIỆN NAY

HỌC PHẦN: LÝ LUẬN BÁO CHÍ TRUYỀN THÔNG

Giảng viên: TS. Đỗ Anh Đức

Sinh viên thực hiện: Hà Tuấn Minh – 22030036


Kiều Thu An – 22030001

Hà Nội, tháng 06 năm 2023

2
MỤC LỤC
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT .................................................................................... 6
DANH MỤC BIỂU ĐỒ ................................................................................................ 7
DANH MỤC BẢNG ..................................................................................................... 8
MỞ ĐẦU ........................................................................................................................ 9
1. Lý do chọn đề tài ................................................................................................... 9
2. Lịch sử nghiên cứu ............................................................................................. 10
3. Mục tiêu nghiên cứu ........................................................................................... 12
4. Nhiệm vụ nghiên cứu .......................................................................................... 12
5. Đối tượng, khách thể, phạm vi nghiên cứu ...................................................... 12
6. Câu hỏi nghiên cứu ............................................................................................. 13
6.1. Câu hỏi nghiên cứu chủ đạo: ...................................................................... 13
6.2. Câu hỏi nghiên cứu bổ trợ .......................................................................... 13
7. Giả thuyết nghiên cứu ........................................................................................ 13
7.1. Giả thuyết nghiên cứu chủ đạo................................................................... 13
7.2. Giả thuyết nghiên cứu bổ trợ ..................................................................... 14
8. Phương pháp nghiên cứu ................................................................................... 14
9. Ý nghĩa lý luận và ý nghĩa thực tiễn của đề tài ................................................ 15
9.1. Về mặt lý luận .............................................................................................. 15
9.2. Về mặt thực tiễn ........................................................................................... 15
10. Kết cấu đề tài..................................................................................................... 15
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ ĐỊNH HƯỚNG NGHỀ
NGHIỆP CỦA SINH VIÊN BÁO CHÍ TRON THỜI ĐẠI SỐ .............................. 16
1.1. Thời đại số ........................................................................................................ 16
1.2. Định hướng nghề nghiệp trong thời đại số .................................................... 16
1.2.1. Định nghĩa “Định hướng nghề nghiệp” .................................................. 16
1.2.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến định hướng nghề nghiệp của sinh viên
trong thời đại số .................................................................................................. 17
1.3. Sinh viên ngành báo chí .................................................................................. 18
1.3.1. Định nghĩa “sinh viên báo chí” ............................................................... 18
1.3.2. Đặc điểm của sinh viên báo chí trong thời đại số .................................. 19
1.4. Quan điểm của Đảng, chính sách pháp luật Nhà nước về hoạt động định
hướng nghề nghiệp ................................................................................................. 20
1.5. Giới thiệu về cơ hội việc làm của sinh viên báo chí ..................................... 21
1.5.1. Cơ hội nghề nghiệp trong lĩnh vực báo chí truyền thống ..................... 21

3
1.5.2. Cơ hội nghề nghiệp trong lĩnh vực truyền thông và lĩnh vực khác ..... 22
TIỂU KẾT CHƯƠNG I ............................................................................................. 24
CHƯƠNG 2: KHẢO SÁT THỰC TRẠNG VÀ CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG
ĐẾN ĐỊNH HƯỚNG NGHỀ NGHIỆP CỦA SINH VIÊN BÁO CHÍ HIỆN NAY
...................................................................................................................................... 25
2.1. Khảo sát các cơ sở giáo dục đào tạo báo chí ................................................. 25
2.1.1. Viện Báo chí và Khoa phát thanh - truyền hình - Học viện Báo chí và
Tuyên truyền ....................................................................................................... 25
2.1.2. Viện đào tạo báo chí và truyền thông - Trường Đại học Khoa học xã
hội và Nhân văn, ĐHQG Hà Nội ....................................................................... 26
2.1.3. Khoa báo chí và truyền thông - Trường Đại học Khoa học xã hội và
Nhân văn, ĐHQG HCM..................................................................................... 27
2.2. Kết quả khảo sát chung về định hướng nghề nghiệp của sinh viên ............ 27
2.2.1. Về các đối tượng sinh viên tham gia khảo sát ........................................ 27
2.2.2. Về sự chủ động trong việc tiếp cận hoạt động hướng nghiệp của sinh
viên báo chí .......................................................................................................... 29
2.2.3. Về kỳ vọng của sinh viên khi tốt nghiệp Cử nhân ngành Báo chí ....... 30
2.2.4. Về định hướng nơi làm việc của sinh viên báo chí ................................ 31
2.3. Kết quả về định hướng công việc tương lai của sinh viên ngành báo chí .. 32
2.3.1. Trong lĩnh vực báo chí truyền thống ...................................................... 33
2.3.2. Trong lĩnh vực truyền thông và lĩnh vực khác ...................................... 36
2.4. Quan điểm của sinh viên báo chí về các yếu tố ảnh hưởng đến định hướng
nghề nghiệp ............................................................................................................. 40
2.4.1. Lý do sinh viên chọn theo học ngành báo chí ........................................ 40
2.4.2. Quan điểm của sinh viên ngành báo chí về ảnh hưởng của nhóm yếu tố
chủ quan đến định hướng nghề nghiệp ............................................................ 42
2.4.3. Quan điểm của sinh viên ngành báo chí về ảnh hưởng của nhóm yếu tố
khách quan đến định hướng nghề nghiệp ........................................................ 43
2.5. Mức độ hài lòng của sinh viên ngành báo chí đối với công tác định hướng
nghề nghiệp của các cơ sở đào tạo ........................................................................ 48
2.5.1. Đánh giá mức độ hài lòng của của sinh viên về công tác tổ chức các
hoạt động định hướng nghề nghiệp .................................................................. 48
2.5.2. Đánh giá mức độ hài lòng của sinh viên về việc lồng ghép công tác
định hướng nghề nghiệp trong hoạt động giảng dạy ...................................... 51
2.5.3. Các đề xuất nguyện vọng của sinh viên đối với công tác định hướng
nghề nghiệp của các cơ sở đào tạo .................................................................... 53
TIỂU KẾT CHƯƠNG 2 ............................................................................................. 55

4
CHƯƠNG 3: MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐẶT RA VÀ ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP NÂNG
CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG ĐỊNH HƯỚNG NGHỀ NGHIỆP CHO SINH
VIÊN NGÀNH BÁO CHÍ TRONG THỜI ĐẠI SỐ ................................................ 56
3.1. Đánh giá chung về vấn đề định hướng nghề nghiệp của sinh viên báo chí
trong thời đại số ...................................................................................................... 56
3.1.1. Thành công ................................................................................................ 56
3.1.2. Hạn chế ...................................................................................................... 60
3.2. Khuyến nghị giải pháp nhằm nâng cao chất lượng hoạt động hướng
nghiệp cho sinh viên báo chí trong thời đại số ..................................................... 62
TIỂU KẾT CHƯƠNG 3 ............................................................................................. 64
KẾT LUẬN ................................................................................................................. 65
TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................................... 67
PHỤ LỤC: MẪU BẢNG HỎI KHẢO SÁT ............................................................. 70

5
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
Ký hiệu Nguyên nghĩa
ĐHQG TP.HCM Đại học quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh
ĐHQGHN Đại học quốc gia Hà Nội

THCS Trung học cơ sở

THPT Trung học phổ thông

Trường ĐHKHXH&NV Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn
USSH

AJC Học viện Báo chí và Tuyên truyền

TW Trung Ương

6
DANH MỤC BIỂU ĐỒ
Số thự tự biểu đồ Tên biểu đồ
Biểu đồ 2.1 Tỉ lệ sinh viên báo chí tham gia khảo sát ở 3 đơn vị đào tạo
Biểu đồ 2.2 Sự chủ động trong việc tiếp cận hoạt động hướng nghiệp của sinh
viên báo chí

Biểu đồ 2.3 Kỳ vọng của sinh viên sau khi tốt nghiệp Cử nhân ngành Báo chí
Biểu đồ 2.4 Dự định nơi làm việc sau khi tốt nghiệp

Biểu đồ 2.5 Định hướng lĩnh vực công việc

Biểu đồ 2.6 Loại hình báo chí mong muốn làm việc
Biểu đồ 2.7 Định hướng công việc cụ thể trong lĩnh vực báo chí

Biểu đồ 2.8 Cơ quan báo chí mong muốn làm việc

Biểu đồ 2.9 Định hướng công việc cụ thể trong lĩnh vực truyền thông và
lĩnh vực khác

Biểu đồ 2.10 Lí do sinh viên không lựa chọn công việc theo định hướng báo chí
chính thống

Biểu đồ 2.11 Quan điểm của sinh viên về tính ứng dụng của chương trình học
đối với công việc tương lai

Biểu đồ 2.12 Các kỹ năngtrong chương trình đào tạo báo chí ứng dụng được cho
công việc tương lai

Biểu đồ 2.13 Lý do sinh viên chọn ngành báo chí

Biểu đồ 2.14 Quan điểm sinh viên về chương trình đào tạo của các cơ sở đào tạo
báo chí

Biểu đồ 2.15 Đề xuất của sinh viên về công tác định hướng nghề nghiệp của các cơ
sở đào tạo báo chí

7
DANH MỤC BẢNG
Số thự tự bảng Tên bảng
Bảng 2.1 Sự khác biệt về lựa chọn nghề nghiệp giữa các trường

Bảng 2.2 Quan điểm của sinh viên về mức độ ảnh hưởng của nhóm yếu tố chủ
quan đối với định hướng nghề nghiệp tương lai

Bảng 2.3 Sự khác nhau trong quan điểm của sinh viên các trường và các năm
học về ảnh hưởng của các nhóm yếu tố chủ quan đến định hướng
nghề nghiệp

Bảng 2.4 Quan điểm của sinh viên ngành báo chí về ảnh hưởng của nhóm yếu
tố đến từ môi trường xã hội tới định hướng nghề nghiệp

Bảng 2.5 Sự khác nhau trong quan điểm của sinh viên các trường và các năm
học về ảnh hưởng của các nhóm yếu tố môi trường xã hội đến định
hướng nghề nghiệp

Bảng 2.6 Quan điểm của sinh viên ngành báo chí về ảnh hưởng của nhóm yếu
tố đến từ đặc thù công việc tới định hướng nghề nghiệp

Bảng 2.7 Sự khác nhau trong quan điểm của sinh viên các trường và các năm
học về ảnh hưởng của các nhóm yếu tố đặc thù công việc đến định
hướng nghề nghiệp

Bảng 2.8 Mức độ hài lòng của sinh viên ngành báo chí về
công tác tổ chức hoạt động định hướng nghề nghiệp

Bảng 2.9 Mức độ hài lòng về công tác hướng nghiệp của sinh viên các trường
và các năm học

Bảng 2.10 Mức độ hài lòng của sinh viên ngành báo chí về việc lồng ghép công
tác định hướng nghề nghiệp trong hoạt động giảng dạy

8
MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Định hướng nghề nghiệp là một trong những nhân tố giữ vai trò quan trọng trong
việc quyết định sự thành công và phát triển của mỗi cá nhân. Việc định hướng nghề
nghiệp đúng đắn sẽ giúp cho sinh viên sau khi tốt nghiệp có một vị trí phù hợp với năng
lực, sở thích; phát huy được năng lực của bản thân và góp phần đánh giá được mức độ
đáp ứng của chương trình đào tạo của đơn vị đối với yêu cầu thực tiễn của thị trường
lao động (Bùi Hà Phương và cộng sự, 2020). Định hướng nghề nghiệp không chỉ có ý
nghĩa đối với cá nhân mà còn đóng vai trò rất lớn đối với sự phát triển của xã hội, phát
huy nguồn nhân lực chất lượng cao để đáp ứng các nhu cầu của thị trường lao động
trong bối cảnh thời đại số. Việc mỗi cá nhân lựa chọn nghề nghiệp phù hợp cũng góp
phần vào việc phân luồng, sử dụng lao động hợp lý để thúc đẩy phát triển kinh tế, xã
hội bền vững.
Trong bối cảnh chuyển giao công nghệ số hiện nay, nhu cầu xã hội đối với nguồn
nhân lực thuộc nhóm ngành báo chí - truyền thông ngày càng lớn. Sinh viên theo học
ngành báo chí ngày càng nhiều cơ hội để có được những công việc phù hợp với năng
lực của bản thân và đáp ứng được nhu cầu của thị trường lao động. Lựa chọn nghề
nghiệp của sinh viên thuộc nhóm ngành báo chí - truyền thông cũng rất đa dạng, có thể
làm việc ở trong nhiều lĩnh vực và môi trường xã hội khác nhau.
Bên cạnh những thuận lợi, sinh viên ngành báo chí cũng phải đối mặt với những
khó khăn mới trước thời đại số. Sự ra đời và phát triển của công nghệ trí tuệ nhân tạo,
tiêu biểu với phần mềm hỗ trợ tìm kiếm và biên tập thông tin ChatGPT đã ảnh hưởng
đến nhu cầu xã hội đối với nguồn nhân lực thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau, trong đó có
lĩnh vực báo chí, từ đó tác động đến lý tưởng nghề nghiệp của nhóm sinh viên đang theo
học ngành nghề này.
Từ những lý do trên, nhóm tác giả quyết định lựa chọn đề tài “Thực trạng định
hướng nghề nghiệp của sinh viên báo chí trong thời đại số hiện nay”. Trước hết, đề
tài cung cấp góc nhìn khái quát về bối cảnh chung và các yếu tố ảnh hưởng đến định
hướng nghề nghiệp của sinh viên Báo chí. Thứ hai, đề tài thực hiện đánh giá mức độ
hài lòng của sinh viên đối với công tác định hướng nghề nghiệp tại các đơn vị đào tạo

9
cử nhân ngành Báo chí. Cuối cùng, đề tài trình bày một số vấn đề liên quan đến định
hướng nghề nghiệp của sinh viên ngành báo chí và đề xuất, khuyến nghị một số giải
pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác định hướng nghề nghiệp đối với sinh viên đang
theo học ngành này, giúp sinh viên có cơ sở để định hướng nghề nghiệp thích hợp.

2. Lịch sử nghiên cứu


Hiện nay, đã có nhiều bài viết, công trình nghiên cứu về định hướng nghề nghiệp
của học sinh, sinh viên và thanh niên hiện nay.
Đối với đối tượng khảo sát là học sinh, đã có rất nhiều các tác giả tham gia nghiên
cứu đề tài về hoạt động hướng nghiệp với các khía cạnh về địa hình, độ tuổi, giới tính
ở góc độ xã hội học. Đề tài “Nhận thức nghề và lựa chọn nghề của học sinh THPT dân
tộc nội trú tỉnh Bắc Giang” năm 2008 của tác giả Nguyễn Minh Ngọc (Trường Đại học
Khoa học Xã hội và Nhân văn) cho thấy có rất nhiều nguyên nhân khiến các em học
sinh còn gặp nhiều khó khăn khi lựa chọn nghề nghiệp. Hay như đề tài “Xu hướng chọn
nghề nghiệp của học sinh cuối cấp THCS và học sinh THPT tỉnh Bình Dương hiện nay”
của tác giả Huỳnh Văn Sơn cho thấy hơn 90% học sinh tiếp tục thi vào Đại học, cao
đẳng hoặc trung học chuyên nghiệp [20, tr.128]. Điều này phản ánh xu thế về quan niệm
“Đại học và cao đẳng như con đường duy nhất vào đời” [20, tr.130]. Ngoài ra, còn rất
nhiều đề tài nghiên cứu về định hướng nghề nghiệp sinh viên, có thể kể đến một số đề
tài tiêu biểu như: “Vai trò của cha mẹ trong việc định hướng bậc học, nghề của con cái
trong các gia đình đô thị hiện nay” năm 2011 của tác giả Nguyễn Thị Phương Dung
(Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn), “Định hướng nghề nghiệp của học
sinh khối 12 trường THPT Trần Hưng Đạo, Quận Thanh Xuân, Thành Phố Hà Nội”
năm 2019 của tác giả Đỗ Xuân Hoà (Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn),
“Định hướng nghề của học sinh ở một số trường THPT trên địa bàn Hà Nội” năm 2017
của tác giả Bùi Thị Thuý Hằng (đăng trên Tạp chí giáo dục). Còn rất nhiều các đề tài
nghiên cứu về hoạt động hướng nghiệp trên các bài đăng tạp chí và các luận văn Thạc
sĩ, Tiến sĩ. Tuy nhiên, do khả năng nghiên cứu có hạn, nhóm tác giả không thể thống kê
được hết các đề tài. Nhưng tất cả những tài liệu ấy đều là cơ sở lý luận và thực tiễn nền
tảng để nhóm tác giả có thêm góc nhìn đa chiều hơn về hoạt động hướng nghiệp của

10
giới trẻ hiện nay, đồng thời là nguồn tài liệu tham khảo hữu ích phục vụ cho công tác
phân tích tài liệu nghiên cứu và khảo sát thực tế về vấn đề này.
Đối với đối tượng khảo sát là sinh viên - thanh niên, có rất nhiều tác giả đã thực
hiện đề tài và các công trình nghiên cứu về hoạt động hướng nghiệp. Đề tài “Yếu tố ảnh
hưởng đến định hướng nghề nghiệp của sinh viên khoa Thư viện - Thông tin học, trường
Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hồ Chí Minh” của nhóm tác
giả của Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn, ĐHQG TPHCM cho thấy năng
lực của sinh viên là yếu tố ảnh hưởng nhất đến việc định hướng nghề nghiệp của sinh
viên sau khi tốt nghiệp (62,8%). Ngoài ra, còn các yếu tố khác ảnh hưởng đến định
hướng chọn nghề của sinh viên: sở thích, đam mê (52,6%), nhu cầu xã hội (50%), định
hướng của gia đình (5,1%). Hay như trong đề tài “Vấn đề hướng nghiệp cho thanh niên
trên báo điện tử” (Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn), tác giả Nguyễn
Ngọc Anh Thư đã chỉ ra thanh niên trong độ tuổi từ 16-22 có nhu cầu cao về tìm kiếm
thông tin về định hướng nghề nghiệp trên báo điện tử, với số liệu 42% thanh niên được
khảo sát cho biết rất thường xuyên và thường xuyên tìm kiếm thông tin về định hướng
nghề nghiệp trên báo điện tử. Bên cạnh đó, đề tài “Báo chí với vấn đề hướng nghiệp cho
học sinh, sinh viên hiện nay” (Khảo sát Báo Giáo dục và Thời đại, Thanh niên, Sinh
viên Việt Nam 2006 - 2009) của tác giả Cấn Thị Hải Yến đã tìm hiểu chủ trương, chính
sách của Đảng và Nhà nước về vấn đề hướng nghiệp cho học sinh, sinh viên, đồng thời
đánh giá và nhận xét về nội dung và hình thức thông tin về vấn đề hướng nghiệp cho
học sinh, sinh viên trên báo in. Ngoài ra, còn rất nhiều các đề tài về vấn đề hướng nghiệp
cho đối tượng là sinh viên, thanh niên với các điều kiện về địa hình, kinh tế ở phương
diện báo chí. Có thể kể đến một số đề tài: “Vấn đề hướng nghiệp cho thanh niên dân
tộc thiểu số trên báo điện tử hiện nay” (tác giả Lê Thị Hồng Nhung), “Vấn đề thông tin
giáo dục hướng nghiệp trên báo in hiện nay” (tác giả Nguyễn Thị Việt Hưng), “Vấn đề
hướng nghiệp cho thanh niên nông thôn trên kênh truyền hình” (tác giả Lê Thị Nhung).
Còn rất nhiều các đề tài liên quan đến hoạt động hướng nghiệp của sinh viên ở các góc
độ quản lý giáo dục hay xã hội học. Tuy nhiên, trong khuôn khổ phạm vi của đề tài
nghiên cứu và khả năng của nhóm tác giả, các đề tài trên đã góp phần xây dựng những
nền tảng vững chắc về cơ sở lý luận và thực tiễn hoạt động hướng nghiệp cho đối tượng
sinh viên, thanh niên.

11
Nhìn chung, các đề tài trên đã đề cập đến các yếu tố ảnh hưởng đến định hướng
nghề nghiệp của học sinh, sinh viên, thanh niên; đồng thời nêu ra các khuyến nghị, giải
pháp nhằm nâng cao chất lượng định hướng nghề nghiệp. Tuy nhiên, nghiên cứu về
thực trạng định hướng nghề nghiệp của sinh viên báo chí trong thời đại số là một hướng
nghiên cứu mới và chưa có đề tài nào nghiên cứu về vấn đề này. Do đó, nhóm tác giả
lựa chọn đề tài “Thực trạng định hướng nghề nghiệp của sinh viên báo chí trong
thời đại số” để nghiên cứu.

3. Mục tiêu nghiên cứu


Đề tài khảo sát thực trạng định hướng nghề nghiệp của sinh viên báo chí, phân
tích các yếu tố ảnh hưởng và một số vấn đề liên quan đến định hướng nghề nghiệp của
sinh viên ngành Báo chí. Từ đó, đề tài đề xuất, khuyến nghị một số giải pháp nhằm nâng
cao hiệu quả định hướng nghề nghiệp đối với sinh viên ngành Báo chí.

4. Nhiệm vụ nghiên cứu


Để đạt được mục tiêu nghiên cứu, đề tài thực hiện những nhiệm vụ sau:
- Làm rõ những vấn đề cơ sở lý luận và thực tiễn liên quan đến định hướng nghề nghiệp
của sinh viên báo chí;
- Khảo sát và phân tích thực trạng về định hướng nghề nghiệp của sinh viên ngành báo
chí, bàn luận về những yếu tố ảnh hưởng đến định hướng nghề nghiệp, đánh giá mức
độ hài lòng của sinh viên đối với công tác định hướng nghề nghiệp của các đơn vị đào
tạo ngành báo chí.
- Nêu ra một số vấn đề liên quan đến định hướng nghề nghiệp của sinh viên ngành Báo
chí, từ đó khuyến nghị một số giải pháp nâng cao chất lượng định hướng nghề nghiệp
cho sinh viên ngành Báo chí.

5. Đối tượng, khách thể, phạm vi nghiên cứu


- Đối tượng nghiên cứu: Định hướng nghề nghiệp của sinh viên ngành báo chí
- Khách thể nghiên cứu: Sinh viên ngành báo chí
- Phạm vi nghiên cứu

12
+ Phạm vi khách thể nghiên cứu: sinh viên đang theo học ngành báo chí tại 3 trường đại
học: Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn - ĐHQGHN, ĐHQGTPHCM, Học
viện Báo chí và Tuyên truyền
+ Phạm vi thời gian nghiên cứu: Từ 1/6 - 5/6/2023

6. Câu hỏi nghiên cứu

6.1. Câu hỏi nghiên cứu chủ đạo:


Thực trạng định hướng nghề nghiệp của sinh viên theo học ngành báo chí như thế nào?

6.2. Câu hỏi nghiên cứu bổ trợ


+ Những yếu tố nào ảnh hưởng đến định hướng nghề nghiệp của sinh viên theo học
ngành báo chí hiện nay ? Mức độ ảnh hưởng của những yếu tố đó?
+ Sinh viên chủ động trong việc tự định hướng nghề nghiệp cho bản thân như thế nào?
+ Mức độ hài lòng của sinh viên đối với công tác định hướng nghề nghiệp của các đơn
vị đào tạo ngành báo chí như thế nào?

7. Giả thuyết nghiên cứu

7.1. Giả thuyết nghiên cứu chủ đạo


Hiện nay, trong bối cảnh thời đại số, sinh viên ngành báo chí ngày càng có thêm
nhiều lựa chọn để định hướng nghề nghiệp.
Đầu tiên, các công việc báo chí truyền thống như phóng viên, biên tập viên tòa
soạn, MC dẫn chương trình, kĩ thuật phát thanh, truyền hình, xuất bản, biên kịch, đạo
diễn truyền hình vẫn luôn giữ được sự quan tâm nhất định đối với sinh viên đang theo
học ngành báo chí.
Thứ hai, sinh viên báo chí có thể làm ở vị trí nhân viên marketing, nhân viên PR,
nhân viên quảng cáo.
Ngoài ra, các công việc về thiết kế đồ họa hay liên quan đến định hướng nghệ
thuật như nhà văn, biên kịch, đạo diễn cũng có thể có sự tham gia của các sinh viên báo
chí.

13
7.2. Giả thuyết nghiên cứu bổ trợ
Các yếu tố ảnh hưởng đến định hướng nghề nghiệp của sinh viên báo chí bao gồm
nhóm các yếu tố khách quan và chủ quan.
● Về nhóm yếu tố chủ quan, cụ thể như sau: Tình trạng sức khỏe, đặc điểm về tính
cách, năng lực của sinh viên (năng khiếu, tố chất) có liên quan đến lĩnh vực báo
chí - truyền thông; sở thích, đam mê của sinh viên
● Về nhóm yếu tố khách quan ảnh hưởng đến định hướng nghề nghiệp của sinh
viên báo chí bao gồm: Sự tác động của các mối quan hệ xung quanh; nhu cầu
của xã hội đối với nguồn nhân lực làm việc trong ngành nghề báo chí - truyền
thông; đặc thù công việc (về điều kiện làm việc, môi trường làm việc, thời gian
làm việc, đồng nghiệp…); sự tác động của các phương tiện truyền thông xã hội.
Sinh viên báo chí ngày càng chủ động đối với việc tự định hướng nghề nghiệp cho
bản thân, liên tục tham gia các hoạt động hỗ trợ tự định hướng nghề nghiệp cho bản
thân một cách chủ động, cầu thị, luôn tìm hiểu và nắm bắt xu hướng của thị trường lao
động ngành báo chí để có cho bản thân những định hướng nghề nghiệp phù hợp với bản
thân và nhu cầu xã hội.
Về mức độ hài lòng của sinh viên đối với công tác định hướng nghề nghiệp của các
Trường Đại học cũng như các đơn vị đào tạo bậc cử nhân ngành Báo chí, phần lớn sinh
viên đều hài lòng với công tác này.

8. Phương pháp nghiên cứu


- Phương pháp nghiên cứu tài liệu: Nhóm nghiên cứu tiến hành thu thập các nghiên cứu
về định hướng nghề nghiệp của sinh viên, các tài liệu nghiên cứu về các khái niệm báo
chí, tâm lý sinh viên.
- Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi: Nhóm nghiên cứu tiến hành thu thập dữ liệu định
hướng nghề nghiệp của sinh viên ngành Báo chí; yếu tố ảnh hưởng đến định hướng
nghề nghiệp; xu hướng chọn nghề nghiệp sau khi tốt nghiệp của sinh viên và đánh giá
về hiệu quả định hướng nghề nghiệp của các đơn vị đào tạo ngành Báo chí; tìm hiểu
những đề xuất và kỳ vọng của sinh viên đối với hoạt động định hướng nghề nghiệp của
các đơn vị đào tạo ngành Báo chí.

14
9. Ý nghĩa lý luận và ý nghĩa thực tiễn của đề tài

9.1. Về mặt lý luận


Thứ nhất, đề tài cung cấp góc nhìn khái quát về bối cảnh thực trạng định hướng
nghề nghiệp của sinh viên báo chí trong thời đại số hiện nay cũng như quan điểm của
sinh viên báo chí về các yếu tố ảnh hưởng đến định hướng nghề nghiệp của nhóm này
trong thời đại số. Thứ hai, đề tài thực hiện đánh giá mức độ hài lòng của sinh viên đối
với công tác định hướng nghề nghiệp tại các đơn vị đào tạo cử nhân ngành Báo chí.
Cuối cùng, đề tài trình bày một số vấn đề liên quan đến định hướng nghề nghiệp của
sinh viên ngành báo chí và đề xuất, khuyến nghị một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu
quả công tác định hướng nghề nghiệp đối với sinh viên đang theo học ngành này, giúp
sinh viên có cơ sở để định hướng nghề nghiệp phù hợp với năng lực bản thân, đem lại
ý nghĩa cho các hoạt động hướng nghiệp hỗ trợ tìm kiếm việc làm cho sinh viên tại các
cơ sở đào tạo.

9.2. Về mặt thực tiễn


Đề tài nghiên cứu là tài liệu tham khảo cho các nghiên cứu sinh, sinh viên quan
tâm đến vấn đề này. Ngoài ra, đây cũng là tài liệu tham khảo đối với vấn đề hướng
nghiệp cho sinh viên, từ đó tìm ra hướng phát triển hiệu quả cho hoạt động định hướng
nghề nghiệp cho sinh viên qua việc đề xuất giải pháp có ý nghĩa thực tiễn nhằm nâng
cao chất lượng nguồn nhân lực lĩnh vực báo chí - truyền thông để đáp ứng được yêu cầu
của thị trường lao động trong thời đại số.

10. Kết cấu đề tài


Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục, tài liệu tham khảo, đề tài gồm 3 chương
+ Chương I: Cơ sở lý luận và thực tiễn về định hướng nghề nghiệp của sinh viên
báo chí trong thời đại số
+ Chương 2: Khảo sát, phân tích thực trạng định hướng nghề nghề nghiệp của sinh
viên báo chí hiện nay
+ Chương 3: Một số vấn đề đặt ra và đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động
định hướng nghề nghiệp cho sinh viên ngành báo chí

15
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ ĐỊNH
HƯỚNG NGHỀ NGHIỆP CỦA SINH VIÊN BÁO CHÍ TRON
THỜI ĐẠI SỐ

1.1. Thời đại số


Thời đại số (còn gọi là Thời đại Máy tính, Thời đại thông tin hoặc Thời đại
Truyền thông mới) là một giai đoạn trong lịch sử nhân loại với sự chuyển đổi từ ngành
công nghiệp truyền thống mà cuộc cách mạng Công nghiệp đã mang lại thông qua quá
trình công nghiệp hóa, sang nền kinh tế dựa trên số hóa. Thời đại kỹ thuật số được
hình thành bằng cách tận dụng sự tiến bộ của máy tính. Sự tiến triển của công nghệ
trong cuộc sống hàng ngày và tổ chức xã hội đã dẫn đến sự hiện đại hoá các quá trình
thông tin và truyền thông, trở thành động lực của tiến hoá xã hội.
Theo Từ điển Cambridge: “Thời đại kỹ thuật số là thời điểm hiện tại, khi hầu hết
thông tin ở dưới dạng số”. Từ điển Your Dictionary đưa ra định nghĩa thời đại kỹ
thuật số “là khoảng thời gian bắt đầu vào những năm 1970 với sự ra đời của máy tính
cá nhân cùng với công nghệ tiếp theo được giới thiệu cung cấp khả năng truyền tải
thông tin một cách tự do và nhanh chóng” . Các khái niệm này đều gắn sự xuất hiện
của thời đại kỹ thuật số với hình thức hay khả năng truyền tải thông tin điện tử.
Như vậy, thời đại số có thể hiểu là “thời đại các thông tin được hiển thị dưới dạng số
hoá với sự phát triển mạnh mẽ của các thiết bị công nghệ thông tin”

1.2. Định hướng nghề nghiệp trong thời đại số

1.2.1. Định nghĩa “Định hướng nghề nghiệp”


Dẫn theo Bùi Hà Phương và cộng sự năm 2023, từ quan điểm giáo dục học, định
hướng nghề nghiệp là một khái niệm toàn diện và liên tục được thiết kế nhằm cung cấp
cho học sinh, sinh viên các thông tin, kinh nghiệm để chuẩn bị cho họ sống và làm việc
trong một xã hội, môi trường cần thiết (Nguyễn Thị Kim Nhung & Lương Thị Thành
Vinh, 2018), là một bộ phận cấu thành của quá trình giáo dục - học tập trong nhà trường
(Đặng Danh Ánh, 2010).
Ở góc độ cá nhân, định hướng nghề nghiệp được hiểu là khuynh hướng lựa chọn
nghề nghiệp của cá nhân trong xã hội, được hình thành dựa trên hiểu biết của cá nhân
về nghề nghiệp, năng lực bản thân, đặc điểm cá nhân và mục tiêu đối với nghề nghiệp.

16
Định hướng nghề nghiệp là sự lựa chọn chủ quan của cá nhân đối với các nghề nghiệp
trong xã hội dựa trên hệ thống các giá trị tính cách, năng lực, nguyện vọng, sở thích,
hứng thú của cá nhân với nghề nghiệp nào đó. Định hướng nghề nghiệp cũng là quá
trình đưa ra quyết định dựa trên sự hiểu biết về nhu cầu nghề nghiệp, về hệ thống phân
công lao động trong xã hội hiện hành dưới sự tác động của hệ thống các biện pháp tâm
lý, giáo dục phù hợp (Trần Thị Dương Liễu, 2014)
Từ các khái niệm trên, có thể hiểu “định hướng nghề nghiệp cho sinh viên báo
chí” là chỉ hệ thống các biện pháp với mục đích là hỗ trợ nhóm sinh viên đang theo học
ngành Báo chí đưa ra những lựa chọn và xác định phương hướng của bản thân về đào
tạo, học tập, nghề nghiệp và quản lý sự nghiệp của mình.
Để phù hợp với khái niệm “định hướng nghề nghiệp” trong đề tài này, nhóm tác
giả tiếp cận đến những sinh viên đang theo học ngành Báo chí tại các cơ sở đào tạo cử
nhân.

1.2.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến định hướng nghề nghiệp của sinh viên trong thời
đại số
Schurder (2006) đã đề cập 3 lý thuyết về những yếu tố ảnh hưởng đến định hướng
nghề nghiệp của cá nhân. Đầu tiên, lý thuyết nhân tố mục tiêu chỉ ra rằng, mỗi cá nhân
lựa chọn nghề nghiệp tùy thuộc vào mục tiêu cụ thể mà công việc đó mang lại, như:
mức lương, các lợi ích, vị trí, cơ hội thăng tiến… Tiếp đến, lý thuyết nhân tố chủ quan
cho thấy nhu cầu của mỗi người và quyết định lựa chọn nghề nghiệp có sự chi phối của
các yếu tố xã hội và yếu tố tâm lý cá nhân, chẳng hạn như vị thế xã hội mà công việc
đó mang lại, sự nổi tiếng của tổ chức, doanh nghiệp hay một vài yếu tố khách quan khác
ảnh hưởng đến quyết định lựa chọn nghề nghiệp. Thứ ba, lý thuyết tương tác cho rằng,
khi một cá nhân không thể đưa ra quyết định lựa chọn nghề nghiệp của mình dựa trên
các yếu tố chủ quan, người đó sẽ định hướng nghề nghiệp nhờ vào kết quả của quá trình
quan sát (dẫn theo Bùi Hà Phương và cộng sự, 2023).
Dựa trên các lý thuyết về những yếu tố ảnh hưởng đến định hướng nghề nghiệp,
đề tài phân chia chúng thành 2 nhóm: yếu tố chủ quan và yếu tố khách quan. Tùy thuộc
vào mỗi cá nhân sinh viên, các yếu tố này có mức độ ảnh hưởng khác nhau đối với quyết
định lựa chọn nghề nghiệp của sinh viên.
* Về nhóm yếu tố chủ quan:

17
- Tình trạng sức khỏe thể chất và sức khỏe tâm thần của sinh viên;
- Đặc điểm về tính cách của sinh viên: năng động, hoạt bát, có trách nhiệm;
- Năng lực của sinh viên (năng khiếu, tố chất) có liên quan đến lĩnh vực báo chí - truyền
thông: khả năng viết, khả năng thuyết trình trước đám đông, khả năng quan sát, khả
năng sáng tạo nội dung, khả năng chụp ảnh, quay phim, biên tập và chỉnh sửa, khả năng
học hỏi;
- Sự hứng thú của sinh viên với lý tưởng nghề nghiệp thuộc lĩnh vực báo chí - truyền
thông tương lai;
* Về nhóm yếu tố khách quan:
- Sự tác động của gia đình, thầy cô, bạn bè đến định hướng nghề nghiệp của sinh viên
báo chí;
- Nhu cầu của xã hội đối với nguồn nhân lực làm việc trong ngành nghề báo chí - truyền
thông;
- Đặc trưng về những ngành nghề liên quan đến lĩnh vực báo chí truyền thông (về điều
kiện làm việc, môi trường làm việc, thời gian làm việc, đồng nghiệp…);
- Sự tác động của các phương tiện truyền thông xã hội (các trang báo điện tử, blog,
forum, mạng xã hội…);
Như vậy, trong thời đại số, định hướng nghề nghiệp của sinh viên báo chí rất đa
dạng và phong phú. Trước sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ thông tin, sinh viên
báo chí có nhiều lựa chọn tham khảo trong định hướng nghề nghiệp của bản thân. Bên
cạnh sự tham khảo từ người thân, bạn bè, bộ phận tuyển sinh theo định hướng truyền
thống, sinh viên hoàn toàn có thể chủ động tìm kiếm cơ hội việc làm trên các phương
tiện truyền thông đại chúng và mạng xã hội. Bên cạnh đó, sinh viên cần có đam mê, khả
năng về lĩnh vực kỹ thuật quay phim, thiết kế để đáp ứng chương trình đào tạo của
ngành báo chí và nhu cầu tuyển dụng của các toà soạn trong thời kỳ kỷ nguyên số.

1.3. Sinh viên ngành báo chí

1.3.1. Định nghĩa “sinh viên báo chí”


Theo Luật giáo dục Đại học, sinh viên là “người đang học tập và nghiên cứu
khoa học tại cơ sở giáo dục đại học, theo học chương trình đào tạo cao đẳng, chương
trình đào tạo đại học”.

18
Theo Điều 3 Luật Báo chí 2016 “Báo chí là sản phẩm thông tin về các sự kiện,
vấn đề trong đời sống xã hội thể hiện bằng chữ viết, hình ảnh, âm thanh, được sáng tạo,
xuất bản định kỳ và phát hành, truyền dẫn tới đông đảo công chúng qua các loại hình
báo in, báo nói, báo viết hay báo điện tử”.
Như vậy, sinh viên ngành báo chí có nghĩa là “người đang học tập và nghiên cứu
khoa học tại các cơ sở giáo dục đào tạo ngành báo chí gồm các chuyên ngành báo in,
báo điện tử, báo phát thanh và báo truyền hình”

1.3.2. Đặc điểm của sinh viên báo chí trong thời đại số
Là một trong những ngành đòi hỏi chuyên môn và kỹ năng thích ứng nhanh với
sự phát triển của xã hội trong thời đại số, sinh viên báo chí có những đặc điểm sau:
Thứ nhất, sinh viên báo chí có kiến thức xã hội sâu rộng. Phần lớn sinh viên báo
chí đều xét tuyển đại học bằng khối xã hội (Khối D01, C00, D78) nên kiến thưc nền
tảng về lĩnh vực xã hội khá phong phú. Bên cạnh đó, ba cơ sở đơn vị đào tạo báo chí
đều thuộc nhóm trường xã hội nên sinh viên có cơ hội được tiếp cận với tri thức đa dạng
trong khối lĩnh vực xã hội: văn hoá, nghệ thuât, chính trị, lịch sử …. Với sự trang bị
nền tảng và khả năng trau dồi kiến thức, sinh viên báo chí đa phần có góc nhìn tổng
quan về các vấn đề của xã hội một cách toàn diện và đa chiều nhất.
Thứ hai, sinh viên báo chí được trang bị kỹ năng mềm đáp ứng với nhu cầu của
thị trường lao đồng và xu hướng toàn cầu hoá của thế giới. Phần lớn sinh viên khi lựa
chọn ngành báo chí đều là những học sinh năng động, đạt được nhiều thành tích trong
hoạt động ngoại khóa ngay từ khi học ở bậc phổ thông. Đồng thời, trong quá trình học
tập và đào tạo, sinh viên được tiếp cận những môn học về kỹ năng thuyết trình, phỏng
vấn và đàm phán trong hoạt động báo chí. Với những thuận lợi về cơ hội đào tạo, sinh
viên báo chí khá đa tài trong nhiều lĩnh vực và khả năng chủ động tự trau dồi, phát triển
kỹ năng mềm của bản thân
Thứ ba, sinh viên báo chí có khả năng ứng dụng các phần mềm tin học văn phòng,
sử dụng thành thạo Internet và các kỹ thuật về công nghệ thông tin (máy ảnh, máy quay
phim, các phần mềm thiết kế, dựng quay phim). Tất cả những kỹ năng liên quan đến
công nghệ đều được đào tạo trong chương trình giảng dạy đại học cho sinh viên. Đồng
thời, đa phần các môn học liên quan đến nghiệp vụ và kỹ năng báo chí đều thi dưới hình

19
thức tiểu luận và sản phẩm nên sinh viên có cơ hội trau dồi kỹ năng sử dụng công nghệ
thông tin, phục vụ cho đáp ứng yêu cầu tuyển dụng công việc trong thời đại số.
Thứ tư, sinh viên báo chí khá năng động, chủ động tham gia các hoạt động ngoại
khóa và trau dồi kỹ năng chuyên môn. Nghề báo là một ngành đặc thù đòi hỏi vừa vững
vàng về kiến thức, chuyên môn, vừa năng động, sáng tạo và kỹ năng mềm tốt. Đặc biệt,
trong đời đại kỷ nguyên số, sinh viên báo chí cần phải trang bị đầy đủ các kỹ năng về
kĩ thuật và công nghệ thông tin. Để đáp ứng được những yêu cầu khắt khe như vậy, sinh
viên báo chí buộc phải năng động, sáng tạo, chủ động, tích cực học hỏi những cái mới
để hội nhập được với sự cạnh tranh gay gắt trong thời đại công nghệ số. Ngoài ra, ở các
đơn vị đào tạo báo chí, các sự kiện, chương trình ngoại khóa khá được chủ trọng, vừa
là nơi để sinh viên thỏa sức đam mê thể hiện năng khiếu của mình, vừa là nơi các bạn
sinh viên được tập luyện các kỹ năng nghiệp vụ báo chí - truyền thông: phỏng vấn, sáng
tạo nội dung, thiết kế. Với những thuận lợi trong hoạt động đào tạo và ngoại khóa như
vậy, sinh viên báo chí có nhiều cơ hội thể hiện năng lực của bản thân và rèn tính chủ
động, năng động trong các hoạt động xã hội.

1.4. Quan điểm của Đảng, chính sách pháp luật Nhà nước về hoạt động định
hướng nghề nghiệp
Dẫn theo Nguyễn Ngọc Anh Thư (2022), quan điểm của Đảng, chính sách pháp
luật của Nhà nước về hoạt động định hướng nghề nghiệp cho thanh niên nói chung và
cho sinh viên tại các cơ sở Đại học, đào tạo nghề nói riêng được thể hiện ở trong các
văn bản sau:
Nghị quyết số 25/NQ-TW ngày 23/07/2008 của Ban Chấp hành Trung ương
khóa X về tăng cường lãnh đạo của Đảng đối với công tác thanh niên thời kỳ đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Nghị quyết số 45/NQ-CP ngày 11/9/2009 của Chính phủ ban hành Chương trình
hành động Thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương
Đảng (khóa X) về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác thanh niên thời kỳ
đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Quyết định 522/QĐ-TTg ngày 14/5/2018 của Chính phủ phê duyệt đề án “Giáo
dục hướng nghiệp và định hướng phân luồng học sinh trong giáo dục phổ thông giai
đoạn 2018-2025”
20
Quyết định số 1042/QĐ-TTg ngày 17/7/2017 của Thủ tướng Chính phủ Ban
hành Kế hoạch thực hiện Chiến lược phát triển thanh niên Việt Nam giai đoạn II (2016-
2020)
Quyết định số 2339/QĐ-TTg ngày 30/12/2021 của Chính vụ về Chiến lược phát
triển Giáo dục nghề nghiệp giai đoạn 2021-2023, tầm nhìn đến năm 2045
Đề án tư vấn hướng nghiệp và giới thiệu việc làm cho thanh thiếu niên giai đoạn
2018-2022 của Trung ương Đoàn.

1.5. Giới thiệu về cơ hội việc làm của sinh viên báo chí

1.5.1. Cơ hội nghề nghiệp trong lĩnh vực báo chí truyền thống
Sinh viên ngành Báo chí sau khi tốt nghiệp bằng cử nhân có cơ hội được làm
việc tại các cơ quan, đơn vị và tòa soạn báo chị:
Thứ nhất, sinh viên ngành báo chí đều có khả năng được làm việc tại các toà
soạn/ đài truyền hình theo loại hình báo chí phù hợp với bản thân (báo in, báo điện tử,
báo phát thanh, báo truyền hình). Tùy theo đặc điểm và tính chất của mỗi loại hình báo
chí, các tòa soạn/ đài truyền hình có những yêu cầu tuyển dụng riêng và sinh viên có
thể tìm kiếm vị trí công việc phù hợp dựa trên đặc điểm và tính chất đặc thù riêng của
mỗi cơ quan báo chí
Trong tất cả các lĩnh vực thuộc loại hình báo chí đều cần các vị trí chủ chốt quan
trọng: phóng viên/ nhà báo, quay phim, biên tập viên, nhiếp ảnh, thiết kế đồ hoạ. Do
tính chất của các loại hình báo chí khác nhau, mỗi cơ quan báo chí sẽ có những yêu cầu
về vị trí tuyển dụng riêng:
Trong các đài phát thanh, đài truyền hình, người dẫn chương trình đóng vai trò
quan trọng chủ chốt trong sự phát triển và duy trì lượng khán giá ổn định. Công việc ở
lĩnh vực này khá đa dạng và phong phú: quay phim truyền hình, thiết kế đồ hoạ, biên
tập viên, phóng viên, nhà biên kịch, đạo diễn chương trình thời sự,...
Trong toà soạn báo in - báo điện tử, đội ngũ phóng viên/ nhà báo lại đóng vai trò
quan trong trong biên tập và xuất bản các ấn phẩm báo chí. Do đó, bên cạnh kĩ năng tìm
kiến tin tức với vai trò là phóng viên, sinh viên cần thành thạo các kĩ năng về công nghệ
thông tin vì xu hướng phát triển các tòa soạn là theo mô hình hội tụ. Có nghĩa là, bên
cạnh phụ trách nội dung, phóng viên cần trang bị thêm các kỹ năng quay phim và chụp

21
ảnh báo chí. Với đặc thù không chuyên sâu về mảng phóng sự và truyền hình nên yêu
cầu đối với đội ngũ làm việc ở tòa soạn báo in và báo điện tử sẽ cần nhiều các tiêu chí
về kỹ năng tác nghiệp, đòi hỏi những người làm báo phải tích cực học hỏi và trau dồi
kinh nghiệm mỗi ngày.
Thứ hai, cử nhân ngành Báo chí có thể làm việc tại các cơ quan quản lý báo chí:
Cục Báo chí, Ban Tuyên giáo TW, Sở văn hoá - thông tin tỉnh/ thành phố. Ở các vị trí
quản lý báo chí, sinh viên cần trang bị những kiến thức nền tảng vững chắc về lý luận
về quản lý báo chí, luật báo chí bên cạnh các kỹ năng nghiệp vụ chuyên môn. Ngoài ra,
tuỳ theo lĩnh vực của từng cơ quan, chuyên viên cần trang bị thêm các kiến thức và
chuyên môn về lĩnh vực đó.
Thứ ba, sinh viên sau khi tốt nghiệp ngành báo chí có thể làm chuyên viên báo
chí - truyền thông cho các cơ quan nhà nước. Các cơ quan, tổ chức chính trị và Nhà
nước đều cần bộ phận báo chí - truyền thông để phụ trách thông tin đăng trên website
nội bộ và công khai, thông cáo báo chí và quảng bá truyền thông của đơn vị. Ở vị trí
này, sinh viên cần hội tụ đầy đủ kiến thức chuyên môn về báo chí và kĩ thuật nghiệp vụ
phục vụ cho công tác truyền thông của đơn vị.
Thứ tư, sinh viên tốt nghiệp Cử nhân ngành Báo chí có thể lựa chọn học chương
trình đào tạo sau đại học để trở thành chuyên gia nghiên cứu và giảng dạy lĩnh vực báo
chí tại các đơn vị đào tạo ngành báo chí. Tuỳ theo đơn vị đào tạo Thạc sĩ báo chí, học
viên có thể lựa chọn những chuyên ngành phù hợp với bản thân nhằm định hướng
chuyên sâu lĩnh vực phục vụ cho công tác giảng dạy. Trong lĩnh vực giảng dạy báo chí,
mỗi đơn vị đào tạo sẽ có những yêu cầu riêng tùy theo đặc thù nghiên cứu của từng
trường. Bên cạnh giảng dạy cho sinh viên, giảng viên/ nhà nghiên cứu truyền thông có
thể đào tạo và hướng dẫn cho các nghiên cứu sinh bảo vệ luận án Thạc sĩ và Tiến sinh.
Đồng thời, có thể giảng dạy và bồi dưỡng cán bộ, lãnh đạo báo chí ở những đơn vị và
trường tập huấn dành cho thủ trưởng các đơn vị trong cơ quan báo chí.

1.5.2. Cơ hội nghề nghiệp trong lĩnh vực truyền thông và lĩnh vực khác
Trước hết, lĩnh vực truyền thông - marketing luôn là địa hạt màu mỡ dành cho
sinh viên ngành báo chí. Đặc biệt trong thời đại ngày nay, khi các phương tiện truyền
thông xã hội ngày một phát triển và chiếm ưu thế so với các phương tiện truyền thông

22
khác, cơ hội việc làm của sinh viên đối với lĩnh vực truyền thông ngày càng rộng mở
và phát triển. Sinh viên báo chí sau khi tốt nghiệp bằng cử nhân có thể ứng tuyển ở các
vị trí trong lĩnh vực truyền thông như nhân viên truyền thông marketing, nhân viên
quảng cáo, nhân viên quản trị nội dung và phát triển các kênh/mạng xã hội, học chương
trình sau đại học để trở thành chuyên gia nghiên cứu - giảng dạy về lĩnh vực truyền
thông. Ngoài ra, sinh viên có thể tích lũy kiến thức về truyền thông từ quá trình học tập
để có thể xây dựng thương hiệu cá nhân, trở thành một người sáng tạo nội dung số
(content creator) trên các nền tảng mạng xã hội.

Tiếp đó, sinh viên tốt nghiệp cử nhân ngành báo chí có cơ hội làm việc và thăng
tiến rộng mở trong lĩnh vực quan hệ công chúng (public relations). Các vị trí làm việc
ở lĩnh vực quan hệ công chúng cũng rất đa dạng:
– Chuyên viên/quản lý tại các công ty truyền thông chuyên nghiệp (Agency) trong và
ngoài nước.
– Nhân viên truyền thông, PR, Marketing cho tất cả các tổ chức của Nhà nước, doanh
nghiệp và các tổ chức phi chính phủ.
- Thiết kế đồ hoạ hoặc các công việc liên quan đến thiết kế kĩ thuật, hình ảnh
Ngoài các lĩnh vực trên, sinh viên ngành báo chí hoàn toàn có thể bồi dưỡng kiến
thức chuyên sâu và liên ngành, năng khiếu nghệ thuật, thẩm mỹ của mình để mở rộng
thêm cơ hội làm việc của bản thân tại các lĩnh vực khác ví dụ như lĩnh vực nghệ thuật.
Với khả năng vận dụng linh hoạt ngôn từ, sinh viên báo chí có thể khai phá khả năng
này của bản thân bằng việc thử sức viết những tác phẩm văn học (tiểu thuyết, truyện
ngắn…), trở thành một đạo diễn, biên kịch phim ảnh….

23
TIỂU KẾT CHƯƠNG I
Chương đầu tiên nhóm tác giả đã đưa ra cơ sở lí luận và cơ sở lý luận chung về
vấn đề định hướng nghề nghiệp của sinh viên báo chí trong thời đại số. Trong đó, đề tài
đã làm rõ các khái niệm về hoạt động hướng nghiệp, sinh viên, báo chí và thời đại số.
Đồng thời, trong chương I đã làm rõ các yếu tố ảnh hưởng đến định hướng nghề nghiệp
của sinh viên trong thời đại số và đặc điểm của sinh viên báo chí. Đề tài cũng đã làm rõ
định hướng về quan điểm của Đảng và Nhà nước về hoạt động định hướng nghề nghiệp.
Đặc biệt, đề tài đã nêu ra những cơ hội việc làm nghề nghiệp của sinh viên báo chí trong
thời đại công nghệ số. Đây là những cơ sở lý luận và thực tiễn nền tảng để đề tài khảo
sát thực trạng định hướng nghề nghiệp của sinh viên báo chí trong thời đại số hiện nay.

24
CHƯƠNG 2: KHẢO SÁT THỰC TRẠNG VÀ CÁC YẾU TỐ
ẢNH HƯỞNG ĐẾN ĐỊNH HƯỚNG NGHỀ NGHIỆP CỦA SINH
VIÊN BÁO CHÍ HIỆN NAY

2.1. Khảo sát các cơ sở giáo dục đào tạo báo chí

2.1.1. Viện Báo chí và Khoa phát thanh - truyền hình - Học viện Báo chí và
Tuyên truyền
Học viện Báo chí và Tuyên truyền được thành lập ngày 16/1/1962, theo Nghị
quyết số 36 NQ/TW của Ban Bí thư Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam khoá III, trên
cơ sở hợp nhất 3 trường: trường Nguyễn Ái Quốc phân hiệu II, trường Tuyên huấn và
trường Đại học Nhân dân.
Từ khi thành lập đến nay, trường lần lượt có các tên:
- Trường Tuyên giáo Trung ương(1962- 1969)
- Trường Tuyên huấn Trung ương(1970- 1983)
- Trường Tuyên huấn Trung ương I (1984 -2/1990) trên cơ sở hợp nhất Trường Tuyên
huấn Trung ương với Trường Nguyễn Ái Quốc
- Trường Đại học Tuyên giáo (1990 - 3/1993)
- Phân viện Báo chí và Tuyên truyền (4/1993 đến 8/2005)
- Học viện Báo chí và Tuyên truyền (2/8/2005 đến nay)
Học viện báo chí và tuyên truyền gồm 2 đơn vị đào tạo về báo chí: Viện báo chí
và Khoa Phát thanh - Truyền hình.
Trong giai đoạn năm 1962-1969, các lớp đào tạo báo chí đầu tiên được mở ra
nhằm bồi dưỡng cán bộ báo chí ngắn hạn nhằm góp phần phục vụ hai nhiệm vụ chiến
lược của đất nước: giải phóng miền Nam và xây dựng miền Bắc xã hội chủ nghĩa. Sau
khi giải phóng miền Nam và thống nhất đất nước, Khoa báo chí được thành lập nhằm
đào tạo hệ cử nhân báo chí văn bằng thứ hai dành cho các cử nhân đã tốt nghiệp một
trường đại học (1980-1983). Đặc biệt, năm 1991 là năm quan trọng đánh dấu sự phát
triển của khoa khi mở rộng đối tượng tuyển sinh và đa dạng loại hình, phương thức đào
tạo và phạm vi hoạt động. Đây là thời kì mở đầu cho việc đào tạo trình độ cử nhân
ngành Báo chí cho đối tượng là cán bộ, phóng viên đang hoạt động trong các cơ quan
báo chí. Năm 1995, Khoa báo chí được giao nhiệm vụ đào tạo sau đại học trình độ Thạc
sĩ và đến năm 2003, Khoa báo chí trở thành đơn vị đầu tiên trong cả nước đào tạo trình

25
độ Tiến sĩ trong ngành báo chí. Năm 2006, Viện nghiên cứu báo chí truyền thông được
thành lập. Năm 2019, Viện báo chí được thành lập dựa trên cơ sở hợp nhất Khoa báo
chí và Viện nghiên cứu báo chí truyền thông. Hiện nay, Viện báo chí đào tạo hai loại
hình báo chí: báo in và báo ảnh. Bên cạnh ngành báo chí, Viện Báo chí còn đào tạo hai
ngành Truyền thông đại chúng và Truyền thông đa phương tiện.
Khoa Phát thanh - Truyền hình được thành lập vào năm 1979 với hai chuyên
ngành Phát thanh và Truyền hình. Năm 1983, Khoa soát nhập với Khoa báo chí và mở
rộng chương trình đào tạo thành các chuyên ngành: Báo in, Báo ảnh, Báo phát thanh và
Báo truyền hình. Sau 20 năm, tái lập lại Khoa Phát thanh - Truyền hình và mở rộng
thêm chuyên ngành báo điện tử và quay phim truyền hình. Hiện nay, Khoa Phát Thanh
- Truyền hình đào tạo trình độ đại học với các chuyên ngành: Báo phát thanh, Báo truyền
hình, Báo điện tử va Quay phim truyền hình.

2.1.2. Viện đào tạo báo chí và truyền thông - Trường Đại học Khoa học xã hội và
Nhân văn, ĐHQG Hà Nội
Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn, ĐHQG Hà Nội có tiền thân là
Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội. Năm 1990, Bộ Giáo dục và Đào tạo cho phép mở
ngành Báo chí và thành lập Khoa Báo chí tại Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội. Đây là
đơn vị đầu tiên đào tạo cử nhân ngành báo chí ở nước ta. Sau một năm được cấp phép,
Khoa khai giảng khóa học đầu tiên ngành Báo chí. Năm 1997, Bộ Giáo dục và Đào tạo
giao nhiệm vụ đào tạo Cao học ngành Báo chí cho Trường ĐHKHXH&NV (ĐHQG Hà
Nội), và đây cũng là năm đầu tiên tuyển sinh và khai giảng chuyên ngành báo chí trình
độ Thạc sĩ. Năm 2008, Khoa Báo chí đổi tên thành Khoa Báo chí và Truyền thông. Năm
2012, ĐHQG Hà Nội giao nhiệm vụ đào tạo ngành Quan hệ công chúng trình độ đại
học tại Trường ĐHKHXH&NV. Năm 2018,Viện Đào tạo Báo chí và Truyền thông được
thành lập, trên cơ sở tích hợp các nguồn lực của Khoa Báo chí và Truyền thông và Trung
tâm nghiệp vụ Báo chí – Truyền thông (CMP). Hiện nay, Viện Đào tạo Báo chí và
Truyền thông đào tạo chương trình đại học với 2 ngành: Báo chí và Quan hệ công chúng.

26
2.1.3. Khoa báo chí và truyền thông - Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân
văn, ĐHQG HCM
Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn, ĐHQG Thành phố Hồ Chí Minh
có tiền thân là Trường Đại học Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh. Năm 1992, Bộ môn
Báo chí trực thuộc Khoa ngữ văn thuộc trường ĐH Tổng hợp TP.HCM được khai sinh.
Năm 2007, Khoa Báo chí và Truyền thông chính thức được thành lập. Hiện nay, Khoa
Báo chí và Truyền thông đang là một trong những địa chỉ đào tạo báo chí uy tín ở Việt
Nam và duy nhất ở phía Nam.
Nội dung đào tạo của ngành Báo chí được Khoa tổ chức theo các nhóm chính
như sau: - Nhóm 1: Kiến thức nền tảng về nghề báo (Cơ sở lý luận báo chí, Tác phẩm
và thể loại báo chí, Lịch sử báo chí, Kỹ năng tìm kiếm và thẩm định thông tin, Ngôn
ngữ báo chí)
- Nhóm 2: Nghiệp vụ báo chí cơ bản (Viết tin, Phỏng vấn, Tường thuật, Nhiếp ảnh)
- Nhóm 3: Nghiệp vụ báo chí nâng cao (Bình luận, Phóng sự, Biên tập, Thiết kế và
Trình bày báo, Ký chân dung, Đồ họa thông tin, Sản xuất tạp chí)
- Nhóm 4: Nghiệp vụ báo chí đa phương tiện (Sản xuất chương trình phát thanh, Sản
xuất chương trình truyền hình, Tin và phóng sự truyền hình, Đối thoại truyền hình, Tổ
chức và sản xuất nội dung báo trực tuyến...)
- Nhóm 5: Kiến thức và Kỹ năng bổ trợ (Quan hệ công chúng, Quảng cáo, Tổ chức sự
kiện,...)

2.2. Kết quả khảo sát chung về định hướng nghề nghiệp của sinh viên

2.2.1. Về các đối tượng sinh viên tham gia khảo sát
Trong quá trình thu thập thông tin định hướng của sinh viên báo chí bằng bảng
hỏi, nhóm tác giả thu thập được 54 mẫu khảo sát của các sinh viên đang học tập trong
lĩnh vực Báo chí. Đối tượng sinh viên tham gia khảo sát trực thuộc các đơn vị đào tạo:
Viện đào tạo Báo chí và truyền thông - Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn,
ĐHQG Hà Nội, Khoa phát thanh - truyền hình và Viện báo chí - Học viện báo chí và
tuyên truyền, Khoa Báo chí và truyền thông Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân
văn, ĐHQG Thành phố Hồ Chí Minh.

27
Biểu đồ 2.1: Tỉ lệ sinh viên báo chí tham gia khảo sát ở 3 đơn vị đào tạo
Theo biểu đồ trên, nhóm tác giả tiếp cận được nhiều đối tượng khảo sát tại Viện
Đào tạo Báo chí và Truyền thông, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn,
ĐHQGHN với tỉ lệ 57,4% trong tổng số mẫu khảo sát, theo sau đó là nhóm sinh viên từ
Khoa Báo chí - Truyền thông, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, ĐHQG
TPHCM có tỉ lệ 22,2% và nhóm sinh viên ngành báo chí đến từ Viện Báo chí và Khoa
Phát thanh - Truyền hình từ Học viện Báo chí và Tuyên truyền với tỉ lệ 20.4%. Nhìn
chung, sinh viên ngành Báo chí đến từ 3 trường đều dành sự quan tâm đến vấn đề định
hướng nghề nghiệp cũng như rõ ràng trong việc xác định lý tưởng nghề nghiệp tương
lai.
Trong tổng số sinh viên tham gia khảo sát đến từ 3 đơn vị, nhóm sinh viên năm
nhất chiếm tỉ lệ cao nhất (57,4%), các nhóm sinh viên năm 2, năm 3, năm 4 có tỉ lệ lần
lượt là 18,5%, 14,8% và 9,3%.

28
2.2.2. Về sự chủ động trong việc tiếp cận hoạt động hướng nghiệp của sinh viên
báo chí

Biểu đồ 2.2: Sự chủ động trong việc tiếp cận hoạt động hướng nghiệp của sinh viên
báo chí
Theo kết quả khảo sát thu thập được, đa phần sinh viên đều theo dõi, cập nhật
tin tức về lĩnh vực báo chí qua các nền tảng truyền thông đại chúng và mạng xã hội
(chiếm 75,9%). Đồng thời, sinh viên tích cực chủ động tham dự các buổi hội thảo hướng
nghiệp trong lĩnh vực báo chí, tham gia các sự kiện lớn trong ngành báo chí (ví dụ như
Hội báo Toàn quốc, Hội thảo sửa đổi luật báo chí …) và tham dự các hoạt động hướng
nghiệp do đơn vị đào tạo tổ chức. Ngoài ra, một số ít các bạn sinh viên khá năng động
khi chủ động tham gia thảo luận về vấn đề hướng nghiệp ở trên mạng xã hội (30,5%).
Đặc biệt, một số sinh viên cũng chia sẻ thêm, việc đăng ký tham gia các cuộc thi viết
về các chủ đề thời sự - xã hội theo cách đưa tin và khai thác tin tức của báo chí cũng là
một cách để sinh viên bồi dưỡng thêm kỹ năng thực tiễn. Từ đó, sinh viên tự tin hơn
với khả năng của mình và điều này tác động tích cực đến việc định hướng nghề nghiệp
tương lai của họ. Kết quả này cho thấy rằng, sinh viên đã ý thức được tầm quan trọng
của việc định hướng nghề nghiệp trong suốt quá trình học tập tại trường.
Như vậy, trước sự đa dạng hoá thông tin trong hoạt động hướng nghiệp, sinh
viên báo chí có nhiều cơ hội trong việc nghiên cứu và lựa chọn các chương trình phù

29
hợp với sở trường và điều kiện của mình. Những thuận lợi do công nghệ số đem lại đã
giúp sinh viên có cơ hội tìm hiểu sâu rộng về lĩnh vực báo chí, phục vụ cho định hướng
sự nghiệp trong tương lai của bản thân.

2.2.3. Về kỳ vọng của sinh viên khi tốt nghiệp Cử nhân ngành Báo chí
Sau khi lựa chọn nguyện vọng ngành báo chí, mỗi sinh viên sẽ có những kỳ vọng
và mong muốn riêng.

Biểu đồ 2.3: Kỳ vọng của sinh viên sau khi tốt nghiệp Cử nhân ngành Báo chí
Qua số liệu khảo sát, kỳ vọng lớn nhất của sinh viên sau khi tốt nghiệp là có được
nền tảng kiến thức, kỹ năng vững chắc (chiếm 87%). Một số sinh viên xác định mục
tiêu về cơ hội nghề nghiệp và cơ hội thăng tiến trong tương lai: 77,8% lượt ý kiến mong
muốn có công việc ổn định sau khi tốt nghiệp, 70,4% sinh viên có mục tiêu được làm
việc tại các cơ quan báo chí. Trong khi đó, chỉ có 53,7% lượt ý kiến cho rằng có tham
vọng thăng tiến cao trong công việc báo chí. Bên cạnh đó, một số ít sinh viên có kế
hoạch và phương hướng tập trung sâu vào quá trình học tập và công tác nghiên cứu:
42,6 % sinh viên có mục tiêu đạt thành tích cao trong học tập và 22,2% sinh viên có dự
định học lên cao học và làm công tác nghiên cứu trong lĩnh vực báo chí - truyền thông.
Kết quả này cho thấy phần lớn sinh viên đều nhận thức được những kỳ vọng của bản
thân sau khi tốt nghiệp và mong muốn được đáp ứng những kỳ vọng đó.

30
2.2.4. Về định hướng nơi làm việc của sinh viên báo chí
Ở nước ta, số lượng dân cư và sự phát triển không đồng đều dẫn tới sự chênh
lệch trong công tác và nhu cầu tuyển dụng. Do đó, tuỳ vào từng địa phương sẽ có
những cơ hội công việc khác nhau. Cơ hội ấy ít hay nhiều phụ thuộc vào sự phát triển
và xã hội hoá của mỗi tỉnh/thành phố.

Biểu đồ 2.4: Dự định nơi làm việc sau khi tốt nghiệp
Sau khi tốt nghiệp, 85,2% sinh viên tham gia khảo sát cho biết có mong muốn
làm việc tại các thành phố lớn (Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh,..). Ngoài ra, 11,1%
lượt ý kiến cho rằng có ý định làm việc tại địa phương nơi mình sinh sống và có một
số ít lượt sinh viên (3,7%) có dự định làm việc ở nước ngoài.
Qua biểu đồ trên có thể thấy rằng, các thành phố lớn vẫn luôn là điểm thu hút đối với
bạn trẻ bắt đầu lập nghiệp. Các cơ quan, công ty chủ chốt đều nằm ở thành phố lớn
nên tạo nhiều cơ hội việc làm cho sinh viên hơn. Đồng thời các thành phố trực thuộc
TW đều phát triển, tạo điều kiện cho các nhân tài phát huy khả năng và thành lập
công ty, doanh nghiệp, tập đoàn. Do đó, sinh viên đa phần chủ yếu tìm việc ở các
thành phố lớn để tạo dựng sự nghiệp phù hợp với năng lực của bản thân.
Ở các địa phương, nhu cầu tuyển dụng và cơ hội việc làm không nhiều. Do đó, sinh
viên đa phần sau khi tốt nghiệp đều trụ lại các thành phố lớn để xin việc. Ngoài ra, các
bạn sinh viên lựa chọn làm việc ở nước ngoài bên cạnh điều kiện kinh tế cần đảm bảo
năng lực để đáp ứng với thị trường tuyển dụng ở nước ngoài.

31
2.3. Kết quả về định hướng công việc tương lai của sinh viên ngành báo chí
Trong thời đại số với sự vươn lên mạnh mẽ của các phương tiện truyền thông xã
hội, tiêu biểu là các mạng xã hội như Facebook, TikTok, Instagram với hàng trăm triệu
người dùng trực tuyến hàng tháng, kết hợp với nhu cầu tìm kiếm và tiếp nhận thông tin
của một bộ phận đông đảo công chúng, thực tiễn đã đặt ra rất nhiều động lực để thị
trường lao động lĩnh vực báo chí - thông tin phát triển. Các doanh nghiệp, tổ chức, tập
đoàn cũng cần các bộ phận truyền thông để phát triển thương hiệu của mình. Do đó,
sinh viên ngành báo chí sau khi tốt nghiệp có rất nhiều con đường khác nhau để phát
triển sự nghiệp của bản thân. Điều này đã tác động nhiều đến định hướng nghề nghiệp
tương lai của phần lớn sinh viên đang theo học ngành báo chí.
Mẫu khảo sát của chúng tôi thu được số liệu về định hướng công việc tương lai
của sinh viên ngành báo chí như sau:

Biểu đồ 2.5: Định hướng lĩnh vực công việc


Trong biểu đồ trên, chúng ta có thể thấy có sự đồng đều trong việc lựa chọn
lĩnh vực làm việc và phát triển của các sinh viên sau khi tốt nghiệp cử nhân ngành Báo
chí. Cụ thể, các công việc định hướng theo lĩnh vực báo chí truyền thống được 46,3%
sinh viên tham gia khảo sát lựa chọn theo đuổi. Đối với các công việc ở trong lĩnh vực
truyền thông và lĩnh vực khác (văn học, âm nhạc, điện ảnh…), 53,7% sinh viên ngành
báo chí tham gia khảo sát đã lựa chọn những lĩnh vực này để phát triển sự nghiệp của
bản thân trong tương lai.

32
Khác biệt về lựa chọn nghề nghiệp giữa sinh viên Công việc Công việc
các trường định hướng định hướng
báo chí báo chí
truyền
thống

Số Tỷ Số Tỷ
lượng lệ lượng lệ

Nơi học Học viện Báo chí và 5 45.5 6 54.5


X^2(2,54)= 0.161, Tuyên truyền(n=11) % %
p=0.923
Trường Đại học Khoa 15 48.4 16 51.6
học Xã hội và Nhân văn, % %
ĐHQGHN
(n=31)

Trường Đại học Khoa 5 41.7 7 58.3


học Xã hội và Nhân văn, % %
ĐHQG TPHCM(n=12)

Bảng 2.1: Sự khác biệt về lựa chọn nghề nghiệp giữa các trường
Để kiểm tra sự khác biệt về lựa chọn nghề nghiệp giữa các trường có ý nghĩa
thống kê hay không, chúng tôi đã chạy kiểm định Chi-Square. Kết quả kiểm định Chi-
square cho thấy, Mối quan hệ giữa nơi học tập và lựa chọn nghề nghiệp không có ý
nghĩa thống kê (X^2(2,54)= 0.161, p=0.923> 0.05). Do đó, không có sự khác biệt về
lựa chọn định hướng nghề nghiệp tương lai giữa sinh viên các trường.

2.3.1. Trong lĩnh vực báo chí truyền thống


Tùy theo đặc điểm về năng khiếu và sở thích, mỗi sinh viên sẽ có những sự lựa
chọn riêng về loại hình báo chí mong muốn theo đuổi và làm việc:

33
Biểu đồ 2.6: Loại hình báo chí mong muốn làm việc
Trong tổng số các sinh viên dự định làm việc ở lĩnh vực báo chí truyền thống,
loại hình báo truyền hình được sinh viên ưa chuộng nhiều nhất (68%). Ngoài ra, báo
điện tử và báo phát thanh cũng được nhiều sinh viên lựa chọn theo đuổi (56% báo điện
tử và 36% báo phát thanh). Trong khi đó, báo in là loại hình ít thu hút với sinh viên nhất
(24%).
Dựa trên cơ sở phân tích về cơ hội việc làm ở các loại hình báo chí, báo in trong
thời đại phát triển công nghệ số sẽ dần bị “lép vế”. Hiện nay, số lượng độc giả đọc báo
in để cập nhật tin tức cũng có sự sụt giảm đáng kê. Những người đọc báo in đa phần là
những người trung niên, cao tuổi. Đồng thời, cơ hội nghề nghiệp cho mô hình toà soạn
báo in không nhiều, dẫn tới sự suy giảm cả về số lượng độc giả và nhu cầu tuyển dụng.
Trong khi đó, ba loại hình báo còn lại đều là những kênh thông tin quan trọng không
thể thiếu đối với độc giả trong thời đại công nghệ số. Do đó, cơ hội việc làm sẽ rộng
mở hơn so với báo in và thu hút được nguồn lực tuyển dụng với sự năng động, sáng tạo
cần đòi hỏi ở đội ngũ làm báo.
Đi sâu hơn vào các công việc theo định hướng lĩnh vực báo chí truyền thống, các
công việc tương lai mà sinh viên dự kiến sẽ theo đuổi cụ thể như sau:

34
Biểu đồ 2.7: Định hướng công việc cụ thể trong lĩnh vực báo chí
Thông qua biểu đồ trên, chúng tôi có thể thấy được rằng, đối với các công việc
ở loại hình báo in - báo điện tử, 72% sinh viên ngành báo chí tham gia khảo sát có định
hướng nghề nghiệp theo lĩnh vực báo chí truyền thống mong muốn trở thành phóng
viên, 68% sinh viên có nguyện vọng làm việc ở vị trí biên tập viên.
Những công việc đối với loại hình phát thanh - truyền hình sử dụng giọng nói
như phát thanh viên, người dẫn chương trình, bình luận viên cũng được các bạn sinh
viên báo chí đặt mục tiêu trong tương lai với tỉ lệ lần lượt là 36%, 44% và 12%. Ngoài
ra, có tỉ lệ các bạn sinh viên mong muốn thực hiện công việc sáng tạo nội dung như
biên kịch - đạo diễn truyền hình (85%) và công việc kỹ thuật - quay phim truyền hình,
hậu kỳ và chỉnh sửa video (20%).
Ngoài các công việc ở loại hình báo in - báo điện tử hay phát thanh - truyền hình,
36% sinh viên ngành báo chí định hướng công việc theo lĩnh vực báo chí truyền thống
tham gia khảo sát có mong muốn trở thành giảng viên - nhà nghiên cứu về lĩnh vực báo
chí - truyền thông, 16% sinh viên có nguyện vọng theo đuổi vị trí chuyên viên truyền
thông chuyên nghiệp của các cơ quan, tổ chức nhà nước.
Tùy theo năng lực và nhu cầu tìm kiếm việc làm, mỗi sinh viên sẽ có những lựa
chọn và mong muốn riêng cho mình về cơ quan báo chí muốn làm việc:

35
Biểu đồ 2.8: Cơ quan báo chí mong muốn làm việc
Dựa theo số liệu thống kê khảo sát, phần lớn sinh viên mong muốn được làm
việc trong các tòa soạn, đài phát thanh - truyền hình (96%). Ngoài ra, nhiều sinh viên
mong muốn được làm việc tại các cơ sở giáo dục đào tạo báo chí với công tác giảng dạy
và nghiên cứu (28%). Trong khi đó, chỉ có ít một số sinh viên có ý định làm việc tại các
cơ quan quản lý nhà nước về báo chí (Cục báo chí, Ban Tuyên giáo TW, Sở Văn hoá -
thông tin tỉnh/thành phố) và Phòng Thông tin - Báo chí ở các cơ quan, bộ, ban, ngành,
lực lượng chính trị…

2.3.2. Trong lĩnh vực truyền thông và lĩnh vực khác


Đi sâu hơn vào công việc theo định hướng lĩnh vực truyền thông và các lĩnh vực
khác (âm nhạc, văn học, phim ảnh, thiết kế…), các sinh viên tham gia khảo sát có mong
muốn theo đuổi những vị trí sau:

36
Biểu đồ 2.9: Định hướng công việc cụ thể trong lĩnh vực truyền thông và
lĩnh vực khác
Thông qua biểu đồ trên, chúng tôi có thể thấy được rằng, đối với các công việc
liên quan đến lĩnh vực truyền thông - quan hệ công chúng - marketing, 51,7%% sinh
viên ngành báo chí tham gia khảo sát có định hướng nghề nghiệp theo lĩnh vực truyền
thông và lĩnh vực khác mong muốn làm công việc tổ chức sự kiện, 51,7% sinh viên
tham gia khảo sát có nguyện vọng làm việc ở vị trí nhân viên truyền thông nội bộ.
Những vị trí công việc như nhân viên PR, nhân viên quảng cáo cũng được các bạn sinh
viên ngành báo chí đặt làm mục tiêu với tỉ lệ là 24,1%.

Điều đặc biệt ở khảo sát các bạn sinh viên ngành báo chí có định hướng nghề
nghiệp theo lĩnh vực truyền thông và lĩnh vực khác là có đến 65,5% sinh viên tham gia
khảo sát mong muốn xây dựng thương hiệu cá nhân để trở thành người sáng tạo nội
dung số trên các nền tảng mạng xã hội lớn như Facebook, TikTok, Instagram. Một số
bạn sinh viên tham gia khảo sát cũng chia sẻ thêm về lựa chọn của mình như sau: “Việc
xây dựng thương hiệu cá nhân ở trên các nền tảng mạng xã hội là một yêu cầu vô cùng
thiết yếu để có thể tồn tại trước bối cảnh thị trường lao động đầy cạnh tranh. Xây dựng
thương hiệu cá nhân thành công đồng nghĩa với việc có một lượng người theo dõi đủ
lớn để có thể thực hiện các công việc liên quan đến truyền thông thương hiệu, từ đó
giúp bản thân được tin tưởng hơn trong quan điểm của các nhà tuyển dụng”.

Bên cạnh các công việc ở lĩnh vực truyền thông - quan hệ công chúng - marketing
cũng như người sáng tạo nội dung số, 17,2% sinh viên ngành báo chí tham gia khảo sát
có mong muốn thử sức ở công việc thiết kế đồ họa. Ngoài ra, một số bạn sinh viên trong
một bài viết trên mạng xã hội chia sẻ thêm rằng “Các môn học mang tính chất thực hành
của đơn vị đào tạo không chỉ giúp sinh viên có khả năng phân tích thông tin mà còn hỗ

37
trợ sinh viên nắm rõ cách sản phẩm sẽ tiếp cận người đọc và xu hướng đọc của công
chúng. Thiết kế đẹp là thiết kế biết phân cấp thông tin, biết xây dựng bố cục, sử dụng
khoảng trắng và ít nhất là biết được tâm lý khách hàng là gì.”

Những lí do một số sinh viên ngành báo chí không lựa chọn những công việc
theo định hướng truyền thống được thể hiện ở dưới biểu đồ sau:

Biểu đồ 2.10: Lí do sinh viên không lựa chọn công việc theo định hướng báo chí
chính thống

Trong tổng số sinh viên lựa chọn công việc tương lai theo định hướng truyền
thông và lĩnh vực khác, phần lớn sinh viên đều cho rằng áp lực về mặt khối lượng công
việc của các vị trí nghề nghiệp theo lĩnh vực báo chí truyền thống là lí do mà họ không
có dự định theo đuổi những nghề này (37,9%). Thứ hai, mức lương không đủ để chi trả
cho học tập suốt đời và cuộc sống cũng là một trong những điều kiện khiến cho sinh
viên lựa chọn vị trí công việc tương lai theo lĩnh vực truyền thông - quảng cáo -
marketing thay vì các công việc báo chí truyền thống (34.5%). Ngoài ra, một số bất cập
đến từ công tác tuyển dụng của các cơ quan báo chí cũng khiến cho sinh viên cảm thấy
e dè khi đưa ra định hướng nghề nghiệp liên quan đến lĩnh vực báo chí truyền thống
(24.1%). Mặt khác, có bộ phận sinh viên cho rằng họ có những lí do khác để lựa chọn
các vị trí công việc truyền thông - marketing - quảng cáo thay vì làm phóng viên, biên
tập viên, dẫn chương trình - các công việc báo chí truyền thống (34.5%).

38
Kết quả khảo sát quan điểm của sinh viên về tính ứng dụng của chương trình học
đối với công việc mong muốn được thể hiện ở biểu đồ sau.

Biểu đồ 2.11: Quan điểm của sinh viên về tính ứng dụng của chương trình học
đối với công việc tương lai
Phần lớn sinh viên lựa chọn vị trí công việc tương lai theo lĩnh vực truyền thông
- marketing - quảng cáo và những lĩnh vực khác đều đồng tình với quan điểm “chương
trình đào tạo ngành báo chí rất hữu ích cho công việc tương lai họ mong muốn” (93,1%).
Cụ thể hơn, sinh viên được trang bị thêm những kỹ năng liên quan đến thiết kế (quay
phim, chụp ảnh, chỉnh sửa…), kỹ năng viết, kỹ năng sáng tạo nội dung, kỹ năng thuyết
trình, kiến thức và kỹ năng liên quan đến các hoạt động quan hệ công chúng trong doanh
nghiệp

Biểu đồ 2.12: Các kỹ năngtrong chương trình đào tạo báo chí ứng dụng được cho
công việc tương lai

39
Trong số các lựa chọn khảo sát, kỹ năng viết, kỹ năng sáng tạo nội dung và kỹ
năng thuyết trình được sinh viên cho rằng ứng dụng được nhiều nhất trong công việc
tương lai (81,5%). Ngoài ra, sinh viên cũng chia sẻ thêm là các nội dung bài tập của các
học phần nằm trong chương trình đào tạo cũng giúp cho họ có thêm kỹ năng quay phim,
chụp ảnh, biên tập và chỉnh sửa video (77,8%). Các kỹ năng về truyền thông (truyền
thông cá nhân, truyền thông nội bộ, truyền thông thương hiệu) cũng được các sinh viên
tiếp thu và ứng dụng thông qua các bài tập thực hành (74,1%).

2.4. Quan điểm của sinh viên báo chí về các yếu tố ảnh hưởng đến định hướng
nghề nghiệp

2.4.1. Lý do sinh viên chọn theo học ngành báo chí


Trong thời đại số hiện nay, xu hướng bùng nổ thông tin - một trong những vấn
đề trọng yếu của nền báo chí đang diễn ra với chiều hướng ngày càng phức tạp đã đặt
ra nhiệm vụ mới đối với tất cả người sử dụng mạng Internet trên toàn cầu đối với việc
quản lý thông tin. Trước những biến động của xu hướng bùng nổ thông tin, kèm theo
đó là nhu cầu tìm đọc tin tức của bộ phận lớn công chúng, do đó các ngành thuộc lĩnh
vực Báo chí - Thông tin luôn luôn cần một nguồn nhân lực lớn để đáp ứng nhu cầu của
thực tiễn.
Việc lựa chọn ngành học của học sinh trước khi bước vào đại học cần có sự định
hướng cụ thể để giúp học sinh khai thác thêm những thế mạnh hiện có cũng như cung
cấp nền tảng lý thuyết và kỹ năng thực hành vững chắc trong thời gian học Đại học. Do
đó, lí do chọn theo học lĩnh vực Báo chí đã được nhóm tác giả khảo sát.

40
Biểu đồ 2.13: Lý do sinh viên chọn ngành báo chí
Trong bảng hỏi khảo sát của chúng tôi, đã có 63% sinh viên ngành báo chí tham
gia điền bảng hỏi chia sẻ lý do chọn theo học ngành báo chí là do sự yêu thích của bản
thân dành cho ngành học. Cơ hội việc làm tốt cũng là một lý do để sinh viên chọn theo
học ngành báo chí (chiếm tỉ lệ 55,6%). Sinh viên cũng cân nhắc về quyết định chọn
ngành Báo chí dựa trên mức học phí hợp lý (46,3%), sự tư vấn của người thân và bạn
bè (32,2%) đồng thời có khả năng trúng tuyển cao sau khi xét tuyển (32,2%). Một số ít
sinh viên cho rằng việc theo học ngành Báo chí là lựa chọn thay thế (18,5%).
Dựa trên các nghiên cứu về những yếu tố ảnh hưởng đến định hướng nghề nghiệp
của thanh niên, đề tài này đã khái quát và chọn lọc những yếu tố phù hợp và có liên
quan đến sinh viên ngành báo chí, bao gồm nhóm các yếu tố khách quan và nhóm các
yếu tố chủ quan đã nêu ra ở chương 1. Thông qua bảng khảo sát, những số liệu mang
tính chất đánh giá chủ quan của sinh viên ngành Báo chí đối với các yếu tố ảnh hưởng
đến định hướng nghề nghiệp tương lai của nhóm này đã được thu thập. Cụ thể, mức độ
ảnh hưởng của nhóm yếu tố chủ quan đối với định hướng nghề nghiệp tương lai được
các bạn sinh viên báo chí chia sẻ như sau:

41
2.4.2. Quan điểm của sinh viên ngành báo chí về ảnh hưởng của nhóm yếu tố chủ
quan đến định hướng nghề nghiệp
Quan điểm về mức độ ảnh hưởng của nhóm yếu tố chủ quan đối với định hướng
nghề nghiệp tương lai được các bạn sinh viên báo chí chia sẻ như sau:

Năng lực của Sở thích, đam Tình trạng sức Đặc điểm tính
sinh viên mê khỏe cách

Không quan 1.9% 0% 0% 0%


trọng
Bình thường 5.6% 9.3% 9.3% 22.2%

Quan trọng 38.9% 47.3% 51.9% 59.3%

Rất quan trọng 53.7% 41.8% 38.9% 18.5%


Bảng 2.2: Quan điểm của sinh viên về mức độ ảnh hưởng của nhóm yếu tố chủ
quan đối với định hướng nghề nghiệp tương lai

Thông qua kết quả trên, chúng ta có thể thấy phần lớn quan điểm của sinh viên
đều cho rằng mức độ ảnh hưởng của các yếu tố chủ quan có vai trò quan trọng - rất quan
trọng đối với định hướng nghề nghiệp tương lai của họ. Điều đáng chú ý ở bảng thống
kê này đó chính là phần lớn sinh viên tham gia khảo sát đều dựa vào năng lực của bản
thân để xác định công việc tương lai phù hợp với mình. Cụ thể hơn, 53,7% sinh viên
đồng ý với quan điểm năng lực cá nhân có ảnh hưởng rất quan trọng đối với việc định
hướng nghề nghiệp cho bản thân. Bên cạnh thực lực, các yếu tố liên quan đến sở thích,
đam mê với lĩnh vực báo chí cùng với tình trạng sức khỏe cũng được sinh viên quan
tâm và cho rằng chúng rất quan trọng trong việc định hướng nghề nghiệp với tỉ lệ lần
lượt là 41,8% và 38,9%.

Sự khác nhau trong quan điểm của sinh viên các trường và các năm học về ảnh
hưởng của các nhóm yếu tố chủ quan đến định hướng nghề nghiệp được thể hiện ở bảng
sau:

Điểm Độ F p
trung lệch
bình chuẩn

42
Giữa các Học viện Báo chí và Tuyên truyền 14.0 1.4 F(2,51 0.08
trường (n=11) )= 7
2.57

Trường Đại học Khoa học Xã hội và 12.6 1.8


Nhân văn, ĐHQGHN
(n=31)
Trường Đại học Khoa học Xã hội và 13.2 1.8
Nhân văn, ĐHQG TPHCM(n=12)
Giữa các Năm 1(n=31) 13 1.8 F 0.83
năm học (3,50) 1
Năm 2(n=10) 13.4 1.7 =0.29

Năm 3(n=8) 12.6 1.8

Năm 4(n=5) 13.2 1.8

Bảng 2.3: Sự khác nhau trong quan điểm của sinh viên các trường và các năm học
về ảnh hưởng của các nhóm yếu tố chủ quan đến định hướng nghề nghiệp
Phép kiểm định One-way Anova được thực hiện để so sánh quan điểm về ảnh
hưởng của các nhóm yếu tố chủ quan đến định hướng nghề nghiệp từ sinh viên giữa các
trường và giữa các năm học khác nhau. Kết quả phân tích One Way ANOVA cho thấy
không có mối liên hệ giữa quan điểm về ảnh hưởng của các nhóm yếu tố chủ quan của
sinh viên giữa các trường và các năm với F(2,51)= 2.57, p = 0.087>0.05 và
F(3,30)=0.29, p=0.831>0.05. Do đó, có thể thấy sinh viên giữa các trường và các năm
có quan điểm về ảnh hưởng của nhóm yếu tố chủ quan đến định hướng nghề nghiệp
tương lai là tương đồng nhau.

2.4.3. Quan điểm của sinh viên ngành báo chí về ảnh hưởng của nhóm yếu tố
khách quan đến định hướng nghề nghiệp

2.4.3.1. Các yếu tố đến từ môi trường xã hội


Mức độ ảnh hưởng của nhóm yếu tố đến từ môi trường xã hội đối với định hướng
nghề nghiệp tương lai được các bạn sinh viên báo chí chia sẻ như sau:

Tác động của Nhu cầu xã hội Môi trường Sự tác động
các mối quan về nhân lực làm việc của các
hệ xung quanh phương tiện

43
truyền thông
xã hội
Không quan 1.9% 0% 1.9% 1.9%
trọng
Bình thường 31.5% 9.3% 9.3% 22.2%
Quan trọng 46.3% 59.3% 63% 44.4%

Rất quan trọng 20.4% 31.5% 25.9% 31.5%


Bảng 2.4: Quan điểm của sinh viên ngành báo chí về ảnh hưởng của nhóm yếu tố
đến từ môi trường xã hội tới định hướng nghề nghiệp
Thông qua biểu đồ trên, chúng ta có thể thấy phần lớn quan điểm của sinh viên
đều cho rằng mức độ ảnh hưởng của các yếu tố đến từ môi trường xã hội có vai trò quan
trọng - rất quan trọng đối với định hướng nghề nghiệp tương lai của họ. Điều đặc biệt
ở trong quan điểm của sinh viên đối với ảnh hưởng của nhóm yếu tố đến từ môi trường
xã hội tới định hướng nghề nghiệp là phần lớn sinh viên đều nhận thấy rõ ràng tầm quan
trọng của nhu cầu xã hội đối với nguồn nhân lực ngành Báo chí. Nhiều sinh viên đồng
ý với quan điểm sự ảnh hưởng của các phương tiện truyền thông xã hội có vai trò quan
trọng - rất quan trọng đối với định hướng nghề nghiệp tương lai của họ. Để có thể xác
định lý tưởng nghề nghiệp tương lai của bản thân, nhiều sinh viên đã tìm hiểu các thông
tin về ngành học, về nhu cầu xã hội đối với cử nhân tốt nghiệp ngành Báo chí, về các vị
trí công việc, đặc thù công việc ngành Báo chí nhờ những thông tin ở trên các hội nhóm
review Trường Đại học - ngành học trên mạng xã hội, báo điện tử. Kết quả trên cũng
cho thấy rằng, sinh viên lựa chọn công việc tương lai không chỉ đơn thuần dựa trên sở
thích và đam mê của bản thân mà còn nhờ vào các yếu tố khách quan đến từ môi trường
xã hội, đặc biệt là nhu cầu xã hội về nhân lực.

Sự khác nhau trong quan điểm của sinh viên báo chí các trường và các năm học
về ảnh hưởng của các nhóm yếu tố khách quan từ môi trường xã hội đến định hướng
nghề nghiệp được thể hiện ở bảng sau:

Điểm Độ F p
trung lệch
bình chuẩn

44
Giữa các Học viện Báo chí và Tuyên truyền 13.1 2.7 F(2,51 0.24
trường (n=11) )= 1
1.46

Trường Đại học Khoa học Xã hội và 12.2 2.0


Nhân văn, ĐHQGHN
(n=31)
Trường Đại học Khoa học Xã hội và 11.7 1.2
Nhân văn, ĐHQG TPHCM(n=12)
Giữa các Năm 1(n=31) 12.4 2.1 F 0.67
năm học (3,50) 3
Năm 2(n=10) 11.9 2.1 =0.56
1
Năm 3(n=8) 11.8 1.9

Năm 4(n=5) 13.0 2.0

Bảng 2.5: Sự khác nhau trong quan điểm của sinh viên các trường và các năm học
về ảnh hưởng của các nhóm yếu tố môi trường xã hội đến định hướng nghề nghiệp
Phép kiểm định One-way Anova được thực hiện để so sánh quan điểm về ảnh
hưởng của các nhóm yếu tố khách quan đền từ môi trường xã hội tới định hướng nghề
nghiệp từ sinh viên giữa các trường và giữa các năm học khác nhau. Kết quả phân tích
One Way ANOVA cho thấy không có mối liên hệ giữa quan điểm về ảnh hưởng của
các nhóm yếu tố khách quan đến từ môi trường xã hội tới vấn đề định hướng nghề
nghiệp của sinh viên giữa các trường và các năm (F(2,51)= 1.46, p = 0.241>0.05 và
F(3,50)=0.561, p=0.673>0.05). Do đó, có thể thấy sinh viên giữa các trường và các năm
có quan điểm về ảnh hưởng của nhóm yếu tố khách quan từ môi trường xã hội đến định
hướng nghề nghiệp tương lai là tương đồng nhau.

2.4.3.2. Các yếu tố đến từ đặc thù công việc


Quan điểm về mức độ ảnh hưởng của nhóm yếu tố khách quan đến từ đặc thù
công việc đối với định hướng nghề nghiệp tương lai được các bạn sinh viên báo chí chia
sẻ như sau:

Mức lương Môi trường Công tác Thời gian Khối lượng
công việc tuyển dụng làm việc công việc

45
Không quan 1.9% 0% 1.9% 0% 0%
trọng
Bình 1.9% 1.9% 16.7% 13% 14.8%
thường
Quan trọng 55.6% 51.9% 59.3% 59.3% 53.7%
Rất quan 40.7% 46.3% 22.2% 27.8% 31.5%
trọng
Bảng 2.6: Quan điểm của sinh viên ngành báo chí về ảnh hưởng của nhóm yếu tố
đến từ đặc thù công việc tới định hướng nghề nghiệp
Thông qua biểu đồ trên, chúng ta có thể thấy phần lớn quan điểm của sinh viên
Báo chí đều cho rằng mức độ ảnh hưởng của các yếu tố từ đặc thù công việc có vai trò
quan trọng - rất quan trọng đối với định hướng nghề nghiệp tương lai của họ. Điều đáng
chú ý ở trong quan điểm của sinh viên đối với ảnh hưởng của nhóm yếu tố từ đặc thù
công việc tới định hướng nghề nghiệp là phần lớn sinh viên đều đồng ý mức lương có
vai trò quan trọng - rất quan trọng trong việc xác định công việc tương lai (55,6% và
40,7%). Nhiều sinh viên đồng ý với quan điểm rằng môi trường công việc tương lai (nơi
làm việc, đồng nghiệp cấp trên và cấp dưới) đóng vai trò quan trọng - rất quan trọng đối
với định hướng nghề nghiệp tương lai của họ. Kết quả này cũng chỉ ra rằng, sinh viên
đều cho rằng việc định hướng nghề nghiệp sau khi ra trường không chỉ dựa vào những
yếu tố chủ quan như sở thích và đam mê hay những yếu tố khách quan đến từ môi
trường xã hội mà còn phải dựa vào đặc thù vị trí công việc để lựa chọn con đường phù
hợp với bản thân mình.

Sự khác nhau trong quan điểm của sinh viên báo chí các trường và các năm học
về ảnh hưởng của các nhóm yếu tố khách quan từ đặc thù công việc đến định hướng
nghề nghiệp được thể hiện ở bảng sau:

46
Điểm Độ F p
trung lệch
bình chuẩn
Giữa các Học viện Báo chí và Tuyên truyền 17.0 2.9 F(2,51 0.36
trường (n=11) )= 8
1.0

Trường Đại học Khoa học Xã hội và 15.9 2.2


Nhân văn, ĐHQGHN
(n=31)

Trường Đại học Khoa học Xã hội và 16.0 1.9


Nhân văn, ĐHQG TP.HCM(n=12)

Giữa các Năm 1(n=31) 15.8 2.4 F 0.25


năm học (3,50) 8
Năm 2(n=10) 17.2 1.9 =1.39

Năm 3(n=8) 15.6 1.9

Năm 4(n=5) 17.0 2.7

Bảng 2.7: Sự khác nhau trong quan điểm của sinh viên các trường và các năm học
về ảnh hưởng của các nhóm yếu tố đặc thù công việc đến định hướng nghề nghiệp
Phép kiểm định One-way Anova được thực hiện để so sánh quan điểm về ảnh
hưởng của các nhóm yếu tố khách quan đền từ đặc thù công việc tới định hướng nghề
nghiệp từ sinh viên giữa các trường và giữa các năm học khác nhau. Kết quả phân tích
One-way ANOVA cho thấy không có mối liên hệ giữa quan điểm về ảnh hưởng của các
nhóm yếu tố khách quan từ đặc thù công việc tới vấn đề định hướng nghề nghiệp của
sinh viên giữa các trường và các năm (F(2,51)= 1.0, p = 0.368>0.05 và F(3,50)=1.39,
p=0.258>0.05). Do đó, có thể đưa ra kết luận rằng: Không có sự khác biệt giữa sinh
viên các trường và thời gian học tập của sinh viên đối với quan điểm về các yếu tố ảnh
hưởng chủ quan lẫn khách quan đến vấn đề định hướng nghề nghiệp của nhóm đối
tượng này.

47
2.5. Mức độ hài lòng của sinh viên ngành báo chí đối với công tác định hướng
nghề nghiệp của các cơ sở đào tạo
Để đánh giá về mức độ hài lòng công tác tổ chức sự kiện định hướng nghề nghiệp
giữa các trường, chúng tôi đã đưa ra các tiêu chí sau:
● Về công tác tổ chức các hoạt động định hướng nghề nghiệp dành cho sinh viên
Các hoạt động định hướng nghề nghiệp được tổ chức và truyền thông rộng rãi
đến sinh viên
Thời gian, địa điểm tổ chức phù hợp
Nội dung chương trình hợp lý, đảm bảo về
Diễn giả có đủ chuyên môn, kỹ năng kiến thức về lĩnh vực báo chí - truyền thông
và thân thiện với sinh viên
Sinh viên tích lũy được kinh nghiệm thực tiễn để bước vào thị trường lao động
Các câu hỏi của sinh viên về vấn đề hướng nghiệp đối với ngành nghề báo chí
được giải đáp thỏa đáng
● Về việc lồng ghép công tác định hướng nghề nghiệp trong hoạt động giảng dạy
Giảng viên hỗ trợ sinh viên giải đáp thắc mắc thực tế về công việc báo chí
Giảng viên mời cựu sinh viên về giảng đường chia sẻ kinh nghiệm làm việc
Giảng viên cập nhật tình hình hoạt động báo chí thực tế
Sinh viên được giao bài tập thực tế (postcard, chụp ảnh, quay phim báo chí...)
Chương trình kiến tập và thực tập

2.5.1. Đánh giá mức độ hài lòng của của sinh viên về công tác tổ chức các hoạt
động định hướng nghề nghiệp
Mức độ hài lòng đối với công tác tổ chức các sự kiện, hoạt động hỗ trợ định
hướng nghề nghiệp và tìm kiếm việc làm được các bạn sinh viên báo chí chia sẻ như
sau:

Không hài Bình thường Hài lòng Rất hài lòng


lòng

Các hoạt động 1.9% 35.2% 44.4% 18.5%


hướng nghiệp
được truyền
thông rộng rãi
đến các sinh

48
viên

Thời gian, địa 0% 40.7% 46.3% 13.0%


điểm tổ chức
phù hợp
Nội dung 0% 25.9% 53.7% 20.4%
chương trình
hợp lý, đảm
bảo về chất
lượng

Diễn giả có đủ 0% 13.0% 55.6% 31.5%


chuyên môn,
kỹ năng kiến
thức về lĩnh
vực báo chí -
truyền thông
và thân thiện
với sinh viên
Sinh viên tích 0% 16.7% 57.4% 25.9%
lũy được kinh
nghiệm thực
tiễn để bước
vào thị trường
lao động

Các câu hỏi 0% 20.4% 59.3% 20.4%


của sinh viên
về vấn đề
hướng nghiệp
đối với ngành
nghề báo chí
được giải đáp
thỏa đáng
Bảng 2.8: Mức độ hài lòng của sinh viên ngành báo chí về
công tác tổ chức hoạt động định hướng nghề nghiệp
Từ bảng biểu trên, chúng ta có thể thấy phần lớn sinh viên ngành Báo chí tham
gia khảo sát đều cảm thấy hài lòng đối với công tác tổ chức sự kiện hỗ trợ sinh viên
hướng nghiệp của các trường. Nhà trường phối hợp cùng các đơn vị đào tạo sinh viên
ngành Báo chí và các doanh nghiệp tổ chức các hoạt động hướng nghiệp, tìm kiếm các
vị trí làm việc phù hợp cho sinh viên (cộng tác viên tòa soạn báo, nhân viên kỹ thuật

49
truyền hình, MC dẫn chương trình, vị trí marketing và PR…) với sự chọn lọc kỹ lưỡng
để phù hợp với năng lực và nhu cầu việc làm của sinh viên. Ngoài ra, các đơn vị đào
tạo cử nhân ngành Báo chí cũng thường xuyên tổ chức cho sinh viên các hoạt động
ngoại khóa tham quan tại các tòa soạn báo, tham quan đài truyền hình, theo dõi cụ thể
các hoạt động của từng vị trí làm việc tại các địa điểm đó liên quan đến định hướng báo
chí - truyền thông.
Sau khi thu thập dữ liệu thực tế, chúng tôi tiến hành xử lý dữ liệu định lượng và
kết quả có sự khác biệt mang ý nghĩa thống kê. Cụ thể hơn, điểm trung bình về mức độ
hài lòng của sinh viên đối với công tác tổ chức hoạt động định hướng nghề nghiệp của
các đơn vị như sau:

Điểm Độ F p
trung lệch
bình chuẩn

Giữa các Học viện Báo chí và Tuyên truyền 20.3 2.9 F(2,51 0.04
trường (n=11) )=
6.2

Trường Đại học Khoa học Xã hội và 16.7 2.8


Nhân văn, ĐHQGHN
(n=31)

Trường Đại học Khoa học Xã hội và 18.3 3.5


Nhân văn, ĐHQG TP.HCM(n=12)

Giữa các Năm 1(n=31) 17.4 3.5 F 0.80


năm học (3,50) 3
Năm 2(n=10) 18.3 1.6 =0.33
1
Năm 3(n=8) 18.1 4.1

Năm 4(n=5) 18.4 3.7

Bảng 2.9: Mức độ hài lòng về công tác hướng nghiệp của sinh viên các trường và
các năm học
Phép kiểm định One-way Anova được thực hiện để so sánh mức độ hài lòng về
công tác hướng nghiệp của sinh viên giữa các trường và giữa các năm học khác nhau.
Kết quả phân tích One Way ANOVA cho thấy mức độ hài lòng về công tác hướng
nghiệp của sinh viên giữa các trường F(2,51)= 6.2, p = 0.04<0.05.
50
Có thể thấy rằng, đơn vị Học viện Báo chí và Tuyên truyền có điểm trung bình
về mức độ hài lòng của sinh viên cao nhất (M=20,3; SD=2,9), theo sau đó là đơn vị
Khoa Báo chí - Truyền thông, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, ĐHQG
TPHCM (M=18,3; SD=3,5). Trong khi đó, đơn vị Viện Đào tạo Báo chí và Truyền
thông, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, ĐHQGHN có mức độ hài lòng
thấp nhất (M=16,6; SD=2,8).
Tuy nhiên, sinh viên giữa các năm học lại không có sự khác biệt về mức độ hài
lòng vì p=0.803>0.05. Do đó, có thể thấy mức độ hài lòng về công tác tổ chức sự kiện
hướng nghiệp cho sinh viên ngành báo chí không có sự khác biệt giữa 4 năm học.

2.5.2. Đánh giá mức độ hài lòng của sinh viên về việc lồng ghép công tác định
hướng nghề nghiệp trong hoạt động giảng dạy
Mức độ hài lòng đối với về việc lồng ghép công tác định hướng nghề nghiệp
trong hoạt động giảng dạy (chia sẻ về kinh nghiệm làm việc, đặc thù và yêu cầu của
từng vị trí công việc…) được các bạn sinh viên báo chí chia sẻ như sau:

Không hài Bình thường Hài lòng Rất hài lòng


lòng

Giảng viên hỗ 0% 13.0% 51.9% 35.2%


trợ sinh viên
giải đáp thắc
mắc thực tế về
công việc báo
chí

Giảng viên 0% 22.2% 53.7% 24.1%


mời cựu sinh
viên về giảng
đường chia sẻ

Giảng viên cập 0% 20.4% 48.1% 31.5%


nhật tình hình
hoạt động báo
chí thực tế

Sinh viên được 1.9% 14.8% 48.1% 35.2%


giao bài tập
thực tế
(postcard, chụp
ảnh, quay

51
phim báo
chí...)
Chương trình 7.4% 20.4% 44.4% 27.8%
kiến tập và
thực tập
Bảng 2.10: Mức độ hài lòng của sinh viên ngành báo chí về việc lồng ghép công tác
định hướng nghề nghiệp trong hoạt động giảng dạy
Từ bảng biểu trên, chúng ta có thể thấy phần lớn sinh viên ngành Báo chí tham
gia khảo sát đều cảm thấy hài lòng đối với hoạt động lồng ghép công tác định hướng
nghề nghiệp trong việc giảng dạy. Sinh viên báo chí có nhiều cơ hội để thể hiện khả
năng của mình thông qua các bài tập thực hành (chụp ảnh, quay phim phóng sự, viết
báo, làm sản phẩm báo chí) và cảm thấy hài lòng - rất hài lòng đối với những yêu cầu
về đầu ra của sản phẩm thực hành (48.1% và 35.2%). Tuy nhiên, có 7.4% sinh viên cho
rằng đơn vị đào tạo chưa làm tốt việc xây dựng và thực hiện lộ trình kiến tập và thực
tập cho sinh viên. Ngoài ra, số sinh viên hài lòng - rất hài lòng đối với tiêu chí chương
trình kiến tập và thực tập của đơn vị đào tạo cũng thấp hơn so với các tiêu chí còn lại
(44,4% và 27,8%). Tuy nhiên nhìn chung, việc kết hợp các hoạt động hướng nghiệp
lồng ghép vào công tác giảng dạy của các giảng viên tại các đơn vị đào tạo cử nhân
ngành Báo chí đang có dấu hiệu tích cực.

Biểu đồ 2.14: Quan điểm sinh viên về chương trình đào tạo của các cơ sở đào tạo
báo chí

52
Thông qua biểu đồ trên, chúng ta có thể thấy được rằng sinh viên đều có quan
điểm cho rằng chương trình đào tạo có sự cân bằng giữa lý thuyết nền tảng và các bài
tập thực hành mang tính ứng dụng cao. Trong đó tính thực tiễn, ứng dụng được đề cao
hơn (44,4% và 64,8%). Ngoài ra chương trình đào tạo cũng sắp xếp được lộ trình kiến
tập và thực tập cho sinh viên, đảm bảo về cơ hội thực tập (42,6%).

2.5.3. Các đề xuất nguyện vọng của sinh viên đối với công tác định hướng nghề
nghiệp của các cơ sở đào tạo
Bên cạnh sự hài lòng của sinh viên công tác định hướng nghề nghiệp của các cơ
sở đào tạo, sinh viên cũng có những đề xuất để công tác định hướng nghề nghiệp của
đơn vị được thực hiện hiệu quả hơn, giúp ích cho sinh viên tìm kiếm được công việc
phù hợp với sở thích và năng lực của bản thân, có thêm động lực theo đuổi với nghề:

Biểu đồ 2.15: Đề xuất của sinh viên về công tác định hướng nghề nghiệp của các
cơ sở đào tạo báo chí
Hầu hết sinh viên đều đề xuất rằng, trong công tác giảng dạy cần tích hợp thêm
công tác về định hướng nghề nghiệp trong nội dung học phần, giờ giảng dạy, thực hành
bằng cách cung cấp nhiều thông tin hơn nữa về các vị trí việc làm cụ thể cũng như yêu
cầu về năng lực đồng thời chia sẻ thêm về yêu cầu thực tiễn của nghề nghiệp (83,3%).
Ví dụ, làm phóng viên ở báo điện tử Zing News thì cụ thể những công việc làm như thế
nào, yêu cầu về nền tảng kiến thức và năng lực là gì?
53
Một số sinh viên kỳ vọng đơn vị có thể phát triển thêm những nội dung và hoạt
động về định hướng nghề nghiệp trên các phương tiện truyền thông xã hội bằng cách
đưa tin thông qua các hội nhóm ở trên mạng xã hội dành cho sinh viên(63%). Từ đó,
các hoạt động hướng nghiệp của đơn vị dành cho sinh viên sẽ có thêm nhiều lượt tiếp
cận với các bạn sinh viên thuộc ngành học khác dành sự quan tâm đến lĩnh vực báo chí
truyền thông. Đồng thời, sinh viên có thể thấy quan điểm của các bạn sinh viên đồng
trang lứa về vấn đề định hướng nghề nghiệp, đưa ra câu hỏi thảo luận và được giải đáp
thắc mắc bởi những bạn trẻ khác có kinh nghiệm.
Sinh viên cũng mong muốn nhà trường và đơn vị đào tạo có thể tổ chức thêm
các buổi hội thảo mời những diễn giả có tên tuổi trong lĩnh vực báo chí - truyền thông
để cùng sinh viên thảo luận về vấn đề hướng nghiệp, chia sẻ kinh nghiệm thực tiễn trong
thời gian làm việc (53,7%). Nhờ vào đó, sinh viên sẽ có thể hiểu thêm về nhu cầu xã
hội đối với nguồn nhân lực lĩnh vực báo chí - truyền thông, các yêu cầu về năng lực và
những chia sẻ hữu ích khác để giúp sinh viên lựa chọn công việc phù hợp với bản thân,
có thêm động lực với lựa chọn nghề nghiệp của mình và có những bước tiến hợp lý để
thực hiện công việc mong muốn.
Ngoài ra, sinh viên cũng kỳ vọng đơn vị đào tạo có thể tổ chức thêm các buổi
tham quan thực tế cho sinh viên tại các địa điểm liên quan đến ngành học (tòa soạn, đài
phát thanh, đài truyền hình, văn phòng truyền thông của một số tập đoàn lớn) để giúp
sinh viên tìm hiểu về các vị trí công việc (72,2%). Từ đó, sinh viên có thể lựa chọn công
việc phù hợp với khả năng của mình. Bên cạnh đó, trước những yêu cầu của thị trường
lao động về nguồn nhân lực có kinh nghiệm thực tiễn trong tất cả các lĩnh vực nói chung
và lĩnh vực báo chí - truyền thông nói riêng, nhiều sinh viên mong muốn các đơn vị đào
tạo thiết kế lộ trình kiến tập và thực tập trong 4 năm đại học và cho sinh viên cơ hội
được thực tập sớm hơn để đáp ứng yêu cầu của thị trường lao động (59,3%).

54
TIỂU KẾT CHƯƠNG 2
Trong chương 2, đề tài đã đi vào tìm hiểu chung về các đối tượng tham gia khảo
sát (Viện Báo chí, Khoa Phát thanh - Truyền hình - Học viện Báo chí và Tuyên truyền;
Viện Đào tạo Báo chí và Truyền thông, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn,
ĐHQGHN và Khoa Báo chí - Truyền thông, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân
văn, ĐHQG TP.HCM). Qua đó công trình nghiên cứu đã có khảo sát và thống kê về
thực trạng định hướng nghề nghiệp của sinh viên ngành báo chí các trường trong thời
đại số hiện nay. Đồng thời nghiên cứu cũng thống kê được quan điểm của sinh viên về
mức độ ảnh hưởng của các yếu tố chủ quan lẫn khách quan đến định hướng nghề nghiệp
tương lai cũng như mức độ hài lòng của sinh viên đối với công tác định hướng nghề
nghiệp của các cơ sở đào tạo.
Tại chương 2, đề tài này đã nêu ra thực trạng định hướng nghề nghiệp của sinh
viên qua những số liệu thống kê, những biểu đồ khảo sát. Nhìn chung, sinh viên ngành
báo chí có nhận thức tương đối đầy đủ về tầm quan trọng của hoạt động hướng nghiệp
đối với việc phát triển sự nghiệp của bản thân trong tương lai. Do đó, sinh viên đã tự
định hướng con đường phát triển sự nghiệp của bản thân bằng các phương pháp cá nhân
như: chủ động cập nhật thông tin, tích lũy kiến thức, nâng cao năng lực, rèn luyện kĩ
năng, phẩm chất, đạo đức nghề nghiệp phù hợp. Kế đến, sinh viên cũng tự xác định
được việc tiếp tục theo đuổi ngành học cho đến khi tốt nghiệp và lựa chọn công việc
phù hợp. Thông qua đánh giá về mức độ hài lòng của sinh viên đối với công tác định
hướng nghề nghiệp của các cơ sở đào tạo, chúng tôi thấy được những điểm chưa hài
lòng của sinh viên về công tác này cũng như các đề xuất và mong muốn của sinh viên
về những hỗ trợ trong tìm kiếm việc làm xây dựng lộ trình thực tập và kiến tập và chú
trọng các vị trí thực tập sớm. Những nội dung này trở thành tiền đề để đặt ra những vấn
đề cũng như đề ra các giải pháp ở chương 3.

55
CHƯƠNG 3: MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐẶT RA VÀ ĐỀ XUẤT GIẢI
PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG ĐỊNH HƯỚNG
NGHỀ NGHIỆP CHO SINH VIÊN NGÀNH BÁO CHÍ TRONG
THỜI ĐẠI SỐ

3.1. Đánh giá chung về vấn đề định hướng nghề nghiệp của sinh viên báo chí
trong thời đại số

3.1.1. Thành công

3.1.1.1. Về sự chủ động tham gia hoạt động hướng nghiệp của sinh viên
Ba đơn vị đào tạo báo chí trong đề tài khảo sát là những nơi được coi là chất
lượng cao trong hoạt động giảng dạy báo chí chính quy. Do đó, sinh viên khi học tập ở
trong môi trường quy củ như vậy được định hướng về học tập và công việc rõ ràng và
đáp ứng nhu cầu thực tế.
Thứ nhất, sinh viên báo chí trong thời đại công nghệ thông tin rất chủ động trong
việc định hướng nghề nghiệp của bản thân. Hiện nay, sinh viên báo chí phần lớn đều
năng động, chủ động nắm bắt thông tin liên quan đến lĩnh vực học tập trên các phương
tiện truyền thông. Dưới sự tiện ích của các thiết bị công nghệ thông tin, chỉ cần có
smartphone, sinh viên đều có thể tra cứu các kiến thức và chuyên môn liên quan đến
công việc tương lai của bản thân sau này. Đặc biệt, một số sinh viên còn tích cực tham
gia thảo luận các vấn đề hướng nghiệp ở các hội nhóm trên mạng xã hội. Điều này thể
hiện sự hội nhập nhanh nhạy của sinh viên trong thời đại công nghệ số phát triển mạnh
mẽ. Thông qua các bàn luận, chia sẻ trên mạng xã hội, sinh viên sẽ có được góc nhìn đa
chiều hơn về chuyên ngành bản thân đang theo học.
Thứ hai, sinh viên báo chí trong thời đại 4.0 còn tích cực tham gia các buổi hội
thảo, sự kiện thực tế trong ngành báo chí. Bên cạnh tham gia các hoạt động hướng
nghiệp do đơn vị đào tạo tổ chức, sinh viên còn chủ động tích cực tham dự các buổi hội
thảo về vấn đề định hướng nghề nghiệp cho sinh viên báo chí và tham gia các sự kiện
lớn của ngành báo chí. Trong thời đại hội nhập, các buổi hội thảo, sự kiện trên đem lại
cho sinh viên cơ hội trải nghiệm hoạt động thực tế về báo chí, từ đó giúp sinh viên có
góc nhìn khách quan hơn về lĩnh vực bản thân đang học tập. Đặc biệt, còn có sinh viên
năng động tham gia các cuộc thi về báo chí, từ đó có cơ hội thiết lập và xây dựng các
mối quan hệ hữu ích phục vụ cho quá trình làm việc trong tương lai.
56
Nhìn chung, sinh viên báo chí trong thời đại số hiện nay nắm bắt nhanh nhạy,
chủ động về thông tin hướng nghiệp trên các nền tảng đa dạng. Điều này sẽ giúp ích
cho sinh viên có cơ hội mở mang kiến thức thực tế về công việc tương lai của bản thân,
đồng thời giúp sinh viên có cơ hội gặp gỡ và giao lưu với những người trong ngành để
học hỏi và trau dồi bản thân.

3.1.1.2. Về các yếu tố ảnh hưởng đến định hướng nghề nghiệp tương lai
Qua thống kê số liệu thực tế khảo sát về các yếu tố ảnh hưởng đến định hướng
nghề nghiệp tương lai của sinh viên báo chí, kết quả cho thấy rằng các yếu tố chủ quan
về sức khoẻ, năng lực, đam mê, tính cách đều có những tác động tích cực quan trọng
tới sinh viên. Bên cạnh đó, các yếu tố khách quan về phương diện môi trường xã hội và
đặc thù công việc cũng ảnh hưởng đến sự lựa chọn nghề nghiệp của sinh viên báo chí.
Về các yếu tố chủ quan, năng lực là yếu tố được sinh viên coi trọng nhất. Điều này cho
thấy sinh viên có sự cân nhắc rõ ràng về khả năng đáp ứng công việc thực tế của bản
thân. Ngoài ra, các vấn đề về sức khoẻ, đam mê và tính cách cũng là những yếu tố được
sinh viên đánh giá là quan trọng trong định hướng lựa chọn công việc tương lai của bản
thân. Điều đó cho thấy sinh viên có sư quan tâm về điều kiện thể chất và tinh thần có
đáp ứng được với yêu cầu và áp lực công việc của ngành nghề hay không, từ đó thúc
đẩy sinh viên rèn luyện thể thao và cân bằng trạng thái, cảm xúc trong cuộc sống hằng
ngày. Bên cạnh đó, sự quan tâm về đam mê và tích cách của sinh viên cũng là những
điều kiện quyết định sự phù hợp với công việc và khả năng đáp ứng các yêu cầu của
nhà tuyển dụng.
Về các yếu tố khách quan, những ảnh hưởng đến từ môi trường xã hội và đặc thù
nghề nghiệp tác động tích cực đến lựa chọn công việc của sinh viên. Thứ nhất, đa phần
sinh viên rất coi trọng môi trường làm việc (thời gian, đồng nghiệp..). Trong thời đại đa
dạng cơ hội việc làm hiện nay, sinh viên thời đại số có nhiều lựa chọn hơn các thế hệ
trước về nơi làm việc mình muốn làm. Các vấn đề về thời gian, đồng nghiệp ảnh hưởng
rất lớn đến sự thăng tiến trong công việc, bởi sự phù hợp về thời gian và sự hợp tác, hoà
hợp suôn sẻ với đồng nghiệp sẽ giúp bản thân được phát triển sự nghiệp tốt hơn. Điều
này cho thấy sinh viên báo chí có góc nhìn đa chiều, toàn diện về thị trường làm độn và
thể hiện sự chín chắn trong quyết định lựa chọn công việc phù hợp với bản thân. Thứ

57
hai, nhu cầu tuyển dụng của xã hội cũng ảnh hưởng nhiều đến quyết định lựa chọn nghề
nghiệp của sinh viên báo chí. Trong thời đại số, mọi thứ biến chuyển rất nhanh, không
có gì có thể tồn tại mãi mãi. Việc coi trọng về nhu cầu nguồn lực của xã hội cho thấy
sinh viên báo chí rất nhanh nhạy, có khả năng thích ứng với sự thay đổi mạnh mẽ của
xã hội trong thời đại 4.0. Thứ ba, điều quan trọng không thể thiếu trong quyết định công
việc của sinh viên là mức lương và chính sách ưu đãi được hưởng lợi. Ngoài việc đáp
ứng sở thích, năng lực của bản thân, mức lương đóng vai trò không kém trong quyết
định lựa chọn công việc. Không thể phủ nhận rằng, mức lương mỗi người làm ra cần
đảm bảo cho khả năng chi tiêu trong cuộc sống hằng ngày. Do đó, sinh viên khi lựa
chọn công việc đều cân nhắc mức lương vừa phù hợp với năng lực làm việc, vừa đảm
bảo khả năng chi trả cho cuộc sống hằng ngày. Đồng thời, khi có sự tìm hiểu và cân
nhắc về mức lương, sinh viên sẽ hạn chế được tình trạng bị bóc lột sức lao động với
mức công rẻ mạt. Điều này thể hiện sự chín chắn trong suy nghĩ của sinh viên trong
việc đảm bảo quyền lợi và sự sinh tồn trong đời sống. Thứ tư, các tác động từ những
mối quan hệ xung quanh và phương tiện truyền thông xã hội ảnh hưởng không nhiều
đến lựa chọn định hướng nghề nghiệp của sinh viên báo chí. Điều này thể hiện tính độc
lập, quyết đoán trong tư duy của sinh viên, bởi các thông tin từ những mối quan hệ xung
quanh và mạng xã hội đều không được kiểm chứng, có thể không đúng với thực tế. Do
đó, sinh viên khi tự tin vào quyết định thực tế về công việc tương lai của bản thân sẽ
phát triển hơn trong sự nghiệp.
Nhìn chung, các yếu tố trên đều tác động tích cực đến nhận thức của sinh viện
báo chí trong định hướng nghề nghiệp tương lai. Những đặc điểm cá nhân và tác động
từ môi trường xã hội bên ngoài là những tiền đề quan trọng trong sự phát triển sự nghiệp
trong tương lai của mỗi sinh viên.

3.1.1.3. Về hoạt động hướng nghiệp của đơn vị đào tạo


Qua khảo sát, kết quả cho thấy đa phần sinh viên đánh giá mức độ hài lòng về
công tác định hướng nghề nghiệp ở cơ sở đào tạo báo chí. Đây là biểu hiện tích cực của
các đơn vị đào tạo trong việc xây dựng chương trình giảng dạy và hoạt động hướng
nghiệp bám sát với yêu cầu thực tiễn của xã hội.

58
Thứ nhất, nhiều sinh viên đánh giá cao công tác tổ chức sự kiện hướng nghiệp
của đơn vị đào tạo. Các sự kiện về hướng nghiệp do đơn vị tổ chức được truyền thông
rộng rãi tới các bạn sinh viên và được sắp xếp thời gian hợp lý. Điều này giúp các bạn
sinh viên đều nắm bắt được thông tin về chương trình và sắp xếp dành thời gian tham
gia để giao lưu và học hỏi những kiến thức thực tiễn về báo chí. Qua đây, có thể thấy
rằng, hoạt động truyền thông của các đơn vị đào tạo báo chí về hoạt động hướng nghiệp
khá được chú trọng, đồng thời đội ngũ giảng viên khá tâm lý khi sắp xếp được thời gian
phù hợp với lịch trình học tập và làm việc của sinh viên. Như vậy, có thể đánh giá rằng,
công tác hậu cần chuẩn bị tổ chức của Viện/ Khoa tương đối chuyên nghiệp và thu hút
được sinh viên tham gia tích cực.
Về nội dung của các sự kiện hướng nghiệp, hầu hết sinh viên đánh giá cao là hợp
lý, đảm bảo về chất lượng chương trình và diễn giả, khách mời có đầy đủ kiến thức,
chuyên môn thực tiễn về báo chí. Điều này rất quan trọng trong việc tiếp thu và học hỏi
những điều bổ ích trong lĩnh vực bản thân đang học tập. Qua đó, có thể đánh giá rằng,
đơn vị đào tạo đã xây dựng được mạng lưới quan hệ tốt với đội ngũ làm báo chuyên
nghiệp, tinh nhuệ; đồng thời thể hiện chuyên môn thực tiễn cao của giảng viên về hoạt
động định hướng nghề nghiệp cho sinh viên báo chí bên cạnh công tác giảng dạy và
nghiên cứu. Sau khi sự kiện được diễn ra thành công, sinh viên cũng cho rằng tích luỹ
được nhiều kinh nghiệm thực tiễn để bước chân vào thị trường lao động. Đó được coi
là thành công nhất của các đơn vị đào tạo trong công tác tổ chức các chương trình, sự
kiện hoạt động cho sinh viên. Những kiến thức, chia sẻ của diễn giả được sinh viên lắng
nghe và ghi nhớ là kết quả đáng mong chờ nhất của mỗi chương trình.
Thứ hai, công tác lồng ghép định hướng nghề nghiệp trong hoạt động giảng dạy
của các cơ sở đào tạo báo chí cũng được sinh viên đánh giá hài lòng. Giảng viên đã thay
đổi phương pháp giảng dạy trong đười đại công nghệ số, không còn giảng dạy theo
phương pháp truyền thống như các thế hệ trước. Trong hoạt động giảng dạy, giảng viên
đã giải đáp được những thắc mắc của sinh viên về thực tế công việc báo chí và mời các
cựu sinh viên về giảng đường chia sẻ và cập nhật tình hình thực tế của báo chí trong
những bài giảng trên lớp. Qua những lời chia sẻ, giải đáp, sinh viên nắm bắt được phần
nào về những khó khăn, thách thức trong công việc để nỗ lực, cố gắng học hỏi và vượt
qua những bất lợi đó. Đồng thời, điều đó cho thấy giảng viên khá chủ động tích cực

59
nắm bắt và cập nhật tình hình thực tiễn để đào tạo ra được đội ngũ nhân lực làm việc
vừa giỏi kiến thức, vừa thạo thực hành. Đây cũng là xu hướng đào tạo của các nền giáo
dục tiên tiến, hiện đại “học đi đôi với hành”.
Trong các hoạt động thực hành liên quan đến nghiệp vụ báo chí, sinh viên đa
phần đánh giá hài lòng về các bài tập thức tế (podcast, làm phóng sự…) và các chương
trình kiến tập, thực tập của đơn vị đào tạo. Qua những thử thách thực tế, sinh viên sẽ
xác định được bản thân có phù hợp với công việc báo chí hay không; đồng thời đây
cũng là cơ hội để sinh viên học hỏi những nghiệp vụ thực tế trong hoạt động báo chí, từ
đó trau dồi được thêm kinh nghiệm và không bị thiếu phương hướng, kỹ năng trong
công việc khi ra trường.
Thứ ba, chương trình đào tạo báo chí đảm bảo được các kỹ năng cần thiết cho
sinh viên sau khi tốt nghiệp. Mặc dù nhiều sinh viên không lựa chọn theo đuổi lĩnh vực
báo chí, nhưng họ cho rằng những kĩ năng được học trong ngành báo chí đều có tính
ứng dụng cao trong công việc của họ. Chương trình đào tạo chính quy báo chí đã trang
bị cho sinh viên kỹ năng mềm như sáng tạo nội dung, thuyết trình và nhiều kỹ năng xã
hội khác phục vụ thuận lợi cho công việc tương lai của sinh viên sau khi ra trường. Điều
này cho thấy chương trình đào tạo đã thiết kế các môn học mang tính ứng dụng không
chỉ phục vụ cho ngành báo chí mà đó còn là những kỹ năng, kiến thức nền tảng phục
vụ cho các ngành nghề khác.

3.1.2. Hạn chế


Mặc dù có nhiều thành công nhưng hoạt động định hướng nghề nghiệp cho sinh
viên báo chí vẫn còn tồn tại nhiều bất cập:
Thứ nhất, một số sinh viên còn thiếu sự chủ động trong việc lựa chọn học tập và
định hướng công việc ngành báo chí. Dựa trên biểu đồ 2.13 về lý do sinh viên lựa chọn
học ngành báo chí, rất nhiều sinh viên chọn theo học ngành báo chí không phải là mong
muốn và khả năng của bản thân (18,5% sinh viên chọn báo chí là ngành học thay thế,
35,2% sinh viên chọn báo chí với lý do dễ trúng tuyển cao và 35,2% chọn báo chí do
học phí hợp lý). Với định hướng ban đầu về lựa chọn học tập ngành báo chí không phải
do đam mê và năng lực của bản thân, sinh viên sẽ dễ bị mất phương hướng trong quá
trình học tập và định hướng công việc sau này bởi không có sự tìm hiểu và chuẩn bị kỹ

60
càng về ngành mà bản thân theo học. Không những vậy, điều này còn khiến sinh viên
dễ nản chí trong việc học tập bởi không có đam mê và không cảm thấy phù hợp với
ngành học, dẫn tới kết quả học tập không đạt chất lượng và mất phương hướng trong
quyết định lựa chọn nghề nghiệp.
Thứ hai, một số sinh viên chưa chú trọng đến các yếu tố ảnh hưởng đến quá trình
lựa chọn công việc tương lai của bản thân. Khi định hướng lựa chọn công việc, nhiều
sinh viên không quan trọng các vấn đề về năng lực của bản thân, mức lương và sự tác
động của các mối quan hệ xung quanh và mạng xã hội. Sự thiếu quan tâm và chú trọng
về những yếu tố này sẽ khiến sinh viên chịu nhiều sự thiệt thòi khi đi xin việc và đàm
phán các quyền lợi của bản thân. Việc xác định đúng năng lực của bản thân rất quan
trọng bởi mỗi cơ quan, doanh nghiệp sẽ đòi hỏi chuyên môn và yêu cầu kinh nghiệm
khác nhau. Nếu không tự đánh giá được khả năng của bản thân, sinh viên sẽ dễ bị từ
chối xin việc và mất định hướng trong việc lựa chọn nghề nghiệp. Ngoài ra, nếu sinh
viên không quan tâm về mức lương, các quyền lợi về lao động của bản thân sẽ bị thiệt
hỏi, thậm chí là bị bóc lột sức lao động. Do đó, sinh viên cần chú trọng và đàm phán về
mức lương theo mong muốn và năng lực của bản thân để có mức thù lao xứng đáng và
phù hợp. Bên cạnh đó, mặc dù thông tin từ những người xung quanh và mạng xã hội có
thể không chính xác vì không được kiểm duyệt nhưng các thông tin mà được cộng đồng
mạng hay mọi người chia sẻ cũng có tính thực tế và chân thực về công việc. Đó cũng là
nguồn tin mà sinh viên nên tham khảo và lắng nghe, từ đó cân nhắc và đưa ra quyết
định đúng đắn nhất phù hợp với bản thân.
Thứ ba, chương trình đào tạo còn nặng lý thuyết và tính hàn lâm cao. Mặc dù có
rất nhiều các môn học mang tính thực tiễn trong chương trình đào tạo nhưng nhìn chung
định hướng đào tạo của các đơn vị đào tạo báo chí vẫn còn mang tính nghiên cứu. Do
đó, chương trình vẫn có một số môn nền tảng về kiến thức chung của lĩnh vực xã hội
nói chung và ngành báo chí nói riêng. Đa phần các môn này đều đòi hỏi sinh viên kỹ
năng lý luận nên nặng tính lý thuyết và hàn lâm cao. Một số sinh viên tham gia khảo sát
cho rằng chính bởi chương trình đào tạo còn nặng tính hàn lâm như vậy nên không thể
ứng dụng thực tiễn trong công việc tương lai.
Thứ tư, công tác lồng ghép hoạt động hướng nghiệp trong công tác giảng dạy
báo chí chưa được xây dựng toàn diện. Một số sinh viên chưa hài lòng về chương trình

61
kiến tập, thực tập của Khoa/Viện. Chương trình kiến tập, thực tập đóng vai trò quan
trọng trong việc ứng dụng các kiến thức và kỹ năng trên giảng đường vào thực tế. Nếu
sinh viên không được thực tập theo đúng mong muốn và năng lực của bản thân, kỹ năng
thực tế và sự nhiệt huyết với nghề nghiệp sẽ bị suy giảm theo thời gian. Do đó, sự bất
cập trong chương trình kiến tập, thực tập sẽ khiến sinh viên đạt kết quả cuối khóa tốt
nghiệp không được chất lượng và kỹ năng, kinh nghiệm làm việc thực tế bị thiếu sót,
ảnh hưởng đến chất lượng công việc khi xin việc trong các cơ quan và tổ chức. Ngoài
ra, các bài tập thực tế liên quan đến nghiệp vụ báo chí chưa đáp ứng được nhu cầu về
kỹ năng thực tế của sinh viên. Đây cũng là hạn chế cần khắc phục để việc lồng ghép kĩ
năng thực tế trong hoạt động giảng dạy được diễn ra bài bản và chất lượng hơn.

3.2. Khuyến nghị giải pháp nhằm nâng cao chất lượng hoạt động hướng nghiệp
cho sinh viên báo chí trong thời đại số
Để mỗi sinh viên có định hướng đúng đắn và phù hợp với nhu cầu và năng lực
của bản thân, cần có sự tác động từ gia đình, nhà trường, bạn bè và sự nỗ lực của bản
thân mỗi sinh viên. Các cơ sở đào tạo báo chí cũng cần tăng cường các biện pháp tác
động đến hoạt động định hướng nghề nghiệp của sinh viên ngay từ khi bắt đầu chương
trình đào tạo tại trường. Các ý kiến này là cơ sở để Viện/ Khoa triển khai các biện pháp
thực hiện nhằm nâng cao hiệu quả định hướng nghề nghiệp dành cho sinh viên ngành
báo chí, cụ thể:

Thứ nhất, Khoa/Viện cần thiết kế lộ trình kiến tập và thực tập phù hợp cho sinh
viên; chú trọng các vị trí thực tập sớm ngay từ năm nhất. Hiện nay, chương trình kiến
tập và thực tập chủ yếu dành cho sinh viên năm 3-4, chưa có lịch trình thiết kế trải
nghiệm công việc thực tế cho sinh viên năm 1-2. Do đó, Khoa/ Viện cần dựa trên sự
phân bổ thời gian thực tập để xây dựng kế hoạch thực tập trải nghiệm công việc thực tế
trong 4 năm học. Trong chương trình giảng dạy của một số một học, sinh viên năm nhất
sẽ có cơ hội thăm quan tại các trụ sở đài phát thanh - truyền hình, các cơ quan thông
tấn, tòa soạn báo, các đơn vị sử dụng nguồn lao động lĩnh vực báo chí truyền thông như
các công ty, doanh nghiệp, cơ quan truyền thông giải trí…. Đây là yêu cầu bắt buộc để
sinh viên có kinh nghiệm thực tiễn làm bài tập báo cáo cuối kỳ. Đến năm 2, với các môn
liên quan đến nghiệp vụ tin tức và kĩ thuật báo chí, sinh viên năm hai sẽ được yêu cầu

62
kiến tập tại các toà soạn hay đài phát thanh - truyền hình để thực hành những chuyên
môn nghiệp vụ cơ bản như lấy tin, sửa tin, chụp ảnh, quay phim. Đối với sinh viên năm
3 và năm cuối, sinh viên có cơ hội tham gia thực tập giữa kì và thực tập cuối kỳ tại các
cơ quan báo chí. Khi thực tập giữa kỳ, sinh viên được yêu cầu có sản phẩm thực tế là
các ấn phẩm dạng cơ bản như tin ngắn hay bài phỏng vấn đơn giản. Còn đối với thực
tập tốt nghiệp, sinh viên cần phải có kỹ năng sản xuất chương trình thời sự theo chuyên
đề hoặc xây dựng phóng sự điều tra theo chuyên đề. Đây là yêu cầu bắt buộc để sinh
viên có sản phẩm thực tế lấy điểm cho học phần thực tập tốt nghiệp.

Thứ hai, Khoa/ Viện nên thống kê và công bố các số liệu về tỉ lệ sinh viên có
việc làm sau khi tốt nghiệp tại cơ sở đào tạo. Hiện nay, thực tế cho thấy, việc công bố
thông tin về tình hình việc làm của sinh viên sau khi tốt nghiệp ngành báo chí chưa được
triển khai hiệu quả. Trong khi đó, việc khảo sát, thống kê và cung cấp thông tin về tình
hình việc làm của cựu sinh viên ngành báo chí rất cần thiết để góp phần tăng thêm động
lực cho sinh viên gắn bó với ngành học và nghề nghiệp sau khi tốt nghiệp. Công tác này
cần được thực hiện thường xuyên, định kỳ dựa trên số liệu khảo sát từ Khoa/ Viện, từ
mối liên hệ giữa Khoa/Viện và cựu sinh viên, cựu học viên. Về phương thức phổ biến
thông tin, Khoa/Viện cần công bố rộng rãi thông tin việc làm trên các phương tiện truyền
thông của Khoa/Viện. Các nội dung thông tin này có thể bao gồm thông tin việc làm đã
có của cựu sinh viên, cựu học viên, thông tin tuyển dụng, các yêu cầu của các đơn vị sử
dụng lao động,… Ngoài ra, việc xây dựng khung đánh giá định hướng nghề nghiệp,
khảo sát nhu cầu nghề nghiệp từ thị trường lao động, xây dựng sổ tay định hướng nghề
nghiệp dành cho sinh viên cũng rất cần thiết.

Thứ ba, Khoa/ Viện cần tiếp tục lồng ghép công tác định hướng nghề nghiệp cho
sinh viên trong hoạt động giảng dạy. Giảng viên nên thể hiện vai trò hỗ trợ định hướng
nghề nghiệp đối với sinh viên tốt hơn để giúp sinh viên có cách nhìn nhận, đánh giá về
ngành học, nghề nghiệp phù hợp. Mỗi giảng viên cần nhận thức một cách đầy đủ về tầm
quan trọng của công tác định hướng nghề nghiệp đối với sinh viên, từ đó lồng ghép các
nội dung thực tiễn về nghề nghiệp đối với sinh viên trong giờ giảng của các môn học
cụ thể, lấy minh chứng cụ thể, sinh động để giúp sinh viên nhận diện đầy đủ hơn về
ngành học, khả năng đáp ứng của bản thân đối với nghề nghiệp sau khi ra trường. Đồng

63
thời, chương trình đào tạo giảng dạy cũng cần điều chỉnh để đáp ứng nhu cầu của các
đơn vị sử dụng lao động: chú trọng và đẩy mạnh xây dựng các môn học mang tính thực
tiễn, giảm tải các môn học mang nặng tính hàn lâm.

TIỂU KẾT CHƯƠNG 3


Trong chương 3, đề tài đã đánh giá những thành công và nêu ra một số vấn đề
trong quá trình định hướng nghề nghiệp của sinh viên báo chí trong thời đại số. Về
những điểm nổi bật trong quá trình định hướng nghề nghiệp tương lai của sinh viên,
đầu tiên, sinh viên chủ động tham gia các hoạt động hướng nghiệp do cơ sở đào tạo kết
hợp với nhà trường tổ chức. Tiếp đến, sinh viên nhận diện được các yếu tố ảnh hưởng
đến định hướng nghề nghiệp tương lai của mình. Ngoài ra, các hoạt động hướng nghiệp
do cơ sở đào tạo phối hợp với nhà trường và cán bộ giảng viên nhìn chung được sinh
viên đánh giá hài lòng. Đây là biểu hiện tích cực của các đơn vị đào tạo trong việc xây
dựng chương trình giảng dạy và hoạt động hướng nghiệp bám sát với yêu cầu thực tiễn
của xã hội.
Ở trong chương này, một số vấn đề về hoạt động định hướng nghề nghiệp của
sinh viên báo chí cũng được đề cập đến như sự thiếu chủ động trong việc lựa chọn học
tập và định hướng công việc ngành báo chí, một số sinh viên chưa chú trọng đến các
yếu tố ảnh hưởng đến quá trình lựa chọn công việc tương lai của bản thân, chương trình
đào tạo còn nặng lý thuyết và tính hàn lâm cao và công tác lồng ghép hoạt động hướng
nghiệp trong công tác giảng dạy báo chí chưa được xây dựng toàn diện. Từ đó, đề tài
tiến hành đề xuất những giải pháp sau để nâng cao chất lượng hoạt động hướng nghiệp
cho sinh viên báo chí trong thời đại số: (1): thiết kế lộ trình thăm quan thực tế, kiến tập
và thực tập phù hợp cho sinh viên; chú trọng các vị trí thực tập sớm ngay từ năm nhất
và các hoạt động giúp sinh viên có kinh nghiệm thực tiễn; (2): thống kê và công bố các
số liệu về tỉ lệ sinh viên có việc làm sau khi tốt nghiệp tại cơ sở đào tạo; (3): tiếp tục
lồng ghép công tác định hướng nghề nghiệp cho sinh viên trong hoạt động giảng dạy.

64
KẾT LUẬN
Ngày nay, trong bối cảnh thời đại số, cơ hội việc làm của sinh viên báo chí ngày
càng rộng mở. Sinh viên báo chí có thể đảm nhận các vị trí làm việc của cơ quan báo
chí chính thống. Ngoài ra, các vị trí công việc trong lĩnh vực truyền thông - marketing
- quan hệ công chúng - quảng cáo cũng là một địa hạt màu mỡ để sinh viên báo chí có
thể phát huy được năng lực của mình. Do cơ hội làm việc rộng lớn, vì vậy sinh viên báo
chí cần bắt đầu chủ động định hướng nghề nghiệp của bản thân ngay từ trong giai đoạn
học Đại học để có thể lựa chọn công việc phù hợp nhất với bản thân và quản lý được sự
nghiệp của mình.

Việc định hướng nghề nghiệp phù hợp đúng đắn sẽ giúp cho sinh viên sau khi
tốt nghiệp có được vị trí làm việc phù hợp với sở thích, đam mê, phát huy được năng
lực của bản thân và góp phần đánh giá được công tác định hướng nghề nghiệp của cơ
sở đào tạo cũng như nội dung, các học phần trong chương trình đào tạo của đơn vị có
thể đáp ứng được yêu cầu thực tiễn của thị trường lao động trong thời đại số hay không.
Có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến quá trình định hướng nghề nghiệp của mỗi sinh viên,
do đó việc nhận diện yếu tố quan trọng nhất và đề xuất các giải pháp để nâng cao hiệu
quả định hướng nghề nghiệp của sinh viên không chỉ dựa vào mỗi cá nhân mà cần phải
có sự phối hợp từ thầy cô, cơ sở đào tạo và nhà trường cùng với các đơn vị tuyển dụng
nhân sự lĩnh vực báo chí - truyền thông.

Trước một số hạn chế về vấn đề định hướng nghề nghiệp của sinh viên báo chí
trong thời đại số hiện nay, đề tài đã đề xuất một số giải pháp để giúp cho các cơ sở đào
tạo đảm bảo hoạt động hướng nghiệp diễn ra hiệu quả, giúp cho sinh viên nhận diện các
yêu cầu về kỹ năng, nhu cầu xã hội của ngành nghề mình theo đuổi cũng như tìm kiếm
công việc phù hợp với sở thích và khả năng. Các biện pháp khả thi mà các cơ sở đào
tạo báo chí có thể áp dụng để nâng cao hiệu quả định hướng nghề nghiệp của sinh viên
bao gồm: tổ chức các buổi hội thảo định hướng nghề nghiệp cho sinh viên với sự tham
gia của cựu sinh viên/các diễn giả có tên tuổi trong lĩnh vực báo chí - truyền thông; tiếp
tục lồng ghép công tác định hướng nghề nghiệp cho sinh viên trong quá trình giảng dạy
của giảng viên; tổ chức các hoạt động ngoại khóa thăm quan tại các trụ sở đài phát thanh
- truyền hình, các cơ quan thông tấn, tòa soạn báo, các đơn vị sử dụng nguồn lao động

65
lĩnh vực báo chí truyền thông như các công ty, doanh nghiệp, cơ quan truyền thông giải
trí…; thiết kế lộ trình kiến tập và thực tập phù hợp cho sinh viên; chú trọng các vị trí
thực tập sớm cho sinh viên trong ngày hội việc làm; thống kê và công bố các số liệu về
tỉ lệ sinh viên có việc làm sau khi tốt nghiệp tại cơ sở đào tạo. Tùy thuộc vào mục tiêu,
nội dung, các nguồn lực thực hiện giải pháp, các cơ sở đào tạo có thể lựa chọn các
phương pháp phù hợp đồng thời sắp xếp lộ trình để đảm bảo công tác hướng nghiệp của
sinh viên ngành báo chí diễn ra có hiệu quả.

Do phạm vi nghiên cứu có giới hạn về thời gian và số lượng khách thể nghiên
cứu, đề tài chưa thể đi sâu vào giải thích các yếu tố về nhu cầu xã hội cũng như tác động
của phương tiện truyền thông xã hội đến sự thay đổi trong thực trạng định hướng nghề
nghiệp của sinh viên ngành báo chí thời đại số. Thêm vào đó, công trình cũng chưa khai
thác được sự thay đổi trong quá trình định hướng nghề nghiệp của sinh viên ngành báo
chí qua các năm học, trước khi tốt nghiệp và sau khi tốt nghiệp. Đồng thời, nhóm tác
giả cũng chưa tìm hiểu về các biện pháp nâng cao hiệu quả công tác định hướng nghề
nghiệp cho sinh viên ở các cơ sở tư nhân đào tạo về các kỹ năng nghiệp vụ báo chí -
truyền thông. Đề tài có thể đi sâu hơn vào khai thác sự đa dạng trong quá trình định
hướng nghề nghiệp của sinh viên ngành báo chí giữa các cơ sở đào tạo và giữa các năm
học thông qua phương pháp nghiên cứu định tính, đồng thời thiết kế thêm nội dung tiêu
chí đánh giá hiệu quả chương trình hướng nghiệp của các cơ sở đào tạo cử nhân ngành
báo chí.

66
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Bùi Hà Phương, Nguyễn Thị Mỹ Tiên, Nguyễn Thanh Toàn, Võ Thị Ca, Huỳnh Thị
Lưu Kim Tuyến, Lê Thị Trúc Giang. (2020). Yếu tố ảnh hưởng đến định hướng nghề
nghiệp của sinh viên khoa Thư viện - Thông tin học, Trường Đại học Khoa học Xã hội
và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hồ Chí Minh. Tạp chí Thông tin và Tư liệu.
https://repository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/117285/1/53999-Article%20Text-
158157-1-10-20210113.pdf. Ngày truy cập: 10/06/2023.

Nguyễn Bá Ngọc. (2007). Thất nghiệp thanh niên và vấn đề định hướng nghề nghiệp.
Tạp chí Nghiên cứu Kinh tế, 345, 38-45.
http://thuvienso.bvu.edu.vn/bitstream/TVDHBRVT/9476/1/000000CVv130S0220070
38.pdf. Ngày truy cập: 10/06/2023

Trần Thị Khánh Linh. (2020). Ảnh hưởng của gia đình đến định hướng nghề nghiệp
của học sinh trung học phổ thông, Kỷ yếu Hội thảo Khoa học của người học năm học:
2019-2020 : Hà Nội, tháng 5 năm 2020.
https://repository.vnu.edu.vn/flowpaper/?bitsid=400527ab-4e88-4e7e-befb-
0a93b0186eb4. Ngày truy cập: 10/06/2023.

Nguyễn Ngọc Anh Thư. (2022). Vấn đề hướng nghiệp cho thanh niên trên báo điện
tử. Luận văn thạc sĩ, Đại học Quốc Gia Hà Nội, Việt Nam.
https://repository.vnu.edu.vn/flowpaper/?bitsid=664a6838-cb09-457c-b9e2-
dfd914e15cf5. Ngày truy cập: 10/06/2023

Đỗ Xuân Hòa (2019). Định hướng nghề nghiệp của học sinh khối 12 trường THPT
Trần Hưng Đạo, Quận Thanh Xuân, Thành Phố Hà Nội. Luận văn thạc sĩ xã hội học.
Đại học Quốc gia Hà Nội, Việt Nam.
https://repository.vnu.edu.vn/flowpaper/?bitsid=b9ccc6f6-c435-46d1-b7bd-
81534aff503c. Ngày truy cập: 10/06/2023

Phan Quỳnh Như. (2019). Quản lý đào tạo đại học theo định hướng nghề nghiệp - ứng
dụng tại trường Đại học Nha Trang. Luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục. Đại học Quốc
gia Hà Nội, Việt Nam.

67
https://drive.google.com/uc?id=1uhZEluT8Arj5URtEXhwUYs-dgI7EkcZb. Ngày truy
cập: 10/06/2023

Nguyễn Minh Ngọc. (2008). Nhận thức nghề và lựa chọn nghề của học sinh THPT
dân tộc nội trú tỉnh Bắc Giang. https://repository.vnu.edu.vn/handle/VNU_123/17285.
Ngày truy cập: 11/6/2023

Huỳnh Văn Sơn. (2011). Xu hướng chọn nghề nghiệp của học sinh cuối cấp THCS và
học sinh THPT tỉnh Bình Dương hiện nay. Tạp chí khoa học Trường Đại học Sư phạm
Thành phố Hồ Chí Minh.
https://journal.hcmue.edu.vn/index.php/hcmuejos/article/view/1743. Ngày truy cập:
11/06/2023.

Nguyễn Thị Phương Dung. (2011). Vai trò của cha mẹ trong việc định hướng bậc học,
nghề của con cái trong các gia đình đô thị hiện nay. Luận văn thạc sĩ. Đại học Quốc
gia Hà Nội. Việt Nam.

Đinh Thị Thúy Hằng. (2017). Định hướng nghề của học sinh ở một số trường THPT
trên địa bàn Hà Nội. Tạp chí Giáo dục, 14(2), 38-65.
https://sti.vista.gov.vn/tw/Lists/TaiLieuKHCN/Attachments/338243/CVv385V14S220
22038.pdf. Ngày truy cập: 10/06/2023.

Cấn Thị Hải Yến. (2011). Báo chí với vấn đề hướng nghiệp cho học sinh, sinh viên hiện
nay (Khảo sát Báo Giáo dục và Thời đại, Thanh niên, Sinh viên Việt Nam 2006 - 2009).
Luận văn thạc sĩ truyền thông đại chúng. Đại học Quốc gia Hà Nội. Việt Nam.

Lê Thị Hồng Nhung. (2020) Vấn đề hướng nghiệp cho thanh niên dân tộc thiểu số
trên báo điện tử hiện nay (Khảo sát trên Báo Dân tộc và phát triển, Báo Vĩnh Phúc,
Báo Hà Giang). https://repository.vnu.edu.vn/flowpaper/?bitsid=da3a5a10-1273-4dc0-
be42-33c8c1deff7a. Ngày truy cập: 8/6/2023

Nguyễn Thị Việt Hưng (2013). Vấn đề thông tin giáo dục hướng nghiệp trên báo in
hiện nay. Luận văn thạc sĩ báo chí học. Đại học Quốc gia Hà Nội. Việt Nam.
https://repository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/12687/1/02050002366.pdf. Ngày
truy cập: 8/6/2023

68
Lê Thị Nhung. (2015). Vấn đề hướng nghiệp cho thanh niên nông thôn trên kênh truyền
hình VTV6. Luận văn thạc sĩ báo chí học. Đại học Quốc gia Hà Nội. Việt Nam.
https://repository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/10555/5/02050004046.pdf Ngày
truy cập: 8/6/2023.

Đinh Văn Hường. (2011). Giáo trình các thể loại báo chí thông tấn. Nhà xuất bản giáo
dục Việt Nam

Ánh Kim, Dương Dũng. (2021). Nhân sự trẻ áp lực vì tuyển dụng có xu hướng chọn
người có kinh nghiệm. https://vtv.vn/xa-hoi/nhan-su-tre-ap-luc-vi-tuyen-dung-co-xu-
huong-chon-nguoi-co-kinh-nghiem-2023060511071919.htm. Ngày truy cập:
16/06/2023

69
PHỤ LỤC: MẪU BẢNG HỎI KHẢO SÁT
https://drive.google.com/file/d/1-
WD7Hupq2R6irFwpVlMTNM6NiUKs8Owh/view?usp=sharing

70
71
72
73
74

You might also like