You are on page 1of 57

1

MỤC LỤC
DANH MỤC BẢNG BIỂU...........................................................................................3
MỞ ĐẦU....................................................................................................................... 5
1. Lý do chọn đề tài.................................................................................................5
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu đề tài.................................................................6
2.1. Những công trình nghiên cứu về vai trò của việc rèn luyện sinh viên ở môi
trường đại học.........................................................................................................7
2.2. Những công trình nghiên cứu liên quan đến hành vi lệch chuẩn của sinh
viên trong việc thực hiện quy chế nhà trường tại môi trường đại học...................10
2.3. Những công trình nghiên cứu liên quan đến sinh viên trường Đại học Khoa
học Xã hội và Nhân văn........................................................................................14
3. Mục tiêu và nhiệm vụ của đề tài........................................................................16
3.1. Mục tiêu đề tài............................................................................................16
3.2. Nhiệm vụ đề tài...........................................................................................17
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu.........................................................17
4.1. Cơ sở lý luận...............................................................................................17
4.2. Phương pháp nghiên cứu............................................................................17
4.2.1. Phương pháp chọn mẫu...........................................................................17
4.2.2. Phương pháp thu thập thông tin..............................................................18
4.2.3. Phương pháp xử lý số liệu.......................................................................18
4.2.3.1. Dữ liệu sơ cấp......................................................................................18
4.2.3.2. Dữ liệu thứ cấp.....................................................................................18
4.2.4. Mô tả mẫu................................................................................................18
4.2.4.1. Giới tính, năm học của sinh viên trong mẫu nghiên cứu......................18
4.2.4.2. Số lượng sinh viên của mỗi khoa/bộ môn trong mẫu nghiên cứu.........20
4.2.5. Các khái niệm liên quan..........................................................................22
4.2.5.1. Chuẩn mực...........................................................................................22
4.2.5.2. Hành vi lệch chuẩn...............................................................................23
4.2.5.3. Sinh viên...............................................................................................24
4.2.5.4. Quy chế.................................................................................................24
4.2.5.5. Lệch lạc................................................................................................25
4.2.5.6. Hành vi.................................................................................................25
4.2.5.7. Hành động xã hội.................................................................................25
2

5. Phạm vi nghiên cứu...........................................................................................26


5.1.1. Đối tượng nghiên cứu..............................................................................26
5.1.2. Khách thể nghiên cứu..............................................................................26
5.1.3. Không gian nghiên cứu............................................................................26
5.1.4. Thời gian nghiên cứu...............................................................................26
6. Đóng góp mới của đề tài....................................................................................26
6.1. Câu hỏi nghiên cứu.....................................................................................26
6.2. Giả thuyết nghiên cứu.................................................................................27
7. Ý nghĩa nghiên cứu............................................................................................27
7.1. Ý nghĩa lý luận............................................................................................27
7.2. Ý nghĩa thực tiễn.........................................................................................27
CHƯƠNG 1................................................................................................................. 28
THỰC TRẠNG LỆCH CHUẨN CỦA SINH VIÊN TRONG VIỆC THỰC HIỆN
QUY CHẾ NHÀ TRƯỜNG TẠI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ
NHÂN VĂN – ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH......................28
1.1. Thực trạng lệch chuẩn của sinh viên tham gia khảo sát..................................28
1.2. Thói quen của sinh viên trong trường đại học................................................31
1.2.1. Mức độ thường xuyên đối với các hoạt động trong quá trình học tập tại
trường 31
1.2.2. Mức độ thực hiện văn hóa ứng xử trong môi trường đại học...................33
1.2.3. Mức độ thực hiện tác phong trang phục trong môi trường giáo dục.......35
1.2.4. Mức độ thực hiện công tác bảo quản cơ sở vật chất nhà trường.............37
CHƯƠNG 2................................................................................................................. 40
CÁC YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN HÀNH VI LỆCH CHUẨN CỦA SINH VIÊN
TRONG VIỆC THỰC HIỆN QUY CHẾ NHÀ TRƯỜNG.........................................40
2.1. Quan niệm về thái độ và hành vi của sinh viên tham gia khảo sát.....................40
2.2. Sự giám sát, nhắc nhở của nhà trường...............................................................47
2.3. Phương tiện tiếp cận..........................................................................................48
KẾT LUẬN.................................................................................................................51
Kết luận.................................................................................................................... 51
Kiến nghị.................................................................................................................. 52
Tài liệu tham khảo.......................................................................................................53
3

DANH MỤC BẢNG BIỂU


Bảng 1. Mức độ quan tâm của sinh viên tham gia khảo sát đối với bộ 10 quy tắc ứng
xử................................................................................................................................. 31
Bảng 2. Tính sát sao của công tác kiểm tra, giám sát, nhắc nhở..................................48

Biểu đồ 1. Tỷ lệ giới tính trong mẫu nghiên cứu.........................................................19


Biểu đồ 2. Tỷ lệ sinh viên của mẫu khảo sát chia theo năm học..................................19
Biểu đồ 3. Số lượng sinh viên các khoa/bộ môn trong mẫu nghiên cứu......................20
Biểu đồ 4. Khu vực sinh sống trước khi lên đại học của sinh viên tham gia khảo sát. .21
Biểu đồ 5. Nơi sinh sống hiện tại của sinh viên tham gia khảo sát..............................22
Biểu đồ 6.Mức độ biết đến các quy định về tác phong, văn hóa ứng xử của nhóm sinh
viên khảo sát trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn – Đại học Quốc gia Thành
phố Hồ Chí Minh.........................................................................................................28
Biểu đồ 7. Mối tương quan giữa giới tính với mức độ biết đến quy định về tác phong,
văn hóa ứng xử của nhà trường....................................................................................29
Biểu đồ 8. Mức độ biết đến bộ 10 quy tắc ứng xử của nhóm sinh viên khảo sát trường
Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn – Đại học Quốc gia........................................30
Biểu đồ 9. Mức độ quan tâm đến bộ 10 quy tắc ứng xử của nhóm sinh viên khảo sát
trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn – Đại học Quốc gia.............................30
Biểu đồ 10. Mức độ thực hiện quy chế nhà trường của sinh viên tham gia khảo sát....32
Biểu đồ 11. Mức độ việc thực hiện tác phong, văn hóa ứng xử của sinh viên tham gia
khảo sát........................................................................................................................ 33
Biểu đồ 12. Mức độ thực hiện tác phong của sinh viên tham gia khảo sát...................35
Biểu đồ 13. Mối tương quan giữa vấn đề đeo thẻ sinh viên khi vào trường với yếu tố
năm học của sinh viên..................................................................................................36
Biểu đồ 14. Mức độ thực hiện bảo quản cơ sở vật chất nhà trường của sinh viên tham
gia khảo sát.................................................................................................................. 37
Biểu đồ 15. Tính liên tục và xuyên suốt trong việc thực hiện quy chế nhà trường của
sinh viên tham gia khảo sát..........................................................................................40
Biểu đồ 16. Mức độ đồng ý với quan điểm về thực hiện quy chế nhà trường..............41
Biểu đồ 17. Mức độ đồng ý với quan điểm về việc thực hiện quy chế nhà trường......42
4

Biểu đồ 18. Mức độ đồng ý với quan điểm về việc thực hiện văn hóa ứng xử của sinh
viên tham gia khảo sát.................................................................................................44
Biểu đồ 19. Mức độ đồng ý với quan điểm về việc thực hiện tác phong, văn hóa ứng
xử của sinh viên tham gia khảo sát..............................................................................45
Biểu đồ 20. Sự giám sát, nhắc nhở của nhà trường đối với sinh viên trong thực hiện
quy chế nhà trường......................................................................................................47
Biểu đồ 21. Các nguồn tiếp cận quy chế về tác phong, văn hóa ứng xử.....................49
Biểu đồ 22. Các nguồn tiếp cận quy chế về bộ 10 quy tắc ứng xử..............................49
5

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài

“Sinh viên là một trong những chủ nhân tương lai của đất nước, mang sứ mệnh
khẳng định trí tuệ và tầm vóc Việt Nam với bạn bè thế giới” (Thủ tướng Chính phủ
Nguyễn Xuân Phúc, 2018). Trong bối cảnh hướng đến mục tiêu công dân toàn cầu
hiện nay, nhu cầu về nguồn nhân lực đòi hỏi mỗi cá nhân phải có đủ những năng lực
bắt buộc để thích ứng với xã hội. Trên tinh thần đó, sinh viên cần chuẩn bị cho bản
thân đủ năng lực khi còn đang trong môi trường đại học để trở thành công dân toàn
cầu tương lai.

“Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Thành phố
Hồ Chí Minh là trung tâm nghiên cứu, đào tạo trong lĩnh vực Khoa học Xã hội Nhân
văn lớn nhất khu vực phía Nam và là nơi có những đột phá chiến lược về phát triển
nguồn lực, về chất lượng đào tạo, nghiên cứu khoa học và xây dựng môi trường văn
hoá đại học. Với sứ mạng to lớn, trường ngày càng khẳng định được vị thế của mình
thông qua giá trị cốt lõi: sáng tạo, dẫn dắt, trách nhiệm hướng đến mục tiêu đào tạo ra
những công dân toàn cầu tương lai. Hàng năm, tỷ lệ sinh viên ra trường có việc làm
luôn đạt trên mức 90%, sinh viên nhà trường sẽ hoạt động trên nhiều lĩnh vực liên
quan đến xã hội, giao tiếp, ứng xử, hoạt động trong các lĩnh vực như nghiên cứu khoa
học, ứng dụng công nghệ, hoạt động vì xã hội” (Trang thông tin tuyển sinh, trường Đại
học Khoa học Xã hội và Nhân văn - Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, 2020)
góp phần xây dựng đất nước ngày càng giàu mạnh, văn minh, trở thành nguồn lao
động có học vấn cao, có chuyên môn sâu và vai trò trở thành người trí thức của đất
nước.

Hiện nay, bên cạnh những điểm tích cực, thực tế vẫn có những tồn tại của sinh
viên trường về thái độ ứng xử cũng như thực hiện quy chế. Theo lời chia sẻ của rất
nhiều anh chị cựu sinh viên trong “Diễn đàn việc làm và khởi nghiệp”, trường Đại học
Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh diễn ra vào
tháng 10/2019 đây là điểm hạn chế quan trọng nhất, thiếu sót rất lớn này hầu hết trong
quá trình học tập chưa được thầy cô đề cập đến nhiều trong trường đại học, gây ảnh
hưởng trực tiếp đến quá trình học tập của sinh viên và về lâu dài sẽ tạo thành những
suy nghĩ lệch chuẩn.
6

Mặt khác, vấn đề này cũng đã được những công trình quan tâm trong thời gian
gần đây (Nguyễn Khánh Ly, 2003) (Hàn Văn Lựa, 2018). Với vai trò của một người
sinh viên, trong văn hoá ứng xử, lơ là nội quy, quy chế nhà trường, ký túc xá, thực
trạng hiện nay các bạn sinh viên đang lơ là, chưa thực hiện tốt các nội quy, quy định
trường học như việc đeo thẻ sinh viên, thường xuyên đi học trễ và cả cách ứng xử với
nhân viên làm việc tại trường (bảo vệ, nhân viên giữ xe) không những đang phản ảnh
vấn đề lệch chuẩn so với những quy tắc ứng xử được nhà trường mà còn có ảnh hưởng
ít nhiều trực tiếp đến lối sống của chính các bạn sinh viên và tập thể xung quanh (Hàn
Văn Lựa, 2018).

Theo số liệu thống kê ba học kì gần nhất, số sinh viên buộc thôi học và cảnh
cáo học vụ có xu hướng ngày càng tăng theo từng học kì. Học kì 2 năm học 2018 -
2019, có 135 sinh viên bị cảnh cáo học vụ và 156 sinh viên buộc thôi học, học kì 1
năm học 2019 - 2020 số sinh viên bị cảnh cáo học vụ và buộc thôi học tăng lên lần
lượt là 115 và 166 sinh viên và học kì 2 năm học 2019 - 2020 – đây cũng là học kì gần
nhất, trường dự kiến sẽ cảnh cáo học vụ 167 và buộc thôi học 210 sinh viên (Phòng
công tác sinh viên, trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn - Đại học Quốc gia
Thành phố Hồ Chí Minh, 2020). Những con số ít nhiều phản ánh về thái độ của sinh
viên đối với việc học tập của chính mình nói riêng và việc thực hiện quy chế nhà
trường nói chung.

Để đạt được mục tiêu đào tạo ra những nguồn nhân lực chất lượng, vừa giỏi
chuyên môn vừa giỏi kỹ năng và khéo léo trong ứng xử, cần thiết phải lưu tâm đến
việc hạn chế tối đa những hành vi mang xu hướng lệch chuẩn, nâng cao ý thức chấp
hành của sinh viên cũng như cải thiện hiệu quả quản lý trong việc tuân thủ những nội
quy, quy chế, văn hóa ứng xử của nhà trường. Dựa trên những mong muốn này, đề tài
tiến hành tìm hiểu “Những yếu tố tác động đến hành vi lệch chuẩn của sinh viên trong
việc thực hiện quy chế nhà trường tại trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn -
Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh”.

2. Tổng quan tình hình nghiên cứu đề tài

Dưới góc độ xã hội học, “chuẩn mực là một kỳ vọng mà mọi người trong một
xã hội nhất định đều đồng ý – đây được coi là điều đáng mong muốn, nên làm, và là
điều phù hợp xét về mặt văn hóa” (Trần Hữu Quang, 2019, trang 176). Những hành vi
7

không tôn trọng hoặc làm trái với chuẩn mực được xem là hành vi lệch chuẩn (Trần
Hữu Quang, 2019, trang 183).

Như vậy các hành vi lệch chuẩn của sinh viên trong môi trường đại học là
những hành vi không tôn trọng hoặc làm trái với quy chế nhà trường. Hành vi lệch
chuẩn phong phú về mặt biểu hiện, phức tạp về mặt nguyên nhân, gây ra nhiều hệ lụy
cho xã hội và trở ngại trong việc tìm kiếm biện pháp để khắc phục. Chính vì vậy, hành
vi lệch chuẩn đang là một vấn đề thu hút được sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu
từ các ban ngành khác nhau. Nhóm nghiên cứu đã thực hiện tổng quan lịch sử các
công trình nghiên cứu trong vòng 20 năm trở lại đây, nhằm đánh giá khái quát điểm
chung và riêng, điểm giống nhau và khác nhau giữa các đề tài, nhằm đề xuất hướng
giải quyết tích cực và thực tế hành vi lệch chuẩn tại cơ sở tham gia học tập. Phần tổng
quan tình hình nghiên cứu được chia làm ba nội dung sau: Thứ nhất, những công trình
nghiên cứu về vai trò của việc rèn luyện sinh viên ở môi trường đại học; Thứ hai,
những công trình nghiên cứu liên quan đến hành vi lệch chuẩn của sinh viên trong việc
thực hiện quy chế nhà trường tại môi trường đại học và thứ ba, những công trình
nghiên cứu liên quan đến sinh viên trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn -
Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh.

2.1. Những công trình nghiên cứu về vai trò của việc rèn luyện sinh viên ở
môi trường đại học

Thế hệ sinh viên Việt Nam được xem là một thế hệ trẻ, mang bản chất năng
động, đầy sáng tạo và là thế hệ có khả năng tiếp thu, nắm vững khối tri thức to lớn của
thời đại. Trong bối cảnh toàn cầu hóa với sự thay đổi chóng mặt của xã hội, sinh viên
được ví như những đại diện của tầng lớp thanh niên trí thức và quyết định cho tương
lai của một đất nước. Vì thế, sự phát triển toàn diện về mặt tri thức cũng như đạo đức,
lối sống của tầng lớp thanh niên trí thức này luôn trở thành tâm điểm chung và đáng
quan tâm của toàn xã hội. Lịch sử nghiên cứu có sự xuất hiện của nhiều nhà nghiên
cứu với nhiều công trình khác nhau về vấn đề lối sống sinh viên như Nguyễn Ánh
Hồng, Phạm Hồng Tung (Nguyễn Ánh Hồng, 2002) (Phạm Hồng Tung, 2007). Các đề
tài khắc họa được bức tranh toàn cảnh về lối sống của sinh viên, tuy nhiên, các đề tài
hầu như còn dàn trải về mặt biểu hiện, chưa tập trung nêu sâu vấn đề chính. Trong
8

công trình nghiên cứu của Nguyễn Ánh Hồng, tác giả dựa trên các lí thuyết và tiến
hành khảo sát thực tế về lối sống sinh viên tình hình hiện nay, đồng thời nêu quan
điểm rằng: “Lối sống sinh viên là phương thức hoạt động đặc trưng của giới sinh viên,
thể hiện ở sự lựa chọn các hoạt động và cách thực hiện các hoạt động đó trong điều
kiện chủ quan và khách quan nhất định. Thông qua tổng quan toàn bộ lối sống sinh
viên hiện nay từ học tập cho đến các hoạt động đoàn thể, ta có thể phân sinh viên ra
làm ba nhóm đặc trưng lối sống rèn luyện của bản thân sinh viên như sau: Kiểu một là
sinh viên say mê tích cực học tập, tham gia các hoạt động thể hiện lối sống tích cực
học tập và tham gia toàn diện các hoạt động của sinh viên. Kiểu hai là sinh viên chú ý
đến việc học tập, quan hệ gia đình, bạn bè, ít tham gia các hoạt động đoàn thể, tích cực
hòa nhập vào đời sống xã hội. Kiểu ba là sinh viên rất năng động tích cực, hứng thú
các hoạt động vui chơi, xao lãng học tập, xa rời bản chất lối sống của sinh viên.”
(Nguyễn Ánh Hồng, 2002). Bên cạnh sử dụng các lí thuyết tương tự như tác giả
Nguyễn Ánh Hồng, Phạm Hồng Tung với cách tiếp cận đa chiều đã đề xuất khái niệm
theo quan niệm về phạm trù lối sống: “Lối sống của con người là các chiều cạnh chủ
quan của văn hóa, là quá trình hiện thực hóa các giá trị văn hóa thông qua các hoạt
động sống của con người” (Phạm Hồng Tung, 2007). Từ việc đề xuất khái niệm về lối
sống, tác giả thể hiện được tính gắn kết giữa lối sống với văn hóa, mang giá trị lịch sử
không thể tách rời cũng như tính phân tầng, phân theo cấp bậc của lối sống. Trong
thực tế của văn hóa học đường, tính phân tầng được nhận thấy trong vấn đề lan tỏa về
ý thức của cộng đồng sinh viên, từ ý thức học tập đến sinh hoạt tập thể, sự tác động từ
các bạn sinh viên đảm nhiệm vai trò chủ chốt đến các bạn sinh viên giữ vai trò thành
viên trong cùng một đơn vị.

Nội quy, quy chế hay quy tắc ứng xử đồng hành cùng các bạn sinh viên trong
suốt nhiều năm liền, từ môi trường sư phạm phổ thông đến môi trường sư phạm đại
học, hình thành cho các bạn một thói quen chấp hành tốt những quy định đó, hoặc là
để được tuyên dương, hoặc chỉ đơn giản là để không bị trách phạt hay kỷ luật đối với
môi trường sư phạm phổ thông. Tuy nhiên, đối với môi trường sư phạm đại học, một
cấp bậc cao hơn, việc thực hiện nội quy, quy định nhà trường không còn là một hình
thức bắt buộc cưỡng chế thực hiện bằng sự răn đe của hình phạt, kỷ luật nữa, mà thay
vào đó là sự chủ động, sự tự giác đến từ các bạn sinh viên vì chính lợi ích và ý nghĩa
cho cá nhân, cho bản thân các bạn. Mặt khác, việc hình thành ý thức tự giác tuân thủ
9

nội quy, quy chế của các bạn sinh viên khi còn ngồi trên ghế nhà trường chính là một
lợi thế cho tương lai sau này của chính các bạn sinh viên. Đề cập đến những ý nghĩa
thực tiễn của việc chấp hành nội quy, quy chế nhà trường có các tác giả tiêu biểu như
Tạ Thị Huyền, Trần Thị Tùng Lâm. Nằm trong khuôn khổ giáo dục đạo đức của môi
trường đại học, văn hóa học đường là một nội dung giáo dục mang tính đặc trưng cơ
bản, trực tiếp góp phần tạo điều kiện cải thiện tính hiệu quả từ các khâu tổ chức, khâu
quản lý đến khâu vận hành tại nhà trường. Trong nghiên cứu của Trần Thị Tùng Lâm,
tác giả bàn luận về công tác giáo dục văn hóa học đường như một hình thức trực tiếp
đưa các nội quy, quy chế nhà trường về hành vi ứng xử, văn hóa ứng xử, cũng như thái
độ ứng xử đến gần hơn với các bạn sinh viên, giúp các bạn hiểu được điều mà các bạn
sẽ phải thực hiện, hướng các bạn đến tính chủ động hơn trong việc chấp hành tốt nội
quy, quy chế nhà trường. “Giáo dục văn hóa học đường là định hướng nhận thức, thái
độ, hành vi, ứng xử trong các mối quan hệ giữa cá nhân sinh viên với các thành viên
khác trong không gian trường học vì vậy nội dung giáo dục rất đa dạng, phong phú
như giáo dục những giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của dân tộc; lối sống lành
mạnh, có ích; học tập về nội quy, quy chế của nhà trường; học tập lý luận chính trị và
các sinh hoạt tập thể giáo dục theo chuyên đề của khoa, trường, đoàn thanh niên, các
câu lạc bộ các đề án.” (Trần Thị Tùng Lâm, 2017, trang 41 - 42). Trong luận án này,
tác giả Tùng Lâm còn đề cập đến các hoạt động đoàn thể, hoạt động thể thao, văn hóa
văn nghệ do Nhà trường, Đoàn Thanh niên – Hội Sinh viên tổ chức. Tác giả nhấn
mạnh đây là một trong những hình thức giáo dục văn hóa học đường thiết thực cho các
thành viên của nhà trường bởi tác giả xác định rằng: nâng cao hiệu quả giáo dục văn
hóa học đường cho sinh viên là một vấn đề có liên quan đến nhiều thành tố của hệ
thống gồm nhà trường xã hội, gia đình và đối tượng được giáo dục. Vai trò của chủ thể
giáo dục học đường rất quan trọng, phải tăng cường sự lãnh đạo của cấp ủy Đảng, Ban
giám hiệu nhà trường, phát huy vai trò của Đoàn Thanh niên - Hội Sinh viên trường
đối với hoạt động giáo dục văn hóa học đường, giáo dục tư tưởng đạo đức lối sống của
bộ phận sinh viên, khơi dậy tính tự giác trong quá trình giáo dục, thực hiện văn hóa
học đường. Sinh viên là bộ mặt tương lai đất nước, việc rèn luyện tốt, tuân thủ theo
chuẩn mực mà trường học quy định là rất cần thiết, nếu thực hiện tốt thì sẽ đem lại rất
nhiều lợi ích cho chính các bạn sinh viên. Đối với Luận văn Thạc sĩ của tác giả Tạ Thị
Huyền, tác giả nhắc đến những lợi ích cũng như những tác hại đối với sinh viên nếu
10

các bạn không sớm hình thành thói quen chấp hành tốt các nội quy, quy chế, đặc biệt
là khi các bạn tham gia thực tập ở một môi trường mới mang tính chất kỷ luật cao.
“Trước khi bước vào làm việc tại các cơ sở thực tập, đa phần các sinh viên sẽ được
học nội quy, quy định của doanh nghiệp một ngày. Đó là cơ sở để các em thực hiện
nhiệm vụ của mình mà không vi phạm đến quy chế của công ty. Nhìn chung, sinh viên
đang từ môi trường của trường học, việc đi muộn về sớm, hoặc có thể nghỉ học dường
như không phải là vấn đề quá lớn. Sinh viên đi học muộn vẫn có thể xin giáo viên
giảng dạy vào lớp, khi có việc bận có thể xin giáo viên về sớm một chút hoặc có thể
nghỉ một vài buổi học không cần lý do, thậm chí có thể học bù học lại được. Nhưng
khi đi thực tập, sinh viên thực sự bước vào một môi trường chuyên nghiệp đòi hỏi tác
phong công nghiệp, lúc này, việc đi muộn không thể xảy ra hoặc chỉ hạn hữu một lần.
Việc nghỉ không lý do hoặc đang làm mà bỏ vị trí làm việc thì không thể, trừ khi có sự
đồng ý của người quản lý trực tiếp và sẽ không có lần thứ hai xảy ra.” (Tạ Thị Huyền,
2018, trang 31). Bên cạnh đó, tác giả còn đưa ra được tầm quan trọng cũng như mức
độ ảnh hưởng về sau của nhà trường trong việc giáo dục về mặt đạo đức cũng như hình
thành ý thức tự giác chấp hành nội quy, quy chế đối với sinh viên, “nhà trường giữ vai
trò giáo dục đạo đức cùng với việc giáo dục tri thức cho sinh viên. Sinh viên được đào
tạo quy củ ở nhà trường sẽ có tâm thế tốt hơn khi bước vào môi trường thực tập” (Tạ
Thị Huyền, 2018, trang 32). Chính vì vậy, việc đòi hỏi nhà trường phải có sự nghiêm
khắc tuyệt đối với sinh viên trong việc hình thành thói quen chấp hành nội quy, quy
chế nhà trường cũng như nâng cao công tác quản lý vấn đề này là một điều tất yếu và
tiên quyết trong định hướng phát triển đạo đức toàn diện cho sinh viên. Tuy nhiên, ý
thức sinh viên cũng như công tác quản lý sinh viên thực hiện quy chế nhà trường vẫn
chưa được đánh giá cao trong những năm trở lại đây, bởi thực trạng vi phạm ở sinh
viên đang diễn ra thường xuyên tại môi trường đại học.

2.2. Những công trình nghiên cứu liên quan đến hành vi lệch chuẩn của sinh
viên trong việc thực hiện quy chế nhà trường tại môi trường đại học

Hiện nay vấn đề sinh viên ở môi trường đại học có những biểu hiện của hành vi
lệch chuẩn trong học tập cũng diễn ra khá nhiều ở các trường Cao đẳng, Đại học. Vấn
đề này được nhiều công trình nghiên cứu tiếp cận dưới nhiều lĩnh vực khác nhau, có
thể nhắc đến các nghiên cứu của Phạm Hồng Tung, Đỗ Thị Như Huỳnh, Nguyễn Duy
11

Hiệp, Trần Thị Kim Oanh, Hoàng Thị Quỳnh Hương, Lê Văn Hiền, Vũ Thị Lan. Cùng
nghiên cứu về vấn đề lệch chuẩn của sinh viên, các tác giả đã chỉ ra các biểu hiện, thực
trạng của sinh viên ngày nay, thể hiện xu hướng lệch chuẩn rất cao trong cộng đồng
sinh viên. Ở nghiên cứu của Đỗ Thị Như Huỳnh (2015), Nguyễn Duy Hiệp (2016), hai
tác giả đã đề cập đến các biểu hiện sai lệch của sinh viên trong quá trình học tập và
chấp hành các nội quy, quy chế của nhà trường (Đỗ Thị Như Huỳnh, 2015) (Nguyễn
Duy Hiệp, 2016). Với công trình nghiên cứu của Đỗ Thị Như Huỳnh, tác giả đưa ra
nhiều ý kiến từ sinh viên và giảng viên của trường Cao đẳng Phương Đông Đà Nẵng
về thực trạng chấp hành các quy tắc của sinh viên hiện nay. Về công trình nghiên cứu
của tác giả Nguyễn Duy Hiệp đã trình bày một bức tranh về các thực trạng trong học
tập của sinh viên, cũng như không bỏ qua các biểu hiện hành vi lệch chuẩn về thực
hiện các nội quy của sinh viên nhà trường. Việc sử dụng quan điểm của Chủ tịch Hồ
Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam, công trình nghiên cứu của Vũ Thị Lan đã nêu
bật lên thực trạng về các biểu hiện của sinh viên Hồng Đức: về mặt tích cực, đa số sinh
viên đã có nhận thức về lối sống phù hợp với bản thân, phần lớn có lí tưởng sống và có
động cơ học tập tốt đẹp; về mặt tiêu cực, tác giả đã chỉ ra một bộ phận sinh viên có
thái độ đua đòi, có lối sống buông thả, học hành sa sút và sa vào các tệ nạn xã hội.
Nhìn chung, những công trình nghiên cứu đã cung cấp khái quát về các biểu hiện lệch
chuẩn của sinh viên trong học tập và trong ý thức thực hiện nội quy, quy chế nhà
trường hiện nay (Vũ Thị Lan , 2018).

Thực trạng sinh viên vi phạm nguyên tắc ứng xử, lối sống đạo đức văn hóa, ý
thức chấp hành nội quy, quy chế nhà trường trong thời gian gần đây nhận được sự
quan tâm và đánh giá bởi nhiều nhà nghiên cứu khác nhau. Lịch sử các công trình
trong giới nghiên cứu đều có chung một giả thuyết rằng: quá trình hình thành nhân
cách, phẩm chất và định hướng giá trị lệch lạc của sinh viên một phần chịu ảnh hưởng
từ những khiếm khuyết của môi trường giáo dục gia đình và trường học, đại diện các
yếu tố tác động khách quan. Các công trình nghiên cứu về nguồn gốc xuất phát của
khuyết điểm từ môi trường phát triển. (Lê Thị Xuân, 2007); (Trần Thị Thủy, Bùi Hải
Yến, Hoàng Văn Tuyên, 2009); Có các nghiên cứu chỉ ra được những luận cứ chứng
minh: sự tác động từ nguyên nhân khách quan này gây ảnh hưởng mạnh mẽ đến tâm lý
trong quá trình phát triển tư duy và nhân cách, hình thành hành vi lệch chuẩn của sinh
viên hiện nay (Trần Lê Diệu Tiên, 2016); (Lê Thị Ngọc Lan, 2017). Sự sai lệch trong
12

hành vi của sinh viên bị bộc lộ rõ ràng và thường xuyên nếu như cá nhân sinh viên đó
phát triển trong một môi trường gia đình và trường học chứa nhiều yếu tố ảnh hưởng
đến quá trình hình thành nhân cách và trao dồi phẩm chất đạo đức. Công trình nghiên
cứu của Mai Thị Ngọc Bích và Trương Trung Quyên cũng đề cập những nguyên nhân
tác động dẫn đến hành vi lệch chuẩn của sinh viên từ hai khía cạnh: khách quan và chủ
quan. Trong nghiên cứu của Mai Thị Ngọc Bích, đối tượng nghiên cứu chính là sinh
viên trường Đại học Thái Nguyên với đa số xuất thân từ con em đồng bào dân tộc
thiểu số, nguyên nhân do chính sách kinh tế, đào tạo và sử dụng lao động, công tác
giáo dục đạo đức và quản lý sinh viên gặp nhiều khó khăn, tác động mạnh mẽ đến tâm
lý sinh viên đã và đang ngồi trên ghế nhà trường. (Mai Thị Ngọc Bích, 2017, trang 84
- 93). Còn đối với đối tượng khảo sát chính là sinh viên trường Đại học Đồng Tháp,
những nguyên nhân khách quan được tác giả đề cập là nghiêng về yếu tố tác động từ
phía gia đình, nhà trường và truyền thông, thể hiện được tầm quan trọng của công tác
giáo dục, quản lý của gia đình, nhà trường cũng như hiệu ứng lan tỏa đúng luật, tích
cực của phương tiện truyền thông đại chúng, “họ không có thời gian quan tâm con cái,
xây dựng nếp sống gia đình văn hóa, đặc biệt là tình trạng cha mẹ thiếu văn hóa ứng
xử trong giao tiếp hằng ngày. Nhà trường hiện nay chỉ đề cao việc truyền thụ kiến
thức, đề cao “đào tạo nguồn nhân lực để đáp ứng nhu cầu nhân lực của nền kinh tế thị
trường”. Việc giáo dục văn hóa ứng xử cho người học hầu như không được thiết kế
trong chương trình đào tạo. Truyền thông hiện nay phát triển nhanh như vũ bão, bên
cạnh mặt tích cực thì nó cũng để lại những mặt tiêu cực như thâm nhập vào sinh viên
với những trang mạng thiếu lành mạnh, văn hóa ngoại lai làm cho một số bộ phận sinh
viên bị kích thích, lạm dụng dần dẫn đến suy thoái về lối sống, ứng xử.” (Trương
Trung Quyên, 2017, trang 169) Nhìn nhận về nguyên nhân chủ quan, hai công trình
này có nét tương đồng về mặt nhận định, sinh viên hiện nay còn thiếu bản lĩnh, thiếu
lập trường, thiếu kỹ năng sống, thiếu ý thức trong lời nói, cử chỉ, hành động, thiếu sự
tu dưỡng và rèn luyện đạo đức, chưa nhận thức được tầm quan trọng của văn hóa ứng
xử chuẩn mực. “Ngoài ra, sinh viên chủ yếu sống xa gia đình nên thiếu sự kèm cặp,
định hướng của bố mẹ. Cuộc sống xa nhà giúp sinh viên tự lập, nhưng điều này ảnh
hưởng không nhỏ đến văn hóa ứng xử của các bạn.” (Trương Trung Quyên, 2017,
trang 169). Môi trường đại học là một môi trường giúp sinh viên phát triển được thế
chủ động của mình nên việc tìm tòi kỹ năng sống, hoặc tôi rèn ý thức bản thân là một
13

điều tích cực được tác giả đồng tình trong một trong các giải pháp thiết thực giúp cải
thiện vấn đề. Bên cạnh đó cũng có các công trình nghiên cứu nổi bật được đề cập như:
(Phùng Thị Thùy Dương, 2016); (Phan Bảo Ngọc Trinh, 2017). Sự khác biệt trong
công trình nghiên cứu của Phùng Thị Thùy Dương so với các công trình cùng đề tài
được đề cập là đối tượng nghiên cứu. Đối tượng tác giả hướng tới là sinh viên năm
nhất càng nhấn mạnh tầm quan trọng của tính chủ động ở sinh viên để thích nghi môi
trường học tập và làm việc mới lạ. “Thích ứng học tập là một quá trình thích nghi đặc
biệt của cá nhân đối với điều kiện mới, là sự thâm nhập của cá nhân vào điều kiện mới
một cách thuần thục và chính trong quá trình đó, con người không thụ động mà được
bộc lộ trong quá trình hoạt động có đối tượng như một chủ thể động”. (Phùng Thị
Thùy Dương, 2016). Vấn đề thích ứng tâm lý với môi trường mới luôn là mối quan
tâm hàng đầu của sinh viên cũng như trở thành tâm điểm nghiên cứu cho nhiều nhà
tâm lý học, xã hội học trong và ngoài nước.

Trong môi trường mới và lạ lẫm, điều kiện tiên quyết để có thể thích nghi, phát
triển và tránh những hành vi lệch chuẩn chính là sự chủ động từ các bạn sinh viên
trong việc tìm hiểu về môi trường phát triển của mình, từ các nội quy, quy định, văn
hóa ứng xử cũng như thái độ học tập chuẩn mực được đề xuất cho nhà trường: Tổ
chức diễn đàn sinh viên thực hiện nội quy nề nếp ngay từ đầu năm học; Xây dựng ban
hành nội quy học tập trong phạm vi toàn trường; Xây dựng ý thức tự giáo dục cho sinh
viên; Tập cho sinh viên thói quen chấp hành nghiêm túc nội quy, nề nếp học tập
thường xuyên; Tổ chức thi đua xây dựng nhà trường kỷ cương, nề nếp từng khoa đến
toàn trường; Tạo dư luận tập thể để kích thích và điều chỉnh nhận thức, thái độ hành vi
chấp hành nội quy cho sinh viên; Quản lý chặt chẽ nghiêm túc việc thực hiện các yêu
cầu của nội quy, nề nếp trong học động đào tạo, nhằm tạo môi trường rèn luyện thói
quen hành vi chấp hành nội quy nề nếp học tập (Nguyễn Thị Thu Hà, 2017). Đi kèm
với những đề xuất đó cần lưu ý đối với công tác giáo dục, quản lý của nhà trường cũng
cần xem xét trong hệ thống nội quy sinh viên có những nội quy nào hiện nay đã không
còn phù hợp đối với sinh viên nên được lược bớt, đồng thời bổ sung những quy định
mới phù hợp hơn với thực tiễn, tạo không gian thoải mái tiếp nhận và thực hiện cho
sinh viên, không tạo sự gò bó, áp lực cho sinh viên khi đến trường. Đối với công tác
thông tin, giám sát và nhắc nhở sinh viên, thông qua hệ thống các Câu lạc bộ - Đội -
Nhóm, các chi Đoàn, chi Hội có thể áp dụng “Bộ luật tình bạn” (Trương Văn Vỹ,
14

2011), để phổ biến nội quy, liên tục nhắc nhở, tiếp nhận những thắc mắc, kiến nghị từ
trong dư luận của các bạn sinh viên để điều chỉnh nội quy sao cho phù hợp.

2.3. Những công trình nghiên cứu liên quan đến sinh viên trường Đại học
Khoa học Xã hội và Nhân văn

Đề tài “Thái độ của sinh viên trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn đối
với kỉ cương học đường” của tác giả Nguyễn Khánh Ly là đề tài nghiên cứu về thái độ
trong việc thực hiện các nội quy, quy chế của trường Đại học Khoa học Xã hội và
Nhân văn – Đại học Quốc gia Hà Nội, hướng đến việc chứng minh được nội quy
không chỉ là kỷ luật mà còn là yếu tố thúc đẩy kỷ luật hình thành nên nét tính cách đẹp
ở sinh viên. Trong đề tài của mình, tác giả đã đưa ra sơ đồ cấu trúc của thái độ dựa vào
một nghiên cứu về thái độ của M. Smith (1942), cho thấy được thái độ có tác động lớn
trong việc hình thành nên hành vi của con người. H.C. Triandis cũng có nói “thái độ là
tư tưởng được hình thành từ những xúc cảm gây tác động đến hành vi nhất định trong
giai cấp nhất định, trong những tình huống xã hội. Thái độ của con người bao gồm
những điều người ta suy nghĩ và cảm thấy về đối tượng cũng như thái độ xử sự của họ
đối với nó.” (Nguyễn Khánh Ly, 2003, trang 33 - 36). Qua quá trình khảo sát và phân
tích số liệu, tác giả đề tài đưa ra kết luận chung về thái độ thực hiện nội quy nhà
trường tại trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn – Đại học Quốc gia Hà Nội:
Nhìn chung đa phần sinh viên đều có nhận thức đúng đắn, rõ ràng về nội quy, quy chế
của khoa, trường và họ được cung cấp thông tin về vấn đề này khá phong phú, đầy đủ.
Tuy vậy, một số ít sinh viên chưa có nhận thức đúng đắn về vấn đề này. Do trong quá
trình học tập, những thông tin về nội quy, quy chế vì một lý do nào đó chưa đến được
với họ hoặc có đến thì cũng chưa có tác động nhiều đến sinh viên. Việc thực hiện nội
quy, quy chế của sinh viên có ảnh hưởng trực tiếp đến bản thân quá trình học tập rèn
luyện các phẩm chất cần thiết của một nhân cách trưởng thành trong giảng đường đại
học. Mặc dù có một số ít sinh viên có những ý kiến không mấy tích cực lắm nhưng đa
phần sinh viên đều vẫn nhận thức được vai trò của cá nhân họ trong việc thực hiện nội
quy, quy chế và những tác động tích cực của việc thực hiện nội quy, quy chế đến quá
trình học tập rèn luyện của họ. Đề tài nghiên cứu đã chứng minh được sinh viên vẫn có
mức độ hiểu biết, thái độ nhất định, xác định các tác nhân tác động đến sinh viên đối
với kỉ cương học đường, thể hiện đúng đắn mục tiêu nghiên cứu của đề tài. Tác giả
15

còn đưa ra những kiến nghị để khắc phục và nâng cao vấn đề chấp hành nội quy kỉ
cương học đường của sinh viên cụ thể như sau: “Đối với khoa và trường cần phải
nghiên cứu kĩ để có thể đưa ra một số quy chế, nội quy phù hợp với đặc điểm của sinh
viên, khoa cần thường xuyên đôn đốc giám sát về việc thực hiện nghiêm túc kỉ cương
học đường ở lớp. Đối với đoàn, lớp, hội thường xuyên có sự thông báo về các nội quy,
quy chế để sinh viên nắm rõ, tích cực phát huy vai trò của các phong trào lớp, kết hợp
với đoàn, hội và xây dựng một tập thể đoàn kết thân ái, động viên khích lệ sinh viên
giữ vững kỉ cương học đường. Đối với giảng viên thực hiện nghiêm túc, quy chế để
sinh viên noi theo, vui vẻ, gần gũi sinh viên và tích cực đối với phương pháp giảng
giải.” (Nguyễn Khánh Ly, 2003). Đối với nghiên cứu của Trần Văn Thảo, tác giả cũng
sử dụng góc độ Tâm lý học tương tự như Nguyễn Khánh Ly để đánh giá về hành vi
văn minh học đường của sinh viên ở một số trường đại học của Thành phố Hồ Chí
Minh. Tác giả đã tiến hành khảo sát với 386 khách thể là sinh viên học tại một số
trường đại học Thành phố Hồ Chí Minh, bao gồm sinh viên trường Đại học Khoa học
Xã hội và Nhân văn - Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh. Kết quả nghiên cứu
cho thấy, đa số sinh viên có nhận thức rõ ràng về hành vi văn minh học đường trong
mối quan hệ thực hành giao tiếp xã hội, phát triển bản thân và nhận thức được tầm
quan trọng liên quan đến các giá trị truyền thống (Trần Văn Thảo, 2014).

Tuy nhiên bên cạnh đó vẫn còn các hành vi tiêu cực diễn ra nơi giảng đường
như cúp học, không chấp hành giờ theo quy định của nhà trường. Ở khía cạnh tiêu cực,
tác giả đã sử dụng phương pháp so sánh, cho thấy được mức độ vi phạm hành vi lệch
chuẩn là khác nhau giữa các trường, giữa giới tính và giữa sinh viên ở các niên khóa.
Bên cạnh đó, đề tài nêu rõ yếu tố tác động đến hành vi văn minh học đường ở cả hai
mặt chủ quan và khách quan: chủ quan là do nhận thức, ý thức, thói quen trong lối
sống của sinh viên; khách quan là sự tác động của dư luận xã hội, cơ sở vật chất,
truyền thống nhà trường, nội quy của trường, quá trình hội nhập, hoạt động công tác
truyền thông của nhà trường, Đoàn - Hội cơ sở. Một nghiên cứu khác được đánh giá từ
lĩnh vực tiếp cận Xã hội học, đề tài của Hàn Văn Lựa sử dụng cách tiếp cận đa chiều,
bằng những kiến thức và phương pháp khoa học đặc trưng của Xã hội học, tác giả đã
có những phân tích và nhận định đúng đắn, cho thấy rõ toàn cảnh về văn hóa ứng xử
của sinh viên trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn - Đại học Quốc gia Thành
phố Hồ Chí Minh ở các khía cạnh khác nhau. Bên cạnh đó, tác giả còn cho thấy, sự
16

hiệu quả của Bộ 10 quy tắc ứng xử do nhà trường quy định (Hàn Văn Lựa, 2018, trang
47). Tuy nhiên, Bộ quy tắc này vẫn còn tồn tại một số hạn chế, những lỗi các bạn sinh
viên còn mắc phải và cần phải được khắc phục nhằm đảm bảo tính chỉn chu trong việc
chấp hành nội quy, quy chế nhà trường.

Các công trình nghiên cứu của các tác giả đều đưa ra được những cái nhìn
chung cho thấy tầm quan trọng của việc tuân thủ tốt, chấp hành nội quy, quy chế nhà
trường trong môi trường đại học hiện nay. Bên cạnh đó cũng đưa ra được những yếu tố
tác động chủ quan và khách quan từ nhiều phía đến vấn đề này: nhà trường, gia đình,
môi trường, xã hội và bản thân sinh viên. Đa phần, các kết quả khảo sát đều cho thấy,
việc xây dựng tính kỷ luật, tinh thần tự giác trong việc chấp hành nội quy, quy chế nhà
trường là một việc hết sức cần thiết, việc giáo dục đạo đức, nhân cách cho sinh viên
được đặt lên cương vị song song với việc giáo dục tri thức, đó sẽ là cơ sở nền tảng
vững chắc góp phần thực hiện các thang bậc giá trị văn hóa nhằm định hướng hành vi
ứng xử của sinh viên, hướng tới việc cải thiện văn hóa ứng xử, thái độ ứng xử cũng
như hành vi ứng xử ở môi trường đại học, từ đó tạo điều kiện để hoàn thiện hệ thống
giá trị cho phù hợp với xu thế chung của xã hội, khi mà xã hội hiện đại ngày càng chú
trọng đến nhân cách, đạo đức và lối sống của con người.

3. Mục tiêu và nhiệm vụ của đề tài

3.1. Mục tiêu đề tài

Tìm hiểu thực trạng hành vi lệch chuẩn của sinh viên trong việc thực hiện quy
chế của trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn – Đại học Quốc gia Thành phố
Hồ Chí Minh.

Bên cạnh đó, nghiên cứu cũng mong muốn tìm hiểu các yếu tố có ảnh hưởng
đến hành vi lệch chuẩn của sinh viên trong việc thực hiện các quy định tại trường Đại
học Khoa học Xã hội và Nhân văn – Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh.
17

3.2. Nhiệm vụ đề tài

Làm rõ một số vấn đề lý luận về hành vi lệch chuẩn của sinh viên đối với việc
thực hiện quy chế, nội quy tại trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn – Đại học
Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh.

Tìm hiểu thực trạng hành vi lệch chuẩn của sinh viên trường Đại học Khoa học
Xã hội và Nhân văn – Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh thực hiện quy chế
nhà trường.

Tìm hiểu những yếu tố tác động đến hành vi lệch chuẩn trong việc thực hiện
quy chế nhà trường của sinh viên trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn – Đại
học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh.

4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

4.1. Cơ sở lý luận
Lý thuyết tiếp cận lối sống đề cập tới hướng nghiên cứu về lối sống tập trung
vào việc phân tích các cấu trúc xã hội và các vị trí tương đối của các cá nhân bên trong
nó. Max Weber dự định lối sống như các yếu tố đặc trưng của các nhóm tình trạng kết
nối chặt chẽ với một phép biện chứng của sự công nhận uy tín. Theo Pierre Bourdieu,
lối sống là tạo thành chủ yếu của thực tiễn xã hội và gắn chặt với thị hiếu cá nhân, đại
diện cho quan điểm cơ bản của giao điểm giữa cấu trúc của các lĩnh vực và quy trình
kết nối với thể trạng (Website Xã hội học Việt Nam).
Nhóm nghiên cứu đã dùng cách tiếp cận này để đưa ra các câu hỏi nghiên cứu
cũng như giả thuyết nghiên cứu để xem xét mức độ ảnh hưởng của các hoạt động
thuộc về thói quen trong môi trường học tập và thực hiện văn hóa ứng xử của nhóm
sinh viên tham gia khảo sát, đồng thời xem xét mức độ tương quan giữa các yếu tố về
giới tính, về năm học sinh viên với các nhu cầu tiếp cận và khả năng thực hiện ảnh
hưởng tới thực trạng chấp hành quy chế nhà trường.

4.2. Phương pháp nghiên cứu


4.2.1. Phương pháp chọn mẫu
Để khảo sát hoạt động thực hiện quy chế nhà trường của sinh viên trường ĐH
Khoa học Xã hội và Nhân văn – ĐHQG TP. HCM bằng bảng hỏi, nhóm nghiên cứu
18

tiến hành chọn mẫu khảo sát theo phương pháp chọn mẫu phi xác suất – mẫu chỉ tiêu.
Tổng mẫu khảo sát thực tế: N = 165 đơn vị mẫu
Nhóm nghiên cứu phân bố cân bằng nhóm đơn vị mẫu sinh viên trường ĐH
KHXH&NV – ĐHQG TP. HCM thành 3 nhóm chỉ tiêu: khóa học, giới tính, khoa.
Nhóm nghiên cứu tiến hành phân chia chỉ tiêu của mẫu khảo sát như vậy nhằm
đánh giá mức độ tiếp cận và việc thực hiện quy chế nhà trường đối với sinh viên các
khóa.
4.2.2. Phương pháp thu thập thông tin
4.2.2.1. Phương pháp thu thập thông tin sơ cấp
Nhóm nghiên cứu thu thập thông tin định lượng bằng bảng câu hỏi, các câu hỏi
đặt ra dựa trên nền tảng thực trạng và các yếu tố có sự ảnh hưởng mà nhóm muốn phân
tích và nhận xét.
4.2.2.2. Phương pháp thu thập thông tin thứ cấp
Các nguồn thông tin thứ cấp được thu thập chủ yếu thông qua các sách, báo, tạp
chí, đề tài, nghiên cứu khoa học, luận văn, luận án, báo cáo về quá trình thực hiện quy
chế tại cái trường đại học trên cả nước.

4.2.3. Phương pháp xử lý số liệu


4.2.3.1. Dữ liệu sơ cấp
Đối với thông tin định lượng, nhóm nghiên sử dụng phần mềm SPSS 20.0, tiến
hành xây dựng khung nhập liệu, nhập liệu, chạy kiểm định, tương quan và tiến hành
phân tích số liệu.
4.2.3.2. Dữ liệu thứ cấp
Các đầu tài liệu được nhóm nghiên cứu đọc, chọn lọc và lưu trữ theo hệ thống
trên Google Drive.

4.2.4. Mô tả mẫu
Tổng số mẫu của đề tài nghiên cứu là 165 đơn vị mẫu.

4.2.4.1. Giới tính, năm học của sinh viên trong mẫu nghiên cứu
19

Biểu đồ 1. Tỷ lệ giới tính trong mẫu nghiên cứu

Giới tính

27,9 Nam
Nữ

72,1

(Nguồn: Số liệu khảo sát của nhóm nghiên cứu năm 2019)

Trong tổng số mẫu 165, về giới tính, có 46 nam sinh viên tham gia khảo sát,
chiếm 27,9%. Số lượng nữ tham gia khảo sát có 119 sinh viên, chiếm 72,1%. Như vậy,
tỉ lệ giới tính trong đề tài có nét tương đồng với đặc trưng của tổng thể.

Biểu đồ 2. Tỷ lệ sinh viên của mẫu khảo sát chia theo năm học

Năm học sinh viên

Năm 1
27,9
Năm 2
41,8
Năm 3 trở lên

30,3

(Nguồn: Số liệu khảo sát của nhóm nghiên cứu năm 2019)

Về khóa học, biểu đồ 2 cho thấy, tỷ lệ sinh viên của các khóa học khác nhau
tham gia khảo sát. Trong đó, sinh viên năm nhất có 69 sinh viên, chiếm tỷ lệ 41,8%,
50 sinh viên năm hai tham gia khảo sát (chiếm 30,3%), 46 sinh viên từ năm ba trở lên
chiếm 27,9%. Số lượng sinh viên năm nhất tham gia khảo sát chiếm tỷ lệ cao nhất.
20

Đặc thù này có phần ảnh hưởng bởi thời gian tiến hành khảo sát của nhóm nghiên cứu
tiến hành sau thời gian giãn cách xã hội. Nhóm sinh viên học năm cuối thường đã kết
thúc thời gian học tập tại trường vào thời điểm này. Điều này cũng ít nhiều ảnh hưởng
đến tỉ lệ sinh viên năm cuối (thứ 4 trở lên) rất ít.

4.2.4.2. Số lượng sinh viên của mỗi khoa/bộ môn trong mẫu
nghiên cứu

Nhóm nghiên cứu đã dựa vào Bảng phân loại lĩnh vực ngành của Nhà trường
chia các khoa/bộ môn thành các nhóm ngành Khoa học Xã hội (trừ ngoại ngữ), nhóm
ngành Khoa học Nhân văn, nhóm khoa/bộ môn Ngoại ngữ (Lê Thị Hoàng Nhung,
2017). Cụ thể, 28 khoa/bộ môn của trường được chia thành 3 nhóm như sau:

- Nhóm ngành Khoa học Xã hội (trừ ngoại ngữ) bao gồm: Tâm lý học; Giáo dục
học; Đô thị học; Báo chí truyền thông, Thư viện- Thông tin; Bộ môn Lưu trữ và
quản trị văn phòng; Du lịch; Quan hệ quốc tế; Xã hội học; Địa lý học; Nhân
học; Công tác xã hội.
- Nhóm ngành Khoa học Nhân văn bao gồm: Triết học; Lịch sử; Bộ môn Ngôn
ngữ học; Văn học; Văn hóa học; Đông phương học; Nhật Bản học; Hàn Quốc
học; Việt Nam học.
- Nhóm khoa/bộ môn Ngoại ngữ bao gồm: Ngữ văn Anh; Ngữ văn Nga; Ngữ văn
Pháp; Ngữ văn Trung Quốc; Ngữ văn Ý; Ngữ văn Tây Ban Nha; Ngữ văn Đức.
Biểu đồ 3. Số lượng sinh viên các khoa/bộ môn trong mẫu nghiên cứu

Sinh viên thuộc các nhóm ngành

12,4 Nhóm ngành Khoa học Xã hội


(trừ Ngoại ngữ)

29,2 Nhóm ngành Khoa học Nhân


58,4
văn

Nhóm khoa/bộ môn Ngoại ngữ

(Nguồn: Số liệu khảo sát của nhóm nghiên cứu năm 2019)
21

Ở bảng 3 cho thấy trong tổng 165 mẫu, nhóm ngành Khoa học Xã hội có 58,4%
sinh viên tham gia khảo sát. Nhóm ngành Khoa học Nhân văn có 29,2% sinh viên
tham gia. Với nhóm khoa/bộ môn Ngoại ngữ, có 12,4% sinh viên tham gia khảo sát.

Nhóm nghiên cứu tiến hành khảo sát và thu thập thông tin của các khoa/bộ môn
của sinh viên để làm rõ lý thuyết và thấy được sự khác biệt giữa sinh viên từng
khoa/bộ môn về thực hiện quy chế nhà trường tại trường Đại học Khoa học Xã hội và
Nhân văn - Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh.

Biểu đồ 4. Khu vực sinh sống trước khi lên đại học của sinh viên tham gia khảo sát

Khu vực sống trước khi lên đại học

Nông thôn
46,1 Thành thị
53,9

(Nguồn: Số liệu khảo sát của nhóm nghiên cứu năm 2019)

Khu vực sinh sống trước khi lên đại học của nhóm sinh viên tham gia khảo sát
được phân thành hai khu vực chính là thành thị và nông thôn. Trong biểu đồ 4 cho
thấy, sinh viên tham gia khảo sát sống ở khu vực nông thôn trước khi lên đại học
chiếm phần đông hơn so với tổng số, chiếm tỷ lệ là 53,9%, còn đối với sinh viên tham
gia khảo sát có khu vực sống trước khi lên đại học là thành thị chiếm 46,1%.
22

Biểu đồ 5. Nơi sinh sống hiện tại của sinh viên tham gia khảo sát

Nơi ở hiện tại

26,1 Ký túc xá
Nhà trọ
53,9 Khác
20,0

(Nguồn: Số liệu khảo sát của nhóm nghiên cứu năm 2019)

Đối với nơi sinh sống hiện tại của các bạn sinh viên tham gia khảo sát, nhóm
nghiên cứu tiến hành chia thành ba nhóm chính là ký túc xá, nhà trọ và nơi ở khác.
Biểu đồ 5 thể hiện, các bạn sinh viên tham gia khảo sát hiện tại đang sinh sống ở ký
túc xá chiếm tỷ lệ cao nhất với tỷ lệ là 53,9%, với nhóm sinh viên tham gia khảo sát
hiện sống ở nhà trọ chiếm 20,0%. Bên cạnh đó, có 43 bạn sinh viên chiếm 26,1% trả
lời rằng mình sống ở nơi khác như nhà riêng, ở với ông bà, cô chú hoặc ở cùng anh chị
em của mình.

4.2.5. Các khái niệm liên quan


4.2.5.1. Chuẩn mực
Có rất nhiều cách định nghĩa khái niệm khác nhau về chuẩn mực. Theo quan
niệm của Trần Thị Kim Xuyến và Nguyễn Thị Hồng Xoan, “chuẩn mực là các tiêu
chuẩn hành vi được hình thành giữa trên những gì một nhóm hay một cộng đồng tán
thành trong suy nghĩ và tư cách đạo đức, trên cơ sở mà giá trị các nhóm hoặc cộng
đồng hình thành nên các tiêu chuẩn hành vi (hay còn gọi là chuẩn mực) trong phần lớn
các trường hợp”. Còn theo quan niệm của Nguyễn Xuân Nghĩa, thì “chuẩn mực là
những quy tắc ứng xử, chúng ta quy định hành vi con người là tốt hay xấu, thích hợp
hay không thích hợp”. (Trần Thị Kim Xuyến, Nguyễn Thị Hồng Xoan, 2002)
23

Cùng khái niệm đó, theo quan niệm Landis “Chuẩn mực là hành vi của cá nhân
hay bị đòi hỏi trong một hoàn cảnh đặc thù”. Chuẩn mực được xuất hiện hình thành
trong quá trình tương tác xã hội, là quá trình cá nhân tương tác với một cá nhân khác
nào đó, học được và cùng nhau chấp nhận đâu là những cách hành xử thích hợp và
được chấp nhận, đâu là những cách hành xử không thích hợp và không được chấp
nhận. Chuẩn mực cho phép chúng ta dự đoán được hành vi, được chấp nhận nhờ vào
giá trị của chúng.

Đối với Bùi Thế Cường thì quan niệm rằng, “chuẩn mực là quy tắc, sợi chỉ
xuyên suốt”. Có thể thấy rằng chuẩn mực có trong đạo đức theo nghĩa các tiêu chuẩn
hành vi trong mỹ học và logic, trong ngôn ngữ hằng ngày. Nói đến chuẩn mực là nói
đến một sự đánh giá phán xét, phán xử, cái gì phù hợp với chuẩn mực là bình thường
thích hợp, cái gì đi ngược lại với chuẩn mực đấy là lệch chuẩn bất bình thường, không
thích hợp. (Bùi Thế Cường, 2006)

Durkheim là một nhà xã hội học được xem là người đầu tiên đề cập đến tính
chuẩn mực của xã hội. Ông cho rằng, xã hội tồn tại là một hiện thực có thể xác định
mang tính sự vật mà cơ sở của nó nằm trong tính chuẩn mực của các ứng xử xã hội.
Durkheim xem hiện thực này là các sự kiện xã hội, các chuẩn mực xã hội trở thành cái
bên ngoài giới hạn ý chí của con người trong mối quan hệ của họ với nhau. Các chuẩn
mực tạo nên một khuôn khổ cho mọi hành động, như vậy chúng phải có tính trù tượng
khác với mọi hành động cụ thể. Chuẩn mực thể hiện cái chung kiểu điển hình của hành
động, định hướng qua lại của hành động của nhiều cá nhân, xây dựng các quan hệ xã
hội chỉ có thể có được khi các cá nhân hành động trên cơ sở những tiêu chuẩn và quy
tắc được biết, được chấp nhận chung. Tất cả các tiêu chuẩn và quy tắc được gọi là các
chuẩn mực xã hội. Dù có nhiều định nghĩa khác nhau về chuẩn mực, nhưng ta có thể
khái quát chung, chuẩn mực chính là những quy tắc, các tiêu chuẩn, được chúng ta quy
định đối với hành vi của con người là hành xử phù hợp hay hành xử không phù hợp.
(Bùi Thế Cường, 2006).

4.2.5.2. Hành vi lệch chuẩn


Theo quan niệm của Landis, thì “hành vi lệch chuẩn là hành vi đi trái với các
chuẩn mực được chấp nhận một cách chung”. Còn đối với Lưu Song Hà quan niệm
rằng, là “hành vi chệch khỏi quy tắc, chuẩn mực của nhóm hay xã hội”. Cùng với khái
24

niệm này, theo từ điện tâm lý học của tác giả Vũ Dụng quan niệm rằng: “Hành vi lệch
chuẩn là một hệ thống hành vi hoặc hành vi riêng rẻ đối lập với các chuẩn mực đạo
đức hoặc pháp luật xã hội đã thừa nhận”. (Vũ Dụng)

Dưới góc độ Y học, bác sĩ Nguyễn Văn Siêm cho rằng “Hành vi lệch chuẩn là
kiểu hành vi lặp đi lặp lại và kéo dài như nói dối, ăn cắp, bỏ nhà đi, trốn học, đánh
nhau, phá hoại tài sản của người khác,…các hành vi đó có thể từ mức độ gây lo buồn
tức giận gây thiệt hại tài sản và thân thể cho gia đình và xã hội”. Tuy rằng có nhiều
cách định nghĩa hành vi lệch chuẩn khác, nhưng ta có thể nói chung lại, hành vi lệch
chuẩn chính là những hành vi trái với chuẩn mực, lệch khỏi quy tắc, không đáp ứng
mong đợi của một nhóm người nào đó, nó lệch với chuẩn mực của một nhóm hay một
cộng đồng. (Nguyễn Văn Viên)

4.2.5.3. Sinh viên


Trong báo cáo khoa học của Nguyễn Khánh Ly, sinh viên là những người đang
được đào tạo chuyên sâu theo những ngành nghề nhất định tại các trường Đại học, Cao
đẳng có tinh thần sáng tạo, chủ động tích cực trong hoạt động học tập, nghiên cứu
khoa học và các hoạt động xã hội khác. (Nguyễn Khánh Ly, 2003)

Điều 59 của luật giáo dục đại học “Người học là người đang học tập và nghiên
cứu khoa học tại cơ sở giáo dục đại học, gồm sinh viên của 63 chương trình đào tạo
đại học, học viên của chương trình đào tạo thạc sĩ; nghiên cứu sinh của chương trình
đào tạo tiến sĩ”. (Văn bản hợp nhất 42/VBHN năm 2018 hợp nhất Luật Giáo dục đại
học do Văn phòng quốc hộ ban hành - Thư viện Pháp luật)

4.2.5.4. Quy chế


Quy chế là “một văn bản hoặc toàn thể các văn bản có chứa vi phạm pháp luật
hoặc vi phạm xã hội do cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền ban hành theo thủ
tục, trình tự nhất định, có hiệu lực bắt buộc thi hành đối với các thành viên cơ quan, tổ
chức thuộc phạm vi điều chỉnh của quy chế”. (Thư viện pháp luật)

Vậy có thể khát quát rằng: Quy chế là quy định của một cơ quan, tổ chức, cá
nhân ban hành có văn bản và có hiệu lực thi hành trong phạm vi của các cơ quan, tổ
chức, cá nhân ban hành.
25
26

4.2.5.5. Lệch lạc


Theo quan điểm của E. Durkheim (lý thuyết cấu trúc – chức năng), sự lệch lạc
góp phần quan trọng cho hoạt động liên tục, là một bộ phận gắn liền với mọi xã hội, sự
lệch lạc khuyến khích thay đổi xã hội bởi vì nó đưa ra các biện pháp thay thế các giá
trị và tiêu chuẩn đang tồn tại. Còn theo quan điểm của R. Merton, thì những cố gắng
đạt được thành công tài chính bằng các phương cách như ăn trộm, tham nhũng... là sự
lệch lạc, khẳng định rằng hoạt động của xã hội là nguyên nhân thực sự khuyến khích
tội phạm và các loại lệch lạc khác.

Theo lý thuyết sinh hoạt thường nhật sự lệch lạc nằm trong những gì bình
thường trong cuộc sống hàng ngày. Còn theo “lý thuyết gán nhãn hiệu (phương pháp
phân tích tương tác biểu tượng) – Howard Becker, thì quan niệm sự lệch lạc và tuân
thủ là do kết quả của quá trình người khác xác định hay gán nhãn hiệu cho một người”.
Hành vi lệch lạc không phải có ý nghĩa tự thân mà là do phản ứng của xã hội.

4.2.5.6. Hành vi
Theo quan điểm của Max Weber hành vi là điểm xuất phát của mọi quá trình
trong xã hội. Đối với quan điểm của T. Parson, nếu muốn giải thích một hiện tượng xã
hội nào phải quy về những hành vi cá nhân sơ đẳng. Hành vi sơ đẳng là “hành vi cá
nhân trong quá trình xã hội hóa, nhưng không phải là hệ quả máy móc của xã hội hóa,
dựa vào những ý định và động cơ của chủ thể hành vi cũng như những phương tiện
của hành vi chủ thể mang tính chủ quan và khách quan, bao gồm những yếu tố bất biến
của những bối cảnh văn hóa khác nhau, không phải hoàn toàn do các cơ cấu khác quy
định”. (Viện Xã hội học)

4.2.5.7. Hành động xã hội


Theo M. Weber hành động được gọi là “hành động xã hội khi nó tương quan và
định hướng vào những hành động của những người khác theo cái ý được nhận thức bởi
chủ thể hành động”. Hành động của con người nếu như chủ thể của hành động (có thể
là cá thể, có thể là nhiều cá thể), liên hệ cái ý chủ quan của mình với nó, hành động
này không phụ thuộc vào đặc tính bên trong hay bên ngoài, đồng thời nó cũng không
giớ hạn bởi cách tiếp nhận kiên nhẫn hoặc thờ ơ của hành động. (Lê Ngọc Hùng)
27

Hành động xã hội có hai đặc tính cơ bản là tính thích hợp về mặc mục đích và
tính thích hợp về mặc giá trị của hành động. Đây là hai đặc tính tạo ra chuẩn mực cho
hành động xã hội.

Tóm lại những hành động nào của con người bao gồm ý thức chủ quan vào việc
đạt tới mục đích đã đặt ra, có sự định hướng tới người khác xung quanh, nhằm cân
nhắc điều chỉnh hành vi của mình cho phù hợp với điển loại chuẩn (giá trị) đều là hành
động xã hội.

5. Phạm vi nghiên cứu

5.1.1. Đối tượng nghiên cứu


Các yếu tố ảnh hưởng tới hành vi lệch chuẩn của sinh viên trong việc thực hiện
quy chế tại trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn – Đại học Quốc gia Thành
phố Hồ Chí Minh.

5.1.2. Khách thể nghiên cứu


Sinh viên chính quy đang theo học tại cơ sở Thủ Đức của trường Đại học Khoa
học Xã hội và Nhân văn – Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh.

5.1.3. Không gian nghiên cứu


Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn – Đại học Quốc gia Thành phố
Hồ Chí Minh (cơ sở Thủ Đức)

5.1.4. Thời gian nghiên cứu


Nghiên cứu được thực hiện từ tháng 11/2019 đến tháng 8/2020.

6. Đóng góp mới của đề tài

6.1. Câu hỏi nghiên cứu


Câu hỏi 1: Hành vi lệch chuẩn của sinh viên trong việc thực hiện quy chế nhà
trường tại trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn – Đại học Quốc gia Thành
phố Hồ Chí Minh trong thời gian qua như thế nào?
Câu hỏi 2: Những yếu tố nào tác động đến hành vi lệch chuẩn trong việc thực
hiện quy chế nhà trường của sinh viên?
28

6.2. Giả thuyết nghiên cứu


6.2.1. Giả thuyết về hành vi lệch chuẩn của sinh viên trong việc thực hiện
quy chế nhà trường
Sinh viên năm nhất không có hành vi lệch chuẩn trong việc thực hiện quy chế
nhà trường.
Sinh viên nam có hành vi lệch chuẩn nhiều hơn sinh viên nữ trong việc thực
hiện quy chế nhà trường.
6.2.2. Giả thuyết về các yếu tố tác động đến hành vi lệch chuẩn
Các yếu tố như nhận thức, quan điểm, thói quen, phương tiện tiếp cận và công
tác kiểm tra giám sát có tác động đến hành vi lệch chuẩn trong việc thực hiện quy chế
nhà trường của sinh viên.

7. Ý nghĩa nghiên cứu

7.1. Ý nghĩa lý luận


Đề tài có ý nghĩa về khoa học xã hội, là tài liệu tham khảo cho các công trình
khoa học về sau. Góp phần cung cấp cơ sở lí luận cho những nghiên cứu sau này.

7.2. Ý nghĩa thực tiễn


Kết quả nghiên cứu có thể giúp hình thành tinh thần tự giác ở các bạn sinh viên
trong việc thực hiện quy tắc ứng xử cũng như tuân thủ nội quy nhà trường để hạn chế
được những ảnh hưởng tiêu cực nhất định.

Kết quả nghiên cứu đồng thời cũng hỗ trợ việc xây dựng khuôn viên trường học
đẹp hơn thông qua việc cải thiện trong văn hóa ứng xử, việc quản lí sinh viên của nhà
trường chặt chẽ hơn, góp phần đóng góp xây dựng lối sống văn minh, kỷ luật và nghĩa
tình.
29

CHƯƠNG 1

THỰC TRẠNG LỆCH CHUẨN CỦA SINH VIÊN TRONG VIỆC THỰC HIỆN
QUY CHẾ NHÀ TRƯỜNG TẠI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ
NHÂN VĂN – ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

1.1. Thực trạng lệch chuẩn của sinh viên tham gia khảo sát
Nhận thức của sinh viên về quy chế nhà trường còn hạn chế

Đa số sinh viên tham gia khảo sát đều có sự tìm hiểu và biết đến các quy định
về tác phong, văn hóa ứng xử của trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn – Đại
học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, thể hiện qua biểu đồ 6.

Biểu đồ 6.Mức độ biết đến các quy định về tác phong, văn hóa ứng xử của nhóm sinh
viên khảo sát trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn – Đại học Quốc gia
Thành phố Hồ Chí Minh

Mức độ biết đến các quy định về


tác phong, văn hóa ứng xử

9,7

Không

90,3

(Nguồn: Số liệu khảo sát của nhóm nghiên cứu năm 2019)

Biểu đồ 6 cho thấy, trong tổng số 165 bạn sinh viên tham gia khảo sát, có 149
bạn sinh viên (chiếm 90,3%) biết đến các quy định về tác phong, văn hóa ứng xử của
trường, còn lại là 16 bạn sinh viên (chiếm 9,7%) không biết đến các quy định đó. Điều
này cho biết, bên cạnh phần lớn sinh viên tham gia khảo sát có sự tìm hiểu và biết đến
các quy định trường mình thì vẫn còn một vài bạn trong nhóm sinh viên này chưa có
sự tìm hiểu kĩ càng về các quy định. Việc theo học tại trường nhưng không tìm hiểu và
biết đến các quy định về tác phong, văn hóa ứng xử của nhà trường có thể được xem là
30

một trong nhiều nguyên nhân dẫn đến việc các bạn sinh viên thể hiện hành vi lệch
chuẩn trong việc thực hiện quy chế nhà trường.

Qua khảo sát, nhóm nghiên cứu còn nhận thấy được, đa phần các bạn sinh viên
tham gia khảo sát là nữ và cũng là nhóm có mức độ biết đến quy định về tác phong,
văn hóa ứng xử của trường mình cao hơn so với nhóm sinh viên tham gia khảo sát là
nam, thể hiện qua biểu đồ 7.
Biểu đồ 7. Mối tương quan giữa giới tính với mức độ biết đến quy định về tác phong,
văn hóa ứng xử của nhà trường

100%
17,4 6,7
90% 93,3
80%
82,6
70%
60%
Không biết đến quy
50% định về tác phong, văn
40%
hóa ứng xử nhà trường
30%
20%
Có biết đến quy định
về tác phong, văn hóa
10% ứng xử nhà trường
0%
Sinh viên nam Sinh viên nữ

(Nguồn: Số liệu khảo sát của nhóm nghiên cứu năm 2019)

Sinh viên nữ tham gia khảo sát cho biết mình biết đến quy định về tác phong,
văn hóa ứng xử nhà trường chiếm 93,3%, sinh viên nam tham gia khảo sát cho biết
mình biết đến các quy định trên chiếm 82,6%. Biểu đồ 3 cho thấy có sự khác nhau về
mặt giới tính trong việc tìm hiểu về các quy định. Sự khác biệt này có thể xuất phát từ
truyền thống dạy dỗ con cái về văn hóa ứng xử ở gia đình, con gái thường buộc phải
tiếp cận và thực hiện các quy định để đảm bảo được “tam tòng tứ đức”, trong khi đó,
đối với con trai thì việc tiếp cận có sự thoải mái hơn.

Bên cạnh các quy định về tác phong và văn hóa ứng xử chung, trường Đại học
Khoa học Xã hội và Nhân văn – Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh còn có bộ
10 quy tắc ứng xử dành riêng cho sinh viên trường mình. Tuy nhiên, kết quả khảo sát
31

cho thấy, các bạn sinh viên tham gia khảo sát hầu như chưa biết đến bộ 10 quy tắc ứng
xử này, thể hiện qua biểu đồ 8.

Biểu đồ 8. Mức độ biết đến bộ 10 quy tắc ứng xử của nhóm sinh viên khảo sát trường
Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn – Đại học Quốc gia

Biết đến bộ 10 quy tắc ứng xử

29,7 Có biết đến bộ 10 quy tắc


ứng xử
Không biết đến bộ 10
quy tắc ứng xử
70,3

(Nguồn: Số liệu khảo sát của nhóm nghiên cứu năm 2019)

Biểu đồ 8 cho thấy, số sinh viên tham gia khảo sát biết đến bộ 10 quy tắc ứng
xử của trường mình chỉ chiếm 29,7%, còn lại 70,3% trên tổng số sinh viên khảo sát
cho biết, các bạn không biết tới bộ 10 quy tắc ứng xử này, thậm chí chưa từng nghe
tới. Điều này chứng minh được, mặc dù bộ 10 quy tắc ứng xử là đặc trưng dành riêng
cho sinh viên trường mình nhưng chưa thực sự được phổ biến rộng rãi trong cộng
đồng sinh viên Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn – Đại học Quốc gia Thành phố
Hồ Chí Minh và chưa phát huy được tác dụng của nó.

Biểu đồ 9. Mức độ quan tâm đến bộ 10 quy tắc ứng xử của nhóm sinh viên khảo sát
trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn – Đại học Quốc gia
Mức độ quan tâm bộ 10 quy tắc ứng xử

2,0

Không quan tâm


14,3
Bình thường
36,7
Quan tâm một phần
Rất quan tâm
46,9
32

(Nguồn: Số liệu khảo sát của nhóm nghiên cứu năm 2019)

Khảo sát tiếp đối với các bạn sinh viên biết đến bộ 10 quy tắc ứng xử, nhóm
nghiên cứu nhận thấy mức độ quan tâm của các bạn đối với bộ quy tắc ứng xử trên có
sự khác biệt nhau. Trong đó, phần lớn các bạn sinh viên tham gia khảo sát cho rằng
quan tâm một phần chiếm tỷ lệ cao nhất là 46,9% và 36,7% các bạn sinh viên khảo sát
cho rằng, mức độ quan tâm dừng ở mức bình thường. Kế đó, chỉ có 14,3% số lượng
các bạn sinh viên tham gia khảo sát cho rằng, mình rất quan tâm đối với bộ 10 quy tắc
ứng xử này và có 2,0% các bạn sinh viên hầu như không quan tâm đến nó.

Bảng 1. Mức độ quan tâm của sinh viên tham gia khảo sát đối với
bộ 10 quy tắc ứng xử

Tần số Tỷ lệ
Mức độ
Nam Nữ Nam Nữ
Không quan tâm 0 1 0,0% 2,0%
Bình thường 6 12 12,2% 24,5%
Quan tâm một phần 5 18 10,2% 36,7%
Rất quan tâm 3 4 6,1% 8,2%
Tổng cộng 14 35 29% 71%
(Nguồn: Số liệu khảo sát của nhóm nghiên cứu năm 2019)

Qua bảng 1 cho thấy, khi đo mức độ quan tâm đối với bộ 10 quy tắc ứng xử
này, các bạn sinh viên nữ tham gia khảo sát có tỷ lệ mức độ quan tâm một phần cao
nhất (chiếm 78,3% so với tổng số lượng sinh viên nữ tham gia khảo sát), còn đối với
các bạn sinh viên nam tham gia khảo sát thì mức độ quan tâm thuộc mức bình thường
chiếm tỷ lệ cao nhất (chiếm 33,3% so với tổng số lượng sinh viên nam tham gia khảo
sát). Từ đó, có thể thấy được, các bạn sinh viên nữ tham gia khảo sát có sự quan tâm
nhiều hơn các bạn sinh viên nam tham gia khảo sát đối với bộ 10 quy tắc ứng xử.

1.2. Thói quen của sinh viên trong trường đại học
33

1.2.1. Mức độ thường xuyên đối với các hoạt động trong quá trình học tập tại
trường

Nhóm nghiên cứu tiến hành khảo sát nhằm đánh giá tần số thực hiện các hành
động được xem là thói quen đối với mỗi sinh viên trong môi trường học tập, thể hiện
qua biểu đồ 10.

Biểu đồ 10. Mức độ thực hiện quy chế nhà trường của sinh viên tham gia khảo sát

100% 2,4 3,0 1.2 1.8 3,0


7,3 9,7 8.5 7,9
90% 21,2 20,0 13,9
80% 23,0 23,0
29,7
70% 41,8
38,2
60%
50% 52,7 33,9 27,3
58,8
40% 38,8

30% 27,3
29,7
20% 27,3 38,8
19,4
10% 18,2 23,0 19,4
5,5 15,2
7,3
0%
1,2 0,6
Thói quen Đọc tài liệu Đọc tài liệu Quay cóp Nghỉ học Tích cực Không
đi học trước ở nhà trước 5 không phát biểu phát biểu
đúng giờ phút phép
Không bao giờ Hiếm khi Thỉnh thoảng Thường xuyên Rất thường xuyên

(Nguồn: Số liệu khảo sát của nhóm nghiên cứu năm 2019)

Đối với việc Tôi có thói quen đi học đúng giờ, có 52,7% sinh viên tham gia
khảo sát trả lời rằng mình có mức độ Thường xuyên với hoạt động này, kế đó là tỷ lệ
mức độ Rất thường xuyên chiếm 21,2%, mức độ Thỉnh thoảng chiếm 19,4%, mức độ
Hiếm khi chiếm 55,0% và mức độ Không bao giờ chiếm tỷ lệ thấp nhất, 1,2%.

Hoạt động đọc tài liệu trước ở nhà để dễ tiếp thu bài mới khi lên lớp, có 58,8%
sinh viên tham gia khảo sát cho biết mức độ đối với hoạt động là Thỉnh thoảng, sau đó
là mức độ Thường xuyên chiếm 20,0%, mức độ Hiếm khi chiếm 18,2%, mức độ Rất
thường xuyên chiếm 2,4% và 0,6% sinh viên chọn mức độ Không bao giờ. Từ số liệu
này cho thấy, các bạn sinh viên tham gia khảo sát chưa có tinh thần tự giác trong việc
tự học, tự tìm hiểu bài học trước khi đến lớp như yêu cầu của giảng viên cũng như quy
định của nhà trường.
34

Trong quan điểm về việc Tôi đọc vội tài liệu trước giờ vào học 5 phút vì sợ bị
kiểm tra bài cũ, có 38,2% sinh viên tham gia khảo sát lựa chọn mức độ Thỉnh thoảng
chiếm tỷ lệ cao nhất, mức độ Hiếm khi chiếm 29,7% các bạn sinh viên, 15,2% sinh
viên tham gia khảo sát lựa chọn mức độ Không bao giờ, mức độ Thường xuyên chiếm
13,9% và mức độ Rất thường xuyên chiếm 3,0%.

Quan điểm về việc Tôi có quay cóp, hỏi bài bạn trong giờ kiểm tra vì quên bài,
sợ bị điểm thấp, có 38,8% sinh viên tham gia khảo sát lựa chọn mức độ Hiếm khi
chiếm tỷ lệ cao nhất, 29,7% sinh viên lựa chọn mức độ Thỉnh thoảng, 23,0% sinh viên
lựa chọn mức độ Không bao giờ, mức độ Thường xuyên và Rất thường xuyên lần lượt
chiếm tỷ lệ 7,3% và 1,2%.

Đối với vấn đề nghỉ học mà không xin phép giảng viên vì nghĩ giảng viên không
có điểm danh, có 41,8% sinh viên tham gia khảo sát lựa chọn mức độ Thường xuyên,
mức độ Hiếm khi chiếm 27,3%, mức độ Không bao giờ chiếm 19,4%, mức độ Thường
xuyên và Rất thường xuyên chiếm tỷ lệ lần lượt là 9,7% và 1,8%.

Quan điểm về việc Tôi tích cực phát biểu trong lớp để có điểm cộng và gây ấn
tượng với giảng viên, có 33,9% sinh viên tham gia khảo sát lựa chọn mức độ Thỉnh
thoảng, mức độ Hiếm khi chiếm tỷ lệ 27,3%, mức độ Thường xuyên chiếm 23,0%,
mức độ Rất thường xuyên chiếm 8,5% và mức độ Không bao giờ chiếm 7,3%.

Trong quan điểm về việc Tôi không phát biểu trong lớp vì sợ trả lời sai, bạn bè
sẽ cười tôi, có 38,8% sinh viên tham gia khảo sát lựa chọn mức độ Không bao giờ,
mức độ Hiếm khi chiếm 27,3%, mức độ Thỉnh thoảng chiếm 23,0%, mức độ Thường
xuyên chiếm 7,9% và mức độ Rất thường xuyên chiếm 3,0%.

1.2.2. Mức độ thực hiện văn hóa ứng xử trong môi trường đại học
35

Biểu đồ 11. Mức độ việc thực hiện tác phong, văn hóa ứng xử của sinh viên tham gia
khảo sát

100% 3,0 2,4 4,2


12,1 12,1 15,8
80%
21,2 53,3 19,4
35,2
60%
32,7 24,2
40% 22,4
37,0
20% 36,4
27,3 31,5 7,3
0% 1,2
1,2
Không chào hỏi Không chào chú Có thái độ lễ Hay chửi thề, nói
giảng viên bảo vệ phép, tôn trọng tục với bạn bè do
thầy cô các phòng quen miệng,
ban không kiểm soát
được lời nói

Không bao giờ Hiếm khi Thỉnh thoảng


Thường xuyên Rất thường xuyên

(Nguồn: Số liệu khảo sát của nhóm nghiên cứu năm 2019)

Đối với các thói quen trong việc thực hiện văn hóa ứng xử trong môi trường đại
học, nhóm nghiên cứu tiến hành khảo sát về các hoạt động sau: Tôi không chào hỏi
giảng viên khi gặp trên sân trường do nhiều giảng viên không mang thẻ, không phân
biệt được với sinh viên, Tôi không chào chú bảo vệ vì thấy nó không cần thiết, Tôi có
thái độ lễ phép, tôn trọng thầy cô các phòng ban khi cần gặp trực tiếp và làm việc với
họ, Tôi hay chửi thề, nói tục với bạn bè do quen miệng, không kiểm soát được lời nói.

Với quan điểm về thói quen Tôi không chào hỏi giảng viên khi gặp trên sân
trường do nhiều giảng viên không mang thẻ, không phân biệt được với sinh viên, có
35,2% sinh viên tham gia khảo sát cho biết mức độ thực hiện hành động này thuộc
mức độ Thỉnh thoảng, chiếm tỷ lệ cao nhất, sau đó là mức độ Không bao giờ chiếm
27,3%, mức độ Hiếm khi chiếm 22,4%, mức độ Thường xuyên chiếm 12,1% và Rất
thường xuyên chiếm 3,0%.

Quan điểm về việc Tôi không chào chú bảo vệ vì thấy nó không cần thiết, có
32,7% sinh viên tham gia khảo sát cho biết rằng mức độ thực hiện hoạt động đó là
Hiếm khi, mức độ Không bao giờ chiếm 31,5%, mức độ Thỉnh thoảng chiếm 21,2%,
mức độ Thường xuyên chiếm 12,1% và 2,4% sinh viên tham gia khảo sát lựa chọn
mức độ Rất thường xuyên.
36

Trong quan điểm về Tôi có thái độ lễ phép, tôn trọng thầy cô các phòng ban khi
cần gặp trực tiếp và làm việc với họ, có 53,3% sinh viên tham gia khảo sát cho rằng
mức độ thực hiện là Rất thường xuyên, chiếm tỷ lệ cao nhất, tiếp theo là mức độ
Thường xuyên chiếm 37,0%, mức độ Thỉnh thoảng chiếm 7,3%, mức độ Hiếm khi và
Không bao giờ chiếm tỷ lệ bằng nhau là 1,2%.

Với quan điểm về thói quen Tôi hay chửi thề, nói tục với bạn bè do quen miệng,
không kiểm soát được lời nói, có 36,4% sinh viên tham gia khảo sát bình chọn cho
mức độ Không bao giờ, mức độ Hiếm khi chiếm 24,2%, mức độ Thỉnh thoảng chiếm
19,4%, mức độ Thường xuyên chiếm 15,8% và mức độ Rất thường xuyên chiếm 4,2%.

Thông qua số liệu khảo sát, nhóm nghiên cứu nhận thấy, nhóm sinh viên tham
gia khảo sát vẫn có các biểu hiện, hành động thể hiện sự lệch chuẩn trong môi trường
học tập, về văn hóa ứng xử. Tuy nhiên, những hành động đó gần như được các bạn
sinh viên tham gia khảo sát cho là thuộc về thói quen giao tiếp ứng xử hàng ngày nên
không để ý.

1.2.3. Mức độ thực hiện tác phong trang phục trong môi trường giáo dục
Biểu đồ 12. Mức độ thực hiện tác phong của sinh viên tham gia khảo sát

100%
9,1
18,8
80% 31,5 12,7
53,9 18,8
60%
27,3
35,2 20,0
40%
37,0 24,2
40,0 20,6
20%
3,6 9,7 13,9 18,2
0% 1,8 3,0
0,6
Mặc những trang Tôi là sinh viên Hay đeo thẻ sinh Chỉ đeo thẻ sinh
phục phù hợp, trang trường ĐH Khoa viên khi vào trường viên khi đi xe buýt
nhã, kín đáo khi đi học Xã hội và để người khác biết để nhận trợ giá, còn
học Nhân văn nên thích tôi là ai khi vào trường thì
đa dạng trong trang tôi không đeo
phục đi học
Không bao giờ Hiếm khi Thỉnh thoảng Thường xuyên Rất thường xuyên

(Nguồn: Số liệu khảo sát của nhóm nghiên cứu năm 2019)

Quan điểm về việc Tôi mặc những trang phục phù hợp, trang nhã, kín đáo khi
đi học được sự đồng thuận cao từ phía các bạn sinh viên tham gia khảo sát, có 53,9%
các bạn sinh viên lựa chọn mức độ Rất thường xuyên, 40,0% lựa chọn mức độ Thường
37

xuyên, mức độ Thỉnh thoảng chiếm 3,6%, mức độ Hiếm khi chiếm 1,8% và mức độ
Không bao giờ chiếm 0,6%.

Với quan điểm Tôi là sinh viên trường ĐH Khoa học Xã hội và Nhân văn nên
thích đa dạng trong trang phục đi học, mức độ Thường xuyên chiếm tỷ lệ cao nhất là
35,2%, mức độ Rất thường xuyên chiếm 31,5%, mức độ Thỉnh thoảng chiếm 20,6%,
mức độ Hiếm khi và Không bao giờ chiếm lần lượt là 9,7% và 3,0%. Số liệu khảo sát
trên cho thấy, các bạn sinh viên tham gia khảo sát có phần thích mặc trang phục tự do
đến trường hơn là đồng phục của trường, của khoa như áo trường, trang phục thể dục,
áo khoa.

Về quan điểm Tôi hay đeo thẻ sinh viên khi vào trường để người khác biết tôi là
ai, mức độ Hiếm khi chiếm tỷ lệ cao nhất là 37,0%, tới đó là mức độ Thỉnh thoảng
chiếm 27,3%, mức độ Không bao giờ chiếm 13,9%, mức độ Thường xuyên chiếm
12,7% và mức độ Rất thường xuyên chiếm 9,1%. Từ số liệu khảo sát này, nhóm
nghiên cứu nhận thấy, các bạn sinh viên tham gia khảo sát chưa thực hiện tốt việc đeo
thẻ khi đến trường theo như điều lệ được quy định trong quy chế nhà trường.

Nhóm nghiên cứu thực hiện so sánh tương quan giữa quan điểm này với các
mẫu tham gia khảo sát là sinh viên thuộc các khóa học để tìm ra sự khác biệt giữa các
mẫu, thể hiện ở biểu đồ 13.

Biểu đồ 13. Mối tương quan giữa vấn đề đeo thẻ sinh viên khi vào trường với yếu tố
năm học của sinh viên

Mức độ thực hiện việc đeo thẻ sinh viên khi vào trường giữa sinh
viên các năm
3.5
3,04
3
2,46
2.5 2,3
Mứ c độ thự c hiện việc đeo thẻ
2 sinh viên khi vào trườ ng giữ a
sinh viên các năm
1.5

0.5

0
Sinh viên năm nhất Sinh viên năm hai Sinh viên năm ba
trở lên
38

(Nguồn: Số liệu khảo sát của nhóm nghiên cứu năm 2019)

Biểu đồ 13 thể hiện được mức độ trung bình thực hiện việc đeo thẻ sinh viên
khi vào trường nhằm mục đích tạo sự nhận diện cho bản thân có xu hướng giảm dần từ
nhóm sinh viên năm nhất tham gia khảo sát (3,04 thuộc mức độ Thỉnh thoảng) đến
nhóm sinh viên tham gia khảo sát từ năm ba trở lên (2,3 thuộc mức độ Hiếm khi).
Nhóm nghiên cứu có sự phán đoán rằng, việc thực hiện nội quy đeo thẻ khi ra vào
trường không được sinh viên duy trì qua nhiều năm học tại trường.

Quan điểm về Tôi chỉ đeo thẻ sinh viên khi đi xe buýt để nhận trợ giá, còn khi
vào trường thì tôi không đeo, có 24,2% sinh viên tham gia khảo sát lựa chọn mức độ
Hiếm khi, chiếm tỷ lệ cao nhất, tiếp theo là mức độ Thỉnh thoảng chiếm 20,0%, mức
độ Thường xuyên và Rất thường xuyên chiếm tỷ lệ bằng nhau là 18,8%, mức độ Không
bao giờ chiếm 18,2%. Nhóm nghiên cứu nhận thấy, mức độ thực hiện đối với hoạt
động này của các bạn sinh viên tham gia khảo sát khá cao, chứng tỏ, hiện tại, các bạn
sinh viên đang sử dụng thẻ sinh viên với nhu cầu để hưởng trợ giá sinh viên khi đi xe
buýt chứ không vì để nhận diện khi vào trường, phù hợp về mặt logic với quan điểm
về việc đeo thẻ ở trên.

1.2.4. Mức độ thực hiện công tác bảo quản cơ sở vật chất nhà trường
Biểu đồ 14. Mức độ thực hiện bảo quản cơ sở vật chất nhà trường của sinh viên tham
gia khảo sát

100% 4,2 1,8 1,2 1,8 6,7 1,2 1,2


6,1 7,3 1,2 7,9 6,7 3,6
90% 11,5
11,5 21,2 10,9
80% 18,8 30,9
70% 18,2 32,1 19,4
61,8
60% 75,2 23,6
50%
40% 86,1 27,9
70,9 21,2
30% 61,2 61,2 64,8
20% 27,9
18,8 30,3 27,3
10% 3,6 6,1
0% 1,2 2,4
1,2 1,8
Không Không Thích Bỏ rác Dọn dẹp Không Sử dụng Sử dụng Rửa
tắt máy tắt đèn viết, vẽ đúng nơi chất thải phân điện nước chai/
chiếu quạt lên bàn, quy định loại rác ngoài thoải bình
ghế giờ học mái bằng
nước
uống

Không bao giờ Hiếm khi Thỉnh thoảng


Thường xuyên Rất thường xuyên
(Nguồn: Số liệu khảo sát của nhóm nghiên cứu năm 2019)
39

Cơ sở vật chất nhà trường là một trong những yếu tố tác động tới chất lượng
của nhà trường, vì thế, công tác bảo quản cơ sở vật chất được xem là một trong những
quy định quan trọng đối với sinh viên nói riêng. Nhóm nghiên cứu tiến hành khảo sát
mức độ thực hiện hoạt động bảo quản tài sản của nhóm sinh viên tham gia khảo sát,
thể hiện qua bảng 14.

Mức độ thực hiện của việc Tôi không tắt máy chiếu sau khi nhóm tôi thuyết
trình xong vì nghĩ cô lao công dọn phòng sẽ tắt, có 70,9% sinh viên tham gia khảo sát
lựa chọn mức độ thực hiện là Không bao giờ, mức độ Hiếm khi chiếm 18,8%, mức độ
Thỉnh thoảng chiếm 6,1%, mức độ Thường xuyên chiếm 4,2% và không có sinh viên
tham gia khảo sát nào chọn mức độ Rất thường xuyên.

Với hoạt động thực hiện việc Tôi không tắt đèn quạt khi rời khỏi lớp vì nghĩ ban
cán sự lớp sẽ làm, có 61,2% sinh viên tham gia khảo sát cho biết mình Không bao giờ
thực hiện việc đó, mức độ Hiếm khi chiếm 18,2%, mức độ Thỉnh thoảng chiếm 11,5%,
mức độ Thường xuyên chiếm 7,3% và mức độ Rất thường xuyên chiếm 1,8%.

Mức độ thực hiện về việc Tôi thích viết, vẽ lên bàn để ghi lại lời giảng viên nói,
ghi công thức để học bài hay đơn giản để có việc làm khi buồn ngủ, có 86,1% sinh
viên tham gia khảo sát lựa chọn Không bao giờ, mức độ Hiếm khi chiếm 11,5%, mức
độ Thỉnh thoảng và Thường xuyên chiếm 1,2%, không có sinh viên nào lựa chọn mức
độ Rất thường xuyên.

Hoạt động thực hiện Tôi tuân thủ nội quy, bỏ rác đúng nơi quy định, có 75,2%
sinh viên tham gia khảo sát cho biết mức độ thực hiện Rất thường xuyên, mức độ
Thường xuyên chiếm 18,8%, mức độ Thỉnh thoảng chiếm 3,6%, mức độ Hiếm khi và
Không bao giờ chiếm tỷ lệ bằng nhau là 1,2%.

Về việc thực hiện Tôi dọn dẹp chất thải (chai nước, hộp đồ ăn, khăn giấy, túi
nilong) sau khi hết giờ học, có 61,8% sinh viên tham gia khảo sát cho biết mức độ thực
hiện là Rất thường xuyên, mức độ Thường xuyên chiếm 27,9%, mức độ Thỉnh thoảng
chiếm 6,1%, mức độ Hiếm khi chiếm 2,4% và mức độ Không bao giờ chiếm 1,8% sinh
viên tham gia khảo sát.
40

Nhận định về việc thực hiện Tôi không có thói quen phân loại rác tại các nơi có
chỉ dẫn vì tốn thời gian của tôi, có 32,1% sinh viên tham gia khảo sát lựa chọn mức độ
Thỉnh thoảng, mức độ Không bao giờ chiếm 30,3%, mức độ Hiếm khi chiếm 27,9%,
mức độ Thường xuyên chiếm 7,9% và mức độ Rất thường xuyên chiếm 1,8%.

Về mức độ thực hiện việc Tôi hay sử dụng điện trong lớp dù đã tan học để sạc
pin điện thoại, laptop tranh thủ làm bài tập, có 27,3% sinh viên tham gia khảo sát cho
biết mức độ thực hiện là Không bao giờ, mức độ Thỉnh thoảng chiếm 23,6%, mức độ
Hiếm khi và mức độ Thường xuyên chiếm tỷ lệ bằng nhau là 21,2%, mức độ Rất
thường xuyên chiếm 6,7% sinh viên tham gia khảo sát.

Mức độ thực hiện của nhận định Tôi thích sử dụng nước thoải mái vì tiền nước
là nhà trường chi trả, không phải tôi, mức độ Không bao giờ chiếm 61,2% sinh viên
tham gia khảo sát, mức độ Hiếm khi chiếm 30,9%, mức độ Thỉnh thoảng chiếm 6,7%,
mức độ Thường xuyên chiếm 1,2% và không có sinh viên tham gia khảo sát nào lựa
chọn mức độ Rất thường xuyên.

Về việc thực hiện Tôi hay rửa chai/bình nước ở các vòi nước uống vì thấy nó
tiện lợi và không phải đi xa, có 64,8% sinh viên tham gia khảo sát cho biết mức độ
thực hiện là Không bao giờ, mức độ Hiếm khi chiếm 19,4%, mức độ Thỉnh thoảng
chiếm 10,9%, mức độ Thường xuyên chiếm 3,6% và mức độ Rất thường xuyên chiếm
1,2% sinh viên tham gia khảo sát.

Thông qua các số liệu thu được từ cuộc khảo sát, nhóm nghiên cứu nhận thấy,
các bạn sinh viên tham gia khảo sát có sự chuẩn mực nhất định trong việc thực hiện
quy chế nhà trường của trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn – Đại học Quốc
gia Thành phố Hồ Chí Minh. Tuy nhiên, các bạn sinh viên trong nhóm này vẫn còn thể
hiện tính lệch chuẩn trong các hành vi thực hiện quy chế ở môi trường đại học đối với
các hoạt động diễn ra hằng ngày, hình thành thói quen trong lối sống của các bạn, dẫn
đến việc các bạn không nhận thấy được, mình đang thể hiện hành vi lệch chuẩn.
41

CHƯƠNG 2

CÁC YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN HÀNH VI LỆCH CHUẨN CỦA SINH VIÊN
TRONG VIỆC THỰC HIỆN QUY CHẾ NHÀ TRƯỜNG

2.1. Quan niệm về thái độ và hành vi của sinh viên tham gia khảo sát

Quan điểm về tính liên tục và xuyên suốt trong thực hiện quy chế nhà trường
của sinh viên

Đối với quy chế nhà trường, tính liên tục và xuyên suốt là một trong những yếu
tố quyết định, nhằm đảm bảo quy chế được thực hiện và duy trì qua nhiều thế hệ, hình
thành tính chuẩn mực trong cộng đồng sinh viên. Tuy nhiên, tính liên tục và xuyên
suốt trong việc thực hiện quy chế nhà trường của sinh viên trường Đại học Khoa học
Xã hội và Nhân văn – Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh được nhóm sinh viên
tham gia khảo sát nhận xét là còn chưa được thực hiện tốt.

Biểu đồ 15. Tính liên tục và xuyên suốt trong việc thực hiện quy chế nhà trường của
sinh viên tham gia khảo sát
42

Tính liên tục và xuyên suốt trong việc thực hiện quy chế nhà
trường của sinh viên


41,8 Không
58,2

(Nguồn: Số liệu khảo sát của nhóm nghiên cứu năm 2019)

Biểu đồ 15 thể hiện được, tỷ lệ sinh viên tham gia khảo sát cho rằng tính liên
tục và xuyên suốt trong thực hiện quy chế nhà trường đang được sinh viên thực hiện
chiếm 58,2%, tỷ lệ sinh viên tham gia khảo sát cho rằng tính liên tục và xuyên suốt đó
chưa được sinh viên thực hiện chiếm 41,8%. Điều đó chứng tỏ được, mức độ thực hiện
quy chế nhà trường của sinh viên vẫn chưa tốt do lựa chọn Không với tính chất liên tục
và xuyên suốt trong việc thực hiện quy chế nhà trường còn chiếm tỷ lệ khá cao.
Biểu đồ 16. Mức độ đồng ý với quan điểm về thực hiện quy chế nhà trường

Mức độ đồng ý với quan điểm: Quy định về thực hiện quy chế nhà
trường nếu không được các bạn sinh viên thực hiện liên tục và
xuyên suốt thì sẽ dẫn đến sự mai một dần qua các thế hệ sinh viên

7,3
3,0 Rất không đồng ý
Không đồng ý
Trung lập
29,7
Đồng ý một phần
25,5 Rất đồng ý

34,5

(Nguồn: Số liệu khảo sát của nhóm nghiên cứu năm 2019)
43

Kết quả khảo sát về mức độ đồng ý của sinh viên tham gia khảo sát với quan
điểm: Quy định về thực hiện quy chế nhà trường nếu không được các bạn sinh viên
thực hiện liên tục và xuyên suốt thì sẽ dẫn đến sự mai một dần qua các thế hệ sinh viên
nhận được sự đồng thuận cao từ phía các bạn sinh viên tham gia khảo sát, phản ảnh sự
mâu thuẫn giữa hành động và suy nghĩ của các bạn sinh viên trong việc thực hiện quy
chế nhà trường, thể hiện qua biểu đồ 16. Các bạn sinh viên tham gia khảo sát có lựa
chọn mức độ Đồng ý một phần chiếm tỷ lệ cao nhất là 34,5% và chiếm 29,7% với mức
độ lựa chọn là Rất đồng ý. Tiếp đó là mức độ đồng ý Trung lập chiếm 25,5%, mức độ
Không đồng ý chiếm 3,0% và Rất không đồng ý chiếm 7,3%. Qua đó có thể thấy, các
bạn sinh viên tham gia khảo sát thừa nhận rằng: khi mà quy chế nhà trường không đảm
bảo tính liên tục và xuyên suốt, các quy chế đó sẽ dần bị mai một, song hai tính chất
quan trọng trên vẫn chưa được thực hiện tốt và thật sự nghiêm túc trong môi trường
đại học hiện nay.

Nhận định về việc thực hiện quy chế nhà trường và văn hóa ứng xử của sinh
viên
Nhóm nghiên cứu cũng tiến hành khảo sát các bạn sinh viên về mức độ đồng ý
đối với một số quan điểm về việc thực hiện quy chế nhà trường của sinh viên, thể hiện
qua biểu đồ 17.

Biểu đồ 17. Mức độ đồng ý với quan điểm về việc thực hiện quy chế nhà trường

100% 4,8
9,7 8,5 12,7 10,3
80% 23,6 16,4
59,4 19,4 44,8
60% 20,0 28,5
30,9
40%
24,8 27,3 22,4 22,4 21,2
20%
21,8 19,4 11,5
4,8 14,5 18,8
0%
1,8
p
tro g
v ớ n đ v iên

lớ
g

b è ườ n

ôi
ờn

ng

it
củ đ ố i i trư

tr
h

vớ
in

i b ến
s
tạ

p
b ả v ới

hợ
h ọ ộ ng

ạn
â

ù
h

ph
đ

t
n
a n o ạt

g
ôn
h

ói
a

kh
c

đi

in
th ả cá

ều
so c h

l
c

gi

đi
í
về
ểm th
t
tấ

ời

g
t
k i sở

ữn
ng

nh
về
tro

e
th


e
ên

kh

Rất không đồng ý Không đồng ý Trung lập


ục
vi


bị
ph
ắt

ng
h

Đồng ý một phần Rất đồng ý


kh

g
sin

g
ôn

ườ
an
g
44

(Nguồn: Số liệu khảo sát của nhóm nghiên cứu năm 2019)

Biểu đồ 17 thể hiện mức độ đồng ý của nhóm sinh viên tham gia khảo sát đối
với các nhận định: Tôi cảm thấy không thoải mái khi phải đeo thẻ sinh viên trong tất
cả các hoạt động tại trường, Tôi thấy không thoải mái khi nhà trường khắt khe về thời
gian đi học đối với sinh viên, Tôi thấy thoải mái khi được mặc trang phục theo sở thích
của bản thân đến trường, Tôi thấy thoải mái khi không bị kiểm soát về lời nói với bạn
bè trong lớp (nói tục, chửi thề), Tôi thấy không thoải mái khi phải thực hiện các quy
định nhà trường vì có những điều không phù hợp với tôi.

Đối với quan điểm về Tôi cảm thấy không thoải mái khi phải đeo thẻ sinh viên
trong tất cả các hoạt động tại trường, có 9,7% các bạn sinh viên khảo sát cho rằng
mình Rất đồng ý với vấn đề này, 23,6% cho biết rằng là chỉ Đồng ý một phần, 20,0% ý
kiến Trung lập với quan điểm, 24,8% các bạn sinh viên tham gia khảo sát lựa chọn
Không đồng ý.

Đối với quan điểm Tôi thấy không thoải mái khi nhà trường khắt khe về thời
gian đi học đối với sinh viên, có 8,5% sinh viên tham gia khảo sát trả lời là Rất đồng ý,
16,4% sinh viên cho rằng Đồng ý một phần, 28,5% sinh viên tỏ thái độ Trung lập,
27,3% sinh viên Không đồng ý và 19,4% sinh viên thì Rất không đồng ý.

Quan điểm về Tôi thấy thoải mái khi được mặc trang phục theo sở thích của
bản thân đến trường, có 59,4% sinh viên bày tỏ Rất đồng ý, 22,4% sinh viên Đồng ý
một phần, 11,5% sinh viên có thái độ Trung lập, 4,8% sinh viên Không đồng ý và
1,8% sinh viên thể hiện ý kiến Rất không đồng ý. Đối với mức độ đồng ý với quan
điểm này cho thấy, các bạn sinh viên đã có các hành vi cũng như luôn có mong muốn
mặc trang phục thoải mái theo chính sở thích của mình khi đến trường.

Bàn luận về quan điểm Tôi thấy thoải mái khi không bị kiểm soát về lời nói với
bạn bè trong lớp (nói tục, chửi thề), có 12,7% sinh viên cho biết là Rất đồng ý, 19,5%
sinh viên Đồng ý một phần, 30,9% giữ thái độ Trung lập với vấn đề, 22,4% bày tỏ sự
Không đồng ý và 14,5% lựa chọn Rất không đồng ý.

Đối với quan điểm Tôi thấy không thoải mái khi phải thực hiện các quy định
nhà trường vì có những điều không phù hợp với tôi, có 4,8% sinh viên cho rằng mình
45

Rất đồng ý, 10,3% sinh viên chỉ Đồng ý một phần, 44,8% sinh viên lựa chọn mức độ
Trung lập, 21,2% sinh viên Không đồng ý và 18,8% sinh viên tỏ thái độ Rất không
đồng ý.

Nhóm nghiên cứu nhận thấy, các bạn sinh viên tham gia khảo sát lựa chọn mức
độ Trung lập đối với các quan điểm trên chiếm tỷ lệ khá cao, chứng tỏ, các bạn sinh
viên tham gia khảo sát còn khá lưỡng lự và mơ hồ về những hành vi thực hiện quy chế
nhà trường trong môi trường đại học.

Biểu đồ 18. Mức độ đồng ý với quan điểm về việc thực hiện văn hóa ứng xử của sinh
viên tham gia khảo sát
100% 6,1 5,5 12,1
80% 34,5 16,4 15,8 10,3
7,3
60% 72,7 61,8 24,2 18,8 15,2
30,3 24,2
40% 32,1
20% 20,6 29,1 21,8 55,2
6,7 21,2 35,8
0% 4,2 1,8 13,3
2,4 0,6
t
kh u á g

iế
là ọ c g hà i h
nh

c ầ ức
n
n g k h kh i n g ìn h
ờn ị ch ô n g đìn

th

đì

ôn m
n
đ
ia
a

tro a
gi

g
i

q
ời g

g
ng

ều n
gư ng

đ i iậ
ườ i tro

kh
i n tro

g i tro ro n m ọ ớn
ĩ v n h h àn nh gặp c ủa

h
ới i

trư i b
đì
á c c, k h uen

g
ảm n g

ia
q

tro ìn h
v
ói

g
ên đ
ưa à th

v i g ia
c

t
l

ch h ị/e v iên
i c v iệ g ửi
đã

ản n g

n

Rất không đồng ý Không đồng ý Trung lập


h
lớ

g
ào m
sẻ ầ u ườ i

, t

Đồng ý một phần Rất đồng ý


, đ i cá y tỏ h ào

t
g
g

n
in

iệc /c
bà c
c
ng n g i v ớ

vớ

gh i a

(Nguồn: Số liệu khảo sát của nhóm nghiên cứu năm 2019)
đ

ối

i n vớ
hỉ ô i h ch ia cú i
ẵn n h ép đ

đ
Tô au
u
ph

Tiến hành khảo sát mức độ đồng ý của sinh viên tham gia khảo sát đối với các
nh
sà đ ộ
lễ

h
n
án
g,

ay
i s hà
n

quan điểm về văn hóa ứng xử trong gia đình và nhà trường của sinh viên hiện nay,
trọ

Tô v ới

gỗ
n

T

y
en



qu

ic
đã
á
Th


i


nh
từ
ay
46

nhóm nghiên cứu nhận thấy hầu hết các bạn sinh viên đảm bảo tính chuẩn mực trong
các hoạt động này, thể hiện qua biểu đồ 18.

Đối với quan điểm về Thái độ tôn trọng, lễ phép đối với người lớn đã là thói
quen của tôi trong gia đình, có 72,7% sinh viên tham gia khảo sát lựa chọn mức độ
Rất đồng ý, 20,6% sinh viên cho rằng mình chỉ Đồng ý một phần, 4,2% sinh viên có
thái độ Trung lập và 2,4% sinh viên Không đồng ý.

Quan điểm về việc Ngay từ nhỏ tôi đã quen với hành động cúi đầu chào, thưa
gửi khi gặp người lớn trong gia đình, có 61,8% sinh viên cho biết mình Rất đồng ý với
quan điểm trên, 29,1% sinh viên tham gia khảo sát Đồng ý một phần, 6,7% sinh viên
lựa chọn mức độ Trung lập, 1,8% sinh viên chọn Không đồng ý và 0,6% sinh viên có
thái độ Rất không đồng ý.

Về quan điểm Tôi sẵn sàng chia sẻ bày tỏ công việc, tình cảm với mọi người
trong gia đình, có 34,5% sinh viên khảo sát có lựa chọn Rất đồng ý, 30,3% sinh viên
cho rằng mình Đồng ý một phần, 21,8% sinh viên có thái độ Trung lập và 13,3% sinh
viên Không đồng ý.

Đối với quan điểm Tôi hay nổi cáu đối với các thành viên trong gia đình khi
không hài lòng, có 6,1% sinh viên thể hiện thái độ Rất đồng ý, 16,4% sinh viên Đồng ý
một phần, 24,2% sinh viên lựa chọn Trung lập, 32,1% sinh viên cho biết rằng mình
Không đồng ý và 21,2% sinh viên tỏ thái độ Rất không đồng ý.

Quan điểm về việc Tôi chỉ gây gỗ, đánh nhau với anh/chị/em trong gia đình khi
bị chọc giận quá mức, có 5,5% sinh viên tham gia khảo sát cho biết mình Rất đồng ý
với việc này, 15,8% sinh viên trả lời Đồng ý một phần, 18,8% các bạn sinh viên tỏ thái
độ Trung lập, 24,2% sinh viên tham gia khảo sát cho rằng mình Không đồng ý và
35,8% trả lời Rất không đồng ý.

Đối với quan điểm về Tôi nghĩ việc chào giảng viên trong trường là điều không
cần thiết, có 12,1% sinh viên tham gia khảo sát cho biết mình Rất đồng ý với quan
điểm này, 10,3% sinh viên chỉ Đồng ý một phần, 7,3% sinh viên có thái độ Trung lập,
15,2% sinh viên cho biết rằng mình Không đồng ý và 55,2% các bạn sinh viên Rất
không đồng ý.
47

Biểu đồ 19. Mức độ đồng ý với quan điểm về việc thực hiện tác phong, văn hóa ứng xử
của sinh viên tham gia khảo sát
(Nguồn: Số liệu khảo sát của nhóm nghiên cứu năm 2019)
100% 2,4 7,9
90% 6,1
10,3 25,5 27,3 7,3 21,8
80% 10,3
70%
49,7 12,1
16,4 20,0
60% 23,0
31,5
50%
40% 29,1 27,9
21,2
30% 69,1 13,9
14,5 51,5 15,8
20% 19,4 14,5
10% 7,3 14,5
9,7 12,7
0% 7,3
Xếp hàng khi Không thích Thường đeo Tôi sẽ đeo Không chào Cúi chào bảo
đi vào thang xếp hàng đi thẻ sinh viên thẻ sinh viên hỏi giảng vệ
máy vào thang dù sinh viên khi bảo vệ viên
máy xung quan nhắc nhở
có đeo hay
không

Rất không đồng ý Không đồng ý Trung lập


Đồng ý một phần Rất đồng ý

Biểu đồ 19 thể hiện mức độ đồng ý của sinh viên tham gia khảo sát đối với
những quan điểm sau: Tôi thường xếp hàng khi đi vào thang máy nếu xung quanh mọi
người đều xếp hàng, Tôi không thích xếp hàng khi đi thang máy vì tốn nhiều thời gian,
Tôi thường đeo thẻ sinh viên khi vào trường dù xung quanh các bạn sinh viên có đeo
hay không, Tôi sẽ đeo thẻ sinh viên khi bảo vệ nhắc nhở, Tôi sẽ không chào hỏi giảng
viên nếu các bạn sinh viên hầu như đều có thái độ thờ ơ khi gặp giảng viên trên sân
trường, trong lớp học, Tôi sẽ cúi chào bảo vệ khi vào cổng trường hoặc bất cứ địa
điểm nào trong trường nếu các bạn sinh viên khác cũng có hành động như vậy.

Quan điểm về Tôi thường xếp hàng khi đi vào thang máy nếu xung quanh mọi
người đều xếp hàng, có 49,7% sinh viên tham gia khảo sát cho biết rằng mình Rất
đồng ý với quan điểm này, 21,2% sinh viên Đồng ý một phần, 14,5% sinh viên tỏ thái
độ Trung lập, sinh viên Không đồng ý và Rất không đồng ý có tỷ lệ lựa chọn bằng
nhau, chiếm 7,3%.

Đối với quan điểm khác về Tôi không thích xếp hàng khi đi thang máy vì tốn
nhiều thời gian, có 2,4% sinh viên tham gia khảo sát Rất đồng ý với quan điểm trên,
6,1% sinh viên thể hiện mức độ là Đồng ý một phần, 10,3% sinh viên đứng ở mức độ
Trung lập đối với quan điểm, 12,1% các bạn sinh viên Không đồng ý và 69,1% sinh
viên có thái độ Rất không đồng ý.
48

Trong quan điểm về Tôi thường đeo thẻ sinh viên khi vào trường dù xung quanh
các bạn sinh viên có đeo hay không, có 25,5% các bạn sinh viên tham gia khảo sát cho
rằng mình Rất đồng ý với quan điểm này, 16,4% sinh viên chỉ Đồng ý một phần,
29,1% sinh viên tỏ thái độ Trung lập, chiếm tỷ lệ cao nhất, 19,4% sinh viên bày tỏ ý
kiến Không đồng ý và 9,7% sinh viên cho rằng mình Rất không đồng ý.

Quan điểm về Tôi sẽ đeo thẻ sinh viên khi bảo vệ nhắc nhở, có 27,3% sinh viên
tham gia khảo sát cho rằng mình Rất đồng ý, 31,5% sinh viên trả lời rằng mình Đồng ý
một phần, 13,9% các bạn sinh viên tỏ thái độ Trung lập, 14,5% sinh viên bày tỏ ý kiến
Không đồng ý và 12,7% sinh viên Rất không đồng ý.

Đối với quan điểm Tôi sẽ không chào hỏi giảng viên nếu các bạn sinh viên hầu
như đều có thái độ thờ ơ khi gặp giảng viên trên sân trường, trong lớp học, có 7,9%
sinh viên tham gia khảo sát trả lời rằng Rất đồng ý, 7,3% sinh viên chỉ Đồng ý một
phần, 10,3% sinh viên tham gia khảo sát lựa chọn mức độ Trung lập với quan điểm
này, 23,0% các bạn sinh viên bày tỏ ý kiến Không đồng ý và 51,5% sinh viên Rất
không đồng ý, chiếm tỷ lệ cao nhất.

Quan điểm về Tôi sẽ cúi chào bảo vệ khi vào cổng trường hoặc bất cứ địa điểm
nào trong trường nếu các bạn sinh viên khác cũng có hành động như vậy, có 21,8%
sinh viên tham gia khảo sát trả lời rằng mình Rất đồng ý với quan điểm này, 20,0%
sinh viên trả lời chỉ Đồng ý một phần, 27,9% sinh viên bày tỏ thái độ Trung lập,
15,8% sinh viên cho rằng Không đồng ý và 14,5% sinh viên Rất không đồng ý.

Nhóm nghiên cứu nhận thấy rằng, việc thực hiện quy chế nhà trường của sinh
viên vẫn có chịu sự ảnh hưởng của hiệu ứng đám đông trong môi trường đại học.
49

2.2. Sự giám sát, nhắc nhở của nhà trường

Biểu đồ 20. Sự giám sát, nhắc nhở của nhà trường đối với sinh viên trong thực hiện
quy chế nhà trường

(N
Sinh viên chịu sự giám sát và nhắc nhở khi thực hiện quy chế nhà
gu trường ồn
: Số

27,3 Có
Không

72,7

liệu khảo sát của nhóm nghiên cứu năm 2019)

Trong biểu đồ 20, thấy được là các sinh viên tham gia khảo sát có 120 sinh viên
(72,7%) cho rằng sinh viên trường mình có chịu sự giám sát, nhắc nhở của nhà trường
trong thực hiện quy chế nhà trường. còn lại 45 sinh viên cho là không (27,3%). Có sự
chênh lệch khá cao trong việc có hoặc không chịu sự giám sát của nhà trường.

Mức độ sát sao của công tác kiểm tra, giám sát, nhắc nhở của nhà trường trong
thực hiện quy chế nhà trường được mô tả như sau:

Bảng 2. Tính sát sao của công tác kiểm tra, giám sát, nhắc nhở

Mức độ Tần số Tỷ lệ
Rất ít 11 6,7%
ít 21 12,7%
Bình thường 54 32,7%
Nhiều 28 17,0%
Rất nhiều 7 4,2%
Không đánh giá 44 26,7%
Tổng 165 100%
50

Bảng 2 cho thấy công tác đánh giá về mức độ giám sát, kiểm tra nhắc nhở của
nhà trường đối với sinh viên trong thực hiện quy chế nhà trường. Trong đó mức độ
bình thường chiếm tỷ lệ cao nhất với 32,7%. Thấp nhất là rất nhiều với 4,2%. Trong
tổng số 165 mẫu khảo sát, có 44 sinh viên không đánh giá tính sát sao của công tác
kiểm tra, giám sát, nhắc nhở của nhà trường trong thực hiện quy chế nhà trường tương
đồng với 44 sinh viên cho là không chịu sự giám sát nhắc nhở.

Qua việc khảo sát về các thông tin về quy chế nhà trường, cho thấy đa số các
sinh viên có biết đến các quy định chung của nhà trường và có sự chịu giám sát, nhắc
nhở của nhà trường. Nhưng mức độ quan tâm về các quy định của sinh viên không
cao, đồng thời tính sát sao của công tác kiểm tra, giám sát nhắc nhở của nhà trường
còn hạn chế.  

2.3. Phương tiện tiếp cận

Quy chế về tác phong, văn hóa ứng xử được truyền tải tới sinh viên tham gia
khảo sát thông qua nhiều phương tiện khác nhau, mức độ truyền tải được thể hiện qua
biểu đồ 21.
51

Biểu đồ 21. Các nguồn tiếp cận quy chế về tác phong, văn hóa ứng xử

Nguồn tiếp cận các quy chế về tác phong, văn hóa ứng xử đối với
sinh viên tham gia khảo sát

Sổ tay sinh viên


0,4
Thầy cô chia sẻ trong buổi sinh hoạt công
dân đầu khóa
16,2 24,2 Trang thông tin điện tử của phòng Công tác
sinh viên, website trường
10,8
Bảng nội quy, nhắc nhở tại các cổng trường

14,3 Thầy cô thông báo trong các buổi sinh hoạt


22,2 lớp định kỳ
11,9
Nghe các nội quy từ bạn bè, anh chị khóa
trên
Khác

(Nguồn: Số liệu khảo sát của nhóm nghiên cứu năm 2019)
Thông qua khảo sát, nhóm nghiên cứu nhận thấy, phương tiện tiếp cận các quy
chế về tác phong, văn hóa ứng xử của sinh viên tham gia khảo sát chủ yếu là Sổ tay
sinh viên (chiếm 24,2%) và thông qua buổi sinh hoạt công dân đầu khóa (chiếm
22,2%).

Bên cạnh đó, nhóm nghiên cứu cũng tiến hành khảo sát tìm hiểu nguồn thông
tin truyền tải bộ 10 quy tắc ứng xử của trường mình tới sinh viên tham gia khảo sát,
thể hiện ở biểu đồ 22.
Biểu đồ 22. Các nguồn tiếp cận quy chế về bộ 10 quy tắc ứng xử

Nguồn tiếp cận bộ 10 quy tắc ứng xử của sinh viên tham gia khảo
sát
Sổ tay sinh viên
Thầy cô chia sẻ trong buổi sinh hoạt
công dân đầu khóa
11,9 Trang thông tin điện tử của phòng
28,5 Công tác sinh viên, website trường
11,9
Bảng nội quy, nhắc nhở tại các cổng
trường
17,2 Thầy cô thông báo trong các buổi sinh
19,2 hoạt lớp định kỳ
11,3
Nghe các nội quy từ bạn bè, anh chị
khóa trên
Khác
52

(Nguồn: Số liệu khảo sát của nhóm nghiên cứu năm 2019)
Số liệu khảo sát cho thấy, phương tiện tiếp cận đến bộ 10 quy tắc ứng xử của
các bạn sinh viên tham gia khảo sát chủ yếu vẫn là Sổ tay sinh viên (chiếm 28,5%) và
thông qua buổi sinh hoạt công dân đầu khóa (chiếm 19,2%).

Thông qua số liệu khảo sát, nhóm nghiên cứu đưa ra nhận định rằng, Sổ tay
sinh viên và các buổi sinh hoạt công dân đầu khóa có tầm quan trọng và ảnh hưởng lớn
đối với việc hình thành tính chuẩn mực trong thực hiện nội quy, quy chế nhà trường.
53

KẾT LUẬN

Kết luận

Kết quả nghiên cứu cho thấy phần lớn sinh viên trường Đại học Khoa học Xã
hội và Nhân văn – Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh nhận thức và hành động
tốt các quy tắc ứng xử, nắm rõ các nội quy, quy chế nhà trường. Tuy nhiên mức độ
quan tâm về các quy định của sinh viên không cao, đồng thời tính sát sao của công tác
kiểm tra, giám sát nhắc nhở của nhà trường còn hạn chế nên vẫn còn một số bạn sinh
viên có những lệch lạc nhất định trong quan điểm, hành vi.

Qua tiến hành thu thập thông tin bảng hỏi, nhóm nghiên cứu đã xác định được
yếu tố tác động chính đến hành vi lệch chuẩn trong thực hiện quy chế nhà trường của
sinh viên chính là thói quen sẵn có của sinh viên.

Về học tập, sinh viên có nhận thức tốt về thái độ học tập nhưng thỉnh thoảng lại
có những vi phạm nhỏ.

Về văn hoá ứng xử, nhóm nghiên cứu nhận thấy, nhóm sinh viên tham gia
khảo sát vẫn có các biểu hiện, hành động thể hiện sự lệch chuẩn trong môi trường học
tập, về văn hóa ứng xử. Tuy nhiên, những hành động đó gần như được các bạn sinh
viên tham gia khảo sát cho là thuộc về thói quen giao tiếp ứng xử hàng ngày nên
không để ý dẫn đến việc vi phạm nội quy, quy chế trong thời gian dài mà sinh viên
không biết mình đã vi phạm.

Về phần tác phong trang phục khi đến trường, phần lớn sinh viên đã lựa chọn
trang phục phù hợp khi đến trường, tuy nhiên khi kết hợp với thẻ sinh viên thì lại
không được thực hiện liên tục, các bạn sinh viên cho biết chỉ sử dụng thẻ sinh viên với
nhu cầu để hưởng trợ giá sinh viên khi đi xe buýt chứ không vì để nhận diện khi vào
trường vì thế, sau khi vào trường đã cởi thẻ đeo ra.

Về thực hiện công tác bảo quản cơ sở vật chất nhà trường, sinh viên nhận
thức được và thực hiện tốt công tác bảo quản, sử dụng hiệu quả, tiết kiệm tài sản
chung, tuy nhiên việc phân loại rác và sử dụng điện trong lớp dù đã tan học vẫn còn
nhiều sinh viên chưa thực hiện tốt, còn gây lãng phí.
54

Bên cạnh những yếu tố chính về thói quen này, nguồn tiếp cận, phương tiện tiếp
cận từ nhà trường để phổ biến các nội quy, quy chế cũng là yếu tố quan trọng trong
việc hỗ trợ sinh viên tuân thủ nội quy, quy chế nhà trường. Thông qua khảo sát, nhóm
nghiên cứu nhận thấy, phương tiện tiếp cận các quy chế về tác phong, văn hóa ứng xử
của sinh viên tham gia khảo sát chủ yếu là Sổ tay sinh viên và thông qua buổi sinh
hoạt công dân đầu khóa. Điều này nhóm nghiên cứu đưa ra nhận định rằng sổ tay sinh
viên và các buổi sinh hoạt công dân đầu khóa có tầm quan trọng và ảnh hưởng lớn đối
với việc hình thành tính chuẩn mực trong thực hiện nội quy, quy chế nhà trường.

Kiến nghị

Thông qua thu thập thông tin bảng hỏi, các bạn cũng bày tỏ mong muốn,
nguyện vọng nhà trường sẽ có tổ kiểm tra, giám sát thường xuyên các hoạt động tuân
thủ nội quy, quy chế nhà trường cũng như kiến nghị nhà trường cho phép sinh viên
được tham gia vào tổ công tác này.

Bên cạnh đó, nhà trường gửi thông báo chung đến toàn thể sinh viên thông qua
hệ thống email trường cũng là một kiến nghị giúp thông tin rộng rãi hơn, trực tiếp hơn
từ nhà trường đến sinh viên.
55

Tài liệu tham khảo

1. Mai Thị Ngọc Bích. (2017). Sự lệch chuẩn đạo đức của sinh viên Đại học Thái
Nguyên hiện nay. Hà Nội: Học viện Chính trị Quốc gia Hà Nội.

2. Bùi Thế Cường. (2006). Các lý thuyết về hành động xã hội. Tạp chí Nghiên cứu
khoa học.

3. Phùng Thị Thùy Dương. (2016). Thích ứng tâm lý của sinh viên năm thứ nhất
với nội quy của trường Cao đẳng Cảnh sát nhân dân 1. Hà Nội: Đại học Quốc
gia Hà Nội.

4. Vũ Dụng. (n.d.). Từ điển Tâm lý học.

5. Nguyễn Thị Thu Hà. (2017). Thực trạng giáo dục nội quy nề nếp học tập cho
sinh viên trường Đại học Sư phạm, Đại học Huế. Tạp chí Giáo dục.

6. Nguyễn Ánh Hồng. (2002). Phân tích về mặt tâm lý học lối sống của sinh viên
Thành phố Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay. TP. HCM: Luận án Tiến sĩ.

7. Nguyễn Duy Hiệp. (2016). Hành vi lệch chuẩn trong học tập của sinh viên hiện
nay. NXB ĐH KHXH & NV - ĐHQG Hà Nội.

8. Lê Ngọc Hùng. (n.d.). Lịch sử và lý thuyết xã hội học. Nhà xuất bản Đại học
Quốc gia Hà Nội.

9. Tạ Thị Huyền. (2018). Thái độ đối với hoạt động thực tập tại doanh nghiệp của
sinh viên trường Cao đẳng Công Nghiệp Bắc Ninh. Luận văn - Học viện khoa
học xã hội, Viện hàn lâm KHXH VN.

10. Đỗ Thị Như Huỳnh. (2015). Biện pháp quản lí giáo dục nếp sống văn hóa học
đường cho sinh viên trường Cao đẳng Phương Đông Đà Nẵng. Đà Nẵng: Luận
văn - Đại học Đà Nẵng.

11. Lê Thị Ngọc Lan. (2017). Mối quan hệ giữa phong cách giáo dục của cha mẹ và
hành vi lệch chuẩn của trẻ vị thành niên . Tạp chí Giáo dục Hà Nội.

12. Vũ Thị Lan . (2018). Giáo dục lối sống văn hóa cho sinh viên trường đại học
Hồng Đức hiện nay theo quan điểm Hồ Chí Minh - Thực trạng và giải pháp.
Tạp chí khoa học trường Đại học Hồng Đức.

13. Trần Thị Tùng Lâm. (2017). Hiệu quả giáo dục văn hóa học đường cho sinh
viên ở các trường đại học ở Hà Nội hiện nay. Hà Nội: Học viện Báo chí Tuyên
truyền.
56

14. Hàn Văn Lựa. (2018). Văn hóa ứng xử của sinh viên trường Đại học Khoa học
Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay.
Nghiên cứu khoa học sinh viên 2018 - ĐH KHXH&NV ĐHQG TP. HCM.

15. Nguyễn Khánh Ly. (2003). Thái độ của sinh viên trường ĐH Khoa học Xã hội
và Nhân văn với kỷ cương học đường. Báo cáo khoa học - trường ĐH
KHXH&NV - ĐHQG HN.

16. Phòng công tác sinh viên, trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn - Đại
học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh. (2020). Danh sách sinh viên buộc thôi
học và cảnh cáo học vụ học kỳ 2 năm học 2019 - 2020.

17. Trang thông tin tuyển sinh, trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn - Đại
học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh. (2020). Giới thiệu tổng quan về trường.

18. Lê Thị Hoàng Nhung. (2017). Hoạt động nghiên cứu khoa học của sinh viên
trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Thành phố
Hồ Chí Minh. TP. HCM: Báo cáo Nghiên cứu khoa học 2017, Trường Đại học
Khoa học Xã hội và Nhân văn - Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh.

19. Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc. (2018). Toàn văn phát biểu của Thủ
tướng tại Đại hội Sinh viên Việt Nam lần X.

20. Trương Trung Quyên. (2017). Giáo dục văn hóa ứng xử cho sinh viên trường
Đại học Đồng Tháp. Kỷ yếu Hội nghị Sinh viên NCKH năm 2017 lần thứ 2,
trang 164.

21. Trần Thị Thủy, Bùi Hải Yến, Hoàng Văn Tuyên. (2009). Nghiên cứu bạo lực
học đường hiện nay (nghiên cứu tại trường THPT Bãi Cháy thành phố Hạ Long
- Quảng Ninh). Trường THPT Bãi Cháy.

22. Trần Văn Thảo. (2014). Hành vi văn minh học đường ở một số trường đại học ở
TP. HCM. TP. HCM: Luận văn - ĐH Sư phạm TP. HCM.

23. Trần Lê Diệu Tiên. (2016). Văn hóa học đường ở tỉnh Hâu Giang (trường hợp
các trường THPT. TP Vị Thanh). Trà Vinh: Luận văn ĐH Trà Vinh.

24. Phan Bảo Ngọc Trinh. (2017). Những yếu tố tác động đến ý thức chấp hành quy
định về trang phục khi đến lớp của sinh viên trường đại học Đồng Tháp. Kỷ
yếu Hội nghị sinh viên NCKH 2017 lần 2 trang 241.

25. Phạm Hồng Tung. (2007). Nghiên cứu về lối sống: Một số vấn đề về khái niệm
và cách tiếp cận. Tạp chí Khoa học.

26. Nguyễn Văn Viên. (n.d.). Hành vi lệch chuẩn của vị thành niên tại các trường,
trung tâm cai nghiện trực thuộc lực lượng xung phong thành phố Hồ Chí Minh.
57

27. Trương Văn Vỹ. (2011). Tự tử như là một hành vi lệch lạc - Quan điểm của
Emile Durkheim về sai lệch chuẩn mực xã hội. Tạp chí phát triển khoa học và
công nghệ.

28. Lê Thị Xuân. (2007). Thực trạng bạo lực học đường ở học sinh Trung học cơ
sở TP Vũng Tàu tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu. Hội thảo khoa học "Tư vấn tâm lý học
đường trước những tác động của cách mạng 4.0 tại Bà Rịa- Vũng Tàu".

29. Trần Thị Kim Xuyến, Nguyễn Thị Hồng Xoan. (2002). Nhập môn Xã hội học.
Hà Nội: Nhà xuất bản Thống kê.

You might also like