You are on page 1of 106

ĐỀ CƯƠNG MÔN KỸ NĂNG THỰC

HÀNH PHÁP LUẬT

CHUYÊN ĐỀ 1:
ĐẠO ĐỨC TRONG THỰC HÀNH PHÁP LUẬT
PHẦN 1: KHÁI LUẬN ĐẠO ĐỨC NGHỀ NGHIỆP
1. Khái niệm đạo đức
2. Sự cần thiết của đạo đức trong hành nghề
3. Yêu cầu tuân thủ đạo đức nghề nghiệp
4. Quy tắc hóa chuẩn mực đạo đức trong hành nghề.
5. Chủ thể ban hành quy tắc đạo đức trong hành nghề
6. Giám sát tuân thủ đạo đức trong hành nghề.
7. Mối quan hệ giữa đạo đức nghề nghiệp và pháp luật.
8. Giá trị pháp lý của chuẩn mực đạo đức trong hành nghề.
9. Định hướng.
PHẦN 2: MỘT SỐ QUY TẮC ĐẠO ĐỨC NGHỀ NGHIỆP LUẬT
1. Giới hạn phạm vi.
2. Chuẩn mực đạo đức của Luật sư.
3. Chuẩn mực đạo đức của Thẩm phán.

CHUYÊN ĐỀ 2:
KỸ NĂNG NHẬN DIỆN VẤN ĐỀ PHÁP LÝ (CHUNG)
PHẦN 1: TIẾP CẬN, KHAI THÁC THÔNG TIN TỪ KHÁCH HÀNG
1. Nguyên tắc “lấy khách hàng làm trọng”
2. Vấn đề “xung đột lợi ích”
3. Kỹ năng giao tiếp và phỏng vấn khách hàng
PHẦN 2: GHI NHẬN VỤ VIỆC, QUẢN LÝ HỒ SƠ

1
1. Ghi nhận thông tin, viết bản mô tả vụ việc
2. Quản lý hồ sơ

CHUYÊN ĐỀ 3:
KỸ NĂNG PHÂN TÍCH LUẬT VIẾT
PHẦN 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ KỸ NĂNG PHÂN TÍCH LUẬT VIẾT
1.1. Khái niệm, đặc điểm của kỹ năng phân tích luật viết
1.1.1. Khái niệm
1.1.2. Đặc điểm
1.2. Vai trò của kỹ năng phân tích luật viết
1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến kỹ năng phân tích luật viết
1.4. Nội dung kỹ năng phân tích luật viết
1.4.1. Chủ thể phân tích luật viết
1.4.2. Mục đích phân tích luật viết
1.4.3. Các bước phân tích luật viết
PHẦN 2: CÁC YÊU CẦU CỦA KỸ NĂNG PHÂN TÍCH LUẬT VIẾT
2.1. Hiểu biết về pháp luật, lịch sử pháp luật
2.2. Khả năng phân tích, so sánh pháp luật (giữa các luật, chương, mục, quy
phạm pháp luật và giữa luật Việt Nam với nước ngoài)
2.3. Khả năng phát hiện, đánh giá pháp luật
PHẦN 3: PHƯƠNG PHÁP PHÂN TÍCH LUẬT VIẾT
3.1. Các phương pháp sử dụng để phân tích luật viết (phân tích, đánh giá,
so sánh, đối chiếu, tổng hợp, liệt kê, luận giải, bình luận và các phương pháp khác)
3.2. Phân tích về câu chữ, ngữ pháp
3.3. Phân tích ý chí của nhà làm luật
3.4. Khả năng lập luận trong phân tích, áp dụng, giải thích luật
3.4. Đánh giá, lựa chọn, sử dụng luật

CHUYÊN ĐỀ 4:

2
KỸ NĂNG PHÂN TÍCH VÀ BÌNH LUẬN BẢN ÁN
PHẦN 1: KỸ NĂNG PHÂN TÍCH BẢN ÁN
1.1. Ý nghĩa của việc phân tích bản án
1.2. Cách thức phân tích bản án
- Xác định vấn đề pháp lý cần nghiên cứu
- Xác định được quan điểm của các bên liên quan
- Xác định được quan điểm của cơ quan tố tụng trước đó
- Xác định được quan điểm của Tòa án trong bản án được nghiên cứu
PHẦN 2: KỸ NĂNG BÌNH LUẬN BẢN ÁN
2.1. Ý nghĩa của việc bình luận bản án
2.2. Cách thức bình luận bản án
- Đánh giá quan điểm của Tòa án so với văn bản liên quan
- Đánh giá quan điểm của Tòa án so với học thuật liên quan
- Đánh giá quan điểm của Tòa án so kinh nghiệm nước ngoài

CHUYÊN ĐỀ 5:
KỸ NĂNG THU THẬP TÀI LIỆU
PHẦN 1: THU THẬP TÀI LIỆU
1.1. Khái niệm, ý nghĩa của việc thu thập tài liệu
1.1. Các yêu cầu đối với việc thu thập tài liệu
1.2.1. Xác định mục đích của việc thu thập tài liệu
1.2.2. Xác định và phân loại nguồn tài liệu cần thu thập
1.2.3. Tuân thủ các nguyên tắc trong quá trình giao tiếp với người cung cấp
thông tin, tài liệu
1.2.4. Kỹ năng giao tiếp và đặt câu hỏi để thu thập thông tin, tài liệu
1.3. Kỹ năng thu thập các loại tài liệu cụ thể
1.3.1. Thu thập tài liệu trong lĩnh vực hình sự
1.3.2. Thu thập tài liệu trong các vụ việc dân sự
1.3.3. Thu thập tài liệu trong vụ việc hành chính
3
PHẦN 2: QUẢN LÝ VÀ LƯU TRỮ TÀI LIỆU
2.1. Phân loại, lập hồ sơ tài liệu
2.2. Lưu trữ tài liệu

CHUYÊN ĐỀ 6:
KỸ NĂNG NGHIÊN CỨU HỒ SƠ
PHẦN 1: CÁC VẤN ĐỀ CHUNG CỦA KỸ NĂNG NGHIÊN CỨU HỒ SƠ
1.1. Mục tiêu chung của chuyên đề
1.2. Mục tiêu nhận thức chi tiết
PHẦN 2: TÓM TẮT NỘI DUNG CHUYÊN ĐỀ KỸ NĂNG NGHIÊN CỨU HỒ

2.1. Khái niệm và vai trò của nghiên cứu hồ sơ
2.1.1. Khái niệm nghiên cứu hồ sơ
2.1.2. Vai trò của nghiên cứu hồ sơ
2.2. Các yêu cầu của việc nghiên cứu hồ sơ
2.3. Các phương pháp nghiên cứu hồ sơ
2.4. Các bước cơ bản để nghiên cứu hồ sơ
PHẦN 3: CÁC KỸ NĂNG ĐỂ NGHIÊN CỨU HỒ SƠ
3.1. Kỹ năng phân loại, sắp xếp hồ sơ
3.2. Kỹ năng đọc hồ sơ và phát hiện vấn đề
3.3. Kỹ năng ghi chép, tổng hợp kết quả

CHUYÊN ĐỀ 7:
KỸ NĂNG ĐÀM PHÁN, TRANH LUẬN
PHẦN 1: CÁC YẾU TỐ HÌNH THÀNH NÊN KỸ NĂNG
PHẦN 2: CÁC KỸ NĂNG LIÊN QUAN MẬT THIẾT ĐẾN KỸ NĂNG ĐÀM
PHÁN, TRANH LUẬN
2.1. Kỹ năng đọc
2.2. Kỹ năng nghe
4
2.3. Kỹ năng Nói
2.4. Kỹ năng hỏi
PHẦN 3: KỸ NĂNG ĐÀM PHÁN, TRANH LUẬN
3.1. Nguyên tắc
3.1.1. Nguyên tắc đàm phán
3.1.2. Nguyên tắc tranh luận
3.2. Các phẩm chất/ Yêu cầu của một người đàm phán hoặc tranh luận
3.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến đàm phán
3.4. Những sai lầm thường mắc phải trong đàm phán/ tranh luận
PHẦN 4: TIẾN TRÌNH ĐÀM PHÁN/ TRANH LUẬN
4.1. Giai đoạn chuẩn bị
4.1.1. Đàm phán về nội dung gì?
4.1.2. Chuẩn bị thu thập thông tin, tư liệu phục vụ:
4.2. Tiến hành đàm phán/ Tranh luận
4.2.1. Mở đầu cuộc đàm phán / tranh luận ấn tượng.
4.2.2. Kết thúc cuộc đàm phán/ tranh luận
4.2.3. Những rào cản khi đàm phán/ tranh luận
PHẦN 5: MỘT SỐ LƯU Ý ĐỂ VIỆC ÁP DỤNG KỸ NĂNG GIẢNG CÁC MÔN
KỸ NĂNG THÀNH CÔNG

CHUYÊN ĐỀ 8:
KỸ NĂNG VIẾT VÀ TRÌNH BÀY VẤN ĐỀ PHÁP LÝ
PHẦN 1: MỤC TIÊU
PHẦN 2: NỘI DUNG
2.1. Kỹ năng viết vấn đề pháp lý
2.2. Các yêu cầu đối với việc soạn thảo văn bản pháp lý
2.2.1. Hiểu/ Nắm được mục đích của đối tượng và chủ thể soạn thảo
2.2.2. Hiểu rõ đối tượng cần truyền đạt
2.2.3. Thực hiện nghiên cứu
5
2.2.4. Hình thành đề cương bài viết
2.1.5. Bắt tay vào việc viết
2.2.6. Luôn bám sát cấu trúc nội dung bài viết
2.2.7. Bài viết phải mạch lạc, rõ nghĩa
2.2.8. Chỉ sử dụng thuật ngữ pháp lý/ thuật ngữ đặc biệt khi thích hợp
2.2.9. Chỉnh sửa và hiệu đính
2.3. Kỹ năng trình bày vấn đề pháp lý
2.3.1 Khái quát chung về việc trình bày vấn đề pháp lý
2.3.2 Các yếu tố của việc trình bày
2.3.3 Các bước trình bày vấn đề pháp lý

6
ĐỀ CƯƠNG CHI TIẾT
CHUYÊN ĐỀ 1: ĐẠO ĐỨC NGHỀ NGHIỆP TRONG THỰC HÀNH PHÁP
LUẬT
ThS. GVC Trịnh Anh Nguyên ⃰
1. HIỆN TRẠNG MÔN HỌC TẠI MỘT SỐ CƠ SỞ ĐÀO TẠO NGÀNH
LUẬT. VẤN ĐỀ ĐẶT RA. ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP
Hiện trạng: Vấn đề “đạo đức nghề luật” hiện được truyền tải tại các cơ sở đào
tạo ngành luật dưới các hình thức: Là một trong 5 chuyên đề thuộc môn học Kỹ năng
thực hành pháp luật - môn học bắt buộc đối với sinh viên ĐH Luật TP.HCM - hệ chính
quy; là môn bắt buộc đối với hệ đào tạo từ xa của trường ĐH Mở TP.HCM; là môn
học độc lập tự chọn 2 tín chỉ tương đương 30t đối với Khoa Pháp luật Thương mại
quốc tế thuộc trường ĐH Luật Hà Nội, sinh viên chính quy ngành Luật Thương mại
quốc tế…
Vấn đề đặt ra: Chuyên đề này nói riêng và môn học Kỹ năng thực hành pháp
luật nói chung là môn học mang tính kỹ năng nền tảng cho việc vận dụng vào nghề
nghiệp luật nhưng chưa được nhìn nhận về sự cần thiết của việc trang bị những hiểu
biết về vấn đề này cũng như môn học chưa được sắp xếp thống nhất trong chương
trình đào tạo cử nhân luật giữa các cơ sở đào tạo (chưa thống nhất về thời lượng, nội
dung, đối tượng học, tính chất môn học…).
Có rất nhiều đầu công việc dành cho nghề luật. Tuy nhiên, một số đầu công việc
như pháp chế doanh nghiệp, tư vấn viên pháp lý không đồng thời là luật sư… hiện
chưa được quy định là chức danh nghề nghiệp, chưa có quy định về bồi dưỡng tiêu
chuẩn nghiệp vụ và chứng chỉ hành nghề như những công việc khác như luật sư, công
chúng viên, thừa phát lại… Vì vậy việc trang bị nhận thức về đạo đức nghề luật để
sống tốt với nghề, giữ vững lương tâm nghề nghiệp ngay từ khi còn ngồi tại giảng
đường đại học là điều cần thiết vì không phải cử nhân luật nào cũng sẽ trải qua các
khoá nghiệp vụ để hành nghề nên sẽ ít, thậm chí không có cơ hội để được trang bị hiểu
biết về chủ đề này.
Trong khi đó, thực tế đang cho thấy sự thoái hoá, phá sản, vướng vào vòng lao lý
của các tổ chức kinh doanh thương mại trong đó không thể thiếu trách nhiệm pháp lý
và trách nhiệm đạo đức của đội ngũ pháp chế doanh nghiệp - người gác cổng cho sự an
toàn pháp lý của doanh nghiệp trong quá trình kinh doanh là một ví dụ. Thay vì nói
“không”, các cán bộ, chuyên viên pháp chế DN lại nhắm mắt làm ngơ hoặc tiếp tay
cho những hành vi pháp lý sai trái trong kinh doanh, vi phạm pháp luật hành chính,

7
dân sự, thương mại, thuế…, không thực hiện những gì pháp luật yêu cầu hoặc làm
những gì pháp luật không cho phép gây hậu quả nghiêm trọng đối với yêu cầu ổn định
để phát triển bền vững của nền kinh tế quốc gia, gây mất niềm tin sâu sắc đối với nhà
đầu tư cá nhân và tổ chức trong nước cũng như nước ngoài.
Đề xuất giải pháp:
Thứ nhất, Bộ Giáo dục và Đào tạo; Bộ Tư Pháp cần có quy định thống nhất về
những môn học trang bị kỹ năng, đạo đức nghề luật trong khung chương trình đào tạo
đối với bậc cử nhân luật cũng như đào tạo bồi dưỡng các chức danh nghề nghiệp luật.
Thời lượng, nội dung của môn học và của các chuyên đề cũng cần từng bước được
chuẩn hoá;
Thứ hai, cần có quy định thống nhất về đối tượng học:
Hiện nay tại nhiều cơ sở đào tạo luật, trong đó có ĐH Luật TP. HCM chỉ giảng
dạy môn học Kỹ năng thực hành pháp luật, trong đó có chuyên đề Đạo đức trong thực
hành pháp luật - đối với sinh viên hệ chính quy, không áp dụng đối với học viên hệ
vừa làm vừa học, không áp dụng đối với học viên hệ văn bằng 2. Điều này có thể xuất
phát từ lý do cho rằng việc trang bị môn học đối với sinh viên hệ chính quy mới là cần
thiết bởi lẽ đa phần các em học luật để hành nghề luật sau khi tốt nghiệp. Trong khi đó,
học viên hệ văn bằng 2 hoặc hệ vừa học vừa làm nói chung học luật chủ yếu để bổ trợ
cho công việc mà không phải trang bị kiến thức luật để “sống với nghề”. Quan điểm
này, nếu có, theo tác giả, là không thực tế vì chưa có một thống kê khoa học và toàn
cảnh nào về việc học viên hệ vừa làm vừa học, học viên học luật văn bằng 2 ra trường
có hành nghề luật hay không và tỉ lệ % hành nghề luật là bao nhiêu? Pháp luật cũng
không có những quy định cấm về việc này. Một số học viên cho rằng việc không được
trang bị cơ bản về nền tảng kỹ năng hành nghề cũng như nhận thức về nghề khiến anh
chị em cảm nhận bị “phân biệt đối xử” trong đào tạo.
2. HIỆN TRẠNG TRANG BỊ NHẬN THỨC VỀ ĐẠO ĐỨC NGHỀ LUẬT
VÀ ỨNG DỤNG TRONG NGHỀ NGHIỆP. VẤN ĐỀ ĐẶT RA. ĐỀ XUẤT GIẢI
PHÁP
Hiện trạng: Thực tế hiện có 3 nơi đào tạo, trang bị về kiến thức và bồi dưỡng kỹ
năng nghiệp vụ, kỹ năng công việc trong đó có vấn đề nhận thức và vận dụng đạo đức
nghề luật trong hành nghề luật đối với người làm nghề, đó là: Trường đại học, Học
viện Tư pháp và các cơ quan, doanh nghiệp nói chung cũng như các công ty luật, văn
phòng luật sư, văn phòng thừa phát lại, văn phòng công chứng…là những nơi “đầu
quân” của người hành nghề luật.
Vấn đề đặt ra: Việc trang bị kỹ năng kiến thức, nhận thức và kỹ năng cho người
8
hành nghề luật, trong đó bao gồm cả việc trang bị về đạo đức nghề luật chưa có sự
phân tầng hợp lý theo đối tượng và mục tiêu nghề nghiệp nên việc chồng chéo về nội
dung đào tạo giữa cơ sở đào tạo cử nhân luật và trường đào tạo bồi dưỡng nghiệp vụ là
một nguy cơ; hoặc có sự “lạm dụng” trong việc trang bị kỹ năng hay không đối với
bậc cử nhân luật khi có sự “lấn sâu” về kỹ năng đào tạo các chức danh tư pháp và chức
danh nghề nghiệp luật? Bên cạnh đó cũng có thể xảy ra hiện tượng “đổ trách nhiệm”
trong đào tạo giữa cơ sở đào tạo bồi dưỡng nghiệp vụ, cơ sở đào tạo bậc đại học với
người sử dụng nhân sự ngành luật, tạo ra những dư luận không tốt về chất lượng đào
tạo và bồi dưỡng đối với các cử nhân luật nói chung và các chức danh nghề luật nói
riêng.
Đề xuất giải pháp: Cần có khảo sát về nội dung giảng dạy thực tiễn từ các giảng
viên, báo cáo viên tại các cơ sở đào tạo cử nhân luật và cơ sở đào tạo chức danh tư
pháp cũng như chức danh nghề luật; các nhà quản lý doanh nghiệp - là những người
trực tiếp tham gia vào hoạt động trang bị kỹ năng và nhận thức nghề nghiệp từ khi
người làm nghề tương lai còn ngồi tại giảng đường cho đến sau khi tốt nghiệp và đi
làm việc;
Cần tiến hành rà soát những quy định, yêu cầu về nội dung đào tạo kỹ năng, nhận
thức và thái độ nghề nghiệp, giữ gìn và tôn vinh giá trị nghề nghiệp đối với các cơ sở
đào tạo, các cấp đào tạo
Trên cơ sở đó, các giảng viên, báo cáo viên cần có sự trao đổi để nhận thức và
xác định “ranh giới” trong đào tạo nhằm khắc phục tối đa những thực trạng nêu trên,
đảm bảo cao nhất hiệu quả trong đào tạo.
3. YÊU CẦU VÀ MỤC TIÊU TRANG BỊ NHẬN THỨC VỀ ĐẠO ĐỨC
NGHỀ LUẬT CHO ĐỐI TƯỢNG SINH VIÊN NGÀNH LUẬT
Những vấn đề chung về môn học đang được giảng dạy tại ĐH Luật tp.HCM
Tên môn học: Kỹ năng thực hành pháp luật
Tên chuyên đề: Đạo đức trong thực hành pháp luật
Nội dung toàn môn học:
 Đạo đức nghề luật
 Kỹ năng tiếp xúc khách hàng
 Kỹ năng đàm phán tranh luận
 Kỹ năng phân tích hồ sơ
 Kỹ năng viết bài bào chữa

9
Tính chất của môn học nói chung: Là môn kỹ năng, trang bị hiểu biết và thậm chí
cầm tay chỉ việc cho sinh viên đối với một số đầu công việc trong tương lai sau khi
sinh viên tốt nghiệp vì “kỹ năng” được miêu tả là độ thuần thục trong việc thực hiện
một hoặc một số thao tác trên cơ sở kiến thức và kinh nghiệm nhằm đạt được kết quả
tốt nhất có thể
Với thời lượng hiện tại của môn học kỹ năng, và với đặc điểm đối tượng học là
sinh viên năm thứ 3, chưa tốt nghiệp chính thức đi làm, chưa gắn với đầu công việc cụ
thể của nghề luật, chuẩn bị trải qua kỳ thực tập theo quy định trong chương trình đào
tạo (khoảng 2 tháng thực tập) và với thời lượng môn học như hiện nay, việc trang bị
những kiến thức và kỹ năng của môn học này chỉ nên dừng lại ở những mục tiêu sau:
Thứ nhất, giúp người học hình dung bức tranh tổng thể về những đầu công việc
của nghề luật điều kiện về chuyên môn nghiệp vụ đối với một số đầu công việc; đặt
nền tảng cho sự lựa chọn nghề nghiệp cũng như định hướng bồi dưỡng nghiệp vụ
tương ứng với đầu công việc đã được lựa chọn sau khi tốt nghiệp; những cơ hội nghề
nghiệp cũng như những thách thức trong việc gìn giữ và vinh danh giá trị nghề nghiệp
cho dù người hành nghề lựa chọn bất kỳ đầu công việc nào;
Thứ hai, hướng dẫn sinh viên vận dụng nền tảng kiến thức pháp luật vào công
việc; nhận diện những kỹ năng cần thiết, tinh thần trách nhiệm, thái độ tích cực - trước
hết để phục vụ cho kỳ thực tập theo quy định đối với sinh viên ở năm thứ 4, trước khi
tốt nghiệp. Thực tế, những thao tác mà sinh viên thường xuyên sử dụng trong thời kỳ
thực tập gồm: Rà soát hợp đồng, soạn đơn khởi kiện, tập hợp in ấn photo tài liệu, viết
và gửi email cho khách hàng, xác định vấn đề pháp lý trong vụ việc, trình bày luận cứ
giải quyết vụ việc một cách khoa học và rõ ràng, thực hiện các thủ tục hành chính và tố
tụng đơn giản theo uỷ quyền cho khách hàng theo các hợp đồng dịch vụ, soạn hợp
đồng, khai nhận di sản thừa kế, đối chiếu giấy tờ…Và dẫu là trong thời kỳ thực tập,
sinh viên cũng cần có nhận thức đúng đắn về những giá trị nghề nghiệp để từng bước
tạo dựng sự tận tâm tận lực với nghề, tinh thần trách nhiệm, tự giác, không ngại khó
khăn, biết chia sẻ với đồng nghiệp, bạn bè trong công việc, tôn trọng khách hàng và
hết lòng nhất có thể đối với khách hàng
Thứ ba, vận dụng những nền tảng kiến thức pháp luật và những kỹ năng, trách
nhiệm, thái độ tích cực của người hành nghề luật nói chung nhằm góp phần khẳng
định và tôn vinh giá trị nghề nghiệp là nhằm bảo công lý và lẽ phải, bảo vệ quyền lợi
chính đáng của mọi người, mọi công dân và tổ chức, góp phần tạo nên một xã hội thực
sự tiến bộ, công bằng và văn minh.
4. NỘI DUNG CHÍNH CỦA CHUYÊN ĐỀ “ĐẠO ĐỨC TRONG THỰC
HÀNH PHÁP LUẬT”
10
Trên cơ sở đặt ra mục tiêu trang bị kiến thức như đã nêu trên, chuyên đề sẽ gồm
những nội dung chính sau đây:
4.1. Nghề luật
 Đầu công việc của nghề luật: Đầu công việc, các chức danh nghề luật: Chánh
án, thẩm phán, thư ký toà, kiểm sát viên, chấp hành viên, công chứng viên, thừa
phát lại, luật sư…
 Các vị trí công việc: Lãnh đạo, quản lý cấp trung, chuyên viên, nhân viên…
 Các giai đoạn nghề nghiệp. Đặc điểm: Các giai đoạn nghề nghiệp: 5 năm đầu,
Hạn chế nhận thức và kinh nghiệm về cuộc sống và môi trường làm việc, nhu
cầu cơm áo gạo tiền (bản thân, bè bạn, gia đình, người yêu, xã hội…)/ 5-10
năm: Nhu cầu khẳng định bản thân, sự hối thúc thăng tiến nghề nghiệp, áp lực
gia đình, bắt đầu có những mối quan hệ công việc thuận lợi…/ Từ sau 10 năm:
Đã có thâm niên, rành rẽ công việc, quy trình; các mối quan hệ xã hội phát
triển, phức tạp, đan xen với những áp lực nhất định; có địa vị chức quyền…
Giai đoạn nghề nghiệp nào cũng có những thách thức, tiềm ẩn những động cơ,
động lực, cạm bẫy đối với người hành nghề khiến từ những bạn trẻ đến trung niên
thậm chí những người có thâm niên vài chục năm nghề đều có thể sa ngã, biến chất,
đánh mất chính mình, đánh mất lương tâm nghề nghiệp, đánh mất sự tin tưởng kỳ
vọng mà xã hội dành cho nghề, thậm chí làm tổn thương sâu sắc đối với người thân
trong gia đình mình. Hậu quả là khôn lường, có thể dẫn đến tù tội.
Thực tế đã chứng minh: Người có tiền, có tài sản, không túng thiếu vẫn có thể
phá vỡ những chuẩn mực nghề nghiệp. Người cùng quẫn, túng thiếu càng có nguy cơ
phá vỡ những chuẩn mực nghề nghiệp (cha mẹ người thân đau ốm bệnh tật; sự đòi hỏi
của người thân; gánh nặng gia đình, con cái…) cho dù bản thân nhận thức rất rõ ràng
hậu quả của hành vi vi phạm đạo đức nghề nghiệp.
Như vậy, từ việc hình dung về nghề nghiệp tương lai và các giai đoạn nghề
nghiệp với những đặc điểm trong từng giai đoạn, chứa đựng những cơ hội và thách
thức, lưu ý người hành nghề luật cần nhận thức đúng đắn về giá trị bản thân, giá trị
nghề nghiệp, có chuyên môn vững vàng, bản lĩnh nghề nghiệp, sự khéo léo va quyết
đoán cần thiết để không sa ngã trước những cám dỗ danh lợi, vật chất.
4.2. Nhận diện Đạo đức xã hội/ Đạo đức nghề nghiệp/ Đạo đức nghề luật
Đạo đức nghề luật bao hàm cả vấn đề đạo đức xã hội và đạo đức nghề nghiệp
 Chuẩn mực đạo đức là hệ thống những quy tắc, những yêu cầu, những đòi hỏi
của xã hội đối với mỗi cá nhân hay một nhóm, một tổ chức trong xã hội, trong
11
đó xác định các vấn đề: Đúng, sai; tốt, xấu; nên, không nên trong nhận thức và
ứng xử nhằm đảm bảo sự ổn định, giữ gìn trật tự, kỷ cương của xã hội.
 Chuẩn mực đạo đức tuy bao gồm những tiêu chuẩn thành văn và bất thành văn
nhưng đều có giá trị định hướng, điều chỉnh hành vi của cá nhân và các nhóm
xã hội. Nhờ có chuẩn mực đạo đức mà mỗi cá nhân luôn phải xem xét, suy
nghĩ, kiểm điểm trước khi thực hiện bất kỳ hành vi xã hội nào
 Các quy tắc, yêu cầu của chuẩn mực đạo đức không được ghi chép dưới hình
thức một văn bản hay Bộ luật, Luật riêng về đạo đức.
 Hình thức tồn tại của chuẩn mực đạo đức: Giá trị đạo đức/ Những bài học về
luân thường đạo lý/ Cách ứng xử của con người trong cuộc sống hằng ngày.
 Chuẩn mực đạo đức thường được củng cố, gìn giữ và phát triển qua các hình
thức truyền miệng, thông qua giáo dục từ gia đình, xã hội và được truyền từ đời
này sang đời khác. Chuẩn mực đạo đức đã được hình thành từ rất sớm và đóng
một vai trò rất quan trọng trong việc chi phối hành vi của con người.
Đạo đức nghề luật là môn học nghiên cứu về các chuẩn mực, quy tắc đạo đức đặt
ra cho những cá nhân và tổ chức hành nghề luật, trong đó trọng tâm nghiên cứu là các
tiêu chuẩn đạo đức đối với luật sư và thẩm phán, 2 trong số các đầu công việc của
nghề luật chịu sự tác động và chi phối bởi các giá trị đạo đức xã hội nói chung và đạo
đức nghề luật nói riêng. Môn học cũng nghiên cứu mối quan hệ giữa các chuẩn mực
đạo đức nghề luật với sự biến động không ngừng của các hiện tượng xã hội.
Giúp cho những người hành nghề luật trong tương lai hiểu được một cách tổng
quát về những đầu công việc của nghề luật; Vị trí, vai trò của Quy tắc đạo đức và ứng
xử nghề nghiệp luật, nâng cao ý thức tự giác của người hành nghề luật trong việc chấp
hành các nghĩa vụ đạo đức và ứng xử nghề nghiệp trong hành nghề và trong giao tiếp
xã hội; Giữ gìn và phát huy những giá trị đạo đức truyền thống của nghề luật, góp
phần xây dựng và củng cố sự tin cậy trong xã hội đối với nghề luật ở Việt Nam.
Trong đời sống thường nhật, luật sư tham gia vào các quan hệ xã hội, các quan hệ
nghề nghiệp, trong đó có các quan hệ tố tụng trong các vụ án hình sự, dân sự, hôn nhân
gia đình, thương mại, lao động, hành chính. Trong các quan hệ tố tụng nêu trên lại
diễn ra nhiều loại quan hệ giữa các chủ thể khác như: quan hệ giữa luật sư với các cơ
quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng qua các giai đoạn tố tụng khởi tố, điều
tra, truy tố, xét xử; quan hệ với khách hàng, với những người tham gia tố tụng khác,
quan hệ với đồng nghiệp, ... Với tư cách một chủ thể tham gia trong các quan hệ tố
tụng, luật sư có những quyền và nghĩa vụ tố tụng nhất định theo quy định của pháp
luật. Đó là
12
những quyền và nghĩa vụ pháp lý luật sư phải tuân thủ và nếu vi phạm sẽ phải chịu các
hình thức xử lý theo các chế tài đã được luật hóa.
Tuy nhiên, trong các quan hệ nêu trên, vẫn còn có những trường hợp, tình huống
nảy sinh trong thực tiễn giao tiếp không nằm trong phạm vi điều chỉnh của pháp luật
mà thuộc phạm trù đạo đức và ứng xử nghề nghiệp phải được điều chỉnh bằng các quy
định đạo đức tương ứng. Đó là các quy định về căn cứ, chuẩn mực đã được xác định
trong bộ Quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp luật sư. Các quy định này cũng hàm
chứa các nghĩa vụ đạo đức mang tính chất cấm đoán hay bắt buộc luật sư phải tuân thủ
hoặc các quy phạm mang tính chất khuyến khích luật sư áp dụng trong quá trình hành
nghề cũng như trong lối sống, giao tiếp khi tham gia các quan hệ xã hội khác.
Luật sư, với sứ mệnh cao cả là bảo vệ công lý, phát triển kinh tế, góp phần xây
dựng xã hội công bằng, dân chủ, văn minh; tuân thủ và trung thành với Hiến pháp,
pháp luật; độc lập, ngay thẳng, tôn trọng sự thật và góp phần vào việc phát triển hệ
thống pháp luật, tích cực tham gia các hoạt động công ích.
Lựa chọn một số hồ sơ điển hình về dân sự, lao động, hôn nhân gia đình, thương
mại… để nhận diện, phân tích, so sánh khía cạnh pháp lý và khía cạnh đạo đức cũng
như những khía cạnh khác trong từng vụ việc nhằm đi đến kết luận về những vấn đề
cốt lõi của đạo đức nghề luật gồm:
 Khả năng nhận thức Tốt - Xấu/ Đúng - Sai/ Nên - Không nên đối với hành vi
và đối với các các sự vật, hiện tượng trong xã hội
 Cư xử chuẩn mực giữa người với người;
 Lan toả sự chuẩn mực và
 Đấu tranh, trừng trị những hành vi thiếu chuẩn mực, phi đạo đức trong hành
nghề luật
4.3. Vai trò của việc giữ gìn giá trị đạo đức đối với sự phát triển bền vững trong
nghề luật
Từ việc hướng dẫn sinh viên tranh luận về các chủ đề:
 Tân cử nhân luật trang bị những gì để sẵn sàng theo đuổi đam mê và phụng sự
mục tiêu nghề nghiệp của mình, kiên định tôn vinh giá trị của nghề cho dù nghề
nghiệp nào cũng tồn tại những tiêu cực và chỉ có thể hạn chế mà không thể triệt tiêu
những hiện tượng tiêu cực trong nghề luật nói riêng và trong bất kể lĩnh vực nghề
nghiệp nào nói chung?
 Kiến thức chuyên môn (nền tảng kiến thức pháp lý, tra cứu văn bản, tư
duy pháp lý để dự liệu và phòng ngừa rủi ro)

13
 Hiểu biết xã hội ngoài kiến thức chuyên môn (kiến thức về kinh tế, xã hội,
văn hoá trong nước và quốc tế)
 Kỹ năng vận dụng kiến thức chuyên môn và hiểu biết xã hội trong giải
quyết các tình huống pháp lý (chịu khó thực hành, đúc kết kinh nghiệm
tạo nên độ thuần thục trong công việc)
 Kỹ năng làm việc văn phòng (photo, in, huỷ giấy, đánh máy, viết email,
trao đổi điện thoại…)
 Thái độ, trách nhiệm, lương tâm nghề nghiệp (tận tuỵ, hết lòng, vượt khó
vì công việc)
 Cơ hội nghề nghiệp và cơ hội thu nhập từ nghề luật?
 Mục tiêu công việc, gia đình, bản thân?
Sẽ đi tới kết luận: Với cơ hội nghề nghiệp như hiện nay; cùng với việc chuẩn bị
hành trang cần thiết và một năng lực làm việc thực sự; biết cách đặt ra những nhu cầu
hợp lý trong cuộc sống, phù hợp với từng giai đoạn để không bị quá áp lực với “vấn đề
cơm, áo, gạo tiền”, người hành nghề luật sẽ hạn chế đuợc những rủi ro nghề nghiệp từ
sự tha hoá, biến chất, góp phần gìn giữ và phát huy truyền thống phụng sự xã hội của
nghề luật.
5. CƠ SỞ PHÁP LÝ VỀ ĐẠO ĐỨC NGHỀ LUẬT
Một số chức danh nghề luật đã có quy định đặc thù về chuẩn mực ứng xử và đạo
đức trong nghề (luật sư, thẩm phán, kiểm sát viên, công chứng viên, trọng tài viên…)
Một số chức danh đang trong quá trình làm dự thảo (thừa phát lại, quản tài viên...)
 Luật Luật sư năm 2006 được sửa đổi, bổ sung năm 2012;
 Bộ Quy tắc Đạo đức và Ứng xử nghề nghiệp luật sư năm 2011;
 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017;
 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015
 Quy tắc Đạo đức hành nghề Công chứng năm 2012
 Luật Trọng tài thương mại năm 2010;
 Quy tắc Đạo đức Trọng tài viên sẽ do mỗi Trung tâm ban
hành. Phân tích một số nội dung trích dẫn có liên quan:
 Độc lập, trung thực, tôn trọng sự thật khách quan
 Bảo vệ tốt nhất lợi ích của khách hàng
 Giữ bí mật thông tin
 Bảo vệ danh dự, uy tín của giới luật sư
14
 Xứng đáng với sự tin cậy của xã hội…
(Trích Bộ Quy tắc và Ứng xử nghề nghiệp luật sư năm 2011)
 Có phẩm chất đạo đức tốt, có bản lĩnh chính trị vững vàng; tôn trọng, tận tuỵ
phục vụ nhân dân…
(trích Đ67, Đ76 Luật Tổ chức Toà án nhân dân năm 2014)
 Lụật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân 2014;
 Quy tắc ứng xử của Kiểm sát viên khi thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt
động tư pháp tại phiên tòa, phiên họp của Tòa án năm 2017.
 Lụật Công chứng 2014 sửa đổi bổ sung năm 2018
“Nghiêm cấm công chứng viên, tổ chức hành nghề công chứng tiết lộ thông tin
của khách hàng; nghiêm cấm từ chối công chứng mà không có lý do chính đáng; sách
nhiễu, gây khó khăn cho khách hàng”… (trích Đ7)
Truyền tải những nội dung chính pháp luật quy định về đạo đức nghề luật vào
thực tiễn công việc:
 Độc lập;
 Bảo vệ tốt nhất lợi ích của khách hàng;
 Trung thực;
 Tôn trọng sự thật khách quan;
 Thực hiện trợ giúp pháp lý miễn phí;
 Xứng đáng với sự tin cậy của xã hội;
 Không phân biệt đối xử với khách hàng;
 Công khai, rõ ràng mức thù lao và các khoản phí dịch vụ khách hàng;
 Chủ động tịch cực trong giải quyết sự vụ của khách hàng;
 Không để tiền bạc, lợi ích vật chất khác chi phối làm sai lệch mục đích nghề
nghiệp…
 Luật sư trong mối quan hệ công việc với đồng nghiệp
 Với thân chủ
 Với gia đình thân chủ
 Với người liên quan
 Với cơ quan truyền thông báo chí
 Với cơ quan tố tụng.
15
CHUYÊN ĐỀ 2: KỸ NĂNG NHẬN DIỆN VÂN ĐỀ PHÁP LÝ (CHUNG)
TS. Đinh Thị Chiến ⃰
1. KHÁI NIỆM VẤN ĐỀ PHÁP LÝ
Vấn đề pháp lý là một tình huống hoặc một vấn đề cần được giải quyết bằng
pháp luật1. Các vấn đề pháp lý có thể phát sinh trong nhiều bối cảnh khác nhau như khi
bị buộc tội, bị xử phạt vi phạm hành chính; hoặc khi bắt đầu kinh doanh, khi đàm phán
hợp đồng; hoặc khi khởi kiện. Tùy thuộc vào từng lĩnh vực mà việc xác định vấn đề
pháp lý sẽ có những kỹ năng khác nhau và do các chủ thể khác nhau tiến hành. Trong
bài tham luận này, tác giả chỉ đề cập đến kỹ năng xác định vấn đề pháp lý trong các vụ
việc về dân sự.
Xác định vấn đề pháp lý là công việc bắt buộc phải thực hiện đối với mọi chủ thể
vận dụng pháp luật. Tùy vào từng thời điểm/ giai đoạn tố tụng hoặc đặc thù công việc
mà có các chủ thể khác nhau tham tham gia vào việc thực hiện công việc này: là luật
sư khi tư vấn cho khách hàng, chuẩn bị hồ sơ khởi kiện, nghiên cứu hồ sơ ở giai đoạn
xét xử; là kiểm sát viên khi thực hiện chức năng kiểm sát; là thư ký tòa án, thẩm phán
khi thụ lý và xét xử. Khi thực hiện hoặc giải quyết một vụ việc liên quan đến pháp luật
cần phải xác định ba vấn đề cơ bản: sự kiện pháp lý/quan hệ pháp luật, câu hỏi pháp lý
và luật áp dụng.
Xác định sự kiện pháp lý là bước đầu tiên trong bất kỳ một công việc pháp lý
nào. Sự kiện pháp lý là những sự việc thực tế xảy ra được pháp luật dự liệu điều chỉnh
hành vi xử sự của các bên liên quan đến sự kiện pháp lý đó. Để xác định được sự kiện
nào là sự kiện pháp lý thì thực chất chủ thể xác định đã phải vận dụng pháp luật để xác
định. Tuy nhiên, việc vận dụng pháp luật ở giai đoạn này có thể chỉ cần dừng lại ở
những quy định chung hay nguyên tắc của pháp luật mà một người có những hiểu biết
cơ bản về pháp luật cũng có thể xác định được. Ví dụ: sự kiện một người giật dây
chuyền của một người khác đang lưu thông trên đường thì người bình thường cũng có
thể xác định đây là một sự kiện pháp lý, được luật hình sự quy định là tội phạm. Tuy
nhiên, có những sự kiện pháp lý phức tạp hoặc không thường thức thì một người phải
có sự am hiểu nhất định về pháp luật mới xác định được. Đối với những người thực
hành pháp luật thì việc nhận diện được sự kiện pháp lý là đòi hỏi bắt buộc và điều kiện
tiên quyết để thực hiện các bước tiếp theo của công việc. Việc xác định một sự kiện có
phải là sự kiện pháp lý hay không, sự kiện pháp lý đó thuộc quan hệ pháp luật nào
thuộc lĩnh vực pháp luật nào (hình sự, dân sự, lao động, thương mại…) là những vấn
đề pháp lý cần phải xác định trong bước đầu tiên này. Cũng cần lưu ý rằng, mỗi vụ
việc có thể chứa đựng một hoặc

16
nhiều sự kiện pháp lý mà việc xác định được toàn bộ các sự kiện pháp lý này cho ra
được kết quả là xác định được quan hệ pháp luật tranh chấp và lĩnh vực pháp luật áp
dụng.
Sau khi xác định được quan hệ pháp luật tranh chấp hay lĩnh vực pháp luật áp
dụng thì vấn đề pháp lý tiếp theo cần xác định là câu hỏi pháp lý. Câu hỏi pháp lý là
câu hỏi mà người thực hành pháp luật tự đặt ra trong một vụ việc mà việc trả lời các
câu hỏi pháp lý này sẽ giải quyết được vấn đề hay tranh chấp đặt ra. Việc xác định và
trả lời được tất cả các câu hỏi pháp lý tức là đã giải quyết được vụ việc đó.
Nói tóm lại, vấn đề pháp lý là các vấn đề mà người thực hành pháp luật phải xác
định để giải quyết một vụ việc liên quan đến việc vận dụng pháp luật, từ việc xác định
quan hệ pháp luật tranh chấp, pháp luật áp dụng đến việc xác định các câu hỏi pháp lý
cần phải được giải quyết trong vụ việc đó.
2. Ý NGHĨA CỦA VIỆC NHẬN DIỆN VẤN ĐỀ PHÁP LÝ
Như trên đã nói, xác định vấn đề pháp lý là công việc đầu tiên và được tư duy
trong suốt quá trình xử lý/ giải quyết một vụ việc liên quan đến việc vận dụng pháp
luật. Do vậy, xác định đúng vấn đề pháp lý có ý nghĩa quyết định đến kết quả giải
quyết vụ việc ở mọi giai đoạn. Cụ thể, xác định đúng vấn đề pháp lý có những ý nghĩa
sau đây:
Thứ nhất, xác định đúng vấn đề pháp lý trước hết là xác định đúng vấn đề cần
giải quyết. Xác định đúng vấn đề cần giải quyết cũng giống như việc bác sĩ chẩn đoán
đúng bệnh để đưa ra phác đồ điều trị. Đây là tiền đề đầu tiên để đưa ra hướng giải
quyết tiếp theo như xác định thời hiệu giải quyết, thẩm quyền trình tự, thủ tục giải
quyết, luật áp dụng.
Thứ hai, xác định đúng thời hiệu, thời hạn. Đối với với các vụ việc liên quan đến
tranh chấp hoặc các vụ việc pháp luật có quy định về thời hạn, thời hiệu thì việc xác
định đúng vấn đề pháp lý có ý nghĩa quan trọng để xác định các điều kiện tiên quyết
này. Ví dụ: một quan hệ pháp luật tranh chấp nếu được xác định là quan hệ dân sự thì
thời hiệu khởi kiện thông thường là 03 năm, nhưng nếu là tranh chấp lao động thì thời
hiệu khởi kiện ra tòa án chỉ là 01 năm. Một sự kiện pháp lý được xác định là căn cứ để
người sử dụng lao động thực hiện quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động thì
pháp luật không quy định thời hiệu, nhưng sự kiện pháp lý đó là căn cứ để áp dụng
hình thức kỷ luật sa thải thì pháp luật quy định thời hiệu là 06 tháng hoặc 12 tháng.
Thứ ba, xác định đúng thẩm quyền, trình tự giải quyết. Đối với các vụ việc có
tranh chấp, khi cần phải đưa ra giải quyết bởi các cơ quan nhà nước có thẩm quyền thì
việc xác định đúng vấn đề pháp lý (quan hệ pháp luật tranh chấp) còn có ý nghĩa để
xác định thẩm quyền, trình tự thủ tục giải quyết. Ví dụ: đối với đa số tranh chấp lao
động thì trước khi khởi kiện ra tòa án cần phải qua thủ tục tiền tố tụng (hòa giải hoặc
17
trọng tài), trong khi nếu là tranh chấp dân sự thì không cần qua thủ tục này.

18
Thứ tư, xác định đúng luật áp dụng. Đối với mọi vụ việc thì xác định đúng vấn
đề pháp lý có ý nghĩa quan trọng để xác định luật áp dụng. Cũng cần phải nói rằng để
xác định đúng vấn đề pháp lý tức là cũng phải vận dụng pháp luật, nhưng ở giai đoạn
này hầu hết mới chỉ vận dụng quy định chung hoặc thậm chí nguyên tắc của một
ngành luật. Ví dụ: có một tranh chấp về việc thực hiện hợp đồng nhưng quan hệ hợp
đồng này lại có dấu hiệu tranh chấp giữa hợp đồng lao động do luật lao động điều
chỉnh và hợp đồng gia công vụ do luật dân sự điều chỉnh thì vấn đề pháp lý cần xác
định ở đây là quan hệ này là quan hệ hợp đồng lao động hay hợp đồng gia công. Để
xác định vấn đề pháp lý này thì mới chỉ dựa vào nguyên tắc và quy định chung của
luật lao động và luật dân sự. Về nguyên tắc, mối quan hệ giữa luật dân sự và luật lao
động là quan hệ giữa luật chung và luật riêng, nên nếu chứng minh được quan hệ này
có đủ dấu hiệu của quan hệ hợp đồng lao động thì sẽ ưu tiên áp dụng luật riêng là lao
động. Và để chứng minh quan hệ tranh này là quan hệ lao động điều này thì cũng mới
chỉ áp dụng quy định chung của luật lao động quy định về hợp đồng lao động là gì
(Điều 13 BLLĐ quy định: Hợp đồng lao động là sự thỏa thuận giữa người lao động và
người sử dụng lao động về việc làm có trả công, tiền lương, điều kiện lao động, quyền
và nghĩa vụ của mỗi bên trong quan hệ lao động). Sau khi xác định đây là quan hệ hợp
đồng lao động thì mới xác định luật áp dụng cho quan hệ pháp luật tranh chấp này là
luật lao động.
3. KỸ NĂNG NHẬN DIỆN VẤN ĐỀ PHÁP LÝ
 Thu thập thông tin, chứng cứ
Tùy thuộc vào địa vị của người thực hành pháp luật, loại vụ việc, giai đoạn tố
tụng hoặc yêu cầu của khách hàng/ đương sự mà công việc thu thập, nghiên cứu tài
liệu chứng cứ cũng ở các mức độ khác nhau. Ví dụ: trong một tranh chấp về dân sự thì
có các chủ thể sau thực hiện công việc này: luật sư bảo vệ hoặc đại diện cho các đương
sự; kiểm sát viên được phân công kiểm sát xét xử; thẩm phán được phân công giải
quyết vụ án.
Luật sư ở giai đoạn tiếp nhận vụ việc của khách hàng là nguyên đơn thì việc thu
thập tài liệu chứng cứ mới chỉ dừng lại ở nguồn khách hàng cung cấp và nguồn luật sư
tự tìm hiểu được để xác định quan hệ pháp luật tranh chấp và sự kiện pháp lý tranh
chấp để quyết định tư vấn cho khách hàng về yêu cầu khởi kiện. Nếu ở giai đoạn tòa
án đã thụ lý vụ án thì luật sư sẽ thu thập thêm các tài liệu, chứng cứ do các đương sự
khác cung cấp và chứng cứ do tòa án thu thập để xác định lại vấn đề pháp lý của vụ
việc. Đối với công việc tư vấn thì nguồn tài liệu, chứng cứ chủ yếu là từ khách hàng.

19
Thẩm phán được phân công giải quyết vụ việc, ngay khi tiếp nhận vụ việc cũng
sẽ nghiên cứu sơ bộ hồ sơ (đơn khởi kiện, các tài liệu, chứng cứ nguyên đơn nộp lên)
để xác định quan hệ pháp luật tranh chấp. Từ đó xác định lại thẩm quyền, trình tự thủ
tục

20
giải quyết tranh chấp. Trên cơ sở đó, thẩm phán tiếp tục thu thập chứng cứ theo quy
định của pháp luật (yêu cầu các bên cung cấp, yêu cầu giám định, tự thu thập…).
Kiểm sát viên được phân công kiểm sát xét xử nghiên cứu hồ sơ tòa chuyển
sang để xác định lại các vấn đề pháp lý: quan hệ pháp luật tranh chấp, xác định các câu
hỏi pháp lý của vụ việc và việc vận dụng pháp luật để giải quyết.
Ví dụ: Ngày 3/5/2021, B cho A mượn 100 triệu đồng, lãi xuất 3%/tháng. Hàng
tháng A trả lãi xuất đầy đủ cho đến tháng 5/2022 thì bắt đầu không trả lãi. B muốn yêu
cầu A trả cả lãi và gốc và đến tư vấn luật sư.
Ở bước này, luật sư thu thập thông tin qua lời trình bày của khách hàng được mô
tả trong ví dụ trên. Qua lời trình bày trên thì các thông tin chính của vụ việc được xác
định là: A mượn của B 100 triệu đồng, lãi xuất 3%/tháng, từ tháng 5/2022 đến nay A
không trả lãi. B muốn yêu cầu A trả cả gốc và lãi. Để có thêm cơ sở cho việc xác định
các vấn đề pháp lý, luật sư có thể đặt thêm các câu hỏi sau và yêu cầu khách hàng cung
cấp thêm chứng cứ về việc cho vay tiền (hợp đồng cho vay, giấy vay tiền, thông tin
chuyển khoản, thông tin trả lãi …); các bên có thỏa thuận về thời hạn vay không? Các
bên có thỏa thuận về điều khoản đơn phương chấm dứt hợp đồng không?
 Xác định yêu cầu/ mong muốn của khách hàng/đương sự
Yêu cầu của khách hàng/ đương sự được thể hiện thông qua yêu cầu tư vấn, yêu
cầu khởi kiện của khách hàng hoặc yêu cầu khởi kiện/ yêu cầu phản tố/ yêu cầu độc
lập của các đương sự. Trong cùng một quan hệ pháp luật nhưng yêu cầu, mong muốn
của khách hàng/ đương sự khác nhau sẽ đặt ra các vấn đề pháp lý khác nhau.
Trong ví dụ nêu trên, nếu B chỉ yêu cầu A trả lãi thì vấn đề pháp lý sẽ khác với
việc B yêu cầu A trả cả lãi và gốc.
 Xác định quan hệ pháp luật tranh chấp/tư vấn
Quan hệ pháp luật tranh chấp/tư vấn là quan hệ xã hội mà các bên mong muốn
xác lập hoặc đã xác lập nhưng có tranh chấp cần được tư vấn hoặc giải quyết mà quan
hệ xã hội này lại được điều chỉnh bởi một khuôn khổ pháp luật nhất định. Đây là vấn
đề pháp lý mà tất cả những người thực hành pháp luật đều phải xác định ngay từ giai
đoạn đầu tiên tiếp xúc với vụ việc và có thể được củng cố trong các giai đoạn tố tụng
tiếp theo.
Để xác định quan hệ pháp luật tranh chấp/tư vấn, cần phải xác định được các
vấn đề sau: chủ thể của quan hệ pháp luật (tranh chấp với ai, xác lập quan hệ với ai);
nội dung của quan hệ pháp luật (quyền và nghĩa vụ của các bên trong mối quan hệ
tranh chấp hoặc cần xác lập); sự kiện phát sinh tranh chấp hoặc nhu cầu tư vấn (hành
vi vi phạm hợp đồng, hành vi vi phạm pháp luật, mong muốn của khách hàng, yêu
cầu của
21
đương sự,…); pháp luật điều chỉnh quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ pháp
luật tranh chấp/tư vấn.
Trong ví dụ nêu trên, cần xác định chủ thể A và B là các cá nhân có năng lực
hành vi dân sự đầy đủ; nội dung của mối quan hệ là A vay tiền của B; sự kiện làm phát
sinh tranh chấp là A không trả lãi đúng theo thỏa thuận; B yêu cầu trả đủ gốc và lãi.
Dựa trên các sự kiện pháp lý chính này và quy định của pháp luật thì xác định được
đây là quan hệ cho vay tài sản theo quy định của luật dân sự.
 Xác định luật áp dụng
Luật áp dụng ở đây được hiểu theo nghĩa rộng, tức là tất cả các cơ sở pháp lý mà
dựa vào đó có thể giải quyết được vụ việc. Bao gồm quy định pháp luật điều chỉnh
quan hệ tranh chấp/tư vấn, luật của các bên (hợp đồng, thỏa thuận), quy định của một
bên (nội quy, quy chế của cơ quan, doanh nghiệp)
Trong ví dụ nêu trên thì luật nội dung áp dụng là luật dân sự tại thời điểm xác lập
và thực hiện quan hệ (quy định về hợp đồng vay tài sản, quy định về lãi suất tiền vay,
quy định về đơn phương chấm dứt hợp đồng, quy định về thời hiệu khởi kiện, thỏa
thuận của các bên trong hợp đồng vay tiền). Nếu vụ việc cần khởi kiện ra tòa án thì
luật áp dụng là luật tố tụng tại thời điểm khởi kiện (quy định về điều kiện khởi kiện, về
trình tự, thủ tục, thẩm quyền giải quyết tranh chấp).
 Xác định câu hỏi pháp lý
Trong một vụ việc thường chứa đựng một hoặc vài câu hỏi pháp lý, trong đó có
câu hỏi lớn mang tính quyết định mà đòi hỏi câu trả lời là có hay không (câu hỏi pháp
lý mấu chốt) và những câu hỏi pháp lý phụ nhằm củng cố, bổ sung cho câu hỏi pháp lý
mấu chốt mà việc trả lời được tất cả các câu hỏi pháp lý này sẽ giải quyết được toàn bộ
vụ việc2.
Câu hỏi pháp lý mấu chốt là câu hỏi mang tính quyết định liên quan đến sự tồn
tại hay không quan hệ pháp luật tranh chấp/tư vấn, hoặc yêu cầu/ mong muốn của
khách hàng/đương sự có cơ sở để chấp nhận hay không? Câu hỏi pháp lý mấu chốt
được đặt ra dựa vào sự kiện pháp lý mấu chốt. Sự kiện pháp lý mấu chốt là sự kiện
chính mà việc áp dụng luật vào sự kiện đó sẽ tìm ra giải pháp cho vụ việc đó.
Trong ví dụ nêu trên, sự kiện pháp lý dẫn đến tranh chấp là A vay tiền của B và
không trả lãi từ tháng 5/2022 đến nay. Như vậy sự kiện pháp lý mấu chốt là A vay tiền
của B và không trả lãi theo đúng thỏa thuận. Trong vụ việc này để xác định câu hỏi
pháp lý mấu chốt còn cần dựa trên yêu cầu của B là chỉ yêu cầu A tiếp tục trả lãi hay
yêu cầu trả cả gốc lẫn lãi. Nếu B chỉ yêu cầu A tiếp tục trả lãi thì câu hỏi pháp lý mấu
chốt liên

22
quan đến nghĩa vụ thực hiện hợp đồng (trả tiền lãi). Nếu B yêu cầu A trả cả gốc và lãi
thì câu hỏi mấu chốt liên quan đến cả nghĩa vụ thực hiện hợp đồng và vấn đề thanh lý
hợp đồng vay (trả gốc).
Câu hỏi pháp lý phụ trong ví dụ trên là những câu hỏi liên quan đến lãi suất, điều
kiện thanh lý hợp đồng: lãi suất các bên thỏa thuận 3%/tháng có đúng pháp luật
không? Giả sử trong ví dụ trên các bên thỏa thuận thời hạn của hợp đồng vay là 3 năm
và không thỏa thuận về điều khoản đơn phương chấm dứt hợp đồng thì cần đặt ra câu
hỏi phụ là hành vi vi phạm hợp đồng của A (không trả lãi đúng hạn) có là căn cứ để B
đơn phương chấm dứt hợp đồng không?
Nói tóm lại, kỹ năng xác định vấn đề pháp lý là một kỹ năng rất quan trọng của
nghề luật. Cũng giống như việc bác sĩ chẩn đoán đúng bệnh để có phương án điều trị
tốt nhất, việc xác định đúng vấn đề pháp lý sẽ giúp luật sư có phương án tư vấn hoặc
bảo vệ quyền lợi cho khách hàng một cách tốt nhất và các chủ thể tiến hành tố tụng
đưa ra hướng giải quyết đúng đắn nhất.

23
CHUYÊN ĐỀ 3: KỸ NĂNG PHÂN TÍCH LUẬT VIẾT
TS. Nguyễn Văn Tiến ⃰
TS. Lê Vĩnh Châu ⃰
Phân tích luật viết là quyền của công dân, yêu cầu của người nghiên cứu, hành
nghề, áp dụng luật. Luật viết là luật thành văn, đang có giá trị điều chỉnh các quan hệ
xã hội, hiểu theo nghĩa hẹp và cụ thể. Tùy thuộc vào chủ thể, mục đích phân tích luật
viết, cách tiếp cận luật viết có sự khác nhau về góc độ nhìn nhận, so sánh, đánh giá và
lựa chọn áp dụng. Trong bài viết này, kỹ năng phân tích luật viết đề cập những vấn đề
về nhu cầu phân tích luật viết, yêu cầu của kỹ năng phân tích luật viết, nội dung phân
tích luật viết, sử dụng kết quả phân tích luật viết và là căn cứ để đề xuất lựa chọn kỹ
năng phân tích luật viết là một nội dung của môn học Kỹ năng thực hành pháp luật.
Thứ nhất, nhu cầu phân tích luật viết.
Về cơ bản, nhu cầu phân tích luật viết là nhu cầu của công dân nói chung.
Khoản 1 Điều 2 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì
Nhân dân”. Với quy định trên, việc công dân tìm hiểu, phân tích, sử dụng pháp luật
trong đời sống xã hội là nhu cầu tự thân, gắn liền với sự tồn tại, phát triển và bảo vệ
chính mình.
Tùy thuộc vào nhu cầu, khả năng hiểu biết, góc độ tiếp cận, nhiệm vụ, quyền
hạn và các nhu cầu khác, việc phân tích luật viết của các chủ thể khác nhau là khác
nhau. Biểu hiện của kết quả phân tích luật viết là phạm vi, độ sâu sắc, sự toàn diện về
phân tích luật viết.
Với tư cách công dân, mọi người đều phải được tiếp cận pháp luật. Theo khoản
1 Điều 3 Luật Tiếp cận thông tin năm 2016, “Mọi công dân đều bình đẳng, không bị
phân biệt đối xử trong việc thực hiện quyền tiếp cận thông tin”. Theo điểm a khoản 1
Điều 17 Luật Tiếp cận thông tin năm 2016, các thông tin phải được công khai rộng rãi
có “Văn bản quy phạm pháp luật; văn bản hành chính có giá trị áp dụng chung; điều
ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên, thỏa thuận
quốc tế mà Việt Nam là một bên; thủ tục hành chính, quy trình giải quyết công việc
của cơ quan nhà nước”. Quy định này bảo đảm cho công dân tiếp cận pháp luật để
thực hiện nguyên tắc theo khoản 3 Mục II Nghị quyết số: 48-NQ/TW ngày 24/5/2005
của Bộ Chính trị: “Hoàn thiện cơ chế bảo vệ quyền tự do kinh doanh theo nguyên tắc
công dân được làm tất cả những gì pháp luật không cấm”. Theo đó, việc tiếp cận và
thực hiện pháp luật là quyền của công dân và “Nhà nước bảo đảm và phát huy quyền
làm chủ của Nhân dân;
24
công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân; thực hiện
mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, mọi người có cuộc sống
ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện” (Điều 3 Hiến pháp năm
2013). Với tư cách là người được thụ hưởng, thực hiện, công dân có quyền sử dụng
luật để bảo vệ quyền của mình trong các quan hệ xã hội mà công dân tham gia, xác
lập. Để làm điều đó, công dân có quyền viện dẫn, đề xuất các quy phạm pháp luật làm
căn cứ cho các quyết định hoặc bảo vệ quyền của mình trong các quan hệ pháp luật.
Ở góc độ của người học luật, người học phải nắm được quy định của luật, kỹ
năng phân tích, đánh giá luật viết từ góc độ lý luận, thực tiễn để vận dụng những tri
thức đã được học vào việc nghiên cứu và hành nghề luật sau khi tốt nghiệp. Đây là quá
trình người học tiệm cận với lý luận về pháp luật, quy định của luật, từ hiểu biết thông
thường sang hiểu biết sâu về luật, quy phạm pháp luật cụ thể. Là quá trình người học
tích lũy kiến thức pháp luật và sử dụng sau khi kết thúc quá trình đào tạo.
Ở góc độ nhà lập pháp, kỹ năng phân tích luật viết giúp người lập pháp lựa
chọn phạm vi, đối tượng, nhiệm vụ điều chỉnh của luật. Căn cứ vào nhu cầu của xã
hội, điều kiện kinh tế, khả năng, hiệu quả điều chỉnh của luật, nhà lập pháp quyết định
ban hành hay không ban hành pháp luật. Với góc độ vĩ mô, nhà lập pháp phải đưa ra
những luận cứ (nhu cầu xã hội, cơ sở lý luận, thực trạng, kinh nghiệm về lập pháp Việt
Nam, nước ngoài) để quyết định ban hành luật phù hợp.
Ở góc độ nghiên cứu, người nghiên cứu luật viết xem xét quy định của luật
trong sự so sánh, đánh giá, phát triển, định hướng hoàn thiện pháp luật. Khi nghiên
cứu luật, các quy định cụ thể của luật, người nghiên cứu tiếp cận từ vấn đề lý luận đến
thực tiễn, hiện tại đến quá khứ, hạn chế đến hoàn thiện, kinh nghiệm của Việt Nam,
nước ngoài và đề xuất định hướng phát triển luật. Gắn liền với việc đánh giá thực
trạng, nhu cầu điều chỉnh, người nghiên cứu chỉ ra những hạn chế, căn cứ, nguyên
nhân, đề xuất các giải pháp hoặc khuyến nghị cần thiết để nhà lập pháp hoàn thiện
pháp luật.
Ở góc độ áp dụng pháp luật nói chung, chủ thể có thẩm quyền tiến hành tố tụng
(Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Kiểm sát viên, Điều tra viên, Chấp hành viên) phải
đảm bảo nguyên tắc tuân thủ pháp luật. Đây là nguyên tắc đầu tiên và quan trọng nhất
trong các luật tố tụng. Khi quyết định về nội dung vụ việc, chủ thể có thẩm quyền tiến
hành tố tụng phải bảo đảm tính có căn cứ, hợp pháp trong các quyết định của mình 3.
Chẳng hạn, nhiệm vụ của Hội đồng xét xử là phải “bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con
người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước,
quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân”4. Với tiêu chí trên, khi xét xử, Thẩm
phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật5.
25
Ở góc độ hành nghề luật (Luật sư, Công chứng viên, Thừa phát lại, Đấu giá
viên), những người hành nghề sử dụng luật để phục vụ cho công việc mà mình thực
hiện theo quy định của luật. Trên cơ sở quy định của luật, người hành nghề luật có
trách nhiệm, nghĩa vụ sử dụng pháp luật đúng đắn, phù hợp với ý chí của nhà lập pháp.
Để có kết quả tốt trong việc hành nghề luật, việc hiểu và thực hiện đúng quy định của
luật là yêu cầu bắt buộc.
Tùy thuộc vào từng ngành nghề, luật quy định chức năng, nhiệm vụ quyền hạn
của từng cơ quan, tổ chức, chủ thể. Theo khoản 1 Điều 2 Luật Công chứng năm 2014,
công chứng là việc công chứng viên của một tổ chức hành nghề công chứng chứng
nhận tính xác thực, hợp pháp của hợp đồng, giao dịch dân sự khác bằng văn bản, tính
chính xác, hợp pháp, không trái đạo đức xã hội của bản dịch giấy tờ, văn bản từ tiếng
Việt sang tiếng nước ngoài hoặc từ tiếng nước ngoài sang tiếng Việt mà theo quy định
của pháp luật phải công chứng hoặc cá nhân, tổ chức tự nguyện yêu cầu công chứng.
Về chức năng xã hội của công chứng viên, Điều 3 Luật Công chứng năm 2014 quy
định: “Công chứng viên cung cấp dịch vụ công do Nhà nước ủy nhiệm thực hiện nhằm
bảo đảm an toàn pháp lý cho các bên tham gia hợp đồng, giao dịch; phòng ngừa tranh
chấp; góp phần bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức; ổn định và phát
triển kinh tế - xã hội”. Để thực hiện chức năng này, công chứng viên khi chứng nhận
tính xác thực, hợp pháp của hợp đồng, giao dịch dân sự khác bằng văn bản, tính chính
xác, hợp pháp, không trái đạo đức xã hội của bản dịch giấy tờ, văn bản từ tiếng Việt
sang tiếng nước ngoài hoặc từ tiếng nước ngoài sang tiếng Việt, phải xác định được
nội dung, phạm vi, quyền hạn khi thực hiện việc chứng nhận. Theo Điều 4 Luật Công
chứng năm 2014, khi hành nghề, công chứng viên phải tuân thủ Hiến pháp và pháp
luật; khách quan, trung thực, tuân theo quy tắc đạo đức hành nghề công chứng; chịu
trách nhiệm trước pháp luật và người yêu cầu công chứng về văn bản công chứng và
không được vi phạm các hành vi bị cấm quy định tại Điều 7 Luật Công chứng năm
2014.
Theo Điều 3 Luật Luật sư năm 2006, sửa đổi, bổ sung năm 2012, “Hoạt động
nghề nghiệp của luật sư góp phần bảo vệ công lý, các quyền tự do, dân chủ của công
dân, quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức, phát triển kinh tế - xã hội,
xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa, xã hội dân chủ, công
bằng, văn minh”. Theo Điều 19 Luật Đấu giá năm 2016, đấu giá viên trực tiếp điều
hành cuộc đấu giá; Truất quyền tham dự cuộc đấu giá của người tham gia đấu giá có
hành vi vi
4
Khoản 1 Điều 2 Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014.
5
Điều 9 Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014, Điều 23 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung
năm 2021, Điều 12 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

26
phạm; Dừng cuộc đấu giá khi phát hiện có hành vi thông đồng, dìm giá hoặc gây rối,
mất trật tự tại cuộc đấu giá và thông báo cho tổ chức đấu giá tài sản và các quyền khác.
Theo Quy tắc đạo đức nghề nghiệp Đấu giá viên, ban hành kèm theo Thông tư số
14/2018/TT-BTP ngày 16/10/2018 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp, đấu giá tài sản là một
trong những hình thức bán tài sản phổ biến trong nền kinh tế thị trường nhằm tối đa
hóa giá trị tài sản của người có tài sản đấu giá. Bằng hoạt động nghề nghiệp của mình,
Đấu giá viên góp phần vào việc xử lý tài sản công khai, minh bạch, công bằng, khách
quan, bảo vệ tốt nhất quyền và lợi ích hợp pháp của người có tài sản đấu giá, đặc biệt
là tài sản Nhà nước và tài sản mà theo quy định của pháp luật phải xử lý dưới hình
thức đấu giá.
Theo khoản 1 Điều 2 Nghị định Số: 08/2020/NĐ-CP ngày 8.1.2020 về tổ chức
và hoạt động của Thừa phát lại, “Thừa phát lại là người có đủ tiêu chuẩn được Nhà
nước bổ nhiệm để thực hiện tống đạt, lập vi bằng, xác minh điều kiện thi hành án dân
sự, tổ chức thi hành án dân sự theo quy định của Nghị định này và pháp luật có liên
quan”. Với quy định trên, Thừa phát lại chỉ được hoạt động trong phạm vi do luật định
và phải bảo đảm đúng luật với những việc Thừa phát lại được làm. Điều này đồng
nghĩa với việc Thừa phát lại phải nghiên cứu và thực hiện đúng luật.
Thứ hai, yêu cầu của kỹ năng phân tích luật viết.
Để phân tích luật viết, chủ thể phân tích luật viết phải có kỹ năng. Kỹ năng là
tay nghề chuyên môn6. Theo nghĩa trên, người phân tích luật viết phải là những người
có nhu cầu, sở trường, khả năng trong việc phân tích luật viết. Tùy thuộc vào mục
đích, việc phân tích luật viết có thể là phân tích cơ bản, chung hoặc chuyên sâu.
Ở góc độ chung nhất, kỹ năng phân tích luật viết phụ thuộc vào các yếu tố: hiểu
biết về pháp luật, lịch sử pháp luật; so sánh pháp luật (văn bản quy phạm pháp luật,
các nguồn khác của luật) và xác định được nội dung quy định của luật để sử dụng luật.
Hiểu biết pháp luật là yêu cầu đầu tiên của quá trình phân tích luật viết. Hiểu
biết là sự hiểu rõ về pháp luật7. Tùy thuộc vào từng chủ thể phân tích luật viết, khả
năng hiểu biết pháp luật có sự khác nhau về mức độ, phạm vi. Đối với công dân, theo
Điều 14 Hiến pháp năm 2013, “Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các
quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được
công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật”. Theo quy định
trên, quyền,
nghĩa vụ của công dân do luật định 8. Công dân phải tự mình xác định quyền, nghĩa vụ
của mình và tôn trọng quyền của người khác. Khi thực hiện (tuân thủ) pháp luật9, công
dân phải xác định được phạm vi quyền của mình, nghĩa vụ phải thực hiện để sử dụng

27
pháp luật. Đây là yêu cơ bản đối với công dân khi thực hiện pháp luật.
Đối với các chủ thể hành nghề, áp dụng pháp luật, kỹ năng phân tích luật viết
được thực hiện ở mức độ cao và có tính chuyên sâu. Do tính chất nghề nghiệp, các chủ
thể này được trang bị tri thức pháp luật tương đối toàn vẹn để xác định được quy định
của luật trong việc hành nghề, áp dụng pháp luật.
Đối với các chủ thể nghiên cứu, lập pháp, kỹ năng phân tích luật viết được thực
hiện ở góc độ bao quát nhất. Khi nghiên cứu, nhà nghiên cứu, lập pháp phải xác định
phạm vi điều chỉnh của luật, lịch sử phát triển, đánh giá kết quả hoạt động thực tiễn và
so sánh luật. Nhà nghiên cứu có quyền đề xuất với các chủ thể lập pháp trong việc quy
định về phạm vi, nội dung, đối tượng điều chỉnh của luật.
So sánh luật là hoạt động đối chiếu luật10. Hoạt động so sánh luật được thực
hiện ở nhiều phương diện khác nhau. Thứ nhất, so sánh về quá trình phát triển của luật
(lịch sử). Thứ hai, so sánh giữa các luật khác nhau về cùng một vấn đề quy định trong
luật. Thứ ba, so sánh giữa luật Việt Nam với luật nước ngoài về hình thức, tính chất,
phạm vi quy định. Thông qua so sánh, các quy định của luật được đối chiếu dưới nhiều
góc độ, nhận diện sự tương đồng, khác biệt trong quy định và tính chất đặc thù của
từng quy định. Về cùng một quy định, các luật có thể quy định khác nhau do phạm vi,
đối tượng điều chỉnh của các luật là khác nhau. Với vấn đề này, thông thường, các luật
quy định “Luật khác có liên quan điều chỉnh quan hệ dân sự trong các lĩnh vực cụ thể
không được trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự quy định tại Điều 3
của Bộ luật này”11. Hoạt động so sánh luật giúp cho việc nghiên cứu luật viết bao quát,
toàn diện hơn. Ngược lại, sau khi so sánh, người nghiên cứu nhận diện được phạm vi
điều chỉnh cụ thể của luật, mối quan hệ giữa các quy định và yếu tố cốt lõi của luật
điều chỉnh.
Xác định nội dung luật viết là khẳng định giá trị điều chỉnh của luật. Về nguyên
tắc, luật phản ánh ý chí của nhà lập pháp, định hướng điều chỉnh các quan hệ xã hội.
Để xác định được nội dung điều chỉnh của luật, các quy định của luật phải được soi xét
dưới nhiều góc độ, đối chiếu và rút ra kết luận về các quy định chính yếu điều chỉnh
của luật.

8
Lưu Đức Quang, “Quyền và nghĩa vụ của công dân do hiến pháp và luật quy định” - nhận diện từ lý luận và
tình huống”, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, số 14 (246), 2013.

9
Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh, tlđd, tr. 181.
10
Viện Ngôn ngữ, tlđd, tr. 850.
11
Khoản 2 Điều 4 BLDS năm 2015.

28
Do thuộc tính của luật là phổ biến, điển hình, quy luật12 nên để nắm được các giá trị cụ
thể của luật phải nghiên cứu, đánh giá và rút ra kết luận.
Thứ ba, nội dung phân tích luật viết.
Phân tích luật viết là hoạt động tư duy sáng tạo nhằm xác định giá trị điều chỉnh
của luật. Các mức độ phân tích luật viết (cơ bản, chung hoặc chuyên sâu), các phương
diện phân tích luật viết (luật, quy phạm pháp luật, lịch sử, so sánh) phản ánh nhu cầu
và khả năng của người nghiên cứu. Trong phạm vi hẹp, nội dung phân tích luật viết là
xác định kết cấu của quy phạm pháp luật (giả định, quy định, chế tài)13. Thông thường,
quy định của luật thể hiện bằng điều, khoản, điểm trong hệ thống các mục, chương.
Đây là những quy tắc xử sự điều chỉnh một hoặc một số quan hệ xã hội nhất định. Giả
định là bộ phận của quy phạm pháp luật, xác định chủ thể bị tác động đặt ra trong
những điều kiện, hoàn cảnh nhất định. Chủ thể bị tác động có thể nêu cụ thể hoặc ẩn
trong các quy định khác. Quy định là bộ phận chứa đựng thông tin, xử sự của chủ thể
nêu trong phần giả định. Các thông tin trong bộ phận quy định nêu các xử sự mà các
chủ thể tham gia quan hệ pháp luật lựa chọn, quyết định. Thông thường, đó là các
thông tin về các hành vi mà các chủ thể không được thực hiện, phải thực hiện hoặc lựa
chọn thực hiện. So với các bộ phận khác của quy phạm pháp luật, bộ phận quy định
thể hiện ý chí của nhà lập pháp nhiều nhất với vai trò là công cụ điều chỉnh pháp luật.
Phạm vi quyền, nghĩa vụ công dân khẳng định trong nội hàm của bộ phận quy định.
Xác định chính xác nội dung, phạm vi bộ phận quy định trong quy phạm pháp luật là
xác định chính xác ý chí của nhà lập pháp. Phạm vi dân chủ tiến bộ của luật phản ánh
thông qua nội hàm của quy định.
Chế tài trong quy phạm pháp luật là biện pháp dự kiến để xử lý chủ thể vi phạm
phần quy định. Tùy thuộc vào loại quy phạm, mức độ, tính chất của hành vi vi phạm,
các biện pháp áp dụng quy định tương ứng. Về cơ bản, luật quy định ba loại chế tài
(dân sự, hành chính và hình sự) và phân hóa các chế tài theo mức độ vi phạm.
Trong phạm vi rộng, nội dung phân tích luật viết là xác định các quy định của
luật ở bình diện trong một luật, luật liên quan, hệ thống, lịch sử luật và đối chiếu với
pháp luật các nước có cùng điều kiện, hoàn cảnh hoặc khác. Cách phân tích luật theo
nghĩa này thông thường là để đánh giá và rút ra những hạn chế, tiến tới bổ sung, sửa
đổi luật.
Một nội dung quan trọng trong phân tích luật viết là khả năng tư duy ngữ pháp.
Ngữ pháp là một trong những công cụ quan trọng để phân tích luật viết. So với các văn
bản khác, văn bản quy phạm pháp luật có tính chặt chẽ về hệ thống, ngữ pháp.
Chương, mục, câu, chữ, vị trí của quy phạm, các dấu câu trong văn bản quy phạm
pháp luật
chuyển tải nội hàm điều chỉnh của luật, ý chí của nhà lập pháp. Khi phân tích luật viết,
người phân tích phải thông thạo về tư duy ngữ pháp, xác định được ý chí của nhà lập
pháp trong cách hành văn, sử dụng dấu, kết cấu hệ thống của luật. Trong một số
trường hợp, quy phạm pháp luật quy định theo hướng loại trừ. Những gì là tự nhiên,
mặc định không quy định trong luật. Ngược lại, sự lặp lại quy định là không cần thiết
nên chỉ cần quy định dẫn chiếu. Ý tứ trong luật viết chỉ được hiểu theo một nghĩa
đúng. Người phân tích, nghiên cứu luật viết phải suy đoán nếu ý chí biểu đạt trong luật
không rõ, chữ, từ, cụm từ, thuật ngữ mang tính địa phương, vùng miền hoặc ngôn ngữ
biểu đạt không phải là từ thuần việt, liên từ, từ mới và không có trong từ điển. Với
cách tư duy ngữ pháp theo hướng như trên, người phân tích, nghiên cứu luật viết mới
hiểu đúng ý chí của nhà lập pháp, quy định của luật và thực hiện chính xác pháp luật.
Ngược lại, đối với các luật hình thức, các quy định trong luật này lại mang tính cứng
nhắc, theo hệ thống trình tự, thủ tục nên việc hiểu và thực hiện phải đúng quy định như
luật định.
Khi phân tích luật viết phải sử dụng các phương pháp nghiên cứu phù hợp.
Thông thường, các phương pháp nghiên cứu luật viết có thể là phân tích, đánh giá, so
sánh, quy nạp diễn dịch, lịch sử, tổng hợp, bình luận, thống kê, khảo sát, phỏng vấn và
các phương pháp khác. Đây là những phương pháp phổ biến khi phân tích luật viết tùy
thuộc vào nhu cầu, mục đích và phạm vi nghiên cứu. Các phương pháp nghiên cứu
luật viết có tính phổ biến là phương pháp phân tích, đánh giá, so sánh, lịch sử, tổng
hợp, bình luận.
Phân tích là mổ xẻ tính chất của quy phạm pháp luật14. Khi phân tích luật viết,
người nghiên cứu phải xác định được kết cấu của quy phạm pháp luật, nội dung của
các bộ phận của quy phạm pháp luật. Sau khi xác định được các thành phần, nội dung
của quy phạm pháp luật, người nghiên cứu mới xác định được nội hàm của luật. Đánh
giá luật viết là xác định giá trị của luật viết 15. Giá trị của luật viết chính là nội dung
điều chỉnh của luật. Thông qua đánh giá, người nghiên cứu luật viết khẳng định được
giá trị điều chỉnh của luật và là căn cứ để sử dụng cho các mục đích phù hợp. Bình
luận luật viết là bàn bạc về quy định của luật16. Đây là phương pháp đánh giá pháp luật
thông qua việc nhận xét, làm rõ các khía cạnh của quy định trong quy phạm pháp luật.
Phương pháp này là cơ sở để kết luận quy định của luật, tìm ra giá trị điều chỉnh đích
thực trong luật. Về cơ bản, các quy phạm pháp luật chỉ rõ kết cấu theo hướng liệt kê
nhưng có những quy phạm pháp luật có thể ẩn, một số quy phạm có tính mập mờ, mâu
thuẫn, không rõ nghĩa, cần đến việc bình luận mới xác định được giá trị thật của quy
định. Tổng hợp là phương pháp sử dụng trong phân tích luật viết nhằm xác định giá trị
tổng

14
Viện Ngôn ngữ, tlđd, tr. 753.
15
Viện Ngôn ngữ, tlđd, tr. 275, Viện Khoa học pháp lý, Từ điển luật học, Nxb Tư pháp, 2006, tr. 228.
cộng của quy phạm pháp luật17. Với phương pháp này, người nghiên cứu xác định
được phạm vi điều chỉnh của luật, các quy phạm pháp luật cụ thể.
Về cơ bản, đây là những phương pháp có tính phổ biến trong phân tích luật viết.
Tùy thuộc vào mức độ nghiên cứu, các phương pháp được áp dụng, mức độ, khả năng
áp dụng của từng chủ thể là khác nhau. Tuy nhiên, đích cuối cùng của phân tích luật
viết là khẳng định giá trị điều chỉnh của luật.
Thứ tư, sử dụng kết quả phân tích luật viết.
Sử dụng kết quả phân tích luật viết là dùng, khai thác kết quả phân tích luật
18
viết . Mục đích của việc phân tích luật viết không gì khác hơn là để sử dụng cho mục
đích của người nghiên cứu. Đây là mục tiêu cũng là đích đến của kỹ năng phân tích
luật viết. Đối với người học luật, kỹ năng phân tích luật viết là một trong những nhiệm
vụ mà người học phải trang bị trong việc nghiên cứu luật sau khi ra trường. Theo Nghị
quyết Số: 49- NQ/TW ngày 2.6.2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp
đến năm 2020, “Xây dựng Trường Đại học Luật Hà Nội và Đại học Luật Thành phố
Hồ Chí Minh thành các trường trọng điểm đào tạo cán bộ về pháp luật. Xây dựng Học
viện Tư pháp thành trung tâm lớn về đào tạo cán bộ tư pháp”. Với chỉ đạo trên,
Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh là một trong các trường trọng điểm đào
tạo luật, có sứ mệnh là đào tạo cán bộ pháp luật trong cả nước, cung cấp nguồn nhân
lực chất lượng cao trình độ đại học, sau đại học; là trung tâm nghiên cứu khoa học,
trọng tâm là khoa học pháp lý, góp phần xây dựng, phát triển đất nước và hội nhập
quốc tế19. Để thực hiện được sứ mệnh này, Nhà Trường luôn trang bị cho người học
các tri thức về luật và khả năng sử dụng luật. Trong đó, kỹ năng phân tích luật viết là
bộ phận không thể tách rời trong chương trình học. Với kỹ năng này, người học thêm
một phương thức tiếp cận, phát triển luật.
Với các phân tích trên, kỹ năng phân tích luật viết là bộ phận của kỹ năng thực
hành pháp luật cần phải có khi học luật và là môn bắt buộc trong chương trình đào tạo
trình độ cử nhân luật. Với tính cần thiết nêu trên, đề cương kỹ năng phân tích luật viết
mong nhận được góp ý từ các quý đại biểu, chuyên gia về tên gọi, số lượng các
chương, mục; thời lượng; nội dung tên, chương, mục, danh mục tài liệu tham khảo và
các góp ý khác.

17
Viện Ngôn ngữ, tlđd, tr. 943, Viện Khoa học pháp lý, tlđd, tr. 798.
18
Viện Ngôn ngữ, tlđd, tr. 867, Viện Khoa học pháp lý, tlđd, tr. 679.
19
https://hcmulaw.edu.vn/vi/tong-quan-4822/tong-quan.
CHUYÊN ĐỀ 4: KỸ NĂNG PHÂN TÍCH VÀ BÌNH LUẬN BẢN ÁN
GS.TS. Đỗ Văn Đại ⃰
DẪN NHẬP
Việc đào tạo để cấp bằng Cử nhân Luật hiện nay, chung quy đòi hỏi sinh viên
phải được tiếp cận được ít nhất 3 góc độ: Lý luận, văn bản quy phạm pháp luật và
Thực tiễn trong đó có thực tiễn xét xử. Tùy vào mỗi cơ sở đào tạo Luật hiện nay ở Việt
Nam, người học có cơ hội được tiếp cận các góc độ trên ở mức độ khác nhau, đặc biệt
là việc sử dụng các bản án hay quyết định của Tòa án (được gọi chung là bản án) trong
việc học tập. Hiện nay sinh viên chính quy tại Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh
thường xuyên nghiên phải cứu bản án, nhất là trong môn Luật dân sự.
Thực tế, học luật trên cơ sở tình huống là cách học khá phổ biến và tình huống
có thể là tình huống giả định hay tình huống thực tế. Nếu là tình huống giả định, người
học có thể sẽ không gặp tình huống đó trong đời sống và như vậy là hoang phí thời
gian, ra đời sống thực tế sau khi tốt nghiệp sẽ gặp nhiều bỡ ngỡ (thực tiễn đôi khi nói
là phải đào tạo lại). Ngược lại, nếu là bản án thì đó là tình huống có thật nên, sau khi
tốt nghiệp, người học sẽ bớt bỡ ngỡ khi gặp tình huống tương tự và có thể đã có hướng
giải quyết, được trang bị kiến thức khi đã am hiểu bản án liên quan. Nói cách khác,
bản án là tình huống có thật nên, khi nghiên cứu bản án trong quá trình học tập, chúng
ta hiểu được một tình huống trong đời sống cần có hướng xử lý và đây là khía cạnh rất
thực tiễn của nghiên cứu pháp luật.
Trong bản án, luôn có đường lối giải quyết của cơ quan tài phán (của Thẩm
phán) đối với tình huống. Quan điểm của cơ quan tài phán là quan điểm của người có
nhiều kinh nghiệm, của người đi trước và sinh viên là người đi sau nên thường có cái
gì đó để học hỏi. Ở đây, sinh viên càng đọc bản án của người có kinh nghiệm, càng
học hỏi được nhiều về pháp luật. Bên cạnh đó, đặc thù của pháp luật thành văn, nhất là
pháp luật dân sự, là văn bản thường ở dạng khung, chưa đầy đủ so với quan hệ phát
sinh trong đời sống nên có thể có nhiều cách hiểu khác nhau về cùng một vấn đề. Tuy
nhiên, người có tiếng nói cuối cùng, có tính quyết định lại là cơ quan tài phán như
Điều 102 Hiến pháp năm 2013 khẳng định “Bản án, quyết định của Toà án nhân dân
có hiệu lực pháp luật phải được cơ quan, tổ chức, cá nhân tôn trọng; cơ quan, tổ chức,
cá nhân hữu quan phải nghiêm chỉnh chấp hành”. Vì vậy, trước một vấn đề còn gây
tranh cãi, việc biết được quan điểm của người có tiếng nói cuối cũng là cần thiết, hữu
ích đối với các hoàn cảnh tương tự trong cuộc sống. Thực tế, hoàn cảnh tương tự trong
bản án có thể xảy ra và người quan tâm biết được đường lối xét xử của hoàn cảnh
tương tự thì việc này sẽ giúp

*
Giáo sư, Tiến sĩ, Giảng viên Khoa Luật Dân sự - Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh.
ích nhiều trong hướng xử lý, thương lượng. Nói cách khác, việc nghiên cứu bản án để
biết đường lối giải quyết trong bản án rất hữu ích cho người học trong thời gian học tại
cơ sở đào tạo cũng như sau khi tốt nghiệp.
Khi nghiên cứu bản án, chúng ta lưu ý tới hai kỹ năng cơ bản sau đây. Đó là kỹ
năng phân tích bản án để hiểu bản án, đặc biệt là hiểu đường lối giải quyết của cơ quan
tài phán và kỹ năng bình luận bản ản để biết được giá trị của bản án, giá trị của đường
lối giải quyết của cơ quan tài phán. Đó là hai kỹ năng được phân tích dưới đây thông
qua phân tích và bình luận bản án đã được phát triển thành Án lệ số 55/2022/AL (Bản
án của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi).
1. KỸ NĂNG PHÂN TÍCH BẢN ÁN
1.1. Ý nghĩa của việc phân tích bản án
Phân tích bản án là để hiểu bán án, tức là hiểu các nội dung được đề cập trong
bản án và đặc biệt là để hiểu quan điểm của cơ quan tài phán đã ban hành bản án.
Để có thể hiểu nội dung bản án, chúng ta cần phân tích bản án. Nói cách khác,
muốn hiểu tốt nội dung bản án, chúng ta cần có phương pháp và đó là phương pháp
phân tích bản án.
1.2. Cách thức phân tích bản án
- Xác định vấn đề pháp lý cần nghiên cứu
Bản án thường rất dài và có nhiều vấn đề pháp lý khác nhau như những vấn đề
pháp lý về tố tụng, về nội dung. Do đó, phải đọc bản án (thường là nhiều lần) và xác
định được vấn đề pháp lý cụ thể cần nghiên cứu. Nếu là bản án đã được cung cấp trong
quá trình học tập, sinh viên cần biết bản án đó được sử dụng cho vấn đề pháp lý gì
(theo từng chủ đề học tập) và chỉ tập trung nghiên cứu bản án trong mối quan hệ với
chủ đề pháp lý đó.
Chẳng hạn, trong Bản án của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi, chúng ta thấy
Tòa án giải quyết nhiều vấn đề trong phần Nhận định của Tòa án về tố tụng như đình
chỉ một phần (đoạn 1), tình tiết không phải chứng minh (đoạn 3), án phí (đoạn 14);
Tòa án cũng giải quyết nhiều vấn đề về nội dung tranh chấp như đối tượng của hợp
đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất (đoạn 4), thuê tài sản (đoạn 5), áp dụng Điều
129 Bộ luật dân sự năm 2015 cho hợp đồng xác lập trước ngày Bộ luật dân sự năm
2015 có hiệu lực (trước ngày 1/1/2017), sự đồng ý của một số cá nhân trong việc
chuyển nhượng (đoạn 7), thanh toán khoản tiền còn thiếu (đoạn 9)…
Trong các vấn đề pháp lý được Tòa án giải quyết nêu trên, chúng ta chỉ quan
tâm tới vấn đề áp dụng Điều 129 Bộ luật dân sự năm 2015 cho hợp đồng xác lập trước
ngày
Bộ luật dân sự năm 2015 có hiệu lực (trước ngày 1/1/2017). Đây là vấn đề áp dụng hồi
tố Điều 129 Bộ luật dân sự năm 2015 và là vấn đề được lựa chọn khi nghiên cứu Bản
án của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi.
- Xác định được quan điểm của các bên liên quan
Sau khi xác định được vấn đề pháp lý cần nghiên cứu (ở ví dụ trên là áp dụng
hồi tố Điều 129 Bộ luật dân sự năm 2015), chúng ta cố gắng hiểu quan điểm của các
bên liên quan liên về vấn đề pháp lý đó (không quan tâm tới vấn đề pháp lý khác như
vấn đề tố tụng hay vấn đề thanh toán phần còn lại, sự đồng ý của một số cá nhân…)
như quan điểm của Nguyên đơn, Bị đơn, Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
(trong một số trường hợp có thể có quan điểm của chủ thể khác như người làm chứng,
chuyên gia…).
Quay trở lại Bản án được nghiên cứu đối với quanh vấn đề áp dụng hồi tố Điều
129 Bộ luật dân sự năm 2015, chúng ta thấy quan điểm của các bên liên quan như sau:
+ Quan điểm của Nguyên đơn chưa thực sự rõ ràng về áp dụng hồi tố Điều 129
Bộ luật dân sự năm 2015 vì chỉ thể hiện yêu cầu Bị đơn “phải làm thủ tục chuyển
nhượng”;
+ Quan điểm của Bị đơn rõ nét hơn Nguyên đơn về hình thức của hợp đồng vì
Bị đơn theo hướng “hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất phải lập thành văn
bản có công chứng, chứng thực; đất là của hộ gia đình bị đơn gồm nhiều thành viên
nhưng chỉ có bị đơn thỏa thuận chuyển nhượng là không đúng pháp luật. Vì vậy, bị
đơn yêu cầu tuyên bố hợp đồng chuyến nhượng quyền sử dụng đất vô hiệu” nhưng
cũng chưa thực sự rõ nét về việc áp dung hồi tố điều luật trên.
+ Quan điểm của Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan cũng không rõ nét về
áp dụng hồi tố Điều 129 Bộ luật dân sự năm 2015, không có nội dung nào thể hiện
quan điểm của họ về chủ đề này.
- Xác định được quan điểm của cơ quan tố tụng trước đó
Ngoài việc hiểu quan điểm của các bên liên quan, chúng ta cũng cần hiểu quan
điểm của cơ quan tố tụng trước (quan điểm được thể hiện trước quan điểm của cơ quan
tài phán thể hiện trong bản án được nghiên cứu (nếu có).
Ở ví dụ đang nghiên cứu, Bản án được nghiên cứu là bản án phúc thẩm sau khi
đã có án giám đốc thẩm nên có thể có quan điểm của cơ quan tố tụng trước khi cơ
quan ban hành bản án được nghiên cứu thể hiện hướng giải quyết của mình. Trong bản
án được nghiên cứu, chúng ta thấy có hướng giải quyết của Tòa án cấp sơ thẩm lần 1,
Tòa án cấp phúc thẩm lần 1 cũng như của Tòa án nhân dân cấp cao về vô hiệu hợp
đồng
nhưng thông tin chưa thể hiện rõ trong Bản án về quan điểm của các cơ quan này đối
với việc áp dụng hồi tố Điều 129 Bộ luật dân sự năm 2015.
Tại lần phúc thẩm thứ hai, Viện kiểm sát có quan điểm về điều luật trên với nội
dung “Hợp đồng vi phạm về hình thức nhưng đang được thực hiện nên được áp dụng
Bộ luật Dân sự năm 2015 để giải quyết, theo quy định tại khoản 2 Điều 129 Bộ luật
Dân sự năm 2015 thì hợp đồng này được công nhận hiệu lực” sau khi Viện kiểm sát đã
xác định “Giấy chuyển nhượng đất thổ cư ngày 10/8/2009 đã được thực hiện bằng việc
nguyên đơn giao 90.000.000 đồng cho phía bị đơn. Sau đó vì bị đơn không được cấp
đất tái định cư là lô B nên các bên thay đối thỏa thuận thành chuyển nhượng lô A”.
Nội dung này cho thấy Viện kiểm sát trong lần phúc thẩm thứ hai theo hướng áp dụng
hồi tố Điều 129 Bộ luật dân sự năm 2015 (tức áp dụng điều luật này cho cả hợp đồng
được xác lập trước ngày 01/01/2017).
- Xác định được quan điểm của Tòa án trong bản án được nghiên cứu

Cuối cùng, cần hiểu quan điểm của cơ quan tài phán ban hành bản án được
nghiên cứu. Cụ thể, nếu bản án được nghiên cứu là án sơ thẩm, thì chúng ta cần hiểu
quan điểm của Tòa sơ thẩm về chủ đề được nghiên cứu và tương tự như vậy đối với
bản án phúc thẩm, quyết định giám đốc thẩm hay tái thẩm. Ở đây, bản án được nghiên
cứu là bản án phúc thẩm của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi và do đó cần hiểu quan
điểm của Tòa phúc thẩm ban hành bản án được nghiên cứu. Vấn đề tiếp theo là chúng
ta tìm cách hiểu quan điểm của cơ quan tài phán như thế nào?
Trước tiên, chúng ta hiểu quan điểm thông qua ngôn từ được cơ quan tài phản
sử dụng trong phần nhận định của mình. Ở đây:
+ Chúng ta không thể hiểu quan điểm của cơ quan tài phán ra bản án đang được
nghiên cứu trong phần Nội dung vụ án (vì đây là phần chủ yếu tóm tắt vụ án trước thời
điểm có bản án được nghiên cứu nên không có quan điểm của cơ quan tài phán mà
chúng ta đang nghiên cứu). Tuy nhiên, chúng ta có thể hiểu quan điểm của cơ quan tài
phán ra bản án được ngiên cứu trong phần Nhận định của Tòa án (vì có lập luận, quan
điểm của cơ quan tài phán ban hành bản án được nghiên cứu) và cuối cùng là trong
phần Quyết định (vì đó là kết quả cuối cùng của cơ quan tài phán).
+ Ở Bản án được nghiên cứu, thông qua nghiên cứu phần Nhận định của Tòa
án, chúng ta thấy cơ quan tài phán nêu “Về thời hạn thực hiện giao dịch được hai bên
xác định là từ khi xác lập giao dịch cho đến khi phía bị đơn thực hiện xong nghĩa vụ
sang tên trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho nguyên đơn, nên đây là giao
dịch đang được thực hiện. Về nội dung, hình thức phù hợp với quy định của Bộ luật
Dân sự năm
2015 nên áp dụng Bộ luật Dân sự năm 2015 là đúng với quy định tại điểm b khoản 1
Điều 688 Bộ luật Dân sự năm 2015. Như vậy, tuy thời điểm các bên thỏa thuận việc
chuyển nhượng quyền sử dụng đất thì phía bị đơn chưa được cấp đất nên chỉ lập giấy
viết tay thể hiện nội dung thỏa thuận, nhưng khi được cấp đất các bên đã thay đổi thỏa
thuận bằng lời nói thành chuyển nhượng thửa 877 và tiếp tục thực hiện hợp đồng bằng
việc giao thêm tiền, giao đất, giao giấy chứng nhận quyền sử dụng đât, thời điếm giao
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đang đứng tên bị đơn là đã đủ điều kiện để chuyển
nhượng. Theo quy định tại Điều 116, khoản 2 Điều 129 Bộ luật Dân sự năm 2015 thì
tuy giao dịch chuyển nhượng quyền sử dụng đất của các bên không tuân thủ về hình
thức được quy định tại khoản 1 Điều 502 Bộ luật Dân sự năm 2015 nhưng bên nguyên
đơn đã thực hiện giao cho phía bị đơn 110.000.000 đồng, phía bị đơn đã giao quyền sử
dụng đất cho nguyên đơn là đã thực hiện hơn 2/3 nghĩa vụ trong giao dịch nên giao
dịch được công nhận hiệu lực. Tòa án cấp sơ thấm công nhận hiệu lực của giao dịch là
đúng pháp luật”. Đó là những nội dung cho thấy, theo quan điểm của cơ quan tài phán
(ở đây là Tòa phúc thẩm), Điều 129 Bộ luật dân sự năm 2015 được áp dụng cho giao
dịch xác lập trước ngày Bộ luật dân sự năm 2015 có hiệu lực pháp luật (tức chấp nhận
áp dụng hồi tố Điều 129 Bộ luật dân sự năm 2015).
Tiếp theo, chúng ta có thể hiểu quan điểm của cơ quan tài phán dựa vào điều
luật mà cơ quan tài phán sử dụng làm căn cứ cho hướng giải quyết của mình.
Đây là cách nhận diện khó hơn cách nhận diện dựa vào ngôn từ nêu trên. Tuy
nhiên, cách tìm hiểu quan điểm của cơ quan tài phán theo hướng này đôi khi cần thiết
và hữu ích để hiểu rõ hơn quan điểm của họ. Trong Bản án được nghiên cứu, cơ quan
tài có viện dẫn 4 điều luật liên quan đến chủ đề được phân tích và đó là Điều 116,
khoản 2 Điều 129, khoản 1 Điều 502 và điểm b khoản 1 Điều 688 Bộ luật Dân sự năm
2015. Trong các điều khoản này, chúng ta thấy điểm b khoản 1 Điều 688 Bộ luật Dân
sự năm 2015 bàn về khả năng áp dụng Bộ luật dân sự năm 2015 đối với giao dịch
được xác lập trước ngày 01/01/2017.
Cùng với việc viện dẫn Điều 129 Bộ luật dân sự năm 2015 và công nhận hợp
đồng chuyển nhượng chưa được công chứng/chứng thực, việc khai thác các điều luật
này cho thấy Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi đã theo hướng áp dụng hồi tố Điều 129
Bộ luật dân sự năm 2015 (áp dụng Điều 129 cho hợp đồng được xác lập trước ngày
01/01/2017 dù chưa được công chứng/chứng thực).
2. KỸ NĂNG BÌNH LUẬN BẢN ÁN
2.1. Ý nghĩa của việc bình luận bản án
Trong phần trên, chúng ta mới hiểu quan điểm của cơ quan tài phán nhưng
chúng ta chưa biết quan điểm đó có thuyết phục hay không, đường lối giải quyết của
cơ quan tài phán có mang lại yếu tố tích cực hay tiêu cực cho xã hội nếu được nhân
rộng. Do đó, chúng ta cần tìm hiểu thêm về giá trị của quan điểm đó đối với vấn đề
pháp lý được nghiên cứu. Tìm cách hiểu giá trị quan điểm/đường lối của cơ quan tài
phán ban hành bản án chính là bình luận bản án đó. Ở đây, chúng ta cố gắng hiểu được
giá trị của bản án để biết được cái hay, cái thuyết phục mà bản án có thể mang lại cho
xã hội, cho việc giải quyết những vấn tương tự xảy ra trong cuộc sống để từ đó chúng
ta ủng hộ. Thông qua việc bình luận bản án, chúng ta có thể biết những nhược điểm
mà bản án có thể mạng lại cho đương sự hay cho xã hội nếu được nhân rộng để từ đó
phản đối vận dụng cho các hoàn cảnh tương tự.
Khi bình luận, nếu chúng ta thấy đường lối giải quyết của cơ quan tài phán là
hay, là thuyết phục, chúng ta nên ủng hộ và phát triển nó.
+ Trong thực tế, từ việc phát hiện nhiều bản án có giá trị (tức có tính thuyết
phục cao trong việc xử lý những vấn đề xảy ra trong đời sống), chúng ta có thể phổ
biến nó tới công chúng thông qua các công trình được công bố (nhất là bộ sách, tạp
chí, truyền thông) để thực tiễn khai thác đường lối giải quyết đó cho hoàn cảnh tương
tự. Nói cách khác, việc nghiên cứu tính thuyết phục của đường lối giải quyết có ý
nghĩa thực tiễn cao đối với hoàn cảnh tương tự.
+ Trên cơ sở nghiên cứu án và tìm ra những bản án hay, chúng ta có thể đề xuất
phù hợp trong việc sửa đổi văn bản pháp luật và hướng này rất dễ được tiếp thu vì ở
đây được coi là đã có tiền lệ nên các nhà làm luật dễ chấp nhận. Nói cách khác, việc
nghiên cứu tính thuyết phục của đường lối giải quyết trong bản án có ý trong việc xây
dựng văn bản quy phạm pháp luật và việc này đã được kiểm chứng trong quá trình xây
dựng pháp luật tại Việt Nam.
+ Cũng từ việc phát hiện giá trị thuyết phục của các bản án, chúng ta có thể đề
xuất nội dung thuyết phục của bản án để trở thành án lệ. Đó là cách hiệu quả trong việc
phổ biến và phát triển cái hay, cái tốt cho các hoàn cảnh tương tự. Nói cách khác, việc
nghiên cứu tính thuyết phục của đường lối giải quyết trong bản án có ý trong việc xây
dựng án lệ và việc nghiên cứu Bản án của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi ở đây là
một ví dụ: Nghiên cứu này đã đem đến kết quả là chúng ta có Án lệ số 55/2022/AL và
sẽ được áp dụng cho các hoàn cảnh tương tự như Nghị quyết số 01/2019/MQ-HĐTP
đã quy định “Khi xét xử, Thẩm phán, Hội thẩm phải nghiên cứu, áp dụng án lệ, bảo
đảm
những vụ việc có tình huống pháp lý tương tự thì phải được giải quyết như nhau”
(khoản 2 Điều 8)20.
Hiểu được giá trị của bản án có thể biết được cái không hay, điểm không thuyết
phục mà bản án có thể mang lại cho xã hội, cho việc giải quyết những vấn đề xảy ra
trong cuộc sống để từ đó không ủng hộ cho hoàn cảnh tương tự.
+ Trong quá trình tham gia phát triển án lệ (với vai trò là Thành viên hội đồng
tư vấn án lệ), người viết bài này đã đề xuất nhiều bản án không nên phát triển thành án
lệ (khi chúng được đề xuất phát triển thành án lệ) và đó cũng là mặt tích cực của việc
nghiên cứu án và biết được nhược điểm của bản án.
+ Trong các công trình được công bố, chúng ta có thể cho thấy điểm không tích
cực của một số bản án và khuyến nghị không nên làm theo và phát triển cho hoàn cảnh
tương tự. Khuyến nghị như vậy ít nhiều tác động tới người quan tâm và đó cũng là yếu
tố tích cực trong việc nhận diện ra những điểm chưa thuyết phục khi bình luận bản án.
Như vậy việc hiểu giá trị của bản án có vai trò quan trọng. Từ đó, câu hỏi tiếp
theo được đặt ra là làm thế nào để biết, hiểu được giá trị của bản án? Đó là điểm chúng
ta sẽ phân tích trong phần dưới đây.
2.2. Cách thức bình luận bản án
- Đánh giá quan điểm của Tòa án so với văn bản liên quan
Pháp luật Việt Nam theo hướng là pháp luật thành văn và, do đó, chúng ta nên
đối chiếu hướng giải quyết của cơ quan tài phán so với văn bản quy phạm pháp luật
liên quan. Điều đó cũng có nghĩa là chúng ta phải nắm vứng kiến thức, được trang bị
tốt về nội dung văn bản quy phạm liên quan để có thể đối chiếu (đây là điểm thường
gây tranh cãi vì người này cho rằng rõ rồi nhưng người khác lại cho rằng chưa rõ).
Sau khi đối chiếu đường lối giải quyết của bản án so với văn bản quy phạm
pháp luật, chúng ta có thể gặp các tình huống sau đây:
+ Tình huống thứ nhất là hướng giải quyết của cơ quan tài phán đã được ghi
nhận trong văn bản. Trong trường hợp này, bản án không có nhiều giá trị vì chỉ nhắc
lại văn bản và nghiên cứu văn bản là đủ, không cần đề xuất phát triển hướng giải quyết
trong bản án cho hoàn cảnh tương tự.
+ Tình huống thứ hai là hướng giải quyết của cơ quan tài phán chưa được ghi
nhận trong văn bản do văn bản chưa rõ ràng hay chưa có quy định. Đây là trường hợp
cần lưu tâm vì bản án có vai trò bổ sung, bổ khuyết văn bản và, nếu đường lối giải
quyết trong bản án là thuyết phục, chúng ta nên phát triển cho các hoàn cảnh tương tự.
+ Tình huống thứ ba ít xảy ra nhưng vẫn có thể tồn tại là hướng giải quyết trong
bản án khác so với văn bản. Đây là hướng cũng cần được quan tâm và cần xem xét về
tính thuyết phục của đường lối giải quyết của cơ quan tài phán vì có thể văn bản chưa
thực sự thuyết phục và đường lối giải quyết của cơ quan tài phán lại có yếu tố thuyết
phục của nó (nên có thể đề xuất sửa đổi văn bản).
Đối với Bản án của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi đang được nghiên cứu,
việc khẳng định áp dụng hồi tố Điều 129 Bộ luật dân sự năm 2015 có vai trò bổ sung
văn bản. Bởi lẽ, quy định chuyển tiếp được nêu tại Điều 688 Bộ luật dân sự năm 2015
chưa thực sự rõ ràng, đã dẫn tới cách hiểu và vận dụng khác nhau trên thực tế (có Tòa
án áp dụng Điều 129 Bộ luật dân sự năm 2015 cho giao dịch xác lập trước ngày
01/01/2017 nhưng có Tòa án lại theo hướng ngược lại và điều này cho thấy văn bản
chưa rõ ràng). Nói cách khác, hướng giải quyết trong Bản án được nghiên cứu thuộc
trường hợp thứ hai nêu trên và chúng ta cần xem xét thêm tính thuyết phục của nó để
mở rộng khả năng áp dụng cho hoàn cảnh tương tự.
- Đánh giá quan điểm của Tòa án so với học thuật liên quan
Để thấy được tính thuyết phục của bản án đối với vấn đề được nghiên cứu,
chúng ta cũng nên đối chiếu đường lối giải quyết của cơ quan tài phán so với lý luận
như so với các tư tưởng pháp luật về lĩnh vực mà bản án đang xử lý, nguyên tắc chủ
đạo, tinh thần của pháp luật (nói ngắn gọn so với lý luận). Điều đó cũng có nghĩa là
chúng ta phải nắm vứng lý luận, chuẩn bị tốt cho mình nền tảng lý luận tốt, nghiên cứu
nhiều tài liệu để có thể đối chiếu (điều không đơn giản vì nhiều người ngộ nhận rằng
mình đã được trang bị nhưng thực tế lại không như vậy).
Sau khi đối chiếu đường lối giải quyết trong bản án với lý luận, có hai hoàn có
thể cảnh xảy ra:
+ Thứ nhất, hướng giải quyết trong bản án là tương đồng, tương thích với lý
luận và do đó chúng ta nên ủng hộ cho các hoàn cảnh tương tự. Ở đây, khi hướng giải
quyết trong bản án được nghiên cứu có tính thuyết phục cao, chúng ta nên phát triển
cho các hoàn cảnh tương tự, đề xuất phát triển thành án lệ.
+ Thứ hai, sau khi đối chiếu với lý luận, chúng ta có thể thấy hướng giải quyết
trong bản án là không tương đồng, không tương thích với lý luận và do đó chúng ta
không nên ủng hộ cho các hoàn cảnh tương tự. Thực tế, nhiều bản án đã được đề xuất
phát triển thành án lệ nhưng không được phát triển thành án lệ vì, sau khi đối chiếu với
lý luận, hướng trong bản án được đánh giá là không thuyết phục.
Quay lại Bản án được sửa dụng để minh họa. Thực tế, nội dung áp dụng hồi tố
Điều 129 Bộ luật dân sự năm 2015 đã được bàn luận và hướng giải quyết trong Bản án
được nghiên cứu tương thích với tinh thần chung của Bộ luật dân sự năm 2015.
Trong tài liệu được công bố năm 2020, chúng ta thấy nêu “các giao dịch trong
các vụ việc được bình luận (Tòa án áp dụng điều luật trên) đều được xác lập trước
ngày Bộ luật Dân sự năm 2015 có hiệu lực pháp luật. Điều đó cho thấy thực tiễn áp
dụng Điều 129 Bộ luật Dân sự năm 2015 cho cả các giao dịch được xác lập trước ngày
01 tháng 01 năm 2017. Hướng áp dụng hồi tố này chưa thực sự rõ trong Bộ luật Dân
sự năm 2015 đối với các giao dịch như trong các vụ việc được bình luận nhưng thuyết
phục vì nó giúp công nhận hợp đồng đã được thực hiện trong thực tế mặc dù chưa đáp
ứng điều kiện có hiệu lực”21. Thực tế, “quy định tại các khoản 1 và 2 Điều 129 là do
nguyên nhân phát sinh các quan hệ giao dịch liên quan đến thủ tục hành chính trong
đời sống xã hội Việt Nam suốt mấy chục năm qua như một rào cản. Cơ quan lập pháp
muốn giảm thiểu những phức tạp cho các chủ thể tham gia các giao dịch dân sự mà vi
phạm về hình thức vào thời điểm xác lập”22. Đây là những quy định được xây dựng
“để góp phần hạn chế việc tuyên bố giao dịch dân sự bị vô hiệu một cách tùy tiện vì lý
do không tuân thủ quy định hình thức”23.
Vì vậy, hướng như nêu trên trong Bản án được nghiên cứu là thuyết phục để ổn
định các quan hệ dân sự đã được thực hiện mặc dù không đáp ứng điều kiện về hình
thức. Chính vì vậy, chúng ta nên phát triển hướng giải quyết trong Bản án cho hoàn
cảnh tương tự và việc đường lối đó được phát triển thành án lệ (Án lệ số 55/2022/AL)
sẽ giúp công nhận nhiều hợp đồng có vấn đề pháp lý tương tự (đã được thực hiện 2/3
nhưng chưa được công chứng/chứng thực).
- Đánh giá quan điểm của Tòa án so kinh nghiệm nước ngoài
Để thấy được tính thuyết phục của đường lối giải quyết trong bản án, chúng ta
cũng nên đối chiếu đường lối giải quyết đó so với kinh nghiệm nước ngoài (nếu có
thể). Việc pháp luật nước ngoài đã ghi nhận hướng giải quyết như trong bản án của
chúng ta có thể giúp hướng giải quyết của bán án đi xa hơn, dễ được chấp nhận hơn
cho việc áp dụng đối với hoàn cảnh tương tự. Trong thực tế, có bản án được chấp nhận
phát triển thành án lệ một cách dễ dàng sau khi biết được hướng giải quyết trong bản
án đã có tiền lệ trong pháp luật nước ngoài, nhất là trong hệ thống pháp luật được đánh
giá cao trên thế giới.
Quay lại Bản án được nghiên cứu về công nhận hiệu lực của hợp đồng chưa
được công chứng/chứng thực, nghiên cứu cho thấy không hiếm hệ thống pháp luật
thấy được những hạn chế của việc tuyên bố hợp đồng vô hiệu do vi phạm điều kiện về
hình thức nên tìm cách đưa ra các biện pháp xử lý khác. Chẳng hạn, ở Thụy Sĩ, án lệ
cũng như cơ quan lập pháp nhận thấy rằng vô hiệu không phải là phản ứng thích hợp
nên đã theo hướng “một hợp đồng vay tiêu dùng sẽ trở thành vay không có lãi sau khi
người cho vay chuyên nghiệp thực hiện hợp đồng. Tương tự, trong hợp đồng bảo hiểm
và hợp đồng du lịch trọn gói, vi phạm hình thức có hệ quả là hợp đồng được coi là ký
kết với một nội dung ít có lợi hơn đối với người chuyên nghiệp”. Còn ở Đức, “pháp
luật Đức đưa ra ngoại lệ cho việc vô hiệu khi có việc vi phạm hình thức của hợp đồng
cho thuê bất động sản. Theo Điều 566 Bộ luật Dân sự, hợp đồng thuê một bất động sản
với thời hạn hơn một năm phải được lập bằng văn bản. Khi có vi phạm về hình thức,
hợp đồng có giá trị như hợp đồng không có thời hạn. Tương tự, việc tặng cho không
được công chứng (chứng thực) vẫn có giá trị pháp lý khi có việc giao đối tượng tặng
cho”24.
Do đó, hướng giải quyết trong Bản án được nghiên cứu cho thấy điểm tích cực,
có tiền lệ trong một số hệ thống pháp luật trên thế giới. Điều này càng cho thấy đường
lối giải quyết trong Bản án được nghiên cứu để công nhận hiệu lực của hợp đồng mặc
dù vi phạm điều kiện về hình thức là thuyết phục. Vì vậy, việc phát triển đường lối đó
thành Án lệ số 55/2022/AL có tính thuyết phục cao.
Kết luận. Chúng ta đã biết cách thức để nhận biết, hiểu một bản án cũng như
cách thức để hiểu được giá trị của bản án về một vấn đề cụ thể. Nhìn một cách tổng
thế, phân tích và bình luận bản án là một cách học, cách hiểu pháp luật hiệu quả vì qua
đó chúng ta hiểu được quy định trong văn bản pháp luật, hiểu được thực tiễn (đặc biệt
là thực tiễn xét xử) và đào sâu lý luận, thậm chí đối với một số trường hợp là phát triển
lý luận mới (nhất là khi vấn đề đó chưa được lý luận giải quyết, văn bản điều chỉnh).
Ở nhiều nước có nền pháp luật phát triển như Pháp, nghiên cứu về bản án khá
phổ biến tại các trung tâm đào tạo luật lớn và, trên các tạp chí chuyên ngành luật,
thường có mục bình luận bản án do các giảng viên cũng như người làm thủ tục thực
hiện. Ở các trung tâm đào tạo luật lớn tại các nước có nền pháp luật phát triển như vừa
nêu, việc nghiên cứu bản án là điều hiển nhiên, rất phổ biến và khá hiệu quả.
Ở Việt Nam, việc nghiên cứu bản án chưa phổ biến tại các trung tâm đào tạo
luật trừ một vài trung tâm như Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh (trong đó Khoa
luật
dân sự đã có nhiều năm kinh nghiệm và rất nhiều bản án được đưa vào chương
trình để sinh viên nghiên cứu trong các buổi thảo luận). Hy vọng rằng sinh viên học luật
ở Việt Nam ngày càng được thụ hưởng nhiều từ cách học này nhưng, để làm được việc
đó, cần có sự đầu tư, nhất là cần có cái tâm của người làm công tác của người giảng
dạy!

Bản án dân sự phúc thẩm số 16/2019/DS-PT ngày 19/3/2019 của Tòa án


nhân dân tỉnh Quảng Ngãi
NỘI DUNG VỤ ÁN
Tại đơn khởi kiện đề ngày 18/4/2017 được sửa đổi, bổ sung ngày 06/6/2017,
bản tự khai và tại phiên tòa sơ thẩm nguyên đơn ông Võ Sĩ M, bà Phùng Thị N trình
bày:
Giữa nguyên đơn và bị đơn ông Đoàn C, bà Trần Thị L có quan hệ họ hàng.
Năm 2009 bị đơn cần tiền làm nhà cho con trai là anh Đoàn Tấn LI nên thỏa thuận và
lập hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho nguyên đơn, diện tích đất chuyển
nhượng là lô B trong phần đất của bị đơn khi được Nhà nước cấp đất tái định cư (Nhà
nước thu hồi đất của bị đơn và đã thông báo sẽ cấp đất tái định cư tại khu Làng
H) với giá
90.000.000 đồng. Nguyên đơn đã trả đủ 90.000.000 đồng cho bị đơn.
Đến năm 2011, Nhà nước đã chỉ mốc giới vị trí đất cấp cho bị đơn là 03 lô đất
liền kề ở mặt tiền, bị đơn và anh Đoàn Tấn LI yêu cầu phía nguyên đơn đưa thêm
30.000.000 đồng vì giá đất mặt tiền cao hơn, nguyên đơn đồng ý đưa tiếp 20.000.000
đồng, còn 10.000.000 đồng khi nào làm thủ tục chuyển nhượng xong thì đưa đủ. Lúc
này bị đơn đã chỉ vị trí cũng như mốc giới thửa đất chuyển nhượng cho phía nguyên
đơn.
Trong quá trình chờ làm thủ tục chuyển nhượng quyền sử dụng đất, thì vào
ngày 05/6/2014 nguyên đơn có cho bà Nguyễn Thị Ml, địa chỉ: Thôn V, xã P, huyện
Đ, tỉnh Quảng Ngãi thuê diện tích đất này làm mặt bằng buôn bán và không ai có ý
kiến gì.
Đến tháng 10/2016 Nhà nước mới cấp giấy chúng nhận quyền sử dụng đất cho
bị đơn, nhưng phía bị đơn và anh Đoàn Tấn LI chỉ đưa giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất thửa đất số 877 tờ bản đồ số 24 xã P (Sau đây viết tắt là thửa 877) cho
nguyên đơn nhưng không làm thủ tục chuyến nhượng cho nguyên đơn, hiện nay
nguyên đơn đã xây móng đá chẻ trên thửa 877. Nay nguyên đơn yêu cầu bị đơn phải
làm thủ tục chuyển nhượng thửa 877 tờ bản đồ số 24 xã P, huyện Đ, tỉnh Quảng Ngãi
cho nguyên đơn.
Trong quá trình giải quyết vụ án, bị đơn ông Đoàn C, bà Trần Thị L và người
đại diện theo ủy quyền của bị đon, ông Trương Quang T trình bày:
Bị đơn thừa nhận có việc thỏa thuận và lập hợp đồng chuyển nhượng quyền sử
dụng đất như nguyên đơn trình bày (khi lập hợp đồng bị đơn chưa được Nhà nước cấp
đất), bị đơn đã nhận đủ 90.000.000 đồng và sau đó có nhận thêm số tiền 20.000.000
đồng, đây là tiền mà nguyên đơn nói đưa đế làm thủ tục chuyến nhượng quyền sử dụng
đất. Sau khi Nhà nước thu hồi đất của hộ gia đình bị đơn thì có nghe Nhà nước sẽ cấp
cho gia đình bị đơn 03 lô đất trong đó có 02 lô B và 01 lô A, trong hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất ghi rõ lô B tự chọn. Khi lập hợp đồng, Nhà nước chưa cấp
đất cho bị đơn nên không có đất để giao cho nguyên đơn. Mặt khác, hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất phải lập thành văn bản có công chứng, chứng thực; đất là
của hộ gia đình bị đơn gồm nhiều thành viên nhưng chỉ có bị đơn thỏa thuận chuyển
nhượng là không đúng pháp luật. Vì vậy, bị đơn yêu cầu tuyên bố hợp đồng chuyến
nhượng quyền sử dụng đất vô hiệu và giải quyết hậu quả của hợpđồng là các bên hoàn
trả lại cho nhau những gì đã nhận.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan anh Đoàn Tấn LI trình bày:
Anh là con của bị đơn, anh thống nhất với lời trình bày của người đại diện theo
ủy quyền của bị đơn. Anh có ý kiến bổ sung là anh đứng ra bán đất cùng với cha mẹ
do lúc đó quá khó khăn, còn việc giao giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho nguyên
đơn là do bị đe dọa. Anh thừa nhận đổ đá chẻ lên thửa đất đang tranh chấp để làm
quán cho cha mẹ nhưng do chưa sử dụng nên anh có bán cho nguyên đơn với số tiền là
6.450.000 đồng. Việc nguyên đơn tự ý xây dựng móng đá chẻ thì ông M có lên nói
nhưng anh không đồng ý và có ngăn cản không cho xây dựng.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan anh Đoàn Tấn NI, chị Đoàn Thị Thu V,
chị Đoàn Thị Mỹ N2 trình bày:
Các anh, chị có chung hộ khẩu với cha mẹ khi Nhà nước thu hồi đất cho đến
nay, các anh, chị có quyền trong khối tài sản chung của gia đình. Việc cha mẹ các anh
chị và anh LI tự ý đứng ra chuyển nhượng quyền sử dụng đất là tài sản chung của hộ
gia đình mà không hỏi ý kiến của các anh, chị là xâm phạm đên quyền lợi của các anh,
chị nên các anh, chị không đồng ý. Các anh, chị yêu câu tuyên bố giấy chuyển nhượng
đất thổ cư ngày 10/8/2009 vô hiệu.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn Thị MI trình bày:
Vào năm 2014, bà có đến nhà bị đơn hỏi thuê thửa 877 để mở quán nước,
nhưng bị đơn nói đã bán đất cho nguyên đơn rồi nên đến nguyên đơn để hỏi thuê. Bà
đã thỏa thuận với nguyên đơn thuê đất mở quán, trả tiền hàng năm; bà có thuê bị đơn
là ông C tới dựng quán cho bà. Sau khi hòa giải ở xã thì bà có thấy anh LI đổ đá chẻ
trên thửa đất, khi nguyên đơn xây móng nhà được hai ngày thì anh L1 đến không
cho xây. Bà
không có ý kiến về yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, nhưng khi giao đất cho ai thì bà
sẽ tự dỡ quán và không có yêu cầu gì.
Bản án dân sự sơ thẩm số 22/2017/DS-ST ngày 21/9/2017 của Tòa án nhân dân
huyện Đức Phổ tuyên xử:
Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Công nhận hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất ngày 10/8/2009. Buộc bị đơn phải làm thủ tục chuyển
nhượng thửa 877 cho nguyên đơn.
Không chấp nhận yêu cầu phản tố của bị đơn về việc hủy hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất ngày 10/8/2009.
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn giải quyết về chi phí tố tụng, án phí và tuyên
quyền kháng cáo của các đương sự.
Ngày 02/10/2017, bị đơn và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Đoàn
Tấn L1, Đoàn Tấn Nl, Đoàn Thị Thu V, Đoàn Thị Mỹ N2 có đơn kháng cáo: Yêu cầu
Tòa án cấp phúc thấm hủy bản án sơ thẩm để giải quyết lại. Tại phiên tòa phúc thẩm,
những người kháng cáo thay đổi nội dung kháng cáo, yêu cầu Hội đồng xét xử sửa bản
án sơ thẩm, tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 10/8/2009 vô
hiệu và giải quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu.
Ngày 05/10/2017, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân huyện Đức Phổ có quyết
định kháng nghị số 1317/QĐKNPT-VKS-DS: Yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm sửa bản
án sơ thẩm, không chấp nhận đơn khởi kiện của nguyên đơn, chấp nhận yêu cầu phản
tố của bị đơn, tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa các nguyên
đơn và bị đơn vô hiệu và các bên phải hoàn trả cho nhau những gì đã nhận. Tại phiên
tòa phúc thẩm, đại diện Viện kiểm sát rút toàn bộ kháng nghị.
Bản án dân sự phúc thẩm số 24/2018/DS-PT ngày 01/02/2018 của Tòa án nhân
dân tỉnh Quảng Ngãi tuyên xử: Sửa Bản án dân sự sơ thẩm số 22/2017/DS-ST ngày
21/9/2017 của Tòa án nhân dân huyện Đức Phổ; không chấp nhận yêu cầu khởi kiện
của nguyên đơn, chấp nhận yêu cầu phản tố của bị đơn.
Ngày 19/9/2018, Chánh án Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng có Quyết định
kháng nghị giám đốc thẩm số 68/2018/KN-DS ngày 19/9/2018: Đề nghị hủy Bản án
dân sự phúc thẩm số 24/2018/DS-PT ngày 01/02/2018 của Tòa án nhân dân tỉnh
Quảng Ngãi, giao hồ sơ cho Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi xét xử phúc thẩm lại.
Quyết định giám đốc thẩm số 93/2018/DS-GĐT ngày 29/11/2018 của Ủy ban
Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng tuyên xử: Chấp nhận Quyết định
kháng nghị giám đốc thẩm số 68/2018/KN-DS ngày 19/9/2018 của Chánh án Tòa án
nhân dân
cấp cao tại Đà Nẵng; hủy toàn bộ Bản án dân sự phúc thẩm số 24/2018/DSPT ngày
01/02/2018 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi, giao hồ sơ cho Tòa án nhân dân
tỉnh Quảng Ngãi xét xử lại theo thủ tục phúc thẩm.
Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Ngãi tại phiên tòa phúc
thẩm: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký và các đương sự đã tuân thủ đúng các quy
định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Đơn kháng cáo của bị đơn và những người có quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan làm trong thời hạn luật định là hợp lệ.
Về nội dung: Nội dung hợp đồng chuyển nhượng đất là Giấy chuyển nhượng
đất thổ cư ngày 10/8/2009 đã được thực hiện bằng việc nguyên đơn giao 90.000.000
đồng cho phía bị đơn. Sau đó vì bị đơn không được cấp đất tái định cư là lô B nên các
bên thay đối thỏa thuận thành chuyển nhượng lô A với giá 120.000.000 đồng, phía
nguyên đơn đưa tiếp 20.000.000 đồng, còn 10.000.000 đồng sẽ giao khi hoàn tất thủ
tục chuyến nhượng.
Căn cứ lời trình bày của ông Phạm Văn H (Bút lục 190) và lời trình bày của bà
Nguyễn Thị MI (Bút lục 118) có cơ sở xác định bị đơn đã giao đất và giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất cho nguyên đơn, nguyên đơn đã xây móng nhà và cho bà MI thuê
làm quán buôn bán. Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ghi tên bị đơn nên bị đơn có
quyền chuyển nhượng mà không cần có ý kiến của các thành viên khác trong hộ gia
đình.
Hợp đồng vi phạm về hình thức nhưng đang được thực hiện nên được áp dụng
Bộ luật Dân sự năm 2015 để giải quyết, theo quy định tại khoản 2 Điều 129 Bộ luật
Dân sự năm 2015 thì hợp đồng này được công nhận hiệu lực. Tuy nhiên, cấp sơ thẩm
không buộc nguyên đơn trả tiếp cho bị đơn 10.000.000 đồng là thiếu sót.
Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ Điều 289, khoản 2 Điều 308, Điều 309 Bộ luật
Tố tụng dân sự; đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với phần Viện kiếm sát nhân dân tỉnh
Quảng Ngãi rút kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân huyện Đức Phổ;
không chấp nhận kháng cáo của bị đơn và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan; sửa bản án sơ thẩm, công nhận hiệu lực của hợpđồng chuyến nhượng thửa 877,
nguyên đơn có nghĩa vụ thanh toán cho bị đơn 10.000.000 đông, nguyên đơn được
quyền liên hệ với cơ quan Nhà nước có thẩm quyền để được cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất đối với thửa 877.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
1. Tại phiên tòa phúc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Ngãi
rút toàn bộ Quyết định kháng nghị số 1317/QĐKNPT-VKS-DS ngày 05/10/2017 của
Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân huyện Đức Phổ. Vì vậy, đình chỉ xét xử phúc
thẩm một
phần vụ án mà Viện kiểm sát đã rút kháng nghị là phù hợp với quy định tại Điều 284
Bộ luật Tố tụng dân sự.
2. Trước khi Tòa án cấp sơ thẩm ra bản án, các đương sự trong vụ án không ai
yêu cầu áp dụng thời hiệu nên không xem xét áp dụng thời hiệu khởi kiện theo quy
định tại khoản 2 Điều 184 Bộ luật Tố tụng dân sự.
3. Bị đơn ông c, bà L và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan anh LI thừa
nhận, vì biết thông tin gia đình bị đơn bị thu hồi đất sẽ được cấp ba lô đất tái định cư,
trong đó có một lô A và hai lô B, nên ngày 10/8/2009 nguyên đơn ông M, bà N cùng
phía bị đơn ông C, bà L và anh Đoàn Tấn LI thỏa thuận và lập “Giấy chuyển nhượng
đất thổ cư” (Bút lục 27), nội dung thỏa thuận là bị đơn và anh LI chuyển nhượng cho
nguyên đơn một lô đất thuộc lô B, diện tích 5m X 20m (tự chọn khi Nhà nước cấp đất)
trong phần đất của gia đình bị đơn sẽ được cấp tái định cư với giá 90.000.000 đồng,
anh LI có trách nhiệm làm giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và giao đất trên thực
địa cho nguyên đơn, các bên tham gia giao dịch đêu thống nhất ký tên; bị đơn đã giao
đủ 90.000.000 đồng cho phía nguyên đơn. Đây là nhũng tình tiết không phải chứng
minh theo quy định tại khoản 2 Điều 92 Bộ luật Tố tụng dân sự.
4. Phía bị đơn không thừa nhận có việc thay đổi thỏa thuận chuyển nhượng từ lô
B sang lô A với giá 120.000.000 đồng như nguyên đơn trình bày vì đến năm 2016 bị
đơn mới được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, 20.000.000 đồng phía bị đơn
nhận thêm chỉ để làm giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, nhưng tại phiên tòa phúc
thấm anh LI thừa nhận năm 2011 phía bị đơn đã biết vị trí ba lô đất gia đình bị đơn
được cấp tái định cư trên bản đồ, không có lô B như thỏa thuận với nguyên đơn, trong
03 lô đất này có thửa 877; bên cạnh đó, tại Biên bản lấy lời khai của đương sự (Bút lục
192) ông C trình bày ông đã làm nhà trên 01 lô đất tái định cư từ năm 2013. Như vậy,
tuy chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nhưng phía bị đơn đã biết vị trí
các lô đất tái định cư được Nhà nước cấp.
5. Căn cứ thực tế sử dụng thửa 877, lời khai người thuê đất là bà Nguyễn Thị
Ml, “Giấy thỏa thuận cho thuê đất” (Bút lục 27); biên bản lấy lời khai ông Đoàn C
ngày 25/7/2017 (bút lục 192) chứng tỏ phía bị đơn đã giao thửa 877 và giấy chứng
nhận quyên sử dụng thửa đất này cho nguyên đơn, nguyên đơn đã cho bà MI thuê đất
đế xây dựng quán, ông C cũng đến làm công xây dựng quán cho bà Ml và không có
tranh chấp gì; chính anh LI đã đổ đá chẻ trên thửa 877 và bán cho nguyên đơn đê
nguyên đơn xây móng nhà.
6. Về thời hạn thực hiện giao dịch được hai bên xác định là từ khi xác lập giao
dịch cho đến khi phía bị đơn thực hiện xong nghĩa vụ sang tên trong giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất cho nguyên đơn, nên đây là giao dịch đang được thực hiện. Về nội
dung, hình thức phù hợp với quy định của Bộ luật Dân sự năm 2015 nên áp dụng Bộ
luật Dân sự năm 2015 là đúng với quy định tại điểm b khoản 1 Điều 688 Bộ luật Dân
sự năm 2015. Như vậy, tuy thời điểm các bên thỏa thuận việc chuyển nhượng quyền
sử dụng đất thì phía bị đơn chưa được cấp đất nên chỉ lập giấy viết tay thể hiện nội
dung thỏa thuận, nhưng khi được cấp đất các bên đã thay đổi thỏa thuận bằng lời nói
thành chuyển nhượng thửa 877 và tiếp tục thực hiện hợp đồng bằng việc giao thêm
tiền, giao đất, giao giấy chứng nhận quyền sử dụng đât, thời điếm giao giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất đang đứng tên bị đơn là đã đủ điều kiện để chuyển nhượng.
Theo quy định tại Điều 116, khoản 2 Điều 129 Bộ luật Dân sự năm 2015 thì tuy giao
dịch chuyển nhượng quyền sử dụng đất của các bên không tuân thủ về hình thức được
quy định tại khoản 1 Điều 502 Bộ luật Dân sự năm 2015 nhưng bên nguyên đơn đã
thực hiện giao cho phía bị đơn 110.000.000 đồng, phía bị đơn đã giao quyền sử dụng
đất cho nguyên đơn là đã thực hiện hơn 2/3 nghĩa vụ trong giao dịch nên giao dịch
được công nhận hiệu lực. Tòa án cấp sơ thấm công nhận hiệu lực của giao dịch là đúng
pháp luật nhưng buộc bị đơn phải làm thủ tục chuyển nhượng thửa 877 cho nguyên
đơn là không cần thiết, khi Tòa án công nhận hiệu lực của giao dịch thì nguyên đơn
liên hệ cơ quan Nhà nước có thẩm quyền để được công nhận quyền sử dụng đất theo
bản án đã có hiệu lực pháp luật.
7. Những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là các anh chị Đoàn Tấn Ll,
Đoàn Tấn NI, Đoàn Thị Thu V, Đoàn Thị Mỹ N2 là thành viên trong gia đình bị đơn
kháng cáo cho rằng việc cha mẹ các anh, chị chuyển nhượng quyền sử dụng đất không
được sự đồng ý của các anh chị, gây ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợppháp của các
anh chị thì thấy rằng: Theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì thửa 877 là đất tái
định cư được cấp cho bị đơn, không phải cấp cho hộ gia đình nên bị đơn có quyền
chuyến nhượng, việc chuyến nhượng thửa 877 của bị đơn không vi phạm điều cấm của
pháp luật như bị đơn và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trình bày;
trường hợpthửa 877 là tài sản chung của hộ gia đình thì bị đơn chỉ chuyển nhượng một
trong ba thửa đất tái định cư nên vẫn thuộc phạm vi quyền tài sản của bị đơn trong
khối tài sản chung của hộ gia đình.
8. Từ những nhận định trên, không chấp nhận kháng cáo của bị đơn ông C, bà L
và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là các anh, chị LI, Nl, V, N2.
9. Tuy nhiên, theo thỏa thuận chuyển nhượng thì nguyên đơn còn phải trả cho bị
đơn 10.000.000 đồng, Tòa án cấp sơ thẩm công nhận hợp đồng nhưng không buộc
phía nguyên đơn tiếp tục trả số tiền còn lại cho bị đơn là thiếu sót, cần sửa bản án sơ
thẩm về nội dung này.
10. Tại phiên tòa phúc thẩm, nguyên đơn tự nguyện để cho quán nước tạm có
diện tích 25m2 dụng bằng cây bạch đàn, mái lợp tôn sắt, nền láng xi măng của bà
Nguyễn Thị MI được tiếp tục tồn tại trên đất trong trường hợp Tòa án chấp nhận yêu
cầu khởi kiện của nguyên đơn. Như nhận định trên thì nguyên đơn là người sử dụng
đất hợp pháp nên ghi nhận sự tự nguyện của nguyên đơn.
11. Đối với phần móng đá nguyên đơn đã xây dựng trên thửa đất số 877, tờ bản
đồ số 24 xã P có giá trị 9.400.000 đồng, do nguyên đơn mua vật liệu và tự xây dựng
nên thuộc quyền sở hữu, sử dụng của nguyên đơn.
12. Các phần khác của bản án sơ thẩm xét xử phù hợp với quy định pháp luật
được giữ nguyên.
13. Ý kiến của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Ngãi có căn cứ,
đúng pháp luật nên được chấp nhận.
14. Bị đơn là người cao tuổi và có đơn xin miễn án phí, vì vậy miễn án phí dân
sự phúc thẩm cho bị đơn là phù hợp với quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị
quyết 326/2016/ƯBTVQH14 ngày 30/12/2016 của ủy ban Thường vụ Quốc hội;
những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là các anh, chị L1, N1, V, N2 không
phải chịu án phí dân sự phúc thẩm là phù hợp với quy định tại khoản 2 Điêu 148 Bộ
luật Tố tụng dân sự.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
Áp dụng khoản 1 Điều 147, khoản 2 Điều 148, Điều 289, khoản 2 Điều 308,
Điều 309 Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 116, khoản 2 Điều 129 Bộ luật Dân sự năm
2015; Điều 106 Luật Đất đai năm 2003; điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
Đình chỉ xét xử phúc thẩm một phần vụ án đối với Quyết định kháng nghị số
1317/QĐKNPT-VKS-DS ngày 05/10/2017 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân
huyện Đức Phổ.
Không chấp nhận kháng cáo của bị đơn ông Đoàn C, bà Trần Thị L và những
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là các anh, chị Đoàn Tấn Ll, Đoàn Tấn Nl,
Đoàn Thị Thu V, Đoàn Thị Mỹ N2.
Tuyên xử: Sửa một phần bản án dân sự sơ thẩm số 22/2017/DS-ST ngày
21/9/2017 của Tòa án nhân dân huyện Đức Phổ.
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Võ Sĩ M và bà Phùng Thị
N; Công nhận hiệu lực của hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng thửa đất số 877,
tờ bản đô sô 24, xã P giữa ông Võ Sĩ M, bà Phùng Thị N với ông Đoàn C, bà Trần Thị
L. Ông M, bà N có quyền sử dụng thửa đất số 877, tờ bản đồ số 24, xã p. Ông M, bà N

nghĩa vụ liên hệ cơ quan nhà nước có thẩm quyền để được cấp giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất đối với thửa đất số 877, tờ bản đồ số 24, xã p, huyện Đ, tỉnh Quảng Ngãi.
Ông Võ Sĩ M, bà Phùng Thị N phải có nghĩa vụ thanh toán tiếp cho ông Đoàn
C, bà Trần Thị L 10.000.000 đồng (Mười triệu đồng).
2. Không chấp nhận toàn bộ yêu cầu phản tố của ông Đoàn C, bà Trần Thị L và
những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan anh Đoàn Tấn L1, anh Đoàn Tấn N1,
chị Đoàn Thị Thu V, chị Đoàn Thị Mỹ N2 về việc tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng
quyền sử dụng đất ngày 10/8/2009 vô hiệu và giải quyết hậu quả của hợp đồng vô
hiệu.
3. Ghi nhận sự tự nguyện của ông Võ Sĩ M, bà Phùng Thị N về việc để quán
nước tạm có diện tích 25m2 dựng bằng cây bạch đàn, mái lợp tôn sắt, nền láng xi
măng của bà Nguyễn Thị MI được tiếp tục tồn tại trên thửa đất số 877, tờ bản đồ số 24
xã P.
4. Ghi nhận sự tự nguyện của ông Võ Sĩ M, bà Phùng Thị N về việc tự chịu chi
phí xem xét thẩm định tại chỗ.
5. Về án phí:
5.1. Ông Võ Sĩ M, bà Phùng Thị N không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm, hoàn
trả 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) tạm ứng án phí ông M, bà N đã nộp theo biên
lai số AA/2014/003 747 ngày 07/6/2017 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đức
Phố, tỉnh Quảng Ngãi.
5.2. Ông Đoàn C, bà Trần Thị L được miễn án phí dân sự sơ thẩm và phúc thẩm.
5.3. Các anh, chị Đoàn Tấn Ll, Đoàn Tấn Nl, Đoàn Thị Thu V, Đoàn Thị Mỹ
N2 không phải chịu án phí dân sự phúc thẩm. Hoàn trả cho mỗi người 300.000 đồng
(Ba trăm nghìn đồng) tạm ứng án phí phúc thấm đã nộp theo các biên lai thu tiền số
AA/2014/0003856, AA/2014/0003859, AA/2014/0003857, AA/2014/0003 858 cùng
ngày 19/10/2017 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đức Phổ, tỉnh Quảng Ngãi.
6. Kể từ ngày người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án, người phải
thi hành án chậm thi hành thì phải trả lãi đối với số tiền chậm thi hành án tương ứng
với thời gian chậm thi hành án theo mức lãi suất do bên được thi hành án và bên phải
thi hành án thỏa thuận; nếu không thỏa thuận thì thực hiện theo quy định tại khoản 2
Điều 357 của Bộ luật Dân sự năm 2015.
7. Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án
dân sự, thì người được thi hành án, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận
thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi
hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự. Thời
hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
8. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
CHUYÊN ĐỀ 5: KỸ NĂNG THU THẬP TÀI LIỆU
ThS. Hoàng Thị Minh Tâm ⃰
1. THU THẬP TÀI LIỆU
1.1. Khái niệm, ý nghĩa của việc thu thập tài liệu
Tài liệu là vật mang tin được hình thành trong quá trình hoạt động của cơ quan,
tổ chức, cá nhân25. Tài liệu bao gồm văn bản, dự án, bản vẽ thiết kế, bản đồ, công trình
nghiên cứu...
Trong lĩnh vực pháp lý hiện nay, các nguồn tài liệu khá đa dạng, phong phú.
Tùy thuộc vào mục đích thu thập mà lựa chọn các tài liệu tương ứng. Các nguồn tài
liệu thu thập thông thường gồm: văn bản pháp luật, bản án và quyết định của tòa án,
quan điểm của cơ quan nhà nước, bài viết trên các sách báo pháp lý chuyên ngành, các
tài liệu từ internet, các tài liệu do đương sự hoặc khách hàng cung cấp, các nguồn tài
liệu khác…
Có nhiều cách khác nhau trong việc phân loại tài liệu, tùy thuộc vào mục đích
và nhu cầu sử dụng tài liệu. Theo quy định tại Điều 94, Điều 95 Bộ luật Tố tụng dân
sự năm 2015 (sau đây gọi là Bộ luật TTDS năm 2015) tài liệu có thể được chia thành:
tài liệu đọc được, tài liệu nghe được, tài liệu nhìn được, dữ liệu điện tử.
Các tài liệu đọc được gồm: bản chính; bản sao có công chứng, chứng thực hợp
pháp; tài liệu do cơ quan, tổ chức có thẩm quyền cung cấp, xác nhận 26. Bản chính là
những giấy tờ, văn bản do cơ quan, tổ chức có thẩm quyền cấp lần đầu, cấp lại, cấp khi
đăng ký lại; nhưng giấy tờ, văn bản do cá nhân tự lập, có xác nhận và đóng dấu của cơ
quan, tổ chức có thẩm quyền. Còn bản sao là bản chụp từ bản chính hoặc bản đánh
máy có nội dung đầy đủ, chính xác như nội dung ghi trong sổ gốc27.
Các tài liệu nghe được, nhìn được phải được xuất tình kèm theo văn bản xác
nhận xuất xứ của tài liệu đó hoặc văn bản về sự liên quan tới việc thu âm, thu hình đó.
Các tài liệu này có thể là băng ghi âm, đĩa ghi âm, băng ghi hình, đĩa ghi hình…
Thông điệp, dữ liệu điện tử được thể hiện dưới hình thức trao đổi dữ liệu điện
tử, chứng từ điện tử, thư điện tử, điện tín, điện báo, fax và các hình thức tương tự khác
theo quy định của pháp luật về giao dịch điện tử28. Đồng thời, theo quy định tại Điều 4
Luật Giao dịch điện tử năm 2005 thì: “Dữ liệu là thông tin dưới dạng ký hiệu, chữ
viết, chữ

*
Thạc sĩ, Giảng viên Khoa Luật Dân sự - Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh.
25
Điều 2 Luật Lưu trữ năm 2011.
26
Nguyễn Hải An (2019), “Chứng cứ và chứng cứ điện tử theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam
và thực tiễn áp dụng”, Tạp chí Khoa học pháp lý, số 04 (125), 2019, tr. 38-53.
27
Khoản 5 và 6 Điều 2 Nghị định số 23/2015/NĐ-CP ngày 16/2/2015 của Chính Phủ.
28
Điều 95 Bộ luật TTDS năm 2015.
số, hình ảnh, âm thanh hoặc dạng tương tự [...]. Thông điệp dữ liệu là thông tin được
tạo ra, được gửi đi, được nhận và được lưu trữ bằng phương tiện điện tử.
Như vậy, thu thập tài liệu là quá trình xác định nguồn tài liệu, lựa chọn, tập hợp
tài liệu theo những tiêu chí cụ thể nhằm làm rõ những vấn đề, nội dung liên quan đến
lĩnh vực nhất định, đáp ứng mục tiêu đã được định trước.
Thông qua quá trình trao đổi với khách hàng để thu thập thông tin, luật
sư/người hành nghề luật có thể đồng thời yêu cầu khách hàng cung cấp các tài liệu cần
thiết liên quan đến vụ việc. Việc thu thập tài liệu đầy đủ sẽ giúp cho quá trình nghiên
cứu hồ sơ và giải quyết vụ việc chính xác và đầy đủ, làm cơ sở cho việc lưu trữ và sử
dụng tài liệu cho các vụ việc. Do vậy, khi tiếp xúc với khách hàng để thu thập tài liệu
hoặc trong quá trình nghiên cứu hồ sơ, nếu nhận thấy các thông tin và tài liệu mà
khách hàng cung cấp chưa đầy đủ, thì luật sư có thể hỏi và yêu cầu khách hàng cung
cấp bổ sung ngay, đồng thời lưu trữ bổ sung các tài liệu vừa thu thập được.
Thu thập tài liệu chính xác và đầy đủ sẽ giúp cho việc xử lý thông tin, tài liệu
hiệu quả có trọng tâm, đáp ứng yêu cầu của công việc. Ngược lại nếu thông tin, tài liệu
được thu thập không đầy đủ, thiếu chính xác sẽ có những tác động, ảnh hưởng đến
việc đánh giá kết quả, dẫn đến việc xử lý công việc thiếu tính thuyết phục và không
đáp ứng yêu cầu.
1.2. Các yêu cầu đối với việc thu thập tài liệu
1.2.1. Xác định mục đích của việc thu thập tài liệu
Yêu cầu cơ bản trong việc thu thập tài liệu là phải đảm bảo sự đầy đủ, chính
xác, trung thực, khách quan, đảm bảo tính pháp lý, giá trị thực tiễn của các tài liệu.
Bên cạnh đó, cần có sự sàng lọc kỹ càng để loại bỏ những thông tin, tài liệu không
chính xác để đảm bảo cho việc nghiên cứu tài liệu được tiết kiệm thời gian và đạt được
mục đích.
Xác định đúng mục đích của việc thu thập tài liệu sẽ giúp cho quá trình thu thập
nhanh chóng và đầy đủ, phục vụ tốt cho quá trình nghiên cứu và phân tích hồ sơ vụ
việc. Đồng thời, việc xác định đúng mục đích thu thập cũng giúp loại bỏ những tài liệu
không liên quan, chọn lọc những tài liệu phù hợp với nhu cầu, mục đích sử dụng.
1.2.2. Xác định và phân loại nguồn tài liệu cần thu thập
Người thu thập cần ưu tiên chú trọng các tài liệu chính thống do khách hàng,
đối tác, cơ quan nhà nước… cung cấp. Đối với các tài liệu là văn bản quy phạm pháp
luật, cần chú trọng đến hiệu lực pháp lý của văn bản.
Đối với nguồn thông tin không chính thống: đó là các thông tin thu được qua
phản ánh của các phương tiện thông tin đại chúng, qua phản ánh của các cơ quan, tổ
chức cá nhân. Đây là nguồn thông tin mở, phản ánh đa chiều, có nhiều ý kiến, quan
điểm
khác nhau. Vì vậy, khi tiếp nhận thông tin, người thu thập cần phải kiểm tra độ tin cậy
của thông tin, tính khoa học, tính chính xác của thông tin. Khi thông tin đã được kiểm
tra, kiểm chứng và khẳng định được tính chính xác của thông tin thì mới được sử dụng
thông tin để phục vụ việc xử lý công việc.
1.2.3. Tuân thủ các nguyên tắc trong quá trình giao tiếp với người cung cấp
thông tin, tài liệu
Khi làm việc với tư cách của người hành nghề luật, dù ở bất kỳ vị trí nào, bạn sẽ
phải giao tiếp với người cung cấp thông tin, tài liệu. Khi giao tiếp với họ, bạn cần luôn
tỏ ra lịch sự, tôn trọng, chừng mực và có cách thức phù hợp để khuyến khích họ cung
cấp cho bạn đầy đủ, toàn diện các thông tin, tài liệu liên quan vụ việc. Do đó, cần thực
hiện những nguyên tắc cơ bản trong giao tiếp sau đây:
Một là, luôn lịch sự, tôn trọng người cung cấp thông tin, tài liệu. Bên cạnh đó,
cần nắm bắt các thông tin cơ bản về đối tượng giao tiếp để sử dụng ngôn ngữ, thái độ
và tác phong phù hợp. Để giao tiếp tốt, người hành nghề luật cần có khả năng diễn đạt
rành mạch, rõ ràng các nội dung vấn đề, vận dụng đúng giọng điệu, ngôn ngữ trong
các trường hợp giao tiếp cụ thể29.
Hai là, xác định rõ mục đích giao tiếp. Tất cả các cuộc giao tiếp trong nghề luật
đều là những cuộc giao tiếp có mục đích. Vì vậy cần xác định rõ mục đích giao tiếp,
vạch ra các nội dung cần trao đổi trong buổi giao tiếp và dự kiến các tình huống có thể
xảy ra trong buổi giao tiếp30.
Ba là, luôn có thái độ tích cực để khuyến khích người cung cấp thông tin
chuyển giao tối đa tài liệu có liên quan. Người hành nghề luật cần rèn luyện kỹ năng
lắng nghe tích cực và kỹ năng đặt câu hỏi để áp dụng khi giao tiếp với người cung cấp
thông tin, tài liệu. Giao tiếp có tính chất hai chiều, nếu người hành nghề luật lắng nghe
hời hợt, qua loa thì có thể bỏ sót các thông tin quan trọng, từ đó sẽ ảnh hưởng đến
nguồn tài liệu có thể thu thập được. Do vậy, cần rèn luyện kỹ năng nghe một cách
chính xác và đúng trọng tâm, để có thể tổng hợp và nắm bắt đúng thông tin pháp lý của
vụ việc, đồng thời nên ghi chép ngắn gọn những thông tin quan trọng thu thập được.
1.2.4. Kỹ năng giao tiếp và đặt câu hỏi để thu thập thông tin, tài liệu
Giao tiếp và đặt câu hỏi thu thập thông tin là nền tảng của tất cả những hoạt
động tiếp theo của người hành nghề luật. Sự chính xác của các thông tin thu được
trong giai đoạn này là cơ sở cho toàn bộ quá trình giải quyết một vụ việc. Do đó nó
phải được thực

29
Học viện Tư pháp, Giáo trình Kỹ năng mềm trong nghề Luật, Lê Thị Thúy Nga (chủ biên), Nxb Tư pháp, 2021,
tr. 58.
30
Học viện Tư pháp, Giáo trình Kỹ năng mềm trong nghề Luật (tldd), tr. 59.
hiện một cách hiệu quả. Một người hành nghề luật có kỹ năng tốt là người biết đặt ra
những câu hỏi đúng nhằm đạt được những thông tin cần thiết để có thể nắm được dữ
liệu về sự việc một cách khách quan và toàn diện nhất, từ đó đưa ra phương án giải
quyết vấn đề trong mục tiêu và trách nhiệm của mình một cách tốt nhất.
Không phải mọi khách hàng/đối tượng cung cấp thông tin đều có thể xác định
được đâu là những thông tin mấu chốt cần cung cấp. Trong những trường hợp này, để
có thể nắm bắt được những thông tin hữu ích, luật sư/người thu thập thông tin cần có
những định hướng thông qua việc đặt các câu hỏi đóng và câu hỏi mở.
Mục tiêu chung nhất của bất kỳ cuộc giao tiếp nào là để xác định tất cả những
dữ kiện liên quan, cung cấp nền tảng tốt nhất có thể cho mối quan hệ tiếp theo, và từ
đó đạt những kết quả tốt nhất. Vì thế quá trình này phải được thực hiện trong sự tôn
trọng lẫn nhau, với ưu tiên hàng đầu là tạo lập một mối quan hệ tốt đẹp đúng chuẩn
mực. Điều này hỗ trợ cho sự thảo luận, chia sẻ thông tin, tài liệu một cách đầy đủ,
trung thực, và hỗ trợ đạt được những kết quả pháp lý chính xác, công bằng nhất.
Khi tập trung lắng nghe, người hành nghề luật mới có thể tiếp nhận đầy đủ
thông tin từ khách hàng cung cấp. Hơn nữa, việc tập trung lắng nghe còn thể hiện sự
tôn trọng đối với người cung cấp thông tin. Đồng thời, trên cơ sở các thông tin được
thu thập, người hành nghề luật mới có thể yêu cầu cung cấp các tài liệu tương ứng, phù
hợp với mong muốn và yêu cầu của khách hàng 31. Trong khi lắng nghe các thông tin
cùng với những tài liệu mà khách hàng cung cấp, luật sư/người tiếp nhận thông tin nên
giữ thái độ khách quan, chừng mực.
Bên cạnh đó, để đạt được hiệu quả trong giao tiếp và thu thập thông tin, tài liệu,
việc lắng nghe không phải một chiều mà cần có sự tương tác giữa các bên. Việc đặt
câu hỏi sẽ giúp xác nhận các thông tin của vụ việc. Việc đặt câu hỏi để làm rõ các nội
dung thông tin, tài liệu mà khách hàng cung cấp nhằm làm rõ bối cảnh của vụ việc và
xác định đúng yêu cầu của khách hàng. Trên cơ sở thu thập đầy đủ các thông tin, tài
liệu, luật sư mới có thể đưa ra các ý kiến tư vấn đúng, hợp lý, hợp pháp, đáp ứng yêu
cầu của khách hàng32.
Cũng cần lưu ý rằng, để có cái nhìn khách quan và toàn diện vấn đề, người thu
thập cần kiểm tra các thông tin, tài liệu thu thập được. Mặt khác, không nên vội vàng
đưa ra các nhận định, đánh giá hay kết luận một vấn đề một cách vội vàng khi chưa có
quá trình nghiên cứu kỹ các tài liệu thu thập được. Vì rất có thể, các tài liệu thu thập

31
Học viện Tư pháp, Giáo trình Kỹ năng tư vấn pháp luật và tham gia giải quyết tranh chấp ngoài tòa án của luật
sư, Nguyễn Thị Vân Anh-Nguyễn Thị Minh Huệ (chủ biên), Nxb Tư pháp, 2020, tr. 52.
32
Học viện Tư pháp, Giáo trình Kỹ năng tư vấn pháp luật và tham gia giải quyết tranh chấp ngoài tòa án của luật
sư (tldd), tr.53.
được chỉ mang tính chất một chiều, rất có thể phía đối tác hoặc phía bên kia đang nắm
giữ những thông tin, tài liệu khác so với tài liệu mà chúng ta đang thu thập được.
1.3. Kỹ năng thu thập các loại tài liệu cụ thể
1.3.1. Thu thập tài liệu trong lĩnh vực hình sự
Đây là khâu đầu tiên một luật sư phải làm để tiến hành cho công tác nghề
nghiệp của mình, tư vấn và bào chữa cho khách hàng. Tài liệu có thể chia thành hai
loại33: Thứ nhất, đó là nguồn tài liệu mà luật sư không thể tự mình thu thập được,
chính là hồ sơ vụ án hình sự, thường có được trên cơ sở sự chuyển giao của các cơ
quan cơ quan tiến hành tố tụng cho luật sư; Thứ hai, đó là nguồn tài liệu mà luật sư
phải tự mình thu thập.
Hồ sơ vụ án hình sự là tổng hợp các văn bản, tài liệu được các cơ quan tiến
hành tố tụng thu thập hoặc lập ra trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử vụ án
hình sự, được sắp xếp theo một trình tự nhất định phục vụ cho việc giải quyết vụ án và
lưu trữ lâu dài.
Trật tự của các văn bản trong hồ sơ vụ án hình sự: được sắp xếp theo một trình
tự nhất định, theo nhóm tài liệu, lấy thời gian thu thập làm căn cứ để sắp xếp theo thứ
tự tài liệu thu thập trước để ở trên, tài liệu thu thập sau để ở dưới. Cụ thể như: Các văn
bản về khởi tố vụ án, khởi tố bị can; Các văn bản về thủ tục trong việc áp dụng, thay
đổi, huỷ bỏ biện pháp ngăn chặn; Các tài liệu về kết quả điều tra không thuộc lời khai
của những người tham gia tố tụng; Biên bản ghi lời khai của người tham gia tố tụng;
Tài liệu về nhân thân bị can; Tài liệu về nhân thân người bị hại; Các tài liệu về đình
chỉ, tạm đình chỉ điều tra; Tài liệu kết thúc điều tra; Tài liệu về truy tố; Tài liệu trong
giai đoạn xét xử… Với mỗi nhóm tài liệu, cần được sắp xếp theo thứ tự thời gian để
việc đọc và tra cứu tài liệu thuận lợi hơn, dễ nắm bắt được diễn biến của vụ việc. Khi
thu thập các tài liệu này, cần lưu ý tôn trọng trật tự hồ sơ đã được sắp xếp, lập danh
mục các tài liệu có trong hồ sơ để thuận tiện cho việc đọc, nghiên cứu và lưu trữ hồ sơ.
Đối với các tài liệu khác do luật sư tự thu thập để phục vụ cho công việc bào
chữa, luật sư có thể thu thập thêm những tài liệu khác, cụ thể như 34: các biên bản xác
minh của cơ quan điều tra, Viện kiểm sát; các nhận xét của cơ quan đoàn thể; các đơn
từ khiếu nại và yêu cầu của những người tham gia tố tụng; Tìm ra những chứng cứ có
lợi cho người mình bảo vệ, bác bỏ những điểm mâu thuẫn, bất hợp lý trong chứng cứ
bất lợi để đề nghị Toà án bác bỏ…

33
Xem Học Viện Tư Pháp, Giáo trình Kỹ Năng Giải Quyết Vụ Án Hình Sự, Nxb Lao Động, 2007, tr. 259 – 261.
34
Học Viện Tư Pháp, Giáo trình Kỹ Năng Giải Quyết Vụ Án Hình Sự, tldd, tr. 255.
Luật sư cũng có thể thu thập tài liệu khác như35: các tài liệu, đồ vật, tình tiết liên
quan mà luật sư định thu thập phải là những tài liệu có lợi cho bị cáo để chứng minh là
bị cáo không có tội, phạm tội nhẹ hơn hoặc được giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, giảm
nhẹ mức bồi thường. Ngoài ra để bảo đảm tính thực tế, các tài liệu, đồ vật, tình tiết liên
quan đó phải không thuộc bí mật nhà nước, bí mật công tác và luật sư có khả năng thu
thập được.
Luật sư có thể tìm những thông tin này qua việc gặp gỡ trao đổi với bị can, bị
cáo, hoặc yêu cầu người thân thích của bị can cung cấp các tài liệu liên quan đến vụ án
mà họ có, hoặc đến các cơ quan, tổ chức, gặp cá nhân có liên quan đề nghị cung cấp.
Luật sư cũng có thể thu thập ý kiến của người có liên quan như thu thập bản tường
trình của những người hàng xóm của bị can để chứng minh người bị hại đã có hành vi
xâm hại quyền lợi của gia đình bị can trước khi tội phạm xảy ra, chụp ảnh, quay phim
nơi xảy ra tội phạm để tìm những tình tiết có lợi cho việc bào chữa và thu thập các tài
liệu khác, đồ vật, tình tiết có lợi cho bị cáo36. Mục đích của việc thu thập này là để làm
rõ hơn nữa sự thật của vụ án, giải thích pháp luật cho bị can bị cáo và thống nhất
phương án bào chữa tại phiên tòa.
Như vậy, đối với kỹ năng thu thập tài liệu trong các vụ án hình sự, có hai loại
nguồn tài liệu chính: hồ sơ vụ án được luật sư thu thập thông qua các cơ quan tiến
hành tố tụng và các loại tài liệu khác, đồ vật, tình tiết do bản thân luật sư tự thu thập để
phục vụ cho lợi ích của bị can, bị cáo và cho hiệu quả của việc bào chữa cho khách
hàng của mình. Khi đã thu thập tương đối đầy đủ, luật sư phải chuyển sang phần thứ
hai đóng vai trò rất quan trọng trong nghề nghiệp: nghiên cứu, phân tích hồ sơ, đánh
giá các tài liệu đó tìm ra những điểm có ý nghĩa đến việc bào chữa và… đây là giai
đoạn có ảnh hưởng lớn đến lợi ích của bị can, bị cáo.
1.3.2. Thu thập tài liệu trong các vụ việc dân sự
Đối với các vụ việc dân sự, những tài liệu luật sư cần phải thu thập trước khi
tiến hành phân tích nghiên cứu hồ sơ của vụ việc dân sự cụ thể như37:
- Hồ sơ vụ án (do cơ quan tòa án cung cấp)
- Hồ sơ của nguyên đơn (do phía nguyên đơn cung cấp): đơn kiện, hồ sơ khởi
kiện của nguyên đơn gồm những chứng cứ, tài liệu quan trọng làm cơ sở cho yêu cầu
khởi kiện của nguyên đơn và làm sáng tỏ yêu cầu của mình và các tài liệu khác (ví dụ
giấy ủy quyền, giấy đăng ký kinh doanh, biên bản làm việc…)

35
Học Viện Tư Pháp, Giáo trình Kỹ Năng Giải Quyết Vụ Án Hình Sự, tldd, tr. 257 và 260.
36
Học Viện Tư Pháp, Giáo trình Kỹ Năng Giải Quyết Vụ Án Hình Sự, tldd, tr. 257 và 260.
37
Xem Học Viện Tư Pháp, Giáo trình Kỹ Năng Giải Quyết Vụ Việc Dân Sự, tldd, tr. 285-302.
- Hồ sơ của bị đơn (do phía bị đơn cung cấp): gồm các tài liệu mà bị đơn dùng
để phản bác lại yêu cầu của nguyên đơn, các tài liệu chứng minh cho các yêu cầu, phản
yêu cầu của bị đơn…
- Các tài liệu do tòa án xác minh thu thập được: thông thường gồm nội dung
lời khai của những người tham gia tố tụng; các tài liệu khác có trong hồ sơ (ví dụ như
chứng cứ viết, kết luận giám định…).
Nhìn chung, sẽ không có một công thức chung nào cho việc thu thập tài liệu.
Tùy thuộc vào bản chất và nội dung của mỗi vụ việc mà việc thu thập tài liệu cũng sẽ
có sự khác nhau. Trên cơ sở kinh nghiệm và kiến thức pháp luật, người thu thập sẽ xác
định những tài liệu cần thu thập và phương thức thu thập tài liệu một cách phù hợp.
1.3.3. Thu thập tài liệu trong vụ việc hành chính
Luật sư khi tham gia giải quyết vụ án hành chính có thể với tư cách là người dại
diện theo ủy quyền hoặc người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho các đương sự.
Dù tham gia với tư cách nào thì luật sư luôn có quyền và nghĩa vụ thu thập tài liệu,
chứng cứ để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho các bên đương sự 38. Để thu thập tài
liệu, chứng cứ, luật sư cần phải xác định vấn đề cần chứng minh. Trước khi thực hiện
các biện pháp thu thập chứng của của mình, luật sư cần xác định các tài liệu, chứng cứ
do khách hàng cung cấp. Việc làm này sẽ giúp luật sư phát hiện được những tài liệu
còn thiếu, cần phải tiếp tục tiến hành thu thập.
Tài liệu được hiểu là bất cứ tài liệu bằng văn bản nào được ghi trên giấy hoặc
các phương tiện điện tử (tài liệu đọc được, nghe được, nhìn được; thông điệp dữ liệu
điện tử)39. Tài liệu có thể là hợp đồng văn bản, thư điện tử; tài liệu trong quá tình kiểm
tra, thanh tra; hồ sơ, giấy tờ liên quan đến một thủ tục hành chính cụm thể… Thông
thường các tài liệu đó đã có sẵn đối với mỗi bên đương sự của vụ án. Các tài liệu ban
đầu đối với mỗi vụ án mà mỗi bên đưa ra dùng làm căn cứ để biện hộ cho mình trước
tòa án có thể rất khác nhau, phụ thuộc vào từng vấn đề và tính chất phức tạp của vấn
đề40.
Trong trường hợp không thể tự mình thu thập được tài liệu, chứng cứ, luật sư có
quyền yêu cầu tòa án áp dụng các biện pháp thu thập tài liệu, chứng cứ theo quy định
của pháp luật tố tụng hành chính41.
2. QUẢN LÝ VÀ LƯU TRỮ TÀI LIỆU

38
Điều 61 Luật Tố tụng Hành chính.
39
Điều 81 Luật Tố tụng Hành chính.
40
Học viện Tư pháp, Giáo trình Kỹ năng tham gia giải quyết các vụ án hành chính, Nxb Tư pháp, 2018, tr. 108-
109.
41
Điều 83, Điều 93 Luật Tố tụng Hành chính.
Trong quá trình làm việc, người hành nghề luật luôn phải tiếp nhận khối lượng
lớn hồ sơ, tài liệu từ các nguồn khác nhau như: tài liệu từ khách hàng cung cấp, các tài
liệu từ quá trình người hành nghề luật tự thu tập, tài liệu sao chụp được từ cơ quan
chức năng có thẩm quyền… Vì vậy, việc phân loại, sắp xếp và lưu trữ hồ sơ là một kỹ
năng cần thiết và quan trọng.
2.1. Phân loại, lập hồ sơ tài liệu
Việc phân loại và sắp xếp hồ sơ, tài liệu đóng vai trò rất quan trọng, bởi tài liệu
đó không chỉ sử dụng một lần mà có thể sử dụng nhiều lần để giải quyết trong cùng
một vụ việc hoặc giải quyết các vụ việc tương tự về sau. Tập tài liệu với mục lục và
các tài liệu đã được phân loại và sắp xếp hợp lý không những tạo thuận lợi cho quá
trình giải quyết vụ việc, mà còn thể hiện tính khoa học, chuyên nghiệp trong quản lý
và khai thác tài liệu.
Nếu hồ sơ được phân loại và sắp xếp khoa học, có hệ thống, người hành nghề
luật sẽ dễ dàng kiểm tra, sắp xếp, lưu trữ và tìm kiếm tài liệu. Các tài liệu thu thập
được cần có sự phân loại theo lĩnh vực pháp lý (lĩnh vực dân sự, hình sự, lao động…).
Trong cùng một lĩnh vực, nên chia nhỏ hồ sơ theo nhóm vấn đề cụ thể. Sau khi phân
loại, hồ sơ cần được sắp xếp một cách khoa học.
Các tài liệu sau khi thu thập cần được sắp xếp theo một trật tự nhất định. Có
nhiều cách sắp xếp tài liệu khác nhau mà người thu thập và quản lý tài liệu có thể vận
dụng như: sắp xếp tài liệu theo diễn biến của vụ việc từ khi bắt đầu đến khi kết thúc
hoặc ngược lại; sắp xếp theo nhóm tài liệu; sắp xếp theo thứ tự và tầm quan trọng của
loại tài liệu; sắp xếp theo mức độ và tần suất dự kiến sẽ sử dụng đến tài liệu đó…
Thông thường, tài liệu có thể được sắp xếp theo thứ tự về mặt thời gian hoặc
theo nhóm tài liệu. Cũng có thể sắp xếp kết hợp giữa việc phân nhóm tài liệu thu thập
được và với mỗi nhóm tài liệu như vậy, cần được sắp xếp theo thứ tự thời gian. Như
vậy sẽ giúp cho việc đọc, ghi chép nội dung chính vụ việc và việc lưu trữ sẽ thuận lợi,
dễ tra cứu hơn.
Cùng với việc sắp xếp tài liệu, nên đánh số thứ tự các tài liệu và lập mục lục các
tài liệu đã được sắp xếp, lưu trữ tài liệu an toàn và bảo mật.
2.2. Lưu trữ tài liệu
Quản lý hồ sơ hiệu quả tạo điều kiện cho việc giải quyết vụ việc nhanh chóng,
hiệu quả và quản lý các vấn đề pháp lý một cách phù hợp. Tài liệu được lưu trữ không
những giúp chúng ta xử lý công việc hiệu quả ở thời điểm hiện tại mà còn giúp sử
dụng và khai thác tài liệu trong tương lai khi cần đến. Đặc biệt, đối với những vụ việc
hoặc
giao dịch tương tự diễn ra sau đó, thì đây là các tiền lệ vô giá có thể sử dụng đi sử
dụng lại trong một thời gian dài42.
Việc lưu trữ tài liệu nên được thực hiện theo các tiêu chuẩn cụ thể, phân loại
các loại tài liệu để tiện cho việc tra cứu khi cần. Thông thường, trong một vụ việc cụ
thể, sẽ có những tài liệu quan trọng hơn so với những tài liệu khác mà chỉ người xử lý
vụ việc đó mới có thể biết được. Do vậy, khi lưu trữ nên lưu ý tiêu chuẩn tài liệu, cách
thức đặt tên tài liệu để tài liệu lưu trữ có tính thống nhất và dễ tìm kiếm khi cần thiết43.
Thông thường, các tài liệu được lưu trữ dưới dạng bản giấy để sử dụng lâu dài.
Đối với tài liệu bản giấy, sẽ giúp dễ đọc, dễ theo dõi hơn so với những tài liệu bản
mềm. Khi lưu trữ các tài liệu này, người hành nghề luật cần photo lại hồ sơ từ tài liệu
gốc, ghi nhận số lượng và nội dung tài liệu, đóng thành tập hồ sơ giấy và lưu lại trong
tủ hồ sơ hoặc kho lưu trữ. Các tập hồ sơ cần đính kèm danh mục liệt kê các tài liệu có
trong hồ sơ. Nhờ vào danh mục này mà người hành nghề luậ có thể sắp xếp, quản lý và
tra cứu hồ sơ nhanh chóng.
Ngày nay, với sự phát triển của công nghệ thông tin, các tài liệu có thể được lưu
trữ với nhiều hình thức khác nhau. Việc lưu trữ tài liệu dưới dạng hồ sơ điện tử có ưu
thế là có thể lưu trữ lâu dài, tra cứu thuận tiện khi cần di chuyển. Đối với hình thức lưu
trữ này, trước hết các tài liệu nên được scanner để chuyển hóa thành tài liệu số, đặt tên
và đánh số thứ tự để lưu trữ hồ sơ. Nên lưu thành các thư mục tương ứng, có đánh số,
tên lưu trữ và chú thích cụ thể để tiện cho việc tra cứu.
Đối với những tài liệu gốc cần được lưu trữ và bảo quản riêng biệt, đảm bảo sự
an toàn và bảo mật của các tài liệu. Khi nhận các tài liệu, hồ sơ bản chính, người hành
nghề luật nên lập biên bản giao nhận cụ thể, bảo quản tốt các tài liệu đã thu thập.
Đối với các hồ sơ, tài liệu liên quan đến những vụ việc đã được giải quyết xong,
người hành nghề luật cần giảm tải khố lượng hồ sơ bằng cách lưu vào kho lưu trữ hoặc
hoàn trả lại tài liệu cho khách hàng. Khi lưu trữ vào kho, cần đảm bảo tính an toàn và
bảo mật của tài liệu. Đối với những tài liệu đã được số hóa, sau khi vụ việc đã được
giải quyết xong, người hành nghề luật nên lưu giữ hồ sơ bằng tệp tin đã được số hóa,
và có thể sử dụng khi cần thiết ở những thời gian sau, đối với các vụ việc liên quan,
tương tự.

42
Trương Nhật Quang, Kỹ năng hành nghề Luật sự tư vấn- Chia sẻ kinh nghiệm hành nghề thực tế tại Việt Nam,
Nxb Lao động, 2017, tr. 279.
43
Trương Nhật Quang (tldd), tr. 281.
CHUYÊN ĐỀ 6: KỸ NĂNG NGHIÊN CỨU HỒ SƠ
ThS. Huỳnh Quang Thuận ⃰
1. CÁC VẤN ĐỀ CHUNG CỦA KỸ NĂNG NGHIÊN CỨU HỒ SƠ
1.1. Mục tiêu chung của chuyên đề
- Mục tiêu nhận thức: Sau khi kết thúc thành công chuyên đề, sinh viên có
thể:
+ Về kiến thức:
- Nắm được kỹ năng nghiên cứu hồ sơ nói chung và trong các vụ việc dân sự,
hành chính, hình sự nói riêng.
- Tầm quan trọng của kỹ năng nghiên cứu hồ sơ.
+ Về kỹ năng:
- Hình thành kỹ năng nghiên cứu hồ sơ.
- Có kỹ năng nghiên cứu hồ sơ.
- Có khả năng vận dụng những tri thức đã được học vào việc nghiên cứu hồ
sơ.

- Nhận xét, đánh giá từ góc độ lý luận và thực tiễn về kỹ năng nghiên cứu hồ
sơ.

+ Về thái độ:
- Nhận thức đúng đắn, khách quan, toàn diện về vai trò của kỹ năng nghiên
cứu hồ sơ.
- Nâng cao trình độ nhận thức về kỹ năng nghiên cứu hồ sơ.
- Đề xuất các giải pháp để ứng dụng kỹ năng nghiên cứu hồ sơ.
- Các mục tiêu khác:
- Góp phần trau dồi, phát triển năng lực đánh giá.
- Góp phần rèn kỹ năng lập kế hoạch, tổ chức, quản lý, theo dõi kiểm tra việc
thực hiện chương trình học tập.
1.2. Mục tiêu nhận thức chi tiết
- Nhận biết những vẫn đề chung về kỹ năng nghiên cứu hồ sơ.

*
Thạc sĩ, Giảng viên Khoa Luật Dân sự - Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh.
- Thực hiện được cơ bản các bước để nghiên cứu hồ sơ.
2. TÓM TẮT NỘI DUNG CHUYÊN ĐỀ KỸ NĂNG NGHIÊN CỨU HỒ

2.1. Khái niệm và vai trò của nghiên cứu hồ sơ
2.1.1. Khái niệm nghiên cứu hồ sơ
Theo từ điển tiếng Việt, “hồ sơ” là “tài liệu tổng hợp, có liên quan với nhau về
một người, một sự việc hay một vấn đề” 1. Theo khoản 10 Điều 2 Luật Lưu trữ năm
2011, hồ sơ được định nghĩa là là một tập tài liệu có liên quan với nhau về một vấn
đề, một sự việc, một đối tượng cụ thể hoặc có đặc điểm chung, hình thành trong quá
trình theo dõi, giải quyết công việc thuộc phạm vi chức năng, nhiệm vụ của cơ
quan, tổ chức, cá nhân. Theo khoản 2 Điều 2 Luật Lưu trữ năm 2011, tài liệu là vật
mang tin được hình thành trong quá trình hoạt động của cơ quan, tổ chức, cá nhân.
Tài liệu bao gồm văn bản, dự án, bản vẽ thiết kế, bản đồ, công trình nghiên cứu, sổ
sách, biểu thống kê; âm bản, dương bản phim, ảnh, vi phim; băng, đĩa ghi âm, ghi
hình; tài liệu điện tử; bản thảo tác phẩm văn học, nghệ thuật; sổ công tác, nhật ký,
hồi ký, bút tích, tài liệu viết tay; tranh vẽ hoặc in; ấn phẩm và các vật mang tin khác.
Như vậy, hồ sơ là nơi chứa đựng những thông tin cần thiết về hoạt động của cơ
quan, tổ chức, cá nhân.
Mặt khác, theo từ điển tiếng Việt, “nghiên cứu” được hiểu là “xem xét, tìm
hiểu kỹ lưỡng để nắm vững vấn đề, giải quyết vấn đề hay để rút ra những hiểu biết
mới”2. Kết hợp với khái niệm về hồ sơ được phân tích ở trên, có thể hiểu Nghiên
cứu hồ sơ là quá trình xem xét, đối chiếu, phân tích các tài liệu có trong hồ sơ vụ án
để xác định các vấn đề cần phải xử lý tiếp. Nghiên cứu hồ sơ đồng thời cũng là quá
trình đánh giá các tài liệu đó trong mối quan hệ biện chứng nhằm xâu chuỗi các tình
tiết, sự kiện được ghi nhận trong các tài liệu, để xác định bản chất của sự việc, từ đó
đề ra hướng giải quyết phù hợp3.
Hồ sơ được phân chia thành nhiều loại. Trong các ngành nghề về luật chính
hiện nay, hồ sơ có thể được phân chia thành: hồ sơ vụ án (bao gồm hình sự, dân sự,
hành chính), hồ sơ doanh nghiệp, hồ sơ nhân sự… Mỗi loại hồ sơ sẽ bao gồm những
tài liệu khác nhau. Ví dụ: hồ sơ vụ án dân sự sẽ bao gồm: đơn khởi kiện, thông báo
thụ lý vụ án, bản tự khai của các đương sự, giấy triệu tập của Tòa án, các biên bản
về

1
Viện Ngôn ngữ học, Từ điển tiếng Việt, Nxb. Hồng Đức, 2018, tr. 576.
2
Viện Ngôn ngữ học, Từ điển tiếng Việt, Nxb. Hồng Đức, 2018, tr. 861.
3
Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Trị, “Đổi mới phương pháp nghiên cứu hồ sơ án dân sự thông qua sơ đồ
hình vẽ”, https://vksquangtri.gov.vn/bai-viet/doi-moi-phuong-phap-nghien-cuu-ho-so-an-dan-su-thong-qua-
so-do-hinh-ve-186, truy cập ngày 30/10/2022.
phiên hợp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, biên bản
thu thập chứng cứ, các quyết định của Tòa án…. Hồ sơ vụ án hình sự có thể bao
gồm: Quyết định khởi tố vụ án; Quyết định khởi tố bị can; Các quyết định phê
chuẩn của Viện kiểm sát; Các quyết định áp dụng biện pháp ngăn chặn; Kết luận
điều tra; Bản Cáo trạng...
2.1.2. Vai trò của nghiên cứu hồ sơ
Việc nghiên cứu hồ sơ đóng vai trò rất quan trọng đối với việc đạt được kết
quả của công việc đang tiến hành, thể hiện cụ thể ở các nội dung sau đây:
Thứ nhất, nghiên cứu hồ sơ giúp hiểu được yêu cầu của khách hàng. Khi
khách hàng đến yêu cầu cung cấp dịch vụ pháp lý, khách hàng sẽ có những yêu cầu
riêng của mình. Việc nghiên cứu hồ sơ giúp cho Luật sư hoặc bên cung cấp dịch vụ
có thể xác định được cơ sở để đàm phán, đưa ra mức giá dịch vụ hợp lý với khách
hàng. Nếu không nghiên cứu kỹ hồ sơ vụ việc, Luật sư có thể đưa ra mức giá không
phù hợp với mức độ phức tạp của sự việc, dẫn đến mất uy tín đối với khách hàng.
Mặt khác, việc nghiên cứu kỹ hồ sơ vụ việc giúp Luật sư, người cung cấp
dịch vụ pháp lý có thể hiểu được một cách chính xác yêu cầu của khách hàng, cũng
như là những thông tin mà khách hàng cố ý che giấu hoặc bị quên. Việc nghiên cứu
hồ sơ vụ việc một cách kỹ lưỡng còn giúp cho Luật sư, người cung cấp dịch vụ
pháp lý xác định được vấn đề pháp lý cần giải quyết, từ đó xác định các văn bản
pháp luật, án lệ cần được tra cứu để giải quyết các yêu cầu của khách hàng.
Thứ hai, nghiên cứu hồ sơ vụ án giúp nâng cao chất lượng tranh tụng tại Tòa
án. Đối với việc tham gia tố tụng tại Tòa án, cho dù là vụ án dân sự, vụ án hình sự
hay vụ án hành chính, việc nghiên cứu hồ sơ vụ án giúp cho các bên có thể có sự
chuẩn bị tốt nhất trong việc tham gia tranh tụng tại phiên tòa. Bởi lẽ, chỉ khi nào
nghiên cứu hồ sơ một cách kỹ lưỡng, chi tiết, các bên đương sự hoặc Kiểm sát viên
mới có thể viện dẫn các căn cứ, cơ sở pháp lý, lời khai… trong quá trình tranh tụng
tại Tòa án. Nếu không nghiên cứu kỹ hồ sơ vụ án, khi tham gia tranh tụng tại phiên
tòa dễ gặp lúng túng, không biết nên sử dụng tình tiết nào, chứng cứ nào để bác bỏ
lập luận của đối phương.
Thông thường, việc tranh tụng ở phiên tòa sẽ diễn ra liên tục, các bên không
có nhiều thời gian để suy nghĩ hay lục tìm lại tài liệu trong hồ sơ vụ án. Do đó, việc
nghiên cứu kỹ hồ sơ vụ án giúp các bên khi tham gia tranh tụng có thể chủ động và
sàng lọc thông tin một cách nhanh nhất, tìm ra được các mâu thuẫn trong lời trình
bày, lập luận của đối phương để khai thác, tìm ra lợi thế cho bản thân.
Mặt khác, khi đã nghiên cứu kỹ hồ sơ, người tham gia tranh tụng sẽ có thể có
tâm lý tự tin, thoải mái khi tham gia tranh tụng, đồng thời có thể truyền đạt một
cách tốt nhất quan điểm cá nhân đến Hội đồng xét xử và các bên khác tham gia vào
quá trình tranh tụng.
2.2. Các yêu cầu của việc nghiên cứu hồ sơ
Việc nghiên cứu hồ sơ cần phải đáp ứng các yêu cầu sau:
Thứ nhất, nghiên cứu hồ sơ phải toàn diện. Tùy thuộc vào từng loại hồ sơ mà
các tài liệu trong hồ sơ có thể có sự khác biệt. Tuy nhiên, để việc nghiên cứu hồ sơ
được tiến hành một cách chính xác, cần phải nghiên cứu một cách toàn diện tất cả
các tài liệu có trong hồ sơ. Điều này có nghĩa là, khi nghiên cứu hồ sơ, cần phải sắp
xếp, đọc, nghiên cứu toàn bộ những tài liệu có trong hồ sơ, không được bỏ sót bất
kỳ chi tiết nào, vì đôi khi những chi tiết rất nhỏ lại có ảnh hưởng rất lớn đến kết quả
giải quyết vụ việc.
Thứ hai, nghiên cứu hồ sơ phải hệ thống. Việc nghiên cứu hồ sơ đòi hỏi tính
hệ thống vì số lượng tài liệu có trong một hồ sơ có thể rất nhiều, đan xen với nhau.
Do đó, để việc nghiên cứu hồ sơ đạt được kết quả tốt nhất, cần phải hệ thống hóa
các tài liệu trong hồ sơ theo những cách thức khác nhau (tùy vào người nghiên cứu)
nhưng phải đảm bảo thuận tiện cho việc theo dõi, tìm và đọc tài liệu trong hồ sơ.
Thứ ba, nghiên cứu hồ sơ phải độc lập, khách quan. Việc nghiên cứu hồ sơ
có mục đích là đưa ra được phương hướng giải quyết cho sự việc dưới quan điểm cá
nhân. Do đó, khi nghiên cứu hồ sơ, cần dựa vào những tình tiết có trong tài liệu,
chứng cứ trong hồ sơ vụ án, tránh bị phân tâm, chi phối bởi ý kiến của người khác.
Có như vậy thì những kết luận đưa ra mới bám sát vào những thông tin có trong hồ
sơ vụ án và đảm bảo tính chính xác một cách cao nhất.
2.3. Các phương pháp nghiên cứu hồ sơ
Việc nghiên cứu hồ sơ có thể được thực hiện theo các phương pháp sau đây
Thứ nhất, phương pháp nghiên cứu tổng thể. Phương pháp này hướng đến
việc nghiên cứu toàn bộ tài liệu có trong hồ sơ vụ việc theo tiến trình diễn ra. Chẳng
hạn, đối với hồ sơ vụ án dân sự, việc nghiên cứu hồ sơ theo phương pháp tổng thể
được tiến hành dựa trên việc nghiên cứu tài liệu của vụ án, kể từ khi khởi kiện cho
đến khi Tòa án ban hành bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật cuối cùng. Việc
nghiên cứu hồ sơ theo phương pháp tổng thể giúp người nghiên cứu có thể nắm
được thông tin một cách đầy đủ nhất, cũng như biết được quá trình diễn biến của
vụ việc
như thế nào.
Thứ hai, nghiên cứu tách biệt giữa các vấn đề nội dung và tố tụng. Phương
pháp này được áp dụng trong việc nghiên cứu hồ sơ vụ án dân sự, hình sự, hành
chính. Phương pháp này là việc người nghiên cứu tiến hành đọc các tài liệu, chứng
cứ trong hồ sơ vụ án với sự tách biệt giữa các văn bản về tố tụng như quyết định thụ
lý vụ án, quyết định thẩm định tại chỗ, quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm
thời…, và các văn bản, tài liệu liên quan đến nội dung vụ án như: bản tự khai của
đương sự, các chứng cứ có liên quan đến việc giải quyết vụ án như hợp đồng, giao
dịch, chứng từ…. Việc nghiên cứu tách biệt các vấn đề về nội dung và tố tụng giúp
người nghiên cứu có thể biết và xác định được các vấn đề cần được giải quyết, chú
trọng tìm hiểu sâu những vấn đề cần khai thác. Ví dụ: theo yêu cầu của khách hàng,
Luật sư cần tìm ra cơ sở để yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm hủy bản án của Tòa án
cấp sơ thẩm. Trong trường hợp này, việc Luật sư nghiên cứu hồ sơ vụ án theo các
vấn đề nội dung và tố tụng có thể giúp Luật sư xác định được việc yêu cầu Tòa án
phúc thẩm hủy án sơ thẩm nên dựa vào căn cứ về nội dung hay tố tụng.
Thứ ba, phương pháp nghiên cứu theo chủ thể. Đây là phương pháp nghiên
cứu theo đó người nghiên cứu sẽ tiến hành nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ trong
hồ sơ dựa theo từng nhóm chủ thể. Chẳng hạn, đối với việc nghiên cứu hồ sơ vụ án
dân sự, người nghiên cứu có thể thực hiện việc nghiên cứu tài liệu theo nhóm chủ
thể là: tài liệu của bên nguyên đơn cung cấp; tài liệu của bên bị đơn cung cấp; tài
liệu của bên người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan cung cấp; tài liệu do Tòa án thu
thập. Phương pháp nghiên cứu này giúp người nghiên cứu có thể biết được tài liệu,
chứng cứ trong hồ sơ vụ án là do ai thu thập, cung cấp. Khi đó, người nghiên cứu hồ
sơ có thể nắm được thế mạnh và yếu của mình cũng như đối thủ để đưa ra phương
án tham gia tố tụng phù hợp.
2.4. Các bước cơ bản để nghiên cứu hồ sơ
Việc nghiên cứu hồ sơ có thể được tiến hành qua các bước như sau
Thứ nhất, sắp xếp, phân loại hồ sơ. Đây là bước đầu tiên trong quá trình
nghiên cứu hồ sơ. Trong bước này, người nghiên cứu hồ sơ tùy thuộc vào phương
pháp nghiên cứu hồ sơ của mình để phân loại, sắp xếp hồ sơ theo thứ tự thời gian,
nhóm chủ thể hay nhóm nội dung. Việc sắp xếp hồ sơ cần được đánh dấu để phân
biệt từng loại hồ sơ khác nhau và thuận tiện cho việc tìm kiếm.
Thứ hai, đọc hồ sơ và đánh giá tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ. Sau khi sắp
xếp và phân loại hồ sơ, người nghiên cứu sẽ bắt đầu đọc tưng tài liệu trong hồ sơ,
đồng thời đánh giá tính đúng sai, ưu điểm, nhược điểm mà tài liệu mang lại đối với
nhu cầu của mình.
Thứ ba, ghi chép các vấn đề phát hiện. Đây là bước cực kỳ quan trọng của
việc nghiên cứu hồ sơ vụ án, là bước tổng hợp các vấn đề được phát hiện sau quá
trình đọc và đánh giá các tài liệu trong hồ sơ. Từ việc ghi chép lại các vấn đề phát
hiện khi nghiên cứu hồ sơ, người nghiên cứu có thể đưa ra các đối sách phù hợp để
giải quyết yêu cầu của mình.
3. CÁC KỸ NĂNG ĐỂ NGHIÊN CỨU HỒ SƠ
3.1. Kỹ năng phân loại, sắp xếp hồ sơ
Việc phân loại, sắp xếp hồ sơ là bước đầu tiên của quá trình nghiên cứu. Việc
làm này góp phần đảm bảo nguồn thông tin, cung cấp những tư liệu, dữ liệu đáng
tin cậy phục vụ cho các hoạt động kinh doanh và quản lý của các cơ quan, tổ chức.
Đồng thời, việc phân loại, sắp xếp hồ sơ sẽ giúp phục vụ cho quá trình nghiên cứu
tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ một cách tốt nhất, khoa học và ít sai sót. Để làm tốt
công việc này, người nghiên cứu cần lưu ý các vấn đề sau đây:
Thứ nhất, lựa chọn tủ hồ sơ phù hợp với hồ sơ cần nghiên cứu. Việc lựa chọn
tủ hồ sơ là cần thiết vì đây là nơi lưu trữ các tài liệu, văn bản trong hồ sơ. Về cơ
bản, tủ hồ sơ cần được thiết kế phù hợp với lượng tài liệu trong hồ sơ. Đối với các
hồ sơ có số lượng lớn, cần phải có tủ đựng hồ sơ có kích thước phù hợp. Đối với các
văn phòng có diện tích nhỏ, cần tận dụng các tủ hồ sơ treo để tiết kiệm diện tích.
Thứ hai, phân loại, sắp xếp hồ sơ. Việc phân loại, sắp xếp hồ sơ có thể được
thực hiện tùy thuộc vào phương pháp nghiên cứu mà người nghiên cứu lựa chọn.
Việc phân loại hồ sơ có thể được thực hiện theo nhóm, theo chủ thể, theo thời gian.
Tuy nhiên, khi phân loại, sắp xếp hồ sơ, cần thiết phải có những ký hiệu riêng cho
từng nhóm văn bản, ký hiệu để phân biệt thời gian, ký hiệu để phân biệt các tài liệu
nào là quan trọng hơn trong hồ sơ vụ án.
Thứ ba, lập danh mục hồ sơ. Việc sắp xếp, lưu trữ hồ sơ cần được lập danh
mục các tài liệu, văn bản có trong hồ sơ. Việc lập danh mục hồ sơ cần được kiểm
tra và cập nhật theo từng mốc thời gian khác nhau trong quá trình nghiên cứu hồ sơ.
Ví dụ: đối với hồ sơ vụ án dân sự, việc phân loại, sắp xếp, lập danh mục hồ
sơ có thể được chia thành hai phần. Phần một là các văn bản tố tụng của Tòa án,
được chia thành nhiều tập nhỏ theo mốc thời gian như quyết định thụ lý, giấy báo,
giấy triệu tập, các quyết định về thu thập chứng cứ…. Tập hai là các tài liệu, chứng
cứ do các đương sự cung cấp, có thể chia thành nhóm tài liệu của nguyên đơn,
nhóm tài liệu của bị đơn, nhóm tài liệu của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
và các chủ thể tham gia tố tụng khác.
3.2. Kỹ năng đọc hồ sơ và phát hiện vấn đề
Việc đọc hồ sơ và phát hiện vấn đề là công việc quan trọng nhất trong quá
trình nghiên cứu hồ sơ vụ án. Công việc này đòi hỏi người nghiên cứu phải có
những kiến thức về lĩnh vực mà mình đang cần giải quyết. Do đó, khi nghiên cứu hồ
sơ, người nghiên cứu trước tiên cần phải đọc các quy định pháp luật của vấn đề
mình đang cần tìm giải pháp hoặc đang cần giải quyết, từ đó mới có cơ sở để có thể
nghiên cứu hồ sơ đạt kết quả một cách tốt nhất.
Ví dụ, để nghiên cứu hồ sơ vụ việc dân sự, người nghiên cứu cần phải nắm
vững các quy định của pháp luật tố tụng dân sự, đồng thời cần phải biết các quy
định về nội dung của vấn đề mình đang giải quyết như: hợp đồng, thừa kế, đất đai,
ly hôn, chia tài sản…
Khi đọc các tài liệu trong hồ sơ vụ án, người nghiên cứu cần chú ý các vấn
đề cơ bản của vụ việc mà mình đang cần giải quyết. Ví dụ, khi nghiên cứu hồ sơ vụ
việc dân sự, cần phải lưu ý các vấn đề về: thẩm quyền thụ lý của Tòa án; việc xác
định quan hệ pháp luật của Tòa án; thời hiệu yêu cầu; các điều kiện khởi kiện đối
với vụ án dân sự; xác định cơ bản các yêu cầu của đương sự; đối chiếu yêu cầu của
đương sự với pháp luật nội dung để xác định các vấn đề cần phải chứng mình; xác
định các chứng cứ cần phải thu thập, gia nộp cho Tòa án dựa trên yêu cầu của
đương sự…
3.3. Kỹ năng ghi chép, tổng hợp kết quả
Về việc ghi chép, tổng hợp kết quả, người nghiên cứu cần lưu ý phải ghi lại
đầy đủ những thông tin quan trọng được phát hiện trong quá trình đọc và đánh giá
tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ. Các kết quả nghiên cứu phải được tổng hợp lại để từ
đó tìm ra giải pháp phù hợp nhất cho công việc của người nghiên cứu. Người
nghiên cứu nên ghi chép các vấn đề phát hiện theo từng nhóm hồ sơ phân loại, có
ghi chú lại các chỗ quan trọng trong hồ sơ và các tài liệu có liên quan đến kết quả
phát hiện.
KẾT LUẬN
Việc nghiên cứu hồ sơ đóng vai trò cực kỳ quan trọng để người nghiên cứu
đưa ra được các giải pháp phù hợp với yêu cầu đặt ra. Để thực hiện tốt việc nghiên
cứu hồ sơ, cần phải có sự rèn luyện từng bước, từ phân loại, sắp xếp cho đến đọc,
đánh giá, ghi chép, tổng hợp kết quả nghiên cứu. Mỗi một công việc cần có những
kỹ năng khác nhau nhưng về cơ bản đều đòi hỏi sự nghiêm túc, cẩn thận, chú tâm
của người nghiên cứu để đạt kết quả tốt nhấ
CHUYÊN ĐỀ 7: KỸ NĂNG ĐÀM PHÁN, TRANH LUẬN
ThS. Vũ Duy Cương ⃰

Chuẩn đầu ra của chuyên đề:


 Trang bị cho Sinh viên những kỹ năng cần thiết trong quá trình thực hành PL
- đó là kỹ năng đàm phán và tranh luận – những kỹ năng vô cùng quan trọng,
được sử dụng hàng ngày trong quá trình SV học tập cũng như sau khi ra
Trường thực hành PL…
 Giúp SV nhận thức được tính chất đặc thù, yêu cầu của tranh luận/ đàm phán
nói chung và có lồng ghép thực hành kỹ năng này qua việc tranh luận/ đàm
phán các lĩnh vực pháp lý khác nhau.
 Tạo ra khả năng để SV có cơ hội, tự rèn luyện để phát huy các kỹ năng tổng
quát (truyền đạt nội dung, thuyết phục, đối đáp, ứng xử nhằm dạt mục đích
một cách phù hợp, hiệu quả) cũng như các kỹ năng chuyên môn của Sinh
viên – đặc biệt là các kỹ năng gắn liền với SV Luật: Lập luận, tranh luận,
phản biện, bảo vệ quan điểm…
 Qua thực tiễn thực hành, trang bị cho SV một thái độ nghiêm túc, trách
nhiệm với Nghề Luật – thông qua nền tảng đạo đức (đã được trình bày trong
chuyên để 1) liên kết với những kỹ năng chuyên môn trong các chuyên đề
tiếp theo.
Phương pháp trình bày chuyên đề (Chúng tôi cho rằng một trong những
yếu tố quan trong để giảng các học phần kỹ năng cho SV là “phải dùng/ sử dụng
đúng kỹ năng đó để giảng” – rõ ràng “trăm nghe” sẽ không hiệu quả bằng tạo cơ hội
cho sinh viên “mắt thấy, tay làm, đầu óc phải tư duy…” Có thể nói, giảng những
môn kỹ năng sẽ không thể đạt được hiệu quả nếu như chỉ áp dụng cách thức giảng
lý thuyết truyền thống.
 Trên cơ sở đó, tùy tình hình, điều kiện các lớp, học phần sẽ triển khai các
PPGD tích cực như Đàm phán, tranh luận trong thực tế THPL, Thảo luận
nhóm, Đóng vai, đàm phán Hợp đồng, diễn án...với các kỹ thuật giảng dạy:
hỏi – đáp, trò chơi, video…

DẪN NHẬP

*
Thạc sĩ, Giám đốc Trung tâm Đảm bảo chất lượng và phương pháp giảng dạy - Trường Đại học Luật Thành
phố Hồ Chí Minh.
71
Chuyên đề “Kỹ năng đàm phán – tranh luận” là chuyên đề được thiết kế tại
chương 4, học phần kỹ năng THPL. Như tiêu đề, Chương này tập trung vào 2 kỹ
năng rất cần thiết của Sinh viên Luật: đó là kỹ năng đàm phán và kỹ năng tranh
luận. Chuyên đề tiếp cận theo cách thức trình bày và luyên tập kỹ năng này ngay
trên lớp – với định hướng ban đầu đây là các Kỹ năng mà SV đã và đang sử dụng
hàng ngày trong thực tiễn cuộc sống khi mỗi người chúng ta đều là “tổng hòa các
mối quan hệ xã hội”. Nắm bắt được một số nội dung cơ bản liên quan đến các kỹ
năng này, sinh viên có thể vận dụng để thực tập các yêu cầu trong các môn học trên
lớp, cũng như thực hành các kỹ năng này để giải quyết các vấn đề pháp lý phát sinh
trong quá trình thực hành pháp luật tại trường (CLE) cũng như trong quá trình hành
nghề Luật sau này.
1. CÁC YẾU TỐ HÌNH THÀNH NÊN KỸ NĂNG?
Theo nghĩa thông thường nhất, kỹ năng được hiểu là “Khả năng ứng dụng tri
thức khoa học vào thực tiễn1” hoặc: “Là khả năng vận dụng hiệu quả những kiến
thức đã thu nhận được trong một lĩnh vực nào đó áp dụng vào thực tế2”. Trong
tiếng Anh, “kỹ năng” được dịch là “skill”, chúng tôi đã có ý tưởng xây dựng cho
từng chữ cái trong từ “skill” một nghĩa khác nhau để có thể hình thành các yếu tố
cần có của một skill – kỹ năng, bao gồm:
 S: Solving problem hoặc Solution made: Khả năng giải quyết vấn đề/ khả
năng đưa ra được giải pháp hiệu quả
 K: Knowledge: Kiến thức từ quá trình học hỏi và tự học không ngừng
 I: Inovation: Tư duy sáng tạo, đổi mới
 L: Language: Khả năng sử dụng ngôn ngữ/ ngoại ngữ khi tự học, giao tiếp
 L: Legal thinking/ Tư duy pháp lý (dành riêng cho sinh viên luật), hoặc
Listening: kỹ năng biết lắng nghe…
Các chữ cái trên tượng trưng cho một yếu tố hình thành nên kỹ năng mềm
của con người nói chung và sinh viên nói riêng. Dĩ nhiên các bạn cũng có thể tự
hình thành nên các yếu tố mang đặc trưng riêng về “skill – kỹ năng” của riêng mình.
Nếu kỹ năng được đề cập là kỹ năng mềm3 – soft skill, chữ soft có thể hiểu bao gồm
thêm các yếu tố:

1
Theo Từ điển tiếng Việt.
2
Quan điểm riêng của chúng tôi.
3
Kỹ năng mềm là thuật ngữ dùng để chỉ các kỹ năng quan trọng trong cuộc sống con người như: kỹ năng
sống, giao tiếp, lãnh đạo, làm việc theo nhóm, kỹ năng quản lý thời gian, thư giãn, vượt qua khủng hoảng,
sáng tạo và đổi mới…Kỹ năng mềm khác với kỹ năng cứng để chỉ trình độ chuyên môn, kiến thức chuyên

72
 S: Speak: khả năng nói/ self – study: tự học/ SWOT: phân tích điểm mạnh –
yếu social skill: kỹ năng giao tiếp xã hội
 O: Opportunity: nắm bắt cơ hội
 F: Foreign language
 T: Time Management/ team work: quản lý thời gian/ làm việc nhóm
 Cho dù lựa chọn của các bạn như thế nào đi nữa, kỹ năng nói chung và kỹ
năng mềm nói riêng của sinh viên sẽ được hiểu là là khả năng đưa ra giải
pháp, ứng biến, lựa chọn những kinh nghiệm, kiến thức ... tối ưu nhất nhằm
đạt được mục đích cho mỗi tình huống khác nhau trong học tập và thực tế
thực hành pháp luật sau này thông qua luyện tập, kiến tập hay thực tập ngay
trong môi trường Đại học.
Liên hệ với Chương trình đào tạo của Nhà trường khi xây dựng Chuẩn đầu ra
của CTĐT bao gồm các yếu tố Kiến thức; kỹ năng; mức tự chủ và trách nhiệm, một
giải thích khác về “kỹ năng” mà chúng tôi cũng cho là đáng chú ý. Nếu chúng ta
đều thống nhất rằng, kỹ năng là “cách làm”, là sự thể hiện ra bên ngoài một cách
hiệu quả nhất để đạt được mục đích, thì “Kỹ năng chính là sự thể hiện toàn vẹn nhất
của các yếu tố còn lại trong Chuẩn đầu ra của SV: Kiến thức; kỹ năng; mức tự chủ
và trách nhiệm”. Nhấn mạnh điều này cho chúng ta thấy được tầm quan trọng của
việc luyện tập hình thành các kỹ năng đóng vai trò như thế nào sau khi SV ra
Trường và đảm nhiệm những công việc “thực hành pháp luật”.
2. CÁC KỸ NĂNG LIÊN QUAN MẬT THIẾT ĐẾN KỸ NĂNG ĐÀM PHÁN,
TRANH LUẬN
Để thực hành tốt hai kỹ năng này đều đòi hỏi Sinh viên phải sử dụng phải sử
dụng tốt các kỹ năng: Đọc – nói – nghe – hỏi. Chúng tôi muốn đề cập đến các kỹ
năng tưởng rằng có phần rất cơ bản này vì thật sự chương trình đào tạo trong Nhà
trường hiện nay không chú trọng đề cập đến các kỹ năng “thường ngày” như thế
này. Hơn nữa, làm sao có thể đàm phán/ tranh luận giỏi nếu không “đọc để hiều vấn
đề, để chuẩn bị”, “nói để diễn đạt ý tưởng, thuyết phục người nghe, để hùng
biện…”; “nghe để nắm bắt và quyết định vấn đề”; “Hỏi để nắm thêm thông tin, chia
xẻ và tranh luận”…Rõ ràng, đối với Sinh viên Luật, việc xác định một số vấn đề
liên quan đến các kỹ năng cơ bản “Đọc – nói – nghe – hỏi” là rất cần thiết để học và
hành Pháp luật hiệu quả.

môn hay bằng cấp và chứng chỉ chuyên môn. Thực tế cho thấy người thành đạt chỉ có 25% là do những kiến
thức chuyên môn, 75% còn lại được quyết định bởi những kỹ năng mềm họ được trang bị.

73
2.1. Kỹ năng đọc
 Là kỹ năng quan trọng nhằm mục đích thu thập thông tin, Tích lũy kiến thức,
tri thức, vốn sống… Đối với Sinh viên: Là yêu cầu cơ bản để học tập, nắm
bắt các tri thức, đối với người hành nghề luật: Là phương tiện quan trọng để
hành nghề, để khai thác vấn đề cần quan tâm, chuẩn bị cho hoạt động đàm
phán/ tranh luận.
 Các phương diện để đọc bao gồm: Tài liệu giáo trình, Các văn bản pháp
luật; Bình luận khoa học; Các tài liệu nghiên cứu: Sách, bài viết…Đọc tài
liệu do khách hàng cung cấp; Hồ sơ vụ án có liên quan (HS, DS, HC, LĐ…),
các tài liệu khác…
 Qua quá trình đọc, Sinh viên sẽ tập trung tư duy để suy nghĩ, so sánh, đối
chiếu, ghi chép, rút ra nhận xét, kết luận về các nội dung cần quan tâm, lựa
chọn và hình dung được các vấn đề nội dung và pháp lý của tình huống trên
lớp hoặc tình huống thực hành Pháp luật.
2.2. Kỹ năng nghe
 Đây cũng là kỹ năng quan trọng của Sinh viên nhằm nắm bắt thông tin từ
Giảng viên, bạn bè, khách hàng…
 Khi lắng nghe, cần giữ liên hệ với người nói bằng ánh mắt, khích lệ người
nói, lắng nghe một cách chăm chú, cầu thị, không vội vã ngắt lời khi không
thật cần thiết. Tránh tình trạng lắng nghe một cách thờ ơ, cho rằng mình biết
rồi, không cần nghe hoặc nghe không đầy đủ.
 Hiệu quả của việc lắng nghe tích cực: Thu nhận được những thông tin bổ ích,
nâng cao hiểu biết…
2.3. Kỹ năng Nói
 “Nói là phương tiện dùng ngôn ngữ để giao tiếp hoặc biểu đạt ý nghĩ, cảm
xúc về một vấn đề hoặc tư tưởng nào đó trong quan hệ giữa người với người
để nhằm đạt được những mục đích nhất định”.
 Nội dung bài nói phải thật phong phú, chứa đựng những thông tin mới, bổ
ích, thiết thực, đem đến cho người nghe nhận thức khá đầy đủ về những vấn
đề có liên quan đến đề tài.
 Nội dung một bài nói thường bao gồm các phần chính: Vào đề, thân đề và
kết đề. Để tạo sức hấp dẫn cho bài nói, mỗi diễn giả thường tìm cho mình
một phong cách riêng khi vào đề, cách trình bày vấn đề và những điều rút ra
khi

74
kết thúc vấn đề. Nói giỏi có nghĩa là cách nói, cách diễn đạt nội dung của bài
nói, tức là phương pháp trình bày của diễn giả. Nói giỏi phải kết hợp với điệu
bộ, ánh mắt, nét mặt, nụ cười…Mối quan hệ giữa nói hay, nói giỏi là mối
quan hệ biện chứng giữa nội dung và hình thức.
 Kết cấu của bài nói phải có lập luận chặt chẽ, cách sắp xếp nội dung bài nói
theo một trật tự hợp lý, có tính lôgích; các ý lớn, ý nhỏ được xâu chuỗi trong
mối liên hệ chặt chẽ làm nổi bật vấn đề mà bài nói đề cập.
 Bài nói phải có sức thuyết phục: Là điểm thể hiện tính hiệu quả của bài nói
trong mối quan hệ tác động giữa người nói và người nghe. Người nghe đã
cảm nhận được một cách sâu sắc nội dung bài nói, tin tưởng và sẵn sang làm
theo những mục đích mà người nói nhằm đạt tới.
2.4. Kỹ năng hỏi
 Là kỹ năng nhằm mục đích thu nhận thông tin, kiểm tra sự hiểu biết…trong
một số trường hợp thì hỏi cũng nhằm để gợi hướng tư duy hoặc hỏi để trả
lời…
 Phương pháp đặt câu hỏi: có thể hỏi trực tiếp; hỏi gián tiếp; hỏi thăm dò; hỏi
truy vấn; hỏi phủ đầu bất ngờ…
3. KỸ NĂNG ĐÀM PHÁN, TRANH LUẬN
Những kỹ năng này là tổng hòa của các kỹ năng ĐỌC – NÓI – NGHE – HỎI
được trình bày trong phần trước. Tranh luận là hoạt động khá phổ biến ở các trường
trung học và đại học (đặc biệt là các trường giảng dạy Luật). Nó giúp sinh viên hình
thành lối tư duy sắc bén và logic, khả năng bảo vệ và phản bác quan điểm, đồng
thời khuyến khích mối quan tâm của các em vào những vấn đề đang diễn ra xung
quanh. Trong khi đó, “đàm phán” được xem là những hành vi và quá trình, trong đó
các bên tham gia sẽ cùng tiến hành trao đổi, thảo luận những điều kiện và các giải
pháp để cùng nhau thỏa thuận và thống nhất những vấn đề nào đó trong những tình
huống nào đó sao cho chúng càng gần với lợi ích mong muốn của họ càng tốt.
3.1. Nguyên tắc
3.1.1. Nguyên tắc đàm phán
Theo cách hiểu thông thường nhất, đàm phán là hành vi, quá trình mà người
ta muốn điều hòa quan hệ giữa hai hay nhiều bên, thông qua hiệp thương mà đi đến
ý kiến thống nhất. Đàm phán đối với sinh viên, nhìn ở góc độ hẹp có thể xem là
thảo luận. Hoạt động này rất thưởng được sinh viên áp dụng trong quá trình theo
học trên lớp. Từ thực tiễn giảng dạy, chúng tôi thường khuyến khích sinh viên áp
dụng kỹ
75
năng đàm phán này trong các giờ thảo luận liên quan đến kết lập Hợp đồng, đàm
phán vói các khách hàng, đối tác (giả định) … để đàm phán có chất lượng, cần chú
ý đến các kỹ năng và nội dung sau:
 Thứ nhất, đàm phán là quá trình đấu trí có mục đích. Mục đích đó là làm sao
kết quả đàm phán có lợi nhất cho mình. Có hai loại lợi ích: lợi ích trước
mắt và lợi ích lâu dài. Lợi ích trước mắt là những khoản lợi (tiền hay các lợi
ích khác) mà mình có được khi hợp tác. Lợi ích lâu dài là mối quan hệ tốt
đẹp giữa đôi bên và uy tín mà mình xây dựng được trên thị trường.
 Thứ hai, khi đàm phán phải nắm rõ được mục đích và nếu có nhiều mục
đích thì phải biết ưu tiên mục đích nào là mục đích số một, mục đích nào là
mục đích thứ hai, v.v. Đàm phán không có mục đích, bài toán rõ ràng dễ đi
vào vòng luẩn quẩn và dễ thất bại.
 Thứ ba, khi đàm phán cần kiên định mục đích, song nên mềm dẻo về các
phương pháp có thể sử dụng để đạt được mục đích đó. Để có thể mềm dẻo
được, cần có nhiều thông tin và biết cách đánh giá thông tin. Thông tin
thường để dùng vào hai mục đích trong đàm phán: đánh giá chiến lược của
cả hai bên, và cung cấp thông tin cho đối phương để xây dựng uy tín cho
bản thân mình.

3.1.2. Nguyên tắc tranh luận


Đối với các Sinh viên, tranh luận là một hình thức trao đổi ý kiến không thể
thiếu được trong Lớp, nhất là các giờ thảo luận. Từ thực tiễn giảng dạy của mình,
chúng tôi đã khơi gợi, hướng dẫn và chủ trì rất nhiều các cuộc tranh luận “nảy lửa”
giữa các em sinh viên về các vấn đề có liên quan đến nội dung bài học. Ở một khía
cạnh nào đó, kỹ năng Tranh luận sẽ phát triển mạnh khi giảng viên khuyến khích
sinh viên có tư duy phản biện đối với các vấn đề. Bước vào những năm cuối và sau
khi ra trường, các em sinh viên sẽ có nhiều cơ họi để sử dụng kỹ năng tranh luận
trong việc bảo vệ quan điểm của mình, qua đó bảo vệ quyền và nghĩa vụ hợp pháp
của cá nhân và công dân trong quá trình tham gia tố tụng. Để tranh luận có chất
lượng, các nội dung và kỹ năng sau cần được quan tâm:
 Thứ nhất, Phải “biết” và “hiểu” về vấn đề tranh luận: Đây là quy tắc đầu tiên
và cần phải làm trước nhất. Trước khi tranh luận một vấn đề gì, phải tự hỏi
bản thân: “Ta có thực sự nắm vững về vấn đề này chưa?” Nếu chưa, bạn nên

76
dùng một số thời gian nhất định để tìm hiểu về vấn đề trước khi bước vào
tranh luận.
 Thứ hai, Bắt đầu tranh luận một cách nhẹ nhàng, thuyết phục: Tất cả
những cuộc tranh luận bắt đầu từ khi một người đưa ra những đòi hỏi về
người khác. Vì thế khi mở đầu một cuộc tranh luận bằng giọng điệu nhẹ
nhàng, điềm tĩnh và tự kiểm soát được giọng nói, bạn sẽ khiến đối phương
không cảm thấy bị tấn công để họ vẫn cảm thấy thoải mái và không thể sử
dụng thái độ căng thẳng và công kích với bạn. Nêu và bảo vệ vấn đề bằng
cách vận dụng những lí lẽ logic, đưa vào các con số và sự kiện để tăng tính
thuyết phục. Đưa ra các ví dụ cụ thể và thực tiễn để minh hoạ cho quan điểm
của bạn.
 Thứ ba, chú ý thêm một số vấn đề sau:
- Tiến hành tranh luận với một thái độ thành thật cởi mở và cầu thị, đặt mình
vào hoàn cảnh người khác chứ không phát biểu theo cảm tính, lười biếng,
hay biểu hiện một sự thiển cận, đầu óc hẹp hòi.
- Khi tranh luận phải nhất quán là chỉ xoay quanh chủ đề bàn luận, luận điểm
bàn luận chứ không đi lạc đề. Không nhằm vào cá nhân và bản thân của
người tham gia tranh luận.
- Biết dừng lại đúng lúc: Khi đã cảm thấy đạt được mục đích hoặc khi nhận ra
cuộc tranh luận bắt đầu vô bổ và đi quá xa, hãy là người chủ động chấm dứt
cuộc tranh luận.
3.2. Các phẩm chất/ Yêu cầu của một người đàm phán hoặc tranh luận
Để đàm phán/ tranh luận có chất lượng, đạt được yêu cầu đề ra, những yếu tố
sau cần phải được quan tâm:
 Tính cách: Một tính cách tốt còn quan trọng hơn một kiến thức tốt.
 Kiến thức về vấn đề chủ đạo: Yếu tố này luôn luôn được quan tâm nhất.
 Khả năng tổ chức và sắp xếp thông tin: Đây là một phẩm chất hết sức quan
trọng.
 Hiểu biết về bản chất con người: Bạn có cho rằng yếu tố này cần được đặt
trong vị trí quan trọng không?
 Khả năng tìm và tận dụng điểm yếu: Người đàm phán thường rất quan tâm
sử dụng phương thức này để thăm dò sơ hở và sau đó tận dụng những thông
tin khai thác được thành lợi thế của mình.

77
 Ngôn ngữ, ánh mắt, cơ thể, giọng nói:
- Ngôn ngữ: Dùng từ ngữ giản dị, phong phú, chính xác, giúp diễn đạt rõ ràng
ý nghĩa và tạo sự liên kết (đừng để sai vì từ ngữ hoặc không sử dụng đúng
chổ). Dùng ngôn ngữ có tính biểu tượng, hình ảnh càng tốt.
- Ánh mắt luôn nhìn người nghe. Duy trì sự giao tiếp bằng mắt để tăng sự tin
cậy, tập trung của người nghe và nhận sự phản hồi. Tránh nói đều đều và chỉ
nhìn vào giấy.
- Cử chỉ, vẽ mặt phù hợp với nội dung và ý tưởng.
- Nét mặt thân thiện kể cả khi căng thẳng. Đừng quá nghiêm nghị, cứng nhắc
từ đầu đến cuối.
- Điệu bộ tự nhiên (không cứng như người máy). Thành thật, nghiêm trang,
quảng đại và khiêm tốn.
- Phong thái (nhiệt huyết hay trầm lắng):
- Giọng nói và ngữ điệu là công cụ quan trọng giúp làm tămg hiệu quả truyền
đạt.
- Giọng nói rõ ràng, trong trẻo, hoặc vang và ấm, hợp với ý. Có thể đổi chất
giọng, nhấn mạnh, làm tăng hiệu quả ngôn từ.
- Có thể thay đổi tốc độ, giúp dễ nhớ. Ngừng trước và sau những ý quan trọng.
- Y phục trang nhã, phù hợp với buổi tiếp xúc.
3.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến đàm phán
 Các yếu tố cơ sở: các mục tiêu, môi trường, vị thế của các bên trên thị
trường, phe thứ ba, kỹ năng và kinh nghiệm của các bên.
 Bầu không khí đàm phán: xung đột và hợp tác giữa các bên, ưu thế và sự lệ
thuộc của bên này đối với bên kia, kỳ vọng của các bên tham gia.
 Các yếu tố văn hóa - xã hội: thời gian, ý thực hệ của các bên tham gia, cách
giao tiếp, ý nghĩa của các quan hệ cá nhân.
 Các yếu tố chiến lược: cách trình bày chiến lược, các chiến lược sử dụng,
cách ra quyết định, các tác nhân.
 Các yếu tố khác: bộ máy quan liêu, luật lệ và chính phủ, nhiều loại đồng
tiền…
3.4. Những sai lầm thường mắc phải trong đàm phán/ tranh luận

78
 Các bên có định kiến lẫn nhau.
 Không xác định được người có quyền quyết định cuối cùng.
 Không xác định được thế mạnh của mình và sử dụng chúng một các hiệu
quả.
 Chỉ có một phương án duy nhất, không có phương án thay thế.
 Không biết cách nâng cao vị thế của mình.
 Không kiểm soát được những yếu tố quan trọng (thời gian, vấn đề,…).
 Đánh mất cơ hội được quyền ra yêu cầu trước.
 Vội bỏ cuộc khi hình như gặp bế tắc.
 Không chọn được thời điểm kết thúc hợp lý.
4. TIẾN TRÌNH ĐÀM PHÁN/ TRANH LUẬN
4.1. Giai đoạn chuẩn bị
4.1.1. Đàm phán về nội dung gì? Khi tiến hành đàm phán/ tranh luận thì vấn
đề cơ bản là phải xác định chính xác phạm vi tranh luận Cần sự chuẩn bị kỹ lưỡng
về kiến thức liên quan đến nội dung này.
4.1.2. Chuẩn bị thu thập thông tin, tư liệu phục vụ:
 Cần chú ý đến độ hợp pháp và tin cậy của các Nguồn tài liệu.
 Nắm chắc cơ sở lý luận và thực tiễn của thông tin, tư liệu chuẩn bị cho cuộc
tranh luận: chuẩn bị phần đàm phán/ lập luận; lường trước một số câu hỏi…
4.2. Tiến hành đàm phán/ Tranh luận
Sử dụng các kỹ năng NÓI – NGHE – HỎI nhằm đạt được mục đích.
4.2.1. Mở đầu cuộc đàm phán / tranh luận ấn tượng.
 Thống nhất chương trình đàm phán.
 Tìm hiểu được nhu cầu thực sự của đối tác.
 Tạo dựng lòng tin và thu hẹp khoảng cách trong đàm phán.
 Giải pháp 2 bên cùng chiến thắng Win – Win.
 Đàm phán trong các tình huống nhạy cảm.
 Các chiến thuật gây ảnh hưởng trong đàm phán.
 Sử dụng tối ưu các phương thức đàm phán trong những hoàn cảnh cụ thể.

79
4.2.2. Kết thúc cuộc đàm phán/ tranh luận
 Xác đinh thời điểm kết thúc đàm phán.
 Đạt thoả thuận sau khi đàm phán.
 Đưa ra đề nghị cuối cùng.
4.2.3. Những rào cản khi đàm phán/ tranh luận
 Những rào cản thường gặp trong đàm phán.
 Kỹ năng giải quyết những rào cản.
Đàm phán/ tranh luận thành công hay không phụ thuộc phần lớn vào sự
chuẩn bị, bản lĩnh và kinh nghiệm của những người tham gia. Để đạt được thành
công, người tham gia đàm phán/ tranh luận cần nắm bản chất của vấn đề, xác định
rõ mục tiêu và kết quả cần đạt, từ đó đề ra phương pháp, xây dựng quy trình khoa
học, hiệu quả, đồng thời sử dụng linh hoạt các kỹ năng hỗ trợ. Có một quy trình hợp
lý cùng các kỹ năng tốt giúp việc đàm phán/ tranh luận được tiến hành nhanh chóng,
chính xác, khắc phục kịp thời các sự cố, tình huống xấu xảy ra làm ảnh hưởng đến
quá trình đàm phán/ tranh luận.
5. MỘT SỐ LƯU Ý ĐỂ VIỆC ÁP DỤNG KỸ NĂNG GIẢNG CÁC MÔN KỸ
NĂNG THÀNH CÔNG
Quan trọng nhất là vai trò của Giảng viên – thể hiện ở hai yếu tố: động cơ và
kỹ năng thực hiện. Liên quan đến yếu tố “động cơ”, người Giảng viên phụ trách
môn học phải xây dựng được một quyết tâm về việc sử dụng các kỹ năng để giảng
các môn học kỹ năng (và quyết tâm còn phải được thể hiện cao hơn nữa là “dùng
đúng kỹ năng” mà mục tiêu môn học đó hướng đến). Chúng tôi cho rằng việc xây
dựng được “động cơ” này là quan trọng nhất, động cơ này có thể được hình thành
dễ dàng hơn ở những giảng viên tâm huyết với nghề và có trách nhiệm với công
việc. Cũng do sự thách thức lớn của việc dùng chính kỹ năng để giảng kỹ năng mà
chúng tôi cho rằng phải quan tâm đến yếu tố “kỹ năng thể hiện”. Kỹ năng thể hiện
của Giảng viên sẽ thành công nếu người giảng viên quan tâm đến các vấn đề sau:
- Xác định mục tiêu mà môn học hướng đến: Chúng tôi cho rằng “Mục tiêu
của các môn học kỹ năng không nên và không thể là chuyển tải kiến thức về kỹ năng
mà phải là giúp sinh viên trải nghiệm chính kỹ năng đó”. Ví dụ: môn Kỹ năng đàm
phán Hợp đồng hướng đến việc cho Sinh viên trải nghiệm việc đàm phán Hợp đồng
và những vấn đề phát sinh. Môn kỹ năng tranh tụng hướng đến việc cho sinh viên
trải

80
nghiệm thực tế việc tranh luận trước tòa hoặc trải nghiệm các lập luận “ngụy biện”
ngay trên lớp.
- Sau khi xác định được mục tiêu đó, người giảng viên cần có sự chuẩn bị về
một kịch bản để chuyển tải kỹ năng cho sinh viên. Ví dụ, cũng liên quan đến môn
học Kỹ năng đàm phán Hợp đồng nêu trên, kịch bản sẽ được xây dựng là “Cố gắng
tổ chức việc giảng dạy với việc đàm phán Hợp đồng càng giống càng tốt”: Phòng
giảng đường sẽ được mặc định thành phòng họp doanh nghiệp, Nhóm sinh viên
tham gia sẽ đóng vai thành giám đốc, các trưởng phòng, đơn vị… sinh viên còn lại
trong lớp sẽ tham gia như thành viên thực sự của các doanh nghiệp đàm phán….;
Hoặc một kịch bản khác được xây dựng là “bằng một cách cố ý, sinh viên sẽ được
kéo vào một cuộc đàm phán hợp đồng với nhau hoặc với chính giảng viên”: giảng
viên sẽ thiết kế một ô chữ có liên quan đến Hợp đồng và các kỹ năng đàm phán Hợp
đồng. Giảng viên sẽ “thách thức” sinh viên giải đáp các ô chữ với các hình thức
điểm thưởng khác nhau. Chắc chắn sẽ có nhiều đáp án khác nhau từ nhiều sinh viên
và từ giảng viên: việc lựa chọn câu trả lời nào là phù hợp nhất, sinh viên sẽ được
thưởng điểm như thế nào? Giá trị ràng buộc trong cam kết của giảng viên với sinh
viên? … Tất cả những vấn đề này – một cách đã được giảng viên thiết kế và trở
thành một hình thức đàm phán hợp đồng giữa giảng viên – sinh viên và chính các
sinh viên với nhau.
- Cũng liên quan đến yếu tố “kỹ năng thể hiện” này, chúng tôi cho rằng những
người giảng viên có những trải nghiệm thực tế sẽ thể hiện kỹ năng dễ dàng và hiệu
quả hơn. Rõ ràng, nếu một giảng viên Luật có những trải nghiệm thực tế trong tư
vấn và tranh tụng pháp lý hoặc một giảng viên Quản trị đã từng tham gia tư vấn,
quản trị điều hành một doanh nghiệp sẽ có kỹ năng thể hiện thực tế và thuyết phục
sinh viên hơn rất nhiều. Điều này rõ ràng là một thách thức với các bạn giảng viên
trẻ giảng các môn kỹ năng vì chính các bạn cũng chưa có nhiều trải nghiệm về các
kỹ năng đó.
- Như vậy, “Kỹ năng thể hiện” của giảng viên có thể đến từ quá trình nghiên
cứu, trải nghiệm thực tế của giảng viên đó hoặc có thể được hình thành từ sự tập
huấn đào tạo của Nhà trường. Tôi muốn nhấn mạnh đến nội dung này vì hiện nay
thực tế của trường Đại học Luật, một số môn học kỹ năng vẫn đang được các Thầy
Cô giảng viên trẻ giảng dạy.
Quan trọng không kém để việc triển khai giảng dạy các môn học kỹ năng
hiệu quả là sự hưởng ứng tích cực của sinh viên. Để xây dựng được một môi trường
học tập chủ động, tích cực của sinh viên, chúng tôi cho rằng cần phải quan tâm đến
các yếu tố sau:

81
- Xây dựng thái độ, động cơ học tập tích cực: Đây là yếu tố tiên quyết để có
thể hình thành được một phương pháp học tích cực của sinh viên. Động cơ, thái độ
học tập tích cực có thể do chính sinh viên xây dựng nên, nhưng phần lớn sẽ được
“đánh thức” và “truyền lửa” từ chính nhà trường, giảng viên. Để có thể tạo ra một
động cơ học tập tốt của sinh viên, các yếu tố sau cần phải quan tâm: Chính sách đào
tạo của Nhà trường, chính sách môn học (trong đó có chính sách kiểm tra, đánh giá
môn học) của từng giảng viên, sự quan tâm, khuyến khích, chia sẻ của Giảng viên
bộ môn, cố vấn học tập…
- Trạng thái “cẩn thận, chu đáo” khi chuẩn bị trước nội dung bài học ở nhà và
trang thái “học tập tích cực” trên lớp: Hình thành được trang thái này trong từng
môn học sẽ dẫn đến sự hình thành “một thói quen” học tập tốt trong tất cả các môn
học khác. Chúng tôi cũng cho rằng, để hình thành “trạng thái tích cực” này của sinh
viên thì vai trò của người giảng viên cũng rất lớn. Bằng việc Giảng viên triển khai
giảng dạy môn học với nội dung phù hợp và phương pháp trình bày tích cực –
khuyến khích trao đổi, phản biện - chắc chắn sinh viên khi tham gia học sẽ luôn
phải đặt vào trạng thái: Làm việc tập thể, làm việc nhóm; Phát triển kỹ năng suy
nghĩ sáng tạo, độc lập, luôn phản biện; Rèn luyện sự tự tin, dám nghĩ, dám trao đổi,
dám làm, dám chịu trách nhiệm vói những suy nghĩ/ việc làm của mình….
Một yếu tố nữa chúng tôi cũng muốn nhấn mạnh đến nhắm triển khai việc
giảng dạy các môn học về kỹ năng mềm hiệu quả là “sự phù hợp và tương thích”
của các yếu tố khác. Một số yếu tố khác mà chúng tôi muốn đề cập thêm bao gồm:
- Cơ sở vật chất đảm bảo: giảng đường, các thiết bị âm thanh, ánh sáng…trong
điều kiện “chấp nhận được” để đảm bảo sự phù hợp để triển khai giảng các môn kỹ
năng thành công.
- Lịch giảng được bố trí phù hợp – cân đối giữa các môn giảng nội dung và
môn học kỹ năng, tránh tình trạng tập trung các môn học kỹ năng vào cùng một thời
điểm. Ngoài ra việc bố trí lịch giảng thiếu hợp lý sẽ dẫn đến sự quá tải, bão hòa của
giảng viên và sinh viên. Các yếu tố trên đếu có tác động tiêu cực làm giảm hiệu quả
đào tạo chung của Nhà trường.
- Chính sách của Nhà trường đối với các Giảng viên giảng các môn kỹ năng:
giảng dạy các môn kỹ năng nếu muốn “thoát ly” tính “tròn vai” – nhằm đạt được kết
quả tốt đòi hỏi người giảng viên phải cố gắng rất nhiều – nhiều hoạt động được triển
khai còn mang tính chất “sáng tạo”, ngoài ra việc triển khai có thể còn đòi hỏi bắt
buộc phải áp dụng các phương pháp giảng dạy tích cực – tăng tính phản biện, đối
thoại: rõ ràng các vấn đề này sẽ gậy ra những sức ép nhất định đối với Giảng viên:

82
Nhà trường nên có chính sách tạo điều kiện và hỗ trợ cho các giảng viên giảng các
môn kỹ năng bằng các hình thức: tập huấn, đào tạo, chính sách linh hoạt trong tính
hệ số giảng…
KẾT LUẬN
Trong những năm qua, CTĐT của Nhà trường đã bổ sung các HP kỹ năng, -
đặc biệt là HP Kỹ năng THPL- với thiết kế dành cho Sinh viên năm cuối – trước khi
ra Trường – với các chuyên đề chuyên sâu về kỹ năng, thái độ (đạo đức Nghề Luật).
Môn học nhắm đến mục tiêu hoàn thiện các yếu tố còn hạn chế hơn (về kỹ năng,
thái độ) so với yếu tố về kiến thức (thông qua các HP Luật thực định) – đã được trau
dồi trong suốt 4 năm học hệ cử nhân Luật tại Trường. Có thể nói, đây là quyết định
chính xác trong hành trình quyết liệt nâng cao chất lượng đào tạo, với kim chỉ nam
là triết lý giáo dục “sáng tri thức, vững công minh” - hướng đến việc đào tạo những
SV “thực học, thực hành, thực danh, thực nghiệp”, cung cấp tư duy, kỹ năng pháp
lý cho SV đáp ứng yêu cầu Xã hội.

83
CHUYÊN ĐỀ 8: KỸ NĂNG VIẾT VÀ TRÌNH BÀY VẤN ĐỀ PHÁP LÝ
ThS. Ngô Kim Hoàng Nguyên ⃰
1. MỤC TIÊU
- Cung cấp những kiến thức chung và vai trò của hoạt động viết và trình bày
vấn đề pháp lý. Thông qua đó, giúp người học hiểu chính xác về ý nghĩa của việc rèn
luyện kỹ năng viết và trình bày vấn đề pháp lý trong hoạt động tư vấn pháp luật, các
chủ thể thực hành pháp luật.
- Phân biệt các hình thức tiến hành hoạt động tư vấn (bao gồm viết bản tư vấn)
với hoạt động trình bày các vấn đề pháp lý.
- Cung cấp cho người học kỹ năng cơ bản phục vụ cho hoạt động viết và trình
bày vấn đề pháp lý.
- Rèn luyện và nâng cao kỹ năng viết và trình bày vấn đề pháp lý.
2. NỘI DUNG
2.1. Kỹ năng viết vấn đề pháp lý
Trên nền tảng tư duy, kỹ năng viết được rèn luyện hoàn thiện đối với từng cá
thể, từng vị trí nghề nghiệp mà xã hội phân công. Kỹ năng đó dần được nâng cao và
trở thành một phần không thể thiếu của khoa học giao tiếp và sau đó cũng là biểu hiện
cụ thể cho từng nghề nghiệp mà mỗi người chọn cách sử dụng kỹ năng này cho phù
hợp. Viết là một phương tiện giao tiếp cơ bản và chủ của con người. Thông qua ngôn
ngữ viết, con người thể hiện tình cảm, suy nghĩ, trí tuệ, sự hiểu biết của mình cho
người khác. Kỹ năng viết pháp lý là khả năng trình bày bằng hình thức văn bản nhằm
thể hiện nội dung pháp lý nhất định, qua đó giải quyết vấn đề để, xử lý vụ việc hoặc
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của khách hàng. Kỹ năng viết có vai trò căn bản
trong việc xây dựng hình ảnh người hành nghề luật trong đời sống xã hội, khẳng định
năng lực chuyên môn, kinh nghiệm và hiệu quả công việc.
Các dạng bài viết pháp lý điển hình bao gồm: bản cáo trạng, thư tư vấn của luật
sư, bài trình bày của Luật sư, bản luận cử, bài viết nghiên cứu pháp luật, công văn gửi
cơ quan nhà nước/ bên thứ ba trình bày vấn đề yêu cầu pháp lý.
Mục đích của văn bản pháp lý thường là để thuyết phục — lập luận và phong
cách văn bản của người viết sẽ được sử dụng tùy thuộc vào người đọc hoặc người nghe
mà tác giả hướng đến. Là một người viết sử dụng văn phong pháp lý, chúng ta sẽ có
thể chuyển đổi giữa các từ ngữ pháp lý cần thiết cho các công chức, người có thẩm
quyền

84
*
Thạc sĩ, Giảng viên Khoa Luật Quốc tế - Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh.

85
như thẩm phán và trong trường hợp khác, có thể là ngôn ngữ đơn giản cần thiết cho
khách hàng. Cho dù người viết có năng khiếu diễn đạt ngôn ngữ tốt hay không, viết
pháp lý là một kỹ năng cần thiết và quan trọng cần thiết cho tất cả các chuyên gia pháp
lý. Từ luật sư, luật sư đến thư ký, văn bản pháp lý được áp dụng cho mọi chuyên gia
pháp lý.
Đối tượng độc giả của bài viết pháp lý rất đa dạng với trình độ văn hóa và hiểu
biết pháp luật rất khác nhau, như khách hàng, thẩm phán, luật sư,... Do đó, người viết
cần có sự chuẩn bị cho phù hợp để đảm bảo mục đích truyền đạt thông tin đến người
tiếp nhận thông tin. Điều này là yêu cầu bắt buộc nhằm đảm bảo giá trị và hiệu lực của
văn bản khi soạn thảo. Có thể cùng một vấn đề, một thông điệp cần truyền tải nhưng
có thể phải trình bày theo nhiều thể thức văn bản khác nhau.
2.2. Các yêu cầu đối với việc soạn thảo văn bản pháp lý
2.2.1. Hiểu/ Nắm được mục đích của đối tượng và chủ thể soạn thảo
Để có một bài viết pháp lý đạt yêu cầu thì điều đầu tiên và được cho là quan
trọng nhất là gì? Đó chính là buộc phải hiểu mục đích của bài viết dự kiến (research
proposal).
Hãy tự hỏi bản thân: Tại sao cần viết bài này? Chúng ta kỳ vọng đạt được điều
gì? Kết quả cuối cùng mà chúng ta muốn đạt được là những gì?
Khi viết, soạn thảo một hợp đồng có thể phục vụ để truyền đạt cho khách hàng,
trong khi tài liệu của tòa án có thể phục vụ để thuyết phục, và tài liệu gửi cho khách
hàng có thể phục vụ để đánh giá các rủi ro pháp lý có thể phát sinh. Cấu trúc, cách
hành văn, phong cách giọng điệu của văn bản sẽ thay đổi tùy thuộc vào mục đích văn
bản pháp lý được trình bày. Hiểu rõ được mục đích đó sẽ giúp chúng ta có cách tiếp
cận tốt hơn.
2.2.2. Hiểu rõ đối tượng cần truyền đạt
Việc định hình đối tượng mình đang viết là phục vụ cho ai sẽ giúp định hình
cấu trúc và ngữ văn của bài viết pháp lý. Một thẩm phán, một luật sư khác (bao gồm cả
luật sư đối lập) hoặc khách hàng sẽ có những trải nghiệm và kỳ vọng khác nhau để
nhận thức được cách mà họ sẽ cảm nhận và chọn lọc thông tin từ bài viết pháp lý của
tác giả.
Khi đã nhận thức về đối tượng sẽ đọc hoặc nghe bài viết pháp lý mà chúng ta
định trình bày, hãy ghi nhớ những điều sau: vai trò và mối quan hệ của họ với bạn, tuổi
tác, thu nhập, tình trạng kinh tế, trình độ học vấn, giá trị và mức độ mà người đọc,
người nghe đã biết về những gì chúng ta đang viết. Điều này sẽ giúp bạn xác định cách
hành văn, phong cách và mức độ chi tiết cần đưa vào bài viết của mình.
86
2.2.3. Thực hiện nghiên cứu

87
Văn bản pháp lý tốt đòi hỏi phải nghiên cứu và kết hợp các tiền lệ pháp lý có
liên quan đến bài viết pháp lý. Trước khi bắt tay vào viết, hãy đọc kỹ bất kỳ tài liệu
nào có liên quan được cung cấp để hiểu rõ hơn về các vấn đề pháp lý.
Mỗi vụ việc và tài liệu đều rất khác nhau, nhưng hãy ghi nhớ một số quy tắc cơ
bản để nghiên cứu pháp lý sẽ giúp bạn thành công. Tùy thuộc vào phần bạn đang viết,
bạn cũng có thể tìm thấy các nguồn thứ cấp như từ điển pháp lý, báo cáo luật và tạp
chí học thuật hữu ích trong nghiên cứu. Ví dụ: trong một công trình có thể cần thiết
phải có nguồn thông tin chủ yếu lẫn thứ cấp để tăng tính lập luận và pháp lý, khả năng.
2.2.4. Hình thành đề cương bài viết
Một trong những phương pháp viết pháp lý hữu ích nhất để cải thiện kỹ năng
viết pháp lý là tổ chức việc nghiên cứu viết bài thành một phác thảo. Bắt đầu với một
dàn ý sẽ giúp giữ cho bài viết có tổ chức và tập trung. Bắt đầu bằng cách trình bày chi
tiết chủ đề, đặt thông tin quan trọng nhất lên hàng đầu. Sau đó, từ các vấn đề chính hãy
phân tích theo cấu trúc “xương sống” để hình thành tính liên kết cũng như sự chuyển
đổi qua lại trong cấu trúc sao cho liền mạch. Viết pháp lý trở nên dễ dàng hơn và ít
đáng sợ hơn nhiều khi chúng ta hình thành phác thảo để sắp xếp, tổ chức các ý tưởng
của bạn và định hướng chuẩn cho quá trình viết.
2.1.5. Bắt tay vào việc viết
Ngay cả với một phác thảo chi tiết, việc bắt đầu viết cũng có thể rất khó khăn.
Ngay cả những người có kinh nghiệm làm việc lâu năm cũng không phải là ngoại lệ.
Tuy nhiên, người viết cũng đừng lo lắng về việc cần phải có một bài viết hoàn chỉnh
ngay khi viết lần đầu, việc nâng cấp thông qua chỉnh sửa hoặc cung cấp thêm các luận
điểm và cơ sở pháp lý để minh chứng và kiểm chứng là những yêu cầu bắt buộc.
Vì vậy, trong bản nháp đầu tiên, hãy tập trung vào việc nắm bắt thông tin phù
hợp. Người viết cần đảm bảo rằng thông tin đã được nắm bắt đầy đủ. Chú ý các yếu tố
kết nối để hình thành mạch bài viết để có sự chuyển tiếp từ phần này sang phần khác.
Cần có thời hạn phù hợp theo lộ trình để hình thành các bản thảo trước khi đến thời
hạn có bản chính thức. Luôn nhớ rằng chúng ta hoàn toàn có thể chỉnh sửa bài viết của
mình cho phù hợp trước khi kết thúc hạn định khi vẫn còn trong giai đoạn chỉnh sửa và
không cần phải có được bản chính thức hoàn hảo trong lần viết đầu tiên.
2.2.6. Luôn bám sát cấu trúc nội dung bài viết
Cách tốt nhất để giữa cấu trúc bất kỳ bài viết nào là viết từ trên xuống. Bắt đầu
bằng cách hiển thị cho người đọc những gì bạn đang viết và tại sao, sau đó cung cấp
các lập luận để cũng cố cho các vấn đề pháp lý trong bài viết.

88
Chọn các lập luận tốt nhất hoặc thuyết phục nhất để tập trung vào bài viết, sau
đó lọc các lập luận bổ sung, hỗ trợ sau đó. Sử dụng tiêu đề để chia nhỏ các phần và
chuyển từ đối số này sang đối số tiếp theo và bắt đầu các phần mới với các câu tóm tắt.
Trong phần lớn các trường hợp, sẽ rất hữu ích khi sử dụng mục lục và đề mục tiêu đề
để giúp người đọc nắm bắt được khái quát ý kiến và cấu trúc trong bài viết của tác giả.
2.2.7. Bài viết phải mạch lạc, rõ nghĩa
Khi viết bất kỳ loại văn bản pháp lý nào, hãy nêu quan điểm của tác giả một
cách trực tiếp và rõ ràng trong vài câu đầu tiên để giúp định hướng cho người đọc. Giả
sử người đọc có rất ít thời gian hoặc thiếu sự kiên nhẫn, hãy tập trung về các đại ý của
lập luận trong khoảng 200 từ đầu tiên. Những gì chúng ta đề cập trong 200 từ đó sẽ
giúp người đọc có quyết định tiếp tục đọc hay nghe nữa hay không.
2.2.8. Chỉ sử dụng thuật ngữ pháp lý/ thuật ngữ đặc biệt khi thích hợp
Sử dụng các từ đặc biệt, bao gồm cả các thuật ngữ pháp lý, chỉ thích hợp trong
một số ngữ cảnh. Ví dụ: sử dụng quá nhiều “ngôn ngữ pháp lý” với một khách hàng
không thông thạo trong các vấn đề pháp lý cụ thể có thể khiến họ bối rối và làm xáo
trộn cuộc trò chuyện với những câu hỏi không cần thiết. Trong khi trong các tài liệu
của tòa án, nó hoàn toàn thích hợp (và đôi khi thậm chí cần thiết) để sử dụng thuật ngữ
và đặc biệt phải thật chuẩn xác, vì một luật sư, thẩm phán hoặc thẩm phán khác sẽ là
người đọc/ nghe bài viết đó. Khi thích hợp, hãy cố gắng sử dụng ngôn ngữ đơn giản
trong văn bản pháp lý của bạn trong khi cho thấy rằng bạn hiểu biệt ngữ và có thể trình
bày nó theo những cách dễ hiểu cho người đọc.
2.2.9. Chỉnh sửa và hiệu đính
Quá trình viết bài pháp lý không chỉ dừng lại khi tác phẩm được hoàn thành.
Một trong những sai lầm phổ biến nhất mà người viết mắc phải là không dành thời
gian cho giai đoạn chỉnh sửa — quá trình chỉnh sửa và xem xét kỹ lưỡng cần có thời
gian phù hợp.
Luôn luôn hữu ích khi nhờ người khác chỉnh sửa và hiệu đính tác phẩm, nhưng
tự thân người viết sẽ có thể tự mình giải quyết những điều cơ bản. Cần nắm vững kiến
thức cơ bản về chính tả và ngữ pháp vì các luật sư trình bày các tài liệu có lỗi chính tả
và ngữ pháp sẽ bị coi là không đáng tin cậy hơn và thiếu chú ý đến chi tiết.
Có thể hiểu, có thể khó bắt được lỗi chính tả và ngữ pháp ngay lập tức. Khi
chúng ta đã đọc tài liệu của mình nhiều lần, người viết thường sẽ khó phát hiện ra
những sai lầm của chính mình.

89
Tóm lại, viết pháp lý là một hành trình liên tục, khi bắt đầu cuộc hành trình viết
lách pháp lý này, hãy nhớ rằng, không ai trở thành một chuyên gia viết pháp lý chuyên
nghiệp chỉ sau một đêm. Giống như với bất kỳ công việc thủ công nào, viết pháp lý tốt
là một kỹ năng và quá trình liên tục mà cần xây dựng nền tảng và phải hoàn thiện từng
ngày. Quá trình viết rất phức tạp và không chỉ đơn thuần là đưa các từ lên giấy.
Nghiên cứu, viết và chỉnh sửa đều là những kỹ năng quan trọng để viết tốt về mặt pháp
lý. Luyện viết nhiều, việc viết càng trở nên dễ dàng và công việc sẽ càng tốt hơn theo
thời gian. Hãy nhớ rằng, luôn cởi mở và sử dụng phản hồi và phê bình mang tính xây
dựng để hoàn thiện cho bản thân.
2.3. Kỹ năng trình bày vấn đề pháp lý
2.3.1 Khái quát chung về việc trình bày vấn đề pháp lý
Sau khi đã nghiên cứu quy định pháp luật cũng như thực tế áp dụng, thông
thường việc trình bày kết quả nghiên cứu sẽ thực hiện dưới dạng viết thư tư vấn hoặc
là trình bày trực tiếp trước khách hàng. Đối với thư tư vấn, như đã phân tích ở trên, thì
cần phải trình bày theo chuẩn của thư tư vấn, ngôn ngữ viết mạch lạc, logic, truyền tải
được đầy đủ nội dung đã nghiên cứu. Đối với việc trình bày trực tiếp thì cần khả năng
trình bày, giao tiếp tốt để truyền tải đầy đủ nội dung đến người nghe.
Việc trình bày vấn đề pháp lý có thể diễn ra dưới nhiều loại hình và công việc
khác nhau. Ví dụ như trong quá trình tố tụng, người khởi kiện (nguyên đơn) và người
bị kiện (bị đơn) là các bên trong vụ kiện. Cả hai đều có quyền tham gia phiên tòa. Cả
hai bên có thể phát biểu và trình bày các tài liệu, bản vẽ, hình ảnh và các bằng chứng
khác cũng như các nhân chứng. Trong trường hợp khác, có thể thực hiện bởi luật sư,
người tư vấn đối với khách hàng của mình để giúp người được tư vấn hiểu rõ về vấn
đề pháp lý mà người đó đang phải đối mặt.
2.3.2 Các yếu tố của việc trình bày
- Giới thiệu vấn đề, bao gồm yêu cầu của khách hàng, các sự kiện, giả định và
hạn chế liên quan: trong phần này người trình bày sẽ cần làm rõ những vấn đề là cơ sở
của việc hình thành vấn đề pháp lý cần được trình bày.
- Xác định các vấn đề pháp lý cần trình bày: vấn đề pháp lý là trọng tâm của quá
trình trình bày. Có thể đưa ra câu hỏi pháp lý mấu chốt để làm cơ sở cho việc làm sáng
tỏ vấn đề.
- Trình bày câu trả lời hoặc kết luận ngắn gọn đối với vấn đề pháp lý: việc giải
quyết vấn đề cần đi vào trọng tâm, các tình tiết và cơ sở pháp lý phải được sử dụng để
trực tiếp giải quyết vấn đề pháp lý được đặt ra.

90
- Phân tích, chứng minh câu trả lời hoặc kết luận ngắn gọn: đi đến kết luận về
quan điểm cuối cùng hoặc khẳng định lại quan điểm của người trình bày vấn đề pháp
lý trong vụ việc.
2.3.3 Các bước trình bày vấn đề pháp lý
a. Cơ cấu trình bày vấn đề pháp lý
- Mở bài: Giới thiệu yêu cầu của khách hang, một yêu cầu bắt buộc để giới thiệu
về vấn đề pháp lý cần trình bày. Tiếp theo, cần trình bày các sự kiện có liên quan đến
vấn đề pháp lý được nghiên cứu. Trình bày các giả định có liên quan. Trình bày các
hạn chế có liên quan đến vấn đề.
- Thân bài: Phân tích, chứng minh câu trả lời hoặc kết luận ngắn gọn. Sắp xếp
vấn đề theo thứ tự, bắt đầu từ vấn đề quan trọng nhất. Tập hợp thông tin để hỗ trợ phần
trình bày.
- Kết luận: Xác định các vấn đề pháp lý cần trình bày. Trình bày câu trả lời
hoặc kết luận ngắn gọn đối với vấn đề pháp lý. Triển khai từng vấn đề đã được đề cập.
b. Một số các lưu ý trong quá trình trình bày
Người cần trình bày nên tìm hiểu các thông tin về đối tượng từ trước. Ví dụ như
toà án nào, hoặc hội đồng xét xử và những người tham gia tố tụng khác sẽ giúp người
trình bày chủ động hơn trong quá trình trình bày các vấn đề pháp lý một cách phù hợp
nhất. Ghi chép và quan sát nếu có cơ hội để xem cơ chế hoạt động, đặc thù của đối
tượng mà mình sẽ trình bày.
Chuẩn bị sẵn các tài liệu, chứng cứ hoặc giấy tờ của vụ việc để trình bày một
cách khoa học. Ít nhất một vài ngày trước phiên điều trần, hãy tìm tất cả các tài liệu có
liên quan. Tạo ít nhất 2 bản sao của mỗi tài liệu. Đính kèm các bản sao vào bản gốc
bằng kẹp giấy. Xếp các tờ giấy theo thứ tự mà người trình bày định đề cập đến chúng
trong thứ tự trình bày của mình. Tốt nhất, thậm chí nên đánh số từng tài liệu. Đặt tất cả
vào một tập tin/ thư mục và gắn nhãn cho mỗi tập thư mục. Lên kế hoạch và đến sớm
hơn giờ dự kiến để tránh ảnh hưởng đến tâm lý cũng như yêu cầu theo tiến trình.

91
CÂU HỎI ÔN TẬP
KỸ NĂNG THỰC HÀNH PHÁP LUẬT

Câu 1. Phân tích mối quan hệ giữa đạo đức nghề luật và tinh thần thượng tôn
pháp luật trong xã hội.
Đạo đức nghề luật là các nguyên tắc, chuẩn mực mang giá trị đạo đức chính đáng
nhằm điều chỉnh hành vi nghề nghiệp của những người làm nghề luật. Còn tinh thần
thượng tôn pháp luật khi được diễn đạt thuần túy theo từ ngữ tiếng Việt, thì có nghĩa là
“pháp luật là trên hết”; và nếu được diễn đạt theo thuật ngữ trong ngành luật học, thì là
“sự nghiêm minh của pháp luật”, hàm ý là tất cả mọi thành phần trong xã hội của một
quốc gia, lãnh thổ phải tôn trọng và chấp hành triệt để luật pháp của quốc gia, lãnh thổ
đó. Một khi luật pháp đã được ban hành, thì toàn xã hội phải lấy nó làm chuẩn mực để
hành xử theo cho phù hợp, không phân biệt thành phần, địa vị xã hội.
Chuẩn mực đạo đức nghề luật là nền tảng tinh thần để những người hành nghề luật
thực hiện các quy định của pháp luật. Trong nhiều trường hợp, các cá nhân trong xã hội
thực hiện một hành vi pháp luật hợp pháp không phải vì họ hiểu các quy định của pháp
luật, mà hoàn toàn xuất phát từ các quy tắc đạo đức. Ngược lại, nhiều quy tắc, yêu cầu,
đòi hỏi của chuẩn mực đạo đức được nhà nước sử dụng và nâng lên thành quy phạm pháp
luật, ví dụ như trong Luật Luật sư có đề cập tới những nguyên tắc chung về đạo đức hành
nghề yêu cầu những người luật sư phải tuân theo với một tinh thần thượng tôn pháp luật.
Như vậy, hai yếu tố trên có sự tác động qua lại lẫn nhau, người có đạo đức nghề nghiệp
sẽ có thái độ tôn trọng pháp luật và người có thái độ như vậy trong ý thức, quan điểm sẽ
có thể chi phối và điều khiển hành vi đạo đức của mình.
Câu 2. Trình bày khái niệm đạo đức nghề luật và phân tích các nguyên tắc
chung trong đạo đức nghề luật.
- Đạo đức nghề luật là các nguyên tắc, chuẩn mực mang giá trị đạo đức chính
đáng nhằm điều chỉnh hành vi nghề nghiệp, đề cao trách nhiệm khi hành nghề và
hướng đến chân thiện mỹ của những người làm nghề luật.
- Các nguyên tắc chung trong đạo đức nghề luật: 5 quy tắc
+ Quy tắc 1: Bảo vệ công lý và nhà nước pháp quyền: người hành nghề luật phải
trung thành với Tổ quốc, bảo vệ công lý và xây dựng nhà nước pháp quyền theo
Hiến pháp và pháp luật Việt Nam
+ Quy tắc 2: Độc lập, trung thực, tôn trọng sự thật khách quan: Luật sư phải độc
lập, trung thực, tôn trọng sự thật khách quan, không vì lợi ích vật chất, tinh thần
hoặc bất kỳ áp lực nào khác để làm trái pháp luật và đạo đức nghề nghiệp
+ Quy tắc 3: Bảo vệ tốt nhất lợi ích của khách hàng: Bảo đảm chất lượng dịch vụ
pháp lý cung cấp cho khách hàng; tận tâm với công việc; trong khả năng của mình,
bảo vệ tốt nhất quyền và lợi ích của khách hàng
+ Quy tắc 4: Thực hiện trợ giúp pháp lý miễn phí: Trợ giúp pháp lý miễn phí là
lương tâm và trách nhiệm nghề nghiệp của luật sư; thực hiện trợ giúp pháp lý miễn
phí cho người nghèo và các đối tượng khác bằng sự tận tâm, vô tư và trách nhiệm
nghề nghiệp như các vụ việc có nhận thù lao
+ Quy tắc 5: Xứng đáng với sự tin cậy của xã hội: Phát huy truyền thống tốt đẹp
của nghề luật sư; nâng cao trình độ chuyên môn; giữ gìn phẩm chất và uy tín nghề
nghiệp; thái độ ứng xử đúng mực, có văn hóa trong hành nghề và lối sống

Câu 3. Phân tích vai trò và sự cần thiết của chuẩn mực đạo đức nghề luật.
- Vai trò:
+ Là thước đo phẩm chất đạo đức và trách nhiệm nghề nghiệp của người hành
nghề luật.
+ Là khuôn mẫu cho sự tu dưỡng, rèn luyện để giữ gìn uy tín nghề nghiệp, thanh
danh của của mình, xứng đáng với sự tôn vinh của xã hội.
- Sự cần thiết: 4 khía cạnh
+ Bảo vệ công lý, lẽ phải, công bằng, văn minh: Đạo đức nghề nghiệp là nền tảng
cơ bản của người hành nghề luật bởi có nền tảng này thì mới có ý thức thượng tôn
pháp luật, từ đó có tinh thần bảo vệ lẽ phải.
+ Ngăn chặn sự lợi dụng khe hở của pháp luật của những nhà pháp lý chuyên
nghiệp: Pháp luật là một công cụ hết sức quan trọng trong việc quản lý một xã hội,
vì vậy mà một số người đã lợi dụng sự hiểu biết pháp luật của mình và những khe
hở của pháp luật để thu về những lợi ích không chính đáng. Vì vậy, để tránh tình
trạng này đạo đức nghề luật như một nền tảng để những người học luật loại bỏ tư
duy như trên.
+ Bảo vệ khách hàng trong mối quan hệ với luật sư và giữa đương sự với các cơ
quan nhà nước: Khách hàng đa phần là những người không có sự am hiểu tường
tận về pháp luật để có thể bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình khi đối diện
với đương sự hay cơ quan có thẩm quyền. Chuẩn mực đạo đức nghề luật sẽ trang
bị cho người hành nghề những quy tắc ứng xử phù hợp với những đối tượng này.
+ Hoàn thiện con người theo hướng chân – thiện – mỹ.
Câu 4. Trình bày khái niệm đạo đức nghề luật sư và phân tích vai trò quy tắc
đạo đức và ứng xử của nghề nghiệp luật sư.
- Khái niệm: Quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp luật sư là những quy tắc xử
sự được thể hiện dưới hình thức văn bản chứa đựng những quy phạm đạo
đức và ứng xử nghề nghiệp do Hội đồng luật sư toàn quốc ban hành để điều chỉnh
hành vi của các thành viên Liên đoàn luật sư Việt Nam trong quan hệ với các chủ
thể có liên quan khi hoạt động nghề nghiệp và trong giao tiếp xã hội.
- Vai trò quy tắc đạo đức và ứng xử của nghề nghiệp luật sư:
+ Nghề luật sư là một nghề có truyền thống cao quý, gắn liền với số phận pháp lý của con
người. Thông qua hoạt động của mình, luật sư thực hiện chức năng xã hội cao cả: Bảo vệ
công lý, bảo vệ các quyền tự do dân chủ của công dân; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của cá nhân, tổ chức; bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, góp phần xây dựng Nhà nước
pháp quyền.
+ Đạo đức nghề nghiệp có ý nghĩa là nguồn, là gốc, là nền tảng cơ bản của nghề luật sư.
Không có đạo đức nghề nghiệp, nghề luật sư không thể tồn tại, phát triển. Nếu không xuất
phát từ nền tảng đạo đức này thì luật sư khó có thể có ý thức tôn trọng và tuân thủ pháp
luật khi hành nghề.
+ Quy tắc đạo đức nghề nghiệp luật sư có giá trị là các chuẩn mực đạo đức của giới luật
sư, tạo cơ sở để luật sư tự giác rèn luyện, tu dưỡng đạo đức trong sinh hoạt và hành nghề;
là thước đo giúp luật sư giữ gìn phẩm chất, uy tín của mỗi cá nhân; từ đó khiêm tốn học
hỏi, tích lũy kinh nghiệm và kỹ năng hành nghề, góp phần nâng cao uy tín nghề nghiệp
của giới luật sư trong xã hội.
Câu 5. Phân tích một ví dụ thực tiễn về xử lý vi phạm quy tắc đạo đức luật sư
trong hoạt động hành nghề luật sư.
Ví dụ: Hành vi hứa hẹn, cam kết bảo đảm kết quả vụ việc vi phạm quy tắc số 9 trong
BỘ QUY TẮC ĐẠO ĐỨC VÀ ỨNG XỬ NGHỀ NGHIỆP LUẬT SƯ VIỆT NAM
(Những việc luật sư không được làm trong quan hệ với khách hàng)
Hứa hẹn, cam kết bảo đảm kết quả vụ việc được hiểu là hành vi của Luật sư tự dự liệu
được kết quả của một vụ việc nào đó trong tương lai và chính thức cam đoan với khách
hàng là sẽ làm đúng những điều đã dự định trước đó. Quy tắc 9 Quyết định số 201/QĐ-
HĐLSTQ ngày 13/12/2019 của Hội đồng luật sư toàn quốc quy định về những việc luật
sư không được làm trong quan hệ với khách hàng như sau: theo quy tắc 9.8 thì hứa hẹn,
cam kết bảo đảm kết quả vụ việc về những nội dung nằm ngoài khả năng, điều kiện thực
hiện của luật sư là một trong những việc luật sư không được làm trong quan hệ với khách
hàng. Việc hứa hẹn, cam kết bảo đảm kết quả là một hành vi sai phạm có tính chất
nghiêm trọng bởi: Thứ nhất, hành vi này đã vi phạm những chuẩn mực, thước đo ứng xử
và đạo đức nghề nghiệp trong Bộ Quy tắc Đạo đức và Ứng xử nghề nghiệp Luật sư Việt
Nam. Thứ hai, việc hứa hẹn cam kết bảo đảm vụ việc là hành vi đi ngược lại thực tế
khách quan do một vụ án có thể sẽ phải qua nhiều cấp xét xử. Luật sư hay thậm chí cả
thẩm phán cũng không có quyền quyết định bản án mà thẩm quyền này thuộc về hội đồng
xét xử.
Hành vi hứa hẹn, cam kết bảo đảm kết quả vụ việc là một hành vi bị cấm trong thực
tiễn hành nghề của Luật sư chính vì vậy nếu Luật sư thực hiện hành vi này sẽ bị xử lý
theo quy định của Luật luật sư năm 2006, sửa đổi bổ sung năm 2012.
Khoản 1 Điều 85 Luật luật sư năm 2006, sửa đổi bổ sung năm 2012 có quy định về các
hình thức xử lý kỷ luật đối với luật sư như sau: “1. Luật sư vi phạm quy định của Luật
này, Điều lệ, Quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp luật sư Việt Nam và quy định khác
của tổ chức xã hội – nghề nghiệp của luật sư thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm phải
chịu một trong các hình thức kỷ luật sau đây: a) Khiển trách; b) Cảnh cáo; c) Tạm đình
chỉ tư cách thành viên Đoàn luật sư từ sáu tháng đến hai mươi bốn tháng; d) Xóa tên
khỏi danh sách luật sư của Đoàn luật sư”.
Câu 6. Theo anh/chị, để chuẩn bị cho buổi làm việc đầu tiên với khách hàng thì
những thông tin ban đầu như: Giới tính, độ tuổi, công việc, nơi cư trú sinh sống làm
việc...của khách hàng có cần thiết không? Vì sao?
Để chuẩn bị cho buổi làm việc đầu tiên của khách hàng thì những thông tin ban đầu
như giới tính, độ tuổi, công việc, nơi cư trú của khách hàng là rất cần thiết đặc biệt là cho
giai đoạn phá băng và thuận tiện cho những thủ tục pháp lý nếu cần thiết về sau.
Những thông tin cá nhân ban đầu của thân chủ giúp luật sư chuẩn bị được tâm thái tốt
nhất để gặp khách hàng và dự đoán được những vấn đề cũng như đưa ra được các giải
pháp pháp lý phù hợp với hoàn cảnh và tình huống của khách hàng.
Câu 7. Theo hiểu biết của anh/chị thì hiệu quả tiếp xúc khách hàng phụ thuộc
vào những yếu tố cơ bản nào? Giải thích ngắn gọn?
Theo em, hiệu quả tiếp xúc khách hàng phụ thuộc vào những yếu tố cơ bản sau:
 Kinh nghiệm của luật sư: Kinh nghiệm luật sư là một điều rất quan trọng trong
giai đoạn phá băng, xử lý tình huống, dẫn dắt câu chuyện giúp khách hàng cung
cấp thông tin ngắn gọn, đầy đủ, trực tiếp và tập trung vào những nội dung quan
trọng
 Sự chuẩn bị kĩ càng của luật sư: Chuẩn bị tâm thế, trang phục, thiết bị; Luật sư cần
có cách ứng xử, thái độ phù hợp; thu thập trước các thông tin về khách hàng để có
sự chuẩn bị tốt nhất phù hợp với từng đối tượng (đối với người nước ngoài, người
khuyết tật...)
 Kỹ năng của luật sư:
 Kỹ năng thu thập thông tin: tiếp xúc trực tiếp với khách hàng, lắng nghe ý kiến,
nội dung sự việc của khách hàng, có khả năng dẫn dắt và cắt câu chuyện hợp lý,
thu thập được những thông tin quan trọng phục vụ cho việc giải quyết các vấn đề
và yêu cầu của khách hàng, Xác định nguồn / tài liệu, chứng cứ cần thu thập.
 Kỹ năng xác định vấn đề pháp lý: xác định các VẤN ĐỀ PHÁP LÝ từ đó đặt ra
các CÂU HỎI PHÁP LÝ đặc biệt là câu hỏi pháp lý mấu chốt và làm rõ các VẤN
ĐỀ TRỌNG TÂM CẦN TRANH LUẬN. Trả lời được các vấn đề tranh luận và
các câu hỏi pháp lý Luật sư sẽ tìm ra được cách giải quyết vấn đề và luật điều
chỉnh.
 Kỹ năng tư vấn: Sau khi tìm được giải pháp luật sư cần hướng dẫn và tư vấn cho
khách hàng những tài liệu cần thiết và quy trình pháp lý một cách đơn giản và dễ
hiểu nhất để giải quyết được vấn đề của khách hàng
Câu 8. Theo anh/chị, luật sư hay người tư vấn pháp lý có được quyền "lựa chọn"
khách hàng không? Cho ví dụ và phân tích?
Theo em luật sư không có quyền lựa chọn khách hàng của mình. Khách hàng là người
tìm đến luật sư để được tư vấn về các vấn đề pháp lý và trách nhiệm của luật sư là phải
giúp khách hàng của mình dựa trên kiến thức và tinh thần thượng tôn pháp luật. Mọi
người đều có quyền bình đẳng và được bảo vệ bằng pháp luật như nhau. Vì vậy Luật sư
không được phân biệt và lựa chọn khách hàng.
VD: Luật sư không được lựa chọn khách hàng dựa trên sự phân biệt giàu nghèo. Luật
sư chỉ hỗ trợ cho những khách hàng giàu, có tiềm năng mà không hỗ trợ cho người
nghèo. Hay trong những vụ án hình sự với những tội danh nghiêm trọng như “giết
người”, luật sư không thể từ chối bào chữa cho bị cáo với lý do bị cáo phạm tội giết
người và không đáng được hỗ trợ pháp lý. Vì theo Hiến pháp 2013 mọi người chỉ được
xem là có tội khi bị kết án bởi một bản án của tòa án và nguyên tắc mọi người đều có
quyền tự do, bình đẳng và được bảo vệ bằng pháp luật. Họ tìm đến luật sư để nhờ luật sư
bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng mà họ xứng đáng được hưởng bằng pháp luật là nhu
cầu chính đáng và bình đẳng. Việc từ chối bào chữa cho một bị cáo chưa bị kết án và để
tránh làm mất uy tín của luật sư là một hành vi thiếu trách nhiệm và đạo đức của luật sư.
Tuy nhiên, trong một số trường hợp nếu việc tiếp nhận vụ việc của khách hàng không
phải là chuyên môn của luật sư hoặc có thể ảnh hưởng quyền lợi của các khách hàng
khác, dựa trên nguyên tắc bảo vệ quyền lợi tốt nhất cho khách hàng, luật sư có quyền từ
chối. Luật sư phải lựa chọn cho mình vụ việc mà trong đó Luật sư đưa ra được những lời
bào chữa vô tư cho khách hàng của mình, cũng có nghĩa là luật sư không được nhận việc
nếu có xung đột hoặc có nguy cơ xung đột về quyền lợi với các khách hàng khác. Luật sư
có quyền từ chối cung cấp dịch vụ pháp lý nếu yêu cầu của khách hàng không có căn cứ.
Nếu yêu cầu của khách hàng vi phạm pháp luật, trái đạo đức xã hội hoặc nếu thực hiện
việc đó dẫn đến việc Luật sư vi phạm pháp luật hoặc quy tắc đạo đức nghề nghiệp luật sư
thì Luật sư phải từ chối thực hiện yêu cầu của khách hàng.
Câu 9. Theo hiểu biết của anh/chị thì khi trao đổi về sự vụ của khách hàng, điều
gì từ người luật sư, người tư vấn pháp lý sẽ khiến khách hàng cung cấp thông tin
chính xác, không quanh co... giúp luật sư, người tư vấn pháp lý nhanh chóng hơn
trong việc nhận định và đưa ra giải pháp tốt nhất cho khách hàng?
Đó là kỹ năng dẫn dắt câu chuyện và đặt câu hỏi của người hành nghề luật
Để có một buổi tư vấn và thu thập thông tin hiệu quả, Luật sư cần phán đoán loại việc
khách hàng yêu cầu, từ đó đưa ra những câu hỏi dẫn dắt sự trình bày của khách hàng
ngắn gọn, súc tích và đúng trọng tâm. Nghe chủ động, cắt lời khéo léo khi cần thiết, ghi
chép và tóm lại câu chuyện sau khi khách hàng cung cấp xong.
Có kỹ năng cắt lời khi cần thiết để khách hàng không bị sa đà vào kể chuyện mà tập
trung được vào những vấn đề quan trọng.
Có kỹ năng đặt câu hỏi: Đặt những câu hỏi pháp lý để tìm được vấn đề trọng tâm
 Dùng câu hỏi mở để mở rộng trường thông tin để mở rộng thông tin để giải quyết.
 Dùng câu hỏi đóng trong trường hợp xác nhận lại tình tiết, thông tin của vụ việc.
Sau đó từ những thông tin thu thập được tập trung để chắt lọc những sự kiện pháp lý để
tiến tới xác định vấn đề pháp lý mấu chốt, xác định câu hỏi pháp lý mấu chốt và tìm được
các giải pháp để giải quyết cho câu hỏi đó và đưa ra những giải pháp tốt nhất khách hàng.

Câu 10. Anh/ chị trong vai trò là người tư vấn sự vụ sẽ nói gì trước những khách
hàng tỏ ra không bình tĩnh (khóc lóc, gào thét nói liên hồi...)?
Trước những khách hàng tỏ ra không bình tĩnh, Trước tiên cần an ủi, cắt lời khách
hàng và dẫn dắt câu chuyện sang những vấn đề khác tránh để khách hàng thể hiện cảm
xúc cá nhân ảnh hưởng quá nhiều đến tính khách quan của sự việc.
Nếu khách hàng chưa bình tĩnh lại được em sẽ cho khách hàng khoảng không gian
riêng từ 10 đến 15 phút để ổn định lại cảm xúc.
Sau khi khách hàng bình tĩnh, ổn định cảm xúc, em sẽ chủ động dẫn dắt câu chuyện
bằng câu hỏi xác định những vấn đề quan trọng, tránh nói đến những vấn đề khiến khách
hàng mất bình tĩnh trước đó nếu không cần thiết, trong trường cần khai thác vấn đề đó sẽ
chủ động đặt các câu hỏi đóng để khách hàng xác nhận lại tình tiết, tránh đặt những câu
hỏi mở để khách hàng phải nói về vấn đề đó quá nhiều gây mất bình tĩnh.
Câu 11. Theo hiểu biết của anh/chị, có cần thiết phải lưu trữ hồ sơ khách hàng
một cách khoa học không? Cụ thể như thế nào? Ý nghĩa của việc sắp xếp hồ sơ khoa
học?
Việc lưu trữ hồ sơ khách hàng một cách khoa học là vô cùng cần thiết. Khi đã có
thông tin từ người cung cấp thông tin cũng như khó giải quyết cụ thể một hồ sơ vụ
việc. Ta sẽ thu thập được rất nhiều văn bản khác nhau liên quan đến hồ sơ vụ việc đó.
Vì vậy, ta cần ghi nhận thông tin và viết bản mô tả vụ việc để có thể mang tính chất
hệ thống và nắm bắt được những loại văn bản mà ta đã sưu tập được, văn bản mà ta
đã hình thành để giải quyết hồ sơ vụ việc. Sau đó ta còn cần có các kĩ năng để quản lý
các hồ sơ vụ việc đó.
Cụ thể như sau
- Về việc Ghi nhận và viết văn bản mô tả:
+ Ghi nhận thông tin – chọn lọc, tập trung vào những dữ kiện thật sự có liên quan
+ Ghi nhận thông tin – chỉ ghi những cụm từ mấu chốt
+ Viết bản mô tả vụ việc: sắp xếp và chia thành 3 phần (câu chữ đầy đủ)
(1) Sự kiện xảy ra
(2) Vấn đề pháp lý cần giải quyết
(3) Thống kê những văn bản, tài liệu đã được cung cấp và sẽ cần được cung cấp
- Về việc Quản lý hồ sơ vụ việc:
Nếu không thực hiện công tác này, ta sẽ gặp tình trạng rơi mất hồ sơ hoặc mất hồ sơ
của khách hàng. Những trường hợp liên quan đến chứng cứ của vụ việc hoặc những
giấy tờ không thể thay thế có thể ảnh hưởng đến quá trình giải quyết vụ việc. Ngày
nay, ta có hồ sơ bản giấy và điện tử. Khi lập hồ sơ, lưu ý mô tả đâu là hồ sơ bản giấy
và đâu là hồ sơ bản điện tử để nắm bắt một cách tổng thể. Từ đó có thể trích dẫn và
tìm tài liệu một cách cụ thể và dễ dàng.
Các tài liệu có thể lưu trữ trong hồ sơ:
(1) Tài liệu ghi nhận vụ việc
(2) Tài liệu liên quan
(3) Thư từ của người hành nghề luật với người cung cấp thông tin
(4) Phiếu ghi nhớ: nắm bắt những thông tin trao đổi bởi những người hành nghề luật
với nhau, giữa những cơ quan chức năng, thông tin của người cung cấp thông tin.
- Về việc Lưu trữ hồ sơ
Để đảm bảo tính ưu tiên và bảo mật, ta cần có những quy định rõ ràng xem ai là người
phụ trách hồ sơ vụ việc, ai là người quản lý và sắp đặt hồ sơ vụ việc. Có những hệ
thống để đảm bảo và phân chia tính ưu tiên, tính bảo mật và đối tượng được tiếp cận
với từng bộ hồ sơ vụ việc.
*Ý nghĩa
Phải cần có sự sắp xếp một cách hợp lý để có thể tiếp cận, tìm kiếm, sử dụng hồ sơ vụ
việc một cách dễ dàng nhất. Giúp cho chúng ta thực hiện quá trình lưu trữ hồ sơ một
cách khoa học và có hiệu quả.
Câu 12. Anh (chị) hãy xác định các nội dung cần lưu ý khi nghiên cứu hồ sơ với
tư cách là luật sư bên bị đơn trong vụ án dân sự?
- Nghiên cứu đơn khởi kiện.
Xác định người khởi kiện có thẩm quyền hay không, kiện đúng nơi hay không, còn
thời hiệu khởi kiện hay không, xác định quan hệ pháp luật tranh chấp.
- Nghiên cứu toàn bộ hồ sơ khởi kiện.
Đánh giá toàn bộ sự việc xem căn cứ khởi kiện đó có cơ sở hay không.
- Nghiên cứu các yêu cầu của nguyên đơn.
Đề xuất với bị đơn xem chấp nhận yêu cầu nào, không chấp nhận yêu cầu nào, cung
cấp thêm chứng cứ nào để phản bác yêu cầu khởi kiện. Hoặc từ vụ việc tranh chấp, có
đề xuất phản tố hay không.
- Nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ do nguyên đơn cung cấp.
➢ Phát hiện những mâu thuẫn, thiếu sót, định hướng thu thập thêm chứng cứ để bảo
vệ khách hàng, đưa ra yêu cầu phản tố hoặc thay đổi yêu cầu phản tố (nếu bảo vệ bị
đơn)
Câu 13. Anh (chị) hãy xác định các nội dung cần lưu ý khi nghiên cứu hồ sơ với
tư cách là luật sư bên nguyên đơn trong vụ án dân sự?
- Nghiên cứu toàn bộ hồ sơ khởi kiện của khách hàng (nguyên đơn) đối với trường
hợp luật sư tham gia sau khi nguyên đơn đã khởi kiện
Việc nghiên cứu lại hồ sơ rất quan trọng để định hướng cung cấp thêm chứng cứ nào,
coi lại xem nguyên đơn đã cung cấp chứng cứ nào bất lợi hay không để có định hướng
tiếp tục thu thập chứng cứ hay đề xuất hướng giải quyết khác tư vấn cho nguyên đơn
- Nghiên cứu yêu cầu phản tố.
Phản tố có đúng không, vấn đề phản tố có được phản tố không, có cùng quan hệ pháp
luật tranh chấp hay không, có liên quan hay không, yêu cầu phản tố còn thời hiệu hay
không, yêu cầu phản tố có cơ sở hay không, chứng cứ chứng minh cho yêu cầu phản
tố có cơ sở hay không.
- Nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ do bị đơn cung cấp.
➢ Phát hiện những điểm mâu thuẫn, định hướng thu thập thêm chứng cứ để bảo vệ
khách hàng, đề xuất khách hàng thay đổi yêu cầu khởi kiện (nếu bảo vệ nguyên đơn)
Câu 14. Anh (chị) hãy trình bày ngắn gọn kỹ năng nghiên cứu, phân tích, đánh
giá chứng cứ?
- Nghiên cứu:
Nghiên cứu tài liệu, chứng cứ do nguyên đơn, bị đơn cung cấp và tài liệu, chứng cứ
mà tòa án thu thập được. Nghiên cứu các văn bản ghi lời khai, các kết luận giám định,
khám nghiệm…
- Đánh giá và phân tích
+ Xác định giá trị chứng minh của từng chứng cứ
+ Đánh giá và phân tích một cách toàn diện những chứng cứ có lợi, bất lợi cho
khách hàng của mình
+ Lưu ý đảm bảo các vấn đề về trình tự, thủ tục tố tụng khi thu thập, đánh giá
chứng cứ.
Câu 15. Anh (chị) hãy trình bày mục đích và các yêu cầu của việc nghiên cứu hồ
sơ hình sự?
*Mục đích:
Mục đích của việc nghiên cứu hồ sơ vụ án hình sự nhằm giúp cho luật sư nắm vững được
nội dung vụ án, để từ đó có hướng bào chữa, bảo vệ một cách khách quan và chính xác
nhất, trong đó xác định được:
- Về thủ tục tố tụng có gì vi phạm không;
- Có căn cứ kết tội bị cáo hay không, hành vi phạm tội cụ thể là gì, bối cảnh, thời gian,
động cơ, mục đích phạm tội (nếu có), quyền lợi hợp pháp của đương sự khác trong vụ án
như thế nào.
- Có những tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự không.
Việc nghiên cứu hồ sơ vụ án hình sự cũng là cơ sở để luật sư lên kế hoạch hỏi, đối đáp và
tranh luận trước tòa.

*Nguyên tắc
- Tôn trọng trật tự hồ sơ đã được sắp xếp (bởi cơ quan tiến hành tố tụng)
Pháp luật không quy định hồ sơ phải được sắp xếp như thế nào nhưng mà để phục vụ
cho công việc điều tra truy tố, xét xử thì các cơ quan tiến hành tố họ sẽ sắp xếp hồ sơ
theo trật tự của họ để phục vụ cho việc giải quyết vụ án. Khi mượn hồ sơ để nghiên
cứu từ các cơ quan có thẩm quyền, ta không được làm xáo trộn trật tự của hồ sơ vì có
những hồ sơ rất phức tạp và nhiều tập tài liệu và họ đã sắp xếp theo trật tự để dễ dàng
theo dõi.
- Nắm vững thủ tục tố tụng quá trình hình thành hồ sơ.
Để nghiên cứu hồ sơ một cách hiệu quả và nhanh chóng, ta phải nắm vững và hiểu rõ
trình tự thủ tục tố tụng. Nó giúp ta dễ dàng phát hiện những điểm mâu thuẫn và không
hợp lý khi nghiên cứu các tài liệu ở trong hồ sơ. Ví dụ: trình tự về mặt thời gian, sai
sót về mặt thẩm quyền, về thủ tục thu thập chứng cứ…
*Yêu cầu trong nghiên cứu HSVAHS
- Đảm bảo tính toàn diện
Việc nghiên cứu toàn bộ vụ án là việc không có khả thi. Ta phải xác định được phạm
vi tài liệu chứng cứ cần nghiên cứu để bảo vệ cho khách hàng của mình một cách toàn
diện. Cần xác định vai trò của khách hàng trong VAHS, mối quan hệ giữa khách hàng
với các đương sự khác, xác định các tài liệu cần nghiên cứu để đảm bảo xác định
được toàn diện những chứng cứ, tình tiết liên quan đến hành vi phạm tội, liên quan
đến các tình tiết tăng nặng giảm nhẹ của khách hàng mà mình bảo vệ.
- Đảm bảo tính đầy đủ
Khi đã xác định phạm vi tài liệu cần nghiên cứu, ta cần nghiên cứu một cách đầy đủ
tất cả các tài liệu đó. Phân tích sự liên quan, sự mâu thuẫn giữa các chứng cứ, thu thập
thêm các chứng cứ nếu thấy chưa đủ, hoặc đề nghị cơ quan tiến hành tố tụng thu thập
để bảo đảm có đủ chứng cứ bảo vệ tốt cho khách hàng của mình.
- Có phương án nghiên cứu
Phải có các phương pháp nghiên cứu nhất định, lựa chọn phương pháp nghiên cứu
phù hợp, đảm bảo nhanh và có hiệu quả.
- Theo mục đích nghiên cứu
Phụ thuộc vào vai trò của người nghiên cứu trong khi tham gia vào giải quyết vụ án.
(Luật sư thì bảo vệ cho đương sự nào trong vụ án hình sự). Tùy vào vai trò, vị trí khi
tham gia vào vụ án mà ta xác định rõ mục đích nghiên cứu. Từ mục đích nghiên cứu
ta sẽ xác định tính toàn diện, tính đầy đủ và lựa chọn phương pháp nghiên cứu sao
cho phù hợp.
Câu 16. Việc xác định mục đích khi đàm phán có ý nghĩa như thế nào?
(i) Tạo sự hiểu biết toàn diện về giao dịch, thoả thuận mà các bên chuẩn bị
tham gia đàm phán;
Trước khi tham gia đàm phán, cần đảm bảo bản thân đã hiểu cơ cấu giao dịch và
các thoả thuận giữa các bên liên quan đến giao dịch. Chúng ta không chỉ lắng
nghe thụ động từ những thông tin khách hàng cung cấp mà cần chủ động hỏi lại,
gợi mở về những thông tin còn thiếu để có được cái nhìn toàn diện về giao dịch.
(ii) Đề ra và giải quyết các vấn đề pháp lý có liên quan đến giao dịch và các câu
hỏi trả lời vấn đề đó nhằm tránh lạc đề;
Chúng ta cần hiểu rõ các vấn đề pháp lý liên quan đến giao dịch để có thể đề xuất
các điều khoản phù hợp trong hợp đồng và có lợi cho khác hàng của mình. Nếu
không thẻ xác định đươc những vấn đề pháp lý liên quan đến giao dịch thì rủi ro
phía đối tác sẽ đưa ra những điều khoản chỉ phục vụ cho lợi ích của họ và có thể
gây thiệt hại cho khách hàng.
(iii) Phục vụ thu thập thông tin để biết được điểm mạnh, điểm yếu của đối tác;
Từ đó, đề ra phương án giải quyết phù hợp và tạo ra các ưu thế, khắc phục
khuyết điểm của bản thân khi tham gia đàm phán. Một điều quan trọng khi đàm
phán là cần biết rõ mình và đối phương mong muốn đạt được mục đích gì thông
qua cuộc đàm phán. Không chỉ giúp chuẩn bị các lý lẽ tranh luận phù hợp nhằm
đạt được mục đích mà còn giúp khai thác các điểm yếu của đối tác để biến nó
thành lợi thế của mình khi đàm phán.
(iv) Chuẩn bị tâm lý cho bản thân
Quá trình đàm phán đôi khi có thể kéo dài trong một khoảng thời gian dài, vì vậy
cần chuẩn bị một tinh thần vững chãi, tự tin và bình tĩnh để có thể đàm phán đạt
được các thoả thuận có lợi nhất cho khách hàng của mình.
Câu 17. Công thức PDCA (Plan – Do – Check – Adjust) đóng vai trò thế nào
trong thực hành Kỹ năng Đàm phán, tranh luận?
Plan: Lên kế hoạch
Việc lên kế hoạch được diễn ra trong giai đoạn chuẩn bị đàm phán. Chúng ta cần
chuẩn bị, lên kế hoạch cho những diễn biến và các tình huống bất ngờ, thời gian,
không gian, người đi đàm phán, chuẩn bị trước để xây dựng phương án giải quyết phù
hợp cũng như hiểu được những thế mạnh, điểm yếu của bản thân và đối phương để
đưa ra những đề xuất pháp lý phù hợp giải quyết vấn đề liên quan đến giao dịch.
Do: Triển khai
Việc triển khai được thực hiện trong giai đoạn đàm phán. Trong giai đoạn này đây là
một quá tình mang tính kỹ thuận, là quá trình thương lượng giữa các bên có lợi ích
khác nhau, đôi khi đối lập nhau, để đi thoả thuận. Trên thực tế, khi tham gia đàm
phán, chúng ta thường sẽ tìm được điểm chung giữa các bên đối tác với nhau để tạo
sự gần gũi, tăng khả năng thuận lợi cho việc đàm phán, tranh luận. Chú ý vào lắng
nghe đề xuất và quan sát về body language để thiết lập mối quan hệ với khách hàng
cũng như với đối tác từ đó đưa ra những đề nghị, chấp nhận hoặc phản bác đề nghị
của đối phương và cuối cùng đi đến một giải pháp thống nhất
Check: giám sát, kiểm tra
Sau khi tiến hành đàm phán cần có buớc kiểm tra, giám sát việc thực hiện giao dịch.
Cần nắm rõ những yêu cầu, điều khoản và những bất lợi, ưu điểm của bản thân và đối
tác để hoàn thiện công tác giám sát kĩ càng các công việc cần được thực hiện.
Adjust: điều chỉnh cho phù hợp và rút kinh nghiệm
Trong quá trình giám sát và kiểm tra, sẽ xuất hiện những sai sót hoặc sự không tuân
thủ các điều khoản của giao dịch, chính vì vậy cần có sự điều chỉnh cho phù hợp với
các điều khoản đã thoả thuận cũng như rút kinh nghiệm cho những giao dịch khác lần
sau.
18. Vai trò của yếu tố “Biết – know” trong thực hành kỹ năng đàm phán, tranh
luận?
Trong thực hành kỹ năng đàm phán, tranh luận, yếu tố “biết – know” được thể hiện
qua sự hiểu biết đối với những ưu, khuyết điểm của bản thân và của đối tác tham gia
đàm phán. Sự hiểu biết này sẽ giúp chúng ta có cái nhìn toàn diện về vấn đề đang cần
giải quyết để có thể đưa ra những đề xuất phù hợp đi đến sự thống nhất giữa các bên.
Ngoài ra, giúo chúng ta đánh gía đối phương, nắm được những ưu điểm, biến những
bất lợi của đối phương thành lợi thế của bản thân để chiếm được phần lợi ích, ưu thế
hơn khi tham gia đàm phán, tranh luận. Không những vậy, việc “biết” cũng đồng thời
hỗ trợ tiên liệu những tình huống bất ngờ có thể xảy ra thông qua việc dự đoán, lắng
nghe những thông tin khách hàng cung cấp, quan sát body language để gợi mở, thu
thập thêm nhiều tình tiết, chi tiết vụ việc và đánh giá khả năng giải quyết vấn đề của
đối phương.
Yếu tố “biết” là một yếu tố cần thiết không chỉ trong giai đoạn chuẩn bị đàm phán,
tranh luận mà còn thể hiện cả trong quá trình đàm phán thông qua các thông tin đã thu
thập được từ giai đoạn trước, việc chúng ta nắm “biết” được những thông tin đó sẽ
giúp cho việc đàm phán diễn ra suôn sẻ và nắm được phần lợi thế hơn so với bên còn
lại. Ngoài ra, trong quá trình đàm phán, yếu tố biết sẽ giúp tận dụng những chi tiết mà
đối phương đã bỏ sót. Đôi khi phía đối phương chưa có sự chuẩn bị kỹ càng cho vệc
đàm phán dẫn đến có sự bỏ sót về một điều khoản nào đó. Từ đó, chính nhờ sự bỏ sót
này, chúng ta có thể thuận lợi thuyết phục đối phương hoặc gợi ý để đưa ra một đề
xuất có hướng có lợi hơn cho bên mình hoặc thậm chí có thể đòi hỏi những lợi ích
nhiều hơn so với những gì chúng ta có thể đạt được theo dự kiến.

19. Sinh viên chọn một nội dung mà SV cho rằng quan trọng khi thực hành Kỹ
năng đàm phán, tranh luận?
Theo cá nhân em, đối với công thức PDCA (Plan – Do - Check – Adjust) thì Plan –
lên kế hoạch là nội dung quan trọng cần được chú trọng khi thực hành Kỹ năng đàm
phán, tranh luận với 2 lý do:
Thứ nhất, đối với bất kì công việc đàm phán, tranh luận nào cũng cần có sự chuẩn bị
kỹ lưỡng để có thể dễ dàng nắm bắt những ưu thế của bản thân và đối phương, đặc
biệt tạo tiền đề thuận lợi cho quá trình đàm phán, tranh luận diễn ra thành công hơn.
Trong giai đoạn chuẩn bị, lên kế hoạch này bao gồm nhiều công việc khác nhau, bao
gồm hiểu giao dịch và thoả thuận giữa các bên, hiểu được các vấn đề pháp lý có liên
quan đến giao dịch và các giải pháp, đánh giá được những điều kiện cần thiết, ưu
điểm, khuyết điểm của bản thân để chuẩn bị một tâm lý vững chãi, tự tin khi tham gia
đàm phán.
Thứ hai, việc chuẩn bị những tài liệu, đề xuất cho quá trình đàm phán cũng sẽ giúp
cho việc đàm phán, tranh luận được thuận lợi hơn. Khi tham gia vào đàm phán, tranh
luận, bản thân những người tham gia luôn cần có sự chuẩn bị tài liệu, tinh thần và sự
sắp xếp các điều khoản để tạo được một trật tự, sắp xếp theo đúng như dự kiến trong
kế hoạch. Ngoài ra, khi có sự chuẩn bị trước cũng giúp cho chúng ta có thể linh hoạt
xử lý khi có những tình huống bất ngờ xảy ra vì bản thân đã tiên liệu trước và nắm rõ
được bản chất vấn đề cũng như là những đề xuất giải quyết theo hướng có lợi nhất
cho khách hàng.
20. Sinh viên chọn một nội dung mà SV cho rằng quan trọng khi thực hành Kỹ
năng đàm phán, tranh luận?
Giống câu trên 19 ở trên hihi.
21. Vai trò của Kỹ năng Đàm phán, tranh luận đối với hoạt động thực hành
Pháp luật?
Đàm phán là quá trình thương lượng giữa các bên có lợi ích khác nhau, đôi khi đối lập
nhau, để đi đến thỏa thuận.

22. Anh (chị) hãy xác định các vấn đề cần lưu ý khi thu thập thông tin, tài liệu để
tiếp nhận và thực hiện yêu cầu tư vấn?
Thông tin và tài liệu về vụ việc được xem là những “nguyên liệu” quan trọng hàng
đầu để người tư vấn nắm bắt được bối cảnh vụ việc, tâm lý, mong muốn của khách hàng.
Vấn đề cần lưu ý đầu tiên là không nên coi nhẹ việc thu thập thông tin khách hàng và suy
diễn câu chuyện của khách hàng bằng tài trí của người tư vấn vì việc này đồng nghĩa với
việc sản phẩm tư vấn cho khách hàng không có giá trị thực tế cao, không phù hợp với
diễn biến của sự việc, mục đích và mong muốn của khách hàng. Đồng thời, trong giai
đoạn này, có những loại thông tin sau người thực hiện tư vấn cần thu thập để đưa ra quyết
định trước khi tiếp nhận và thực hiện yêu cầu tư vấn:
 Thông tin về khách hàng: tên họ, địa chỉ, số điện thoại
 Thông tin về nội dung vụ việc: sự thật khách quan
 Thông tin về tình trạng vụ việc: tính chất mức độ tranh chấp, các nơi đã liên hệ...
 Thông tin về yêu cầu của khách hàng
Vấn đề thứ hai cần lưu ý là các bước thu thập thông tin
Bước 1: Chuẩn bị tâm thế, trang phục, thiết bị (ví dụ như máy ghi âm, điện thoại
để có thể ghi âm, chụp hình giấy tờ, tài liệu hoặc cơ sở pháp lý, nguồn tài liệu tham
khảo)
Bước 2: Gặp gỡ, chào hỏi ban đầu (phá băng): bất cứ một hoạt động nào liên quan
đến các công tác về thu thập cũng như tư vấn pháp luật thì đều đòi hỏi người hành
nghề luật cần phải tạo ra sự tin tưởng ban đầu đối với quá trình cung cấp thông tin từ
người cung cấp thông tin.
Bước 3: Thu thập thông tin về khách hàng, hoàn thiện biểu mẫu theo quy định
và cam kết bảo mật thông tin, yêu cầu trung thực khi cung cấp thông tin: Trong
quá trình làm việc với khách hàng, yêu cầu khách hàng cung cấp thông tin, người
hành nghề luật cần phải có sự chuẩn bị đối với việc hình thành những nền tảng thông
tin ban đầu để cho chúng ta có thể tiếp cận với vụ việc và đảm bảo cho quá trình giải
quyết vụ việc sau đó được thực hiện một cách hiệu quả.
Bước 4: Lắng nghe câu chuyện của khách hàng: Nghe chủ động và cắt lời khéo léo
khi cần thiết và đồng thời ghi chép, tóm tắt lại câu chuyện sau khi khách hàng cung
cấp xong.
Bước 5: Xác định yêu cầu và nguyện vọng của khách hàng trong câu chuyện và
đồng thời cần khẳng định lại yêu cầu của khách hàng trong quá trình cung cấp
thông tin.
Bước 6: Xác định các vấn đề pháp lý từ câu chuyện của khách hàng, thu thập
thêm thông tin cần thiết để giải quyết vụ việc. Từ đó giúp người hành nghề luật có
định hướng để đưa ra tư vấn hoặc giải quyết công việc ở các bước tiếp theo.
Vấn đề cần lưu ý tiếp theo là các kỹ năng cần thiết khi thu thập thông tin:
 Kỹ năng chung về giao tiếp như giọng nói, mắt nhìn và thái độ lắng nghe để
tạo thiện cảm và tin tưởng cho người cung cấp thông tin
 Kỹ năng cắt lời, dẫn dắt câu chuyện: Trong trường hợp khách hàng đưa câu
chuyện đi quá xa, người hành nghề luật cần có sự cắt lời khéo léo, dẫn dắt câu
chuyện của khách hàng theo đúng hướng, để tìm hiểu kỹ và rõ hơn đối với vấn đề
pháp lý cụ thể của vụ việc.
 Kỹ năng đặt câu hỏi gồm 2 dạng câu hỏi: câu hỏi thu thập thông tin (giúp người
hành nghề luật biết được rõ hơn về tính chất mức độ của vụ việc) và câu hỏi để
kiểm tra thông tin (nhằm hướng tới mục đích biết và khẳng định thông tin đúng
sai). Từ đó có câu hỏi đóng (thực hiện việc kiểm tra thông tin) và câu hỏi mở (giúp
thu thập thông tin tốt hơn và hiệu quả hơn)
 Kỹ năng xác định nguồn/ tài liệu, chứng cứ cần thu thập. Chứng cứ trực tiếp và
chứng cứ gián tiếp.
23. Hãy xác định các nội dung cơ bản của một thư tư vấn?
Các nội dung cơ bản của một thư tư vấn bao gồm: phần mở đầu, mô tả tóm tắt sự
việc, căn cứ pháp lý, xác định lại các vấn đề được yêu cầu tư vấn, phân tích sự việc và
đưa ra giải pháp, và cuối cùng là phần kết thúc.
 Phần mở đầu:
- Tiêu đề, họ tên, địa chỉ người nhận (nên gửi cho người trực tiếp làm việc
với chúng ta hoặc là người có thẩm quyền nhận thư tư vấn), ngày tháng
năm gửi thư.
- Lời chào đầu thư.
- Khẳng định phạm vi tư vấn, nên nhắc lại thời điểm khách hàng đưa ra yêu
cầu.
 Mô tả tóm tắt sự việc
- Chỉ nêu những sự kiện có ý nghĩa pháp lý.
- Nên liệt kê danh mục tài liệu khách hàng cung cấp (ý nghĩa của việc này
nhằm giới hạn trách nhiệm của chúng ta, chúng ta chỉ tư vấn trên cơ sở tài
liệu chứng cứ mà khách hàng cung cấp, và để khách hàng kiểm tra rà soát
lại xem họ đã cung cấp đủ chưa)
- Đối với những vụ việc phức tạp nên sử dụng bảng mô tả
- Ý nghĩa:
+ Xác định lại với khách hàng các tình tiết của vụ việc cần tư vấn.
+ Giới hạn phạm vi tư vấn và trách nhiệm của luật sư.
 Các văn bản vận dụng, căn cứ pháp lý
- Ý nghĩa: Thể hiện năng lực, trách nhiệm, sự nghiêm túc của người tư vấn
đồng thời giới hạn trách nhiệm của người tư vấn (chúng ta chỉ tư vấn cho
khách hàng trên cơ sở các quy định của pháp luật hiện hành).
- Nội dung:
+ Các văn bản pháp luật: luật và các văn bản hướng dẫn
+ Công văn hướng dẫn (nếu có)
+ Án lệ (nếu có)
- Xác định lại các vấn đề được yêu cầu tư vấn:
 Ý nghĩa:
 Xác định lại với khách hàng về yêu cầu của họ
 Tư vấn đúng yêu cầu
 Giới hạn trách nhiệm
- Nội dung tư vấn: phân tích sự việc, đưa ra giải pháp, lời khuyên (phân tích điểm mạnh,
điểm yếu với từng giải pháp và nêu hậu quả pháp lý đối với từng giải pháp)
- Phần kết thúc: Chào thư và thiện chí cung cấp các thông tin liên hệ nếu khách hàng còn
vướng mắc hoặc cần hỗ trợ pháp lý khác.
24. Hãy xác định các vấn đề cần chuẩn bị cho việc viết bài bào chữa?
 Nghiên cứu hồ sơ một cách cặn kẽ
 Tổng hợp các tài liệu đã thu thập để bảo vệ cho thân chủ của mình
 Nghiên cứu để xác định tất cả các quy định pháp luật mà mình sẽ vận dụng để bào
chữa cho thân chủ
 Trên cơ sở nghiên cứu hồ sơ và luật áp dụng, định hướng bào chữa theo hướng:
- Vô tội
- Giảm nhẹ trách nhiệm hình sự
- Yêu cầu điều tra bổ sung
- Vấn đề trách nhiệm dân sự
 Sau khi trao đổi, thống nhất lại với thân chủ về hướng bào chữa thì chúng ta mới
bắt tay vào viết bài bào chữa
25. Phân tích ý nghĩa của việc xác định vấn đề pháp lý đối với tư vấn pháp luật?
Thực chất, việc xác định vấn đề pháp lý của vụ việc là việc người tư vấn pháp luật
nghiên cứu một cách kỹ lưỡng và thấu đáo hồ sơ của khách hàng để tìm ra những vấn đề
mấu chốt cần giải quyết. Việc xác định vấn đề pháp lý chính là việc tìm ra các câu hỏi
pháp lý của hồ sơ và quá trình xác định vấn đề pháp lý là quá trình người tư vấn đặt một
chuỗi các câu hỏi pháp lý có tính liên kết với nhau, câu hỏi pháp lý này sẽ làm nảy sinh
câu hỏi pháp lý kế tiếp. Từ đó, có thể xác định được các vấn đề trọng tâm cần tranh luận
xoay quanh vụ việc và đưa ra những giải pháp cho các vấn đề cần giải quyết. Qua đó,
giúp người tư vấn có thể xác định được những nguồn luận để điều chỉnh cho câu hỏi pháp
lý mấu chốt. Một điều quan trọng là vấn đề pháp lý của hồ sơ thường là câu hỏi pháp lý
mà câu trả lời cho câu hỏi pháp lý đó sẽ giúp giải đáp được nguyện vọng của khách hàng.
26. Anh/chị hãy xác định các bước để tiến hành tư vấn pháp luật? Theo anh chị,
bước nào là quan trọng nhất? Vì sao?
 Các bước để tiến hành tư vấn pháp luật:
Bước 1: Tìm hiểu yêu cầu của khách:
Bước 2: Thỏa thuận hợp đồng dịch vụ pháp lý
Bước 3: Xác định vấn đề pháp lý (phân tích khía cạnh pháp lý của sự việc)
Bước 4: Tìm luật và áp dụng luật vào tình huống của khách hàng
Bước 5: Đề xuất giải pháp – Trả lời khách hàng
 Theo em, bước tiếp nhận thông tin và yêu cầu của khách hàng là quan trọng nhất
bởi việc tiếp nhận thông tin và yêu cầu của khách hàng được xem là bước đầu tiên
cho việc trao đổi thông tin giữa các luật sư và khách hàng. Việc tiếp nhận thông
tin là một bước đệm quan trọng để luật sư có cái nhìn tổng quan về vụ việc cũng
như định hướng được rõ ràng yêu cầu của khách hàng để cung cấp dịch vụ pháp lý
phù hợp. Nếu quá trình tiếp nhận thông tin và yêu cầu này không được rõ ràng sẽ
là nguyên nhân dẫn đến hệ quả của việc cung cấp dịch vụ pháp lý sai với yêu cầu
của khách hàng cũng như không đảm bảo chất lượng dịch vụ được cung cấp bởi
các luật sư.
27. Phân tích vai trò của việc xác định vấn đề pháp lý?
Việc xác định vấn đề pháp lý là một điều tất yếu và quan trọng trong việc thực hành
nghề Luật nhằm tìm đúng quy định pháp luật áp dụng vào bối cảnh tình huống đang diễn
ra. Khi giải quyết một vụ việc liên quan đến pháp luật, việc xác định rõ vấn đề pháp lý sẽ
giúp ra nắm được mấu chốt của vấn đề và đưa ra một hướng giải pháp tốt nhất, hiệu quả
nhất đồng thời là bám sát được quy định của pháp luật. Vấn đề pháp lý là một vấn được
khái quát từ bối cảnh của vụ việc thường được thể hiện dưới hình thức một mệnh đề được
nêu ra, cần được luật sư đánh giá, người thực hành pháp luật cần nắm chắc điều này và
tìm đúng quy định pháp luật cần áp dụng: (1) Một hay nhiều sự kiện mấu chốt, (2) Điều
luật áp dụng. Khi xác định được 2 nội dung trên, người thực hành luật có thể áp dụng
kiến thức chuyên ngành để đưa ra một hướng giải quyết tối ưu nhất.
28. Phân tích ý nghĩa của việc giữ bí mật thông tin khách hàng trong hoạt động
của luật sư?
Luật sư có nghĩa vụ giữ bí mật thông tin của khách hàng khi thực hiện dịch vụ pháp lý
và cả khi đã kết thúc dịch vụ đó, trừ trường hợp được khách hàng đồng ý hoặc theo quy
định của pháp luật; luật sư có trách nhiệm yêu cầu các đồng nghiệp có liên quan và nhân
viên của mình cam kết không tiết lộ những bí mật thông tin mà họ biết được và giải thích
rõ nếu tiết lộ thì phải chịu trách nhiệm trước pháp luật.
Có thể thấy, vấn đề giữ bí mật thông về khách hàng của luật sư là không chỉ là vấn đề
đạo đức, ứng xử nghề nghiệp mà là một vấn đề mang tính pháp lý, được quy định trong
các văn bản quy phạm pháp luật, là nghĩa vụ pháp lý của luật sư. Nguyên tắc “Giữ bí mật
thông tin về khách hàng” là một trong những nét đặc thù của nghề luật sư, là một trong
những yếu tố tạo nên uy tín và sự thành công của cá nhân luật sư, tổ chức hành nghề luật
sư.
Trong các mối quan hệ nghề nghiệp của luật sư, mối quan hệ giữa luật sư với khách
hàng là mối quan hệ cơ bản, nền tảng. Để giải quyết vấn đề của khách hàng, luật sư cần
phải biết những thông tin về khách hàng, thông tin về vụ việc mà khách hàng đang gặp
phải. Để có được thông tin này, luật sư phải tạo được sự tin cậy cho khách hàng. Sự tin
cậy đó có được không chỉ ở chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp mà Luật sư còn phải đảm
bảo với khách hàng về việc giữ bí mật thông tin của họ. Có thể thấy việc giữ bí mật thông
tin khách hàng chỉ là một đòi hỏi của thực tiễn, mang tính tự nhiên, tất yếu trong mối
quan hệ nghề nghiệp giữa luật sư với khách hàng mà còn là một quy tắc đạo đức và ứng
xử nghề nghiệp của luật sư.
29. Anh/chị hãy xác định những việc luật sư không được làm trong quan hệ với
đồng nghiệp? Cho ví dụ và phân tích?
 Xúc phạm danh dự hoặc hạ thấp uy tín của đồng nghiệp; thực hiện hành vi gây áp
lực, đe dọa hoặc sử dụng các thủ thuật trái pháp luật và Quy tắc Đạo đức và Ứng
xử nghề nghiệp luật sư để gây bất lợi đối với đồng nghiệp, giành lợi thế cho mình
trong hành nghề;
 Thông đồng với luật sư của khách hàng có quyền lợi đối lập với khách hàng của
mình để cùng mưu cầu lợi ích cá nhân bất chính;
 Tiếp xúc, trao đổi riêng với khách hàng đối lập về quyền lợi với khách hàng của
mình để giải quyết vụ việc mà không thông báo cho luật sư đồng nghiệp (nếu có)
bảo vệ quyền lợi cho khách hàng đó;
 Môi giới khách hàng cho đồng nghiệp để đòi tiền hoa hồng;
 Áp dụng các thủ đoạn cạnh tranh không lành mạnh để nhằm mục đích giành giật
khách hàng như:
- So sánh năng lực nghề nghiệp của mình hoặc tổ chức hành nghề của mình với các
luật sư khác, tổ chức hành nghề khác nhằm mục đích tạo niềm tin để tác động, chi
phối quyền lựa chọn luật sư của khách hàng;
- Áp đặt hoặc cố tình chi phối làm ảnh hưởng đến tính độc lập, khách quan trong
hành nghề của đồng nghiệp có quan hệ phụ thuộc với luật sư như quan hệ thầy -
trò, cấp trên - cấp dưới, huyết thống, thân thuộc;
- Xúi giục khách hàng từ chối đồng nghiệp để nhận vụ việc về cho mình;
- Sử dụng các nhân viên của mình làm người tiếp thị trước trụ sở các cơ quan tiến
hành tố tụng, trại tạm giam, cơ quan nhà nước và các tổ chức khác nhằm mục đích
mồi chài, dụ dỗ, lôi kéo khách hàng.
VD: Hành vi Vu khống theo Bộ Quy tắc được hiểu là hành vi bịa đặt, loan truyền
những điều mà Luật sư biết rõ là bịa đặt nhằm xúc phạm danh dự hoặc gây thiệt hại đến
quyền, lợi ích hợp pháp của Luật sư đồng nghiệp hoặc bịa đặt là Luật sư đồng nghiệp vi
phạm và tố cáo họ đến Đoàn Luật sư hoặc Cơ quan có thẩm quyền.
30. Khi thu thập thông tin, tài liệu, luật sư cần lưu ý những vấn đề gì?
 Về mặt nội dung: Luật sư cần thu thập được nội dung và tài liệu liên quan đến bốn
loại thông tin sau:
- Thông tin về khách hàng: tên họ, địa chỉ, điện thoại…
- Thông tin về nội dung vụ việc: sự thật khách quan
- Thông tin về tình trạng vụ việc: tính chất/mức độ tranh chấp, các nơi đã liên hệ…
- Thông tin về yêu cầu của khách hàng.

 Về mặt kỹ năng: trong quá trình này, luật sư nên đảm bảo tuân thủ và kết hợp một
số nguyên tắc về mặt kỹ năng, cụ thể như sau:
- Đối với việc thu thập có sự giao tiếp trực tiếp với khách hàng
Thứ nhất, cần tạo được sự thiện cảm và tin tưởng để khách hàng có thể không ngần
ngại tiết lộ thông tin và cung cấp tài liệu cần thiết. Để đạt được mục đích này một sự
chuẩn bị tốt về tâm thế, trang phục, thiết bị là cần thiết để tạo dựng niềm tin.
Bên cạnh đó, việc tuân thủ các kỹ năng chung về giao tiếp như giọng nói, mắt nhìn,
lắng nghe… cũng là vô cùng cần thiết. Trong đó, kỹ năng lắng nghe không chỉ tạo một
hiệu ứng tốt đối với khách hàng mà còn giúp luật sư nắm bắt được nguồn tin một cách
hiệu quả hơn.
Tuy nhiên, sự lắng nghe và giao đãi này cần có sự chọn lọc. Theo đó, khi thu thập
thông tin từ câu chuyện của khách hàng, luật sư cần biết ngắt lời đúng lúc, tự mình tóm
tắt câu chuyện, xác định vấn đề pháp lý và sàng lọc tình tiết trong đầu, tránh tình trạng bị
loãng thông tin,
Cuối cùng, tất cả các tiêu chí trên chỉ có thể đạt được khi luật sư tận dụng kỹ năng đặt
câu hỏi, từ đó dẫn dắt khai thác các thông tin cần thiết.
- Đối với việc thu thập không có sự giao tiếp trực tiếp với khách hàng
Trong quá trình khai thác và thu thập thông tin, sẽ có những giai đoạn luật sư không
trực tiếp làm việc với khách hàng mà có thể lấy được thông tin từ tài liệu lưu trữ của cơ
quan có thẩm quyền hoặc thực hiện các nghiệp vụ thu thập cần thiết khác. Lúc này, công
việc của luật sư không lệ thuộc quá nhiều vào khách hàng, mà sự tự chủ và việc áp dụng
kinh nghiệm cá nhân sẽ được ưu tiên áp dụng (như việc luật sư cảm thấy trích lục bản đồ
địa chính là cần thiết thì sẽ tự đi xin hoặc luật sư hình sự xin được cùng đi đến hiện
trường với cơ quan điều tra,...). Trong những trường hợp này, cần lưu ý định hướng đúng
vấn đề pháp lý và các thông tin, tài liệu cần thiết, tránh lãng phí tiền bạc, thời gian, sa đà
vào những vấn đề không thực sự cần thiết. Ngoài ra, người hành nghề luật nói chung và
luật sư nói riêng cần tránh tuyệt đối tình trạng “nghe đồn”, không có xác nhận rõ ràng từ
cơ quan nhà nước có thẩm quyền.

You might also like