You are on page 1of 56

TUYỂN TẬP BỘ ĐỀ KHÓA LUYỆN ĐỀ 2023 LỚP VĂN

CÔ ĐƯỜNG MAI

 PHẦN 1: TUYỂN TẬP 20 ĐỀ THEO CẤU TRÚC MỚI HIỆN NAY


ĐỀ 1
I. Đọc hiểu (3,0 điểm)
Đọc văn bản sau và thực hiện các yêu cầu:
Lòng biết ơn là đẳng cấp cao nhất của văn minh. Một triết gia cổ đại đã
từng nói như vậy.
Nên trong cuộc đời mình, dù có bất đồng quan điểm, hoặc không còn yêu
thương, hoặc họ không cho mình nữa, hoặc mình không đủ năng lực lấy cơ hội
họ mang đến, thì cũng nên trắng đen mà dùng lý trí phân biệt, rằng họ đã từng
cho mình. Dù là 1 xu hay một miếng bánh nhỏ, cũng phải biết ơn.
Luôn nghĩ về ngày xưa, để biết ơn người đã cho mình cơ hội. Nếu không
có họ, thì mình hiện giờ sẽ ra sao. Tự tưởng tượng và xóa bỏ những ý nghĩ
không hay, nếu có. Văn minh đơn giản chỉ là như vậy.
[...] Cám ơn là câu cửa miệng, nhưng với người mình thì ngày càng hiếm
hoi. Chữ cám ơn xuất phát từ lòng biết ơn chân thành, là một tiêu chí để đánh
giá con nhà có giáo dục tốt từ cha từ mẹ.
(Trích Lòng biết ơn, Tony Buổi sáng, 17/10/2017)
Câu 1. Theo tác giả, chúng ta nên biết ơn những ai?
Câu 2. Việc dẫn lời của một triết gia cổ đại có ý nghĩa gì?
Câu 3. Theo anh/ chị vì sao Lòng biết ơn là đẳng cấp cao nhất của văn minh?
Câu 4. Anh/ Chị có đồng ý với quan niệm: Chữ cám ơn xuất phát từ lòng biết
ơn chân thành, là một tiêu chí để đánh giá con nhà có giáo dục tốt từ cha từ
mẹ? Vì sao?
II. LÀM VĂN (7.0 điểm)
Câu 1 (2,0 điểm)
Từ nội dung đoạn trích phần Đọc hiểu, anh/ chị hãy viết một đoạn văn
(khoảng 200 chữ) trình bày suy nghĩ về sự cần thiết của lòng biết ơn trong cuộc
sống.
Câu 2 (5,0 điểm)
Phân tích diễn biến tâm trạng của nhân vật Mị được nhà văn Tô Hoài thể
hiện trong đoạn trích sau:

1
Những đêm mùa đông trên núi cao dài và buồn. Nếu không có bếp lửa sưởi kia
thì Mị cũng đến chết héo. Mỗi đêm, Mị dậy ra thổi lửa hơ tay, hơ lưng, không
biết bao nhiêu lần.

Thường khi đến gà gáy, Mị dậy ra bếp sưởi một lúc thật lâu, các chị em trong
nhà mới bắt đầu ra dóm lò bung ngô, nấu cháo lợn.

Mỗi đêm, nghe tiếng phù phù thổi bếp, A Phủ lại mở mắt. Ngọn lửa bùng lên,
cùng lúc ấy Mị cũng nhìn sang, thấy mắt A Phủ trừng trừng. Mới biết nó còn
sống. Mấy đêm nay như thế.

Nhưng Mị vẫn thản nhiên thổi lửa, hơ tay. Nếu A Phủ là cái xác chết đứng chết
đấy, cũng thế thôi. Mị vẫn trở dậy, vẫn sưởi. Mị chỉ biết, chỉ còn ở với ngọn lửa.
Có đêm A Sử chợt về thấy Mị ngồi đấy, A Sử ngứa tay đánh Mị ngã xuống cửa
bếp. Nhưng đêm sau Mị vẫn ra sưởi như đêm trước.

Lúc ấy đã khuya. Trong nhà ngủ yên. Mị trở dậy thổi lửa, ngọn lửa bập bùng
sáng lên. Mị trông sang thấy hai mắt A Phủ cũng vừa mở. Dòng nước mắt lấp
lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen. Thấy tình cảnh thế, Mị chợt nhớ đêm
năm trước, A Sử trói Mị, Mị cũng phải trói đứng thế kia. Nước mắt chảy xuống
miệng, xuống cổ, không biết lau đi được. Trời ơi nó bắt trói đứng người ta đến
chết. Nó bắt mình chết cũng thôi. Nó đã bắt trói đến chết người đàn bà ngày
trước ở cái nhà này. Chúng nó thật độc ác. Chỉ đêm mai là người kia chết, chết
đau, chết đói, chết rét, phải chết. Ta là thân đàn bà, nó đã bắt về trình ma rồi, chỉ
còn biết đợi ngày rũ xương ở đây thôi... Người kia việc gì mà phải chết. A
Phủ... Mị phảng phất nghĩ như vậy.

Đám than đã vạc hẳn lửa. Mị không thổi cũng không đứng lên. Mị nhớ lại đời
mình. Mị tưởng tượng như có thể một lúc nào, biết đâu A Phủ chẳng trốn được
rồi, lúc đó bố con thống lý sẽ đổ là Mị đã cởi trói cho nó, Mị liền phải trói thay
vào đấy. Mị chết trên cái cọc ấy. Nghĩ thế, nhưng làm sao Mị cũng không thấy
sợ...

Trong nhà tối bưng, Mị rón rén bước lại, A Phủ vẫn nhắm mắt. Nhưng Mị
tưởng như A Phủ biết có người bước lại... Mị rút con dao nhỏ cắt lúa, cắt nút
dây mây. A Phủ thở phè từng hơi, như rắn thở, không biết mê hay tỉnh.

Lần lần, đến lúc gỡ được hết dây trói ở người A Phủ thì Mị cũng hốt hoảng. Mị
chỉ thì thào được một tiếng “Đi đi…” rồi Mị nghẹn lại. A Phủ khuỵu xuống
không bước nổi.

Nhưng trước cái chết có thể đến nơi ngay, A Phủ lại quật sức vùng lên, chạy.

Mị đứng lặng trong bóng tối.

2
Trời tối lắm. Mị vẫn băng đi.

Sau đó nhận xét về giá trị nhân đạo mới mẻ của tác phẩm.
ĐỀ 2
I. ĐỌC HIỂU (3.0 điểm)
Đọc đoạn trích dưới đây:
“Vào buổi sáng đẹp trời nọ, một bầy ếch rủ nhau vào rừng dạo chơi. Do
bất cẩn, hai chú ếch chẳng may trượt chân rơi xuống một cái hố sâu. Trong
tình thế hiểm nguy, những chú ếch trong bầy vội đến bên miệng hố để tìm cách
ứng cứu. Thế nhưng, sau khi thử mọi cách, chúng thấy cái hố quá sâu để có thể
cứu hai chú ếch xấu số. Cả bầy tuyệt vọng nói với hai chú ếch dưới hố biết sự
thật phũ phàng này và bảo hai chú chỉ còn biết chờ đợi cái chết mà thôi.
Bỏ ngoài tai những lời bình luận đó, hai chú ếch cố hết sức nhảy lên khỏi
hố. Nhưng thay vì động viên cổ vũ, những con ếch kia lại khuyên hai chú đừng
nên phí sức mà hãy sớm chấp nhận số phận của mình. Sau những nỗ lực không
thu được kết quả, một chú nghe theo lời khuyên của bầy ếch trên bờ, bỏ cuộc và
ngã lăn ra chết trong sự tuyệt vọng.
Trong khi đó, chú ếch còn lại tiếp tục nhảy. Mặc dù cả bầy ếch không
ngừng lặp lại lời khuyên trước đó nhưng chú vẫn không từ bỏ nỗ lực của mình
và ngày càng nhảy mạnh hơn. Cuối cùng chú cũng nhảy được lên bờ. Lúc này,
cả bầy ếch vây quanh chú và hỏi: “Anh không nghe thấy những gĩ chúng tôi nói
à?”. Thì ra chú ếch này bị nặng tai. Chú tưởng cả bầy ếch đã động viên chú
trong suốt khoảng thời gian qua.”
Mỗi lời nói của chúng ta đều ẩn chứa một sức mạnh vô hình. Một lời
động viên, khích lệ có thể trở thành động lực giúp cho những người đang trong
cơn bế tắc lấy lại tinh thần và vượt qua khó khăn. Nhưng cũng có những lời nói
có thể giết chết một người trong tình thế tuyệt vọng. Do đó, hãy cẩn thận với
những gì mình nói. Đừng hủy diệt tinh thần của một người đang trong hoàn
cảnh khốn khó bởi những lời nói tiêu cực của mình. Thay vào đó, hãy biết dành
thời giờ đề động viên và khích lệ họ. Cuộc sống của chúng ta và mọi người
xung quanh trở nên như thế nào tùy thuộc vào chính thái độ và những lời nói
của chúng ta.”
(Trích Hạt giống tâm hồn - Nhiều tác giả, Nxb Tổng hợp Tp. Hồ Chí
Minh, 2015)

Thực hiện các yêu cầu:


Câu 1. Chỉ ra tác dụng của “lời động viên, khích lệ” được đề cập đến trong
đoạn trích trên?

3
Câu 2. Theo anh/chị, “sức mạnh vô hình” của lời nói là gì?
Câu 3. Việc tác giả dẫn câu chuyện về những chú ếch có tác dụng gì?
Câu 4. Anh (chị) có cho rằng “Cuộc sống của chúng ta và mọi người xung
quanh trở nên như thế nào tùy thuộc vào chính thái độ và những lời nói của
chúng ta” không? Vì sao?
II. LÀM VĂN (7.0 điểm)
Câu 1 (2.0 điểm)
Từ nội dung đoạn trích ở phần Đọc hiểu, anh/chị hãy viết một đoạn
văn (khoảng 200 chữ) về điều bản thân cần làm để có những lời nói đúng
đắn.
Câu 2 (5,0 điểm) Cảm nhận vẻ đẹp của bức tranh ngày tết và diễn biến tâm
trạng của nhân vật Mị trong đoạn văn sau:
Trên đầu núi, các nương ngô, nương lúa gặt xong, ngô lúa đã xếp yên các nhà
kho.

Trẻ em đi hái bí đỏ, tinh nghịch, đốt những lều quanh nương để sưởi lửa. ở
Hồng Ngài, người ta thành lệ, cứ ăn tết thì gặt hái vừa đoạn, không kể ngày
tháng. ¡n tết thế cho kịp mưa xuân xuống, đi vỡ nương mới.

Hồng Ngài năm ấy ăn Tết giữa lúc gió thổi vào cỏ gianh vàng ửng, rét càng dữ.

Nhưng trong các làng Mèo Đỏ, những chiếc váy hoa đã được phơi ra mỏm đá,
xòe như con bướm sặc sỡ. Hoa thuốc phiện nở trắng lại nở mầu đỏ hau, đỏ
thậm, rồi nở mầu tím man mát. Đám trẻ đợi Tết, chơi quay, cười ầm trên sân
chơi trước nhà.

Ngoài đầu núi, đã có tiếng ai thổi sáo rủ bạn đi chơi. Mị nghe tiếng sáo vọng lại,
thiết tha bồi hồi.

Mày có con trai con gái


Mày đi làm nương
Ta không có con trai con gái
Ta đi tìm người yêu
Tiếng chó sủa xa xa. Những đêm tình mùa xuân đã tới.

ở mỗi đầu làng đều có một mỏm đất phẳng làm sân chơi chung ngày tết. Trai
gái, trẻ con ra sân ấy tụ tập đánh pao, đánh quay, thổi sáo, thổi kèn và nhảy.

Cả nhà thống lý ăn xong bữa cơm tết cúng ma. Xung quanh chiêng đánh ầm ỹ,
người ốp đồng vẫn nhảy lên xuống, run bần bật. Vừa hết bữa cơm tiếp ngay
cuộc rượu bên bếp lửa.

4
Ngày tết, Mị cũng uống rượu. Mị lén lấy hũ rượu, uống ực từng bát. Rồi say, Mị
lịm mặt ngồi đấy nhìn người nhảy đồng, người hát. Nhưng lòng Mị đang sống
về ngày trước, tai văng vẳng tiếng sáo gọi bạn đầu làng. Ngày trước Mị thổi sáo
giỏi. Mùa xuân đến, Mị uống rượu bên bếp và thổi sáo. Mị uốn chiếc lá trên
môi, thổi lá cũng hay như thổi sáo. Có biết bao nhiêu người mê, cứ ngày đêm
thổi sáo đi theo Mị hết núi này sang núi khác.

Rượu tan lúc nào. Người về, người đi chơi đã vãn cả, Mị không biết. Mị vẫn
ngồi trơ một mình giữa nhà. Mãi sau Mị mới đứng dậy. Nhưng Mị không bước
ra đường. Mị từ từ vào buồng.

Chẳng năm nào A Sử cho Mị đi chơi Tết.

Bấy giờ Mị ngồi xuống giường, trông ra cửa sổ lỗ vuông mờ mờ trăng trắng. Từ
nãy Mị thấy phơi phới trở lại, trong lòng đột nhiên vui như những đêm Tết ngày
trước. Mị trẻ. Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi. Bao nhiêu người có chồng cũng
đi chơi Tết. Huống chi A Sử với Mị, không có lòng với nhau mà vẫn phải ở với
nhau. Nếu có nắm lá ngón trong tay lúc này, Mị sẽ ăn cho chết ngay, chứ không
buồn nhớ lại nữa. Nhớ lại, chỉ thấy nước mắt ứa ra.

Từ đó, nhận xét về chất thơ trong sáng tác của Tô Hoài

ĐỀ 3
Đọc đoạn trích sau đây và thực hiện các yêu cầu:

Sông ơi! Sông đừng đi ngược dòng nhé!


Trên đường đời đừng té ngã khổ đau
Hãy đứng lên vì mọi thứ mai sau
Có ý chí sẽ làm nên tất cả
Đừng trả về là năng lực không đủ
Sẽ không thể làm chủ được tương lai.
Nếu ngày mai mà ta gục ngã
Đừng đổ cho số phận là sai
Chính là ta không kiên cường ý chí
Bị lãng phí cả một tương lai

5
Không! Ta sẽ không gục ngã
Sẽ quyết tâm đi hết trên đường đời
Hỡi trái tim còn đang non trẻ
Hãy bền bỉ ý chí mà đi
Hãy cố gắng vượt qua tất cả
Sẽ nhận được kết quả thành công.
(Bài thơ “Ý chí”, nhà thơ Quang Lâm)
Câu 1. Nêu phương thức biểu đạt của bài thơ trên. (0.5 điểm)
Câu 2. Anh/chị hiểu như thế nào về hai câu thơ sau? (0.75 điểm)
Hỡi trái tim còn đang non trẻ
Hãy bền bỉ ý chí mà đi
Câu 3. Hãy chỉ ra và nêu hiệu quả của những câu thơ cảm thán trong bài.
(0.75 điểm)
Câu 4. Anh (chị) có cho rằng: “Có ý chí sẽ làm nên tất cả” không? Vì sao?
(1.00 điểm)
II. LÀM VĂN (7.0 điểm)
Câu 1 (2.0 điểm)
Từ nội dung đoạn trích ở phần Đọc hiểu, anh/chị hãy viết một đoạn
văn (khoảng 200 chữ) trình bày suy nghĩ của mình về ý kiến: “Có ý chí sẽ
làm nên tất cả”
Câu 2 (5,0 điểm) Phân tích diễn biến tâm lí nhân vật bà cụ Tứ trong đoạn
trích sau:
Bà lão khẽ dặng hắng một tiếng, nhẹ nhàng nói với “nàng dâu mới”:
- Ừ, thôi thì các con đã phải duyên phải kiếp với nhau, u cũng mừng
lòng...
Tràng thở đánh phào một cái, ngực nhẹ hẳn đi. Hắn ho khẽ một tiếng,
bước từng bước dài ra sân. Bà cụ Tứ vẫn từ tốn tiếp lời:
- Nhà ta nghèo con ạ. Vợ chồng chúng mày liệu mà bảo nhau làm ăn. Rồi
ra may mà ông giời cho khá... Biết thế nào hở con, ai giàu ba họ, ai khó ba đời?
Có ra thì rồi con cái chúng mày về sau.
Bà lão đăm đăm nhìn ra ngoài. Bóng tối trùm lấy hai con mắt. Ngoài xa
dòng sông sáng trắng uốn khúc trong cánh đồng tối. Mùi đốt đống rấm ở những

6
nhà có người chết theo gió thoảng vào khét lẹt. Bà lão thở nhẹ ra một hơi dài.
Bà lão nghĩ đến ông lão, nghĩ đến đưa con gái út. Bà lão nghĩ đến cuộc đời cực
khổ dài dằng dặc của mình. Vợ chồng chúng nó lấy nhau, cuộc đời chúng nó
liệu có hơn bố mẹ trước kia không?...
- Con ngồi xuống đây. Ngồi xuống đây cho đỡ mỏi chân.
Bà lão nhìn người đàn bà, lòng đầy thương xót. Nó bây giờ đã là dâu con
trong nhà rồi. Người đàn bà khẽ nhúc nhích, thị vẫn khép nép đứng nguyên chỗ
cũ. Bà lão hạ thấp giọng xuống thân mật:
- Kể có ra làm được dăm ba mâm thì phải đấy, nhưng nhà mình nghèo,
cũng chả ai người ta chấp nhặt chỉ cái lúc này. Cốt làm sao chúng mày hòa
thuận là u mừng rồi. Năm nay thì đói to đấy. Chúng mày lấy nhau lúc này, u
thương quá...
(Trích Vợ Nhặt, Kim Lân, Ngữ văn 12, tập hai, Nxb GD, 2016)
Nhận xét về tư tưởng nhân đạo của nhà văn.

ĐỀ 4
I. ĐỌC HIỂU (3.0 điểm)
Đọc đoạn trích:
Cỏ vốn thấp
thấp nhất các loài cây
nên chân thường dẫm đạp
Rồi tới ngày chân tự hỏi
cỏ là gì khi nhìn đỉnh núi
nơi chân chưa từng (và có thể chẳng bao giờ chạm tới)
cỏ đã xanh ngạo nghễ ngàn đời

Và chân nhớ tới những cuộc tiễn đưa


người thân, sơ, bạn bè và cả những sơ sài về đất
theo cách thông thường hay trang trọng nhất
cỏ lại lặng lẽ đắp ấm những kiếp người
(Trích Cỏ - Hữu Việt)

7
Trả lời các câu hỏi sau:
Câu 1: Đoạn trích trên được viết theo thể thơ nào?
Câu 2: Trong đoạn trích, “cỏ” có những đặc điểm gì?
Câu 3: Nhận xét về thái độ của tác giả thể hiện qua đoạn trích.
Câu 4: Qua hình ảnh “cỏ” trong đoạn trích, anh/chị rút ra những thông điệp gì?
II. LÀM VĂN (7.0 điểm)
Câu 1 (2.0 điểm)
Từ nội dung đoạn trích ở phần Đọc hiểu, anh/chị hãy viết một đoạn
văn (khoảng 200 chữ) trình bày suy nghĩ của mình về sự cần thiết của đức
tính khiêm tốn trong cuộc sống.
Câu 2 (5,0 điểm)
Bữa cơm ngày đói trông thật thảm hại. Giữa cái mẹt rách có độc một lùm
rau chuối thái rối, và một đĩa muối ăn với cháo, nhưng cả nhà đều ăn rất ngon
lành. Bà cụ vừa ăn vừa kể chuyện làm ăn, gia cảnh với con dâu. Bà lão nói toàn
chuyện vui, toàn chuyện sung sướng về sau này:
- Tràng ạ. Khi nào có tiền ta mua lấy đôi gà. Tao tin rằng cái chỗ đầu bếp
kia làm cái chuồng gà thì tiện quá. Này ngoảnh đi ngoảnh lại chả mấy mà có
ngay đàn gà cho mà xem...
Tràng chỉ vâng. Tràng vâng rất ngoan ngoãn. Chưa bao giờ trong nhà này
mẹ con lại đầm ấm, hòa hợp như thế. Câu chuyện trong bữa ăn đang đà vui
bỗng ngừng lại. Niêu cháo lõng bõng, mỗi người được có lưng lưng hai bát đã
hết nhẵn.
Bà lão đặt đũa bát xuống, nhìn hai con vui vẻ:
- Chúng mày đợi u nhá. Tao có cái này hay lắm cơ.
Bà lật đật chạy xuống bếp, lễ mễ bưng ra một cái nồi khói bốc lên nghi
ngút. Bà lão đặt cái nồi xuống bên cạnh mẹt cơm, cầm cái môi vừa khuấy khuấy
vừa cười:
- Chè đây. - Bà lão múc ra một bát - Chè khoán đây, ngon đáo để cơ.
Người con dâu đón lấy cái bát, đưa lên mắt nhìn, hai con mắt thị tối lại.
Thị điềm nhiên và vào miệng. Tràng cầm cái bát thứ hai mẹ đưa cho, người mẹ
vẫn tươi cười, đon đả:
- Cám đấy mày ạ, hì. Ngon đáo để, cứ thử ăn mà xem. Xóm ta khối nhà
còn chả có cám mà ăn đấy.

8
Tràng cầm đôi đũa, gợt một miếng bỏ vội vào miệng. Mặt hắn chum ngay
lại, miếng cám đắng chát và nghẹn bứ trong cổ. Bữa cơm từ đấy không ai nói
câu gì, họ cắm đầu ăn cho xong lần, họ tránh nhìn mặt nhau. Một nỗi tủi hờn len
vào tâm trí mọi người.
Ngoài đình bỗng dội lên một hồi trống, dồn dập, vội vã. Đàn quạ trên
những cây gạo cao chót vót ngoài bãi chợ hốt hoảng bay vù lên, lượn thành từng
đám bay vần trên nền trời như những đám mây đen.
Người con dâu khẽ thở dài, thị nói lí nhí trong miệng:
- Trống gì đấy, u nhỉ?
- Trống thúc thuế đấy. Đằng thì nó bắt gồng đay, đằng thì nó bắt đóng
thuế. Giời đất này không chắc đã sống qua được đâu các con ạ... - Bà lão
ngoảnh vội ra ngoài. Bà lão không dám để con dâu nhìn thấy bà khóc.
(Trích Vợ Nhặt, Kim Lân, Ngữ văn 12, tập hai, Nxb GD, 2016)
Cảm nhận của anh/chị về đoạn trích bữa cơm ngày đói trong đoạn trích
trên sau đó nhận xét về giá trị hiện thực của tác phẩm.
ĐỀ 5
I. ĐỌC HIỂU (3.0 điểm)
Đọc đoạn trích:
Mình sẽ đi qua hết núi đồi
để nhìn thấy cuộc đời còn nhiều lắm những niềm vui…

Mình sẽ đi lúc vai gầy nhưng gió lộng chẳng thể


làm mình ngại xa xôi thấy mây trời bình yên qua
khoảng rừng vắng
bước chân rời khỏi phố đông cho
lòng mình phẳng lặng tựa như một
giọt nước mắt
rơi nhưng có người nâng niu…

Mình sẽ đi lúc nắng tắt qua chiều


ngồi trên bậu cửa xa và nhìn về miền quê xa thẳm
mình đã lớn lên ở một nơi rồi từ đó
đi tìm nguồn vui sống đôi khi lại
thèm một chiều ngồi hong tóc
tiếng mẹ cười giòn tan…

Mình sẽ đi lúc biển động mà trái tim


đập nhịp ngang tàng biết là có thể

9
đau nhưng cuộc đời thật ra cần khốn
khó
trưởng thành không phải cố gắng tìm bình yên, chỉ là khi
đối đầu với sóng gió mình vẫn lặng lẽ
giữ chặt lấy niềm tin…

Mình sẽ đi lúc có thể chẳng ai ngoái theo nhìn


nỗi yên tâm dù thế nào cũng còn một nơi quay về khi
chồn chân mỏi gối thường sẽ làm cho đường xa bỗng
có thêm nhiều lối

lòng
người
dễ
thay
đổi khi
nhìn
thấy
hoàng
hôn…

Mình sẽ đi lúc mình còn có cả một tuổi trẻ cần lấm


láp bụi đường… (Mình sẽ đi qua
hết núi đồi… - Nguyễn Phong
Việt)
Câu 1. Đoạn trích trên được viết theo thể thơ nào?
Câu 2. Theo tác giả, mình sẽ đi những lúc nào?
Câu 3: Hãy cho biết mục đích và ý nghĩa của những chuyến “mình sẽ đi” mà
tác giả đề cập đến trong văn bản.
Câu 4. Anh/Chị có đồng tình với quan điểm: “trưởng thành không phải cố gắng
tìm bình yên, chỉ là khi đối đầu với sóng gió mình vẫn lặng lẽ giữ chặt lấy niềm
tin…” Vì sao?
II. LÀM VĂN (7.0 điểm)
Câu 1 (2.0 điểm)
Từ nội dung đoạn trích ở phần Đọc hiểu, anh/chị hãy viết một đoạn
văn (khoảng 200 chữ) trình bày suy nghĩ của mình về sự cần thiết của khó
khăn, thử thách trong hành trình trưởng thành của tuổi trẻ?
Câu 2 (5,0 điểm)
Cảm nhận đoạn trích sau trong truyện ngắn “Vợ nhặt” để làm rõ tư
tưởng nghệ thuật của Kim Lân thể hiện rõ qua cách kết thúc truyện:

10
Ngoài đình bỗng dội lên một hồi trống, dồn dập, vội vã. Đàn quạ trên
những cây gạo cao chót vót ngoài bãi chợ hốt hoảng bay vù lên, lượn thành từng
đám bay vần trên nền trời như những đám mây đen.
Người con dâu khẽ thở dài, thị nói lí nhí trong miệng:
- Trống gì đấy, u nhỉ?
- Trống thúc thuế đấy. Đằng thì nó bắt gồng đay, đằng thì nó bắt đóng
thuế. Giời đất này không chắc đã sống qua được đâu các con ạ... - Bà lão
ngoảnh vội ra ngoài. Bà lão không dám để con dâu nhìn thấy bà khóc.
Người con dâu có vẻ lạ lắm, thị lầm bầm:
- Ở đây vẫn phải đóng thuế cơ à?
Im lặng một lúc thị lại tiếp:
- Trên mạn Thái Nguyên, Bắc Giang người ta không chịu đóng thuế nữa
đâu. Người ta còn phá cả kho thóc của Nhật, chia cho người đói nữa đấy.
Tràng thần mặt ra nghĩ ngợi. Cái mặt to lớn bặm lại, khó đăm đăm.
Miếng cám ngậm trong miệng hắn đã bã ra chát xít... Hắn đang nghĩ đến những
người phá kho thóc Nhật.
Tràng hỏi vội trong miếng ăn:
- Việt Minh phải không?
- Ừ, sao nhà biết?
Tràng không trả lời. Trong ý nghĩ của hắn vụt hiện ra cảnh những người
nghèo đói ầm ầm kéo nhau đi trên đê Sộp. Đằng trước có lá cờ đỏ to lắm.
Hôm ấy hắn láng máng nghe người ta nói họ là Việt Minh đấy. Họ đi
cướp thóc đấy. Tràng không hiểu gì sợ quá, kéo vội xe thóc của Liên đoàn tắt
cánh động đi lối khác. À ra họ đi phá kho thóc chia cho người đói. Tự dưng hắn
thấy ân hận, tiếc rẻ vẩn vơ, khó hiểu.
Ngoài đình tiếng trống thúc thuế vẫn dồn dập. Mẹ và vợ Tràng đã buông
đũa đứng dậy.
Trong óc Tràng vẫn thấy đám người đói và lá cờ đỏ bay phấp phới…

ĐỀ 6
I. ĐỌC HIỂU (3.0 điểm)
Đọc đoạn trích:
“Người ta có thể yêu nhau và ghét nhau nhưng xin đừng hãm hại
nhau. Tôi sợ lắm những gì mang đến bất hạnh cho con người. Hãy

11
cố gắng mang đến cho nhau những giấc mơ, những giấc mơ làm
nên hạnh phúc. Đi đâu, đến đâu cũng chỉ thấy những nụ cười.
Những nụ cười như đóa hồng đứa bé cầm trên tay đi qua những
phố rực rỡ một lòng yêu thương vô tận. Chúng ta hình như thừa
bạo lực nhưng lại thiếu lòng nhân ái”. ( Trích Viết bên bờ Loiret-
Trịnh Công Sơn)
Câu 1: Xác định phương thức biểu đạt chính được sử dụng trong đoạn trích?
Câu 2: Nêu nội dung chính của đoạn trích?
Câu 3: Chúng ta cần làm gì để tạo nên hạnh phúc?
Câu 4: Anh/ chị có cho rằng: “Chúng ta hình như thừa bạo lực nhưng lại thiếu
lòng nhân ái”
Không? Vì sao?
II. LÀM VĂN (7.0 điểm)
Câu 1 (2.0 điểm)
Từ nội dung đoạn trích ở phần Đọc hiểu, anh/chị hãy viết một đoạn
văn (khoảng 200 chữ) về điều bản thân cần làm để nuôi dưỡng lòng nhân ái
trong cuộc sống.
Câu 2 (5,0 điểm)
Cảm nhận của anh chị về diễn biến tâm lí nhân vật Mị qua đoạn văn sau:
Lần lần, mấy năm qua, mấy năm sau, bố Mị chết. Nhưng Mị cũng không còn
nghĩ đến Mị có thể ăn lá ngón tự tử. ở lâu trong cái khổ, Mị cũng quen khổ rồi.
Bây giờ Mị tưởng mình cũng là con trâu, mình cũng là con ngựa. Con ngựa chỉ
biết ăn cỏ, biết đi làm mà thôi.

Mị cúi mặt, không nghĩ ngợi nữa, lúc nào cũng nhớ lại những việc giống nhau,
mỗi năm một mùa, mỗi tháng lại làm đi làm lại: Tết xong lên núi hái thuốc
phiện; giữa năm thì giặt đay; đến mùa đi nương bẻ bắp. Và dù đi hái củi, bung
ngô, lúc nào cũng gài một bó đay trong cánh tay để tước sợi. Bao giờ cũng thế,
suốt năm, suốt đời thế. Con ngựa, con trâu làm có lúc, đêm còn được đứng gãi
chân, nhai cỏ, đàn bà con gái nhà này vùi vào việc cả đêm cả ngày.

Mỗi ngày Mị càng không nói, lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa. ở buồng Mị
nằm, kín mít, có một chiếc cửa sổ một lỗ vuông ấy mà trông ra. Đến bao giờ
chết thì thôi.

... “Rượu tan lúc nào. Người về, người đi chơi đã vãn cả, Mị không biết. Mị vẫn
ngồi trơ một mình giữa nhà. Mãi sau Mị mới đứng dậy. Nhưng Mị không bước
ra đường. Mị từ từ vào buồng.

Chẳng năm nào A Sử cho Mị đi chơi Tết.

12
Bấy giờ Mị ngồi xuống giường, trông ra cửa sổ lỗ vuông mờ mờ trăng trắng. Từ
nãy Mị thấy phơi phới trở lại, trong lòng đột nhiên vui như những đêm Tết ngày
trước. Mị trẻ. Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi. Bao nhiêu người có chồng cũng
đi chơi Tết. Huống chi A Sử với Mị, không có lòng với nhau mà vẫn phải ở với
nhau. Nếu có nắm lá ngón trong tay lúc này, Mị sẽ ăn cho chết ngay, chứ không
buồn nhớ lại nữa. Nhớ lại, chỉ thấy nước mắt ứa ra.

Mà tiếng sáo gọi bạn vẫn lửng lơ bay ngoài đường.

Anh ném pao


Em không bắt
Em không yêu
Quả pao rơi rồi…
A Sử vừa ở đâu về, lại sửa soạn đi chơi. A Sử thay áo mới, khoác thêm hai vòng
bạc vào cổ rồi bịt cái khăn trắng lên đầu. Có khi nó đi mấy ngày mấy đêm. Nó
còn đương rình bắt nhiều người con gái nữa về làm vợ. Cũng chẳng bao giờ Mị
nói.

Bây giờ Mị cũng không nói. Mị đến góc nhà, lấy ống mỡ, xắn một miếng, bỏ
thêm vào đĩa đèn cho sáng.

Trong đầu Mị đang rập rờn tiếng sáo. Mị muốn đi chơi. Mị cũng sắp đi chơi. Mị
quấn lại tóc. Mị với tay lấy cái váy hoa vắt phía trong vách. A Sử sắp bước ra,
bỗng quay lại, lấy làm lạ. A Sử nhìn quanh thấy Mị rút thêm cái áo.

A Sử hỏi:

- Mày muốn đi chơi à?

Mị không nói. A Sử cũng không hỏi thêm. A Sử bước lại, nắm Mị, lấy thắt lưng
trói hai tay Mị. Nó xách cả một thúng sợi đay ra trói đứng Mị vào cột nhà. Tóc
Mị xõa xuống. A Sử quấn luôn tóc lên cột, Mị không cúi, không nghiêng được
đầu nữa. Trói xong, A Sử thắt cái thắt lưng xanh ra ngoài áo rồi phẩy tay tắt
đèn, đi ra khép cửa buồng lại.

Trong bóng tối, Mị đứng im, như không biết mình đang bị trói. Hơi rượu còn
nồng nàn. Mị vẫn nghe thấy tiếng sáo đưa Mị đi theo những cuộc chơi. "Em
không yêu, quả pao rơi rồi. Em yêu người nào, em bắt pao nào...". Mị vùng
bước đi. Nhưng chân đau không cựa được. Mị không nghe tiếng sáo nữa. Chỉ
còn nghe tiếng chân ngựa đạp vào vách. Ngựa vẫn đứng yên, gãi chân, nhai cỏ.
Mị thổn thức nghĩ mình không bằng con ngựa.

Nhận xét về nghệ thuật miêu tả diễn biến tâm lí của nhà văn Tô Hoài.
ĐỀ 7

13
I. ĐỌC HIỂU (3.0 điểm)

NỖI ĐAU CỦA ĐẤT

Đất khóc đất hỏi ông trời


Tại sao tôi phải chịu đau đớn này
Ngày xưa học ít hiểu nhiều
Bây giờ ai cũng học hành đến nơi
Mỗi năm rác thải đầy thêm
Tôi không chịu nổi nữa rồi Trời ơi!
Đặng Thảo
Câu 1: (0,5 điểm) Xác định những phương thức biểu đạt được sử dụng trong
đoạn thơ trên?
Câu 2: (0,75 điểm) Trình bày ngắn gọn ý nghĩa nhan đề “Nỗi đau của đất”?
Câu 3: (0,5 điểm) Xác định và nêu tác dụng của 01 biện pháp tu từ được sử
dụng trong đoạn thơ trên?
Câu 4: (1 điểm) Anh chị hiểu như thế nào về đoạn thơ sau:
Ngày xưa học ít hiểu nhiều
Bây giờ ai cũng học hành đến nơi
Mỗi năm rác thải đầy thêm
Tôi không chịu nổi nữa rồi Trời ơi!

II, LÀM VĂN


Câu 1: (2 điểm) Từ những vấn đề được đặt ra trong văn bản phần Đọc hiểu, em
hãy viết một đoạn văn (khoảng 200 chữ) để trả lời câu hỏi: chúng ta cần có
những hành động nào để giảm thiểu vấn đề ô nhiễm đất?
Câu 2 (5,0 điểm)
Lần thứ hai, Tràng vừa trả hàng xong, ngồi uống nước ở ngoài cổng chợ tỉnh
thì thị ở đâu sầm sập chạy đến. Thị đứng trước mặt hắn sưng sỉa nói:
- Điêu! Người thế mà điêu!
Hắn giương mắt nhìn thị, không hiểu. Thật ra lúc ấy hắn cũng chưa nhận ra thị là
ai. Hôm nay thị rách quá, áo quần tả tơi như tổ đỉa, thị gầy sọp hẳn đi, trên cái
khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn thấy hai con mắt.

14
- Hôm ấy leo lẻo cái mồm hẹn xuống, thế mà mất mặt.
À, hắn nhớ ra rồi, hắn toét miệng cười:
- Chả hôm ấy thì hôm nay vậy. Này hẵng ngồi xuống ăn miếng giầu đã.
- Có ăn gì thì ăn, chả ăn giầu.
Thị vẫn đứng cong cớn trước mặt hắn.
- Đây, muốn ăn gì thì ăn.
Hắn vỗ vỗ vào túi:
- Rích bố cu, hở!
Hai con mắt trũng hoáy của thị tức thì sáng lên, thị đon đả:
- Ăn thật nhá! ừ ăn thì ăn sợ gì.
Thế là thị ngồi sà xuống ăn thật. Thị cắm đầu ăn một chặp bốn bát bánh đúc liền
chẳng chuyện trò gì. ăn xong thị cầm dọc đôi đũa quệt ngang miệng, thở:
- Hà, ngon! Về chị ấy thấy hụt tiền thì bỏ bố.
Hắn cười:
- Làm đếch gì có vợ. Này nói đùa chứ có về với tớ thì ra khuân hàng lên xe rồi cùng
về.
Nói thế Tràng cũng tưởng là nói đùa, ai ngờ thị về thật.
Phân tích hình ảnh người vợ nhặt trong đoạn trích trên. Từ đó, nhận xét về
khao khát sống của con người qua ngòi bút nhân đạo của Kim Lân.

Đề 8
I. ĐỌC HIỂU (3.0 điểm)
Đọc đoạn trích sau và thực
hiện các yêucầu:

Tỷ phú Hồng Kông Yu Pang-Lin vừa qua đời ở tuổi 93, để lại di
chúc hiến toàn bộ tài sản trị giá khoảng 2 tỉ USD cho hoạt động từ
thiện. Ông giải thích hành động của mình: “Nếu các con tôi giỏi
hơn tôi thì chẳng cần phải để nhiều tiền cho chúng. Nếu chúng
kém cỏi thì có nhiều tiền cũng chỉ có hại cho chúng mà thôi”. Yu
Pang-Lin không phải là người đầu tiên trên thế giới “keo kiệt” với
con nhưng lại hào phóng với xã hội. Người giàu nhất thế giới Bill
Gate từng tuyên bố sẽ chỉ để lại cho con 0,05% tài sản kếch xù
của mình. Báo chí hỏi tại sao lại như vậy, ông trả lời đại ý: “Con
tôi là con người, mà đã là con người thì phải tự kiếm sống, không

15
chỉ kiếm sống để phục vụ chính bản thân mình mà còn phải góp
phần thúc đẩy xã hội. Đã là con người thì phải lao động. Tại sao
tôi phải cho con tiền? […] Có người nói rằng, có hai thứ mà cha
mẹ cần trang bị cho con cái và chỉ hai thứ đó là đủ, còn không,
nếu có để lại cho con thứ gì đi nữa mà thiếu hai thứ đó thì coi như
chưa cho con gì cả. Hai thứ đó là: ý thức tự chịu trách nhiệm về
bản thân mình và năng lực để tự chịu trách nhiệm.
(Theo Nhật Huy, Không để lại tiền cho con, Dẫn theo http://tuoitre.vn,
ngày 10/5/2015)

Câu 1. Chỉ ra các phương thức biểu đạt của đoạn trích.
Câu 2. Vì sao những người cha tỉ phú như Ya Pang-Lin, Bill Gate… không
muốn để lại nhiều của cải cho con cái?
Câu 3. Anh chị có cho rằng: “ý thức tự chịu trách nhiệm về bản thân mình và
năng lực để tự chịu trách nhiệm” là cần thiết hay không? Vì sao?
Câu 4. Anh/chị có đồng ý với ý kiến: “đã là con người thì phải tự kiếm sống,
không chỉ kiếm sống để phục vụ chính bản thân mình mà còn phải góp phần
thúc đẩy xã hội.
Vì sao?
II. LÀM VĂN (7.0 điểm)
Câu 1 (2.0 điểm)
Từ nội dung đoạn trích ở phần Đọc hiểu, anh/chị hãy viết một đoạn
văn (khoảng 200 chữ) trình bày suy nghĩ của mình về sự cần thiết ý thức tự
chịu trách nhiệm trong cuộc sống.
Câu 2 (5,0 điểm)
Phân tích sông Hương qua đoạn trích:
Phải nhiều thế kỉ qua đi, người tình mong đợi mới đến đánh thức người gái đẹp
nằm ngủ mơ màng giữa đồng Châu Hoá đầy hoa dại. Nhưng ngay từ đầu vừa ra
khỏi vùng núi, sông Hương đã chuyển dòng một cách liên tục, vòng giữa khúc
quanh đột ngột, uốn mình theo những đường cong thật mềm, như một cuộc tìm
kiếm có ý thức để đi tới nơi gặp thành phố tương lai của nó. Từ ngã ba Tuần,
sông Hương theo hướng nam bắc qua điện Hòn Chén; vấp Ngọc Trản, nó
chuyển hướng sang tây bắc, vòng qua thềm đất bãi Nguyệt Biều, Lương Quán
rồi đột ngột vẽ một hình cung thật tròn về phía đông bắc, ôm lấy chân đồi thiên
Mụ, xuôi dần về Huế. Từ Tuần về đây, sông Hương vẫn đi trong dư vang của
Trường Sơn, vượt qua một lòng vực sâu dưới chân núi Ngọc Trản sắc nước trở
nên xanh thẳm, và từ đó nó trôi đi giữa hai dãy đồi sừng sững như thành quách,
với những điểm cao đột ngột như Vọng Cảnh, Tam Thai, Lựu Bảo mà từ đó,
người ta luôn luôn nhìn thấy dòng sông mềm như tấm lụa, với những chiếc

16
thuyền xuôi ngược chỉ bé vừa bằng con thoi. Những ngọn đồi này tạo nên
những mảng phản quang nhiều màu sắc trên nền trời tây nam thành phố, “sớm
xanh, trưa vàng, chiều tím” như người Huế thường miêu tả. Giữa đám quần sơn
lô xô ấy, là giấc ngủ nghìn năm của những vua chúa được phong kín trong lòng
những rừng thông u tịch và niềm kiêu hãnh âm u của những lăng tẩm đồ sộ toả
lan khắp cả một vùng thượng lưu “Bốn bề núi phủ mây phong - Mảnh trăng
thiên cổ bóng tùng Vạn Niên”. Đó là vẻ đẹp trầm mặc nhất của sông Hương,
như triết lí, như cổ thi, kéo dài mãi đến lúc mặt nước phẳng lặng của nó gặp
tiếng chuông chùa Thiên Mụ ngân nga tận bờ bên kia, giữa những sớm làng
trung du bát ngát tiếng gà...

ĐỀ 9
I. ĐỌC HIỂU (3.0 điểm)
Đọc đoạn trích sau và thực
hiện các yêu cầu:

... Cơ hội chỉ tồn tại ở những chỗ mà người ta kêu ca. Khi người ta
kêu ca, đó chính là cơ hội của bạn. Hãy giải quyết vấn đề và
những lời than vãn đó đi, bạn sẽ nắm bắt được cơ hội.Chúng ta
nên từ những thất bại mà người khác mắc phải, không cần thiết
học từ những câu chuyện thành công của họ. Rất nhiều trường
MBA hiện nay tập trung vào những câu chuyện thành công. Chúng
ta có nhiều lý do để thành công nhưng chỉ có một lý do thất bại.
Hãy học hỏi từ lý do thất bại của người khác. Trong 18 năm qua,
cùng với đội ngũ của mình, chủng tôi thu nhập những câu chuyện
thất bại của người khác đế nghiên cứu, học hỏi và cố gắng tránh
nó.Nếu muốn làm gì đó, các bạn phải có ý tưởng và ước mơ. Ý
tưởng là điều bạn có thể làm khi người khác không thể, điều bạn
có thể làm tốt hơn những người khác, điều bạn có thể làm khác với
số đông. Khi tất cả đều nói phải thế này, các bạn hãy nghĩ sao
không phải thế kia. Khi người ta nói phải thế kia, các bạn hãy
nghĩ sao không phải là thế này. Các bạn cần phải khác biệt. Nếu
các bạn cũng như những người khác thì làm sao có cơ hội? Tôi
được biết ở Việt Nam có một số cuốn sách về tôi, về Alibaba. Có
vẻ câu chuyện rất nổi tiếng. Tôi không đọc chúng bởi vì trong
tương lai, tôi muốn tự viết một cuốn sách về Alibaba - 1.001 sai
lầm. Nếu bạn học hỏi được từ những sai lầm, bạn sẽ trở nên mạnh
mẽ hơn, bạn sẽ thực tế hơn. Khi nhìn thấy tất cả những thất bại,
khi vẫn muốn chiến đấu cho tương lai, bạn sẽ có cơ hội. Không ai
là siêu nhân. Nếu muốn thành công, bạn phải thực tế, phải tập
trung, phải làm việc theo nhóm,phải lạc quan vào tương lai. Đó là

17
tất cả những gì tôi muốn chia sẻ với các bạn và tôi sẵn sàng trả
lời mọi câu hỏi... (Bài phát biểu của tỉ phú Jack Ma tại Hà Nội
ngày 06/11/2017 - vnexpress.net) * MBA:là tên viết tắt của
chương trình đào tạo Thạc sĩ Quản trị kinh doanh.
Câu 1: Xác định phương thức biểu đạt chính được sử dụng trong đoạn văn bản
trên?
Câu 2: Theo anh/ chị, vì sao tác giả lại khẳng định: Cơ hội chỉ tồn tại ở những
chỗ mà người ta kêu ca?
Câu 3: Vì sao tác giả lại cho rằng: “Các bạn cần phải khác biệt” để tạo ra cơ
hội.
Câu 4: Theo anh/ chị chúng ta cần phải làm gì để tạo ra cơ hội trong cuộc sống?

II. LÀM VĂN (7.0 điểm)


Câu 1 (2.0 điểm)
Từ nội dung đoạn trích ở phần Đọc hiểu, anh/chị hãy viết một đoạn văn
(khoảng 200 chữ) để trả lời câu hỏi: cần phải làm gì để nắm bắt được cơ hội
trong cuộc sống?
Câu 2 (5,0 điểm)
Cảm nhận về nhân vật Mị trong 2 đoạn văn sau:
“Ai ở xa về, có việc vào nhà thống lí Pá Tra thường trông thấy có một cô con
gái ngồi quay sợi gai bên tảng đá trước cửa, cạnh tàu ngựa. Lúc nào cũng vậy,
dù quay sợi, thái cỏ ngựa, dệt vải, chẻ củi hay đi cõng nước dưới khe suối lên,
cô ấy cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi”
Và:
“Ngày tết, Mị cũng uống rượu. Mị lén lấy hũ rượu, uống ực từng bát. Rồi say,
Mị lịm mặt ngồi đấy nhìn người nhảy đồng, người hát. Nhưng lòng Mị đang
sống về ngày trước, tai văng vẳng tiếng sáo gọi bạn đầu làng. Ngày trước Mị
thổi sáo giỏi. Mùa xuân đến, Mị uống rượu bên bếp và thổi sáo. Mị uốn chiếc lá
trên môi, thổi lá cũng hay như thổi sáo. Có biết bao nhiêu người mê, cứ ngày
đêm thổi sáo đi theo Mị hết núi này sang núi khác”

Rượu tan lúc nào. Người về, người đi chơi đã vãn cả, Mị không biết. Mị vẫn
ngồi trơ một mình giữa nhà. Mãi sau Mị mới đứng dậy. Nhưng Mị không bước
ra đường. Mị từ từ vào buồng.

Chẳng năm nào A Sử cho Mị đi chơi Tết.

Bấy giờ Mị ngồi xuống giường, trông ra cửa sổ lỗ vuông mờ mờ trăng trắng. Từ
nãy Mị thấy phơi phới trở lại, trong lòng đột nhiên vui như những đêm Tết ngày

18
trước. Mị trẻ. Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi. Bao nhiêu người có chồng cũng
đi chơi Tết. Huống chi A Sử với Mị, không có lòng với nhau mà vẫn phải ở với
nhau. Nếu có nắm lá ngón trong tay lúc này, Mị sẽ ăn cho chết ngay, chứ không
buồn nhớ lại nữa.
Nhận xét về sự thay đổi của nhân vật.

Đề 10
I. ĐỌC HIỂU (3.0 điểm)
Đọc đoạn trích sau và thực
hiện các yêu cầu:
Chúng ta ai cũng đều biết, khoa học công nghệ với sự phát triển
chóng mặt đã kéo theo sự ra đời của các trang mạng xã hội. Nói
đến chúng, ta không thể không nhắc đến Facebook – một cái tên
chẳng còn xa lạ với tất cả mọi người. Facebook là một trang mạng
xã hội cho phép người dùng đăng tải những thông tin cá nhân, kết
bạn, giao lưu, tương tác với mọi người. Chẳng cần bàn cãi hay
bình luận gì thêm, chúng ta đều không thể phủ nhận được những
lợi ích và vai trò to lớn mà Facebook mang lại. Còn gì kì diệu hơn
khi mà nhờ nó, hai con người ở hai vùng miền khác nhau, xa cách
về địa lí, không gian, vậy mà lại có thể quen nhau, kết bạn với
nhau trong sự tương hợp về sở thích, mục tiêu chỉ bằng một chiếc
điện thoại có kết nối Internet. Thú vị gì hơn khi mọi tin tức về
giới Showbiz, thần tượng, bạn bè, người thân đều được chúng ta cập
nhật từng phút, từng giây? Bao nhiêu lợi ích không nhỏ của
Facebook đã đủ trở thành chiếc nam châm thu hút mọi người, đặc
biệt là giới trẻ. Càng dùng Fcaebook, càng có nhiều bạn, càng có
nhiều điều hấp dẫn, thú vị mời gọi. Mải mê theo những cảm xúc
ảo, ít ai nhận ra Facebook như là một con dao hai lưỡi mà những
mặt trái của nó đang dần bộc lộ. Và một trong số đó là căn bệnh
nghiện Facebook đã và đang diễn ra phổ biến, đặc biệt là trong
giới trẻ. (…) Việc nghiện Facebook còn khiến cho cuộc sống
của người dùng bị đảo lộn. Các hoạt động vui chơi ngoài trời
cùng bạn bè, thể dục thể thao được thay thế bằng việc lên
Facebook. Bị thu hút vào cái màn hình màu xanh hấp dẫn với
những hình ảnh kia thì liệu còn thời gian đâu mà ăn uống hợp lí,
thời gian cho bạn bè, cho người thân? Họ sẽ đắm chìm trong thế
giới ảo mà quên đi hiện tại. Thế có nghĩa là, họ có thể kết bạn với
biết bao bạn bè trên mạng nhưng lại đang bỏ qua những mối quan
hệ thực tế, những tình cảm thực mà mọi người dành cho mình.
Cùng với đó, các kỹ năng giao tiếp, ứng xử cũng dần bị mất đi. Vì

19
thế, chẳng có gì đáng ngạc nhiên khi mà một người nghiện
Facebook có thể chém gió thỏa thích không chán với bạn bè khắp
nơi nhưng lại khó có thể giao tiếp trực tiếp với mọi người. Cứ thế,
họ trở thành “anh hùng bàn phím” và dần sống ảo với những tình
cảm không thực tế.
(Nguồn: baigiangvanhoc.com)
Câu 1: Xác định phương thức biểu đạt chính được sử dụng trong đoạn trích trên
Câu 2: Vì sao tác giả lại dùng hình ảnh chiếc nam châm thu hút mọi người để
nói về mạng xã hội Facebook?
Câu 3: Anh chị hiểu như thế nào về ý kiến:
“họ có thể kết bạn với biết bao bạn bè trên mạng nhưng lại đang bỏ qua những
mối quan hệ thực tế, những tình cảm thực mà mọi người dành cho mình”
Câu 4: Anh chị có đồng tình với quan điểm: “Facebook như là một con dao hai
lưỡi” không? Vì sao?
II. LÀM VĂN (7.0 điểm)
Câu 1 (2.0 điểm)
Từ nội dung đoạn trích ở phần Đọc hiểu, anh/chị hãy viết một đoạn
văn (khoảng 200 chữ) trình bày suy nghĩ của mình về ý kiến: “Facebook như
là một con dao hai lưỡi”
Câu 2 (5,0 điểm)
Phân tích giá trị hiện thực được nhà văn Tô Hoài thể hiện trong đoạn trích
sau:
“Có đến hàng mấy tháng, đêm nào Mị cũng khóc. Một hôm, Mị trốn về nhà,
haitròng mắt còn đỏ hoe. Trông thấy bố, Mị quỳ, úp mặt xuống đất, nức nở. Bố
Mị cũng khóc, đoán biết lòng con gái:
- Mày về lạy chào tao để mày đi chết đấy à? Mày chết nhưng nợ tao vẫn còn,
quanlại bắt tao trả nợ. Mày chết rồi thì không lấy ai làm nương ngô giả được nợ
người t, tao thìốm yếu quá rồi. Không được, con ơi!
Mị chỉ bưng mặt khóc. Mị ném nắm lá ngón xuống đất, nắm lá ngón Mị
đã đi tìm háitrong rừng, Mị vẫn giấu trong áo. Thế là Mị không đành lòng chết.
Mị chết thì bố Mị cònkhổ hơn bao nhiêu lần nữa. Mị đành trở lại nhà thống lí.
Lần lần, mấy năm qua, mấy năm sau, bố Mị chết. Nhưng Mị cũng không
còn tưởngđến Mị có thể ăn lá ngón tự tử nữa. Ở lâu trong cái khổ, Mị quen khổ
rồi. Bây giờ thì Mịtưởng mình cũng là con trâu, mình cũng là con ngựa, là con
ngựa phải đổi ở cái tàu ngựanhà này đến ở cái tàu ngựa nhà khác, ngựa chỉ biết
việc ăn cỏ, biết đi làm mà thôi. Mị cúimặt, không nghĩ ngợi nữa, mà lúc nào
cũng chỉ nhớ đi nhớ lại những việc giống nhau, tiếpnhau vẽ ra trước mặt, mỗi
năm mỗi mùa, mỗi tháng lại làm đi làm lại: Tết xong thì lên núihái thuốc phiện,

20
giữa năm thì giặt đay, xe đay, đến mùa thì đi nương bẻ bắp, và dù lúc đi háicủi,
lúc bung ngô, lúc nào cũng gài một bó đay trong cánh tay để tước thành sợi.
Bao giờcũng thế, suốt năm suốt đời như thế. Con ngựa, con trâu làm còn có lúc,
đêm nó còn đượcđứng gãi chân, đứng nhai cỏ, đàn bà con gái nhà này thì vùi
vào việc làm cả đêm cả ngày.
Mỗi ngày Mị càng không nói, lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa. Ở cái
buồng Mị nằm, kín mít, có một chiếc cửa sổ một lỗ vuông bằng bàn tay. Lúc
nào trông ra cũng chỉthấy trăng trắng, không biết là sương hay là nắng. Mị nghĩ
rằng mình cứ chỉ ngồi trong cáilỗ vuông ấy mà trông ra, đến bao giờ chết thì
thôi.”
(Trích Vợ chồng A Phủ, Ngữ văn 12, Tập hai, NXB Giáo dục
Việt Nam 2020, tr.6)I

Đề 11
I. ĐỌC HIỂU (3.0 điểm)
Đọc đoạn trích sau và thực
hiện các yêu cầu:
Hai cha con nghệ sĩ Quốc Tuấn và câu chuyện truyền
cảm hứng
(ĐCSVN) – Những ngày qua, câu chuyện lay động về tình phụ tử,
về hành trình khắc nghiệt 15 năm bên con của diễn viên - đạo diễn
Quốc Tuấn như một “bản hòa âm” ấm áp và giàu tình yêu thương,
truyền cảm hứng cho rất nhiều người.
Là một diễn viên nổi tiếng, được khán giả nhớ đến qua nhiều vai
diễn hiền lành, chân chất trong “12A và 4H”, “Luật đời”, “Người
vác tù và hàng tổng”... Thế nhưng số phận không may mắn mỉm
cười với anh sau khi kết hôn và đón con trai đầu lòng. Bé Bôm
(Nguyễn Anh Tuấn) con trai diễn viên Quốc Tuấn ngay từ khi ra
đời đã mắc căn bệnh hiểm nghèo apert - xương cứng sớm cục bộ,
căn bệnh hiếm gặp đến mức tỉ lệ chỉ là 1/88.000. Căn bệnh khiến
các ngón tay, ngón chân dính nhau, xương sọ bị đóng kín sớm. Đi
cùng với sự phát triển của cơ thể thì cần phải có nhiều đợt phẫu
thuật để tách rời các ngón tay, ngón chân và nới xương sọ...
Bằng tình yêu con vô bờ bến của một người cha, diễn viên Quốc
Tuấn tin rằng bé Bôm sẽ khỏe mạnh như những người bình thường
và bắt đầu hành trình chữa bệnh cùng con suốt 15 năm qua. Trong
15 năm, Bôm trải qua hơn 10 ca đại phẫu khác nhau. Có những
lần thành công cũng có lần thất bại, nhiều lúc cậu bé phải ở trong
bệnh viện hàng tháng trời. Để có thời gian chăm sóc cũng như đưa

21
con đi chữa bệnh, những năm qua, Quốc Tuấn gác lại công việc
diễn xuất của mình. Quốc Tuấn không chỉ là một người cha của
bé Bôm. Anh tự nhận, anh là mẹ, là anh, là người bạn của bé Bôm.
“Ông bố, bà mẹ nào cũng mong con mình khỏe mạnh, xinh xắn.
Nhưng khi số phận rơi vào mình, không thế cứ ngồi ủ rũ, trông
chờ. Mình phải là chỗ dựa cho con, truyền cho con sự tự tin,
nghị lực, lạc quan”. Chính niềm tin đó của Quốc Tuấn đã tạo nên
điều kỳ diệu.
Cuối cùng sau 15 năm kiên trì chữa bệnh, bệnh tình Bôm đã gần
khỏi. Cậu bé chờ thêm hai năm nữa để phẫu thuật thẩm mỹ, chỉnh
hình. Hành trình 15 năm miệt mài không ngừng nghỉ cùng con trai,
trái ngọt đầu tiên mà vợ chồng Quốc Tuấn nhận được chính là ước
mơ của bố con Bôm hằng ấp ủ cuối cùng cũng trở thành hiện thực
khi cậu bé là một trong năm tân sinh viên xuất sắc nhất thi đỗ vào
khoa Jazz, bộ môn piano của Học viện Âm nhạc Việt Nam. (Ngọc
Khánh – http://dangcongsan.vn, ngày 29/09/2017)
Câu 1: Nêu nội dung chính của văn bản trên.
Câu 2: Điều gì đã tạo nên “sự kỳ diệu” trong hành trình 15 năm kiên trì chữa
bệnh cho bé Bôm của diễn viên Quốc Tuấn.
Câu 3: Anh chị hiểu như thế nào về câu nói của diễn viên Quốc Tuấn: “Nhưng
khi số phận rơi vào mình, không thể cứ ngồi ủ rũ, trông chờ. Mình phải là chỗ
dựa cho con, truyền cho con sự tự tin, nghị lực, lạc quan”
Câu 4: Câu chuyện về hành trình chữa bệnh của cha con diễn viên Quốc Tuấn
mang lại thông điệp nào ý nghĩa nhất đối với anh/chị?
II. LÀM VĂN (7.0 điểm)
Câu 1 (2.0 điểm)
Từ nội dung đoạn trích ở phần Đọc hiểu, anh/chị hãy viết một đoạn
văn (khoảng 200 chữ) trình bày suy nghĩ của mình về tình phụ tử thiêng liêng
trong cuộc sống.
Câu 2 (5,0 điểm)
Phân tích diễn biến tâm lí nhân vật Mị trong đoạn trích sau

Đám than đã vạc hẳn lửa. Mị không thổi cũng không đứng lên. Mị nhớ lại đời
mình. Mị tưởng tượng như có thể một lúc nào, biết đâu A Phủ chẳng trốn được
rồi, lúc đó bố con thống lý sẽ đổ là Mị đã cởi trói cho nó, Mị liền phải trói thay
vào đấy. Mị chết trên cái cọc ấy. Nghĩ thế, nhưng làm sao Mị cũng không thấy
sợ...

Trong nhà tối bưng, Mị rón rén bước lại, A Phủ vẫn nhắm mắt. Nhưng Mị
tưởng như A Phủ biết có người bước lại... Mị rút con dao nhỏ cắt lúa, cắt nút
dây mây. A Phủ thở phè từng hơi, như rắn thở, không biết mê hay tỉnh.

22
Lần lần, đến lúc gỡ được hết dây trói ở người A Phủ thì Mị cũng hốt hoảng. Mị
chỉ thì thào được một tiếng “Đi đi…” rồi Mị nghẹn lại. A Phủ khuỵu xuống
không bước nổi.

Nhưng trước cái chết có thể đến nơi ngay, A Phủ lại quật sức vùng lên, chạy.

Mị đứng lặng trong bóng tối.

Trời tối lắm. Mị vẫn băng đi.

Sau đó nhận xét về sự chuyển biến trong sức sống tiềm tàng của nhân vật
này.

ĐỀ 12
I.ĐỌC HIỂU (3,0 điểm)
Đọc đoạn trích dưới đây:
Bạn không nên để thất bại ngăn mình tiến về phía trước. Hãy suy nghĩ tích cực
về thất bại và rút ra kinh nghiệm.Thực tế những người thành công luôn dùng
thất bại như là một công cụ để học hỏi và hoàn thiện bản thân.Họ có thể nghi
ngờ phương pháp làm việc đã dẫn họ đến thất bại nhưng không bao giờ nghi
ngờ khả năng của chính mình.
Tôi xin chia sẻ với các bạn về câu chuyện về những người đã tìm cách rút kinh
nghiệm từ thất bại của mình để đạt được những thành quả to lớn trong cuộc đời.
Thomas Edison đã thất bại gần 10.000 lần trước khi phát minh thành công bóng
đèn điện, J.K.Rowling, tác giả của “Harry Poter”, đã bị hơn 10 nhà xuất bản từ
chối bản thảo tập 1 của bộ sách. Giờ đây, bộ tiểu thuyết này của bà trở nên vô
cùng nối tiếng và đã được chuyển thể thành loạt phim rất ăn khách. Ngôi sao
điện ảnh Thành Long đã không thành công trong lần đóng phim đầu tiên ở
Hollywood. Thực tế bộ phim Hollywood đầu tay của anh, thất vọng lắm chứ,
nhưng điều đó cũng đâu ngăn được anh vùng lên với những phim cực kì ăn
khách sau đó như “Giờ cao điểm” hay “Hiệp sĩ Thượng Hải”.
Thất bại không phải cái cớ để ta chần chừ. Ngược lại nó phải là động lực tiếp
thêm sức mạnh để ta vươn tới thành công.
(Trích Tại sao lại chần chừ ?, Tác giả Teo Aik Cher, Người dịch: Cao Xuân
Việt Khương, An Bình, NXB Tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh, 2016, tr 39,
40)
Thực hiện các yêu cầu:
Câu 1. Chỉ ra mặt tích cực của thất bại mà “người thành công luôn dùng” được
nêu trong đoạn trích.
Câu 2. Việc tác giả trích dẫn các câu chuyện của Thomas Edison, J.K.Rowling,
Ngôi sao điện ảnh Thành Long có tác dụng gì?
Câu 3. Anh chị hiểu như thế nào về ý kiến: “Thực tế những người thành công
luôn dùng thất bại như là một công cụ để học hỏi và hoàn thiện bản thân”

23
Câu 4. Anh/chị có đồng tình với ý kiến: “Thất bại không phải cái cớ để ta chần
chừ.Ngược lại nó phải là động lực tiếp thêm sức mạnh để ta vươn tới thành
công” không? Vì sao?
II. LÀM VĂN (7.0 điểm)
Câu 1 (2.0 điểm)
Từ nội dung đoạn trích ở phần Đọc hiểu, anh/chị hãy viết một đoạn
văn (khoảng 200 chữ) trình bày suy nghĩ của mình về sự cần thiết của những
thất bại trong cuộc sống.
Câu 2 (5,0 điểm)
Phân tích diễn biến tâm trạng của bà cụ Tứ trong đoạn trích Tràng đưa
vợ về nhà của tác phẩm Vợ Nhặt của Kim Lân
“... Thấy mẹ, Tràng reo lên như một đứa trẻ, và gọi với vào trong nhà: -
U đã về đấy! Hắn lật đật chạy ra đón. - Hôm nay sao u về muộn thế? Làm tôi
đợi nóng cả ruột. Bà cụ Tứ nhấp nháy hai con mắt nhìn Tràng, chậm chạp hỏi: -
Có việc gì thế vậy? - Thì u cứ hằng vào trong nhà đỡ nào. Bà lão phấp phỏng
bước theo con vào trong nhà. Đến giữa sân bà lão đứng sững lại, bà lão càng
ngạc nhiên hơn. Quái, sao lại có người đàn bà nào ở trong ấy nhỉ? Người đàn bà
nào lại đứng ngay đầu giường thằng con mình thế kia? Sao lại chào mình bằng
u? Không phải con cái Đục mà. Ai thế nhỉ? Bà lão hấp háy cặp mắt cho đỡ
nhoèn vì tự dưng bà lão thấy mắt mình nhoẻn ra thì phải. Bà lão nhìn kĩ người
đàn bà lần nữa, vẫn chả nhận ra người nào. Bà lão quay lại nhìn con tỏ ý không
hiểu. Tràng tươi cười: - Thì u hăng vào ngồi lên giường lên giấc chinh chiện cái
đã nào. Bà lão lập cập bước vào, Người đàn bà tưởng bà lão già cả, điếc lác, thị
cất tiếng chào lần nữa: - U đã về ạ! hay, thế là thế nào nhỉ? Bà lão băn khoăn
ngồi xuống giường. Tràng nhắc mẹ: - Kìa nhà tôi nó chào U. Thấy mẹ vẫn chưa
hiểu, hắn bước lại gần nói tiếp: - Nhà tôi nó mới về làm bạn với tôi đấy u!
Chúng tôi phải duyên phải kiếp với nhau... chẳng qua nó cũng là cái số cả... Bà
lão cúi đầu nín lặng. Bà lão hiểu rồi. Lòng người mẹ nghèo khổ ấy còn hiểu ra
biết bao nhiêu cơ sự, vừa oán vừa xót thương cho số kiếp đứa con mình.
Chao ôi, người ta dựng vợ gả chồng cho con là lúc trong nhà ăn nên làm ra,
những mong sinh con đẻ cái mở mặt sau này. Còn mình thì... Trong kẽ mắt
kèm nhèm của bà rỉ xuống hai dòng nước mắt... Biết rằng chúng nó có nuôi
nổi nhau sống qua được cơn đói khát này không?”(Trích Vợ nhặt của Kim
Lân trong Truyện Ngắn Việt Nam 1945 - 1985 NXB Giáo dục, Hà Nội,
1985)

ĐỀ 13
I. ĐỌC HIỂU (3.0 điểm)

24
Đọc văn bản sau và trả lời các câu hỏi:
Những cô gái vàng Việt Nam quả cảm bảo vệ thành công ngôi vô địch
Quả cảm! chỉ có thể nói như vậy về các cầu thủ Đội tuyển nữ Việt Nam trong
trận chung kết bóng đá nữ SEA Games 30 đối thù biết bao duyên nợ - đội tuyển
nữ Thái Lan diễn ra và 19h tối 8/12 vừa qua.
Với ý định phục thủ, đổi màu huy chương, người Thái đã vào trận bằng tinh
thần quyết tâm cao độ, thể lực dồi dào và chủ động chơt rát. Nhưng rốt cuộc họ
cũng phải nhường bước trước sắc đỏ Việt Nam kiên cường.
Thắng Đội tuyển nữ Thái Lan ở những phút đầu tiên của hiệp phụ thứ nhất, đội
tuyển nữ Việt Nam đã bảo vệ thành công ngôi vô địch. Đây là lần thứ 6 các cô
gái VÀNG Việt Nam bước lên bục cao nhất tại SEA Games.Trận đấu để lại
trong lòng hâm mộ Việt Nam sự xúc động dâng trào khi chứng kiến những cô
gái áo đỏ liên tục ngã trên sân rồi lại vùng lên chiến đấu quả cảm để giành chiến
thắng.
Chương Thị Kiều bước lên bục nhận huy chương vàng với cái chân trái rớm
máu, quấn băng chằng chịt. Cô đã chiến đấu cùng đông đội suốt 120 phút của
trận chung kết với những vết thương. Đội trưởng Huỳnh Như đi không vững,
phải nhờ đồng đội dìu lên nhận giải rồi lại cõng xuống. Tiền vệ Nguyễn Thị
Tuyết Dung chưa ăn mừng xong đã phải nằm sân nhăn nhó vì chuột rút…
Những cô gái vàng của bóng đá Việt Nam đã cống hiến, chiến đấu quên mình
bằng ý chí kiên cường và quyết tấm sắt đá để giành lấy vinh quang về cho Tổ
Quốc.Họ đã đốt đến những giọt mồ hôi cuối cùng để có được bàn thắng quý như
vàng của Phan Thị Hải Yến và giữ được thành quả đến khi trọng tài thồi còi kết
thúc trận đấu…
Cảm ơn những cô gái Vàng của bóng đá nữ Việt Nam, cảm ơn huấn luyện viên
Mai Đức Chung vì những hi sinh, những nhọc nhằn mà họ trải qua ở môn thể
thao này để đem về cho đất nước tấm huy chương quí giá. Đó là tấm huy
chương vàng hoàn toàn xứng đáng, tấm huy chương quí giá. Đó là tấm huy
chương vàng hoàn toàn xứng đáng, tấm huy chương biểu dương tinh thần quả
cảm, ý chí kiên cường, một chiến thắng của tinh thần Việt Nam.
(Báo VietNamnet.vn ngày 8/12/2019)
Câu 1: Xác định phương thức biểu đạt chính trong văn bản trên?
Câu 2: Theo tác giả điểu gì đã làm nên chiến thắng của đội tuyển bóng đá nữ
Việt Nam trong trận chung kết?
Câu 3: Theo anh/chị việc tác giả dẫn ra những ví dụ thể hiện tinh thần quả cảm
của các cô gái đội tuyển bóng đá nữ Việt Nam có tác dụng gì?
Câu 4: Từ tinh thần quả cảm của các cô gái đội tuyển bóng đá nữ Việt Nam gợi
cho anh chị suy nghĩ gì về lòng yêu nước và tinh thần dân tộc?
II. LÀM VĂN
Câu 1: Anh chị hãy viết đoạn văn 200 để trả lời câu hỏi: “lớp trẻ hiện nay cần
làm gì để thể hiện lòng yêu nước”
Câu 2 (5,0 điểm)

25
Nêu cảm nhận về tâm trạng của nhân vật Tràng trong buổi sáng hôm
sau khi lấy Thị làm vợ trong đoạn trích:
“…Sáng hôm sau, mặt trời lên bằng con sào, Tràng mới trở dậy. Trong
người êm ái lửng lơ như người vừa ở trong giấc mơ đi ra. Việc hắn có vợ đến
hôm nay hắn vẫn còn ngỡ ngàng như không phải.
Hắn chắp hai tay sau lưng lững thững bước ra sân. Ánh nắng buổi sáng
mùa hè sáng lóa xói vào hai con mắt còn cay xè của hắn. Hắn chớp chớp liên
hồi mấy cái, và bỗng vừa chợt nhận ra, xung quanh mình có cái gì vừa thay đổi
mới mẻ, khác lạ. Nhà cửa, sân vườn hôm nay đều được quét tước, thu dọn sạch
sẽ gọn gàng. Mấy chiếc quần áo rách như tổ đỉa vẫn vắt khươm mươi niên ở
một góc nhà đã thấy đem ra sân hong. Hai cái ang nước vẫn để khô cong ở dưới
gốc ổi đã kín nước đầy ăm ắp. Đống rác mùn tung hoành ngay lối đi đã hót
sạch.
Ngoài vườn người mẹ đang lúi húi giẫy những búi cỏ mọc nham nhở. Vợ
hắn quét lại cái sân, tiếng chổi từng nhát kêu sàn sạt trên mặt đất. Cảnh tượng
thật đơn giản, bình thường nhưng đối với hắn lại rất thấm thía cảm động. Bỗng
nhiên hắn thấy hắn thương yêu gắn bó với cái nhà của hắn lạ lùng. Hắn đã có
một gia đình. Hắn sẽ cùng vợ sinh con đẻ cái ở đấy. Cái nhà như cái tổ ấm che
mưa che nắng. Một nguồn vui sướng, phấn chấn đột ngột tràn ngập trong lòng.
Bây giờ hắn mới thấy hắn nên người, hắn thấy hắn có bổn phận phải lo lắng cho
vợ con sau này. Hắn xăm xăm chạy ra giữa sân, hắn cũng muốn làm một việc gì
để dự phần tu sửa lại căn nhà.
(Trích Vợ nhặt – Kim Lân, Ngữ văn 12, tập hai. NXB Giáo dục, 2008)

ĐỀ 14
Phần I. Đọc hiểu (3,0 điểm)
Đọc văn bản sau và thực hiện các yêu cầu:
Trong cuộc sống chúng ta, ai cũng có một ước mơ cho một ngày mai thật đẹp,
dù bình dị hay phi thường.
Ước mơ thật luôn đáng quý và đáng trân trọng, nó luôn là niềm hy vọng, động
lực và niềm tin lớn nhất cho mỗi người để sống, để cảm nhận và hướng đến
ngày mai.
Nhưng cuộc sống luôn tiềm ẩn những trở ngại, khó khăn và thử thách bất ngờ,
con đường đi đến ước mơ ấy không hề bằng phẳng.
Để thử thách lòng dũng cảm của con người, bao khó khăn, trở ngại và những bất
hạnh ấy sẽ đến vào lúc ta không ngờ đến nhất, phải vượt qua nó thì ta mới có
thể vững bước trên đôi chân của mình. Tuy vậy nhưng không phải ai cũng cố
gắng vượt qua, có những người vẫn phó thác cho số phận, chạy trốn tìm nơi trú
ẩn, ngã gục xuống và than thân trách phận trước giông tố của cuộc đời.

26
Bất cứ ai trong chúng ta cũng đều tồn tại một khát vọng mãnh liệt – đó là khát
vọng sống và luôn được là chính mình. Cuộc sống có thể luôn tràn ngập sợ hãi,
oán hờn nhưng hãy học cách chấp nhận và đối mặt với nó.
Có những điều hết sức giản dị xung quanh chúng ta có thể giúp ta vượt qua
những khó khăn, thử thách trong cuộc sống như nụ cười của một cô bán bánh
mì khi hôm nay bán được nhiều có tiền mua thức ăn cho mấy đứa con thơ, một
chú bé bán báo góp nhặt từng đồng lẻ vì muốn mua cho mẹ một tấm chăn bông
ngày rét, một chú bé khuyết tật cố gắng tập đi hay chỉ đơn giản là niềm vui của
cô bé nghèo khi nhận được một ổ bánh mì từ thiện... Có rất nhiều điều tưởng
chừng như quá giản đơn, nhưng những con người bình dị với niềm vui cuộc
sống, cách họ vượt qua khó khăn lại là động lực to lớn cho bạn, để bạn nhìn lại
chính bản thân mình, khám phá rồi tìm ra lời giải cho cuộc sống của bạn.
(Nguồn http://khoahocthoidai.vn/ky-dieu-tu-nhung-dieu-binh-di...)
Câu 1. Trong đoạn trích, ước mơ có ý nghĩa gì với con người?
Câu 2. Việc đưa ra các dẫn chứng về một cô bán bánh mì, một chú bé bán báo,
một chú bé khuyết tật…có tác dụng gì?
Câu 3. Anh chị hiểu như thế nào về câu nói: “Cuộc sống có thể luôn tràn ngập
sợ hãi, oán hờn nhưng hãy học cách chấp nhận và đối mặt với nó”
Câu 4. Anh/ có đồng tình với quan niệm: “cuộc sống luôn tiềm ẩn những trở
ngại, khó khăn và thử thách bất ngờ, con đường đi đến ước mơ ấy không hề
bằng phẳng” không? Vì sao?
II. LÀM VĂN (7.0 điểm)
Câu 1 (2.0 điểm)
Từ nội dung đoạn trích ở phần Đọc hiểu, anh/chị hãy viết một đoạn
văn (khoảng 200 chữ) trình bày suy nghĩ của mình về sự cần thiết của việc
nuôi dưỡng ước mơ trong cuộc sống.
Câu 2 (5,0 điểm)
Phân tích hình tượng cô vợ nhặt trong đoạn trích sau. Từ đó nhận xét về tư
tưởng nhân đạo của nhà văn Kim Lân:
Người đàn bà lẳng lặng đi vào trong bếp. Tràng nom thị hôm nay khác lắm, rõ
ràng là người đàn bà hiền hậu đúng mực không còn vẻ gì chao chát chỏng lỏn
như mấy lần Tràng gặp ở ngoài tỉnh. Không biết có phải vì mới làm dâu mà thị
tu chí làm ăn không? Bà mẹ Tràng cũng nhẹ nhõm, tươi tỉnh khác ngày thường,
cái mặt bủng beo u ám của bà rạng rỡ hẳn lên. Bà lão xăm xắn thu dọn, quét
tước nhà cửa. Hình như ai nấy đều có ý nghĩ rằng thu xếp cửa nhà cho quang
quẻ, nề nếp thì cuộc đời họ có thể khác đi, làm ăn có cơ khấm khá hơn.
Bữa cơm ngày đói trông thật thảm hại. Giữa cái mẹt rách có độc một lùm rau
chuối thái rối, và một đĩa muối ăn với cháo, nhưng cả nhà đều ăn rất ngon lành.

27
Bà cụ vừa ăn vừa kể chuyện làm ăn, gia cảnh với con dâu. Bà lão nói toàn
chuyện vui, toàn chuyện sung sướng về sau này:
- Tràng ạ. Khi nào có tiền ta mua lấy đôi gà. Tao tin rằng cái chỗ đầu bếp kia
làm cái chuồng gà thì tiện quá. Này ngoảnh đi ngoảnh lại chả mấy mà có ngay
đàn gà cho mà xem...
Tràng chỉ vâng. Tràng vâng rất ngoan ngoãn. Chưa bao giờ trong nhà này mẹ
con lại đầm ấm, hòa hợp như thế. Câu chuyện trong bữa ăn đang đà vui bỗng
ngừng lại. Niêu cháo lõng bõng, mỗi người được có lưng lưng hai bát đã hết
nhẵn.
Bà lão đặt đũa bát xuống, nhìn hai con vui vẻ:
- Chúng mày đợi u nhá. Tao có cái này hay lắm cơ.
Bà lật đật chạy xuống bếp, lễ mễ bưng ra một cái nồi khói bốc lên nghi ngút. Bà
lão đặt cái nồi xuống bên cạnh mẹt cơm, cầm cái môi vừa khuấy khuấy vừa
cười:
- Chè đây. - Bà lão múc ra một bát - Chè khoán đây, ngon đáo để cơ.
Người con dâu đón lấy cái bát, đưa lên mắt nhìn, hai con mắt thị tối lại. Thị
điềm nhiên và vào miệng. Tràng cầm cái bát thứ hai mẹ đưa cho, người mẹ vẫn
tươi cười, đon đả:
- Cám đấy mày ạ, hì. Ngon đáo để, cứ thử ăn mà xem. Xóm ta khối nhà còn chả
có cám mà ăn đấy.
Tràng cầm đôi đũa, gợt một miếng bỏ vội vào miệng. Mặt hắn chum ngay lại,
miếng cám đắng chát và nghẹn bứ trong cổ. Bữa cơm từ đấy không ai nói câu
gì, họ cắm đầu ăn cho xong lần, họ tránh nhìn mặt nhau. Một nỗi tủi hờn len vào
tâm trí mọi người.
Ngoài đình bỗng dội lên một hồi trống, dồn dập, vội vã. Đàn quạ trên những cây
gạo cao chót vót ngoài bãi chợ hốt hoảng bay vù lên, lượn thành từng đám bay
vần trên nền trời như những đám mây đen.
Người con dâu khẽ thở dài, thị nói lí nhí trong miệng:
- Trống gì đấy, u nhỉ?
- Trống thúc thuế đấy. Đằng thì nó bắt gồng đay, đằng thì nó bắt đóng thuế.
Giời đất này không chắc đã sống qua được đâu các con ạ... - Bà lão ngoảnh vội
ra ngoài. Bà lão không dám để con dâu nhìn thấy bà khóc.
Người con dâu có vẻ lạ lắm, thị lầm bầm:
- Ở đây vẫn phải đóng thuế cơ à?
Im lặng một lúc thị lại tiếp:

28
- Trên mạn Thái Nguyên, Bắc Giang người ta không chịu đóng thuế nữa đâu.
Người ta còn phá cả kho thóc của Nhật, chia cho người đói nữa đấy.
Tràng thần mặt ra nghĩ ngợi. Cái mặt to lớn bặm lại, khó đăm đăm. Miếng cám
ngậm trong miệng hắn đã bã ra chát xít... Hắn đang nghĩ đến những người phá
kho thóc Nhật.
Tràng hỏi vội trong miếng ăn:
- Việt Minh phải không?
- Ừ, sao nhà biết?
ĐỀ 15
I. ĐỌC HIỂU (3.0 điểm)
Đọc văn bản sau và trả lời câu hỏi:
Người thất bại nhất là người không thể trở thành chính bản thân mình,
không giữ được "cái tôi” của thể xác và tâm hồn. Khi một người từ bỏ "cái
tôi" ấy thì sẽ như thế nào? Sẽ nghe theo người khác rồi bị họ thay đổi, cử
thể ngộ nhận cái đặc sắc của người khác thành thứ mà mình đang tìm kiếm,
theo đuổi, phần lớn là không thể thành công, hoặc nếu thành công thì e
rằng cũng khó mà có được đặc sắc của bản thân. Đối với người muốn
thành công, phương pháp ít tốn sức lực nhất, có hiệu quả cao nhất chính là
giữ được bản sắc vốn có của bản thân mình. [..] Trên thế giới này bạn
chính là một cá thể duy nhất không thể có một bản sao khác giống hệt
được, vì thế hãy tự hào vì điều đó! Suy cho cùng, bạn chỉ có thể tự hát, tự
vẽ, tự điển hình ảnh bản thân mình. Những kinh nghiệm hoàn cảnh và di
truyền làm nên bạn, cho dù là tốt hay xấu bạn đều phải chăm sóc vườn rau
của mình thật tốt, cho dù xấu hay tốt, bạn cũng phải tự mình diễn bản nhạc
của bản thân bằng chính thức nhạc cụ của mình.
(Liêu Trí Phong, Mỗi lần vấp ngã là một lần trưởng thành, NXB Thanh
niên, 2020, tr.202-205)
Câu 1: (NB) Xác định phương thức biểu đạt chính được sử dụng trong
đoạn trích.
Câu 2: (TH) Theo đoạn trích, thế nào là người thất bại?
Câu 3: (TH) Anh/chị hiểu như thế nào về ý kiến sau: “Trên thế giới này
bạn chính là một cá thể duy nhất không thể có một bản sao khác giống hệt
được, vì thế hãy tự hào vì điều đó!”
Câu 4: (VD) Anh/chị có đồng ý với quan niệm: Người thất bại nhất là
người không thể trở thành chính bản thân mình, không giữ được "cái tôi”
của thể xác và tâm hồn không? Vì sao?
II. LÀM VĂN
Câu 1: (VDC)

29
Từ nội dung đoạn trích phần Đọc hiểu, anh/chị hãy viết một đoạn văn
(khoảng 200 chữ) trình bày suy nghĩ của mình về sự cần thiết của việc
sống là chính mình.
Câu 2 (5,0 điểm)
Hùng vĩ của Sông Đà không phải chỉ có thác đá. Mà nó còn là những
cảnh đá bờ sông, dựng vách thành, mặt sông chỗ ấy chỉ lúc đúng ngọ mới có
mặt trời. Có vách đá thành chẹt lòng Sông Đà như một cái yết hầu. Đứng bên
này bờ nhẹ tay ném hòn đá qua bên kia vách. Có quãng con nai con hổ đã có lần
vọt từ bờ này sang bờ kia. Ngồi trong khoang đò qua quãng ấy, đang mùa hè mà
cũng thấy lạnh, cảm thấy mình như đứng ở hè một cái ngõ mà ngóng vọng lên
một khung cửa sổ nào trên cái tầng nhà thứ mấy nào vừa tắt phụt đèn điện.
Lại như quãng mặt ghềnh Hát Loóng, dài hàng cây số nước xô đá, đá xô
sóng, sóng xô gió. Cuốn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm như lúc nào cũng đòi
nợ xuýt tay lái thì cũng dễ lật ngửa bụng thuyền ra.
Lại như quãng Tà Mường Vát phía dưới Sơn La. Trên sông bỗng có
những cái hút nước giống như cái giếng bê tông thả xuống sông để chuẩn bị làm
móng cầu. Nước ở đây thở và kêu như cửa cống cái bị sặc. Trên mặt cái hút
xoáy tít đáy; cũng đang quay lừ lừ những cánh quạ đàn. Không thuyền nào dám
men gần những cái hút nước ấy, thuyền nào qua cũng chèo nhanh để lướt quãng
sông, y như là ô tô sang số ấn ga cho nhanh để vút qua một quãng đường mượn
cạp ra ngoài bờ vực.
Anh chị hãy phân tích hình tượng Sông Đà trong đoạn trích trên, từ đó
nhận xét phong cách nghệ thuật độc đáo của Nguyễn tuân trong tùy
bút người lái đò sông đà.

Đề 16:
I. ĐỌC HIỂU (3.0 điểm)
Đọc văn bản sau và trả lời câu hỏi:
Thuở còn thơ ngày hai buổi đến trường
Yêu quê hương qua từng trang sách nhỏ:
“Ai bảo chăn trâu là khổ?”
Tôi mơ màng nghe chim hót trên cao
Những ngày trốn học
Đuổi bướm cầu ao
Mẹ bắt được...
Chưa đánh roi nào đã khóc!
Có cô bé nhà bên
Nhìn tôi cười khúc khích...

30
***

Cách mạng bùng lên


Rồi kháng chiến trường kỳ
Quê tôi đầy bóng giặc
Từ biệt mẹ tôi đi
Cô bé nhà bên - (có ai ngờ!)
Cũng vào du kích
Hôm gặp tôi vẫn cười khúc khích
Mắt đen tròn (thương thương quá đi thôi!)
Giữa cuộc hành quân không nói được một lời
Đơn vị đi qua, tôi ngoái đầu nhìn lại...
Mưa đầy trời nhưng lòng tôi ấm mãi...

***

Hoà bình tôi trở về đây


Với mái trường xưa, bãi mía, luống cày
Lại gặp em
Thẹn thùng nép sau cánh cửa...
Vẫn khúc khích cười khi tôi hỏi nhỏ
Chuyện chồng con (khó nói lắm anh ơi!)
Tôi nắm bàn tay nhỏ nhắn ngậm ngùi
Em vẫn để yên trong tay tôi nóng bỏng...

Hôm nay nhận được tin em


Không tin được dù đó là sự thật
Giặc bắn em rồi quăng mất xác
Chỉ vì em là du kích, em ơi!
Đau xé lòng anh, chết nửa con người!

Xưa yêu quê hương vì có chim có bướm


Có những ngày trốn học bị đòn roi...
Nay yêu quê hương vì trong từng nắm đất
Có một phần xương thịt của em tôi
Câu 1: Xác định phương thức biểu đạt chính trong văn bản trên?
Câu 2: Hiện thực chiến tranh được thể hiện qua những câu thơ nào?
Câu 3: Theo anh/chị tình yêu quê hương của tác giả trở nên sâu đậm hơn vì
những lí do gì?
Câu 4: Bài thơ để lại cho em những thông điệp ý nghĩa nào?
II. LÀM VĂN

31
Câu 1: (VDC)
Từ nội dung đoạn trích phần Đọc hiểu, anh/chị hãy viết một đoạn văn
(khoảng 200 chữ) trình bày suy nghĩ của mình về giá trị của hòa bình trong
cuộc sống hiện nay.

Câu 2 (5,0 điểm)


Anh chị hãy phân tích hình tượng Sông Đà trong đoạn trích sau
Con Sông Đà gợi cảm. Đối với mỗi người, Sông Đà lại gợi một cách. Đã có
lần tôi nhìn Sông Đà như một cố nhân. Chuyến ấy ở rừng đi núi cũng đã hơi lâu đã
thấy thèm chỗ thoáng. Mải bám gót anh liên lạc, quên đi mất là mình sắp đổ ra
Sông Đà. Xuống một cái dốc núi, trước mắt thấy loang loáng như trẻ con nghịch
chiếu gương vào mắt mình rồi bỏ chạy. Tôi nhìn cái miếng sáng lóe lên một màu
nắng tháng ba Đường thi “Yên hoa tam nguyệt há Dương Châu”. Bờ sông Đà, bãi
Sông Đà, chuồn chuồn bươm bướm trên Sông Đà. Chao ôi, trông con sông, vui
như thấy nắng giòn tan sau kì mưa dầm, vui như nối lại chiêm bao đứt quãng. Đi
rừng dài ngày rồi lại bắt ra Sông Đà, đúng thế, nó đằm đằm ấm ấm như gặp lại cố
nhân, mặc dầu người cố nhân ấy mình biết là lắm bệnh mà chứng, chốc dịu dàng
đấy, rồi lại bản tính và gắt gỏng thác lũ ngay đấy.
Thuyền tôi trôi trên Sông Đà. Cảnh ven sông ở đây lặng tờ. Hình như từ đời
Trần đời Lê, quãng sông này cũng lặng tờ đến thế mà thôi. Thuyền tôi trôi qua
một nương ngô nhú lên mấy lá ngô non đầu mùa. Mà tinh không một bóng
người. Cỏ gianh đồi núi đang ra những nõn búp. Một đàn hươu cúi đầu ngốn
búp cỏ gianh đẫm sương đêm. Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sông
hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa.
Đề 17
I. ĐỌC HIỂU (3.0 điểm)
Đọc văn bản sau và trả lời câu hỏi:
Sống phải biết cho đi

Cuộc sống muôn màu muôn vẻ, vốn dĩ là sự kết hợp hài hòa tình cảm giữa
người với người. Nhờ có tình cảm ấy mà cuộc sống của mỗi người mới trở nên
có giá trị và thật ý nghĩa. Càng ý nghĩa hơn nếu chúng ta biết trao đi yêu
thương, sẻ chia niềm vui, hạnh phúc với mọi người xung quanh.

Sống cho đi là một lẽ sống mang tính nhân văn cao đẹp. Sống không suy tính
thiệt hơn cho bản thân mà phải sống vì lợi ích của tập thể, vì cộng đồng. Chúng
ta hãy yêu thương, chia sẻ, mở rộng tấm lòng mình để giúp đỡ những người có
hoàn cảnh khó khăn. Biết suy nghĩ, lo lắng, thấu hiểu nỗi đau của người khác.
Cho đi không nhất thiết phải là vật chất mà có thể chỉ đơn giản là tinh thần. Đôi

32
khi chỉ là một lời an ủi, động viên nhưng cũng đủ làm ấm lòng người nhận.
Những hành động tuy nhỏ nhưng cũng sẽ làm cho người được giúp đỡ cảm
nhận được sự quan tâm và yêu thương từ người cho. Sống như vậy chúng ta mới
cảm thấy yêu đời hơn, lạc quan mà sống, tâm hồn chúng ta cũng vì vậy mà thêm
nhẹ nhàng, thư thái. Người sống như vậy sẽ dễ dàng nhận được tình cảm chân
thành, quý mến của người thân, bạn bè, đồng nghiệp ... Bạn hãy nhớ rằng cho đi
cũng là nhận lại, nhận lại được những bài học quý giá trong cuộc sống về cách
trân trọng, thông cảm cho người khác. Tình yêu thương chân thật giúp chúng ta
sống bao dung, biết cảm thông và tha thứ cho nhau. Cuộc sống sẽ càng thêm ý
nghĩa nếu chúng ta biết lấy tình yêu thương làm nền tảng.

Ngược lại với những người có tấm lòng cao cả ấy là những người có lối sống vụ
lợi, ích kỉ, chỉ biết quan tâm đến bản thân. Chỉ vì lợi ích cá nhân họ có thể bất
chấp tất cả, không từ bỏ một thủ đoạn nào để đạt được mục đích. Đôi khi họ
đánh mất luôn sự tôn nghiêm cũng như lòng tự trọng nên có của bản thân. Sống
một cách thờ ơ, vô cảm trước người hoạn nạn. Nếu sống như vậy thì con đường
bạn đi cũng chỉ có mình bạn, không có người thân hay bạn bè xung quanh.
Những khi vấp ngã, buồn phiền cũng chẳng có ai để tâm sự, sẻ chia hay giúp
đỡ. Nếu chúng ta mãi sống mà chỉ biết nhận và không biết cho đi thì chính ta
đang tự đưa mình vào một ngõ cụt không lối thoát.

Muốn nhận thật nhiều thì phải cho đi tất cả, để có được thành công và hạnh
phúc thì phải nỗ lực và cố gắng kiên trì, đó là quy luật muôn đời của cuộc sống.
Hãy để cho ngọn lửa trong trái tim bạn sưởi ấm tình yêu thương đến khi còn có
thể, hãy trao đi yêu thương để nhận về yêu thương nhiều hơn bạn nhé!

Minh Uyên

Câu 1: Xác định phương thức biểu đạt chính được sử dụng trong đoạn trích
trên?
Câu 2: Theo tác giả như thế nào là “Sống cho đi”
Câu 3: Theo anh chị tại sao tác giả lại nói: “cho đi cũng là nhận lại”
Câu 4: Anh chị có đồng tình với quan điểm: “Nếu chúng ta mãi sống mà chỉ
biết nhận và không biết cho đi thì chính ta đang tự đưa mình vào một ngõ cụt
không lối thoát” không? Vì sao?
II. LÀM VĂN
Câu 1: (VDC)
Từ nội dung đoạn trích phần Đọc hiểu, anh/chị hãy viết một đoạn văn
(khoảng 200 chữ) trình bày suy nghĩ của mình về ý kiến: “Sống không
chỉ là nhận mà còn phải biết cho đi”

Câu 2 (5,0 điểm)

33
Trong tùy bút Người lái đò Sông Đà, nhà văn Nguyễn Tuân đã có
những lần miêu tả dòng Sông Đà:
Thuyền tôi trôi trên Sông Đà. Cảnh ven sông ở đây lặng tờ. Hình như từ
đời Lí đời Trần đời Lê, quãng sông này cũng lặng tờ đến thế mà thôi. Thuyền
tôi trôi qua một nương ngô nhú lên mấy lá ngô non đầu mùa. Mà tịnh không
một bóng người, cỏ gianh đồi núi đang ra những nõn búp. Một đàn hươu cúi
đầu ngốn búp có gianh đẫm sương đêm. Bờ sông hoang dại như một bờ tiềnsử.
Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa. Chao ôi, thấy thèm được
giật mình vì một tiếng còi xúp-lê của một chuyến xe lửa đầu tiên đường sắt Phú
Thọ - Yên Bái - Lai Châu. Con hươu thơ ngộ ngẩng đầu nhung khỏi áng cỏ
sương, chăm chăm nhìn tôi lừ lừ trôi trên một mũi đò. Hươu vểnh tai, nhìn tôi
không chớp mắt mà như hỏi tôi bằng cái tiếng nói riêng của con vật lành: “Hỡi
ông khách Sông Đà, có phải ông cũng vừa nghe thấy một tiếng còi sương?”.
Đàn cá dầm xanh quẫy vọt lên mặt sông bụng trắng như bạc rơi thoi. Tiếng cá
đập nước sông đuổi mất đàn hươu vụt biến. Thuyền tôi trôi trên “Dải Sông Đà
bọt nước lênh bênh - Bao nhiêu cảnh bấy nhiêu tình” của ‘‘một người tình nhân
chưa quen biết" (Tản Đà). Dòng sông quãng này lững lờ như nhớ thương
những hòn đá thác xa xôi để lại trên thượng nguồn Tây Bắc. Và con sông như
đang lắng nghe những giọng nói êm êm của người xuôi, và con sông đang trôi
những con đò mình nở chạy buồm vải nó khác hẳn những con đò đuôi én thắt
mình dây cổ điển trên dòng trên.
(Nguyễn Tuân – Người lái đò Sông Đà, Ngữ văn 12, Tập 1).
Cảm nhận của anh, chị về vẻ đẹp của dòng Sông Đà trong đoạn văn
trên, từ đó nhận xét về cái tôi tài hoa, uyên bác của nhà văn Nguyễn Tuân?

Đề 18

I. ĐỌC HIỂU (3.0 điểm)


Đọc văn bản sau và trả lời câu hỏi:
Sống phải biết tha thứ và bao dung
Bao dung với người khác chính là ta đã chừa cho mình một lối thoát, một con
đường để đi. Tha thứ cho người khác cũng là bao dung cho chính mình, vì vậy
chúng ta hãy học cách tha thứ để quên đi những lỗi lầm mà người khác đã gây
ra.

Trong cuộc đời mỗi người có lúc vì nóng vội, chủ quan mà chúng ta mất
phương hướng, dẫn đến những hậu quả đáng tiếc. Nếu cứ mãi giày vò nhau vì
chuyện đã qua thì chúng ta không thể giải quyết được gì. Điều chúng ta cần làm
là bỏ qua những sai lầm mắc phải và cẩn trọng làm lại từ đầu. Sai lầm là điều

34
khó tránh khỏi, nếu người khác biết nhận sai về mình thì chúng ta hãy tha thứ
cho họ. Không nên khắt khe với những lỗi lầm mà người khác phạm phải, cũng
đừng chỉ nhìn vào đó mà vội đánh giá một con người. Cố gắng nghĩ đến những
điều tốt đẹp mà họ đã làm, những cố gắng, nỗ lực mà họ đã bỏ ra. Nếu người
mắc sai lầm ý thức được sai lầm và chấp nhận sửa đổi thì họ rất cần sự bao dung
từ mọi người để có cơ hội làm lại cuộc đời. Trước những lỗi lầm của người
khác, bao dung lại có sức mạnh hơn nhiều so với trừng phạt. Không thể mở lòng
khoan dung người khác, bạn cũng không thể nào thành công trong cuộc sống.

Tha thứ cho người đã từng làm tổn thương mình quả là một việc rất khó, vì bị
người khác làm tổn thương là một cảm giác không hề dễ chịu. Dẫu biết rằng
người ta đối xử với mình quá tệ, sao có thể dễ dàng bỏ qua nhưng nếu không tha
thứ trong lòng chúng ta lại càng nặng nề hơn. Tha thứ là cách tốt nhất để động
viên bản thân suy nghĩ mọi việc theo chiều hướng tích cực, cố gắng sống tốt
hơn và có những thay đổi cần thiết. Tha thứ là cách để chắp cánh cho lòng yêu
thương và sự bao dung. Học cách tha thứ vốn dĩ là cần thiết đối với bất kỳ ai, đó
chính là một lối sống đẹp mà mọi người cần phát huy. Muốn tha thứ được, đòi
hỏi chúng ta phải biết dung hòa mọi mặt để biết yêu thương và cảm thông. Bằng
chính trái tim chân thành của mình, ta mới có thể giúp người khác khắc phục
được lỗi lầm. Tha thứ là chúng ta đã cho người khác một cơ hội. Tha thứ sẽ cải
thiện tất cả các mối quan hệ, làm thay đổi chất lượng cuộc sống của chính mình.
Tha thứ không có nghĩa là chúng ta đầu hàng số phận, chấp nhận buông xuôi mà
chính là đặt mình ở vị trí của người khác để bao dung họ. Khi quyết định tha thứ
cho một người, chúng ta sẽ nhận thấy tâm hồn mình cởi mở, rộng lớn hẳn lên.
Lòng bao dung là một món quà vô cùng quý giá cho chính bản thân bạn, vì vậy
hãy học cách khoan dung.

Nếu bạn chấp nhận tha thứ, thì hãy quên đi những điều không nên nhớ, dùng
yêu thương để khỏa lấp nỗi đau. Không ai có thể bắt buộc bạn phải tha thứ,
cũng không ai có quyền trách bạn nếu bạn không thể bao dung. Nhưng tha thứ
để có được một tương lai tươi sáng, đó là lựa chọn sáng suốt của mỗi người.

Minh Uyên

Câu 1: Xác định phương thức biểu đạt chính được sử dụng trong đoạn trích
trên?
Câu 2: Vì sao tác giả cho rằng: “Không nên khắt khe với những lỗi lầm mà
người khác phạm phải, cũng đừng chỉ nhìn vào đó mà vội đánh giá một con
người”
Câu 3: Anh chị hiểu như thế nào về quan điểm: “Sai lầm là điều khó tránh khỏi,
nếu người khác biết nhận sai về mình thì chúng ta hãy tha thứ cho họ”

35
Câu 4: Anh chị có đồng tình với quan điểm: “Tha thứ sẽ cải thiện tất cả các mối
quan hệ, làm thay đổi chất lượng cuộc sống của chính mình” không? Vì sao?
II. LÀM VĂN
Câu 1: (VDC)
Từ nội dung đoạn trích phần Đọc hiểu, anh/chị hãy viết một đoạn văn (khoảng
200 chữ) trình bày suy nghĩ của mình về ý kiến: “Con người sống phải biết
bao dung”
Câu 2 (5,0 điểm)
Cảm nhận của anh chị vế sự hung bạo, dữ dội của dòng sông Đà
trong đạon văn sau
“… Còn xa lắm mới đến cái thác dưới. Nhưng đã thấy tiếng nước réo gần mãi
lại réo to mãi lên. Tiếng nước thác nghe như là oán trách gì, rồi lại như là van
xin, rồi lại như là khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo. Thế rồi nó rống lên như
tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vẩu tre nứa nổ lửa, đang
phá tuông rừng lửa, rừng lửa cùng gầm thét với đàn trâu da cháy bùng. Tới cái
thác rồi. Ngoặt khúc sông lượn, thấy sóng bọt đã trắng xóa cả một chân trời đá.
Đá ở đây từ ngàn năm vẫn mai phục hết trong lòng sông, hình như mỗi lần có
chiếc thuyền nào xuất hiện ở quãng ầm ầm mà quạnh hiu này, mỗi lần có chiếc
nào nhô vào đường ngoặt sông là một số hòn bèn nhổm cả dậy để vồ lấy thuyền.
Mặt hòn đá nào trông cũng ngỗ ngược, hòn nào cũng nhăn nhúm méo mó hơn
cả cái mặt nước chỗ này. Mặt sông rung rít lên như tuyếc-bin thuỷ điện nơi đáy
hầm đập. Mặt sông trắng xóa càng làm bật rõ lên những hòn những tảng mới
trông tưởng như nó đứng nó ngồi nó nằm tùy theo sở thích tự động của đá to đá
bé. Nhưng hình như Sông Đà đã giao việc cho mỗi hòn. Mới thấy rằng đây là nó
bày thạch trận trên sông. Đám tảng đám hòn chia làm ba hàng chắn ngang trên
sông đòi ăn chết cái thuyền một cái thuyền đơn độc không còn biết lùi đi đâu để
tránh một cuộc giáp lá cà có đá dàn trận địa sẵn. Hàng tiền vệ, có hai hòn canh
một cửa đá trông như là sơ hở nhưng chính hai đứa giữ vai trò dụ cái thuyền đối
phương đi vào sâu nữa, vào tận tuyến giữa rồi nước sóng luồng với đánh khuỷu
quật vu hồi lại Nếu lọt vào đây rồi mà cái thuyền du kích ấy vẫn chọc thủng
được tuyến hai, thì nhiệm vụ của những boongke chìm và pháo đài đá nổi ở
tuyến ba phải đánh tan cái thuyền lọt lưới đá tuyến trên, phải tiêu diệt tất cả
thuyền trưởng thuỷ thủ ngay ở chân thác
Đề 19
I. ĐỌC HIỂU (3.0 điểm)
Đọc văn bản sau và trả lời câu hỏi:
Giá trị của bản thân

36
Cuộc sống là một hành trình mà mỗi người luôn tìm kiếm mọi cơ hội để khẳng
định giá trị của bản thân. Mỗi người đều có những tính cách riêng, muốn đạt
được những thành công như mong đợi, trước hết chúng ta cần phải hiểu rõ giá
trị của chính mình.

Giá trị của con người không phải là vẻ đẹp bên ngoài mà là giá trị thật sự bên
trong. Chúng ta không thể nhìn hình thức bên ngoài mà nhận xét, đánh giá giá
trị của một người. Giá trị đích thực của mỗi người không nằm ở việc bạn giàu
hay nghèo, địa vị cao hay thấp. Vì những điều đó chỉ giúp bạn thỏa mãn nhu cầu
hàng ngày của cuộc sống cũng như chỉ chứng minh khả năng của bạn, chứ nó
không thể cho biết được bạn là ai, giá trị của bạn như thế nào. Chúng ta cũng
không thể dựa vào nhận xét của những người xung quanh để nhận định. Nhận
xét từ người khác không thể hoàn toàn chính xác về giá trị của bạn. Đối với
những người có thiện cảm với bạn thì họ sẽ nhìn nhận mọi việc theo hướng tích
cực, ngược lại trong suy nghĩ của người không thích bạn, cảm nhận của họ về
bạn chẳng mấy tốt đẹp.

Muốn trở thành người thực sự có giá trị thì chúng ta cần phải dựa vào chính
mình. Không ai có thể làm thay đổi giá trị của bạn, chỉ có bạn mới thay đổi
được mình. Người biết được giá trị của mình, duy trì và phát triển nó như thế
nào để trở nên hoàn thiện hơn, chỉ có thể là bạn. Và cũng chỉ có bạn mới là
người độc lập, tự chủ, làm chỗ dựa cho chính mình. Sự kiên cường, ý chí kiên
định của bạn tạo nên giá trị cho bạn. Bạn sống mạnh mẽ hơn, không trông chờ
vào sự giúp đỡ của người khác để giải quyết những rắc rối cho mình. Nếu muốn
thành công trong công việc, bạn phải chăm chỉ làm việc, không ngừng học hỏi
nâng cao kiến thức, chứng minh khả năng thực sự của mình. Có như vậy bạn
mới khẳng định được giá trị riêng cho bản thân. Giá trị của một người chính là
tính cách, đạo đức, nhân phẩm, ý chí của người đó. Một khi bạn ý thức được giá
trị của mình, đồng nghĩa với việc bạn đã biết được điểm mạnh, điểm yếu của
bản thân. Bạn có đủ tự tin để hành động, đủ dũng cảm để vươn lên, luôn cố
gắng để hướng đến đích mà mình đã chọn và rồi bạn sẽ đạt được những thành
quả xứng đáng với công sức mà mình bỏ ra.

Trong cuộc sống, giá trị của bạn không tự nhiên mà có được, nó có thể lớn lên
hay dần biến mất đều tùy thuộc vào bạn. Chỉ khi bạn tin tưởng vào chính mình,
vào những điều mình thực hiện thì khi ấy bạn mới thực sự có giá trị. Để có được
giá trị cuộc sống tốt hơn, bạn không được phép buông xuôi trước khó khăn mà
hãy cố gắng nỗ lực, phấn đấu hết mình vì khát vọng sống. Hãy sống như thế nào
cho đúng với giá trị đích thực của bản thân, bạn nhé!

Minh Uyên

37
Câu 1: Xác định phương thức biểu đạt chính được sử dụng trong đoạn trích
trên?
Câu 2: Theo tác giả như thế nào là “giá trị của con người”
Câu 3:Anh chị hiểu như thế nào về ý kiến: “Một khi bạn ý thức được giá trị của
mình, đồng nghĩa với việc bạn đã biết được điểm mạnh, điểm yếu của bản thân”
Câu 4: Anh chị có đồng tình với quan điểm: “Giá trị của con người không phải
là vẻ đẹp bên ngoài mà là giá trị thật sự bên trong không? Vì sao?
II. LÀM VĂN
Câu 1: (VDC)
Từ nội dung đoạn trích phần Đọc hiểu, anh/chị hãy viết một đoạn văn (khoảng
200 chữ) để trả lời câu hỏi: “Bản thân cần làm gì để nâng cao giá trị của mình?”
Câu 2 (5,0 điểm)
Đề 8: (5.0 điểm)
Thạch trận dàn bày vừa xong thì cái thuyền vụt tới. Phối hợp với đá, nước
thác reo hò làm thanh viện cho đá, những hòn bệ vệ oai phong lẫm liệt. Một hòn ấy
trông nghiêng thì y như là đang hất hàm hỏi cái thuyền phải xưng tên tuổi trước khi
giao chiến. Một hòn khác lùi lại một chút và thách thức cái thuyền có giỏi thì tiến
gần vào. Ông đò hai tay giữ mái chèo khỏi bị hất lên khỏi sóng trận địa phóng
thẳng vào mình. Mặt nước hò la vang dậy quanh mình, ùa vào mà bẻ gãy cán chèo
võ khí trên cánh tay mình....Sóng nước như thể quân liều mạng vào sát nách mà đá
trái mà thúc gối vào bụng và hông thuyền. Có lúc chúng đội cả thuyền lên. Nước
bám lấy thuyền như đô vật túm thắt lưng ông đò đòi lật ngửa mình ra giữa trận
nước vang trời thanh la não bạt. Sóng thác đã đánh đến miếng đòn hiểm độc nhất,
cả cái luồng nước vô sở bất chí ấy bóp chặt lấy hạ bộ người lái đò […]. Mặt sông
trong tích tắc loà sáng lên như một cửa bể đom đóm rừng ùa xuống mà châm lửa
vào đầu sóng. Nhưng ông đò cố nén vết thương, hai chân vẫn kẹp chặt lấy cuống
lái, mặt méo bệch đi như cái luồng sóng đánh hồi lùng, đánh đòn tỉa, đánh đòn âm
vào chỗ hiểm. Tăng thêm mãi lên tiếng hỗn chiến của nước của đá thác. Nhưng
trên cái thuyền sáu bơi chèo, vẫn nghe rõ tiếng chỉ huy ngắn gọn tỉnh táo của người
cầm lái. Vậy là phá xong cái trùng vi thạch trận vòng thứ nhất. Không một phút
nghỉ tay nghỉ mắt, phải phá luôn vòng vây thứ hai và đổi luôn chiến thuật. Ông lái
đã nắm chắc binh pháp của thần sông thần đá. Ông đã thuộc quy luật phục kích của
lũ đá nơi ải nước hiểm trở này. Vòng đầu vừa rồi, nó mở ra năm cửa trận, có bốn
cửa tử một cửa sinh, sinh nằm lập lờ phía tả ngạn sông. Vòng thứ hai này tăng
thêm nhiều cửa tử để đánh lừa con thuyền vào, và cửa sinh lại bố trí lệch qua phía
bờ hữu ngạn. Cưỡi lên thác Sông Đà, phải cưỡi đến cùng như là cưỡi hổ. Dòng
thác hùm beo đang hồng hộc tế mạnh trên sông đá. Nắm chặt lấy được cái bờm
sóng đúng luồng rồi, ông đò ghì cương lái, bám chắc lấy luồng nước đúng mà
phóng nhanh vào cửa sinh, mà lái miết một đường chéo về phía cửa đá ấy. Bốn
năm bọn thuỷ quân cửa ải nước bên bờ trái liền xô ra cảnh níu thuyền lôi vào tập
đoàn cửa tử. Ông đò vẫn nhớ mặt bọn này, đứa thì ông tránh mà rảo bơi chèo lên,

38
đứa thì ông đè sấn lên mà chặt đôi ra để mở đường tiến. Những luồng tử đã bỏ hết
lại sau thuyền. Chỉ còn vẳng reo tiếng hò của sóng thác luồng sinh. Chúng vẫn
không ngớt khiêu khích, mặc dầu cái thằng đá tướng đứng chiến ở cửa vào đã tiu
nghỉu cái mặt xanh lè thất vọng thua cái thuyền đã đánh trúng vào cửa sinh nó trấn
lấy. Còn một trùng vây thứ ba nữa. Ít cửa hơn, bên phải bên trái đều là luồng chết
cả. Cái luồng sống ở chặng ba này lại ở ngay giữa bọn đá hậu vệ của con thác. Cứ
phóng thẳng thuyền, chọc thủng cửa giữa đó. Thuyền vút qua cổng đá cánh mở
cánh khép. Vút, vút, cửa ngoài, cửa trong, lại cửa trong cùng, thuyền như một mũi
tên tre xuyên nhanh qua hơi nước, vừa xuyên vào từ động lái được lượn được. Thế
là hết thác….
(Theo Ngữ văn 12, Tập 1, NXB Giáo dục Việt Nam, 2014, Tr 189 - 190)
Cảm nhận của anh/chị về hình tượng Người lái đò sông Đà trong đoạn
trích trên. Từ đó nhận xét về cách nhìn người của nhà văn Nguyễn Tuân.

Đề 20:

I. ĐỌC HIỂU (3.0 điểm)


Đọc văn bản sau và trả lời câu hỏi:
Ở tuổi trẻ, không ai mà không trăn trở, không có hoài bão, ước mơ. Ai cũng
mong tự xoay xở tách mình ra khỏi vỏ kén thật chật chội để tung cánh bay xa.
Và bao nhiêu người vượt qua được những nỗi đau đớn, thử thách đó?
Khát vọng càng lớn - nỗi đau và thử thách càng nhiều - và mấy ai kiên định trên
cuộc hành trình đó. Hãy dám sống cuộc sống mà bạn hằng ao ước - vì bạn chỉ
có duy nhất một cuộc sống mà thôi. Đó là sự lựa chọn của bạn. Bạn hãy bắt đầu
bằng việc tích lũy thật nhiều kinh nghiệm sống. Đó không phải là kinh nghiệm
lựa chọn một điều gì đó, mà là kinh nghiệm mang lại cho bạn sự khôn ngoan:
hãy học hỏi về con người, xã hội và cách sống. Hãy vươn cao hơn bằng một
đam mê cháy bỏng theo đuổi Tri Thức Lớn của một sinh viên đại học, của một
thanh niên có giáo dục, có lẽ sống. Hãy sẵn sàng cho mọi thử thách và chấp
nhận thất bại để vươn lên, Hãy dũng cảm bước tới! Bạn có thể gặp nhiều cánh
cửa. Nhưng tất cả chỉ là những bức tường câm lặng, ngoan cố, trừ phi bạn quyết
mở chúng ta. Hãy can đảm đón nhận những cơn đau tuổi trưởng thành và xem
nó là động lực thúc đẩy bạn vươn tới một tương lai tốt đẹp hơn, để không sống
một cuộc sống phi hoài, để sau này không ân hận nuối tiếc.
(Rando Kim – Tuổi trẻ, khát vọng và nỗi đau, Vương Bảo Long biên dịch, NXB
Tổng hợp TP Hồ Chí Minh, 2017)
Câu 1: Xác định phương thức biểu đạt chính được sử dụng trong đoạn trích.

39
Câu 2: Tác giả đã đưa ra lời khuyên gì về việc tích lũy thật nhiều kinh nghiệm
sống?
Câu 3: Anh chị hiểu như thế nào về câu nói: “Hãy dám sống cuộc sống mà bạn
hằng ao ước - vì bạn chỉ có duy nhất một cuộc sống mà thôi”
Câu 4: Anh chị có đồng tình với quan điểm: “Khát vọng càng lớn - nỗi đau và
thử thách càng nhiều” không? Vì sao?

II. LÀM VĂN


Câu 1: (VDC)
Từ nội dung đoạn trích phần Đọc hiểu, anh/chị hãy viết một đoạn văn (khoảng
200 chữ) trình bày suy nghĩ sự cần thiết của việc “nuôi dưỡng khát vọng sống”
đối với tuổi trẻ.
Câu 2 (5,0 điểm)
Phân tích hình tượng người lái đò sông Đà trong đoạn trích sau:
Không một phút nghỉ tay nghỉ mắt, phải phá luôn vòng vây thứ hai và đổi
luôn chiến thuật. Ông lái đã nắm chắc binh pháp của thần sông thần đá. Ông đã
thuộc quy luật phục kích của lũ đá nơi ải nước hiểm trở này. Vòng đầu vừa rồi,
nó mở ra năm cửa trận, có bốn cửa tử một cửa sinh cửa, sinh nằm lập lờ phía tả
ngạn sông. Vòng thứ hai này tăng thêm nhiều cửa tử để đánh lừa con thuyền
vào, và cửa sinh lại bố trí lệch qua phía bờ hữu ngạn. Cưỡi lên thác Sông Đà,
phải cưỡi đến cùng như là cưỡi hổ.
Dòng thác hùm beo đang hồng hộc tế mạnh trên sông đá. Nắm chặt lấy được
cái bờm sóng đúng luồng rồi, ông đò ghì cương lái, bám chắc lấy luồng nước
đúng mà phóng nhanh vào cửa sinh, mà lái miết một đường chéo về phía cửa
đá ấy. Bốn năm bọn thuỷ quân cửa ải nước bên bờ trái liền xô ra cảnh níu
thuyền lôi vào tập đoàn cửa tử. Ông đò vẫn nhớ mặt bọn này, đứa thì ông
tránh mà rảo bơi chèo lên, đứa thì ông đè sấn lên mà chặt đôi ra để mở đường
tiến. Những luồng tử đã bỏ hết lại sau thuyền. Chỉ còn vẳng reo tiếng hò của
sóng thác luồng sinh. Chúng vẫn không ngớt khiêu khích, mặc dầu cái thằng
đá tướng đứng chiến ở cửa vào đã tiu nghỉu cái mặt xanh lè thất vọng thua
cái thuyền đã đánh trúng vào cửa sinh nó trấn lấy. Còn một trùng vây thứ ba
nữa. Ít cửa hơn, bên phải bên trái đều là luồng chết cả. Cái luồng sống ở
chặng ba này lại ở ngay giữa bọn đá hậu vệ của con thác. Cứ phóng thẳng
thuyền, chọc thủng cửa giữa đó. Thuyền vút qua cổng đá cánh mở cánh khép.
Vút, vút, cửa ngoài, cửa trong, lại cửa trong cùng, thuyền như một mũi tên
tre xuyên nhanh qua hơi nước, vừa xuyên vào từ động lái được lượn được.
Thế là hết thác. Dòng sông vặn mình vào một cái bến cát có hang lạnh. Sóng
thác xèo xèo tan trong trí nhớ. Sông nước lại thanh bình. Đêm ấy nhà đò đốt
lửa trong hang đá, nướng ống cơm lam và toàn bàn tán về cá anh vũ cá dầm
xanh, về những cái hầm cá hang cá mùa khô nổ những tiếng to như mìn bộc

40
phá rồi cá túa ra đầy tràn ruộng. Cũng chả thấy ai bàn thêm một lời nào về
cuộc chiến thắng vừa qua nơi cửa ải nước đủ tướng dữ quân tợn vừa rồi.

 PHẦN 2: HỆ THỐNG NHỮNG CÂU HỎI NGHỊ LUẬN VĂN


HỌC QUAN TRỌNG KHÁC

Đề 1: Phân tích hình tượng người lái đò sông Đà trong đoạn trích sau
Vòng thứ hai này tăng thêm nhiều cửa tử để đánh lừa con thuyền vào, và cửa
sinh lại bố trí lệch qua phía bờ hữu ngạn. Cưỡi lên thác Sông Đà, phải cưỡi đến
cùng như là cưỡi hổ. Dòng thác hùm beo đang hồng hộc tế mạnh trên sông đá.
Nắm chặt lấy được cái bờm sóng đúng luồng rồi, ông đò ghì cương lái, bám
chắc lấy luồng nước đúng mà phóng nhanh vào cửa sinh, mà lái miết một đường
chéo về phía cửa đá ấy. Bốn năm bọn thuỷ quân cửa ải nước bên bờ trái liền xô
ra cảnh níu thuyền lôi vào tập đoàn cửa tử. Ông đò vẫn nhớ mặt bọn này, đứa
thì ông tránh mà rảo bơi chèo lên, đứa thì ông đè sấn lên mà chặt đôi ra để mở
đường tiến. Những luồng tử đã bỏ hết lại sau thuyền. Chỉ còn vẳng reo tiếng hò
của sóng thác luồng sinh. Chúng vẫn không ngớt khiêu khích, mặc dầu cái
thằng đá tướng đứng chiến ở cửa vào đã tiu nghỉu cái mặt xanh lè thất vọng thua
cái thuyền đã đánh trúng vào cửa sinh nó trấn lấy.
Đề 2: Trong tùy bút Người lái đò sông Đà, nhà văn Nguyễn Tuân đã xây
dựng thành công hình tượng công hình tượng con Sông Đà độc đáo qua
nhiều trang văn đặc sắc, trong đó có hai đoạn văn sau:
Đoạn 1:
… “Hùng vĩ của sông Đà không phải chỉ có thác đá. Mà nó còn là những
cảnh đá bờ sông, dựng vách thành, mặt sông chỗ ấy chỉ lúc đúng ngọ mới có
mặt trời. Có vách đá thành chẹt lòng sông Đà như một cái yết hầu. Đứng bên
này bờ nhẹ tay ném hòn đá qua bên kia vách. Có quãng con nai con hổ đã có lần
vọt từ bờ này sang bờ kia. Ngồi trong khoang đò chỗ ấy, đang mùa hè mà cũng
cảm thấy lạnh, cảm thấy mình như đứng ở hè một cái ngõ mà ngóng vọng lên
một khung cửa sổ nào trên cái tầng nhà thứ mấy nào vừa tắt phụt đèn điện”
Đoạn 2:
… “Con sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc
ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn
cuộn mù khói Mèo đốt nương xuân. Tôi đã nhìn say sưa làn mây mùa xuân bay
trên sông Đà, tôi đã xuyên qua đám mây mùa thu mà nhìn xuống dòng nước
sông Đà. Mùa xuân dòng xanh ngọc bích, chứ nước sông Đà không xanh màu
xanh canh hến của sông Gâm, sông Lô. Mùa thu nước sông Đà lừ lừ chín đỏ
như da mặt một người bầm đi vì rượu bữa, lừ lừ cái màu đỏ giận dữ ở một

41
người bất mãn bực bội gì mỗi độ thu về. Chưa hề bao giờ tôi thấy dòng sông Đà
là đen như thực dân Pháp đã đè ngửa con sông ta ra đổ mực Tây vào mà gọi
bằng một cái tên Tây láo lếu, rồi cứ thế mà phết vào bản đồ lai chữ.”
(Nguyễn Tuân, Ngữ văn 12, tập 1, NXB Giáo dục Việt Nam, 2005, tr
186,và 191)
Phân tích hình tượng con sông Đà qua hai đoạn văn trên, từ đó rút ra
những thông điệp thẩm mĩ mà nhà văn muốn gửi gắm qua việc xây dựng
hình tượng nghệ thuật này.
Đề 3: (5,0 điểm)
Cảm nhận về hình tượng Sông Đà trong hai đoạn văn sau:
… “Hùng vĩ của Sông Đà không chỉ có thác đá. Mà nó còn là những cảnh
đá bờ sông dựng vách thành, mặt sông chỗ ấy chỉ lúc đúng ngọ mới có mặt trời.
Có vách đá thành chẹt lòng Sông Đà như một cái yết hầu. Đứng bên này bờ nhẹ
tay ném hòn đá qua bên kia vách. Có quãng con nai con hổ đã có lần vọt từ bờ
này sang bờ kia. Ngồi trong khoang đò qua quãng ấy, đang mùa hè mà cũng
thấy lạnh, cảm thấy mình như đứng ở hè một cái ngõ mà ngóng vọng lên một
khung cửa sổ nào trên cái tầng nhà thứ mấy nào vừa tắt phụt đèn điện…”
… “Cảnh ven sông ở đây lặng tờ. Hình như từ đời Lí đời Trần đời Lê,
quãng sông này cũng lặng tờ đến thế mà thôi. Thuyền tôi trôi qua một nương
ngô mới nhú lên mấy lá non đầu mùa. Mà tịnh không một bóng người. Cỏ gianh
đồi núi đang ra những nõn búp. Một đàn hươu cúi đầu ngốn búp cỏ gianh đẫm
sương đêm. Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như một
nỗi niềm cổ tích tuổi xưa. Chao ôi, thấy thèm được giật mình vì một tiếng còi
xúp - lê của một chuyến xe lửa đầu tiên đường sắt Phú Thọ - Yên Bái - Lai
Châu. Con hươu thơ ngộ ngẩng đầu nhung khỏi áng cỏ sương, chăm chăm nhìn
tôi lừ lừ trôi trên một mũi đò. Hươu vểnh tai, nhìn tôi không chớp mắt mà như
hỏi tôi bằng cái tiếng nói riêng của con vật lành: “Hỡi ông khách Sông Đà, có
phải ông vừa nghe thấy một tiếng còi sương?”

ĐỀ 4 :Phân tích nhân vật Mị trong đoạn trích sau:

Ngày tết, Mị cũng uống rượu. Mị lén lấy hũ rượu, uống ực từng bát. Rồi say, Mị
lịm mặt ngồi đấy nhìn người nhảy đồng, người hát. Nhưng lòng Mị đang sống
về ngày trước, tai văng vẳng tiếng sáo gọi bạn đầu làng. Ngày trước Mị thổi sáo
giỏi. Mùa xuân đến, Mị uống rượu bên bếp và thổi sáo. Mị uốn chiếc lá trên
môi, thổi lá cũng hay như thổi sáo. Có biết bao nhiêu người mê, cứ ngày đêm
thổi sáo đi theo Mị hết núi này sang núi khác.

42
Rượu tan lúc nào. Người về, người đi chơi đã vãn cả, Mị không biết. Mị vẫn
ngồi trơ một mình giữa nhà. Mãi sau Mị mới đứng dậy. Nhưng Mị không bước
ra đường. Mị từ từ vào buồng.

Chẳng năm nào A Sử cho Mị đi chơi Tết.

Bấy giờ Mị ngồi xuống giường, trông ra cửa sổ lỗ vuông mờ mờ trăng trắng. Từ
nãy Mị thấy phơi phới trở lại, trong lòng đột nhiên vui như những đêm Tết ngày
trước. Mị trẻ. Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi. Bao nhiêu người có chồng cũng
đi chơi Tết. Huống chi A Sử với Mị, không có lòng với nhau mà vẫn phải ở với
nhau. Nếu có nắm lá ngón trong tay lúc này, Mị sẽ ăn cho chết ngay, chứ không
buồn nhớ lại nữa. Nhớ lại, chỉ thấy nước mắt ứa ra. Mà tiếng sáo gọi bạn yêu
vẫn lửng lơ bay ngoài đường.

Anh ném pao, em không bắt

Em không yêu, quả pao rơi rồi

ĐỀ 5: Cảm nhận sự hồi sinh của nhân vật Mị trong đoạn trích sau:

“Rượu tan lúc nào. Người về, người đi chơi đã vãn cả, Mị không biết. Mị vẫn
ngồi trơ một mình giữa nhà. Mãi sau Mị mới đứng dậy. Nhưng Mị không bước
ra đường. Mị từ từ vào buồng.

Chẳng năm nào A Sử cho Mị đi chơi Tết.

Bấy giờ Mị ngồi xuống giường, trông ra cửa sổ lỗ vuông mờ mờ trăng trắng. Từ
nãy Mị thấy phơi phới trở lại, trong lòng đột nhiên vui như những đêm Tết ngày
trước. Mị trẻ. Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi. Bao nhiêu người có chồng cũng
đi chơi Tết. Huống chi A Sử với Mị, không có lòng với nhau mà vẫn phải ở với
nhau. Nếu có nắm lá ngón trong tay lúc này, Mị sẽ ăn cho chết ngay, chứ không
buồn nhớ lại nữa. Nhớ lại, chỉ thấy nước mắt ứa ra.

Mà tiếng sáo gọi bạn vẫn lửng lơ bay ngoài đường.

Anh ném pao


Em không bắt
Em không yêu
Quả pao rơi rồi…
A Sử vừa ở đâu về, lại sửa soạn đi chơi. A Sử thay áo mới, khoác thêm hai vòng
bạc vào cổ rồi bịt cái khăn trắng lên đầu. Có khi nó đi mấy ngày mấy đêm. Nó
còn đương rình bắt nhiều người con gái nữa về làm vợ. Cũng chẳng bao giờ Mị
nói.

43
Bây giờ Mị cũng không nói. Mị đến góc nhà, lấy ống mỡ, xắn một miếng, bỏ
thêm vào đĩa đèn cho sáng.

Trong đầu Mị đang rập rờn tiếng sáo. Mị muốn đi chơi. Mị cũng sắp đi chơi. Mị
quấn lại tóc. Mị với tay lấy cái váy hoa vắt phía trong vách

Đề 6: phân tích hình tượng sông Hương qua đoạn trích:

“Dòng sông và những đầm phá của nó, những dòng kênh uốn lượn qua thành
phố cùng với tư thái của những ngôi nhà nằm giữa những khu vườn xanh tươi,
tất cả mang lại cho Huế một vẻ trong sáng đầy thư thái, dành riêng cho cảm
hứng nghệ thuật và tri thức. Huế đã là và vẫn còn là một trung tâm của nền văn
hóa Việt Nam... Vẻ đẹp của Huế và lịch sử mà nó làm chứng đã ban cho thành
phố Huế mang một sức hấp dẫn về văn hóa và du lịch có tầm quốc gia và quốc
tế”.
Không phải là một đoạn văn, đây là một văn kiện chính xác của Liên
Hiệp Quốc, do Ban thư ký của UNESCO soạn, đăng trên tạp chí Di Sản Văn
Hóa số mới đây. Tuy nhiên, tôi đã đọc nó với sự rung động thẩm mỹ của tâm
hồn: qua đây, tôi thấy hiện bóng khuôn mặt tươi trẻ và quyến rũ của dòng sông
thành phố giữa lòng thế giới hiện đại. Người ta đã nhìn khắp Trái đất và đã
không quên được nó, dòng sông Việt Nam nhỏ nhắn chỉ dài gần một trăm
kilômet từ nguồn đến biển...
Hiển nhiên là sông Hương đã sống những thế kỷ quang vinh với nhiệm vụ
lịch sử của nó, từ thuở nó còn là một dòng sông biên thùy xa xôi của đất nước
các vua Hùng. Trong sách địa dư của Nguyễn Trãi, nó mang tên là Linh Giang,
dòng sông viễn châu đã chiến đấu oanh liệt bảo vệ biên giới phía nam của Tổ
quốc Đại Việt qua những thế kỷ trung đại. Thế kỷ 18, nó vẻ vang soi bóng kinh
thành Phú Xuân của người anh hùng Nguyễn Huệ; nó sống hết lịch sử bi tráng
của thế kỷ 19 với máu của những cuộc khởi nghĩa, và từ đấy sông Hương đã đi
vào thời đại Cách mạng Tháng Tám bằng những chiến công rung chuyển.
Sông Hương là vậy, dòng sông của thời gian ngân vang, của sử viết giữa
màu cỏ lá xanh biếc. Khi nghe lời gọi, nó biết cách tự biến đời mình làm một
chiến công, để rồi nó trở về với cuộc sống bình thường, làm một người con gái
dịu dàng của đất nước. Thỉnh thoảng, tôi vẫn còn gặp trong những ngày nàng
đem áo ra phơi, một sắc áo cưới của Huế ngày xưa, rất xưa: màu áo lục điều
với loại vải vân thưa màu xanh tràm lồng lên một màu đỏ ở bên trong, tạo
thành một màu tím ẩn hiện, thấp thoáng theo bóng người, thuở ấy các cô dâu
trẻ vẫn mặc sau tiết sương giáng. Đấy cũng chính là màu của sương khói trên
sông Hương, giống như tấm voan huyền ảo của tự nhiên, sau đó ẩn giấu khuôn
mặt thực của dòng sông...

44
Có một dòng thi ca về sông Hương, và tôi hi vọng đã nhận xét một cách
công bằng về nó khi nói rằng dòng sông ấy không bao giờ tự lặp lại mình trong
cảm hứng của các nghệ sĩ. Mỗi nhà thơ đều có một khám phá riêng về nó: từ
xanh biếc thường ngày, nó bỗng thay màu thực bất ngờ, “dòng sông trắng - lá
cây xanh” trong cái nhìn tinh tế của Tản Đà, từ tha thiết mơ màng nó chợt
nhiên hùng tráng lên “như kiếm dựng trời xanh” trong khí phách của Cao Bá
Quát; từ nỗi quan hoài vạn cổ với bóng chiều bãng lãng trong hồn thơ Bà
Huyện Thanh Quan, nó đột khởi thành sức mạnh phục sinh của tâm hồn, trong
thơ Tố Hữu. Và ở đây, một lần nữa, sông Hương quả thực là Kiều rất Kiều,
trong cái nhìn thắm thiết tình người của tác giả Từ ấy.
Có một nhà thơ từ Hà Nội đã đến đây, tóc bạc trắng, lặng ngắm dòng sông,
ném mẩu thuốc lá xuống chân cầu, hỏi với trời, với đất, một câu thật bâng
khuâng: Ai đã đặt tên cho dòng sông?...”.
Đề 7: phân tích hình tượng sông Hương qua đoạn trích:

Rời khỏi kinh thành, sông Hương chếch về hướng chính bắc, ôm lấy đảo Cồn
Hến quanh năm mơ màng trong sương khói, đang xa dần thành phố để lưu
luyến ra đi giữa màu xanh của tre trúc và của những vườn cau vùng ngoại ô Vĩ
Dạ. Và rồi, như sực nhớ lại một điều gì chưa kịp nói, nó đột ngột đổi dòng, rẽ
ngoặt sang hướng đông tây để gặp lại thành phố lần cuối ở góc thị trấn Bao
Vinh xưa cổ. Đối với Huế, nơi đây chính là chỗ chia tay dõi xa ngoài mười dặm
trường đình. Riêng với sông Hương, vốn đang xuôi chảy giữa cánh đồng phù sa
êm ái của nó, khúc quanh này thực bất ngờ biết bao. Có một cái gì rất lạ với tự
nhiên và rất giống con người ở đây; và để nhân cách hoá nó lên, tôi gọi đây là
nỗi vương vấn, cả một chút lẳng lơ kín đáo của tình yêu. Và giống như nàng
Kiều trong đêm tình tự, ở ngã rẽ này, sông Hương đã chí tình trở lại tìm Kim
Trọng của nó, để nói một lời thề trước khi về biển cả: “Còn non, còn nước, còn
dài, còn về, còn nhớ...”. Lời thề ấy vang vọng khắp lưu vực sông Hương thành
giọng hò dân gian; ấy là tấm lòng người dân nơi Châu Hoá xưa mãi mãi chung
tình với quê hương Xứ Sở.
Sau đó nhận xét về tình cảm của nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường dành cho
sông Hương và xứ Huế
Đề 8: phân tích hình tượng sông Hương qua đoạn trích:

Từ đây, như đã tìm đúng đường về, sông Hương vui tươi hẳn lên giữa những
biền bãi xanh biếc của những vùng ngoại ô Kim Long, kéo một nét thẳng thực
yên tâm theo hướng tân nam - đông bắc, phía đó, nơi cuối đường, nó đã nhìn
thấy chiếc cầu trắng của thành phố in ngần trên nền trời, nhỏ nhắn như những

45
vành trăng non. Giáp mặt thành phố ở Cồn Giã Viên, sông Hương uốn một cánh
cung rất nhẹ sang đến Cồn Hến; đường cong ấy làm cho dòng sông mềm hẳn đi,
như một tiếng “vâng” không nói ra của tình yêu. Và như vậy, giống như sông
Xen của Pa-ri, sông Đa-nuýp của Bu-đa-pét; sông Hương nằm ngay giữa lòng
thành phố yêu quý của mình; Huế trong tổng thể vẫn giữ nguyên dạng một đô
thị cổ, trải dọc hai bờ sông. Đầu và cuối ngõ thành phố, những nhánh sông đào
mang nước sông Hương toả đi khắp phố thị, với những cây đa, cây cừa cổ thụ
toả vầng lá u sầm xuống những xóm thuyền xúm xít; từ những nơi ấy, vẫn lập
loè trong đêm những ánh lửa thuyền chài của một linh hồn mô tê xưa cũ mà
không một thành phố hiện đại nào còn nhìn thấy được. Những chi lưu ấy, cùng
với hai hòn đảo nhỏ trên sông đã làm giảm hẳn lưu tốc của dòng nước, khiến
cho sông Hương khi qua thành phố đã trôi đi chậm, thực chậm, cơ đồ chỉ là một
mặt hồ yên tĩnh. Tôi đã đến Lê-nin-grát, có lúc đứng nhìn sông Nê-va cuốn trôi
những đám băng lô xô, nhấp nháy trăm màu dưới ánh sáng của mặt trời mùa
xuân; mỗi phiến băng chở một con hải âu nghịch ngợm đứng co lên một chân,
thích thú với chiếc thuyền xinh đẹp của chúng; và đoàn tàu tốc hành lạ lùng ấy
với những hành khách tí hon của nó băng băng lướt qua trước cung điện Pê-téc-
bua cũ để ra bể Ban-tích. Tôi vừa từ trong khói lửa miền Nam đến đây, lâu năm
xa Huế, và chính Lê-nin-grát đã đánh thức trong tâm hồn tôi giấc mơ lộng lẫy
của tuổi dại; ôi, tôi muốn hoá làm một con chim như đứng co một chân trên con
tàu thuỷ tinh để đi ra biển. Tôi cuống quýt vỗ tay, nhưng sông Nê-va đã chảy
nhanh quá, không kịp cho lũ hải âu nói một điều gì với người bạn của chúng
đang ngẩn ngơ trông theo. Hai nghìn năm trước, có một người Hi Lạp tên là Hê-
ra-clít, đã khóc suốt đời vì những dòng sông trôi đi quá nhanh, thế vậy! Lúc ấy,
tôi nhớ lại con sông Hương của tôi, chợt thấy quý điệu chảy lặng lờ của nó khi
ngang qua thành phố... Đấy là điệu slow tình cảm dành riêng cho huế, có thể
cảm nhận được bằng thị giác trăm qua trăm nghìn ánh hoa đăng bồng bềnh vào
những đêm hội rằm tháng Bảy từ điện Hòn Chén trôi về, qua Huế bỗng ngập
ngừng như muốn đi muốn ở, chao nhẹ trên mặt nước như những vấn vương của
một nỗi lòng.
Nhận xét về cái nhìn tài hoa mê đắm của HPNT
Đề 9: Phân tích đoạn thơ sau và nhận xét về bút pháp nghệ thuật của bài
thơ:
Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi !
Nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi.
Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi,
Mường Lát hoa về trong đêm hơi.

Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm,


Heo hút cồn mây, súng ngửi trời.

46
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống,
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi.

Anh bạn dãi dầu không bước nữa,


Gục lên súng mũ bỏ quên đời !
Chiều chiều oai linh thác gầm thét,
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người.

Nhớ ôi Tây tiến cơm lên khói,


Mai Châu mùa em thơm nếp xôi.

Đề 10: Phân tích đoạn thơ sau và làm nổi bật bút pháp lãng mạn, hào hoa
của hồn thơ Quang Dũng
“Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ

Người đi Châu Mộc chiều sương ấy


Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”
Đề 11: Phân tích đoạn thơ sau để làm nổi bật vẻ đẹp bi tráng của người
lính Tây Tiến:
“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu, anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành”
Đề 12: Phân tích bức tranh tứ bình được thể hiện trong đoạn thơ sau:
“Ta về mình có nhớ ta,
Ta về, ta nhớ những hoa cùng người
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình

47
Rừng thu trăng rọi hoà bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung”
Đề 13:Phân tích đoạn thơ sau:
“Mình đi có nhớ những ngày
Mưa nguồn suối lũ những mây cùng mù
Mình về có nhớ chiến khu
Miếng cơm chấm muối mối thu nặng vai
Mình về rừng núi nhớ ai
Trám bùi để rụng, măng mai để già
Mình đi có nhớ những nhà
Hắt hiu lau xám, độc đà lòng son
Mình về có nhớ núi non
Nhớ khi kháng Nhật thuở còn Việt Minh
Mình đi mình có nhớ mình
Tân Trào Hồng Thái mái đình cây đa”
Đề 14: Cảm nhận của anh chị về đoạn thơ sau:
“Ta với mình, mình với ta
Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh
Mình đi, mình lại nhớ mình
Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu...
Nhớ gì như nhớ người yêu
Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương
Nhớ từng bản khói cùng sương
Sớm khuya bếp lửa người thương đi về.
Nhớ từng rừng nứa bờ tre
Ngòi Thia sông Ðáy, suối Lê vơi đầy
Ta đi, ta nhớ những ngày
Mình đây ta đó, đắng cay ngọt bùi...
Thương nhau, chia củ sắn lùi
Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng
Nhớ người mẹ nắng cháy lưng
Ðịu con lên rẫy bẻ từng bắp ngô
Nhớ sao lớp học i tờ
Ðồng khuya đuốc sáng những giờ liên hoan
Nhớ sao ngày tháng cơ quan
Gian nan đời vẫn ca vang núi đèo.
Nhớ sao tiếng mõ rừng chiều
Chày đêm nện cối đều đều suối xa...”

48
Đề 15: Phân tích đoạn thơ sau :
“Nhớ khi giặc đến giặc lùng
Rừng cây núi đá ta cùng đánh Tây
Núi giăng thành lũy sắt dày
Rừng che bộ đội, rừng vây quân thù.
Mênh mông bốn mặt sương mù
Đất trời ta cả chiến khu một lòng
Ai về ai có nhớ không
Ta về ta nhớ phủ Thông, đèo Giàng
Nhớ Sông Lô, nhớ phố Ràng
Nhớ từ Cao Lạng nhớ sang Nhị Hà”

Đề 16: Cảm nhận đoạn thơ sau trong đoạn trích “Đất Nước” – Nguyễn
Khoa Điềm, sau đó nhận xét về quan niệm mới mẻ của nhà thơ về Đất
Nước.
“Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu
Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái
Gót ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại
Chín mươi chín con voi góp mình dựng Đất tổ Hùng Vương
Những con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳm
Người học trò nghèo giúp cho Đất Nước mình núi Bút, non Nghiên.
Con cóc, con gà quê hương cùng góp cho Hạ Long thành thắng cảnh
Những người dân nào đã góp tên Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm
Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi
Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha
Ôi Đất Nước sau bốn ngàn năm đi đâu ta cũng thấy
Những cuộc đời đã hoá núi sông ta...”
Đề 17:Cảm nhận đoạn thơ sau trong đoạn trích “Đất Nước” – Nguyễn
Khoa Điềm, sau đó nhận xét về quan niệm mới mẻ của nhà thơ về Đất Nước.
“Trong anh và em hôm nay
Đều có một phần Đất Nước
Khi hai đứa cầm tay
Đất Nước trong chúng mình hài hoà nồng thắm
Khi chúng ta cầm tay mọi người
Đất nước vẹn tròn, to lớn
Mai này con ta lớn lên
Con sẽ mang đất nước đi xa
Đến những tháng ngày mơ mộng
Em ơi em Đất Nước là máu xương của mình
Phải biết gắn bó san sẻ

49
Phải biết hoá thân cho dáng hình xứ sở
Làm nên Đất Nước muôn đời...”
Đề 18:Cảm nhận đoạn thơ sau trong đoạn trích “Đất Nước” – Nguyễn
Khoa Điềm:
“Đất Nước của Nhân dân, Đất Nước của ca dao thần thoại
Dạy anh biết “yêu em từ thuở trong nôi”
Biết quý công cầm vàng những ngày lặn lội
Biết trồng tre đợi ngày thành gậy
Đi trả thù mà không sợ dài lâu
Ôi những dòng sông bắt nước từ đâu
Mà khi về Đất Nước mình thì bắt lên câu hát
Người đến hát khi chèo đò, kéo thuyền vượt thác
Gợi trăm màu trên trăm dáng sông xuôi”

Đề 19: Nêu cảm nhận của anh chị về đoạn thơ sau:
Em ơi em
Hãy nhìn rất xa
Vào bốn ngàn năm Đất Nước
Năm tháng nào cũng người người lớp lớp
Con gái, con trai bằng tuổi chúng ta
Cần cù làm lụng
Khi có giặc người con trai ra trận
Người con gái trở về nuôi cái cùng con
Ngày giặc đến nhà thì đàn bà cũng đánh
Nhiều người đã trở thành anh hùng
Nhiều anh hùng cả anh và em đều nhớ
Những em biết không
Có biết bao người con gái, con trai
Trong bốn ngàn lớp người giống ta lứa tuổi
Họ đã sống và chết
Giản dị và bình tâm
Không ai nhớ mặt đặt tên
Nhưng họ đã làm ra Đất Nước
(Trích Đất Nước – Nguyễn Khoa Điềm)

Đề 20: Nêu cảm nhận của anh/chị về câu chuyện của người đàn bà
hàng chài trong đoạn trích sau:
Mong các chú cách mạng thông cảm cho, đám đàn bà hàng chài ở thuyền
chúng tôi cần phải có người đàn ông để chèo chống phong ba, để cùng làm ăn
nuôi nấng đặng một sắp con, nhà nào cũng trên dưới chục đứa. Ông trời sinh ra
người đàn bà là để đẻ con, rồi nuôi con cho đến khi khôn lớn cho nên phải gánh

50
lấy cái khổ. Đàn bà ở thuyền chúng tôi phải sống cho con chứ không thể sống
cho mình như ở trên đất được! Mong các chú lượng tình cho cái sự lạc hậu. Các
chú đừng bắt tôi bỏ nó! - Lần đầu tiên trên khuôn mặt xấu xí của mụ chợt ửng
sáng lên như một nụ cười - vả lại, ở trên chiếc thuyền cũng có lúc vợ chồng con
cái chúng tôi sống hòa thuận, vui vẻ.
- Cả đời chị có một lúc nào thật vui không? Đột nhiên tôi hỏi.
- Có chứ, chú! Vui nhất là lúc ngồi nhìn đàn con tôi chúng nó được ăn
no...
Viên chánh án huyện rời chiếc bàn xếp đến phát ngốt lên những chồng hồ
sơ, giấy má. Đẩu đi đi lại lại trong phòng, hai tay thọc sâu vào hai bên túi chiếc
quần quân phục đã cũ. Một cái gì mới vừa vỡ ra trong đầu vị Bao Công của cái
phố huyện vùng biển, lúc này trông Đẩu rất nghiêm nghị và đầy suy nghĩ.
(Trích “Chiếc thuyền ngoài xa”-Nguyễn Minh Châu, Ngữ văn 12, tập hai,
NXB Giáo dục Việt Nam, 2017, trang 76)
Phân tích nhân vật người đàn bà hàng chài qua đoạn trích trên. Từ đó
nhận xét về tư tưởng nhân đạo của nhà văn Nguyễn Minh Châu.

Đề 21: Phân tích ấn tượng lạ lùng của nhân vật Phùng trong đoạn
trích sau để thấy quan niệm của tác giả về nghệ thuật:
Không những trong bộ lịch năm ấy mà mãi mãi về sau, tấm ảnh chụp của
tôi vẫn còn được treo ở nhiều nơi, nhất là trong các gia đình sành nghệ thuật.
Quái lạ, tuy là ảnh đen trắng nhưng mỗi lần ngắm kỹ, tôi vẫn thấy hiện lên cái
màu hồng hồng của ánh sương mai lúc bấy giờ tôi nhìn thấy từ bãi xe tăng
hỏng, và nếu nhìn lâu hơn, bao giờ tôi cũng thấy người đàn bà ấy đang bước ra
khỏi tấm ảnh, đó là một người đàn bà vùng biển cao lớn với những đường nét
thô kệch tấm lưng áo bạc phếch có miếng vá, nửa thân dưới ướt sũng khuôn mặt
rỗ đã nhợt trắng vì kéo lưới suốt đêm. Mụ bước những bước chậm rãi, bàn chân
dậm trên mặt đất chắc chắn, hòa lẫn trong đám đông.
(Trích “Chiếc thuyền ngoài xa”-Nguyễn Minh Châu, Ngữ văn 12, tập hai, NXB
Giáo dục Việt Nam, 2017)
Đề 22:
Người đàn bà bỗng chép miệng, con mắt như đang nhìn suốt cả đời mình:
- Giá tôi đẻ ít đi hoặc chúng tôi sắm được một chiếc thuyền rộng hơn, từ
ngày cách mạng về đã đỡ đói khổ chứ trước kia vào các vụ bắc, ông trời làm
động biển suốt hàng tháng, cả nhà vợ chồng con cái toàn ăn cây xương rồng
luộc chấm muối... cũng nghèo khổ, túng quẫn đi vì trốn lính - bỗng mụ đỏ mặt -
nhưng cái lỗi chính là đám đàn bà ở thuyền đẻ nhiều quá, mà thuyền lại chật.

51
- Vậy sao không lên bờ mà ở - Đẩu hỏi.
- Làm nhà trên đất ở một chỗ đâu có thể làm được cái nghề thuyền lưới
vó? Từ ngày cách mạng về, cách mạng đã cấp đất cho nhưng chẳng ai ở, vì
không bỏ nghề được!
- Ở trên thuyền có bao giờ lão ta đánh chị không? - Tôi hỏi.
- Bất kể lúc nào thấy khổ quá là lão xách tôi ra đánh, cũng như đàn ông
thuyền khác uống rượu... Giá mà lão uống rượu... thì tôi còn đỡ khổ... Sau này
con cái lớn lên, tôi mới xin được với lão... đưa tôi lên bờ mà đánh...
- Không thể nào hiểu được, không thể nào hiểu được! - Đẩu và tôi cùng
một lúc thốt lên.
- Là bởi vì các chú không phải là đàn bà, chưa bao giờ các chú biết như
thế nào là nỗi vất vả của người đàn bà trên một chiếc thuyền không có đàn
ông...
- Phải, phải, bây giờ tôi đã hiểu, - bất ngờ Đẩu trút một tiếng thở dài đầy
chua chát, - trên thuyền phải có một người đàn ông... dù hắn man rợ, tàn bạo?
- Phải - Người đàn bà đáp - Cũng có khi biển động sóng gió chứ chú?
Lát lâu sau mụ lại mới nói tiếp:
- Mong các chú cách mạng thông cảm cho, đám đàn bà hàng chài ở
thuyền chúng tôi cần phải có người đàn ông để chèo chống phong ba, để cùng
làm ăn nuôi nấng đặng một sắp con, nhà nào cũng trên dưới chục đứa. Ông trời
sinh ra người đàn bà là để đẻ con, rồi nuôi con cho đến khi khôn lớn cho nên
phải gánh lấy cái khổ. Đàn bà ở thuyền chúng tôi phải sống cho con chứ không
thể sống cho mình như ở trên đất được! Mong các chú lượng tình cho cái sự lạc
hậu. Các chú đừng bắt tôi bỏ nó! - Lần đầu tiên trên khuôn mặt xấu xí của mụ
chợt ửng sáng lên như một nụ cười - vả lại, ở trên chiếc thuyền cũng có lúc vợ
chồng con cái chúng tôi sống hòa thuận, vui vẻ.
- Cả đời chị có một lúc nào thật vui không? Đột nhiên tôi hỏi.
- Có chứ, chú! Vui nhất là lúc ngồi nhìn đàn con tôi chúng nó được ăn
no...
(Trích “Chiếc thuyền ngoài xa”-Nguyễn Minh Châu, Ngữ văn 12, tập hai,
NXB Giáo dục Việt Nam, 2017, trang 76)
Cảm nhận của anh/chị về nhân vật người đàn bà hàng chài trong đoạn
trích trên, từ đó bình luận ngắn gọn về cách nhìn nhận cuộc sống và con
người của nhà văn Nguyễn Minh Châu trong tác phẩm Chiếc thuyền ngoài
xa.
Đề 23:

52
Lát lâu sau mụ lại mới nói tiếp:
Mong các chú cách mạng thông cảm cho, đám đàn bà hàng chài ở thuyền
chúng tôi cần phải có người đàn ông để chèo chống phong ba, để cùng làm ăn
nuôi nấng đặng một sắp con, nhà nào cũng trên dưới chục đứa. Ông trời sinh ra
người đàn bà là để đẻ con, rồi nuôi con cho đến khi khôn lớn cho nên phải gánh
lấy cái khổ. Đàn bà ở thuyền chúng tôi phải sống cho con chứ không thể sống
cho mình như ở trên đất được! Mong các chú lượng tình cho cái sự lạc hậu. Các
chú đừng bắt tôi bỏ nó! - Lần đầu tiên trên khuôn mặt xấu xí của mụ chợt ửng
sáng lên như một nụ cười - vả lại, ở trên chiếc thuyền cũng có lúc vợ chồng con
cái chúng tôi sống hòa thuận, vui vẻ.
- Cả đời chị có một lúc nào thật vui không? Đột nhiên tôi hỏi.
- Có chứ, chú! Vui nhất là lúc ngồi nhìn đàn con tôi chúng nó được ăn
no...
Viên chánh án huyện rời chiếc bàn xếp đến phát ngốt lên những chồng hồ
sơ, giấy má. Đẩu đi đi lại lại trong phòng, hai tay thọc sâu vào hai bên túi chiếc
quần quân phục đã cũ. Một cái gì mới vừa vỡ ra trong đầu vị Bao Công của cái
phố huyện vùng biển, lúc này trông Đẩu rất nghiêm nghị và đầy suy nghĩ.
Người đàn bà đã khóc khi nghe tôi nhắc đến thằng Phác. Nhưng tình thương
con cũng như nỗi đau, cũng như cái sự thâm trầm trong việc hiểu thấu cái lẽ đời
hình như mụ chẳng bao giờ để lộ rõ rệt ra bề ngoài. Trong cái đám con cái đông
đúc đang sống ở dưới thuyền, mụ không yêu một đứa nào bằng thằng Phác, cái
thằng con từ tính khí đến mặt mũi giống như lột ra từ cái lão đàn ông đã từng
hành hạ mụ, và không khéo sẽ còn hành hạ mụ cho đến khi chết - nếu không có
cách mạng về.
Phân tích nhân vật người đàn bà hàng chài qua đoạn trích trên. Từ đó bình
luận ngắn gọn về ý nghĩa của tình mẫu tư thiêng liêng được cảm nhận qua
nhân vật người đfan bà hàng chài của nhà văn Nguyễn Minh Châu.

 PHẦN 3: HỆ THỐNG CÂU HỎI LỆNH PHỤ (CÂU PHÂN HÓA


NÂNG CAO) TRONG PHẦN NLVH 5 ĐIỂM

TÂY TIẾN
1. Nhận xét về khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn của tác
phẩm.
2. Nhận xét về cảm hứng lãng mạn và ngòi bút tài hoa cùa nhà thơ
Quang Dũng.
3. Nhận xét về chất thép và chất trữ tình trong hình tượng người chiến sĩ
Tây Tiến.
4. Nhận xét về chất nhạc trong bài thơ.

53
5. Nhận xét về chất họa trong bài thơ.

VIỆT BẮC
1. Nhận xét về phong cách nghệ thuật của nhà thơ Tố Hữu.
2. Nhận xét về chất trữ tình trong thơ Tố Hữu.
3. Nhận xét về tính trữ tình – chính trị trong thơ Tố Hữu.
4. Nhận xét về khuynh hướng sử thi trong thơ Tố Hữu.
5. Nhận xét về cảm hứng lãng mạn trong thơ Tố Hữu.
6. (Phân tích vẻ đẹp của bức tranh tứ bình) Từ đó nhận xét về tình yêu quê
hương, đất nước của nhà thơ.

ĐẤT NƯỚC
1. Nhận xét về nghệ thuật sử dụng chất liệu văn hóa dân gian của nhà thơ.
2. Từ đó, anh/ chị hãy nêu trách nhiệm của thanh niên trong việc bảo vệ đất
nước.

SÓNG
1. Trình bày suy nghĩ về khát vọng tình yêu của tuổi trẻ.
2. Trình bày suy nghĩ về khát vọng sống được nhà thơ thể hiện trong bài
thơ.
3. Nhận xét về nét nữ tính trong thơ Xuân Quỳnh.
4. Nhận xét về sự chuyển biến trong nhận thức tình yêu của người phụ nữ.
5. Nhận xét về nét riêng trong cách thể hiện tình yêu của nhà thơ Xuân
Quỳnh.
6. Nhận xét về vẻ đẹp tâm hồn người phụ nữ trong tình yêu.
7. Nhận xét về phong cách thơ Xuân Quỳnh.

VỢ NHẶT
1. Nhận xét về nghệ thuật xây dựng nhân vật của nhà văn Kim Lân.
2. Nhận xét về cách nhìn của nhà văn về vẻ đẹp của người lao động.
3. Nhận xét về tình cảm nhân đạo của nhà văn dành cho người lao động.
4. Cảm nhận diễn biến tâm trạng của Tràng trong buổi sáng đầu tiên Tràng
có vợ, từ đó nhận xét về sự thay đổi của nhân vật.
5. (Phân tích vẻ đẹp của các nhân vật trong bữa cơm ngày đói) Từ đó chỉ ra
giá trị hiện thực của tác phẩm.
6. Nhận xét về ngòi bút của Kim Lân trong nghệ thuật khắc họa thân phận
con người.

VỢ CHỒNG A PHỦ
1. Từ việc phân tích vẻ đẹp của nhân vật Mị trong đêm tình mùa xuân, hãy
nhận xét về vai trò của các yếu tố ngoại cảnh đối với đời sống tâm hồn
con người.

54
2. (Cảm nhận về đoạn trích Mị chạy theo A Phủ ở cuối đoạn trích) Từ đó,
liên hệ tới đoạn kết truyện Chí Phèo (Nam Cao), nhận xét về kết cục của
các nhân vật trong tác phẩm trước Cách mạng và sau Cách mạng.
3. Nhận xét về khát vọng sống, khát vọng hạnh phúc của người lao động
trong xã hội cũ.
4. Làm rõ nét mới mẻ trong tư tưởng nhân đạo của tác phẩm
5. Phân tích diễn biến tâm lí nhân vật Mị sau đó nhận xét về sự thay đổi của
nhân vật
6. Nhận xét về tình cảm của nhà văn đối với Tây Bắc và người lao động
miền núi.
7. Nhận xét về nghệ thuật miêu ta diễn biến tâm lí nhân vật Mị

CHIẾC THUYỀN NGOÀI XA


1. Nhận xét về nội dung và thông điệp/tư tưởng nhân đạo nhà văn gửi gắm
trong tác phẩm.
2. Nhận xét về sự chuyển biến trong tác phẩm của nhà văn Nguyễn Minh
Châu ở hai thời kì: trước 1975 và sau 1975.
3. Nhận xét về mối quan hệ giữa nghệ thuật và đời sống.
4. Nhận xét về vai trò và sứ mệnh của người nghệ sĩ.
5. Nêu quan điểm về những phẩm chất cần có của người nghệ sĩ.
6. Nhận xét quan niệm nghệ thuật của nhà văn được thể hiện qua tác phẩm.

NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ


1. Từ việc phân tích vẻ đẹp của người lái đò, hãy nêu một vài suy nghĩ của
anh/chị về những phẩm chất cần có của mỗi người trong công cuộc xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc hôm nay.
2. Nhận xét về nét đặc sắc trong ngôn ngữ tùy bút của Nguyễn Tuân.
3. Nhận xét cái tôi tài hoa, uyên bác của nhà văn Nguyễn Tuân
4. Nhận xét về tình cảm của nhà văn
5. Phân tích vẻ đẹp của người lái đò sau đó nhận xét về cách nhìn nhận con
người của nhà văn Nguyễn Tuân

AI ĐÃ ĐẶT TÊN CHO DÒNG SÔNG


1. Nhận xét về tính trữ tình của bút kí Hoàng Phủ Ngọc Tường.
2. Nhận xét về cái tôi tài hoa mê đắm của nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường
được thể hiện trong đoạn trích.
3. Nhận xét cách nhìn mang tính phát hiện về dòng sông của nhà văn Hoàng
Phủ Ngọc Tường.
4. Nhận xét về tình cảm của nhà văn đối với xứ Huế

55
 PHẦN 4: MỘT SỐ ĐỀ NGHỊ LUẬN XÃ HỘI MỚI

1. Hãy viết đoạn văn 200 chữ trình bày suy nghĩ của anh chị về sức
mạnh của trí tuệ nhân tạo trong xã hội hiện nay?
2. Sự cần thiết phải nuôi dưỡng khát vọng sống tốt đẹp trong cuộc sống
3. Sự cần thiết phải có lối sống tích cực
4. Trình bày suy nghĩ của anh chị về giá trị của sự cần cù, chịu khó trong
lao động
5. Tầm quan trọng của sự sáng tạo
6. Sự cần thiết của việc lắng nghe trong cuộc sống?
7. Sự cần thiết phải giữ niềm tin tưởng vào những điều tốt đẹp trong cuộc
sống
8. Sự cần thiết của việc loại bỏ lối sống tiêu cực
9. Sự cần thiết phải trân trọng những điều bình dị trong cuộc sống
10.Sự cần thiết của việc được lắng nghe, thấu hiểu
11.Sự cần thiết phải thay đổi bản thân trong cuộc sống hiện nay
12.Sự cần thiết của tinh thần cống hiến cho quê hương, tổ quốc
13.Ý nghĩa của những cơ hội trong cuộc sống
14.Ý nghĩa của lối sống chân thật

56

You might also like