You are on page 1of 32

MỤC LỤC Trang

PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐỀ 2

1. Lý do chọn đề tài 2

2. Mục đích nghiên cứu 3

3. Bản chất cần được làm rõ của đề tài 4

4. Đối tượng nghiên cứu 4

5.Phương pháp viết chuyên đề 4

6. Giới hạn của chuyên đề 4

7. Phạm vi và kế hoạch của chuyên đề 4

PHẦN II: NỘI DUNG 5

1. Thực trạng việc BD HSG môn Lịch sử 5

2. Các giải pháp 5

3. Hệ thống kiến thức sử dụng trong chuyên đề 9

PHẦN III. KẾT LUẬN 24

Trang 1
BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LỊCH SỬ LỚP 9
GIAI ĐOẠN LỊCH SỬ VIỆT NAM TỪ NĂM 1919- 1930
Đinh Thị Hồng Thắng – PHT trường THCS Phúc Thắng

A. ĐẶT VẤN ĐỀ:

I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
1 CƠ SỞ LÝ LUẬN.

Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 khoá XI về đổi mới căn bản, toàn diện
giáo dục và đào tạo ( Nghị quyết số 29-NQ/TW) đã nêu rõ:
Phát triển giáo dục và đào tạo là nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi
dưỡng nhân tài. Chuyển mạnh quá trình giáo dục từ chủ yếu trang bị kiến thức sang
phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất người học. Học đi đôi với hành, lí luận
gắn liền với thực tiễn, giáo dục nhà trường kết hợp với giáo dục gia đình và giáo
dục xã hội...
Lịch sử phát triển của xã hội loài người nói chung và lịch sử dân tộc Việt
Nam nói riêng đã khẳng định vai trò của “người tài”. Họ là lực lượng khởi đầu cho
sự nghiệp phát triển kinh tế- xã hội, đem đến cho mỗi quốc gia nền văn minh, tiến
bộ không ngừng.
Ngày nay trong thời kỳ công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước, nhất là trong
nền kinh tế tri thức, vai trò của “ người tài” càng tăng lên gấp bội. Chính vì thế, bồi
dưỡng học sinh giỏi là bước đi đầu tiên để đào tạo nhân tài cho đất nước và là
nhiệm vụ quan trọng của ngành giáo dục. Công tác này được xác định là một hoạt
động mũi nhọn trong việc nâng cao dân trí, đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao
và đang được Đảng, Nhà nước cùng toàn thể xã hội đặc biệt quan tâm.
Bên cạnh các môn khoa học tự nhiên như: Toán, Lý, Hoá...thì việc dạy các
môn khoa học xã hội trong đó có môn Lịch sử đang được ngành đặc biệt chú ý. Mấy
năm gần đây thực trạng dạy và học lịch sử ở trường phổ thông đã gây ra nhiều bức
xúc, nỗi lo âu của xã hội. Điều này không chỉ được phản ánh qua điểm số các kỳ thi
tốt nghiệp phổ thông và tuyển sinh đại học, cao đẳng mà còn qua kết quả điều tra xã
hội học, qua các sân chơi truyền hình và dư luận xã hội. Mặt hạn chế nặng nề nhất
của giáo dục môn Lịch sử là đại bộ phận học sinh không thích học môn này, coi như
môn học của các sự kiện, năm tháng, môn học của trí nhớ, khô khan, nhàm chán.
2. CƠ SỞ THỰC TIỄN
Giáo sư Phan Huy Lê nói: Thế hệ trẻ lớn lên qua nền giáo dục phổ thông mà
không yêu mến lịch sử dân tộc, không có một vốn hiểu biết cần thiết về lịch sử và
văn hoá nhân loại, không có một niềm tự tin dân tộc thì làm sao có thể hoàn chỉnh

Trang 2
được phẩm chất của người công dân Việt Nam. Từ đặc điểm đó, môn Lịch sử càng
phải đặt đúng vị thế và chức năng của nó trong hệ thống giáo dục phổ thông.
Dạy học lịch sử ở trường THCS là một quá trình sư phạm, bao gồm nhiều
loại hoạt động khác nhau của giáo viên và học sinh. Những hoạt động đó nhằm mục
đích cho học sinh nắm được tri thức lịch sử, yêu thích môn học, từ đó phát triển tư
duy lịch sử, biết nhận định, đánh giá cá sự kiện lịch sử một cách khách quan, đúng
đắn.
Có rất nhiều phương pháp dạy học trong giảng dạy môn lịch sử, điều quan
trọng là giáo viên phải biết kết hợp các phương pháp giảng dạy sao cho hài hoà, phù
hợp với đối tượng học sinh, có như vậy mới tạo được hứng thú học tập, tạo lòng
đam mê, yêu thích môn học ở học sinh.
Nhưng làm thế nào để bồi dưỡng học sinh giỏi có hiệu quả, đặc biệt là đối
với môn lịch sử ?, đó là câu hỏi luôn trăn trở của các nhà quản lý và của giáo viên
trực tiếp giảng dạy bộ môn Lịch sử ở trường THCS.
Công tác bồi dưỡng học sinh giỏi văn hoá trong các nhà trường nói chung và
môn lịch sử nói riêng là vấn đề quan trọng, cơ bản, cốt lõi để nâng cao chất lượng
đào tạo, giáo dục trí lực cho học sinh; mũi nhọn học sinh giỏi ở trong mỗi nhà
trường nó đánh giá chất lượng đào tạo cơ bản để nâng cao uy tín của nhà trường và
uy tín của giáo viên giảng dạy. Tuy nhiên, do nhiều yếu tố, kết quả mang lại không
cao.
Qua thực tiễn giảng dạy bồi dưỡng học sinh giỏi bộ môn Lịch sử, bản thân tôi đã
tự rút ra những kinh nghiệm, đó có thể là những giải pháp góp phần nhỏ song hành
cùng các đồng nghiệp trong công tác bồi dưỡng học sinh giỏi lớp 9 môn Lịch sử.
II. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Mục đích của tôi viết chuyên đề này, nhằm góp phần nâng cao chất lượng
giảng dạy bộ môn Lịch sử nói chung, và góp phần nâng cao chất lượng dạy bồi
dưỡng học sinh giỏi môn Lịch sử nói riêng, tạo sự hứng thú học tập bộ môn cho các
em trong đội tuyển giúp các em nắm chắc kiến thức và kĩ năng làm bài. Đưa ra các
phương pháp bồi dưỡng học sinh giỏi có hiệu quả.
- Giúp HS dễ nhớ: Khi làm bài học sinh gặp các câu hỏi các em sẽ hiểu câu hỏi
đó thuộc dạng bài tập nào, từ đó sẽ giúp các em hiểu đề bài hơn và làm bài tốt hơn
- Giúp HS hiểu được bản chất của các câu hỏi lich sử: Hệ thống hoá kiến thức
giúp học sinh so sánh, đánh giá, lý giải vấn đề …nhờ vậy mà hiểu được Lịch sử,
phát triển tư duy logich trong nhận thức Lịch sử, giúp học sinh hiểu bài, nắm được
kiến thức cơ bản và ghi nhớ lâu hơn giúp các em học tập và khả năng làm bài tốt
hơn.

Trang 3
III. BẢN CHẤT LÀM RÕ TRONG CHUYÊN ĐỀ
Trong chuyên đề Bồi dưỡng học sinh giỏi môn Lịch sử, tôi muốn làm rõ
những vấn đề cơ bản sau:
Thực trạng việc bồi dưỡng học sinh giỏi môn Lịch sử
Các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng bồi dưỡng học sinh giỏi Sử
Hệ thống hoá kiến thức Lịch sử Việt Nam từ 1919- 1930
IV. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
Đối tượng của chuyên đề: Học sinh trường THCS Phúc Thắng( Cụ thể là học
sinh khối lớp 9).
V. PHƯƠNG PHÁP VIẾT CHUYÊN ĐỀ
Trong quá trình dạy học Lịch sử không có một phương pháp nào được coi là
vạn năng, mỗi phương pháp có thể được sử dụng hiệu quả với từng mục đích khác
nhau. Một tiết học Lịch sử giáo viên không thể chỉ dạy bằng duy nhất một phương
pháp và phải có sự kết hợp của rất nhiều các phương pháp và nhiều dạng bài tập.
- Phương pháp viết chuyên đề: + Các tài liệu, thông tin tham khảo.
+ Các tài liệu dạy học : SGK, sách giáo viên
Lịch sử.
- Phương pháp Kiểm tra đánh giá học sinh trên kết quả các bài kiểm tra để từ
đó có điều chỉnh và bổ sung hợp lí.
- Trao đổi rút kinh nghiệm qua từng dạng bài tập lịch sử thông qua dự giờ.
VI. GIỚI HẠN CỦA CHUYÊN ĐỀ
Chuyên đề bồi dưỡng học sinh giỏi Lịch sử được nghiên cứu giới hạn tại
trường trung học cơ sở Phúc Thắng- thị xã Phúc Yên - Tỉnh Vĩnh Phúc.
VII. PHẠM VI VÀ KẾ HOẠCH CỦA CHUYÊN ĐỀ.
- Phạm vi: Chuyên đề bồi dưỡng học sinh giỏi của tôi được viết trong quá trình
bồi dưỡng học sinh giỏi.
- Kế hoạch: + Bắt đầu nghiên cứu từ đầu năm học 2011-2012
+ Vận dụng trong quá trình bồi dưỡng đội tuyển học sinh giỏi
môn Lịch sử ở trường THCS Phúc Thắng

Trang 4
B. PHẦN NỘI DUNG

I. Thực trạng việc bồi dưỡng học sinh giỏi môn Lịch sử:

Trong những năm gần đây, bộ môn Lịch sử ở phòng GD-ĐT thị xã Phúc Yên
tham dự kỳ thi học sinh giỏi cấp tỉnh đạt kết quả chưa cao, mỗi năm chỉ có 3-5 em
đạt giải / 20 em dự thi, và kết quả cũng chỉ dừng lại ở giải 3 và giải KK là nhiều.
Nguyên nhân dẫn đến kết quả đó, theo tôi đó là:
Thứ nhất, giáo viên tham gia giảng dạy chưa xây dựng được một nội dung,
chương trình, giảng dạy chi tiết, phù hợp.
Thứ hai, học sinh không yêu thích môn học Lịch sử, xem đó là môn phụ, là
môn thi của những người không được học khối A,B,D, là môn của những người học
thuộc lòng. Và đã là môn phụ thì rất khó để học sinh quan tâm học hành tử tế. Thực
tế những em tham dự môn học là những em “ không sắc”, hơn nữa, gia đình các em
không muốn con mình tham gia dự thi môn học này. Theo như lời một phụ huynh
nói thì đó là môn phụ, không giúp gì cho cháu thi vào cấp 3 và thi đại học, chúng tôi
chỉ muốn cháu học : Toán, Lý, Hoá, Ngoại ngữ thôi....
Thứ ba, các em chưa biết cách học môn Lịch sử, chỉ biết học thuộc lòng, “
học vẹt”, bởi vậy kiến thức nhớ không lâu, không hiểu bản chất sự việc. Người học
tiếp nhận kiến thức một cách thụ động, máy móc.
Thứ tư, các em chưa biết cách làm bài môn lịch sử. Nhiều em làm bài theo ý,
gạch đầu dòng như cách ghi thông thường trên bảng của các thầy cô dạy trên lớp.
Chưa biết phân tích, đánh giá sự kiện lịch sử. Chưa biết tổng hợp, chọn lọc kiến
thức cho các câu hỏi mang tính khái quát...
Thứ năm, trong quá trình giảng dạy, giáo vên chưa kiểm tra thường xuyên để
biết được sự tự học của các em. Giáo viên chưa dạy các em kỹ năng trình bày, phân
tích , đánh giá các sự kiên lịch sử mình đang học, chưa giúp các em biết tự đặt ra
các câu hỏi cho những nội dung mình tiếp cận.
Thứ sáu, BGH nhà trường chưa thực sự vào cuộc, chưa có những giải pháp
đồng bộ để nâng cao chất lượng bồi dưỡng học sinh giỏi.
Từ thực tế đó, tôi đưa ra các giải pháp để chúng ta cùng thảo luận.
II. Các giải pháp

a. Đối với Ban giám hiệu:


- BGH các nhà trường cần chỉ đạo lấy phương châm chất lượng giáo dục đại
trà là nền tảng để nâng cao chất lượng mũi nhọn.
- Phân công chuyên môn, phân công GV dạy đội tuyển một cách hợp lý, lựa
chọn giáo viên có năng lực chuyên môn vững vàng, có kinh nghiệm, tinh thần trách

Trang 5
nhiệm, cố gắng phân công theo hướng ổn định để phát huy kinh nghiệm của giáo
viên .
- Phát hiện và xây dựng nguồn HSG bắt đầu từ lớp 8.
- Tạo mọi điều kiện cho giáo viên tham gia các lớp học tập nâng cao trình
độ chuyên môn nghiệp vụ.
- Có những chế độ động viên, khuyến khích khen thưởng đối với giáo viên
và học sinh tham gia bồi dưỡng học sinh giỏi. Động viên khuyến khích thầy dạy
cho học sinh giỏi và học sinh thi học sinh giỏi đạt kết quả cao, kết hợp hài hoà giữa
động viên tinh thần với những biện pháp khuyến khích lợi ích vật chất. Nguồn kinh
phí cho công tác này được huy động từ nhiều nguồn: Ngân sách của nhà nước, xã
hội hóa...
- Tổ chức khảo sát các đội tuyển vào các thời điểm thích hợp.
b. Đối với giáo viên dạy bồi dưỡng.
Muốn có HSG phải có Thầy giỏi và tâm huyết với nghề, vì thế người thầy
phải luôn luôn có ý thức tự rèn luyện, tích lũy tri thức và kinh nghiệm, trau dồi
chuyên môn, luôn xứng đáng là “người dẫn đường tin cậy” cho học sinh noi theo.
Phải thường xuyên tìm tòi các tư liệu, có kiến thức nâng cao trên các phương tiện,
đặc biệt là trên mạng internet. Lựa chọn trang Web nào hữu ích nhất, tiện dụng
nhất, tác giả nào hay có các chuyên đề hay, khả quan nhất để sưu tầm tài liệu…
người thầy phải luôn trăn trở, tìm ra các phương pháp dạy học thích hợp;…
Thứ nhất, Về chương trình bồi dưỡng:
- GV dạy bồi dưỡng phải xây dựng chương trình cho toàn bộ đợt bồi
dưỡng một cách cụ thể, chi tiết. Trên cơ sở đó, phân bố thời gian hợp lý cho
từng buổi dạy, tiết dạy.
- Xác định rõ kiến thức cơ bản, kiến thức trọng tâm, kiến thức nâng cao mở
rộng ở từng bài, từng chương, từng phần…để có kế hoạch giảng dạy, phương pháp
giảng dạy phù hợp.
- Xây dựng giáo án cụ thể cho từng tiết dạy, giáo án phải tập trung chú trọng
nâng cao kiến thứ bộ môn, mở rộng kiến thức, nhưng phải hệ thống, giúp học sinh
dễ nhớ, dễ hiểu, dễ vận dụng trong làm bài. Xây dựng giáo án có vai trò hết sức
quan trọng, thể hiện nội dung xuyên suốt trong cả quá trình bồi dưỡng.
Thứ hai, về việc dạy bồi dưỡng (Đây là quá trình quan trọng nhất)
Học sinh được lựa chọn tham gia vào đội tuyển HSG là những em có những
phẩm chất đạo đức và năng lực trí tuệ hơn học sinh khác. Chính vì thế, những học
sinh này cần được tổ chức dạy học đặc biệt sao cho nhịp độ giảng dạy được cao
hơn, nội dung giảng dạy cao hơn, phương pháp giảng dạy đặc biệt hơn, để các em
được học tập, làm việc, phát triển hết khả năng của mình. Người giáo viên phải làm
được:
Giúp học sinh thực sự yêu thích học bộ môn Lịch sử

Trang 6
Đây là vấn đề khó khăn nhất của mỗi giáo viên đứng lớp. Làm sao để học
sinh thực sự yêu thích môn học của mình, làm sao giáo viên truyền được lòng đam
mê học tập cho học sinh?
Dạy sử không đơn thuần là sự truyền đạt kiến thức một chiều, càng không
phải là áp đặt những khuôn sáo có sẵn…mà là sự đối thoại hai chiều giữa thầy cô
giáo với học sinh để lớp trẻ đi vào môn Lịch sử một cách năng động, thích thú và
thoải mái. Người thầy không đơn thuần chỉ là người truyền đạt kiến thức cho học
sinh, mà thầy còn là người giúp đỡ, động viên học sinh, gần gũi, tìm hiểu tâm tư
của các em trong cuộc sống. Đặc biệt, Thầy cần biết khéo léo, động viên, khích lệ
các em trong giờ học. Trong quá trình giảng dạy, nên kết hợp nhiều phương pháp,
kết hợp kể 1 số câu chuyện về Lịch sử để giờ học đỡ khô khan, không nhàm chán.
Giáo viên cần khéo léo động viên để gắn trách nhiệm của các em cũng là cách để
các em thêm yêu thích môn học. Hãy cho các em thấy rằng mình là niềm tự hào,
niềm tin tưởng của gia đình, dòng họ, của thầy cô, bạn bè, của nhà trường của
Phòng, Sở…
Giúp các em phương pháp học tập bộ môn Lịch sử
Hầu hết học sinh khi học môn Lịch sử đề cố gắng học thuộc lòng và nhớ
từng sự kiện mà không có khả năng phân tích, khái quát, nhìn nhận sự kiện lịch sử
trong bối cảnh thời đại, từ đó thấy rõ bản chất, nguyên nhân và mối liên hệ của các
sự kiện để hệ thống hoá vấn đề cho dễ nhớ các sự kiện điển hình, tiêu biểu của mỗi
giai đoạn lịch sử, không sa đà vào chi tiết vụn vặt. Học Lịch sử phải hiểu được bản
chất vấn đề, tránh lối “học vẹt”. Chính vì thế học sử tuyệt đối không phải là thuộc
lòng các năm tháng, sự kiện, tên tuổi, nhân vật cùng với những con số khô cứng…
mà là hiểu biết một cách thông minh những diễn biến cơ bản của Lịch sử, thấm
nhuần một cách hứng thú những giá trị tiêu biểu của Lịch sử và văn hoá, xây dựng
tư duy Lịch sử.
Phương pháp học bắt đầu từ cách ghi vở. Ghi vở, học sinh chỉ cần ghi những
ý chính, trọng tâm, ghi những sự kiện cơ bản, còn giành thời gian để nghe giảng, để
hiểu, để hỏi lại thầy những vấn đề mình chưa rõ…
Bên cạnh đó, việc tự học của các em là vô cùng quan trọng. Giáo viên phải
hướng dẫn các em cách tự học ở nhà. Không nên “học vẹt” mà phải nắm vững
những kiến thức lịch sử chính ở từng bài, từng chương, từng giai đoạn, sau đó mới
liên hệ với các sự kiện khác có liên quan. Phải phân biệt được đâu là sự kiện chính?
Sự kiện đó nằm trong bối cảnh lịch sử nào diễn ra như thế nào? kết thúc ra sao? Có
tác dụng gì?....
Hướng dẫn các em làm bài thi môn lịch sử
Dạy học sinh giỏi cần phải dạy và rèn luyện kỹ năng làm bài. Kỹ năng làm
bài thi của HS có có nhiều hạn chế, vì vậy GV phải là người hướng dẫn, rèn luyện
cho HS cách làm bài, trình bày bài thi một cách khoa học. Việc làm này phải được
tiến hành thường xuyên, liên tục

Trang 7
Kỹ năng làm bài thi là một yêu cầu quan trọng trong quá trình bồi dưỡng.
Học sinh phải đọc qua tất cả các câu hỏi trong đề ra trước khi làm bài.
Trước khi làm bài nên ghi dàn ý.
Bài thi môn lịch sử cần chú ý:
+ Phần mở bài ( Có thể sử dụng hoàn cảnh lịch sử để mở bài), lưu ý không
nên quá dài dòng, chỉ cần vài câu, đủ ý để dẫn dắt vào nội dung.
+ Phần thân bài: Đây là phần trọng tâm câu trả lời. Dựa trên cơ sở những ý
cơ bản đã vạch ra học sinh tập trung liên hệ những kiến thức đã học, đã nắm được
và học sinh sử dụng phương pháp liên kết câu, liên kết đoạn văn để làm bài. Đây là
phần cơ bản nhất, học sinh cần đưa ra đầy đủ các kiến thức mà đề yêu cầu, đồng
thời phải có sự đánh giá, liên hệ thực tế.
+ Phần kết luận: Tóm tắt ý nghĩa, tác dụng của phần thân bài để làm kết luận.
Phần kết luận không cần dài dòng. (Có thể dùng phần kết quả, ý nghĩa, bài học kinh
nghiệm cho phần kết luận)
Lưu ý: Chọn câu dễ làm trước, Tuy nhiên trong kỳ thi HSG môn Lịch sử
khuyến khích làm các câu hỏi theo tiến trình lịch sử. Câu nào sự kiện trước thì làm
trước.
Phải tập trung vào làm bài, nhưng cần phân bố thì gian hợp lý. Cố gắng làm
hết các câu hỏi trong đề thi. Tuy theo từng câu để phân bố thời gian cho phù hợp.
Cuối giờ nên để giành khoảng 10 phút để đọc lại bài trước khi nộp.
Thường xuyên kiểm tra sự tự học ở nhà.
Sau mỗi buổi học, giáo viên dạy bồi dưỡng cần đưa ra các câu hỏi, những bài
tập yêu cầu học sinh học bài, làm bài ở nhà. Hôm sau giáo viên giành khoảng thời
gian 30 phút để kiểm tra lại việc học của học sinh.( GV nắm được học sinh học như
thế nào? học đến đâu? Đồng thời giáo viên kiểm tra được cách diễn đạt của học
sinh, từ đó có phương pháp uốn nắn kịp thời). Với mỗi bài kiểm tra của học sinh,
thầy cần chấm kỹ phát hiện những cái mới, hay mang tính sáng tạo, đồng thời cũng
phát hiện những điểm sai, bỏ sót về kiến thức, cách trình bày. Sau đó trả bài và
chữa cẩn thận lại từng câu hỏi, các lỗi sai phổ biến cho học sinh.
Tăng cường hướng dẫn học sinh biết sử dụng sách giáo khoa, học sinh phải
hiểu và khai thác hết kiến thức có trong sách giáo khoa
Giáo viên cần sưu tầm các dạng câu hỏi, các dạng đề thi của các năm
trước, của các đơn vị bạn để học sinh tham khảo
Mỗi nội dung lịch sử, người ra đề có thể hỏi bằng nhiều cách hỏi khác nhau,
trong quá trình giảng dạy sau mỗi nội dung, giáo viên nên đặt câu hỏi cho học sinh
trả lời, đồng thời giáo viên nên tập cho học sinh cách đặt ra các câu hỏi theo ý của
mình và hướng trả lời các câu hỏi đó. Có như vậy các em tự phải tư duy và chắc
chắn sẽ nhớ kiến thức một cách lâu hơn.

Trang 8
III. Hệ thống kiến thức sử dụng trong chuyên đề: Giai đoạn lịch sử
1919- 1930.
Trong mỗi giai đoạn lịch sử, người giáo viên cần xác định rõ kiến thức trọng
tâm, kiến thức mở rộng, nâng cao để có phương pháp giảng dạy phù hợp. Trong
giai đoạn 1919- 1930 của Lịch sử Việt Nam, tôi có thể đưa ra 1 số dạng câu hỏi cụ
thể như sau:
1. Kiến thức trọng tâm:
+ Việt Nam sau chiến tranh thế giới thứ nhất.
+ Phong trào cách mạng Việt Nam sau chiến tranh thế giới thứ nhất ( 1919-
1925).
+ Hoạt động của Nguyễn Ái Quốc ở nước ngoài ( 1919- 1925).
+ Cách mạng Việt Nam trước khi Đảng Cộng sản ra đời.
+ Đảng cộng sản Việt Nam ra đời.
2.Kiến thức nâng cao
+Cuộc khai thác thuộc địa của thực dân Pháp có ảnh hưởng tới nền kinh tế,
chính trị, xã hội ở Việt Nam như thế nào?
+ Căn cứ vào đâu để khẳng định phong trào công nhân nước ta phát triển lên
1 bước cao hơn sau chiến tranh thế giới thứ nhất? Cuộc bãi công Ba Son ( 8.1925)
có điểm gì mới trong phong trào công nhân nước ta sau chiến tranh thế giới thứ
nhất? Vị trí của phong trào công nhân đối với việc thành lập Đảng cộng sản VN?
+ Vai trò của Nguyễn Ái Quốc với sự ra đời của Hội Việt Nam cách mạng
thanh niên
+Vai trò của Nguyễn Ái Quốc với sự thành lập Đảng cộng sản Việt Nam

3. Những định hướng cơ bản ( Hướng dẫn trả lời các câu hỏi trong giai
đoạn 1919- 1930)
Câu 1: Hoàn cảnh lịch sử, mục đích khi Pháp tiến hành khai thác thuộc
địa lần thứ 2 ở VN.
* Hoàn cảnh lịch sử
- Chiến tranh thế giới thứ nhất kết thúc, Pháp tuy là nước thắng trận nhưng
Pháp bước ra khỏi cuộc chiến tranh với những tổn thất nặng nề:
+ Nhiều ngành sản xuất bị đình trệ, hoạt động thương mại sa sút nghiêm
trọng
+ Pháp trở thành con nợ lớn ( trước hết là của Mỹ) số nợ quốc gia năm 1920
lên tới 300 tỉ phơ răng.
- Chiến tranh tiêu huỷ hàng triệu phơ răng đầu tư của Pháp vào nước ngoài.

Trang 9
- Cách mạng tháng Mười Nga thành công, thị trường lớn nhất của Pháp tại
châu Âu không còn
- Nạn lạm phát, giá cả leo thang, đời sống nhân dân khổ cực…
* Mục đích
- Để nhanh chóng hàn gắn vết thương chiến tranh và khôi phục kinh tế, chính
quyền thực dân Pháp một mặt ra sức tìm các biện pháp thúc đẩy sản xuất ở trong
nước.
- Mặt khác tăng cường đầu tư khai thác, trước hết là ở Đông Dương và Châu
Phi thuộc địa
Câu 2: Nêu qui mô (nội dung), hậu quả của chính sách cai trị và chương
trình khai thác thuộc địa của Pháp ở VN sau chiến tranh thế giới thứ nhất.
* Thời gian: Đợt khai thác thuộc địa lần thứ hai của thực dân Pháp chính
thức được triển khai từ sau đại chiến thế giới thứ nhất và kéo dài cho đến trước
cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới ( 1929- 1933) tức là khoảng 10 năm.
* Mục tiêu: Bòn rút thuộc địa, làm giàu cho chính quốc, không cho thuộc địa
có cơ hội cạnh tranh với chính quốc.
* Cơ cấu vốn đầu tư:
+ Trước chiến tranh TG thứ nhất: Chủ yếu là vốn đầu tư của tư bản nhà nước
+ Trong cuộc khai thác thuộc địa lần thứ 2: Chủ yếu là vốn đầu tư của tư bản
tư nhân.
* Cường độ: Cuộc khai thác diễn ra với cường độ mạnh. Riêng 6 năm 1924-
1929, tổng số vốn đầu tư của Pháp vào Đông Dương tăng 6 lần so với 20 năm trước
chiến tranh
+ Khai thác thuộc địa lần1: Khai khoáng ở vị trí số 1
+ Khai thác thuộc địa lần 2: Nông nghiệp ở vị trí số 1
a. Qui mô:
- Về nông nghiệp: Thực dân Pháp tăng cường đầu tư vốn vào nông nghiệp,
mà trọng tâm là cao su. Diện tích trồng cao su tăng từ 15 ngàn héc ta năm 1918 lên
120 ngàn ha năm 1930. Nhiều công ti cao su lớn ra đời: Công ty Đất đỏ, công ti Mi
sơ lanh, công ti Cây nhiệt đới…( 1924: Vốn bỏ vào nông nghiệp 52 triệu Prăng;
1927 vốn bỏ vào nông nghiệp: 400 triệu Prăng)
- Về khai thác mỏ: Thực dân Pháp tăng cường khai thác mỏ, chủ yếu là mỏ
than, nhiều công ti than mới nối tiếp nhau ra đời: Công ti than Hạ Long- Đồng
Đăng, công ti than và kim khí Đông Dương, Công ti than Tuyên quang, Công ti
than Đông Triều…

Trang 10
( 1911: 6vạn ha; 1930: 43 vạn ha)
-Về công nghiệp: Chỉ đầu tư vào công nghiệp nhẹ, không đầu tư vào công
nghiệp nặng để nền kinh tế phát triển không cân đối, phụ thuộc vào chính quốc.
- Thương nghiệp: Phát triển hơn.
+ Đánh thuế nặng vào hàng các nước nhập vào Việt Nam trước đây: Trung
Quốc, Nhật bản…
+ Hàng hoá Pháp nhập vào Việt Nam tăng.
( Trước chiến tranh: hàng hoá của Pháp nhập vào Đông Dương: 37%
1929- 1930: hàng hoá của Pháp nhập vào Đông Dương: 63% )
- Về GTVT: Đầu tư vào đường sắt xuyên Đông Dương và 1 số đoạn cần thiết
+ Đồng Đăng- Na Sầm (1922)
+ Vinh- Đông Hà( 1927)
- Về ngân hàng: Ngân hàng Đông Dương nắm mọi huyết mạch kinh tế, độc
quyền phát hành đồng bạc
- Thuế: Tăng cường bóc lột bằng thuế má( thuế ruộng đất, thuế thân, thuế
rượu, thuế muối, thuế thuốc phiện và trăm thứ thuế khác).
Tính đổ đồng đầu người: Mỗi người dân Việt Nam đóng 8 đồng tiền thuế -
tương đương 70 kg gạo trắng hạng nhất lúc bấy giờ.
Ngoài ra Pháp còn bắt nhân dân ta mua công trái, quốc trái lấy tiền xây dựng
các công trình công cộng, phục vụ nhu cầu quân sự. Riêng công trái phát hành
trong những năm khủng hoảng kinh tế đã thu về cho chính quyền thực dân 150
triệu đồng.
b. hậu quả: Chương trình khai thác lần thứ hai ở Việt Nam của Thực dân
Pháp, tấn công qui mô lớn và toàn diện vào nước ta biến nước ta thành thị trường
tiêu thụ hàng hoá ế thừa và thị trường đầu tư tư bản có lợi cho chúng. Kinh tế Việt
Nam chuyển biến: có nhiều ngành, nhiều lĩnh vực đó là nền kinh tế mất cân đối,
què quặt, phát triển không đồng đều giữa kinh tế nông nghiệp, công nghiệp và giữa
các vùng miền của đất nước. Với chương trình khai thác lần này, kinh tế xã hội và
văn hoá giáo dục biến đổi sâu sắc.
* Em có nhận xét gì về chính sách khai thác thuộc địa lần thứ hai của
hực dân Pháp so với lần thứ nhất?
Điểm mới trong chương trình khai thác lần thứ 2 so với trước là tăng cường
đầu tư vốn, kỹ thuật vào mở rộng sản xuất để kiếm lời. Tuy nhiên, về cơ bản chính
sách khai thác thuộc địa của thực dân Pháp không thay đổi so với trước kia: vẫn
hạn chế công nghiệp phát triển, đặc biệt là công nghiệp nặng; tăng cường thủ đoạn

Trang 11
bóc lột vơ vét tiền của của nhân dân ta bằng cách đánh thuế nặng như: Thuế ruộng
đất, thuế thân, thuế rượu, thuế thuốc phiện và hàng trăm thứ thuế khác.
c. Các chính sách chính trị, văn hoá, giáo dục:
Sau chiến tranh thế giới thứ nhất, chính sách cai trị của Pháp ở Việt Nam
không hề thay đổi. Mọi quyền hành đều bị thâu tóm trong tay người Pháp
Vua Nam là bù nhìn, tay sai
Nhân dân không được hưởng quyền tự do dân chủ.
Mọi hành động yêu nước bị đàn áp, khủng bố dã man.
* Về chính trị:
- Chúng thực hiện chính sách “ chia để trị”.
- Chúng chia Việt Nam thành 3 kì: Bắc kỳ, Trung kì, Nam kì với 3 chế độ
khác nhau.
- Chúng chia rẽ giữa các dân tộc đa số và thiểu số.
- Chúng chia rẽ tôn giáo.
- Lợi dụng bọn đế quốc, phong kiến để củng cố quyền uy.
* Về Văn hoá- Giáo dục
- Thực hiện chính sách văn hoá nô dịch
- Khuyến khích các hoạt động mê tín dị đoan, tệ nạn xã hội
- Hạn chế mở trường học.
- Sách báo được xuất bản công khai ( dùng để tuyên truyền chính sách “khai
hoá” của thực dân)
Câu 3: Sự phân hoá giai cấp trong xã hội Việt Nam, thái độ chính trị,
khả năng cách mạng của từng giai cấp sau chiến tranh thế giới thứ nhất? Vì
sao giai cấp công nhân nắm quyền lãnh đạo ở nước ta?
a. Sự phân hoá giai cấp trong xã hội Việt Nam, thái độ chính trị, khả
năng cách mạng của từng giai cấp sau chiến tranh thế giới thứ nhất
* Giai cấp phong kiến:
- Câu kết chặt chẽ với thực dân Pháp .
- Chiếm đoạt ruộng đất của nông dân.
- Tăng cường áp bức bóc lột.
Nhìn chung giai cấp phong kiến là đối tượng của cách mạng ( trừ 1 bộ phận
nhỏ yêu nước).

Trang 12
* Giai cấp tư sản: Ra đời sau chiến tranh thế giới lần thứ nhất, phần đông
trong số này là những tiểu chủ đứng trung gian làm thầu khoán, cung cấp nguyên
liệu, vật liệu hay đại lý hàng hoá cho tư bản Pháp, khi kiếm được số vốn khá họ
đứng ra kinh doanh riêng và trở thành những nhà tư sản như: Bạch Thái Bưởi,
Nguyễn Hữu Thu…giai cấp tư sản Việt Nam phân hoá thành hai bộ phận:
- Tầng lớp tư sản mại bản, có quyền lợi gắn chặt với đế quốc – là đối tượng
của cách mạng.
- Tầng lớp tư sản dân tộc, kinh doanh độc lập, thái độ chính trị cải lương dễ
thoả hiệp.
* Tầng lớp tiểu tư sản: hình thành sau chiến tranh thế giới thứ nhất, tăng
nhanh về số lượng, họ bị thực dân bạc đãi, chèn ép, khinh miệt, đời sống bấp bênh
dễ bị xô đẩy vào con đường phá sản, thất nghiệp.
Quan trọng nhất là tầng lớp TTS trí thức, họ hăng hái cách mạng, tíêp thu
những tư tưởng văn hoá mới, là lực lượng quan trọng của cách mạng dân tộc dân
chủ.
* Giai cấp nông dân
- Chiếm 90% dân số.
- Bị thực dân Pháp và phong kiến áp bức nặng nề.
- Bị bần cùng hoá không lối thoát.
- Họ là lực lượng cách mạng hùng hậu.
* Giai cấp công nhân:
- Ra đời ngay trước chiến tranh, trong thời kì khai thác thuộc địa lần thứ nhất
của thực dân Pháp, phát triển nhanh trong thời kỳ khai thác thuộc địa lần thứ 2 cả
về số lượng và chất lượng, sống tập trung ở các đô thị và khu công nghiệp.
- Có đặc điểm chung của giai cấp công nhân TG và có đặc điểm riêng:
+ Chịu 3 tầng lớp áp bức: Đế quốc, Phong kiến, Tư sản.
+ Kế thừa truyền thống yêu nước.
+ Gần gũi với nông dân.
- Nhanh chóng nắm quyền lãnh đạo cách mạng.
* Tác động của cuộc khai thác tới xã hội Việt Nam?:
Cuộc khai thác thộc địa lần thứ 2 của Pháp làm cho xã hội Việt Nam có sự
phân hoá ngày càng sâu sắc. Các giai cấp cũ ( địa chủ phong kiến và nông dân)
phân hoá sâu sắc hơn. Những tầng lớp xã hội mới nảy sinh trong cuộc khai thác
thuộc địa lần thứ nhất ( TS, TTS) phát triển hơn; Giai cấp công nhân trưởng thành
từ tự phát sang tự giác.

Trang 13
Mỗi giai cấp, tầng lớp trong xã hội có địa vị và quyền lợi khác nhau nên
cũng có thái độ chính trị khác nhau trong cuộc đấu tranh dân tộc và đấu tranh giai
cấp đang phát triển, trong đó TTS trở thành 1 lực lượng quan trọng của cách mạng,
cùng với giai cấp công nhân, nông dân là động lực chính trong cuộc cách mạng dân
tộc, dân chủ ở nước ta. Bên cạnh đó 1 số bộ phận khác là tư sản dân tộc; trung, tiểu
địa chủ cũng là những lực lượng cách mạng có thể tranh thủ, lôi kéo. Ngược lại, bộ
phận TS mại bản và địa chủ có quyền lợi gắn liền với đế quốc thực dân trở thành
đối tượng cách mạng, kẻ thù của nhân dân.
b.Vì sao giai cấp công nhân nắm quyền lãnh đạo ở nước ta?
- Họ là những người bị bóc lột nặng nề nhất, chịu 3 tầng áp bức: Đế quốc,
phong kiến, tư sản.
- Họ gần gũi với nông dân, họ sinh ra trong 1 dân tộc có truyền thống yêu
nước chống giặc ngoại xâm để bảo vệ độc lập.
- Họ ra đời khi phong trào cách mạng dâng lên cao, nội bộ thống nhất, không
bị chủ nghĩa cơ hội lũng đoạn.
- Họ đại diện cho lực lượng sản xuất tiên tiến có ý thức kỷ luật cao, sống tập
trung trong các đồn điền và khu công nghiệp.
- Họ có tinh thần cách mạng cao, tiếp thu chủ nghĩa Mác- Lê Nin nhanh, giai
cấp công nhân tuy tuổi đời ít, số lượng chưa nhiều song là giai cấp triệt để cách
mạng nhất.

Câu 4: Những nét chính của phong trào dân tộc dân chủ trong những
năm 1919- 1925 ở Việt Nam. Những ưu điểm, hạn chế, tác dụng của những
phong trào đó.
1. Hoàn cảnh lịch sử:
- Sau chiến tranh thế giới thứ nhất, tình hình thế giới có nhiều ảnh hưởng
thuận lợi đối với cách mạng Việt Nam đặc biệt là ảnh hưởng của cách mạng tháng
Mười Nga và phong trào cách mạng thế giới.
- Phong trào giải phóng dân tộc phương Đông và phong trào công nhân
phương Tây gắn bó mật thiết với nhau trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù chung là
chủ nghĩa đế quốc.
- Phong trào cách mạng lan rộng khắp thế giới.
- 3.1919 Quốc tế cộng sản ra đời; 1920 đảng Cộng sản Pháp ra đời, 1921
đảng Cộng sản Trung Quốc thành lập….tạo điều kiện chủ nghĩa Mác- Lê Nin
truyền bá vào Việt Nam.
2. Phong trào dân tộc dân chủ công khai 1919- 1925.

Trang 14
* Khái quát: Sau chiến trang thế giới thứ nhất, phong trào dân tọc dân chủ ở
nước ta phát triển mạnh thu hút nhiều tầng lớp tham gia với những hình thức phong
phú.
* Phong trào của giai cấp Tiểu tư sản dân tộc (TSDT)
- Tư sản Việt Nam tổ chức tẩy chay Tư sản Hoa kiều, vận động người Việt
chỉ mua hàng của người Việt Nam:
+ Phong trào đòi chấn hưng nội hoá, bài trừ ngoại hoá ( 1919).
+ 1923 địa chủ và Tư sản Việt Nam đấu tranh chống độc quyền cảng SG, độc
quyền xuất cảng lúa gạo tại Nam kì của tư bản Pháp.
+ Muốn vươn lên dùng báo chí để bênh vực quyền lợi cho giai cấp mình.
+ Trong đấu tranh họ đã thành lập Đảng Lập Hiến ( 1923) để tập hợp lực
lượng, rồi đưa ra khẩu hiệu đòi tự do dân chủ để tranh thủ sự ủng hộ của quần
chúng nhằm gây áp lực với Pháp, nhưng đảng này khi được Pháp nhược bộ một số
quyền lợi thì lại thoả hiệp với chúng.
* Phong trào của TTS trí thức:
- Mục tiêu: Chống cường quyền áp bức, đòi tự do dân chủ
- Trong đấu tranh, các tổ chức chính trị xuất hịên: Việt Nam nghĩa đoàn, Hội
phục Việt, Đảng Thanh niên…
- Nhiều tờ báo “ Chuông rè”, “ An nam trẻ”, “ Người nhà quê” ra đời. Lập ra
những nhà xuất bản tiến bộ “ Cường học thư xã”, “Nam Đồng thư xã”.
- Tháng 6.1924 tiếng bom Sa điện của Phạm Hồng Thái báo hiệu 1 thời kỳ
đấu tranh mới bắt đầu.
- Phong trào đòi thả Phan Bội Châu ( 1925).
- Phong trào đồi để tang Phan Châu Trinh (1926).
3.Ưu điểm, tác dụng và hạn chế của phong trào
* Ưu điểm và tác dụng:
- Thức tỉnh lòng yêu nước.
- Truyền bá tư tưởng dân tộc, dân chủ, tư tưởng cách mạng mới trong nhân
dân.
* Hạn chế (Giải thích vì sao các phong trào yêu nước theo khuynh
hướng dân chủ tư sản thời kỳ này lại thất bại nhanh chóng) ?
Phong trào của Tư sản còn mang tính chất cải lương dễ thoả hiệp. Bởi vì họ
yếu về thế lực kinh tế, bạc nhược về chính trị, họ đấu tranh chủ yếu nhằm thoả mãn
những yêu cầu tối thiểu về quyền tự do dân chủ, quyền bình đẳng trong kinh doanh

Trang 15
và hoạt động chính trị với tư bản Pháp nhưng sẵn sàng thoả hiệp với với Pháp khi
được chúng nhược cho 1 số quyền lợi.
- Phong trào của TTS còn ấu trĩ, xốc nổi ( chưa có chính Đảng).
Câu 5: Trình bày sự phát triển của phong trào công nhân VN từ 1919-
1925? Tại sao nói cuộc bãi công của thợ máy Ba Son có ý nghĩa lớn nhất trong
phong trào công nhân VN từ 1919- 1925?
a. Sự phát triển của phong trào công nhân
* Bối cảnh:
- Những năm đầu sau chiến tranh, tuy phong trào đấu tranh còn lẻ tẻ, tự phát
nhưng ý thức giai cấp cao hơn.
- Ảnh hưởng của phong trào thuỷ thủ Pháp và Trung Quốc làm việc ở các
cảng lớn của Trung Quốc.
- 1920 công hội bí mật ra đời ở Sài Gòn lãnh đạo đấu tranh ( Cụ Tôn Đức
Thắng đứng đầu).
* Diễn biến:
- 1922 Công nhân Bắc kỳ đấu tranh đòi nghỉ ngày chủ nhật thắng lợi.
- 1924: Nhiều cuộc bãi công nổ ra ở hội nghị, Nam Định, Hải Dương…
- Tháng 8.1925: Phong trào đấu tranh của công nhân Ba Son ( Sài Gòn). Đây
là mốc đánh dấu phong trào công nhân Việt Nam bước đầu chuyển từ “ Tự phát”
sang “ tự giác”
b. Cuộc bãi công của thợ máy Ba Son có ý nghĩa lớn nhất trong phong
trào công nhân VN 1919- 1925.
Trong phong trào công nhân nước ta sau chiến tranh thế giới thứ nhất từ
1919- 1925 cuộc bãi công của thợ máy Ba Son ( 8.1925) có ý nghĩa rất lớn bởi
công nhân Ba Son đấu tranh không chỉ vì quyền lợi của mình mà còn thể hiện tình
đoàn kết với công nhân và nhân dân lao động Trung Quốc. Phong trào này thắng
lợi đã đánh dấu 1 bước tiến mới của phong trào công nhân Việt Nam. Phong trào đã
có tổ chức và mục đích chính trị rõ ràng. Nó là mốc đánh dấu cho phong trào công
nhân Việt Nam bước đầu chuyển từ “ tự phát “ sang “ tự giác”.
Câu 6: Căn cứ vào đâu để khẳng định phong trào công nhân nước ta
phát triển lên 1 bước cao hơn sau chiến tranh thế giới thứ nhất? Cuộc bãi công
Ba Son ( 8.1925) có điểm gì mới trong phong trào công nhân nước ta sau chiến
tranh thế giới thứ nhất? Vị trí của phong trào công nhân đối với việc thành
lập Đảng cộng sản Việt Nam?
a. Căn cứ:

Trang 16
- Qua các cuộc đấu tranh cụ thể nổ ra từ bắc chí nam và mục đích đấu tranh
cho thấy ý thức giai cấp của phong trào công nhân đang phát triển nhanh chóng,
phong trào phát triển sôi nổi hơn.
- Có tổ chức hơn “ công hội” bí mật ( Sài Gòn).
- Chuyển từ đấu tranh kinh tế sang kết hợp giữa đấu tranh kinh tế và đấu
tranh chính trị.
b. Điểm mới của cuộc bãi công Ba Son:
Trong phong trào công nhân nước ta sau chiến tranh thế giới thứ nhất, cuộc
bãi công Ba Son ( 8.1925) có điểm mới là công nhân đấu tranh không chỉ vì quyền
lợi của mình mà còn thể hiện tình đoàn kết với công nhân và nhân dân lao động
Trung Quốc. Nó chứng tỏ giai cấp công nhân nước ta từ đây bước đầu đi vào đấu
tranh tự giác.
c. Vị trí: Ở các nước Âu Mĩ, Đảng Cộng sản ra đời cần 2 yếu tố là chủ nghĩa
Mác kết hợp với phong trào công nhân. Đây là 2 yếu tố cần và đủ. Khác với các
nước Âu Mĩ, Đảng cộng sản Việt Nam ra đời là sự kết hợp của 3 yếu tố: Chủ nghĩa
Mác, phong trào công nhân và phong trào yêu nước. Đây là 3 yếu tố cần và đủ để
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời. Chính bởi là 1 trong 3 yếu tố cần và đủ nên phong
trào công nhân có vị trí rất quan trọng đối với việc thành lập Đảng Cộng sản Việt
Nam.
Câu 7 : Trình bày hoạt động của Nguyễn Ái Quốc ở nước ngoài
1. Nguyên nhân:
Nguyễn Ái Quốc sinh ngày 19/5/1890 tại Làng Kim Liên (Nam Đàn - Nghệ
An). Hồi nhỏ tên Nguyễn Sinh Cung, sau đổi là Nguyễn Tất Thành. Người sinh ra
trong một gia đình nhà nho yêu nước và lớn lên trên mảnh đất quê hương có truyền
thống yêu nước quận cường, đấu tranh bất khuất. Người chứng kiến sự thất bại
hàng loạt phong trào yêu nước và được tiếp xúc với nhiều nhà cách mạng đương
thời. Vì vậy, từ rất sớm Nguyễn Ái Quốc có lòng yêu nước.
Tuy Nguyễn Ái Quốc rất khâm phục tinh thần đấu tranh chống Pháp của các
bậc tiền bối nhưng Nguyễn Ái Quốc không tán thành con đường cứu nước của họ
vì con đường cứu nước đó không phù hợp với hoàn cảnh đất nước, thậm trí đã thất
bại. Vì vậy, Nguyễn Ái Quốc quyết trí ra đi tìm đường cứu nước, nhằm tìm con
đường cứu nước hữu hiệu hơn
Khác với thế hệ thanh niên đầu thế kỷ hướng về Nhật Bản, Nguyễn Ái Quốc
quyết định sang phương Tây, đến Pháp để tìm hiểu xem “ nước Pháp và các nước
khác làm thế nào rồi sẽ trở về giúp đồng bào mình”.
2. Hành trình tìm đường cứu nước của Nguyễn Ái Quốc:
2.1 Nguyễn Ái Quốc ở Pháp: 1917- 1923

Trang 17
Ngày 5/6/1911: Nguyễn Ái Quốc rời bến cảng Nhà Rồng ra đi tìm đường
cứu nước.
Từ năm 1911 đến năm 1917, Nguyễn Ái Quốc qua nhiều nước ở châu Á,
châu Phi, châu Âu, châu Mỹ. Tại những nơi người đặt chân đến Người vừa lao
động để kiếm sống vừa tham gia vào các phong trào cách mạng... cuối cùng người
rút ra một điều: ở đâu giai cấp công nhân và nhân dân lao động trên thế giới đều là
bạn, chủ nghĩa đế quốc ở đâu cũng là thù.
Chiến tranh thế giới thứ nhất kết thúc, các nước đế quốc thắng trận họp ở
Véc – Xai 18.6.1919 để chia lại thị trường thế giới. Nguyễn Ái Quốc thay mặt
những người yêu nước Việt Nam sống ở Pháp đã gửi tới Hội nghị bản yêu sách
của nhân dân An Nam đòi chính phủ Pháp phải thừa nhận các quyền tự do dân chủ,
quyền bình đẳng, và quyền tự quyết của dân tộc Việt Nam (8 điểm). Bản yêu sách
không được chấp nhận nhưng có tiếng vang lớn đối với nhân dân Việt Nam, nhân
dân Pháp và nhân dân các nước thuộc địa Pháp.
Tháng 7. 1920, Nguyễn Ái Quốc được đọc Sơ thảo lần thứ nhất những luận
cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của Lê Nin. Người hoàn toàn phấn
khởi, tin tưởng theo Lê Nin, dứt khoát đứng về Quốc tế 3.
Tháng 12.1920 tại Đại hội lần thứ 18 của Đảng xã hội Pháp họp ở Tua,
Nguyễn Ái Quốc đã bỏ phiếu tán thành việc gia nhập Quốc tế 3 và tham gia sáng
lập Đảng cộng sản Pháp, đánh dấu bước ngoặt trong hoạt động cách mạng của
Nguyễn Ái Quốc, từ một người yêu nước trở thành một người cộng sản, từ chủ
nghĩa yêu nước đến với chủ nghĩa Mác- lê Nin và đi theo con đường cách mạng
Vô sản.
Người chọn con đường Cách mạng vô sản trong đấu tranh giải phóng dân tộc, vì
người khẳng định rằng: "Trên thế giới bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều
nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là Chủ nghĩa
Lê-nin" và " muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không còn con đường nào khác
con đường cách mạng vô sản". Bởi vì: Con đường cứu nước theo chủ nghĩa Mác-
Lê Nin, theo cách mạng tháng Mười Nga là con đường cứu nước duy nhất, đúng
đắn đối với dân tộc ta, cũng như đối với các dân tộc thuộc địa và phụ thuộc khác,
vì nó phù hợp với sự phát triển của lịch sử.
- 1921 Nguyễn Ái Quốc cùng 1 số người yêu nước của các thuộc địa Pháp
sáng lập Hội liên hiệp thuộc địa ở Pa ri để đoàn kết các lực lượng cách mạng chống
chủ nghĩa thực dân, truyền bá chủ nghĩa Mác- Lê Nin đến các dân tộc thuộc địa.
- 1922 xuất bản báo “ Người cùng khổ”, viết bài cho các báo “ Nhân đạo”, “
Đời sống nhân dân”, “ Bản án chế độ thực dân Pháp”…
2.2 Nguyễn Ái Quốc ở Liên Xô 1923- 1924

Trang 18
- Tháng 6.1923 Nguyễn Ái Quốc rời Pháp đi Liên Xô dự hội nghị quốc tế
nông dân và được bầu vàoban chấp hành. Sau đó người ở lại Liên Xô một thời gian
vừa làm việc, vừa nghiên cứu, học tập.
- Tại Đậi hội lần V của Quốc tế cộng sản ( 1924): Nguyễn Ái Quốc trình bày
1 bản báo cáo rất quan trọng về vấn đề dân tộc và thuộc địa, mối quan hệ giữa
phong trào công nhân ở các nước đế quốc với phong trào cách mạng ở các nước
thuộc địa, vai trò và sức mạnh to lớn của giai cấp nông dân ở các nước thuộc địa.
- Những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác- Lê Nin về cách mạng giải
phóng thuộc địa trong thời đại đế quốc chủ nghĩa vàâcchs mạng vô sản mà Nguyễn
Ái Quốc tiếp nhận, truyền bá vào nước ta từ sau chiến tranh thế giới thứ nhất là 1
bước chuẩn bị quan trọng về chính trị và tư tưởng cho sự thành lập 1 chính đảng vô
sản ở Việt Nam trong giai đoạn tiếp theo.
2.3 Nguyễn Ái Quốc ở Trung Quốc
* Hoàn cảnh.
- Đến năm 1925, phong trào yêu nước và phong trào công nhân nước ta phát
triển mạnh mẽ, đã có những bước tiến mới.
- Sau một thời gian ở Liên Xô học tập và nghiên cứu xây dựng Đảng kiểu
mới, tháng 12/1924, Nguyễn Ái Quốc về Quảng Châu – Trung Quốc liên lạc, tiếp
xúc với các nhà cách mạng Việt Nam ở đây, Người tìm hiểu tình hình trong nước,
lựa chọn và tập hợp một số thanh niên yêu nước từ trong nước mới sang để thành
lập Hộ Việt Nam cách mạng thanh niên ( HVNCMTN)
* Mục đích:
Nhằm đào tạo đội ngũ cán bộ cách mạng đưa họ về nước hoạt động, xuất bản
báo chí để tuyên truyền đường lối của Hội, truyền bá chủ nghĩa Mác –Lê Nin về
nước, giáo dục lòng yêu nước, chuẩn bị điều kiện thành lập chính đảng vô sản ở
Việt Nam.
* Hoạt động:
+ Mở nhiều lớp huấn luyện chính trị đào tạo 1 số thanh niên Việt Nam trở
thành những cán bộ cách mạng.
+ Xuất bản báo “ Thanh niên” – 1925 làm cơ quan tuyên truyền của Hội.
+ Các bài giảng của Người được tập hợp và in thành sách “ Đường kách
mệnh” (1927) vạch ra phương hướng cơ bản của cách mạng giải phóng dân tộc
Việt Nam.
+ Tác phẩm Đường kách mệnh, báo “ Thanh niên” được chuyển về nước.
+ 5.1929 Hội VN CM TN đã có tổ chức cơ sở ở hầu khắp cả nước.

Trang 19
+ Một số đoàn thể quần chúng: Công hôi, Nông hội, Hội học sinh… được tổ
chức.
+ 1928 Hội VNCMTN có chủ trương “ vô sản hoá”- đưa hội viên vào các
nhà máy, hầm mỏ, đồn điền…cùng sống và lao động với công nhân để tự rèn
luyện, truyền bá Chủ nghĩa Mác –Lê Nin, tổ chức và lãnh đạo công nhân đấu tranh.
* Tác dụng:
- Các cuộc đấu tranh mang tính chấ chính trị, bước đầu liên kết được nhiều
ngành, nhiều địa phương.
Câu 8: Vai trò của Nguyễn Ái Quốc trong việc thành lập HVNCMTN?
- Là người sáng lập và lãnh đạo HVNCMTN.
- Lựa chọn thanh niên yêu nước đưa vào Hội, xác định mục đích, xây dựng
chương trình của Hội.
- Mở lớp huấn luyện chính trị, trực tiếp viết bài dạy, cho xuất bản báo Thanh
niên.
- Đào tạo được một đội ngũ cán bộ nòng cốt chuẩn bị cơ sở cho việc thành
lập một chính đảng vô sản ở Việt Nam.
Câu 9: Những hoạt động của HVNCMTN có tác dụng gì đối với phong
trào cách mạng VN?
- Truyền bá Chủ nghĩa Mác –Lê Nin vào trong phong trào công nhân, nâng
cao ý thức giai cấp, trình độ giác ngộ chính trị của công nhân.
- Góp phần làm cho phong trào công nhân có những bước phát triển mới:
Các cuộc đấu tranh của công nhân đều mang tính chất chính trị, vượt ra khỏi phạm
vi một xưởng, bước đầu liên kết được nhiều ngành, nhiều địa phương, mang tính
thống nhất trong toàn quốc.
- Thúc đẩy phong trào nông dân, phong trào tiểu tư sản và các tầng lớp nhân
dân yêu nước khác phát triển, kết thành 1 làn sóng cách mạng dân tộc dân chủ khắp
cả nước, trong đó giai cấp công nhâ trở thành một lực lượng chính trị độc lập.
Câu 10: NAQ trực tiếp chuẩn bị về tư tưởng và tổ chức cho sự ra đời
của chính Đảng VS ở VN như thế nào?
- Sau khi tìm được con đường cứu nước đúng đắn cho dân tộc đó là con
đường theo Chủ nghĩa Mác –Lê Nin, Nguyễn Ái Quốc ra sức học tập, nghiên cứu
để hoàn chỉnh nhận thức của mình về Chủ nghĩa Mác –Lê Nin, về cách mạng giải
phóng dân tộc ở các thuộc địa.
- Những quan điểm, tư tưởng được Nguyễn Ái Quốc giới thiệu trong các
sách báo và được bí mật truyền bá về nước, có tác dụng kích thích phong trào dân
tộc phát triển, chuyển biến theo xu hướng cách mạng vô sản. Đồng thời, đây cũng

Trang 20
là cơ sở cho đường lối cách mạng Việt Nam được Người trình bày trong cuốn
Đường kách mệnh và Chính cương vắn tắt của Đảng sau này.
Tháng 6/1925, Nguyễn Ái Quốc thành lập Hội VN CMTN để đào tạo cán bộ
cách mạng rồi đưa về nước hoạt động trong phong trào công nhân, phong trào yêu
nước, truyền bá Chủ nghĩa Mác –Lê Nin. Đây là một tổ chức trong thời kì quá độ
chuẩn bị điều kiện cho sự ra đời của một tổ chức chính đảng cộng sản ở Việt Nam.
Những sự kiện trên đã chứng tỏ Nguyễn Ái Quốc là người trực tiếp chuản bị
về tư tưởng và tổ chức cho sự ra đời của Đảng cộng sản Việt Nam sau này.
Câu 11: Tổ chức Hội Việt Nam cách mạng thanh niên do lãnh tụ Nguyễn Ái
Quốc thành lập ( 6.1925) là bước khởi đầu cho sự tiến tới thành lập Đảng
cộng sản Việt Nam 3.2.1930. Bằng những sự kiện lịch sử có chọn lọc, em hãy
làm sáng tỏ nhận định trên.
- Có thể nói tổ chức HVNCMTN do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc thành lập
tháng 6.1925 ở Quảng Châu –Trung Quốc là những hạt giống đầu tiên do lãnh tụ
Nguyễn Ái Quốc ươm trồng để 5 năm sau đó đơm hoa kết trái thành Đảng cộng
sản Việt Nam.
Sau khi tìm ra chân lý cứu nước, giải phóng dân tộc từ Chủ nghĩa Mác –Lê
Nin Nguyễn Ái Quốc từ Liên Xô trở về Quảng Châu, Người đã tập hợp những
thanh niên Việt Nam yêu nước đang hoạt động ở đây lập ra 1 tổ chức cách mạng
mới gọi là HVNCMTN. Hội tổ chức những lớp tập huấn, nhiều thanh niên ưu tú ở
trong nước cũng được gửi dự lớp tập huấn này.
- Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc trực tiếp giảng bài. Bài giảng được tập hợp thành
cuốn “ Đường Kách mệnh”. Các bài giảng trong cuốn sách có nội dung: Nêu lên
muốn làm cách mạng phải theo Chủ nghĩa Mác –Lê Nin, noi theo tấm gương của
CM T10 Nga. Cuốn sách còn chỉ rõ động lực chính của Cách mạng Việt Nam là
công nhân và nông dân do 1 đảng theo Chủ nghĩa Mác –Lê Nin lãnh đạo, Cách
mạng Việt Nam là 1 bộ phận của cách mạng thế giới
- Từ 1925- 1930 : Hội đã đào tạo được hàng nghìn thanh niên ưu tú và đưa
về nước hoạt động. Năm 1929, hội đã có cơ sở ở cả Bắc – Trung – Nam, ở cả các
Việt kiều ở Lào, Thái Lan. Hội Việt Nam còn ảnh hưởng sâu sắc đến Tân Việt
cách mạng Đảng. Nhiều đảng viên của Tân việt đã sang và gia nhập HVNCMTN.
- Với hoạt động của hội, phong trào công nhân đã phát triển sôi nổi trong cả
nước, biểu hiện là các cuộc biểu tình, bãi công của công nhân Dệt – Nam Định, nhà
máy cưa Bến Thuỷ, đồn điền Phú Riềng, các phong trào đòi thả cụ Phan Bội Châu,
đòi để tang Pchan Chu Trinh của học sinh Hà Nội , Huế…
- Phong trào cách mạng dâng cao, rộng khắp đã đòi hỏi phải có 1 chính Đảng
CS lãnh đạo. Tại Đại hội đại biểu lần I của HVNCMTN họp tại Hương Cảng –
Trung Quốc ( 5.1929) các đại biểu Bắc kỳ đề nghị thành lập Đảng cộng sản Việt

Trang 21
Nam. Đề nghị không được hội chấp nhận các đại biểu Bắc kỳ đã tách khỏi hội và
thành lập Đông Dương Cộng sản Đảng ( 6.1929). Bộ phận còn lại đa số là đại biểu
Nam kỳ cũng thành lập An Nam cộng sản Đảng ( 8.1929). Những người tân tiến
trong Tân việt cách mạng Đảng cũng lập ra Đông Dương cộng sản liên đoàn
(9.1929).
- Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc, đại diện của Quốc tế cộng sản được phân công
triệu tập 1 hội nghị Đảng để hợp nhất 3 tổ chức cộng sản trên thành Đảng cộng sản
duy nhất.
Dưới sự chủ toạ của Nguyễn Ái Quốc, Hội nghị đã thống nhất 3 tổ chức cộng
sản thành Đảng cộng sản Việt Nam ngày 3.2.1930 tại Hương Cảng – Trung Quốc.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc
sáng lập, cách mạng Việt Nam đã đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác cho đến
thắng lợi hôm nay.
Câu 12: Lập bảng niên biểu làm rõ những hoạt động chính trị của lãnh
tụ NAQ ở hải ngoại từ 1919- 1930 theo các cột: Thời gian, hoạt động.

Thời gian Hoạt động

1911 Nguyễn Ái Quốc ra đi tìm đường cứu nước

18.6.1919 Người gửi đến Hội nghị Véc Xai bản yêu sách của nhân dân An Nam

7.1920 Đọc bản sơ thảo lần 1 những luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc
địa

12.1920 Tham gia sáng lập Đảng cộng sản Pháp

1921 Lập Hội liên hiệp thuộc địa ở Pa ri

1922 Lập ra báo “ Người cùng khổ”

6.1923 Người từ Pháp đi Liên Xô tham dự Hội nghi Quốc tế nông dân

1924 Dự ĐH lần V Quốc tế cộng sản

12.1924 Nguyễn Ái Quốc từ Liên Xô về Quảng Châu – Trung Quốc

6.1925 Lập hội VNCM TN

Từ1925- 1927 Mở các lớp huấn luyện chính trị cho HVNCMTN, đào tạo họ thành
những cán bộ CM rồi đưa về nước gây dựng cơ sở và lãnh đạo quần
chúng đấu tranh.

Trang 22
3.2.1930 Thống nhất 3 tổ chức Cộng sản thành Đảng Cộng sản Việt Nam
Câu 13: Con đường cứu nước của Nguyễn Ái Quốc – những điểm khác so
với lớp người đi trước
- Các bậc tiền bối mà tiêu biểu là Phan Bội Châu đã chọn con đường cứu
nước là sang Nhật, vì ở đó từng diễn ra cuộc cải cách Minh Trị(1868) làm cho Nhật
thoát khỏi số phận một nước thuộc địa, trở thành một nước đế quốc duy nhất ở châu
Á, với hy vọng là một nước đồng văn, đồng chủng thì ông sẽ nhận được sự giúp đỡ
của Nhật để đuổi Pháp nhưng thất bại.
- Hướng đi của Nguyễn Ái Quốc lại khác, Người sang phương Tây, nơi được
mệnh danh là nơi có tư tưởng tự do, bình đẳng, bác ái, có khoa học kỹ thuật và nền
văn minh phát triển. Cách đi của Người là đi vào tất cả các giai cấp, tầng lớp, giác
ngộ họ, đoàn kết họ đứng dậy đấu tranh. Người đề cao học tập, nghiên cứu lý luận,
kinh nghiệm các cuộc cách mạng mới nhất của thời đại.
Người nhận thức rõ muốn đánh Pháp thì phải hiểu Pháp, Người sang Pháp để
tìm hiểu: Nước Pháp có thực sự: “tự do, bình đẳng, bác ái” hay không? Nhân dân
Pháp sống thế nào?
Trong quá trình đó, Người bắt gặp chân lí cứu nước là Chủ nghĩa Mác – Lê
Nin và xác định con đường cứu nước đúng đắn theo Cách mạng tháng Mười Nga.
Đây là con đường cứu nước duy nhất đúng đắn đối với dân tộc ta, cũng như đối với
các dân tộc thuộc địa và phụ thuộc khác, vì nó phù hợp với sự phát triển của lịch
sử: Con đường cách mạng vô sản.
Câu 14: Bằng những sự kiện lịch sử có tính chất chọn lọc, em hãy làm rõ
công lao của lãnh tụ Nguyễn Ái quốc và sự ra đời của Đảng cộng sản Việt Nam
ngày 3.2.1930?
Sự nghiệp cách mạng là sự nghiệp của quần chúng. Song ở thời điểm nhất
định,cá nhân có vai trò to lớn đối với sự phát triển của lịch sử.
NAQ có vai trò to lớn đối với sự thành lập Đảng 3.2.1930. Đảng ra đời đáp
ứng yêu cầu lãnh đạo cách mạng dân tộc dân chủ ở Việt Nam đầu thế kỷ XX.
Chứng minh:
1. NAQ trở thành người CS:
- Nêu tóm tắt tiểu sử Nguyễn Ái Quốc, gia đình, quê hương, yêu cầu khách
quan của cách mạng giải phóng dân tộc, giai cấp….thúc đẩy Nguyễn Ái Quốc ra đi
tìm đường cứu nước.
- Khác với các vị tiền bối cách mạng, Người chọn con đường sang phương
tây, có ý nghĩa quan trọng để Người tìm đến được với chủ nghĩa Mác- Lê Nin.

Trang 23
1911: Rời bến cảng Nhà Rồng……1911- 1917: Khảo sát cách mạng, Người
qua nhiều nước Á Phi, Mỹ La Tinh, làm nhiều nghề vất vả để kiếm sống và hoạt
động.
Người rút ra 2 kết luận quan trọng: phân biệt rõ bạn, thù, sự nghiệp cách
mạng của dân tộc mình phải do mình quyết định là chính…
1917: Từ Anh trở về Pháp, hoạt động trong phong trào công nhân. Tìm hiểu
cách mạng tháng Mười Nga; Năm 1919 gửi tới Hội nghị Véc - Xai bản yêu sách
đòi….
1920: Đến được với chủ nghĩa Mác- Lê Nin qua tiếp xúc với bản luận cương
về vấn đề dân tộc và thuộc địa của Lê Nin. Luận cương chính trị đã chỉ ra con
đường giải phóng dân tộc, giai cấp cho các thuộc địa trong đó có Việt Nam.
12.1920: Bỏ phiếu tán thành Quốc tế 3 . Tham gia sáng lập Đảng cộng sản
Pháp.
Từ chủ nghĩa yêu nước, qua phong trào công nhân, tiếp xúc với chủ nghĩa
Mác- Lê Nin. Nguyễn Ái Quốc trở thành người cộng sản đầu tiên của Việt Nam.
Người tìm ra con đường cứu nước giải phóng dân tộc theo chủ nghĩa Mác - Lê Nin
“ muốn cứu nước giải phóng dân tộc không còn con đường nào khác ngoài con
đường cachs mạng vô sản”
2. Quá trình chuẩn bị thành lập Đảng.
- Từ 1921- cuối 1924: Hoạt động tại Pháp, Liên Xô nghiên cứu lí luận,
truyền bá tư tưởng về chủ nghĩa Mác - Lê Nin về trong nước.
- 1921- giữa 1923: Ở Pháp , Người thành lập Hội liên hiệp ….., sáng lập báo
Người cùng khổ, bản án chế độ thực dân Pháp.
- Tác dụng: Tố cáo tội ác của chủ nghĩa đế quốc, truyền bá chủ nghĩa Mác -
Lê Nin vào các thuộc địa Pháp và vào Việt Nam
- Từ giữa 1923- cuối 1924: Hoạt động ở Liên Xô, làm việc trong Quốc tế
cộng sản được bầu vào ban chấp hành quốc tế nông dân, tham dự nhiều đại hội
quốc tế quan trọng…
- Đọc bản tham luận quan trọng tại Đại hội V của Quốc tế cộng sản 1924.
Tác dụng: Khảo sát kinh nghiệm xây dựng đảng, CNXH ở Liên Xô, truyền
bá chủ nghĩa Mác- Lê Nin về nước…khẳng định niềm tin vào con đường đã chọn.
Cuối 1924- 1927 hoạt động ở ỉung Quốc.
Tháng 6.1925: Thành lập Hội VN CM TN ( tiền thân của chính Đảng VS)
- Sáng lập báo thanh niên ( 6.1925), mở các lớp huấn luyện, đào tạo cán bộ.
Từ 1925- 1927 đào tạo khoảng 200 học viên. Qua tác phẩm “ Đường kách mệnh”

Trang 24
( Tập hợp những bài giảng của Nguyễn Ái Quốc, xuất bản 1927) đã trang bị
đường lối chiến lược, sách lược cơ bản của cách mạng Việt Nam…
- Tác dụng: Các học viên hoạt động tích cực qua phong trào vô sản
hoá( 1928) làm chuyển biến căn bản phong trào cách mạng ở trong nước…3 tổ
chức cộng sản ra đời (…)
Đến đây, điều kiện thành lập chính Đảng vô sản đã hình thành, Người đã
trực tiếp chuẩn bị về tư tưởng tổ chức cho việc thành lập Đảng.
3. Sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam
a. Nêu mặt tích cực, hạn chế của 3 tổ chức Cộng sản
b. Yêu cầu khách quan phải thống nhất 3 tổ chức cộng sản…
c. Quốc tế cộng sản chỉ đạo, Nguyễn Ái Quốc triệu tập Hội nghị thống nhất 3
tổ chức cộng sản thành Đảng cộng sản Việth Nam 3.2.1930.
d. Thông qua chính cương vắn tắt, sách lược vắn tắt ( Cương lĩnh chính trị
đúng đắn của Đảng)
Ý nghĩa sự ra đời Đảng cộng sản:….
Kết luận:
- Khái quát công lao nổi bật của Nguyễn Ái Quốc từ 1920- 1930
- Lớn nhất là: Sáng lập và soạn thảo cương lĩnh chính trị đúng đắn của Đảng, đáp
ứng yêu cầu lãnh đạo giải phóng dân tộc dân chủ ở Việt Nam.
- Đảng sẽ đưa cách mạng đến thắng lợi, tên tuổi của Người gắn liền với Đảng, sự
nghiệp cách mạng Việt Nam
Câu 15: Bước phát triển mới của phong trào cách mạng Việt Nam
( 1926- 1927)
* Phong trào công nhân:
- Trong 2 năm 1926- 1927 nhiều cuộc bãi công của công nhân, viên chức,
học sinh học nghề đã nổ ra. Lớn nhất là các cuộc bãi công của công nhân nhà máy
sợi NĐ, công nhân đồn điền cao su Cam Tiêm, Phú Riềng và công nhân đồn điền
cà phê Ray- na ( Thái nguyên)
- Phong trào nổ ra từ bắc tới nam mang tính thống nhất trong toàn quốc, tiêu
biểu là bãi công của công nhân nhà máy xi măng ( Hải Phòng), sợi Nam Định…
- Các cuộc đấu tranh mang tính chất chính trị vượt ra khỏi phạm vi 1 xưởng,
bước đầu liên kết được nhiều ngành, nhiều địa phương
* Phong trào nông dân, TTS và các tầng lớp yêu nước khác: cũng phát
triển, kết thành một làn sóng cách mạng dân tộc dân chủ khắp cả nước.
* Điểm mới:

Trang 25
Các cuộc đấu tranh của công nhân mang tính chất chính trị, vượt ra khỏi
phạm vi một xưởng, bước đầu liên kết được nhiều ngành, nhiều địa phương, mang
tính thống nhất trong toàn quốc, điều này cho thấy trình độ giác ngộ của công nhân
đã nâng lên rõ rệt.
Phong trào nông dân, TTS và các tầng lớp nhân dân yêu nước khác phát triển
kết thành 1 làn sóng cách mạng DTDC khắp cả nước, trong đó giai cấp công nhân
đã trở thành 1 lực lượng chính trị độc lập biểu hiện ở đấu tranh mang tính thống
nhất, trình độ giác ngộ của công nhân được nâng lên rõ rệt. Các tổ chức cách mạng
nối tiếp nhau ra đời
Câu 16. Sự ra đời và hoạt động của Tân Việt cách mạng Đảng 7- 1928
- Tân việt cách mạng Đảng thành lập ở trong nước, trong phong trào yêu
nước dân chủ đầu những năm 20 của thế kỷ XX. Lúc đầu là tổ chức của những
người yêu nước trong hội Phục Việt ( 14.7.1925), sau nhiều lần đổi tên cuối cùng
lấy tên là Tân Việt cách mạng đảng ( 14.7.1928).
- Thành phần: Là những trí thức trẻ, và những thanh niên tiểu tư sản yêu
nước.
- Hoạt động:
+ Chủ yếu ở Trung kỳ
+ Chủ trương: Lãnh đạo công nhân, nông dân, binh lính trong nước và liên
lạc với các dân tộc trên TG đánh đổ đế quốc, thiết lập xã hội bình đẳng bác ái…
+ Ra đời và hoạt động trong điều kiện HVNCM TN phát triển mạnh lý luận
và tư tưởng cách mạng của chủ nghĩa Mác- Lê Nin đã ảnh hưởng lớn, cuốn hút
nhiều đảng viên trẻ, tiên tiến đi theo.
+ Nội bộ Tân Việt cách mạng dảng ngày càng phân hoá sâu sắc thành 2
khuynh hướng rõ rệt: Tư sản và vô sản. Cuối cùng khuynh hướng vô sản chiếm ưu
thế
+ 1 số đảng viên tiên tiến của Tân Việt đã chuyển sang HVNCMTN, tích cực
chuẩn bị tiến tới thành lập 1 chính đảng kiểu mới theo chủ nghĩa Mác- Lê Nin.
* Nhận xét: So với HVNCMTN, Tân việt cách mạng đảng còn nhiều hạn
chế song cũng là một tổ chức cách mạng mới của những trí thức thẻ và thanh niên
tiểu tư sản yêu nước.
Câu 17: Hoàn cảnh lịch sử, quá trình thành lập của 3 tổ chức cộng sản
cuối năm 1929.
* Hoàn cảnh:
Cuối năm 1928, đầu năm 1929, phong trào dân tộc, dân chủ ở nước ta, đặc
biệt là phong trào công nông đi theo con đường cách mạng vô sản phát triển mạnh,

Trang 26
đặt ra yêu cầu phải có một chính đảng của giai cấp vô sản để kịp thời đưa cách
mạng Việt Nam tiến lên những bước mới.
Lúc này Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên không còn đủ sức lãnh đạo
nên trong nội bộ của Hội diễn ra một cuộc đấu tranh gay gắt xung quanh vấn đề
thành lập Đảng. Hoàn cảnh đó dẫn đến sự ra đời của ba tổ chức cộng sản trong năm
1929.
* Quá trình thành lập:
- Tháng 3.1929, 1 số hội viên tiên tiến của HVNCMTN ở Bắc kỳ đã họp ở số
nhà 5D phố Hàm Long ( Hà Nội) để lập ra chi bộ Cộng sản đầu tiên ở Việt Nam
gồm 7 đảng viên ( Trịnh Đình Cửu, Ngô Gia Tự, Trần Văn Cung, Đỗ Ngọc Du,
Nguyễn Đức Cảnh, Dương Hạc Đính, Kim Tôn). Chi bộ đã mở rộng cuộc vận động
thành lập một Đảng cộng sản thay thế cho HVNCMTN.
- Tại Đại hội toàn quốc lần thứ nhất của HVNCMTN ( Từ ngày 1 đến ngày
9.5.1929 tại Hương Cảng- Trug Quốc), đoàn đại biểu bắc kỳ đặt vấn đề phải thành
lập ĐCS thay thế HVNCMTN nhưng không được chấp nhận, đoàn đại biểu Bắc kỳ
bèn bỏ ĐH ra về rồi kêu gọi công nhân, nông dân, các tầng lớp nhân dân cách mạng
nước ta ủng hộ chủ trương thành lập Đảng cộng sản
- Ngày 17.6.1929 đại biểu các tổ chức cơ sở đảng cs ở miền Bắc họp đại hội
quyết định thành lập Đông dương cộng sản Đảng( Tại số nhà 312 phố Khâm Thiên-
HN) thông qua tuyên ngôn, điều lệ của đảng, ra báo Búa liềm làm cơ quan ngôn
luận và cử ra BCH Trung ương của Đảng.
- Các hội viên tiên tiến của HVNCMTN ở Trung Quốc và ở Nam kỳ quyết
định thành lập An nam cộng sản Đảng.( 8.1929) Tờ báo Đỏ là cơ quan ngô luận của
Đảng.
- Tháng 9.1929, các đảng viên tiên tiến của đảng Tân Việt cũng tách ra thành
lập Đông dương cộng sản Liên đoàn
* Hạn chế: Ba tổ chức cộng sản ra đời hoạt động riêng rẽ, tranh giành ảnh
hưởng của nhau. Yêu cầu đặt ra cho cách mạng là phải thống nhất 3 tổ chức thành 1
đảng duy nhất.
* Ý nghĩa lịch sử của sự xuất hiện ba tổ chức cộng sản ở Việt Nam.
+ Thể hiện bước nhảy vọt của cách mạng chứng tỏ chủ nghĩa Mác- Lê Nin
đã thu hút được đông đảo những người Việt Nam thuộc nhiều tầng lớp xã hội khác
nhau
+ Chứng tỏ xu hướng cách mạng vô sản đang phát triển mạnh mẽ ở nước ta.
+ Đánh dấu sự trưởng thành của giai cấp công nhân Việt Nam, giai cấp công
nhân cũng nhận thức được xứ mệnh của mình là giai cấp lãnh đạo cách mạng Việt
Nam.

Trang 27
+ Chứng tỏ các điều kiện thành lập đảng ở Việt Nam đã chin muồi.
+ Là bước chuẩn bị trực tiếp cho việc thành lập Đảng cộng sản Việt Nam.
Câu 18. Hoàn cảnh, nội dung, ý nghĩa của Hội nghị thành lập Đảng.
* Hoàn cảnh:
Cuối năm 1929, phong trào công nhân và phong trào yêu nước phát triển
mạnh trong đó giai cấp công nhân thật sự trở thành một lực lượng tiên phong.
Sự ra đời của 3 tổ chức cộng sản là 1 xu thế tất yếu của cách mạng Việt
Nam vừa ra đời các tổ chức cộng sản đã nhanh chóng xây dựng cơ sở đảng ở nhiều
địa phương, trực tiếp tổ chức và lãnh đạo nhiều cuộc đấu tranh của công nhân,
nông dân
- Ba tổ chức lại hoạt động riêng rẽ tranh giành ảnh hưởng của nhau, vì vậy
yêu cầu bức thiết củẩncchs mạng Việt Mam lúc này là phải thống nhất 3 tổ chức
thành một đảng duy nhất.
- Được sự uỷ nhiệm của Quốc tế cộng sản Nguyễn Ái Quốc đã về Hương
Cảng ( TQ) triệu tập Hôị nghị thống nhất các tổ chức Cộng sản thành 1 đảng duy
nhất.
* Nội dung HN:
- Hội nghị họp từ ngày 6/1/1930 Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản đã
họp tại Cửu Long- Hương Cảng – Trung Quốc, Nguyễn Ái Quốc với tư cách là
phái viên của Quốc tế cộng sản đã chủ trì Hội nghị.
- Nguyễn Ái Quốc phân tích tình hình, phê phán những hành động thiếu
thống nhất của các tổ chức CS và đề nghị các tổ chức ccộng sản đoàn kết, thống
nhất thành 1 Đảng duy nhất.
- Hội nghị đã tán thành việc thống nhất các tổ chức cộng sản để thành lập 1
đảng duy nhất lấy tên là Đảng cộng sản Việt Nam.
- Hội nghị đã thông qua CCVT, SLVT, ĐLVT do Nguyễn Ái Quốc khởi
thảo. Đây là cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng cộng sản Việt Nam
- HN cử ra BCH TW lâm thời, nhân dịp này Nguyễn Ái Quốc ra lời kêu gọi
gửi công nhân, nông dân, binh lính, học sinh, và tất cả đồng bào bị áp bức, bóc lột
và đề nghị “ từ nay anh chị em chúng ta cần phải gia nhập Đảng, ủng hộ đảng và đi
theo đảng để đánh đổ chủ nghĩa đế quốc Pháp, phong kiến Việt Nam và giai cấp
Tư sản phản cách mạng, làm cho nước VN được độc lập…”
24.2.1930 ĐDCĐ gia nhập Đảng cộng sản Việt Nam. Như vậy, chỉ trong 1
thời gian ngắn, cả ba tổ chức cộng sản ở Việt Nam đã được hợp nhất thàh 1 Đảng
thống nhất : Đảng cộng sản Việt Nam.
* Ý nghĩa của Hội nghị:

Trang 28
Hội nghị hợp nhất đảng có ý nghĩa như 1 Đại hội thành lập Đảng, CCVT,
SLVT, ĐLVT được HN thông qua là cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng.
Câu 19: Trình bày luận cương chính trị năm 1930.
* Hoàn cảnh:
- Để tăng cường sự thành lập của Đảng đối với phong trào cách mạng Việt
Nam, BCH TW lâm thời của Đảng đã họp Hội nghị lần I tại Hương Cảng- Trung
Quốc tháng 10- 1930.
- Hội nghị quyết định đổi tên Đảng là Đông Dương Cộng sản Đảng
- Bầu BCH TW chính thức và cử đồng chí Trần Phú làm tổng bí thư, thông
qua luận cương chính trị do đồng chí Trần Phú khởi thảo.
* ND:
- Cách mạng Việt Nam phát triển qua 2 giai đoạn là cách mạng tư sản mạng
dân quyền và cách mạng XHCN.
- Nhiệm vụ của cách mạng tư sản dân quyền là đánh đổ phong kiến, đế quốc
- Lực lượng củẩncchs mạng là vô sản và nông dân.
- Phương phápậcchs mạng: Tập hợp quần chúng đấu tranh khi tình thế cách
mạng xuất hiện thì phát động quần chúng vũ trang bạo động giành chính quyền.
- Điều cốt yếu cho thắng lợi củaậcchs mạng là phải có 1 đảng cộng sản lãnh
đạo, Đảng phải có đường lối chính trị đúng đắn, đội tiên phong của giai cấp vô sản
lấy chủ nghĩa Mác Lê Nin làm nền tảng tư tưởng.
* Hạn chế: Luận cương chưa nhận thức được tầm quan trọng của nhiệm vụ
chống đế quốc giành độc lập dân tộc, nặng về đấu tranh giai cấp chưa thấy rõ khả
năng cách mạng của các tầng lớp khác ngoài công nông
Câu 20: Ý nghĩa lịch sử của sự thành lập Đảng:
Đảng cộng sản ra đời là kết quả tất yếu của cuộc đấu tranh dân tộc và
giai cấp ở VN trong thời đại mới ( từ sau cách mạng tháng 10 Nga)
Đảng Cộng sản Việt Nam là kết quả của sự kết hợp giữa chủ nghĩa Mác Lê
Nin, tư tưởng cách mạng tiên tiến của thời đại với phong trào công nhân và phong
trào yêu nước Việt Nam. Sự ra đời của Đảng chứng tỏ giai cấp công nhân nước ta
đã trưởng thành và đủ khả năng đảm nhiệm vai trò lãnh đạo cách mạng Việt Nam.
Từ đây, giai cấp công nhân thật sự trở thành một lực lượng chính trị độc lập, thống
nhất trong cả nước. Thông qua chính đảng của mình, giai cấp công nhân có sứ
mệnh lãnh đạo toàn thể dân tộc và nhân dân vượt qua mọi thác ghềnh hiểm trở để

Trang 29
đưa con thuyền cách mạng Việt Nam cập bến vinh quang. Sự ra đời của Đảng ngày
3/2/1930 đã chấm dứt tình trạng khủng hoảng đường lối cứu nước ở Việt Nam
trong mấy chục năm qua. Đây là khâu chuẩn bị quan trọng đầu tiên, cho 1 thời kỳ
vùng dậy oanh liệt nhất và bước nhảy vọt vĩ đại nhất trong lịch sử dân tộc.

Với sự ra đời của Đảng, cách mạng Việt Nam đã trở thành một bộ phận của
cách mạng thế giới và dân tộc Việt Nam từ đây sẽ từng bước tiến lên hội nhập vào
phong trào cách mạng thế giới.

Đảng CS VN ra đời là sự chuẩn bị tất yếu, đầu tiên, có tính chất quyết định
cho những bước phát triển nhảy vọt về sau của dân tộc VN.

Câu 21: Những cống hiến của NAQ đối với CMVN trong thời gian từ 1911 đến
1930
- Đến với chủ nghĩa Mác – Lê Nin, tìm ra con đường cứu nước đúng đắn cho
dân tộc ( kết hợp độc lập dân tộc với CNXH, gắn cách mạng Việt Nam với cách
mạng)
- Chuẩn bị về chính trị tư tưởng và tổ chức cho sự thành lập đảng cộng sản
Việt Nam ngày 3/2/1930
- Xác định đường lối đúng đắn cho cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc dưới sự
lãnh đạo của Đảng.
+ Chủ trì Hội nghị hợp nhất ba tổ chức cộng sản để thành lập Đảng Cộng sản
Việt Nam.
Câu 22: Sự ra đời của ba tổ chức cộng sản vào năm 1929 là xu thế tất yếu của
cách mạng VN.
Trước khi Đảng cộng sản Việt Nam ra đời, mọi phong trào yêu nước đều thất
bại vì bị khủng khoảng đường lối và giai cấp lãnh đạo.
Từ năm 1919 tới năm 1929, sau khi tìm thấy con đường cứu nước, Nguyễn
Ái Quốc tích cực hoạt động nhằm truyền bá chủ nghĩa Mác Lê-nin về nước, tích
cực chuẩn bị về tư tưởng, chính trị và tổ chức để chuẩn bị cho sự ra đời của Đảng
cộng sản Việt Nam
Tới năm 1928-1929, dưới tác động của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh
niên, chủ nghĩa Mác Lê-nin được truyền bá sâu rộng vào Việt Nam, phong trào yêu
nước theo xu hướng vô sản phát triển mạnh mẽ. Yêu cầu cấp thiết là phải có một
chính đảng của giai cấp vô sản để lãnh đạo phong trào. Đáp ứng yêu cầu đó, ba tổ
chức cộng sản nối tiếp nhau ra đời trong năm 1929, nhưng ba tổ chức đều hoạt
động riêng rẽ công kích lẫn nhau, tranh giành ảnh hưởng trong quần chúng, gây trở

Trang 30
ngại lớn cho phong trào cách mạng. Yêu cầu cấp thiết của cách mạng Việt Nam lúc
này là phải hợp nhất ba tổ chức cộng sản này thành một chính đảng duy nhất.
Trước tình hình đó, với vai trò là đặc phái viên của Quốc tế cộng sản,
Nguyễn Ái Quốc về Hương Cảng (Trung Quốc) triệu tập Hội nghị hợp nhất ba tổ
chức cộng sản thành Đảng cộng sản Việt Nam (3/2/1930)
Câu 23. Vai trò của Nguyễn Ái Quốc trong Hội nghị thành lập Đảng.
+ Trực tiếp tổ chức và chủ trì Hội nghị thành lập Đảng cộng sản Việt Nam
tại Hương Cảng – Trung Quốc.
+ Phê phán những hành động thiếu thống nhất của các tổ chức cộng sản
trong nước, đặt ra yêu cầu cấp thiết phải hợp nhất các tổ chức Cộng sản thành một
Đảng cộng sản duy nhất.
+ Viết và thông qua chính cương vắn tắt, sách lược vắn tắt, điều lệ vắn tắt.
Đây được coi là cương lĩnh đầu tiên của Đảng.
+ Đề ra kế hoạch để các tổ chức cộng sản về nước xúc tiến việc hợp nhất và
đi đến thành lập Đảng cộng sản Việt Nam.

Trang 31
C. KẾT LUẬN
Không được giáo dục Lịch sử chu đáo, thế hệ trẻ của chúng ta sẽ mất gốc,
thờ ơ với vận mệnh dân tộc. Môn học Lịch sử không chỉ trang bị kiến thức mà còn
khơi dậy niềm tự hào dân tộc ở người học. Cung cấp cho họ nền tảng văn hoá –
điều rất cần thiết trong thời kỳ đất nước đang hội nhập sâu rộng với quốc tế. Chính
vì vậy, vai trò của người giáo viên là vô cùng quan trọng, đặc biệt là vai trò trong
việc tạo niềm đam mê, yêu thích môn học cho thế hệ trẻ.
Công tác dạy học Lịch sử đã khó, nhưng công tác bồi dưỡng học sinh giỏi
Lịch sử ngày càng khó hơn trong thời đại ngày nay.
Theo tôi, nhiệm vụ của người giáo viên bồi dưỡng học sinh giỏi không chỉ là
biết kết hợp các phương pháp giảng dạy hợp lý để củng cố kiến thức cơ bản, tổng
hợp, nâng cao kiến thức, khái quát kiến thức theo hệ thống các câu hỏi, rèn luyện kĩ
năng, kĩ xảo làm bài cho học sinh…. mà điều quan trọng nữa không thể không
nhắc tới đó là tạo được niềm đam mê, yêu thích môn học, để từ đó các em học tập
một cách tự giác, có thái độ học tập đúng đắn, có như vậy ta mới đào tạo được
những học sinh yêu thích học môn Lịch sử một cách thực sự, đáp ứng yêu cầu đổi
mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo theo tinh thần Nghị quyết Hội nghị
Trung ương 8 khoá XI hiện nay.
Rất mong được sự đóng góp ý kiến chân thành của các đồng nghiệp.

Trang 32

You might also like