You are on page 1of 9

PHÒNG GIÁO DỤC & ĐÀO TẠO THÀNH PHỐ TUY HÒA

TRƯỜNG TIỂU HỌC ĐÀO DUY TỪ

BIỆN PHÁP PHÁT HUY TÍNH TÍCH CỰC CỦA HỌC SINH KHI DẠY
MÔN LỊCH SỬ LỚP 5.

Tên tác giả: Nguyễn Đăng Ngọc


Đơn vị công tác: Trường Tiểu học Đào Duy Từ

Phường 8, tháng 04 năm 2021


BIỆN PHÁP PHÁT HUY TÍNH TÍCH CỰC CỦA HỌC SINH KHI DẠY
MÔN LỊCH SỬ LỚP 5.

PHẦN I: PHẦN MỞ ĐẦU


1. Lý do chọn đề tài
Môn Tự nhiên xã hội cung cấp cho học sinh những hiểu biết cơ bản và ban
đầu về các sự vật, sự kiện, hiện tượng và mối quan hệ giữa chúng trong tự nhiên,
con người và xã hội, về cách vận dụng kiến thức đó trong đời sống và sản xuất.
Cùng với môn Tiếng Việt và Toán học, môn Tự nhiên xã hội là 3 môn
quan trọng nhất trong chương trình tiểu học.
Trong giai đoạn này, việc phát huy tính tích cực của học sinh trong việc
học tập môn Tự nhiên , xã hội nói chung và phân môn Lịch sử ở lớp 4 – 5 nói riêng
là một phần trong việc đổi nới phương pháp dạy học của bộ môn này. Góp phần
giáo dục toàn diện cho học sinh tiểu học.
Bởi vì qua thực tế 2 năm đã dạy học sinh lớp 5, tôi nhận thấy:
Học sinh chưa thực sự chủ động tính tích cực trong giờ học lịch sử (chủ
yếu là nghe, ghi, đọc sách giáo khoa). Đồng thời do yêu cầu phát triển khoa học kỹ
thuật ngày càng nhanh, diễn ra từng ngày, từng giờ đòi hỏi con người phải chủ
động, tích cực, sang tạo để thích ứng được sự phát triển của xã hội. Vì vậy, đất
nước đã đặt ra mục tiêu cho nghành giáo dục “Đào tạo ra những con người có kiến
thức văn hóa, khoa học, có kỹ năng nghề nghiệp, lao động tự chủ, sáng tạo, có kỷ
luật, giàu lòng nhân ái, yêu nước, yêu CNXH, sống lành mạnh, đáp ứng được nhu
cầu phát triển đất nước nhữn năm 90 và chuẩn bị cho tương lai”.
Cũng trong quá trình giảng dạy, tôi nhận thấy học sinh có tiềm năng được
tiếp xúc với nhiều lượng thông tin (từ bố, mẹ, anh chị - nhứng ngưòi có trình độ
văn hoá, làm khoa học). Vì vậy, trong lớp xuất hiện nhiều em có tiềm năng tích
cực, chủ động, cần khơi dậy giúp các em phát triển để đáp ứng mục tiêu và yêu cầu
của đất nước.
Mặt khác, chương trình lịch sử lớp 5 giúp học sinh lĩnh hội được một số tri
thức ban đầu và thiết thực về xã hội. Đó là các sự kiện và nhân vật tiêu biểu trong
lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc. Từ đó hình thành và phát triển ở học
sinh các kỹ năng quan sát, mô tả, phân tích, so sánh, đánh giá mối quan hệ giữa các
sự kiện trong xã hội, đồng thời vận dụng các tri thức đã học vào thực tiễn cuộc
sống. Qua đó khơi dậy và bồi dưỡng tình yêu đất nước, hình thành thái độ đúng
đắn đối với bản thân, gia đình, cộng đồng, kích thích tính ham hiểu biết khoa học
của học sinh. Để từ đó các có lòng tự hào dân tộcm phát huy mọi khả năng để xây
dựng một tương lai xứng đáng với lịch sử của dân tộc.
Chính vì lẽ đó, việc đổi mới phương pháp dạy học lịch sử, cũng như mọi
môn học khác, học sinh tự mình khám phá ra kiến thức (dưới sự hướng dẫn của
giáo viên), tức là học sinh phải được tiếp xúc với các tư liệu lịch sử: tranh ảnh, bản
đồ lịch sử, các di vật, cậu chuyện lịch sử được ghi lại thành lời văn dưới dự định
hướng và kết luận của giáo viên để học sinh tự hình thành các biể tượng lịch sử.
2. Mục đích của đề tài.
Với trăn trở hiện nay, tại sao lớp trẻ rất hiểu về lịch sử các nước nhưng
lại mù mờ về lịch sử của chính dân tộc mình? Chúng ta không trách các em
thờ ơ mà hỏi tại sao chúng ta không đưa lịch sử dân tộc đến với các em bằng
cách nào đó vừa gần gũi, vừa hứng thú để các em tiếp nhận một cách dễ dàng
hơn, không cứng nhắc khô khan? Phải làm sao để các em tự khám phá, để
biết, để hiểu và chắc chắn khi đã biết, đã hiểu thì các em sẽ yêu mến và
những giờ học lịch sử sẽ trở nên hứng thú, say mê hơn. Do đó tôi đã chọn đề
tài: “Biện pháp phát huy tính tích cực của học sinh khi dạy môn Lịch sử lớp 5.”
Hy vọng sẽ đóng góp một phần nhỏ bé, thật nhỏ bé làm rạng danh những
trang sử vàng dân tộc, khơi dậy lòng tự hào về truyền thống đấu tranh của
dân tộc Việt Nam.

PHẦN II: NỘI DUNG NGHIÊN CỨU


1. Cơ sở lí luận
1.1. Những vấn đề về cơ sở lý luận
Kiến thức lịch sử ở tiểu học không được trình bày theo một hệ thống chặt
chẽ mà chỉ chọn ra những sự kiện, hiện tượng nhân vật lịch sử tiêu biểu cho một
giai đoạn lịch sử nhất định đưa vào chương trình môn Lịch sử.
Tuy vậy, những kiến thức trong môn Lịch sử vẫn đảm bảo tính hệ thống
và tính logic của lịch sử ở mức độ thích nhất định.
Môn Lịch sử ở lớp 5 cũng được không nằm ngoài cơ sở trên gồm 32 tiết
với các nhân vật lịch sử và sự kiện chính sau:
Nhân vật lịch sử: Bình Tây đại nguyên soái Trương Định, Nguyễn Trường
Tộ mong muốn đổi mới đất nước, Phan Bội Châu và phong trào Đông Du, quyết
chí ra đi tìm đường cứu nước.
Sự kiện lịch sử: Hơn 80 năm chống thực dân Pháp (1858 - 1945), Xô Viết
Nghệ Tĩnh, các cuộc khởi nghĩa và hoạt động yêu nước chống thực dân Pháp đầu
thế kỉ 20, thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, Cách mạng tháng Tám năm 2945 và
tuyên ngôn Độc lập (2/9/1954); Chín năm kháng chiến chống Pháp (1945 - 1954):
các chiến dịch quân sự lớn. Chiến thắng Điện Biên Phủ. Hiệp định Giơ-ne-vơ
chẩm dứt chiến tranh Đông Dương; Kháng chiến chống Mỹ và xây dựng đất nước
(1954 - 1975); Xây dựng chủ nghĩa xã hội trong cả nước (năm 1975 đến nay).
Với nội dung kiến thức như vậy là vừa tầm với học sinh ở lứa tuổi lớp 5.
Tuy nhiên, thực tế cho thấy học sinh học môn Lịch sử thường tiếp thu một cách thụ
động do đa số giáo viên chỉ dùng một phương pháp đã cũ là thuyết trình cốt sao
cho học sinh chỉ cần nhớ tên nhân vật và sự kiện lịch sử là đủ. Chính vì vậy học
sinh không hứng thú trong các giờ Lịch sử và đặc biệt không hình dung được sinh
động về các sự kiện Lịch sử đã diễn ra cách các em rất xa. Từ đó dễ tạo cho các em
có thói quen ỷ lại, thụ động, dễ quên và trì trệ trong tư duy.
Vì lý do đó, khi mới nhận các em lớp 5B của tôi, qua trao đổi và thông
qua 1 số tiết dạy Lịch sử đầu năm, tôi nhận thấy thực trạng học sinh ở lớp chỉ có
khoảng 5 em học môn này một cách tích cực, khoảng 10 em học trung bình, còn lại
15 em học rất thụ động.
Trên đây là một số cơ sở kí luận và tình hình thực tế dạy học môn lịch sử lớp
5 mà tôi đã gặp phải. Tất nhiên còn nhiều tồn tại ở giáo viên và học sinh. Vậy khi
hướng dẫn học sinh lĩnh hội kiến thức môn Lịch sử như thế nào để phát huy được
tính tích cực của học sinh là một điều mà tôi và các đồng nghiệp rất quan tâm.
1.2. Những vấn đề đặt ra
1.2.1. Đặc điểm môn lịch sử lớp 5:
Đặc điểm môn lịch sử lớp 5 là cung cấp cho học sinh một số kiến thức
cơ bản thiết thực về các sự kiện, nhân vật lịch sử tiêu biểu, sắp xếp theo thứ
tự thời gian, đại diện cho các thời kỳ lịch sử, không chứa đựng huyền thoại,
truyền thuyết hay phóng tác, hư cấu lịch sử. Về mức độ chỉ giới hạn ở mức
biết lịch sử, còn yêu cầu về hiểu lịch sử chỉ ở mức rất sơ đẳng, chủ yếu xem
xét ý nghĩa của các sự kiện, các nhân vật lịch sử đối với xã hội.
1.2.2. Mục tiêu của môn lịch sử lớp 5:
Bước đầu hình thành và rèn luyện cho học sinh các kỹ năng:
- Quan sát các sự vật, hiện tượng; thu thập, tìm kiếm tư liệu lịch sử từ
các nguồn khác.
- Nêu thắc mắc đặt câu hỏi trong quá trình học tập và chọn thông tin để
giải đáp.
- Trình bày lại kết quả học tập bằng lời nói, bài viết, hình vẽ, sơ đồ.
- Vận dụng kiến thức đã học vào cuộc sống.
Ngoài ra, môn Lịch sử còn góp phần bồi dưỡng và phát triển ở học sinh
những thái độ và thói quen:
- Ham học hỏi, tìm hiểu để biết về môi trường xung quanh các em.
- Yêu thiên nhiên, con người, quê hương đất nước.
- Tôn trọng bảo vệ cảnh quan thiên nhiên, văn hoá gần gũi với học sinh.
Từ những giờ học trên lớp, các em biết, hiểu- yêu mến - tự hào hơn về
đất nước, con người Việt Nam. Từ đó các em thấy được trách nhiệm vinh dự
của người đội viên đối với quê hương đất nước, với tổ quốc thân yêu để làm
rạng danh nước Việt trên toàn cầu.
2. Những vấn đề về thực trạng
Qua nhiều năm giảng dạy ở trường tiểu học và trao đổi với đồng nghiệp tôi
đã có những nhận xét chung về thực trạng dạy học như sau:
Học sinh hiểu biết rất mơ hồ về lịch sử, thậm chí còn nhầm lẫn giữa nhân vật
lịch sử nước nhà với nhân vật lịch sử trong phim ảnh, không hứng thú khi đến giờ
học lịch sử.Tình trạng trên theo ý kiến bản thân tôi là do những nguyên nhân sau:
- Nguyên nhân khách quan: Phim ảnh sách truyện về lịch sử của ta
còn nghèo nàn đơn điệu, không phong phú, sức hấp dẫn chưa cao. Nhiều thể
loại chưa phù hợp với lứa tuổi thiếu nhi, các em bị ảnh hưởng nhiều bởi phim
truyện nước ngoài….
- Nguyên nhân chủ quan: Trang thiết bị phục vụ cho môn học còn nghèo
nàn, giáo viên chưa đi sâu nghiên cứu tài liệu giảng dạy, chưa nhiệt
tình trong bài dạy. Các hình thức dạy học còn đơn điệu, khô cứng. Bản thân
giáo viên có phần xem nhẹ môn này so với Toán và Tiếng Việt, chính vì
thế khi tham gia các hội thi giáo viên rất dè dặt khi lựa chọn môn Lịch
sử.
3. Biện pháp pháp huy tính tích cực của học sinh khi dạy Môn Lịch sử lớp 5
Để phát huy tính tích cực của học sinh trong phân môn lịch sử lớp 5 thì
việc lựa chọn phương pháp dạy học và hướng dẫn học sinh cách học là rất quan
trọng. Giáo viên phải lựa chọn phương pháp sao cho phù hợp với từng bài, với
từng đối tượng học sinh sao cho học sinh phải tự khám phá ra kiến thức (dưới dự
hướng dẫn của giáo viên)vì hoạt động của trò là quá trình tự giác, tích cực, tự vận
động, nhận thức và phát triển nhưng phải được điều khiển.
Việc hướng dẫn học sinh cách học bộ môn lịch sử theo từng loại bài, việc
thầy và trò chuẩn bị sưu tầm tài liệu, tranh ảnh, tư liệu lịch sử tất cả đều nhằm phục
vụ cho việc dạy học ở trên lớp với mục đích qua bài học học sinh phát huy được
tính tích cực của mình thông qua phân môn lịch sử.
Trước kia chúng ta thường quan niệm học lịch sử là phải học thuộc, nạp
vào bộ nhớ của học sinh theo lối thầy đọc, trò chép, học thuộc lòng theo thầy, theo
sách giáo khoa là đạt yêu cầu. Nhưng học tập lịch sử theo quan niệm hiện đại
không phải là theo cách trên mà là: Học sinh thông qua làm việc với sử liệu, bằng
các biện pháp tương tác xã hội (học theo nhóm, học cả lớp, đối thoại thầy trò...)
mà tạo ra hình ảnh lịch sử, tự xậy dựng, tự hình dung về quá khứ lịch sử đã diễn ra,
xây dựng sự nhận thức đúng đắn về môn lịch sử. Muốn làm đuợc điều đó khi dạy
học trên lớp, giáo viên cần phải tiến hành qua các bước sau:
Bước thứ nhất: Giáo viên cần phải định hướng được mục đích, nêu nhiệm
vụ nhận thức của tiết học.
Ví dụ: Bài “Chiến dịch Việt Bắc thu – đông 1947” phần giới thiệu bài giáo
viên nói: Sau tiếng súng mở đầu ở Hà Nội ngày 19-12-1946 quân dân ta đã phá tan
kế hoạch tấn công Việt Bắc của địch trong chiến dịch thu-đông 1947. Vì sao lại
xuất hiện chiến dịch này? Diễn biến của chiến dịch ra sao? Ý nghĩa của chiến dịch
là gì? Chúng ta sẽ cùng nhau tìm hiểu qua bài hôm nay “Chiến dịch Việt Bắc thu –
đông năm 1947”.
Bước thứ hai: Đa dạng hoá và phối hợp linh hoạt các hình thức dạy học
Để tạo hứng thú cho học sinh, giáo viên có thể phối hợp các hình thức dạy
học như: Học chung cả lớp, học theo nhóm, học cá nhân, đối thoại thầy – trò, chơi
trò chơi, đóng vai, vận dụng các Kỹ thuật dạy học hợp tác. Tôi chọn “Dạy học
theo góc”
Học theo góc là một hình thức tổ chức hoạt động học tập theo đó học sinh
thực hiện các nhiệm vụ khác nhau tại các vị trí cụ thể trong không gian lớp học;
Kích thích học sinh tích cực học thông qua hoạt động; Đa dạng về nội dung và
hình thức hoạt động. Mục đích là để học sinh được thực hành, khám phá và trải
nghiệm qua mỗi hoạt động.
Ví dụ:
3 góc cùng thực hiện một nội dung và mục tiêu học tập nhưng theo các
phong cách học khác nhau và sử dụng các phương tiện/ đồ dùng học tập khác
nhau. Đọc tài liệu, xem băng, làm thí nghiệm, áp dụng (trải nghiệm), (quan sát),
(phân tích), (áp dụng).
Giáo viên cần nắm vững các bước dạy học theo góc, cụ thể:
Bước 1: Lựa chọn nội dung bài học phù hợp.
Bước 2: Xác định nhiệm vụ cụ thể cho từng góc.
Bước 3: Thiết kế các hoạt động để thực hiện nhiệm vụ ở từng góc bao gồm
phương tiện/tài liệu (tư liệu nguồn, văn bản hướng dẫn làm việc theo góc; bản
hướng dẫn theo mức độ hỗ trợ, bản hướng dẫn tự đánh giá…)
Bước 4: Tổ chức thực hiện học theo góc – HS được lựa chọn góc theo sở thích –
HS được học luân phiên tại các góc theo thời gian quy định để bảo đảm học sâu.
Bước 5: Tổ chức trao đổi/chia sẻ
Ví dụ: Bài 17: “Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ”
Mục tiêu bài học:
- Học sinh biết một số sự kiện của chiến dịch Điện Biên Phủ, ý nghĩa của chiến
thắng Điện Biên Phủ và tinh thần chiến đấu anh dũng của bộ đội ta, tiêu biểu là
anh hùng Phan Đình Giót lấy thân mình lấp lỗ châu mai.
Giáo viên tổ chức cho lớp học theo 3 góc
Góc 1: Phân tích
- Học sinh đọc tài liệu trong sách giáo khoa để tìm hiểu và trả lời câu hỏi:
* Chiến dịch Điện Biên Phủ được chia làm mấy đợt?
* Hành động của anh Phan Đình Giót thể hiện điều gì?
* Nêu ý nghĩa của chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ.
Góc 2: Xem phim
- Ở góc này, học sinh được xem các đoạn phim ngắn chiến thắng lịch sử Điện Biên
Phủ.
- Sau khi xem phim xong, học sinh trả lời các câu hỏi Đúng – Sai trong phiếu học
tập.
Góc 3: Trải nghiệm.
- Học sinh làm việc trên lược đồ.
- Học sinh quan sát lược đồ kể lại các đợt tấn công của chiến dịch Điện Biên Phủ.
Sau khi học sinh học tập ở 3 góc, các em sẽ trở về vị trí của nhóm mình để cùng
thảo luận, trao đổi.
- Các nhóm cử đại diện trình bày, nhóm khác nhận xét,
bổ sung.
- Giáo viên chốt lại các ý đúng, khen ngợi, tuyên dương
các nhóm.
Chính nhờ việc sử dụng phong phú đồ dụng dạy học giúp học sinh gần gũi
với các sự kiện, nhân vật lịch sử hơn dễ gây cho các em ấn tượng sâu sắc, hứng thú
tìm tòi, học tập. Nó tạo điều kiện cho học sinh dễ nhớ, nhớ lâu phát triển năng lực
chú ý quan sat, óc tò mò khoa học. Đặc biệt, nó phù hợp với đặc điểm nhận thức,
đặc điểm lứa tuổi của các em.
Tổ chức tiết học với phần mềm Power

Đối với môn Lịch sử, để phát huy năng lực học tập và hứng thú của học sinh
thì việc thiết kế các tiết học bằng bài giảng điện tử là vô cùng quan trọng và cần
thiết bởi kiến thức của môn học này rất trừu tượng và khá xa lạ với học sinh. Với
các bài giảng điện tử có hình ảnh minh họa và các đoạn phim ngắn sẽ giúp học
sinh dễ tiếp thu bài hơn và hứng thú hơn trong học tập. Khi soạn các bài giảng điện
tử giáo viên cần chú ý mở rộng nội dung bài học bằng cách tìm thêm các tư liệu,
các hình ảnh để học sinh hứng thú và tích cực hơn trong các hoạt động. Các em
thích trực quan sinh động, thích tìm tòi những điều mới lạ và khác biệt.

Ví dụ: Bài 6: “Quyết chí ra đi tìm đường cứu nước”


Để khắc hoạ hình ảnh Bác Hồ về cuộc sống đầy khó khăn của Bác khi trên
tàu La-tut-sơ-tê-lê-vin, có thể dùng hình ảnh con tàu cho học sinh quan sát và trích
một đoạn tư liệu miêu tả hoạt động của Nguyễn Ái Quốc trên tàu như sau:

“Hàng ngày, Thành phải cọ rửa gian bếp lớn trên tàu, sau đó nhóm lò, rồi
khuân than, kéo những sọt rau quả, thịt cá nước đá từ dưới hầm tàu lên. Có lần
trong lúc trời dông bão, Thành đang kéo sọt nặng trên boong thì một đợt sóng lớn
chồm tới cuốn lấy thân thể mảnh dẻ của anh suýt lôi anh xuống biển. Thật may
mắn, vào khoảng khắc cuối cùng thì anh bám được vào dây cáp và từ đó thoát
chết”.

Sau khi tiếp nhận biểu tượng về hình ảnh Bác Hồ học sinh sẽ rất xúc động
trước hành trình gian khổ mà Bác đã phải trải qua để giành lại độc lập tự do cho
đất nước ngày hôm nay. Từ đó các em càng yêu mến, kính trọng và biết ơn Bác
nhiều hơn. Đặc biệt từ hình ảnh Bác Hồ các em còn thấy được trách nhiệm của
mình với quê hương đất nước.

Nhân vật lịch sử được đưa vào sách giáo khoa (bằng ảnh chụp hoặc tranh
vẽ), nhưng có những nhân vật lịch sử không có ảnh chân dung trong sách giáo
khoa. Như vậy học sinh sẽ khó hình dung nhân vật đó như thế nào. Vì vậy để tạo
biểu tượng về nhân vật lịch sử giáo viên có thể sử dụng công nghệ thông tin để tìm
được chân dung nhân vật (ảnh chụp, tranh vẽ, truyền thần...). Trong quá trình trình
tìm hiểu bài, giáo viên nêu lên những đặc điểm có tính hình tượng của nhân vật kết
hợp với miêu tả và sử dụng đồ dùng trực quan như tranh ảnh, hình vẽ... để làm nổi
bật những đặc điểm cơ bản của nhân vật. Từ đó học sinh sẽ hiểu tính cách, tâm
hồn, phẩm chất bên trong của nhân vật Lịch sử.

Bước thứ 3: Đổi mới cách củng cố bài bằng sơ đồ tư duy và vận dụng kiến
thức liên môn

Củng cố bài học là một bước vô cùng quan trọng trong tiết dạy bởi nó giúp
học sinh thống kê lại một cách đầy đủ nội dung bài học hay nói cách khác giúp các
em nắm được trọng tâm bài học, để từ đó khắc sâu kiến thức cho các em. Có nhiều
hình thức để củng cố bài nhưng trong quá trình giảng dạy tôi thường củng cố bằng
cách dùng sơ đồ tư duy và tôi thấy nó khá hiệu quả.

Ví dụ: Bài: “Bình Tây Đại nguyên soái” Trương Định

Tôi sử dụng sơ đồ sau: (sơ đồ 1)

Ở một số bài trong phần củng cố kết thúc tiết học giáo viên có thể kết hợp
vận dụng kiến thức văn học vào để tạo cho học sinh hứng thú hơn, yêu thích môn
học hơn.

Ví dụ: Bài: “Quyết chí ra đi tìm đường cứu nước”


Giáo viên đọc cho học sinh nghe một đoạn trong bài thơ: “Bác đi tìm hình
của đất” của nhà thơ Hoàng Hiếu Nghĩa. Như vậy từ cách vào bài, tiến trình bài
dạy và cách kết thúc đều hướng học sinh tập trung vào học sinh. Ngay từ đầu học
sinh đã có cảm nhận yêu thích môn học. Trong suốt tiết học các em được tham gia
đóng góp ý kiến xây dựng và rút ra kiến thức. Cuối tiết học các em được củng cố
bằng các trò chơi học tập vui và bổ ích. Chính những điều đó đã giúp các em học
tốt phân môn Lịch sử này.

Như trên đã trình bày, một trong những phương pháp dạy học không thể
thiếu được khi dạy môn Lịch sử là phương pháp trực quan. Những phương tiện
trực quan được sử dụng nhiều để dạy môn lịch sử là:
+ Tranh ảnh.
+ Bản đồ lịch sử.
+ Các phương tiện nghe nhìn.
+ Di tích lịch sử.
+ Nhà bảo tàng lịch sử
Giáo viên cần đối chiếu với những phương tiện mà nhà trường đã trang bị
để giáo viên bà học sinh chủ động trong bài dạy, cùng phối kết hợp với phụ huynh
học sinh trong việc sưu tầm, đóng góp cho nhà trường. Chủ động đề nghị với Ban
giám hiệu cho học sinh khối lớp 5 được đi tham quan di tích lịch sử hoặc bảo tàng
lịch sử ở địa phương hoặc yêu cầu phụ huynh học sinh tạo điều kiện tự đưa con em
mình đi tham quan những nơi đó.

PHẦN III: KẾT LUẬN


1. Kết quả
So với đầu năm chất lượng của các em về môn Lịch sử hiện nay đã tiến bộ
rõ rệt.
Tất cả các bài kiểm tra đột xuất, báo trước, kiểm tra miệng các em đều đạt
từ Hoàn thành trở lên.
1. Kết quả về tình cảm với bộ môn:
Trước đây, lớp tôi các em rất sợ khi đến giờ lịch sử và không thích học.
Còn đến nay, các em chờ đón được học một tiết sử hiếm hoi trong tuần với tất cả
lòng nhiệt tình và hào hứng của mình.
2. Kết quả năng lực học tập của học sinh:
Từ sự tự tin, từ năng lực chủ động, phát huy tính tích cực của mình
trong giờ lịch sử, các em đã coi mỗi tiết Lịch sử là một ngày hội, một cuộc thi
nho nhỏ để tìm ra kiến thức mới, được trở lại khí thế hào hùng của dân tộc
trước kia đã cách xa các em rất lâu.Từ đó làm cho các em thêm yêu quê
hương, yêu đất nước hơn
- Bảng so sánh kết quả học tập của học sinh trước và sau khi áp dụng:
+ Kết quả khảo sát trước khi áp dụng:

Tổng số Hoàn thành tốt Hoàn thành Chưa hoàn thành


học sinh SL % SL % SL %
30 7 23,3 21 70 2 6,7

+ Kết quả khảo sát sau khi áp dụng:

Tổng số Hoàn thành tốt Hoàn thành Chưa hoàn thành


học sinh SL % SL % SL %
30 20 66,7 10 33,3
Căn cứ vào những kết quả thu được ở trên, tôi nhận thấy việc áp dụng biện
pháp trên vào việc hướng dẫn học sinh thực sự nâng cao hiệu quả của giờ dạy, phát
huy được tính chủ động sáng tạo và tạo được sự hứng thú say mê của học sinh.
2. Bài học kinh nghiệm
Nói tóm lại để phát huy tính tích cực của học sinh khi dạy môn kịch sử lớp
5, người giáo viên cần phải phối hợp các phương pháp và các hình thức tổ chức
dạy học lịch sử rất đa dạng. Muồn làm được điều đó, giáo viên phải thực hiện:
Nắm vững chương trình.
Nắm vững đặc trưng phương pháp bộ môn.
Sưu tầm tư liệu, tranh ảnh để minh hoạ.
Chuẩn bị cơ sở vật chất cho việc dạy học.
Có như vậy thì thầy cũng nhàn mà học sinh cũng hứng thú, tạo hiệu quả
cao trong những tiêt lịch sử.
I. Một vài đề xuất:
Sở và Bộ cần tạo điều kiện trang bị cho nhà trường các bộ tranh ảnh lịch
sủ dạng dùng cho tiểu học, có sách tham khảo lịch sử cho giáo viên, coá các loại
băng hình, tư liệu về các chiến dịch.
Thành phố nên tổ chức thi hoc sinh giỏi một năm một lần môn lịch sử vì
đay là môn học giúp học sinh “Tìm về cội nguồn dân tộc”.
Trên đây là một vài kinh nghiệm mà tôi đã đúc kết được trong nhiều năm
giảng dạy môn lịch sử lớp 5, phần nào đã đáp ứng được yêu cầu của bộ môn tự
nhiên xã hội nói chung và phân môn lịch sử nói riêng. Song những kết quả đạt
được chỉ là bước đầu. Rất mong được sự góp ý kiến của các ban nganh và các đồng
nghiệp để sao cho việc dạy học môn lịch sử ngày càng hoàn thiện, góp phần nâng
cao hơn nữa chất lượng đào tạo trong nhà trường tiểu học.
Rất mong được sự góp ý chân thành của Hội đồng khoa học và đồng
nghiệp!
Tôi xin chân thành cảm ơn!

Phường 8, ngày 01 tháng 04 năm2021


XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG TÊN TÁC GIẢ
ĐƠN VỊ

Nguyễn Đăng Ngọc

You might also like