You are on page 1of 61

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Độc lập – Tự do – Hạnh phúc


************

BẢN ĐĂNG KÍ SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM NĂM 2015

TÊN SÁNG KIẾN:


“MỘT SỐ KINH NGHIỆM DẠY VÀ BỒI DƯỠNG
HỌC SINH GIỎI MÔN LỊCH SỬ Ở TRƯỜNG THPT CHUYÊN”

Tác giả sáng kiến: NGUYỄN THÙY HƯƠNG


Đơn vị công tác: Trường THPT Chuyên Lương Văn Tụy

1
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
************

BẢN ĐĂNG KÍ SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM NĂM 2015

TÊN SÁNG KIẾN:


“MỘT SỐ KINH NGHIỆM DẠY VÀ BỒI DƯỠNG
HỌC SINH GIỎI MÔN LỊCH SỬ Ở TRƯỜNG THPT CHUYÊN”

Tác giả sáng kiến: NGUYỄN THÙY HƯƠNG


Chức danh: Giáo viên
Học vị: Cử nhân Sư phạm Lịch sử
Đơn vị công tác: Trường THPT Chuyên Lương Văn Tụy

2
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
************

BẢN ĐĂNG KÍ SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM NĂM 2015

I. TÊN SÁNG KIẾN:


“Một số kinh nghiệm dạy và bồi dưỡng học sinh giỏi môn Lịch sử
ở trường THPT Chuyên”
- Lĩnh vực áp dụng: dạy và bồi dưỡng học sinh giỏi môn Lịch sử
II. TÁC GIẢ SÁNG KIẾN:
- Họ và tên: Nguyễn Thùy Hương
- Chức danh: Giáo viên môn Lịch sử
- Học vị: Cử nhân sư phạm Lịch sử
- Địa chỉ: Tổ Sử - Địa, trường THPT Chuyên Lương Văn Tụy, TP
Ninh Bình
- ĐT: 01254071980
- Đ/c mail: ngthuyhuonglvt@gmail.com

III. NỘI DUNG SÁNG KIẾN


1. THỰC TRẠNG CỦA DẠY VÀ BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI
MÔN LỊCH SỬ HIỆN NAY
- Trong lịch sử dân tộc ta, vấn đề giáo dục, đào tạo nhân tài cho đất nước từ
lâu đã đóng một vai trò quan trọng: “Hiền tài là nguyên khí quốc gia…”.
- Hiện nay, ở các tỉnh, thành phố trong cả nước đều có trường THPT chuyên.
Điều đó thể hiện Đảng và Nhà nước ta từ Trung ương đến địa phương đều rất
quan tâm đến công tác phát hiện, bồi dưỡng nhân tài, đào tạo nguồn nhân lực
chất lượng cao cho đất nước, phục vụ công cuộc công nghiệp hóa-hiện đại

3
hóa đất nước. Nhiệm vụ của các trường chuyên là vừa phải thực hiện giáo
dục toàn diện, vừa phải bồi dưỡng để phát triển năng khiếu của học sinh về
một môn học. Nhiệm vụ phát triển năng khiếu của học sinh về một môn học
nhất định nói ngắn gọn là công tác dạy chuyên và bồi dưỡng học sinh giỏi là
một nhiệm vụ chính trị thường xuyên, quan trọng của trường chuyên.
- Công tác dạy chuyên và bồi dưỡng học sinh giỏi mà kết quả của nó là có
những học sinh đạt kết quả cao trong các kì thi học sinh giỏi, nhất là cấp
Quốc gia không chỉ là mục tiêu, nhiệm vụ của Bộ Giáo dục-Đào tạo, của các
trường chuyên trên khắp cả nước mà còn là nhiệm vụ, trách nhiệm, là danh
dự nghề nghiệp của mỗi giáo viên dạy chuyên. Chính vì vậy, giáo viên dạy
chuyên thường phải chịu áp lực lớn về tỉ lệ, số lượng học sinh giỏi đạt giải
Quốc gia. Ở tỉnh ta, giáo viên dạy lớp 10, 11 chuyên lại thêm áp lực nữa là
đến khoảng đầu năm học lớp 11, học sinh phải được trang bị đầy đủ kiến thức
của chương trình toàn cấp, để các em có thể tham dự và đạt giải trong kì thi
Học sinh giỏi cấp Tỉnh lớp 12 và Học sinh giỏi cấp Quốc gia.
- Trong bối cảnh hiện nay, vị trí xã hội của bộ môn Lịch sử còn rất thấp. Mặc
dù môn Lịch sử có vai trò là “ôn cố tri tân” – học quá khứ để hiểu biết về
hiện tại và hướng tới tương lai; đồng thời còn góp phần giáo dục đạo đức,
nhân cách cho học sinh. Nhưng lâu nay, môn Sử vẫn bị coi là “môn phụ” ở
các trường từ tiểu học đến trung học. Hơn nữa, một thực tế không ai có thể
phủ nhận được là nếu học sinh chuyên tâm vào bộ môn Lịch sử thì cơ hội tốt
đối với các em rất ít, trong khi các ngành khác như kinh tế, kĩ thuật… thì lại
đảm bảo cho các em một tương lai tốt hơn. Vì vậy, nhiều học sinh dù có năng
lực bộ môn nhưng không muốn thi vào lớp chuyên Sử, hoặc không muốn
tham dự các kì thi học sinh giỏi môn Sử; những em lực học khá, giỏi mà chọn
chuyên Sử do đam mê là rất hiếm; đa phần những học sinh chọn thi vào lớp
chuyên Sử là do không đủ khả năng thi vào được các lớp chuyên khác.
- Trong khung chương trình THPT của Bộ GD-ĐT số giờ dạy Lịch sử ít (lớp
10 có 1,5 tiết/tuần, lớp 11 có 1 tiết/tuần, lớp 12 có 1,5 tiết/tuần), mà đa phần

4
là dạy lí thuyết, số tiết dạy thực hành hoặc làm bài tập lịch sử là không đáng
kể. Bên cạnh đó, số lượng giáo viên Lịch sử của mỗi trường cũng ít, mỗi giáo
viên phải dạy nhiều lớp, nhiều khối, thời gian để đầu tư cho chuyên môn
không nhiều.
- Tài liệu tham khảo dành cho dạy và bồi dưỡng học sinh giỏi môn Lịch sử
không nhiều, thường tích hợp với ôn thi Đại học, Cao đẳng nên chỉ tập trung
vào kiến thức Lịch sử lớp 12, mà trọng tâm là cung cấp kiến thức chứ chưa
đề cập đến phương pháp dạy và bồi dưỡng học sinh giỏi.
- Giáo viên dạy chuyên và bồi dưỡng học sinh giỏi môn Lịch sử chủ yếu dạy
bằng kinh nghiệm thực tiễn đúc rút từ năm này qua năm khác: trên cơ sở
khung chương trình, mỗi giáo viên phải lựa chọn nội dung kiến thức, tự tìm
tài liệu để phục vụ việc giảng dạy và ôn luyện. Thực tế đó gây khó khăn, lúng
túng cho các giáo viên trẻ khi được phân công dạy và bồi dưỡng học sinh giỏi
môn Lịch sử.
- Thời gian gần đây, Bộ Giáo dục-Đào tạo có nhiều thay đổi về qui chế thi tốt
nghiệp THPT và thi Đại học, Cao đẳng, trong đó cho thí sinh được phép lựa
chọn môn thi; Bộ Giáo dục-Đào tạo cũng đang xây dựng đề án Đổi mới
Chương trình sách giáo khoa giáo dục phổ thông, trong đó môn Lịch sử được
tích hợp với một số môn khác thành môn khoa học xã hội. Thực tế đó càng
tạo thêm nhiều khó khăn cho công tác dạy và bồi dưỡng học sinh giỏi môn
Lịch sử.
2. GIẢI PHÁP CŨ
Công tác dạy và bồi dưỡng học sinh giỏi môn Lịch sử ở trường chuyên có
nhiệm vụ đào tạo những học sinh giỏi bộ môn Lịch sử, cần phải đạt được 3
mục tiêu chính: giáo dưỡng (cung cấp kiến thức khoa học, chính xác có căn
cứ xác thực), giáo dục (đạo đức, phẩm chất, tư tưởng, tình cảm dựa trên cơ sở
kiến thức khoa học) và phát triển kỹ năng (khả năng tư duy và hành động).
Do đó, những học sinh giỏi bộ môn Lịch sử không chỉ là những học sinh nắm
vững những kiến thức về khoa học Lịch sử mà cần phải hiểu sâu sắc và biết

5
vận dụng những kiến thức đã học vào giải quyết những vấn đề thực tiễn đặt ra
trong cuộc sống.
Tuy nhiên, việc dạy và bồi dưỡng học sinh giỏi môn Lịch sử lâu nay vẫn
thường theo phương pháp truyền thống:
- Giáo viên:
+ Việc giảng dạy chủ yếu là truyền đạt, cung cấp kiến thức, nên ít gây
được hứng thú học tập bộ môn của học sinh.
+ Việc hướng dẫn học sinh kĩ năng học và làm bài có được chú ý
nhưng chưa thường xuyên.
+ Việc sử dụng hệ thống câu hỏi thường tập trung trong giai đoạn ôn
luyện, kiểm tra.
- Học sinh:
+ Phải học nhiều kiến thức, phải nhớ nhiều sự kiện lịch sử theo lối thụ
động, “học vẹt”, thày dạy gì – học nấy nên chưa có mục tiêu, động cơ, hứng
thú học tập.
+ Không thường xuyên được hướng dẫn kĩ năng học và làm bài môn
Lịch sử.
+ Đến giai đoạn ôn luyện mới được trang bị hệ thống câu hỏi nên
choáng ngợp trước khối lượng kiến thức đồ sộ, dễ “học tủ”, “học lệch”.
Công tác dạy và bồi dưỡng học sinh giỏi môn Lịch sử theo phương
pháp cũ có ưu điểm và hạn chế như sau:
- Ưu điểm: bảo đảm được thời gian và tiến độ thực hiện chương trình dạy và
bồi dưỡng học sinh giỏi bộ môn.
- Nhược điểm: lệ thuộc nhiều vào kiến thức của người thày, không kích thích
được khả năng tư duy, sáng tạo của học sinh; học sinh phải học nhiều kiến
thức nên có tâm lí sợ, ngại học lịch sử.
Để góp phần nâng cao chất lượng dạy và bồi dưỡng học sinh giỏi môn
Lịch sử, trên cơ sở kinh nghiệm của bản thân đúc rút được qua quá trình được
phân công dạy chuyên Sử và tham gia bồi dưỡng Học sinh giỏi Quốc gia môn

6
Lịch sử, tôi chọn đề tài sáng kiến: “Một số kinh nghiệm dạy và bồi dưỡng
Học sinh giỏi môn Lịch sử ở trường THPT chuyên”. Với sáng kiến này, tôi
muốn trao đổi, chia sẻ kinh nghiệm của mình với các đồng nghiệp, nhất là với
những giáo viên môn Lịch sử trẻ mới bước vào nghề; cũng như mong muốn
góp phần nhỏ vào việc nâng cao chất lượng giáo dục môn Lịch sử và tăng
cường vị thế về giáo dục - đào tạo của tỉnh nhà.
3. GIẢI PHÁP MỚI
3.1. Nội dung giải pháp
- Học tập nói chung và học tập môn Lịch sử nói riêng là quá trình tiếp thu
kiến thức. Kiến thức lịch sử lại hết sức phong phú và tăng lên với mức độ
nhanh chóng mà trường chuyên cũng không sao truyền thụ hết được. Trong
khi đó, khả năng hiểu biết và khả năng học tập của con người trong cả cuộc
đời là có giới hạn. Cho nên, việc dạy và bồi dưỡng học sinh giỏi ở trường
chuyên cần phải phù hợp với đặc điểm tâm lí và khả năng nhận thức của học
sinh năng khiếu, cần phải làm cho quá trình học tập của học sinh trở thành
quá trình chủ động, tiến dần lên quá trình tự nghiên cứu độc lập.
- Nhiệm vụ tư duy đặt ra cho học sinh chuyên phần lớn là những vấn đề lịch
sử tổng hợp, sâu rộng. Nếu không có vốn tri thức phong phú, không thông
hiểu và nắm vững tri thức đã có, không có lòng ham muốn hiểu biết, ham
muốn học hỏi, tự học, tự tìm tòi, suy nghĩ, và không biết vận dụng kiến thức
đã học để hiểu biết kiến thức mới thì học sinh không thể nào giải quyết được
các vấn đề đặt ra của đề thi học sinh giỏi các cấp. Muốn học sinh có những
phẩm chất trên, vai trò của người thày là rất lớn.
Trong những năm được phân công giảng dạy ở lớp chuyên Sử và tham
gia bồi dưỡng học sinh giỏi Quốc gia môn Lịch sử, tôi đã tiến hành một số
biện pháp sau:
3.1.1.Biện pháp 1: Phải xác định mục tiêu, động cơ, hứng thú học tập lịch
sử cho học sinh

7
Về mặt lí luận, xác định mục tiêu học tập là hình thành ở học sinh động
cơ đúng đắn trong học tập. Động cơ là động lực bên trong thúc đẩy trực tiếp
con người ta hoạt động. Mọi động cơ của con người đều là biểu hiện của nhu
cầu. Nhu cầu lại được biểu hiện dưới nhiều hình thức như hứng thú, ý định,
ham muốn… Hứng thú là biểu hiện tình cảm, nhu cầu nhận thức của con
người. Nếu không có động cơ học tập, học sinh sẽ không có nhu cầu tham gia
tích cực vào bài học, không có hứng thú với bài học, do đó không học tập
một cách tích cực, không trở thành học sinh giỏi được.
Để nâng cao chất lượng dạy học lịch sử ở trường THPT nói chung, bồi
dưỡng học sinh giỏi môn Lịch sử nói riêng đầu tiên phải hình thành mục tiêu,
động cơ, thái độ học tập đúng đắn, tức là người thày phải khơi gợi được hứng
thú của học sinh đối với việc học tập, giúp các em xác định được mục đích
học tập. Công việc này được thường được tiến hành trong bài mở đầu, tiết
học đầu tiên, nhưng vẫn có thể được nhắc lại nhiều lần trong suốt quá trình
giảng dạy ở lớp chuyên Sử.
Động cơ học tập môn Lịch sử của học sinh có thể được tạo ra bằng sức
mạnh của nội dung bài học: Trong bài mở đầu, giáo viên giúp học sinh thấy
được mục đích, yêu cầu của học kì, của năm học, thậm chí của cả cấp học
đồng thời biết nêu ra 1 số vấn đề trong nội dung học tập có khả năng khêu gợi
hứng thú của học sinh, khiến các em khao khát muốn được biết, muốn được
chiếm lĩnh tri thức, từ đó kích thích tính tích cực học tập của học sinh.
Động cơ học tập môn Lịch sử của học sinh cũng có thể được tạo ra bởi
quyền lợi được hưởng của các em (được khen thưởng, được cộng điểm hoặc
được vào thẳng 1 số trường Đại học, Cao đẳng…).
Thông qua việc được giáo viên truyền cảm hứng trong những tiết học
đầu tiên, học sinh xác định được mục tiêu học tập, có động cơ, hứng thú
trong học tập môn Lịch sử, đây chính là khởi nguồn để phát huy tính tích cực
của các em trong học tập, là tiền đề để có học sinh giỏi bộ môn Lịch sử.
(Xem thêm phụ lục trang 28, 29)

8
3.1.2.Biện pháp 2: Phải trang bị cho học sinh những kĩ năng học và làm
bài thi môn Lịch sử
Lâu nay, theo quan niệm của nhiều người, thậm chí là của cả một bộ
phận giáo viên dạy Lịch sử cho rằng: Lịch sử là một môn học thuộc, chỉ cần
học nhiều, đọc nhiều, nhớ được nhiều sự kiện là trở thành người giỏi sử. Đây
là một quan niệm khá sai lầm.
Tất nhiên, khi học bất kì một môn học nào (Toán, Lí, Hóa, Văn, Ngoại
ngữ, Lịch sử…), yếu tố đầu tiên là phải học thuộc, phải nhớ. Có nhớ công
thức (của các môn tự nhiên), có nhớ tác phẩm văn học, có nhớ từ mới hoặc
cấu trúc câu (của môn ngoại ngữ), có nhớ sự kiện và thời gian diễn ra sự kiện
(của môn Lịch sử)… mới làm được bài kiểm tra, bài thi môn đó. Muốn trở
thành học sinh giỏi môn Lịch sử, yếu tố cơ bản đầu tiên là phải học, phải nắm
được các kiến thức lịch sử cơ bản. Tuy nhiên, không phải học sinh nào nhớ
được nhiều sự kiện, thời gian cũng trở thành giỏi sử, cũng đạt giải cao trong
các kì thi học sinh giỏi môn Lịch sử. Các đề thi học sinh giỏi, nhất là đề thi
Quốc gia không đòi hỏi thí sinh học thuộc lòng sách giáo khoa để khi làm bài
chép lại như sách mà phải: trên cơ sở nắm chính xác những sự kiện cơ bản,
phù hợp với trình độ học sinh, các em phải hiểu và giải quyết được vấn đề
thực tiễn đặt ra.
Thực tế trong dạy và bồi dưỡng học sinh giỏi môn Lịch sử nhiều năm,
tôi thấy: muốn trở thành một học sinh giỏi môn Lịch sử, đi thi đạt giải cao,
học sinh đó phải có những kĩ năng học và làm bài thi môn Lịch sử. Những kĩ
năng này không phải tự nhiên, hoặc ngày một ngày hai mà có. Những kĩ năng
ấy phải được các thày, cô giáo dạy Lịch sử hình thành, bồi dưỡng cho học
sinh ngay từ khi các em học lớp 10 trường THPT chuyên.
3.1.2.a. Kĩ năng ghi nhớ kiến thức lịch sử
Trí nhớ có vai trò rất quan trọng trong đời sống con người cũng như
trong học tập. Trong học tập Lịch sử, việc ghi nhớ kiến thức vô cùng quan
trọng, là cơ sở để học sinh đi sâu, tìm hiểu bản chất của các sự kiện, hiện

9
tượng lịch sử; là nền tảng để học tập bộ môn có hiệu quả, để vận dụng một
cách linh hoạt trong học tập và cuộc sống.
Lịch sử là cụ thể. Mỗi sự kiện, hiện tượng lịch sử luôn luôn gắn liền
với một không gian, thời gian, nhân vật lịch sử nhất định, mà nếu tách các
yếu tố đó ra thì chúng ta không thể hiểu Lịch sử được nữa. Vì vậy, trong quá
trình dạy học, để học sinh có kĩ năng ghi nhớ kiến thức lịch sử hiệu quả, giáo
viên cần hướng dẫn học sinh sử dụng và thường xuyên rèn luyện các cách
nhớ, dạng nhớ khác nhau bao gồm: Ghi nhớ các sự kiện, hiện tượng lịch sử
điển hình; Ghi nhớ thời gian xảy ra sự kiện, hiện tượng lịch sử; Ghi nhớ
không gian xảy ra sự kiện, hiện tượng lịch sử; Ghi nhớ nhân vật lịch sử.
3.1.2.a.1. Để ghi nhớ các sự kiện, hiện tượng lịch sử điển hình: giáo viên có
thể rèn luyện cho học sinh bằng các cách như:
- Tìm ý, diễn đạt các ý bằng ngôn ngữ của mình để ghi nhớ:
Sách giáo khoa thường viết theo một trật tự nhất định, trong đó gồm
phần kiến thức trọng tâm – các “từ khóa”, và các “từ nối”. Để ghi nhớ được
nội dung cơ bản, học sinh cần kết hợp đọc sách giáo khoa với bài giảng của
giáo viên để tìm xem mỗi nội dung có mấy ý, chỉ cần nhớ ý chính mà không
cần nhớ trọn vẹn câu chữ. Trên cơ sở các ý đã chọn, học sinh tự diễn đạt (nói
hoặc viết) bằng ngôn ngữ của mình, không nhất thiết phải lặp lại câu chữ
trong sách giáo khoa. Việc này không khó nhưng phải luyện nhớ nhiều lần.
Ví dụ:
Khi học diễn biến một cuộc cách mạng, nhất thiết phải chọn các mốc
mở đầu, đỉnh cao, kết thúc, cùng một số sự kiện quan trọng khác để nhớ.
Khi học ý nghĩa thắng lợi của mỗi cuộc cách mạng lớn đều có ý nghĩa
dân tộc và ý nghĩa quốc tế; ý nghĩa dân tộc thường là kết thúc cái gì và mở ra
cái gì, ý nghĩa quốc tế thường là tác động ra sao đến bạn và thù của lực lượng
làm cách mạng.
- So sánh sự kiện này với sự kiện khác tìm ra điểm tương đồng và khác
biệt.

10
Kĩ năng này giúp học sinh dễ nhớ kiến thức lịch sử. Kiến thức lịch sử
có những cặp sự kiện khi mới tiếp xúc tưởng giống nhau, nếu học không kĩ,
rất dễ nhầm lẫn. Để phân biệt chúng, học sinh cần so sánh xem chúng giống
và khác nhau ở những điểm nào.
Ví dụ:
So sánh Cương lĩnh tháng 2/1930 của Đảng Cộng sản Việt Nam với
Luận cương tháng 10/1930 của Đảng Cộng sản Đông Dương, tìm ra điểm
giống và khác nhau.
- Ghi nhớ sự kiện, hiện tượng lịch sử qua hình ảnh.
Đây là cách ghi nhớ rất có hiệu quả vì hình ảnh trực quan chọn lọc
giúp học sinh dễ hiểu và tạo hứng thú học tập.
Ví dụ:
Sử dụng hình ảnh về nạn đói năm 1945 để khắc sâu kiến thức về tội ác
của bọn thực dân – phát xít ở nước ta trước cách mạng tháng Tám 1945.
- Sử dụng cách nói ví von để ghi nhớ sự kiện, hiện tượng lịch sử.
Cách nói ví von, giàu hình ảnh tượng trưng, quy cái chưa biết về cái đã
biết, biến cái phức tạp thành cái đơn giản giúp học sinh dễ nhớ kiến thức lịch
sử.
Ví dụ:
Hồ Chí Minh ví chủ nghĩa đế quốc như “con đỉa có 2 vòi”.
Tình thế nước ta sau cách mạng tháng Tám 1945 được ví như “ngàn
cân treo sợi tóc”.
3.1.2.a.2. Để ghi nhớ thời gian xảy ra sự kiện, hiện tượng lịch sử: giáo viên
cần hướng dẫn học sinh nhớ nhanh, nhớ lâu các mốc thời gian quan trọng,
làm cơ sở để hiểu sâu sắc bản chất của sự kiện, hiện tượng lịch sử; đồng thời
hướng dẫn học sinh cách nhớ thời gian xảy ra sự kiện một cách hiệu quả như:
- Nhớ thời gian xảy ra sự kiện, hiện tượng lịch sử một cách tương đối dựa
theo đặc trưng của các mùa trong năm (xuân, hạ, thu, đông); nhớ theo thập
niên, thế kỉ, thiên niên kỉ.

11
Ví dụ:
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời vào mùa xuân năm 1930.
Khởi nghĩa Yên Thế kéo dài gần 30 năm cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ
XX.
- Nhớ thời gian một cách logic: Chọn một mốc thời gian quan trọng, dễ nhớ
làm điểm tựa rồi suy ra các mốc thời gian khác (so sánh các con số, tìm ra
quy luật để nhớ).
Ví dụ:
Năm 1427 khởi nghĩa Lam Sơn thắng lợi, 100 năm sau nhà Mạc thành
lập (1527), 200 năm sau chiến tranh Trịnh – Nguyễn bùng nổ (1627)
Tháng 9 năm 1940, khởi nghĩa Bắc Sơn bùng nổ, 2 tháng sau
(11/1940) khởi nghĩa Nam kì bùng nổ, 2 tháng sau (1/1941) binh biến Đô
Lương bùng nổ.
3.1.2.a.3. Để ghi nhớ không gian xảy ra sự kiện, hiện tượng lịch sử: giáo viên
có thể dùng các phương tiện như đồ dùng trực quan (bản đồ, lược đồ, sơ đồ
lịch sử), tranh ảnh, phim tư liệu kết hợp với trình bày miệng (miêu tả, nêu đặc
điểm...), và tài liệu tham khảo. (Xem thêm phụ lục trang 30)
3.1.2.a.4. Ghi nhớ nhân vật lịch sử:
Lịch sử là do con người sáng tạo nên, hoạt động của các nhân vật góp
phần cụ thể hóa quá trình phát triển của lịch sử, của một chế độ chính trị liên
quan đến nhân vật đó. Để nhớ các nhân vật lịch sử, giáo viên hướng dẫn cho
học sinh các cách:
- Nêu đặc điểm của nhân vật, kết hợp với tranh ảnh chân dung.
Ví dụ:
Để nhớ nhân vật vua Hàm Nghi, cần kết hợp nhớ hình ảnh – chân dung
vua, với sử dụng tài liệu tham khảo để nhớ tính cách, hoạt động của ông:
trang phục giản dị như dân thường, vẻ mặt lộ rõ sự kiên nghị, tính tình khảng
khái…
Bixmac được mệnh danh là “Thủ tướng sắt và máu”…

12
- “Lấy người nói việc”:
Ví dụ:
C.Mác là linh hồn của Quốc tế thứ nhất.
Ph.Ăngghen là linh hồn của Quốc tế thứ hai…
- “Lấy việc nói người”:
Ví dụ:
Người đốt cháy tàu Pháp trên sông Nhật Tảo là Nguyễn Trung Trực.
Người lấy thân mình lấp lỗ châu mai là Phan Đình Giót…
- Nhớ câu nói nổi tiếng của nhân vật hay câu nói của những người nổi
tiếng về một nhân vật nào đó.
Ví dụ:
Mác nói về Chie- “tên quỷ lùn khét tiếng tàn bạo”.
Lý Thường Kiệt với kế “tiên phát chế nhân”.
3.1.2.b. Kĩ năng tư duy lịch sử
Tư duy lịch sử là một hoạt động trí tuệ, giúp con người đi sâu vào nhận
thức bản chất sự kiện, hiện tượng cũng như mối liên hệ, quan hệ có tính quy
luật giữa chúng. Đặc điểm của tư duy lịch sử là: biết miêu tả, khôi phục lại
những sự kiện lịch sử quá khứ trên cơ sở tài liệu; nêu được nguyên nhân xuất
hiện của sự kiện lịch sử; xác định được điều kiện, hoàn cảnh, những mối liên
hệ của các sự kiện; nhận biết tính chất, ý nghĩa, bài học kinh nghiệm rút ra từ
sự kiện, nhất là những sự kiện lớn, quan trọng; xác định động cơ hoạt động
của những tầng lớp, tập đoàn, cá nhân trong lịch sử; biết liên hệ, so sánh, đối
chiếu sự kiện lịch sử với đời sống và rút ra bài học kinh nghiệm...
Theo tôi, đối với học sinh nói chung và học sinh chuyên Sử nói riêng,
rất cần thiết phải được phát triển kĩ năng tư duy lịch sử. Có kĩ năng tư duy
lịch sử, học sinh mới hiểu được lịch sử, say mê lịch sử và bộ môn Lịch sử
mới phát huy hết giá trị “ôn cố tri tân” của mình - tức là học quá khứ để hiểu
biết hiện tại và dự đoán tương lai. Nếu không có kĩ năng tư duy lịch sử thì đối
với học sinh, môn Lịch sử chỉ là một môn học khô khan, chán ngấy, với một

13
tập hợp khổng lồ những sự kiện cùng ngày, tháng khó học, khó nhớ, giá trị
thực tiễn không cao. Khi học sinh không có hứng thú với bộ môn, chắc chắn
sẽ không có nhân tài, không có học sinh giỏi. Để phát triển kĩ năng tư duy
lịch sử cho học sinh chuyên, tôi áp dụng các cách sau: tạo tình huống có vấn
đề; sử dụng hệ thống câu hỏi; sử dụng bảng so sánh.
3.1.2.b.1. Tạo tình huống có vấn đề: giáo viên tạo tình huống có vấn đề thông
qua bài tập nhận thức để tập trung sự chú ý của học sinh, làm nảy sinh khát
vọng muốn tìm kiếm kiến thức mới để giải đáp những điều chưa biết.
Ví dụ:
Khi dạy bài Nhật Bản (cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX), giáo viên đưa
ra bài tập nhận thức: “Vì sao trong khi hầu hết các nước châu Á đều bị biến
thành thuộc địa (Trung Quốc, Ấn Độ, Việt Nam) thì Nhật Bản là nước duy
nhất giữ được độc lập và trở thành một nước tư bản hùng mạnh?”.
Với bài tập nhận thức này, học sinh được đặt vào tình huống có vấn đề,
tức là trong tư duy của các em xuất hiện xung đột, kiến thức cũ không giải
quyết được, đòi hỏi phải huy động kiến thức mới để giải quyết, qua đó kích
thích tư duy học sinh phát triển trong suốt bài học.
3.1.2.b.2. Sử dụng hệ thống câu hỏi trong dạy học lịch sử là một trong những
biện pháp có ưu thế để phát triển tư duy sáng tạo cho học sinh. Tuy nhiên,
giáo viên cũng cần đặt câu hỏi vừa sức với học sinh, tránh câu quá đơn giản
chỉ cần trả lời “có”, “không” hoặc quá khó sẽ không có tác dụng phát triển tư
duy cho học sinh.
Trong quá trình dạy học, tôi luôn sử dụng các loại câu hỏi sau để tạo điều
kiện cho phát triển tư duy học sinh:
- Sử dụng loại câu hỏi “Vì sao…?”, “Nguyên nhân nào…?” (ở phần đầu
của bài giảng): để kích thích học sinh tìm hiểu về sự phát sinh của các sự
kiện, hiện tượng lịch sử.
- Sử dụng loại câu hỏi “quá trình diễn biến, phát triển của sự kiện, hiện
tượng lịch sử”: loại câu hỏi này tuy học sinh ít suy luận vì chủ yếu dựa vào

14
sách giáo khoa để trình bày nhưng đòi hỏi các em phải có trí nhớ, phải biết
nhiều về sự kiện, địa danh, nhân vật lịch sử.
- Sử dụng loại câu hỏi “Tìm hiểu kết quả, ý nghĩa…” của sự kiện, hiện
tượng lịch sử (ở cuối bài): để buộc học sinh phải biết tổng hợp kiến thức, tự
rút ra nhận định, đánh giá phù hợp với nội dung, diễn biến sự kiện.
- Sử dụng loại câu hỏi “Nêu đặc trưng, bản chất…” của các hiện tượng lịch
sử (ở cuối bài): loại câu hỏi này đòi hỏi học sinh phải biết phân tích, đánh giá,
bày tỏ thái độ của mình đối với sự kiện, hiện tượng lịch sử.
- Sử dụng loại câu hỏi “Đối chiếu, so sánh, các sự kiện, hiện tượng lịch sử
này với sự kiện, hiện tượng lịch sử khác” (trong ôn tập), đòi hỏi học sinh
phải đào sâu suy nghĩ để tìm ra điểm giống, khác nhau, từ đó thấy được bản
chất của sự kiện, hiện tượng lịch sử. (Xem thêm phụ lục trang 31, 32)
3.1.2.b.3. Sử dụng bảng so sánh
Bảng so sánh là loại đồ dùng trực quan qui ước dùng để đối chiếu, so
sánh nhằm làm rõ bản chất, đặc trưng của các sự kiện, hiện tượng lịch sử.
Qua việc giáo viên sử dụng Bảng so sánh khi giảng dạy và hướng dẫn học
sinh cách lập Bảng so sánh, kĩ năng tư duy đối sánh của học sinh được phát
triển.
Ví dụ:
Lập Bảng so sánh chủ trương của Đảng thể hiện qua Hội nghị Ban
chấp hành Trung ương Đảng tháng 7/1936 và tháng 11/1939.
Hội nghị Ban chấp hành Chủ Hội nghị Ban chấp hành
Trung ương Đảng tháng trương Trung ương Đảng tháng
7/1936 11/1939
Đấu tranh chống chế độ phản Nhiệm vụ Đánh đổ đế quốc và tay sai, làm
động thuộc địa, chống phát xít, cho Đông Dương hoàn toàn độc
chống chiến tranh, đòi tự do, lập
dân sinh, dân chủ, cơm áo, hòa

15
bình
Đòi tự do, dân sinh, dân chủ, Khẩu “Tịch thu ruộng đất của đế quốc
cơm áo, hòa bình hiệu và địa chủ phản cách mạng”,
“Thành lập chính phủ dân chủ
cộng hòa”
Kết hợp các hình thức công Phương Bí mật, bất hợp pháp
khai-bí mật, hợp pháp-bất hợp pháp
pháp
“Mặt trận thống nhất nhân dân Hình thức “Mặt trận thống nhất dân tộc
phản đế Đông Dương” -> 1938 mặt trận phản đế Đông Dương “
đổi thành “Mặt trận dân chủ
Đông Dương “
Với việc sử dụng Bảng so sánh trên, giáo viên giúp học sinh nhận thức
một cách sâu sắc hơn về sự chuyển hướng chỉ đạo chiến lược cách mạng của
Đảng từ năm 1939, đồng thời học sinh thấy được sự khác nhau trong chủ
trương của Đảng qua 2 thời kì cách mạng 1936-1939 và 1939-1945.
3.1.2.c. Kĩ năng sử dụng sơ đồ lịch sử và sơ đồ tư duy trong học tập
Sơ đồ lịch sử là loại đồ dùng trực quan nhằm cụ thể hóa nội dung một
sự kiện, hiện tượng lịch sử bằng những mô hình hình học đơn giản để học
sinh nắm được những nét đặc trưng của mỗi sự kiện, hiện tượng lịch sử và
nêu lên mối liên hệ giữa các sự kiện, hiện tượng lịch sử.
Sơ đồ tư duy là một hình thức “ghi chép” bằng cách kết hợp việc sử
dụng đồng thời những “từ khóa”, hình ảnh, đường nét, màu sắc với sự tư duy
tích cực, nhằm tóm tắt những ý chính của một nội dung, hệ thống hóa kiến
thức của một chủ đề, hay cách giải của một dạng bài tập… So với sơ đồ lịch
sử, sơ đồ tư duy mới được áp dụng ở Việt Nam từ năm 2006, nhưng vẫn chưa
được ứng dụng đại trà trong dạy học Lịch sử.
Để giúp học sinh học tập bộ môn hiệu quả, nhiều lần tôi đã sử dụng và
hướng dẫn học sinh sử dụng 2 loại sơ đồ này. Tuy nhiên do điều kiện cơ sở
16
vật chất nhà trường, nên việc áp dụng sơ đồ tư duy vào dạy - học mới chỉ
dừng lại ở cách lập truyền thống với hình thức đơn giản nhất (dùng phấn, bút,
bảng, giấy).
3.1.2.c.1. Hướng dẫn học sinh kĩ năng xây dựng sơ đồ lịch sử và trình bày
kiến thức qua sơ đồ:
- Bước 1: Xây dựng khung sơ đồ.
Xác định kiến thức cơ bản nhất và mã hóa bằng các hình quy ước để
làm khung sơ đồ (sử dụng các hình vuông, hình chữ nhật hoặc hình tròn…)
- Bước 2: Dùng mũi tên hoặc các đoạn thẳng để nối các khung sơ đồ với nhau
để diễn tả mối quan hệ giữa nội dung các khung sơ đồ.
- Bước 3: Hoàn thiện sơ đồ (đặt tên và kiểm tra độ chính xác của sơ đồ).
- Bước 4: Tập trình bày kiến thức theo sơ đồ (theo chiều từ phải sang trái
hoặc từ trên xuống dưới, từ đỉnh xuất phát đến đỉnh cuối), ngôn ngữ trình bày
rõ ràng, ngắn gọn, dễ hiểu; đánh giá, rút ra kết luận về mối quan hệ giữa các
sự kiện, hiện tượng lịch sử qua sơ đồ. (Xem thêm phụ lục trang 33, 34)
3.1.2.c.2. Hướng dẫn học sinh kĩ năng xây dựng sơ đồ tư duy và trình bày
kiến thức qua sơ đồ:
- Bước 1: Xác định chủ đề trung tâm của sơ đồ, chọn cụm từ trung tâm (từ
khóa) là tên của bài học hay một mục kiến thức...
- Bước 2: Vẽ các nhánh cấp 1 là nội dung (ý chính) của chủ đề trung tâm, tùy
theo số lượng nhánh cấp 1 mà bố trí cho cân đối xung quanh (từ khóa) trung
tâm.
- Bước 3: Vẽ bổ sung các nhánh cấp 2, cấp 3, cấp 4… Đây là sự lặp lại của
Bước 2, các cụm từ ở nhánh cấp 1 bây giờ là (từ khóa) trung tâm của nhánh
đó.
- Bước 4: Hoàn thiện sơ đồ tư duy, đặt tên.
- Bước 5: Trình bày kiến thức qua sơ đồ tư duy bằng ngôn ngữ rõ ràng, ngắn
gọn, dễ hiểu. (Xem thêm phụ lục trang 35)
3.1.2.d. Kĩ năng làm bài thi môn Lịch sử

17
Thi học sinh giỏi môn Lịch sử hiện nay vẫn theo hình thức thi tự luận.
Mỗi đề thi học sinh giỏi có nhiều câu (cấp Quốc gia là 7 câu), trong một thời
gian có giới hạn (180 phút), đòi hỏi học sinh phải có kĩ năng làm bài cơ bản
mới giải quyết được đề thi. Kĩ năng làm bài gồm có: nhận thức đề, giải quyết
đề, phân phối thời gian và trình bày bài.
3.1.2.d.1. Nhận thức đề và Giải quyết đề:
Đề thi học sinh giỏi gồm nhiều câu hỏi, mỗi câu hỏi có thể đề cập tới
một hoặc nhiều sự kiện, vấn đề. Các câu hỏi trong đề thi học sinh giỏi nhất là
cấp Quốc gia thường ra theo các cấp độ nhận thức như sau:
- Nhận biết: thể hiện qua các động từ “nêu, liệt kê, trình bày, kể tên,
nhận biết…”.
- Thông hiểu: thể hiện qua các động từ “hiểu được, giải thích, phân
biệt, tại sao, vì sao, hãy lí giải, vì sao nói, khái quát…”.
- Vận dụng (bậc thấp): thể hiện qua các động từ “xác định, dự đoán,
thiết lập liên hệ, phân biệt, chứng minh, phân tích, so sánh…”.
- Vận dụng (bậc cao): thể hiện qua các động từ “bình luận, nhận xét,
đánh giá, rút ra bài học lịch sử, liên hệ với thực tiễn…”.
Để làm một bài thi tốt, cần phải xác định đúng đề bài, xác định đúng
yêu cầu về kiến thức và kĩ năng làm từng câu hỏi: câu hỏi yêu cầu trình bày
kiến thức nào, diễn ra trong thời gian nào, không gian nào; làm theo cách
nào. Vì vậy, nếu không hiểu kĩ đề và không biết cách giải quyết các câu hỏi
thì khó có thể bài bài đúng, đủ nội dung, không thể đạt kết quả cao. Để học
sinh có những kĩ năng này, tôi thường rèn luyện cho các em theo các bước
sau:
- Nhất thiết phải dành thời gian từ 10-15 phút/ 180 phút của bài thi để đọc,
hiểu những yêu cầu, nội dung cơ bản của mỗi câu hỏi là gì.
- Gạch vào tờ đề hoặc viết ra giấy nháp những từ, cụm từ quan trọng, từ đó
tìm ra những ý chính, vấn đề chính cần quan tâm; chú ý những thuật ngữ lịch
sử có trong các “từ khóa” của đề.

18
- Sắp xếp các ý chính theo trình tự thời gian và tầm quan trọng để giải quyết
vấn đề được đặt ra.
Ví dụ: “Nêu lí do thành lập và vai trò của mặt trận thống nhất dân tộc đầu
tiên của riêng Việt Nam do Đảng Cộng sản Đông Dương lãnh đạo” (trích
Đề thi học sinh giỏi Quốc gia năm 2011)
Với câu hỏi này, mức độ kiến thức cần đạt được chỉ ở mức độ “nhận
biết”, nhưng quan trọng nhất thí sinh phải xác định được mình phải trình bày
về vấn đề nào thông qua các “từ khóa” của đề.
Nếu học sinh không đọc kĩ đề, lại thêm tác động của tâm lí trong
phòng thi, có thể học sinh sẽ chọn trình bày vấn đề “Mặt trận thống nhất nhân
dân phản đế Đông Dương”, dẫn tới làm bài lạc đề.
Nhưng nếu các em đọc kĩ đề, gạch chân những “từ khóa” quan trọng
(“lí do thành lập”, “vai trò”, “mặt trận thống nhất dân tộc đầu tiên của
riêng Việt Nam”) thì sẽ xác định được vấn đề cần phải trình bày đó là “Mặt
trận Việt Minh”.
Tiếp đó, các em phải xác định được nội dung, phạm vi của kiến thức
cần trình bày đó là: lí do thành lập và vai trò của “Mặt trận Việt Minh” đối
với cách mạng Việt Nam; những nội dung khác không hỏi thì không trình bày
để tiết kiệm thời gian.
Như vậy, kĩ năng nhận thức đề và giải quyết đề rất quan trọng, tuy
những thao tác này chỉ chiếm một khoảng thời gian nhỏ (10-15 phút) trong
180 phút làm bài, nhưng nó quyết định một nửa thành công của bài thi.
3.1.2.d.2. Phân phối thời gian
Đề thi học sinh giỏi các cấp trong những năm gần đây thường có thời
gian làm bài là 180 phút, với 7 câu hỏi, gồm cả phần lịch sử thế giới và lịch
sử Việt Nam. Nếu học sinh không biết phân phối thời gian làm bài một cách
chính xác thì không thể nào hoàn thành bài thi, không thể đạt kết quả cao
được.

19
Để học sinh có được kĩ năng phân phối thời gian chính xác khi làm bài thi,
trong quá trình ôn tập, tôi luôn rèn luyện cho các em:
- Dành 10-15 phút để nhận thức đề.
- Chia đều thời gian làm bài cho 7 câu:
+ Câu 2,5 điểm dành khoảng 20 phút/câu, câu 3 điểm dành khoảng 25
phút/câu.
+ Cố gắng hoàn thành các câu của bài thi trong thời gian đã xác định; không
được phép dồn thời gian nhiều cho một câu, những câu còn lại thì thiếu thời
gian để làm.
Việc phân phối thời gian này không chỉ trên lí thuyết mà tôi yêu cầu
học sinh áp dụng triệt để khi làm bài (ở nhà và trên lớp). Thông thường
những học sinh đi thi đạt kết quả cao nhất là những em thực hiện đúng
nguyên tắc phân phối thời gian nêu trên.
3.1.2.d.3. Trình bày bài
Một bài thi có đạt kết quả cao hay không cũng phụ thuộc nhiều vào
phần trình bày bài của thí sinh. Kĩ năng trình bày bài bao gồm:
- Đảm bảo làm hết tất cả các câu, độ dài khoảng 11-12 trang giấy thi (khoảng
3 tờ). Sự kiện phải đúng, ý phải đủ hoặc tương đối đủ.
- Tùy từng loại câu hỏi mà có cách trình bày phù hợp: chỉ viết phần mở bài
đối với những câu có yêu cầu “bình luận”, hoặc “trình bày suy nghĩ”. Đa số
các câu hỏi khác không cần thiết mở bài mà nên trình bày thẳng vào vấn đề.
- Trong một câu của bài làm có thể gồm nhiều luận điểm, mỗi luận điểm cần
phải có các luận cứ và dẫn chứng. Khi trình bày xong một luận điểm cần
xuống dòng, tránh trường hợp viết liên tục kéo dài hàng trang, nhưng cũng
tránh trường hợp gạch đầu dòng một cách tùy tiện.
- Cách thức diễn đạt ngắn gọn, rõ ràng, đúng ngữ pháp, không sai chính tả.
- Bài làm cần thể hiện được cảm xúc của người viết một cách phong phú, đa
dạng, hấp dẫn, có sức thuyết phục.
- Chữ viết rõ ràng, sạch đẹp thì càng tốt.

20
Ví dụ: “Hãy đánh giá trách nhiệm của nhà Nguyễn trong việc để mất nước
hồi cuối thế kỉ XIX”.
Đây là câu hỏi vận dụng ở cấp độ cao, yêu cầu là “đánh giá” thì thí
sinh khi làm bài nên có phần đặt vấn đề một cách ngắn gọn thể hiện rõ quan
điểm của người viết: “Trong việc để Việt Nam mất nước, rơi vào tay thực dân
Pháp hồi cuối thế kỉ XIX, nhà Nguyễn với đường lối, chính sách của mình
hoàn toàn phải chịu một phần trách nhiệm”.
Trong phần giải quyết vấn đề, thí sinh phải trình bày theo từng luận
điểm, gồm các luận cứ và dẫn chứng phù hợp:
- Trước nguy cơ bị xâm lược, nhà Nguyễn vẫn thi hành chính sách phản
động.
+ Nêu rõ nguy cơ đó là gì…
+ Chính sách cai trị của nhà Nguyễn như thế nào…
+ Hậu quả của chính sách đó là gì…
- Khi thực dân Pháp tiến hành xâm lược nước ta:
+ Đường lối kháng chiến chống Pháp của nhà Nguyễn như thế nào…
+ Thái độ kháng chiến của nhà Nguyễn…
+ Chính sách cai trị của nhà Nguyễn…
……
Kĩ năng làm bài của học sinh cần được rèn luyện thường xuyên, đặc
biệt nhất là trong thời gian ôn luyện chuẩn bị cho một kì thi. Học sinh chỉ có
thể đạt kết quả cao trong một kì thi nếu hội tụ đầy đủ các yếu tố: chuẩn bị kĩ
về mặt kiến thức và nắm chắc các kĩ năng làm bài. Do vậy, trong thời gian ôn
luyện, giáo viên cần tăng cường giao bài tập về nhà, bố trí thời gian để học
sinh làm bài kiểm tra viết ngay trên lớp, sau đó chấm, trả bài nghiêm túc kèm
những nhận xét, đánh giá khách quan, chính xác. Việc làm này giúp học sinh
nhận thức rõ ưu, nhược điểm của bản thân, rèn luyện kĩ năng viết bài của các
em ngày càng thuần thục để chinh phục các kì thi.

21
3.1.3.Biện pháp 3: Xây dựng hệ thống câu hỏi đáp ứng yêu cầu phát triển
năng lực học sinh.
Câu hỏi ôn tập lịch sử chính là những nội dung kiến thức cơ bản nhất,
quan trọng nhất của một giai đoạn lịch sử hoặc một khóa trình lịch sử được
cụ thể hóa dưới những dạng câu hỏi khác nhau, bắt buộc học sinh phải nắm
vững kiến thức mới giải quyết được.
Muốn nâng cao chất lượng dạy, học và bồi dưỡng học sinh giỏi môn
Lịch sử, trong mỗi bài, mỗi chương, mỗi giai đoạn lịch sử, người giáo viên
cần xây dựng và cung cấp cho học sinh một hệ thống câu hỏi phong phú. Hệ
thống câu hỏi đó được xây dựng theo hướng: vừa củng cố kiến thức cơ bản
của mỗi giai đoạn lịch sử đã học, vừa phải tăng cường các câu hỏi mang tính
chuyên sâu, nâng cao để bồi dưỡng học sinh giỏi bộ môn. Nghĩa là việc xây
dựng hệ thống câu hỏi đó phải góp phần phát triển năng lực học sinh, phản
ánh được ba mức độ nhận thức của học sinh:
- Nhận biết: Ở mức độ này yêu cầu học sinh nhớ được sự kiện lịch sử, kể tên
được nhân vật lịch sử cụ thể, nêu diễn biến của các cuộc kháng chiến, chiến
dịch…
- Thông hiểu: Ở mức độ này đòi hỏi học sinh phải hiểu bản chất của sự kiện,
hiện tượng, trên cơ sở đó biết khái quát, xâu chuỗi các sự kiện lịch sử, lí giải
được mối quan hệ giữa sự kiện này với sự kiện khác.
- Vận dụng (cấp độ thấp và cấp độ cao): Ở mức độ này đòi hỏi học sinh trên
cơ sở hiểu bản chất sự kiện, hiện tượng lịch sử, phải biết đánh giá, nhận xét,
bày tỏ quan điểm, thái độ về các vấn đề lịch sử, liên hệ với thực tiễn, biết vận
dụng những kiến thức lịch sử giải quyết những vấn đề trong cuộc sống thực
tiễn, biết rút ra những bài học kinh nghiệm.
Để xây dựng được hệ thống câu hỏi phát triển năng lực nhận thức của
học sinh, trước tiên giáo viên phải căn cứ vào mục tiêu (kiến thức, giáo dục,
kĩ năng) của mỗi bài, mỗi chương, mỗi giai đoạn lịch sử; đồng thời phải tùy
từng mức độ nhận thức mà sử dụng các động từ (của câu hỏi) phù hợp:

22
- Câu hỏi ở mức độ Nhận biết sử dụng các động từ: Nêu, liệt kê, trình bày,
kể tên, nhận biết…
- Câu hỏi ở mức độ Thông hiểu sử dụng các động từ: Hiểu được, giải thích,
phân biệt, tại sao, vì sao, hãy lí giải, vì sao nói, khái quát…
- Câu hỏi ở mức độ Vận dụng sử dụng các động từ: Xác định, dự đoán, thiết
lập liên hệ, vẽ sơ đồ, lập niên biểu, chứng minh, phân tích, so sánh, bình luận,
nhận xét, đánh giá, rút ra bài học lịch sử, liên hệ với thực tiễn…
(Xem thêm phụ lục trang 36-60)
3.2. Điểm mới và sáng tạo (ưu điểm của giải pháp)
- Giáo viên không chỉ giảng dạy, truyền đạt kiến thức mà còn biết khơi gợi
được hứng thú của học sinh đối với việc học tập; giúp học sinh xác định được
mục tiêu học tập, có động cơ học tập, từ đó kích thích tính tích cực học tập
của học sinh.
- Giáo viên trang bị và rèn luyện cho học sinh những kĩ năng học và làm bài
thi môn Lịch sử giúp cho việc học tập bộ môn trở nên thuận lợi, dễ dàng hơn;
từ đó xóa đi mặc cảm về môn Lịch sử: một môn học khô khan, khó học, khó
nhớ …
- Giáo viên trang bị cho học sinh hệ thống câu hỏi khoa học, vừa cơ bản, vừa
nâng cao trong quá trình dạy và ôn tập, góp phần củng cố kiến thức cơ bản và
bồi dưỡng học sinh giỏi bộ môn.
Như vậy, những cách thức, biện pháp sư phạm về dạy và bồi dưỡng
học sinh giỏi môn Lịch sử ở trường THPT chuyên thực sự có tác dụng nâng
cao hiệu quả dạy và bồi dưỡng học sinh giỏi bộ môn: đã rèn luyện cho học
sinh những kỹ năng học và làm bài thi; kĩ năng giải quyết các câu hỏi, bài tập
lịch sử; đặc biệt là khơi gợi được niềm say mê của các em đối với môn Lịch
sử trong bối cảnh môn Lịch sử chưa được xã hội coi trọng như hiện nay. Tuy
nhiên, để thực hiện tốt những biện pháp trên đòi hỏi người giáo viên phải có
sự chuẩn bị kỹ về nội dung và phương pháp cũng như phải có lòng nhiệt tình,
yêu nghề, yêu mến học sinh.

23
3.3. Kết quả thực hiện giải pháp
Từ tháng 6 năm 2010, tôi chuyển về công tác tại trường THPT Chuyên
Lương Văn Tụy, được phân công giảng dạy ở lớp chuyên Sử và tham gia bồi
dưỡng học sinh giỏi, khi áp dụng các biện pháp nói trên tôi đã đạt được
những kết quả bước đầu đáng khích lệ: học sinh các lớp chuyên Sử do tôi làm
chủ nhiệm luôn đạt thành tích cao khi tham dự kì thi học sinh giỏi môn Lịch
sử các cấp, cụ thể:
+ Trong kì thi học sinh giỏi cấp tỉnh: đạt được 28 giải (02 Nhất, 11 Nhì, 07
Ba, 08 KK)
+ Trong kì thi Olympic các trường chuyên khu vực Duyên hải và đồng bằng
Bắc Bộ: đạt được 12 giải (02 Nhất, 05 Nhì, 03 Ba, 02 KK) tỉ lệ là 100%.
+ Trong kì thi học sinh giỏi cấp Quốc gia: đạt được 11 giải (02 Nhất, 01 Nhì,
04 Ba, 04 KK), tỉ lệ 100%.
Trong những thành tích nêu trên, tôi rất vinh dự và tự hào đã là người
trực tiếp dạy và bồi dưỡng (từ năm lớp 10) của hai học sinh đạt giải Nhất
Quốc gia môn Lịch sử, đó là hai em: Nguyễn Xuân Hải và Hoàng Nhật
Minh. Đặc biệt, đây là hai giải Nhất quốc gia duy nhất của môn Lịch sử tính
từ năm 1997 đến nay (2015).
IV. HIỆU QUẢ KINH TẾ VÀ XÃ HỘI DỰ KIẾN ĐẠT ĐƯỢC
1. Hiệu quả kinh tế:
Công tác giảng dạy lớp chuyên và bồi dưỡng học sinh giỏi nhất là học
sinh giỏi cấp Quốc gia là nhiệm vụ trọng tâm, là nhiệm vụ chính trị hàng đầu
của trường THPT chuyên, nên rất khó để có thể đánh giá một cách định
lượng về hiệu quả kinh tế.
Tuy nhiên, nếu tính dựa trên mức tiền thưởng của Tỉnh cho học sinh đạt
giải Học sinh giỏi Quốc gia (và cho cả giáo viên tham gia bồi dưỡng) trong
những năm gần đây: giải Nhất là 10.000.000đ, giải Nhì là 7.000.000đ, giải
Ba là 5.000.000đ, giải KK là 3.000.000đ; thì việc tôi áp dụng những giải

24
pháp mới của đề tài và đã có 11 học sinh đạt giải Quốc gia, tương ứng với số
tiền được thưởng là:
(20.000.000đ + 7.000.000đ + 20.000.000đ + 12.000.000đ) x 2 =
118.000.000đ (Một trăm mười tám triệu đồng).
Bên cạnh đó, nếu học sinh không được hướng dẫn các kĩ năng để học và
làm bài có hiệu quả cao, thì một học sinh chuyên Sử mỗi năm thường phải
mua khoảng 10 cuốn tài liệu tham khảo, giá trị thấp nhất mỗi cuốn khoảng
25.000đ, tiêu tốn 250.000đ/ em; mỗi lớp chuyên Sử khoảng 30 học sinh, mỗi
năm sẽ tốn: 250.000đ x 30 = 7.500.000đ/lớp (Bảy triệu năm trăm nghìn
đồng)…
Ngoài ra, việc áp dụng những giải pháp mới của đề tài còn mang lại một
số hiệu quả khác:
- Tiết kiệm được nhiều công sức và thời gian của giáo viên trong giảng dạy
và bồi dưỡng học sinh giỏi môn Lịch sử.
- Đạt hiệu quả cao trong việc giảng dạy và bồi dưỡng học sinh giỏi môn Lịch
sử các cấp.
2. Hiệu quả xã hội:
- Những biện pháp dạy và bồi dưỡng học sinh giỏi nói trên có tác dụng khơi
gợi hứng thú, hình thành những kĩ năng học và làm bài môn lịch sử có hiệu
quả, qua đó bồi đắp tình yêu môn Lịch sử cho học sinh, nhất là trong bối cảnh
hiện nay khi nhiều học sinh chán học, học kém môn Lịch sử.
- Các biện pháp dạy và bồi dưỡng học sinh giỏi nói trên góp phần hình thành
tư duy lôgic, khả năng phân tích, đánh giá, tổng hợp về những sự kiện, hiện
tượng lịch sử trong quá khứ, từ đó góp phần định hướng giá trị, hình thành kỹ
năng sống, kỹ năng ứng xử, phát triển năng lực giải quyết các vấn đề phức
hợp đặt ra trong cuộc sống thường nhật của con người.
V. KINH PHÍ THỰC HIỆN SÁNG KIẾN
Kinh phí cần thiết để thực hiện sáng kiến: không đáng kể.
VI. ĐIỀU KIỆN VÀ KHẢ NĂNG ÁP DỤNG

25
- Các biện pháp dạy và bồi dưỡng học sinh giỏi nói trên là điều cần thiết, phù
hợp với xu thế, yêu cầu của việc đổi mới phương pháp dạy và học môn Lịch
sử trong thời điểm hiện nay.
- Đây là những biện pháp đổi mới tư duy, thay đổi cách thức dạy, học và bồi
dưỡng học sinh giỏi một cách có hiệu quả, có tính ứng dụng cao, có thể vận
dụng phù hợp với tình hình thực tiễn và đạt hiệu quả tốt trong giảng dạy, học
tập, bồi dưỡng học sinh giỏi của tất cả giáo viên môn Lịch sử và học sinh cấp
học THCS và THPT, đặc biệt là với đối tượng học sinh chuyên Sử.
- Có thể áp dụng và tiếp tục mở rộng, nâng cao trong thời gian tới.

TÁC GIẢ SÁNG KIẾN

Nguyễn Thùy Hương

26
PHỤ LỤC

27
1. Dẫn chứng về việc xác định mục tiêu, động cơ, hứng thú học tập môn
Lịch sử cho học sinh
Khi được phân công làm chủ nhiệm lớp chuyên Sử, giờ đầu tiên khi tôi
lên lớp, không phải là truyền thụ kiến thức ngay mà là dành thời gian cô – trò
tiếp xúc, trò chuyện, trao đổi thông tin với nhau. Trong quá trình tiếp xúc, trò
truyện với học sinh, tôi khéo léo giới thiệu về lịch sử trường THPT Chuyên
Lương Văn Tụy, về lịch sử Đội tuyển học sinh giỏi Quốc gia môn Lịch sử
của trường, về quyền lợi mà các em được hưởng nếu đạt thành tích cao. Cụ
thể:
- Từ khi thành lập trường Chuyên (năm 1992) đến nay, nhiều thế hệ học sinh
của trường đã được bồi dưỡng và đạt nhiều thành tích cao trong các kì thi học
sinh giỏi cấp Tỉnh, Quốc gia, Quốc tế…
- Từ khi Bộ Giáo dục – đào tạo bắt đầu tổ chức thi Quốc gia môn Lịch sử
(năm 1997) đến nay, đã có nhiều thế hệ học sinh đã tham gia Đội tuyển, đạt
giải cao; trong đó có những người sau này đã quay trở lại trường công tác
như các cô Nguyễn Hoàng Vân đạt giải Quốc gia năm 1997, cô Nguyễn Thùy
Hương đạt giải Quốc gia năm 1998, cô Vũ Thu Hương đạt giải Quốc gia năm
2004…; nhiều học sinh đạt giải Quốc gia đã được tuyển thẳng vào các trường
ĐH như ĐH Cảnh sát, ĐH An ninh, ĐH Sư phạm Hà Nội, ĐH Khoa học xã
hội và nhân văn – ĐHQGHN…; Có những năm 100% thí sinh trong đội
tuyển Quốc gia môn Sử đạt giải (các năm 2011, 2012, 2013); tỉ lệ học sinh
đạt giải Quốc gia của đội Sử trong những năm gần đây thường cao hơn các
đội tuyển khác…
- Học sinh đạt giải Quốc gia môn Lịch sử không chỉ được các cấp khen
thưởng giống như học sinh đạt giải các môn khác (cấp Bộ, cấp Tỉnh, Quỹ
khuyến học – khuyến tài Đinh Bộ Lĩnh, Quỹ khuyến học của trường) mà còn
được Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam tổ chức vinh danh, khen thưởng tại
Văn miếu – Quốc tử giám vào tháng 4 hàng năm.

28
Khi nắm được những thông tin trên, đa phần các em học sinh chuyên
Sử đều rất hăng hái, háo hức, mong muốn mình sẽ đạt được những thành tích
cao trong học tập như các thế hệ đi trước, để đem vinh quang về cho bản
thân, làm rạng rỡ gia đình, dòng họ và tiếp tục xây đắp thêm truyền thống vẻ
vang của trường.

29
2. Dẫn chứng về ghi nhớ không gian xảy ra sự kiện, hiện tượng lịch sử:
Để nhớ địa điểm xảy ra cuộc phản công đêm 4 rạng ngày 5/7/1885 do
vua Hàm Nghi và Tôn Thất Thuyết khởi xướng: giáo viên sử dụng lược đồ
kinh thành Huế để xác định vị trí địa thế của kinh thành, và dựa vào tài liệu
tham khảo để tìm ra đặc trưng nổi bật của kinh thành:
“Kinh thành Huế nằm ngay sát bên bờ sông Hương, trên tuyến đường
ra Quảng Trị, vào Đà Nẵng. Theo sử cũ ghi lại thì kinh thành Huế được xây
dựng những năm 1805-1820, mỗi bề 2,5km, một mặt giáp sông Hương, ba
mặt có hào sâu, tường thành xây bằng gạch, đá, cao 10m, trên mặt thành có
đủ trăm đại bác. Ngay sát kinh thành Huế (phía đông) là đồn Mang Cá, nơi
đóng của quân Pháp. Phía bờ nam sông Hương là tòa Khâm sứ, nơi các sĩ
quan Pháp ở đại diện cho Chính phủ Pháp. Với vị trí như vậy, kinh thành Huế
chịu sự uy hiếp và khống chế của kẻ thù”.

Lược đồ kinh thành Huế năm 1885

30
3. Dẫn chứng về sử dụng câu hỏi trong dạy và học lịch sử:
Khi dạy bài “Trào lưu cải cách, duy tân ở Việt Nam trong những năm
cuối thế kỉ XIX” (sách giáo khoa lớp 11- nâng cao), tôi sử dụng hệ thống câu
hỏi:
- Trong bối cảnh lịch sử nào ở Việt Nam xuất hiện trào lưu cải cách,
duy tân?
Đây là một câu hỏi khó, buộc học sinh phải kết hợp cả kiến thức mới
trong sách giáo khoa (bài đang học) với kiến thức cũ (gồm cả kiến thức phần
lịch sử Việt Nam và lịch sử thế giới đã học trước đó) mới có câu trả lời hoàn
thiện.
- Nội dung cơ bản của những đề nghị cải cách, duy tân ở Việt Nam
cuối thế kỉ XIX?
Đây là câu hỏi tương đối dễ vì chỉ cần học sinh biết chọn lọc kiến thức
trong sách giáo khoa và tài liệu tham khảo là trả lời được nhưng cũng đòi hỏi
các em phải có trí nhớ, phải biết nhiều về các đề nghị cải cách, duy tân của
các sĩ phu lúc bấy giờ (như Nguyễn Trường Tộ, Nguyễn Lộ Trạch…)
- Những đề nghị cải cách, duy tân đó có ưu điểm, nhược điểm gì?
Đây là một câu hỏi khó, buộc học sinh phải biết tổng hợp kiến thức,
trên cơ sở những nội dung của các đề nghị cải cách, duy tân mà rút ra nhận
định, đánh giá phù hợp.
- Tại sao hầu hết những đề nghị cải cách, duy tân đó không được thực
hiện?
Đây là một câu hỏi khó, đòi hỏi học sinh trên cơ sở kiến thức đã học lí
phải giải về kết cục của những đề nghị cải cách, duy tân ở Việt Nam cuối thế
kỉ XIX.
Khi ôn tập phần lịch sử Việt Nam từ 1858 đến 1918, nội dung “cải
cách, duy tân ở Việt Nam cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX”, tôi sử dụng câu
hỏi:

31
- Điểm giống và khác nhau giữa các đề nghị cải cách, duy tân cuối thế
kỉ XIX với phong trào duy tân đầu thế kỉ XX ở Việt Nam?
Đây là câu hỏi khó, vì học sinh phải đào sâu suy nghĩ, phải so sánh để
tìm ra điểm giống, khác nhau, từ đó thấy được bản chất của những đề nghị cải
cách, duy tân cuối thế kỉ XIX và phong trào duy tân đầu thế kỉ XX ở Việt
Nam.
Như vậy, khi giáo viên sử dụng các dạng câu hỏi trên, không chỉ có tác
dụng phát triển tư duy tái tạo, trí tưởng tượng, trí tưởng tượng, tư duy sáng
tạo, logic cho học sinh; mà còn góp phần phát triển các kĩ năng so sánh, tổng
hợp đánh giá… cho các em. Đó là những kĩ năng cần thiết, quan trọng cần
phải có ở những học sinh giỏi bộ môn Lịch sử.

32
4. Dẫn chứng về lập sơ đồ lịch sử trong dạy và học Lịch sử:
Hướng dẫn học sinh lập sơ đồ “Nhiệm vụ cách mạng hai miền Nam –
Bắc sau Hiệp định Giơ-ne-vơ năm 1954” và trình bày kiến thức qua sơ đồ
vừa lập.
- Tôi hướng dẫn học sinh xác định những kiến thức cơ bản nhất, mã hóa
chúng bằng cách sử dụng các khung sơ đồ hình chữ nhật, tiếp đó nối các
khung sơ đồ với nhau bằng mũi tên, diễn tả nối quan hệ giữa chúng; đặt tên
sơ đồ:

Nhiệm vụ cách mạng 2 miền Nam –


Bắc sau Hiệp định Giơ-ne-vơ năm
1954:

Miền Bắc: Hàn gắn vết thương chiến Miền Nam: Tiếp tục cuộc cách mạng
tranh, khôi phục kinh tế, tiến lên xây dân tộc dân chủ nhân dân để thực hiện
dựng CNXH. hòa bình, thống nhất đất nước.

Cả nước: Xây dựng CNXH ở miền


Bắc, giải phóng miền Nam, thống
nhất đất nước.

Sơ đồ: “Nhiệm vụ cách mạng hai miền Nam – Bắc sau


Hiệp định Giơ-ne-vơ năm 1954”

- Tiếp đó tôi hướng dẫn học sinh cách trình bày kiến thức qua sơ đồ với ngôn
ngữ rõ ràng, ngắn gọn, dễ hiểu; rút ra mối quan hệ giữa cách mạng 2 miền:
“Sau Hiệp định Giơ-ne-vơ năm 1954, do tác động của hoàn cảnh lịch sử, do
âm mưu và hành động phá hoại Hiệp định của Mĩ, Diệm nên Việt Nam tạm
thời bị chia cắt thành 2 miền, thực hiện 2 nhiệm vụ khác nhau: Miền Bắc
tiến hành hàn gắn vết thương chiến tranh, khôi phục kinh tế, tiến lên xây

33
dựng CNXH; Miền Nam tiếp tục cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân
dân để thực hiện hòa bình, thống nhất đất nước. Tuy 2 miền thực hiện 2
nhiệm vụ khác nhau nhưng đều có nhiệm vụ chung là: Xây dựng CNXH ở
miền Bắc, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước”.

34
5. Dẫn chứng về lập sơ đồ tư duy trong dạy và học Lịch sử:
Hướng dẫn học sinh lập sơ đồ tư duy “Vai trò của phong trào nông dân
Tây Sơn trong lịch sử dân tộc nửa sau thế kỉ XVIII”.
- Đầu tiên tôi hướng dẫn học sinh xác định chủ đề trung tâm là “Vai trò của
phong trào nông dân Tây Sơn thế kỉ XVIII”.
- Tiếp đó xác định các nhánh cấp 1 là: Thống nhất đất nước, Bảo vệ Tổ quốc,
Xây dựng đất nước; xác định các nhánh cấp 2…
- Tôi hướng dẫn học sinh cách trình bày kiến thức qua sơ đồ tư duy với ngôn
ngữ rõ ràng, ngắn gọn, dễ hiểu:
“Trong nửa sau thế kỉ XVIII, phong trào nông dân Tây Sơn bùng
nổ, từng bước giành thắng lợi và đã có 3 đóng góp to lớn đối với Lịch sử dân
tộc Việt Nam đó là:
- Thống nhất đất nước về mặt lãnh thổ thông qua việc đã lật đổ chính quyền
chúa Nguyễn ở Đàng Trong trong các năm 1776-1783; lật đổ lật đổ chính
quyền chúa Trịnh, tiếp đó là vua Lê ở Đàng Ngoài trong các năm 1786-
1788.
- Bảo vệ vững chắc độc lập Tổ quốc thông qua việc tiến hành thắng lợi 2
cuộc kháng chiến: chống Xiêm năm 1785, chống Thanh năm 1789.
- Góp phần xây dựng và phát triển đất nước sau nhiều năm bị chia cắt, chiến
tranh loạn lạc bằng việc: cho xây dựng bộ máy chính quyền mới; cho phục
hồi và phát triển kinh tế; ra sức phát triển văn hóa, giáo dục theo hướng đề
cao tính dân tộc.”

35
6. Xây dựng hệ thống câu hỏi ba cấp độ nhận thức khi giảng dạy phần
Lịch sử Việt Nam từ năm 1858 đến cuối thế kỉ XIX.
a, Xác định mục tiêu dạy học phần Lịch sử Việt Nam từ năm 1858 đến cuối
thế kỉ XIX:
a.1. Kiến thức:
Để xác định được nội dung kiến thức của phần Lịch sử Việt Nam từ
năm 1858 đến cuối thế kỉ XIX, tôi bám sát vào khung Chương trình Lịch sử
lớp 11 Chuyên, bám sát nội dung kiến thức của Sách giáo khoa Lịch sử nâng
cao lớp 11, đồng thời tham khảo cuốn “Đại cương lịch sử Việt Nam – tập 2”
do GS. Đinh Xuân Lâm chủ biên (của NXB Giáo dục năm 1999), cuốn “Giáo
trình lịch sử Việt Nam từ 1858 đến 1918” do GS. Nguyễn Ngọc Cơ chủ biên
(của NXB Đại học Sư phạm năm 2010). Trên cơ sở đó xác định nội dung
kiến thức của phần Lịch sử Việt Nam từ năm 1858 đến cuối thế kỉ XIX là:
- Nắm được ý đồ xâm lược của thực dân phương Tây và Pháp có từ rất sớm.
Nhận thức được quá trình xâm lược Việt Nam của thực dân Pháp từ 1858-
1884.
- Nắm được cuộc kháng chiến chống Pháp xâm lược của nhân dân ta từ 1858
- 1884.
- Hiểu được: xuất phát từ vận nước nguy nan ở nửa sau thế kỉ XIX, một số sĩ
phu yêu nước tiến bộ đã đưa ra nhiều đề nghị cải cách, duy tân. Nắm được
nội dung chính của một số cải cách, duy tân tiêu biểu. Nhận thức được hầu
hết các cải cách còn thiếu tính khả thi, hơn nữa triều đình nhà Nguyễn thì cố
chấp, không chịu đổi mới, vì vậy cải cách không thể thực hiện.
- Nhận thức được hoàn cảnh phong trào đấu tranh vũ tranh chống Pháp cuối
thế kỉ XIX. Nắm được nét chính của các cuộc khởi nghĩa trong phong trào
Cần Vương và khởi nghĩa Yên Thế. Giải thích được các khái niệm: Cần
Vương, văn thân - sĩ phu.
a.2. Giáo dục

36
- Giúp học sinh hiểu được bản chất xâm lược và thủ đoạn tàn bạo của chủ
nghĩa thực dân.
- Ôn lại truyền thống đấu tranh chống giặc ngoại xâm. Giáo dục tinh thần yêu
nước, ý thức tự tôn dân tộc, ý chí đấu tranh giải phóng dân tộc. Bước đầu
nhận thức được những yêu cầu mới cần phải có để đưa cuộc đấu tranh chống
ngoại xâm đến thắng lợi.
- Đánh giá đúng mức nguyên nhân và trách nhiệm của triều đình phong kiến
nhà Nguyễn trong việc tổ chức kháng chiến. Đánh giá đúng mức trách nhiệm
của nhà Nguyễn trong việc để mất nước.
- Giáo dục tư tưởng đổi mới, nhạy bén với thời cuộc.
a.3. Kĩ năng:
- Rèn kĩ năng phân tích, đánh giá, bình luận, nhận xét, rút ra bài học lịch sử,
liên hệ với hiện tại.
b, Xây dựng hệ thống câu hỏi:
b.1. Câu hỏi ở mức độ Nhận biết:
Câu 1: Trình bày diễn biến cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược
của nhân dân ta từ năm 1858 đến năm 1884.
Câu 2: Nêu những nội dung cơ bản của các đề nghị cải cách ở nước ta cuối
thế kỉ XIX.
Câu 3: Trình bày tóm tắt các giai đoạn phát triển của phong trào Cần vương
(1885-1896).
Câu 4: Tóm tắt diễn biến của các cuộc khởi nghĩa: Bãi Sậy (1883-1892), Ba
Đình (1886-1887), Hùng Lĩnh (1887-1892), Hương Khê (1885-1896), Yên
Thế (1884-1913).
Câu 5: Nêu ý nghĩa lịch sử của phong trào yêu nước chống Pháp của nhân
dân ta trong những năm cuối thế kỉ XIX?
b.2. Câu hỏi ở mức độ Thông hiểu:

37
Câu 6: Vì sao thực dân Pháp tiến hành công cuộc xâm lược Việt Nam trong
nửa sau thế kỉ XIX?
Câu 7: Vì sao cuộc khởi nghĩa Hương Khê (1885-1896) được coi là cuộc
khởi nghĩa tiêu biểu nhất trong phong trào Cần Vương?
b.3. Câu hỏi ở mức độ Vận dụng (cấp độ thấp và cấp độ cao):
Câu 8: Chứng minh rằng Việt Nam bị thực dân Pháp xâm lược trong nửa sau
thế kỉ XIX là tất yếu.
Câu 9: Phân tích hoàn cảnh lịch sử và đặc điểm của cuộc kháng chiến chống
Pháp xâm lược từ 1858 đến 1884?
Câu 10: Hãy đánh giá thái độ của nhà Nguyễn trước cuộc xâm lược của thực
dân Pháp (1858-1884) thông qua các Hiệp ước triều đình nhà Nguyễn đã kí
với thực dân Pháp vào các năm 1862, 1874, 1883 và 1884.
Câu 11: Phân tích trách nhiệm của nhà Nguyễn trong việc để Việt Nam rơi
vào tay thực dân Pháp cuối thế kỉ XIX.
Câu 12: Chứng minh rằng Việt Nam bị mất nước cuối thế kỉ XIX không phải
là tất yếu.
Câu 13: Phân tích hoàn cảnh lịch sử và kết cục của các đề nghị cải cách, duy
tân ở nước ta cuối thế kỉ XIX.
Câu 14: Phân tích hoàn cảnh lịch sử và đặc điểm của phong trào Cần Vương
cuối thế kỉ XIX?
Câu 15: Phân tích thái độ của quần chúng nhân dân và của các văn thân, sĩ
phu đối với chiếu Cần Vương.
Câu 16: Phân tích điểm giống và khác nhau giữa phong trào Cần Vương
(1885-1896) và phong trào nông dân Yên Thế (1884-1913).
Câu 17: Phân tích hoàn cảnh lịch sử và đặc điểm của cuộc khởi nghĩa Yên
Thế (1884-1913).
Câu 18: Từ việc so sánh phong trào Cần Vương (1885-1896) và phong trào
nông dân Yên Thế (1884-1913), hãy rút ra tính chất của hai phong trào này?

38
Câu 19: Phân tích nguyên nhân thất bại của phong trào yêu nước chống thực
dân Pháp ở Việt Nam cuối thế kỉ XIX?
c. Gợi ý trả lời hệ thống câu hỏi phần lịch sử Việt Nam từ 1858 đến cuối
thế kỉ XIX
c.1. Mức độ Nhận biết:
Câu 1: Trình bày diễn biến cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược
của nhân dân ta từ năm 1858 đến năm 1884.
* Từ 1858-1862:
- Mặt trận Đà Nẵng: 9/1858, liên quân Pháp-Tây Ban Nha nổ súng tấn công
bán đảo Sơn Trà…
+ Triều đình cử Nguyễn Tri Phương làm Tổng chỉ huy mặt trận…
+ Nhân dân thực hiện “vườn không nhà trống”, gây cho Pháp nhiều
khó khăn…
+ Nhân dân cả nước sẵn sàng chiến đấu để bảo vệ Tổ quốc…
- Mặt trận Gia Định: 2/1859, Pháp chuyển hướng tấn công vào Gia Định…
+ Quan quân triều đình nhanh chóng tan rã…
+ Các đội nghĩa quân ngày đêm bám sát, tìm cách tiêu diệt địch…
+ 3/1860, Nguyễn Tri Phương được cử vào Gia Định, ông gấp rút xây
dựng hệ thống phòng ngự tại Đại đồn Chí Hòa…
+ 2/1861, Đại đồn Chí Hòa thất thủ, quân triều đình rút chạy…
- Nhân dân Nam kì kháng chiến anh dũng… tiêu biểu: 12/1861, nghĩa quân
Nguyễn Trung Trực đánh chìm tàu giặc trên sông Vàm Cỏ…
- 5/6/1862, triều đình kí với Pháp Hiệp ước Nhâm Tuất…
* Từ 1862-1873:
- Nhân dân miền Đông:
+ Sĩ phu dùng thơ văn để kháng chiến…
+ Nghĩa quân Trương Định tiếp tục kháng chiến bất chấp lệnh bãi binh
của triều đình…
- Nhân dân miền Tây:

39
+ Một số nhà Nho yêu nước tìm đường ra Bình Thuận mưu cuộc kháng
chiến lâu dài…
+ Một số khác bám đất, bám dân đấu tranh vũ trang quyết liệt với kẻ
thù: tiêu biểu như anh em Phan Tôn, Phan Liêm…; nghĩa quân Nguyễn
Trung Trực…
* Từ 1873-1874:
- Tại Hà Nội:
+ Quân dân ta kiên quyết chống trả: tiêu biểu gương chiến đấu của cha
con Nguyễn Tri Phương; viên Chưởng cơ chỉ huy quân chiến đấu tại cửa ô
Thanh Hà…
+ Chiến thắng Cầu Giấy (tháng 12/1873)…
- Tại các tỉnh Bắc kì: nhân dân ta kháng chiến quyết liệt…
- 15/3/1874: triều đình kí với Pháp hiệp ước Giáp Tuất…
* Từ 1882-1884:
- Tại Hà Nội:
+ Quân triều đình tan vỡ, Tổng đốc Hoàng Diệu treo cổ tuẫn tiết…
+ Nhân dân tự tay đốt nhà, tạo thành bức tường lửa làm chậm bước
tiến của giặc
+ Nhân dân kiên trì đấu tranh trong lòng địch khi thành đã bị mất…
+ Chiến thắng Cầu Giấy (tháng 5/1883)…
- Nhân dân các tỉnh khác ở Bắc kì chiến đấu quyết liệt chống Pháp…
- Triều đình Huế:
+ Khi Pháp đánh Bắc kì lần thứ hai, vẫn tiếp tục đường lối hòa hoãn…
+ Khi Pháp tấn công cửa biển Thuận An (8/1883), xin đình chiến…
+ 25/8/1883, kí với Pháp Hiệp ước Hác-măng…
+ 6/6/1884, kí với Pháp Hiệp ước Pa-tơ-nốt…
=> NX:
- Ngay từ khi Pháp vừa đặt chân đến xâm lược, nhân dân ta kiên quyết đứng
lên chiến đấu bảo vệ Tổ quốc…

40
- Triều đình Huế kháng chiến dè dặt, ảo tưởng vào con đường thương thuyết,
từng bước thỏa hiệp, cuối cùng là đầu hàng giặc…
Câu 2: Nêu những nội dung cơ bản của các đề nghị cải cách ở nước ta cuối
thế kỉ XIX.
* Sơ lược về tác giả của các đề nghị cải cách-duy tân:
- Là một số quan chức, sĩ phu có học vấn cao, đặc biệt là một số sĩ phu công
giáo có dịp ra nước ngoài, tầm mắt được rộng mở…
- Tiêu biểu: Nguyễn Hiệp, Lê Đính, Phạm Phú Thứ, Đặng Huy Trứ, Bùi
Viện, Nguyễn Lộ Trạch, Nguyễn Trường Tộ…
* Nội dung: những đề nghị cải cách-duy tân đề cập đến nhiều lĩnh vực:
- Về kinh tế: đề nghị tiếp nhận những khoa học-kĩ thuật tiên tiến của phương
Tây, mở rộng buôn bán với nước ngoài, phát triển kinh tế (dẫn chứng cụ
thể…)
- Về chính trị:
+ Duy trì chế độ phong kiến
+ Chấn chỉnh bộ máy quan lại, đào tạo quan lại theo lối mới, trị nước
bằng luật pháp, hạn chế quyền lực của vua…
- Quân sự: chấn chỉnh võ bị, huấn luyện quân đội theo lối mới, mời chuyên
gia quân sự phương Tây…
- Giáo dục: áp dụng nền giáo dục thực dụng, mời chuyên gia phương Tây
giảng dạy, đào tạo người biết tiếng nước ngoài…
- Ngoại giao: thực hiện chính sách đa phương hóa, giao thiệp với các cường
quốc, kiềm chế các thế lực bên ngoài 1 cách khéo léo trên cơ sở cùng có
lợi…
-> NX: những đề nghị cải cách-duy tân đều xuất phát từ tấm lòng yêu nước,
muốn đất nước ta được độc lập, tự cường theo con đường Duy tân của Nhật
Bản…
Câu 3: Trình bày tóm tắt các giai đoạn phát triển của phong trào Cần vương
(1885-1896).

41
* Giai đoạn I:
- Từ 1885-1888
- Nhiều văn thân, sĩ phu sôi nổi hưởng ứng…
- Địa bàn rộng lớn, tập trung ở các tỉnh Bắc kì và Trung kì…
- Đặt dưới sự chỉ huy thống nhất của một triều đình kháng chiến …
- Cuối 1888, vua Hàm Nghi bị Pháp bắt, bị lưu đày…
* Giai đoạn II:
- Từ 1888-1896
- Nghĩa quân chuyển địa bàn hoạt động từ đồng bằng lên trung du, vùng núi,
quy tụ thành những cuộc khởi nghĩa lớn…
- Phong trào có hạn chế là lẻ tẻ, mang tính địa phương, thiếu sự liên kết và
chỉ đạo thống nhất…
- Khi thực dân Pháp ổn định được nền thống trị, biến triều đình thành tay sai,
tập trung lực lượng để đàn áp…
-> 1896, phong trào thất bại…
Câu 4: Tóm tắt diễn biến của các cuộc khởi nghĩa: Bãi Sậy (1883-1892), Ba
Đình (1886-1887), Hùng Lĩnh (1887-1892), Hương Khê (1885-1896), Yên
Thế (1884-1913).
* Khởi nghĩa Bãi Sậy (1883-1892):
- Địa bàn: gồm căn cứ Bãi Sậy là vùng lau sậy rậm rạp thuộc các huyện Văn
Lâm, Văn Giang, Khoái Châu, Yên Mĩ (Hưng Yên); căn cứ Hai Sông (Kinh
Môn- Hải Dương)…
- Lãnh đạo: Đinh Gia Quế, Nguyễn Thiện Thuật, Đốc Tít…
- Tổ chức: nghĩa quân chia thành từng toán nhỏ (20-25 người) trà trộn vào
dân…
- Phương thức tác chiến: đánh du kích, tổ chức những trận phục kích chớp
nhoáng…
- Hoạt động:

42
+ 1885-1887: đẩy lui nhiều cuộc càn quét của Pháp…, có trận tiêu diệt
được 40 tên địch, bắt sống chỉ huy…
+ Từ 1888, Pháp tập trung lực lượng để đàn áp…
+ Đến 7/ 1889, khởi nghĩa suy yếu, nhiều chỉ huy hi sinh, Nguyễn
Thiện Thuật phải lánh sang Trung Quốc…
+ Cuối 7/1889, Pháp tấn công căn cứ Hai Sông, Đốc Tít phải ra hàng…
+ Nghĩa quân tiếp tục kháng chiến thêm 1 thời gian, đến 1892 mới tan
rã…
- Ý nghĩa: là cuộc khởi nghĩa tiêu biểu nhất của nhân dân vùng châu thổ sông
Hồng cuối thế kỉ XIX…; để lại nhiều bài học kinh nghiệm quí báu…
* Khởi nghĩa Ba Đình (1886-1887)
- Địa bàn: là căn cứ được xây dựng trên địa bàn 3 làng Mậu Thịnh, Thượng
Thọ, Mĩ Khê (Nga Sơn-Thanh Hóa)…
- Lãnh đạo: Phạm Bành, Đinh Công Tráng…
- Tổ chức: gồm khoảng 300 người, cả người Mường, người Thái
- Phương thức tác chiến: đánh du kích, chặn đánh các đoàn xe tải, tập kích
các toán lính hành quân qua căn cứ…
- Hoạt động:
+ 12/1886, Pháp tập trung lực lượng đánh vào Ba Đình nhưng bị đẩy
lui…
+ 1/1887, Pháp huy động 2500 quân tấn công nhưng không thành,
chuyển sang vây hãm…
+ 21/1/1887, Pháp chiếm được Ba Đình, nghĩa quân phải rút lên Mã
Cao…, Nhiều thủ lĩnh hi sinh…
+ Hè 1887, khởi nghĩa kết thúc…
- Ý nghĩa: Là giai đoạn mở đầu cho phong trào chống Pháp ở Thanh Hóa…
* Khởi nghĩa Hùng Lĩnh (1887-1892)
- Địa bàn: là căn cứ kháng chiến ở Vĩnh Lộc- Thanh Hóa
- Lãnh đạo: Tống Duy Tân, Cầm Bá Thước…

43
- Tổ chức: xây dựng ở mỗi huyện 1 cơ lính khoảng 200 người…
- Phương thức tác chiến: tổ chức các trận đánh tấn công quân Pháp
- Hoạt động:
+ 1889-1890, chiến đấu anh dũng, mở các cuộc tấn công quân Pháp,
gây cho chúng nhiều thiệt hại…
+ Pháp tập trung lực lượng đàn áp, nghĩa quân phải chuyển hoạt động
lên miền Tây Thanh Hóa…
+ 10/1892, Tống Duy Tân bị bắt… khởi nghĩa coi như thất bại
+ Cầm Bá Thước duy trì cuộc chiến đấu thêm 1 thời gian nữa…
- Ý nghĩa: Thể hiện tinh thần yêu nước, chiến đấu bất khuất…
* Khởi nghĩa Hương Khê (1885-1896)
- Địa bàn: Hương Khê là huyện miền núi nằm ở phía Tây Hà Tĩnh, đại bản
doanh của cuộc khởi nghĩa; địa bàn trải rộng 4 tỉnh Thanh-Nghệ-Tĩnh-Bình…
- Lãnh đạo: Phan Đình Phùng, Cao Thắng…
- Tổ chức: chia thành 15 quân thứ, mỗi quân thứ đặt dưới sự chỉ huy của một
tướng lĩnh có năng lực, uy tín…
- Phương thức tác chiến: chiến tranh du kích, đánh địch dưới nhiều hình thức
(công đồn, chặn đường tiếp tế, dùng cạm bẫy, hầm chông…)
- Hoạt động:
+ 1885-1888: giai đoạn chuẩn bị lực lượng, xây dựng cơ sở chiến
đấu…
+ 1889-1892: đánh thắng nhiều trận càn, tấn công 1 số đồn trại của
Pháp… Pháp mở cuộc càn quét lớn vào Ngàn Trươi… Nghĩa quân tập kích
vào thị xã Hà Tĩnh, phá nhà lao, giải phóng hơn 700 tù chính trị…
+ 1893-1896:
Phá thế bao vây và mở rộng địa bàn bằng việc mở các cuộc tấn công
vào tỉnh lị Nghệ An, đồn Nu (Thanh Chương-Nghệ An)…
Cao Thắng hi sinh…

44
3/1894 mở cuộc tập kích vào thị xã Hà Tĩnh, nhưng sau đó phải rút
lui…
Cuối 1894, thắng trận lớn ở núi Vụ Quang…
1895, Phan Đình Phùng hi sinh…
Đầu 1896, khởi nghĩa chấm dứt…
- Ý nghĩa: Gây cho địch nhiều phen khốn đốn, là đỉnh cao của phong trào
Cần Vương…
* Khởi nghĩa Yên Thế (1884-1913)
- Địa bàn:
chia thành 4 giai đoạn:
- 1884-1892: gồm hàng chục toán nghĩa quân, hoạt động lẻ tẻ khắp Yên Thế,
chưa có sự chỉ huy và lãnh đạo thống nhất… 1892, Đề Nắm mất, Đề Thám
trở thành thủ lĩnh tối cao…
- 1893-1897:
+ Mở rộng địa bàn hoạt động ra nhiều vùng (Bắc Giang, Bắc Ninh)…
+ Pháp tập trung lực lượng đánh lên Yên Thế…
+ Đề Thám tổ chức bắt cóc 1 số tên thực dân… gây xôn xao dư luận…
+ Chính quyền thực dân chủ động giảng hòa với Đề Thám…
+ Nghĩa quân tranh thủ thời gian hòa hoãn vừa sản xuất, vừa xây dựng lực
lượng…
+ 11/1895: Pháp tấn công, nghĩa quân phục kích, tiêu hao nhiều sinh lực địch,
nhưng cũng gặp nhiều tổn thất…
+ 12/1897: giảng hòa lần 2, nhưng Đề Thám vẫn ngấm ngầm củng cố lực
lượng…
- 1898-1908: nghĩa quân tranh thủ thời gian hòa hoãn tổ chức sản xuất, sắm
sửa vũ khí, luyện tập quân sự; giao tiếp với nhiều nhà yêu nước (Phan Bội
Châu, Phan Châu Trinh, Kì Đồng)…; Pháp cũng ráo riết chuẩn bị lực lượng
để đánh đòn quyết định…
- 1909-1913:

45
+ Thực dân Pháp tấn công trở lại…
+ Phong trào suy yếu dần và tan rã…
-> ý nghĩa: là phong trào đấu tranh tự phát của nông dân, gây cho địch nhiều
tổn thất…
Câu 5: Nêu ý nghĩa lịch sử của phong trào yêu nước chống Pháp của nhân
dân ta trong những năm cuối thế kỉ XIX?
- Thể hiện tinh thần yêu nước, chiến đấu bất khuất vì độc lập, tự do của nhân
dân ta…
- Gây nhiều khó khăn cho thực dân Pháp trong quá trình bình định của
chúng…
- Chứng minh vai trò và sức mạnh to lớn của giai cấp nông dân trong phong
trào yêu nước chống Pháp…
- Là bước kế tục phong trào kháng chiến chống Pháp giai đoạn trước, là tiền
đề cho phong trào yêu nước giai đoạn sau phát triển…
c.2. Mức độ Thông hiểu:
Câu 6: Vì sao thực dân Pháp tiến hành công cuộc xâm lược Việt Nam trong
nửa sau thế kỉ XIX?
- Trong nửa sau thế kỉ XIX, Pháp chuyển sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa,
nhu cầu về thuộc địa, thị trường tăng mạnh…
- Việt Nam là quốc gia giàu tài nguyên thiên nhiên, đông dân… là nơi cung
cấp nguyên, nhiên liệu, nhân công giá rẻ…
- Từ thế kỉ XVII, tư bản Pháp đã gây dựng được các cơ sở cho cuộc chiến
tranh xâm lược ở Việt Nam…
- Việt Nam giữa thế kỉ XIX đang khủng hoảng về mọi mặt:
+ Chính trị: Theo chế độ quân chủ chuyên chế, quyền lực tập trung vào tay
vua… nhưng đến giai đoạn này đã lâm vào khủng hoảng, không đủ sức thống
trị như cũ…
+ Kinh tế:

46
Nông nghiệp, công-thương nghiệp ngày càng sa sút; tài chính khó
khăn…
Một số chủ trương, chính sách của nhà nước gây bất lợi cho sự phát
triển kinh tế…
+ Xã hội:
Đời sống của nhân dân ngày càng cực khổ…
Hàng loạt cuộc khởi nghĩa của nông dân nổ ra…
-> đất nước khủng hoảng, tiềm lực suy yếu, tạo thuận lợi cho cuộc xâm lược
của tư bản Pháp
- Nhà Nguyễn thi hành chính sách “bế quan tỏa cảng”, “cấm đạo”, bài xích
đạo Thiên Chúa … càng tạo cớ cho thực dân Pháp xâm lược
Câu 7: Vì sao cuộc khởi nghĩa Hương Khê (1885-1896) được coi là cuộc
khởi nghĩa tiêu biểu nhất trong phong trào Cần Vương?
- Về thời gian: là cuộc khởi nghĩa kéo dài nhất trong phong trào …
- Lãnh đạo: Phan Đình Phùng là 1 văn thân nổi tiếng, đỗ Tiến sĩ, từng là đại
quan triều đình…
- Lực lượng tham gia: huy động sự ủng hộ, tham gia của đông đảo nhân dân
từ miền xuôi đến miền ngược (dẫn chứng…)
- Địa bàn: lan rộng khắp 4 tỉnh Thanh-Nghệ-Tĩnh-Bình, sang cả Lào…
- Tổ chức: chặt chẽ…, có đại bản doanh, xây dựng nhiều căn cứ liên lạc với
nhau…
- Chiến thuật: linh hoạt, chủ động sáng tạo, gây cho địch nhiều tổn thất…
- Tinh thần chiến đấu: kiên cường, bền bỉ, lập nhiều chiến công lớn (dẫn
chứng…)
c.3. Mức độ Vận dụng (cấp độ thấp và cấp độ cao):
Câu 8: Chứng minh rằng Việt Nam bị thực dân Pháp xâm lược trong nửa sau
thế kỉ XIX là tất yếu.
* Khẳng định: Việt Nam bị thực dân Pháp xâm lược trong nửa sau thế kỉ XIX
là tất yếu…

47
* Chứng minh:
- Từ thế kỉ XV-XVI, sau những cuộc phát kiến địa lí, các nước thực dân
phương Tây đã tiến hành xâm lược thuộc địa…
- Trong nửa sau thế kỉ XIX, các nước tư bản phương Tây chuyển sang giai
đoạn đế quốc chủ nghĩa, nhu cầu về thuộc địa, thị trường tăng mạnh, đã đua
nhau đi xâm chiếm thuộc địa…
- Các nước phương Đông là quốc gia giàu tài nguyên thiên nhiên, đông dân,
kinh tế kém phát triển, chế độ phong kiến đang khủng hoảng… là đối tượng
xâm lược của tư bản phương Tây…
- Nhiều nước ở phương Đông đã bị xâm lược và biến thành thuộc địa của tư
bản phương Tây…
- Trong nước: Đến giữa thế kỉ XIX, dưới sự thống trị của nhà Nguyễn:
+ Kinh tế lạc hậu, kém phát triển…
+ Chính trị: khủng hoảng…
+ Xã hội: mâu thuẫn gay gắt, nhiều cuộc khởi nghĩa nổ ra…
->tiềm lực đất nước suy yếu, khối đoàn kết dân tộc rạn nứt
* Kết luận: trong bối cảnh thế giới, khu vực và trong nước như thế, Việt Nam
bị xâm lược là tất yếu…
Câu 9: Phân tích hoàn cảnh lịch sử và đặc điểm của cuộc kháng chiến chống
Pháp xâm lược từ 1858 đến 1884?
* Hoàn cảnh lịch sử:
- Giữa thế kỉ XIX, các nước phương Tây đua nhau đi xâm chiếm thuộc địa…
- Các nước phương Đông đứng trước nguy cơ bị xâm lược:
+ Một số nước tiến hành cải cách, canh tân đã giữ vững được độc lập,
chủ quyền…
+ Nhiều nước duy trì đường lối cũ nên bị thôn tính…
- Trước khi Pháp xâm lược, Việt Nam là quốc gia độc lập, đạt một số thành
tựu về văn hóa, chính trị khủng hoảng, kinh tế lạc hậu, mâu thuẫn xã hội gay
gắt…

48
- Khi thực dân Pháp xâm lược, triều Nguyễn có kháng chiến nhưng dè dặt,
không dám đứng hẳn về phía nhân dân, hòa hoãn từng bước và đầu hàng…
* Đặc điểm:
- Mục tiêu-nhiệm vụ: lúc đầu là chống đế quốc, sau kết hợp với chống phong
kiến đầu hàng…
- Lãnh đạo: lúc đầu có sự lãnh đạo của triều đình, sau là phong trào tự động
chống Pháp của nd…
- Lực lượng tham gia: phong phú (quan quân triều đình…, sĩ phu…, nông
dân là đông đảo nhất…)
- Hình thức đấu tranh: đấu tranh vũ trang là chủ yếu…
- Qui mô: khắp cả nước…
- Tính chất: mang tính dân tộc và nhân dân sâu sắc…
Câu 10: Hãy đánh giá thái độ của nhà Nguyễn trước cuộc xâm lược của thực
dân Pháp (1858-1884) thông qua các Hiệp ước triều đình nhà Nguyễn đã kí
với thực dân Pháp vào các năm 1862, 1874, 1883 và 1884.
* Hiệp ước Nhâm Tuất (1862):
- Sơ lược về hoàn cảnh lịch sử:
+ Đến tháng 3/1862, Pháp chiếm được 4 tỉnh Nam Kì (Gia Định, Định
Tường, Biên Hòa, Vĩnh Long)…
+ Phong trào kháng chiến của nhân dân ngày càng phát triển…
+ Triều đình muốn thương lượng với Pháp để dồn lực lượng đàn áp
phong trào nông dân ngoài Bắc…
-> ngày 5/6/1862, Hiệp ước được kí kết…
- Nội dung: gồm 12 điều khoản, những điều khoản chính là:
+ nhượng hẳn cho Pháp 3 tỉnh miền Đông Nam kì và đảo Côn Lôn
+ bồi thường 20 triệu francs
+ mở 3 cửa biển cho thương nhân Pháp và Tây Ban Nha vào tự do
buôn bán + Pháp sẽ trả thành Vĩnh Long nếu triều đình Huế ngừng hẳn
phong trào chống Pháp ở 3 tỉnh miền Đông

49
=>NX: Hiệp ước là thắng lợi lớn của Pháp…; là Hiệp ước bán nước đầu tiên
của triều đình Huế…
* Hiệp ước Giáp Tuất (1874):
- Sơ lược về hoàn cảnh lịch sử:
+ Chiến thắng Cầu Giấy (12/1873) làm nhân dân ta nức lòng; làm quân
Pháp ở Hà Nội và các tỉnh hoảng sợ; làm thực dân Pháp ở Nam kì hoang
mang-> đây là thời cơ thuận lợi để đánh đuổi quân giặc…
+ Các đội quân triều đình được lệnh rút lên Sơn Tây để tạo không khí
thuận lợi cho đàm phán…
-> ngày 15/3/1873, Hiệp ước được kí kết…
- Nội dung:
+ Pháp rút khỏi Hà Nội và các tỉnh đồng bằng Bắc kì
+ Triều đình Huế thừa nhận chủ quyền của Pháp tại 6 tỉnh Nam kì; mở
các cửa Thị Nại (Quy Nhơn), Ninh Hải (Hải Phòng); tỉnh lị Hà Nội và sông
Hồng cho Pháp vào buôn bán
+ Ở những nơi đó, Pháp có quyền mở mang công nghệ, xây dựng kho
tang, thuê mướn nhân công, đặt lãnh sự có quân bảo vệ
+ Nền ngoại giao nước ta phụ thuộc vào đường lối ngoại giao của nước
Pháp
-> NX: Hiệp ước là thắng lợi lớn của Pháp…; là Hiệp ước bán nước thứ hai
của triều đình Huế…
* Hiệp ước Hác-măng (1883):
- Sơ lược về hoàn cảnh lịch sử:
+ 7/1883, vua Tự Đức mất, không có con nối dõi…
+ 8/1883, Pháp tấn công và chiếm cửa biển Thuận An, triều đình hoảng
sợ xin đình chiến…
-> ngày 25/8/1883, Hiệp ước được kí kết…
- Nội dung:

50
+ Triều đình Huế chính thức thừa nhận sự bảo hộ của nước Pháp, mọi
công việc chính trị, kinh tế, ngoại giao đều do Pháp nắm
+ Tại Huế sẽ đặt chức Khâm sứ để thay mặt Chính phủ Pháp, viên này
có quyền gặp nhà vua bất kì lúc nào nếu xét thấy cần thiết
+ Tại Hà Nội, Hải Phòng và một số nơi khác đặt chức Công sứ có quân
đội bảo vệ và có quyền kiểm soát việc tuần phòng, quản lí việc thuế vụ, giám
sát mọi sự thu chi, phụ trách thuế quan
+ Khu vực do triều đình cai trị chỉ còn lại từ Khánh Hòa ra tới Đèo
Ngang, nhưng các việc thương chính, công chính do Pháp nắm
+ Quân Pháp đóng tại Thuận An và Huế
+ Mọi việc giao thiệp của Việt Nam với nước ngoài do Pháp nắm
+ Về quân sự: phải nhận huấn luyện viên và sĩ quan chỉ huy Pháp; phải
triệt hồi quân lính đã đưa ra Bắc kì; để Pháp đóng binh dọc sông Hồng và
những nơi xét thấy cần thiết; Pháp có quyền xử trí đội quân Cờ đen
-> NX: Hiệp ước đánh dấu sự phản bội của triều đình Huế với nhân dân cả
nước…
* Hiệp ước Pa-tơ-nốt (1884)
- Sơ lược về hoàn cảnh lịch sử:
+ Sau Hiệp ước Hác-măng (1883), quân dân Bắc kì tiếp tục kháng
chiến…
+ Nhiều quan lại ở các địa phương không chịu về kinh, ở lại mộ binh
đánh giặc…
+ Đầu 1884, chiến sự ác liệt ở Bắc kì… 5/1884, Mãn Thanh-Pháp kí
Quy ước Thiên Tân, theo đó quân Thanh rút khỏi Bắc kì
-> Trên đà thắng thế, Pháp buộc triều đình Huế kí Hiệp ước Pa-tơ-nốt
(6/6/1884)
- Nội dung: gồm 19 điều khoản, cơ bản dựa trên Hiệp ước Hác-măng (1883),
nhưng trả lại các tỉnh Bình Thuận, Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh cho triều

51
đình cai quản nhằm xoa dịu sự công phẫn của nhân dân và mua chuộc thêm
quan lại triều đình nhà Nguyễn.
-> NX: Hiệp ước đánh dấu sự đầu hàng hoàn toàn của triều đình Nguyễn
trước cuộc xâm lược của thực dân Pháp…
* Đánh giá: Thông qua các bản Hiệp ước mà nhà Nguyễn đã kí với thực dân
Pháp (trong các năm 1862, 1874, 1883, 1884), ta thấy:
- Khi đối diện với cuộc xâm lược của thực dân Pháp, nhà Nguyễn đã thi hành
đường lối kháng chiến sai lầm: từ bỏ con đường đấu tranh vũ trang truyền
thống, đi theo con đường đấu tranh ngoại giao, cầu hòa…
- Khi tiến hành đấu tranh ngoại giao với kẻ thù đầy dã tâm, nhà Nguyễn tiếp
tục mắc sai lầm: đấu tranh ngoại giao trên thế yếu…
- Những sai lầm đó của nhà Nguyễn xuất phát từ tâm lí: khiếp nhược trước
sức mạnh của kẻ thù nhưng lại sợ dân hơn sợ giặc, sẵn sàng bắt tay với kẻ thù
để đàn áp nhân dân…
- Hậu quả: nhà Nguyễn đi từ chủ chiến đến chủ hòa, nhượng bộ từng bước,
tiến tới đầu hàng giặc…
Câu 11: Phân tích trách nhiệm của nhà Nguyễn trong việc để Việt Nam rơi
vào tay thực dân Pháp cuối thế kỉ XIX.
* Trước năm 1858: thi hành đường lối, chính sách lạc hậu, phản động kìm
hãm sự phát triển của đất nước:
- Không chăm lo phát triển kinh tế đất nước, thậm chí có những chính sách
kìm hãm sự phát triển kinh tế (dẫn chứng…)
- Không chăm lo giải quyết mâu thuẫn xã hội mà tăng cường tính chuyên chế,
bóc lột, đàn áp nhân dân (dẫn chứng…)
- Chính sách đối ngoại bế tắc (dẫn chứng…)
-> Nhà Nguyễn tự cô lập, không còn đủ sức tập hợp, lãnh đạo quần chúng
nhân dân…
* Từ năm 1858-1884:

52
- Đề cao quyền lợi của giai cấp, không dám cải cách, canh tân đất nước (dẫn
chứng…)-> đất nước ngày càng suy yếu…
- Tiến hành kháng chiến nhưng mắc những sai lầm không thể tha thứ:
+ Từ bỏ con đường đấu tranh vũ trang, theo đuổi con đường ngoại
giao, thương lượng trên thế yếu (dẫn chứng…)
+ Không biết chớp thời cơ để phản công (dẫn chứng…)
+ Ngăn cản nhân dân kháng chiến (dẫn chứng…)
=>Kết luận: Nhà Nguyễn phải chịu một phần trách nhiệm trong việc để nước
ta rơi vào tay thực dân Pháp cuối thế kỉ XIX.
Câu 12: Chứng minh rằng Việt Nam bị mất nước cuối thế kỉ XIX không phải
là tất yếu.
* Khẳng định: Việt Nam bị mất nước cuối thế kỉ XIX không phải là tất yếu

* Chứng minh:
- Trước nguy cơ xâm lược, có 1 số nước trong khu vực đã kịp thời cải cách,
đưa đất nước trở nên cường thịnh và giữ được độc lập (dẫn chứng…)
- Khi đương đầu với cuộc xâm lược của thực dân phương Tây, có quốc gia đã
kháng chiến quyết liệt và giữ vững được độc lập, chủ quyền (dẫn chứng…)
- Khi đối diện với cuộc xâm lược của thực dân Pháp:
+ Nhân dân ta đã đứng lên chiến đấu với tinh thần “giặc đến nhà đàn
bà cũng đánh” (dẫn chứng…)
+ Nhiều lúc cuộc chiến đấu của quân, dân ta đã dồn thực dân Pháp vào
vòng khốn đốn (dẫn chứng…)
+ Nhà Nguyễn vì coi trọng lợi ích giai cấp hơn lợi ích dân tộc nên thi
hành đường lối, chính sách sai lầm: không cải cách, canh tân đất nước (dẫn
chứng…); không kiên quyết kháng chiến (dẫn chứng…); ngăn cản nhân dân
kháng chiến (dẫn chứng…); đi từ chủ chiến đến chủ hòa và đầu hàng (dẫn
chứng…)

53
=>Kết luận: Việc mất nước là không tất yếu vì có thể tránh được; nhưng nhà
Nguyễn với đường lối, chính sách phản động đã làm cho việc mất nước từ
không tất yếu trở thành tất yếu.
Câu 13: Phân tích hoàn cảnh lịch sử và kết cục của các đề nghị cải cách, duy
tân ở nước ta cuối thế kỉ XIX.
* Hoàn cảnh lịch sử:
- Kinh tế tiếp tục lâm vào khủng hoảng nghiêm trọng:
+ Nông nghiệp sa sút…
+ Thủ công nghiệp và thương nghiệp bế tắc…
+ Tài chính cạn kiệt…
- Chính trị:
+ Triều đình tăng cường bóc lột nhân dân…
+ Bộ máy chính quyền từ trung ương đến địa phương trở nên sâu mọt…
+ Địa chủ, cường hào đục khoét, nhũng nhiễu dân lành…
- Xã hội:
+ Mâu thuẫn giữa các tầng lớp nhân dân với giai cấp phong kiến thống trị gay
gắt…
+ Nhiều cuộc khởi nghĩa, bạo loạn chống triều đình nổ ra và bị đàn áp…
- Đối ngoại: thực dân Pháp ráo riết mở rộng xâm lược nước ta…
-> NX: Vận nước nguy nan đã tác động tới các quan lại, sĩ phu yêu nước tiến
bộ, nhiều đề nghị cải cách- duy tân được đưa ra…
* Kết cục:
- Nhà Nguyễn có cho tiến hành một số cải cách nhưng nhỏ giọt, lẻ tẻ, bỏ dở
giữa chừng…
- Hầu hết các đề nghị cải cách-duy tân đều không được thực hiện…
Câu 14: Phân tích hoàn cảnh lịch sử và đặc điểm của phong trào Cần Vương
cuối thế kỉ XIX?
* Hoàn cảnh lịch sử:

54
- Cuối thế kỉ XIX, chủ nghĩa tư bản chuyển sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa,
đẩy mạnh việc xâm chiếm, khai thác thuộc địa…
- Sau hai hiệp ước 1883, 1884, thực dân Pháp hoàn thành cuộc xâm lược Việt
Nam và chuyển sang bình định…
- Nhà Nguyễn hoàn toàn đầu hàng, nhưng bộ phận quan lại triều đình-phe
chủ chiến vẫn nuôi chí hành động…
- Phái chủ chiến đứng đầu là Tôn Thất Thuyết vẫn nuôi hi vọng khôi phục lại
độc lập, chủ quyền nếu có thời cơ…
- Thực dân Pháp âm mưu loại bỏ phái chủ chiến…
- Đêm ngày 4/7/1885, quân đội của phái chủ chiến tấn công quân Pháp tại
kinh thành Huế…
- Cuộc tấn công thất bại, Tôn Thất Thuyết hộ giá vua Hàm Nghi đến sơn
phòng Tân Sở (Quảng Trị)…
- 13/7/1885, Tôn Thất Thuyết lấy danh nghĩa vua Hàm Nghi hạ chiếu Cần
Vương…
- 20/9/1885, chiếu Cần Vương lần 2 được phát ra …
-> phong trào Cần Vương bùng nổ, kéo dài hơn 10 năm…
* Đặc điểm:
- Mục tiêu-nhiệm vụ: chống Pháp và chống phong kiến đầu hàng để khôi
phục lại chế độ phong kiến độc lập có vua hiền tôi giỏi…
- Lãnh đạo: văn thân, sĩ phu yêu nước (dẫn chứng…)
- Lực lượng tham gia: đông đảo quần chúng nhân dân (văn thân, sĩ phu, nông
dân, dân tộc thiểu số…)
- Qui mô: gồm nhiều cuộc khởi nghĩa lớn nhỏ, tập trung ở Bắc kì, Trung kì…
- Tính chất: phong trào yêu nước theo khuynh hướng phong kiến…
Câu 15: Từ nội dung cơ bản của chiếu Cần Vương, hãy phân tích thái độ của
quần chúng nhân dân và của các văn thân, sĩ phu đối với chiếu.
* Sơ lược về việc xuống chiếu Cần vương…
* Nội dung cơ bản của chiếu:

55
- Tố cáo âm mưu xâm lược Việt Nam của thực dân Pháp, sự phản bội của 1
số quan lại, tính bất hợp pháp của triều đình Đồng Khánh do thực dân Pháp
mới dựng nên…
- Khích lệ sĩ phu, văn thân và nhân dân cả nước quyết tâm kháng chiến đến
cùng…
* Phân tích:
- Thái độ của quần chúng nhân dân:
+ Bộ phận đông đảo nhất là nông dân…
+ Có truyền thống yêu nước, chiến đấu chống ngoại xâm …
+ Trước khi có chiếu Cần Vương đã chiến đấu dũng cảm để bảo vệ độc
lập dân tộc…
+ Ít nhiều bị chi phối bởi tư tưởng “trung quân”… nên khi có chiếu
Cần Vương đã đứng dậy hưởng ứng, trở thành động lực của phong trào …
- Thái độ của văn thân, sĩ phu:
+ Là những trí thức, quan lại trong xã hội phong kiến Việt Nam…
+ Kế thừa truyền thống yêu nước, chống ngoại xâm của dân tộc…
+ Bị chi phối nặng nề bởi tư tưởng “trung quân ái quốc”…
+ Trước khi có chiếu Cần Vương có mâu thuẫn trong tư tưởng…
+ Khi có chiếu Cần Vương, được giải tỏa về tâm lí…-> hăng hái
hưởng ứng, trở thành lực lượng lãnh đạo của phong trào…
Câu 16: Phân tích điểm giống và khác nhau giữa phong trào Cần Vương
(1885-1896) và phong trào nông dân Yên Thế (1884-1913).
* Giống nhau:
- Là phong trào yêu nước chống Pháp…
- Nổ ra khi thực dân Pháp hoàn thành cuộc xâm lược, chuyển sang bình định
nước ta…
- Lực lượng tham gia: đông đảo nhất là nông dân…
* Khác nhau:
- Mục tiêu, nhiệm vụ cụ thể:

56
+ Phong trào Cần Vương: chống Pháp chống phong kiến đầu hàng để
khôi phục lại chế độ phong kiến độc lập có vua hiền tôi giỏi…
+ Phong trào Yên Thế: chống Pháp, bảo vệ cuộc sống tự do của nông
dân vùng Yên Thế…
- Lãnh đạo:
+ Phong trào Cần Vương: văn thân, sĩ phu yêu nước (dẫn chứng…)
+ Phong trào Yên Thế: nông dân (dẫn chứng…)
- Thời gian:
+ Phong trào Cần Vương: trong hơn 10 cuối thế kỉ XIX…
+ Phong trào Yên Thế: từ cuối thế kỉ XIX đến hơn 10 năm đầu thế kỉ
XX…
- Qui mô:
+ Phong trào Cần Vương: gồm nhiều cuộc khởi nghĩa lớn nhỏ, tập
trung ở Bắc kì, Trung kì…
+ Phong trào Yên Thế: là 1 cuộc khởi nghĩa có địa bàn nhỏ hẹp (từ Bắc
Giang, sau lan xuống Hà Nội)…
- Lực lượng tham gia:
+ Phong trào Cần Vương: văn thân, sĩ phu yêu nước; nông dân
+ Phong trào Yên Thế: nông dân, đầu thế kỉ XX có thêm những sĩ phu
yêu nước tiến bộ (dẫn chứng…)
- Tính chất:
+ Phong trào Cần Vương: phong trào yêu nước theo khuynh hướng
phong kiến…
+ Phong trào Yên Thế: phong trào đấu tranh tự phát của nông dân…
Câu 17: Phân tích hoàn cảnh lịch sử và đặc điểm của cuộc khởi nghĩa Yên
Thế (1884-1913).
* Hoàn cảnh lịch sử:
- Tình trạng sa sút về nông nghiệp thời Nguyễn khiến nhiều nông dân Bắc kì
bỏ làng mạc đi kiếm sống, kéo lên Yên Thế…

57
- Từ giữa thế kỉ XIX, họ quy tụ thành làng xóm, khai hoang, đấu tranh bảo vệ
cuộc sống…
- Sau hai Hiệp ước Hác-măng (1883) và Pa-tơ-nốt (1884), triều đình Nguyễn
đầu hàng thực dân Pháp, thực dân Pháp hoàn thành cuộc xâm lược, chuyển
sang bình định Việt Nam…
- Khi Pháp mở rộng phạm vi chiếm đóng Bắc kì, Yên Thế trở thành đối tượng
bình định của Pháp…
-> Để bảo vệ cuộc sống, nông dân đứng lên đấu tranh tự vệ, phong trào Yên
Thế bùng nổ năm 1884, kéo dài đến 1913…
* Đặc điểm:
- Mục tiêu, nhiệm vụ: chống Pháp, bảo vệ cuộc sống tự do của nông dân vùng
Yên Thế…
- Lãnh đạo: nông dân (dẫn chứng…)
- Qui mô: là 1 cuộc khởi nghĩa có địa bàn nhỏ hẹp (từ Bắc Giang, sau lan
xuống Hà Nội)…
- Lực lượng tham gia: nông dân là chủ yếu, sang đầu thế kỉ XX có thêm
những sĩ phu yêu nước tiến bộ (dẫn chứng…)
- Tính chất: phong trào đấu tranh tự phát của nông dân…
Câu 18: Từ việc so sánh phong trào Cần Vương (1885-1896) và phong trào
nông dân Yên Thế (1884-1913), hãy rút ra tính chất của hai phong trào này?
* So sánh:
- Mục tiêu, nhiệm vụ:
+ Phong trào Cần Vương: chống Pháp chống phong kiến đầu hàng để
khôi phục lại chế độ phong kiến độc lập có vua hiền tôi giỏi…
+ Phong trào Yên Thế: chống Pháp, bảo vệ cuộc sống tự do của nông
dân vùng Yên Thế…
- Lãnh đạo:
+ Phong trào Cần Vương: văn thân, sĩ phu yêu nước (dẫn chứng…)
+ Phong trào Yên Thế: nông dân (dẫn chứng…)

58
- Thời gian:
+ Phong trào Cần Vương: trong hơn 10 cuối thế kỉ XIX…
+ Phong trào Yên Thế: từ cuối thế kỉ XIX đến hơn 10 năm đầu thế kỉ
XX…
- Qui mô:
+ Phong trào Cần Vương: gồm nhiều cuộc khởi nghĩa lớn nhỏ, tập
trung ở Bắc kì, Trung kì…
+ Phong trào Yên Thế: là 1 cuộc khởi nghĩa có địa bàn nhỏ hẹp (từ Bắc
Giang, sau lan xuống Hà Nội)…
- Lực lượng tham gia:
+ Phong trào Cần Vương: văn thân, sĩ phu yêu nước; nông dân
+ Phong trào Yên Thế: nông dân, đầu thế kỉ XX có thêm những sĩ phu
yêu nước tiến bộ (dẫn chứng…)
* Tính chất:
- Do hai phong trào khác nhau về lãnh đạo, mục tiêu-nhiệm vụ, nên tính chất
của hai phong trào khác nhau:
+ Phong trào Cần Vương: phong trào yêu nước theo khuynh hướng
phong kiến…
+ Phong trào Yên Thế: phong trào đấu tranh tự phát của nông dân…
-> Vì vậy, phong trào Yên Thế có thời gian diễn ra song song với phong trào
Cần Vương nhưng không qui tụ vào phong trào Cần Vương…
Câu 19: Phân tích nguyên nhân thất bại của phong trào yêu nước chống thực
dân Pháp ở Việt Nam cuối thế kỉ XIX?
* Sơ lược về phong trào yêu nước ở Việt Nam cuối thế kỉ XIX:
- Khi triều đình đã đầu hàng các cuộc khởi nghĩa vẫn nổ ra liên tục, trong thời
gian dài, trên địa bàn rộng lớn, thu hút đông đảo quần chúng nhân dân tham
gia ( dẫn chứng về các phong trào đấu tranh…)
- Gây cho thực dân Pháp nhiều tổn thất…, gây khó khăn cho công cuộc bình
định của chúng…

59
* Phân tích nguyên nhân thất bại:
- Khách quan:
+ Đến cuối thế kỉ XIX, trên thế giới, chế độ phong kiến đã trở nên
phản động (dẫn chứng…)
+ Hệ tư tưởng phong kiến đã lỗi thời nên không còn khả năng tập hợp
được sức mạnh của toàn dân tộc (dẫn chứng…)
+ Kẻ thù mạnh hơn ta, lại đặt được ách thống trị lên khắp Việt Nam
(dẫn chứng…)
- Chủ quan:
+ Chưa có một giai cấp tiên tiến lãnh đạo (dẫn chứng…)
+ Là những cuộc đấu tranh mang tính tự phát, nổ ra lẻ tẻ, chưa trở
thành phong trào toàn quốc (dẫn chứng…)
+ Những cuộc đấu tranh chưa được tổ chức chặt chẽ, không xây dựng
được một lực lượng cách mạng hùng hậu, yếu về lực lượng, thiếu về vũ khí
(dẫn chứng…)

60
61

You might also like