You are on page 1of 211

TUYÊN NGÔN ĐỘC LẬP ( HCM)

ĐỀ 1: Nhận xét về Tuyên ngôn Độc lập của Hồ Chí Minh, có ý kiến cho rằng
“Tuyên ngôn Độc lập là một văn kiện lịch sử vô giá”. Ý kiến khác lại khẳng định
“Tuyên ngôn Độc lập là một áng văn chính luận mẫu mực”. Từ việc cảm nhận về
giá trị của bản Tuyên ngôn Độc lập, anh/chị hãy bình luận những ý kiến trên?
BÀI LÀM:
Nhắc đến chủ tịch Hồ Chí Minh, ta liên tưởng ngay tới một chân dung giản dị mà
vĩ đại, một lãnh tụ kiệt xuất mà gần gũi. Nhưng Người còn được nhắc đến với tư
cách một nhà văn, một nhà thơ. Như Hồ Chí Minh từng nói: “Tôi hiến cả đời tôi
cho dân tộc tôi”, cuộc đời bảy mươi chín xuân của Người từ khi là anh thanh niên
Nguyễn Tất Thành bước đi trên bến Nhà Rồng (05/06/1911) cho đến khi xuôi tay
nhắm mắt (02/09/1969), không lúc nào trái tim vĩ đại ấy dừng nghĩ cho đất nước,
dân tộc. Về sự nghiệp sáng tác, Người để lại cho kho tàng văn học dân tộc nhiều
tác phẩm giá trị, phong phú về thể loại. Trong đó, đặc sắc phải kể đến là những áng
văn chính luận. Phong cách sáng tác trong văn chính luận: Ngắn gọn, súc tích, lập
luận chặt chẽ lí lẽ đanh thép. Là một văn kiện lịch sử quan trọng, Tuyên ngôn độc
lập đã tổng kết một thời kỳ đau thương nhưng vô cùng anh dũng trong cuộc đấu
tranh giành độc lập và khẳng định mạnh mẽ quyền độc lập, tự do của nước Việt
Nam mới.
Cuộc cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, đất nước bước vào kỷ nguyên
của độc lập, tự do nhưng vẫn phải đứng trước những thách thức của cảnh “ngàn
cân treo sợi tóc” khi bọn đế quốc và thực dân lợi dụng danh nghĩa quân Đồng minh
âm mưu cưóp nước ta một lần nữa. Chính trong thời điểm ấy, ngày 2 tháng 9 năm
1945 trên Quảng Trường Ba Đình lịch sử, Chủ tịch Hồ Chí Minh độc bản tuyên
ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ Cộng hòa. Đây là bản tuyên
ngôn viết cho nhân dân Việt Nam, nhân dân thế giới và công luận Quốc tế. Nhận
xét về Tuyên ngôn độc lập của Hồ Chí Minh, có ý kiến cho rằng “Tuyên ngôn độc
lập là một văn kiện lịch sử vô giá”. Ý kiến khác lại khẳng định “Tuyên ngôn Độc
lập là một áng văn chính luận mẫu mực”.
Hai ý kiến đưa ra những cái nhìn và cách đánh giá khác nhau về Tuyên ngôn Độc
lập của Hồ Chí Minh, ý kiến thứ nhất làm nổi bật giá trị lịch sử, giá trị pháp lý mà
Tuyên ngôn đã làm được. Tuyên ngôn Độc lập là bản “Thiên cổ hùng văn”, kết
tinh truyền thống lịch sử kiên cường, bất khuất của dân tộc ta, góp phần làm phong
phú về quyền tự quyết của các dân tộc trên thế giới – quyền độc lập, tự do. Tuyên
ngôn Độc lập đã kết thúc với một quyết tâm sắt đá: “Nước Việt Nam có quyền
hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do, độc lập. Toàn thể dân
tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ
vững quyền tự do, độc lập ấy”.
Bản Tuyên ngôn chính thức chỉ ra một chính quyền cách mạng mới của nhân dân
Việt Nam được xây dựng và trưởng thành theo đúng ý nguyện của mọi tầng lớp
nhân dân và cả dân tộc Việt Nam. Tuyên ngôn Độc lập khẳng định ý chí sắt đá
không gì lay chuyển nổi và đồng thời là triết lý nhân sinh vĩnh hằng của dân tộc
Việt Nam được Chủ tịch Hồ Chí Minh phát hiện “Không có gì quý hơn độc lập, tự
do”.
Tuyên ngôn Độc lập là sản phẩm của sự kết hợp các giá trị của truyền thống anh
hùng, bất khuất và ý chí độc lập dân tộc của Việt Nam với sứ mệnh cao cả của giai
cấp vô sản được đề cập trong Tuyên ngôn Đảng Cộng sản. Nó thể hiện rõ nét cách
mạng Việt Nam là một bộ phận hữu cơ của cách mạng thế giới và giai cấp vô sản
Việt Nam là một bộ phận không thể tách rời của giai cấp vô sản thế giới, có sứ
mệnh lịch sử cao cả và vĩ đại là giải phóng dân tộc và nhân loại.
So với bản Tuyên ngôn độc lập lần thứ nhất (Nam quốc sơn hà - Lí Thường Kiệt)
và bản Tuyên ngôn Độc lập lần thứ hai (Bình Ngô đại cáo - Nguyễn Trãi) thì bản
Tuyên ngôn Độc lập của Hồ Chí Minh đã vươn lên một tầm cao mới, vượt hơn ở
tầm vóc hướng ra thế giới trên tinh thần dân chủ, tự do có kết hợp với truyền thống
yêu nước và tư tưởng nhân đạo của dân tộc.
Ý kiến thứ hai, nhấn mạnh hơn vào giá trị nghệ thuật của tác phẩm, vào văn phong,
cách thức lập luận, vào bản lĩnh, tư duy của một bậc thầy chính luận khi đặt bút.
Toàn văn bản Tuyên ngôn Độc lập không quá dài mà rất súc tích, cô đọng, hàm ý
sâu xa. Hồ Chí Minh dùng những lí lẽ đanh thép, những lập luận chặt chẽ, những
bằng chứng không thể chối cãi được để viết nên áng văn chính luận mẫu mực.
Không chỉ vậy, văn kiện này còn là tấm lòng yêu nước nồng nàn, niềm tự hào dân
tộc mãnh liệt, sự khao khát độc lập tự do và ý chí quyết tâm bảo vệ tự do, độc lập
của nhân dân Việt Nam ở Người.
Bản Tuyên ngôn chia làm ba phần rõ rệt, mỗi phần một ý, liên hệ chặt chẽ với
nhau. Trong phần một, Hồ Chí Minh đã nêu lên những chân lí về nhân quyền và
dân quyền để làm cơ sở pháp lí cho bản Tuyên ngôn. Việc dẫn hai bản tuyên ngôn
này, Bác đã đặt bản Tuyên ngôn Độc lập của ta ngang hàng với các bản Tuyên
ngôn của các nước lớn như Pháp và Mĩ. Từ đó khẳng định quyền thiêng liêng của
mỗi con người. Không những thế, Bác đã nâng lên thành quyền thiêng liêng của
mỗi dân tộc: “suy rộng ra, câu ấy có nghĩa là: tất cả các dân tộc trên thế giới đều
sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự
do”. Bằng phép so sánh tương đồng, hai bản Tuyên ngôn của Pháp và Mỹ đã là cơ
sở pháp lý vô cùng chắc chắn để dân tộc Việt Nam nêu cao quyền độc lập.
Phần thứ nhất đã làm nền cho phần thứ hai của bản Tuyên ngôn. Nếu trong phần
thứ nhất Bác khẳng định quyền thiêng liêng của mỗi con người, của mỗi dân tộc là
quyền được sống, được tự do, được độc lập và mưu cầu hạnh phúc thì trong phần
thứ hai của bản Tuyên ngôn, Bác đã vạch rõ tội ác của thực dân Pháp đã gây ra cho
đất nước ta, nhân dân ta. Hành động của chúng thật dã man, vô nhân đạo, đi ngược
lại tinh thần của bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của cách mạng Pháp,
vạch rõ bản chất gian xảo của bọn thực dân Pháp. Trong phần này Bác lại nêu rõ
tinh thần nhân đạo, yêu độc lập lự do và tinh thần quyết tâm giành và bảo vệ độc
lập của dân tộc ta. Đến phần thứ ba (phần cuối) Bác lại nói về kết quả của tinh thần
yêu nước, yêu độc lập tự do của dân tộc ta và tuyên bố trịnh trọng với thế giới rằng
“Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do độc lập và thực sự đã trở thành một nước
tự do độc lập”.
Như vậy, ta thấy bản Tuyên ngôn Độc lập của Hồ Chí Minh có một kết cấu, bố cục
khá chặt chẽ. Hơn nữa, lời lẽ của bản Tuyên ngôn hùng hồn, nhịp điệu câu văn khá
dồn dập, sắc cạnh. Có những câu văn thật ngắn gọn nhưng lại diễn đạt một ý nghĩa
vô cùng phong phú như câu “Pháp chạy, Nhật hàng, vua Bảo Đại thoái vị”. Câu
văn chỉ có chín từ thôi nhưng lại diễn đạt được bao biến động của thời điểm lịch sử
lúc bấy giờ.
Trong bản Tuyên ngôn Độc lập này Bác đã sử dụng rất thành công các biện
pháp tu từ: điệp từ, điệp ngữ, phép liệt kê để nhấn mạnh, vạch rõ tội ác của kẻ thù
đã gieo rắc cho nhân dân ta, đất nước ta trên nhiều lĩnh vực từ chính trị đến văn
hóa, kinh tế... Trong bản Tuyên ngôn Độc lập, Bác còn dùng phép tăng cấp:
“...tuyên bố thoát li hẳn quan hệ với thực dân Pháp, xóa bỏ hết những hiệp ước mà
Pháp đã kí về nước Việt Nam, xóa bỏ tất cả mọi đặc quyền của Pháp trên đất nước
Việt Nam”. Với phép tăng cấp này, Bác đã thể hiện cao độ tinh thần độc lập tự chủ
của cả dân tộc. Qua những điều trình bày trên, ta thấy rõ Tuyên ngôn độc lập của
Hồ Chí Minh có một giá trị văn chương lớn.
Tóm lại, có thể thấy, cả hai ý kiến đều đúng, tuy có nội dung khác nhau tưởng
như đối lập, mâu thuẫn nhưng thực chất là bổ sung cho nhau cùng khẳng định giá
trị to lớn của bản tuyên ngôn. Đó là sự kết hợp hài hòa giữa lịch sử chính trị và văn
chương nghệ thuật. Tuyên ngân Độc lập là một văn kiện lịch sử vô giá, là áng văn
chính luận mẫu mực; là văn bản pháp lý, văn hoá của muôn đời; là hội tụ vẻ đẹp tư
tưởng và tình cảm của Hồ Chí Minh cũng như của toàn dân tộc Việt Nam – Bản
Tuyên ngôn xứng đáng là “áng thiên cổ hùng văn”.
“Xã tắc từ đây vững bền
Giang sơn từ đây đối mới. ”
Tuyên ngôn Độc lập đã mở ra một thời đại mới, vẻ vang, cũng đồng thời kết tinh
trong đó giá trị lịch sử, giá trị thời đại và chắc chắn sẽ trường tồn bất diệt!
ĐỀ 2: Mở đầu bản Tuyên ngôn độc lập, Hồ Chí Minh viết:
Hỡi đồng bào cả nước.
“Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những
quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được
sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc".
Lời bất hủ ấy ở trong bản Tuyên ngôn Độc lập năm 1776 của nước Mỹ. Suy
rộng ra, câu ấy có nghĩa là: tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng,
dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do.
Bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Cách mạng Pháp năm 1791
cũng nói: “Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi; và phải luôn luôn
được tự do và bình đẳng về quyền lợi.”
Đó là những lẽ phải không ai chối cãi được.
(Trích SGK Ngữ văn 12 tập 1- NXB Giáo dục Việt Nam 2016)
Anh chị hãy phân tích đoạn trích trên. Từ đó liên hệ tới phần mở đầu của Đại
cáo bình Ngô (Nguyễn Trãi) để nhận xét về cách xác lập chân lí về quyền độc lập
dân tộc của mỗi tác giả.
HƯỚNG DẪN:
* Giới thiệu vài nét về tác giả, tác phẩm, đoạn trích
* Phân tích đoạn trích mở đầu Tuyên ngôn độc lập (Hồ Chí Minh).
Thí sinh có thể cảm nhận theo nhiều cách nhưng cần đáp ứng các yêu cầu sau:
- Nội dung: đoạn trích đã khẳng định những quyền thiêng liêng cao cả của con
người không ai có thể xâm phạm. Mọi người, mọi dân tộc trên thế giới đều bình
đẳng, có quyền sống, quyền sung sướng, quyền tự do…
+ Mở đầu bản Tuyên ngôn Độc lập, Hồ Chí Minh đã trích dẫn từ hai bản tuyên
ngôn của người Pháp và người Mĩ.
+ Dùng phép suy luận tương đồng, sau khi trích Tuyên ngôn Độc lập của Mỹ,
Người còn “Suy rộng ra câu ấy có nghĩa là: Tất cả các dân tộc trên thế giới sinh ra
đều bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự
do”.
+ Rồi cuối cùng khẳng định: “đó là những lẽ phải không ai có thể chối cãi được”.
- Nghệ thuật lập luận: Cách lập luận của Hồ Chí Minh vừa ngắn gọn, súc tích, vừa
khéo léo vừa kiên quyết, lập luận sắc sảo, linh hoạt, sáng tạo và đầy sức thuyết
phục.
+ Khéo léo: Hồ Chí Minh tỏ ra trân trọng những tư tưởng tiến bộ, những
danh ngôn bất hủ của người Mĩ, người Pháp…
+ Kiên quyết: một mặt Hồ Chí Minh khẳng định quyền độc lập tự do của
dân tộc Việt Nam dựa trên những chân lí mà người Mĩ và người Pháp đã đưa ra,
đồng thời cảnh báo nếu thực dân Pháp tiến quân xâm lược Việt Nam một lần nữa
thì chính họ đã phản bội lại tổ tiên của mình, làm nhơ bẩn lá cờ nhân đạo, thiêng
liêng mà những cuộc cách mạng vĩ đại của cha ông họ đã dành được
+ Lập luận sắc sảo, linh hoạt, sáng tạo: lời suy rộng ra của Người mang tư
tưởng lớn của nhà cách mạng. Người đã phát triển quyền lợi của con người lên
(thành) quyền tự quyết, quyền bình đẳng của các dân tộc trên thế giới. Đây là một
đóng góp riêng của tác giả và cũng là của dân tộc ta vào một trong những trào lưu
tư tưởng cao đẹp vừa mang tầm vóc quốc tế, vừa mang ý nghĩa nhân đạo của nhân
loại trong thế kỉ XX.
* Từ đó liên hệ tới phần mở đầu của Đại cáo bình Ngô (Nguyễn Trãi) để nhận xét
về cách xác lập chân lí về quyền độc lập dân tộc của mỗi tác giả.
- Phần đầu Bình Ngô đại cáo: Nªu luËn ®Ò chÝnh nghÜa.
+ NguyÔn Tr•i ch¾t läc lÊy h¹t nh©n c¬ b¶n cña t tëng nh©n nghÜa và
®em ®Õn néi dung míi: nh©n nghÜa lµ yªn d©n trõ b¹o.
+ Ch©n lÝ vÒ sù tån t¹i ®éc lËp, cã chñ quyÒn cña níc §¹i ViÖt: C¬ng
vùc l•nh thæ, nÒn v¨n hiÕn, phong tôc, lÞch sö riªng, chÕ ®é riªng, hµo kiÖt...
+ Giäng ®iÖu: trang träng, hµo hïng mang tÝnh chÊt cña mét lêi tuyªn
ng«n.
- Nhận xét về cách xác lập chân lí về quyền độc lập dân tộc của mỗi tác giả.
+ Giống nhau: Cả hai tác phẩm đều mang giá trị văn học -nhân văn sâu
sắc. Cả hai đoạn trích đều xác lập cơ sở pháp lí cho mỗi tuyên ngôn.
+ Khác nhau: Mỗi tác giả đều sáng tạo với vẻ đẹp độc đáo riêng. Bình
Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi dựa trên lập trường "Nhân nghĩa" của dân tộc Việt
Nam (yên dân, trừ bạo) còn Tuyên ngôn độc lập của Hồ Chí Minh đứng trên lập
trường quyền bình đẳng, quyền độc lập, tự do của các dân tộc. Bình Ngô đại cáo có
phạm vi nội bộ trong nước Đại Việt còn Tuyên ngôn độc lập ngoài việc tuyên bố
trước toàn thể dân tộc Việt Nam, Tuyên ngôn độc lập kế thừa và đưa lên tầm cao
mới tư tưởng độc lập dân tộc. Tác phẩm của Nguyễn Trãi theo thể cáo khi văn sử
bất phân còn tác phẩm của Hồ Chí Minh theo thể tuyên ngôn…
- Lí giải (khuyến khích HS)
+ Giống: bởi vì cả hai tác giả đều là những danh nhân lớn của Việt Nam, tiếp
thu tinh hoa dân tộc từ bao đời, có lòng yêu nước, yêu nhân dân.
+ Khác: bởi vì hoàn cảnh sống giữa hai tác giả khác nhau, vốn sống, vốn hiểu
biết và tài năng nghệ thuật cũng khác nhau, đặc biệt là ngoài tinh hoa của dân tộc,
Hồ Chủ tịch còn tiếp thu cả tinh hoa văn hoá thế giới một cách có chọn lọc…
TÂY TIẾN ( Quang Dũng)
ĐỀ 1: Cho đoạn thơ:
Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi !
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi
Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi
Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục trên súng mũ bỏ quên đời!
Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mưởng Hịch cọp trêu người
Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi.
(Quang Dũng, Tây Tiến, Ngữ văn 12, Tập một, NXB Giáo dục Việt Nam,
2017, tr. 88)
Anh/chị hãy cảm nhận bức tranh thiên nhiên Tây Bắc và hình ảnh người lính
qua đoạn thơ trên. Từ đó nhận xét về bút pháp tài hoa lãng mạn của nhà thơ.
BÀI LÀM:

Nói về Quang Dũng là nói về một người chiến sĩ mang tâm hồn nghệ sĩ. Bạn bè
đồng chí thường trầm trồ thán phục trước tài năng nhiều mặt của ông. Không chỉ
hát hay, đàn giỏi mà ông còn sáng tác nhạc, vẽ tranh và viết kịch. Đặc biệt, trong
những giây phút thăng hoa của tâm hồn, Quang Dũng cũng có những bài thơ để
đời như “Tây Tiến”, “Đôi mắt người Sơn Tây”, “Đôi bờ” và nhiều tác phẩm
truyện, kí khác…Chính bởi sự đa tài ấy mà hồn thơ Quang Dũng cũng mang nét
riêng độc đáo. Đó là một tâm hồn thơ bay bổng lãng mạn, phóng túng và tài hoa.
Đọc thơ của Quang Dũng , ta như vừa nghe giai điệu ngân vang của một nhạc
phẩm, vừa tưởng thấy sắc màu và đường nét của một bức họa. Lại vừa cảm cái
chân tình, sâu sắc của đời lính. Tất cả quyện hòa nhuần nhuyễn mà tự nhiên, sinh
động mà sâu lắng. Đặc biệt, ở những bài thơ viết về người lính của ông. Tây Tiến
là bài thơ nổi tiếng nhất của ông, cũng là một trong những sáng tác hay nhất viết về
người lính thời chống Pháp của văn học dân tộc. Chúng ta cùng tìm hiểu đoạn đầu
bài thơ: Nỗi nhớ về những chặng đường hành quân qua miền Tây Bắc hùng vĩ,
hiểm trở, gian nan vất nhưng không kém phần thơ mộng mà ấm áp tình người.
Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi !
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi
Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi
Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục trên súng mũ bỏ quên đời!
Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mưởng Hịch cọp trêu người
Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi.
Với cảm xúc nhớ nhung, hoài niệm chân thành mà sâu sắc,những hình ảnh
thơ gợi về từ miền kí ức không xa với đoàn binh Tây Tiến, một đơn vị quân đội
chống Pháp ở biên giới Việt Lào, nơi ông từng gắn bó gần hai năm vào sinh ra tử,
và với tâm hồn lãng mạn hào hoa, Quang Dũng đã viết nên bài thơ “ Nhớ Tây
Tiến” , Sau đổi thành “Tây Tiến”. Bài thơ in trong tập thơ “Mây đầu ô”.
Cả bài thơ gồm có 4 đoạn thơ, mạch cảm xúc là nỗi nhớ của nhà thơ về “Tây
Tiến” từ những chặng đường hành quân gian khổ đến những lúc dừng chân nghỉ
ngơi và cả khi đau đớn tột cùng trước những hi sinh mất mát của đồng đội mình, và
kết lại bài thơ là lời thề gắn bó với mảnh đất thiêng liêng Tây Bắc.
Bài thơ được viết năm 1948 khi Quang Dũng đã rời xa đoàn quân Tây Tiến,
một đơn vị quân đội chiến đấu chống Pháp ở biên giới Việt Lào, nơi mà ông đã
gắn bó hai năm trên cương vị đại đội trưởng. Mới chỉ rời đơn vị không lâu, ngồi tại
Phù Lưu Chanh, nỗi nhớ về Tây Tiến, về mảnh đất và con người nơi ấy đã thôi
thúc nhà thơ cầm bút viết lên những vần thơ đầy xúc động.
Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi
Dòng hồi tưởng đưa Quang Dũng trở về với những kí ức xa xưa: về những cung
đường chiến đấu, về đồng đội của mình… Mỗi kí ức là một mảng ghép tạo thành
bức tranh đa sắc màu về miền nhớ “Tây Tiến” thân thương. Khởi đầu của nỗi nhớ
là hình ảnh sông Mã hiện ra vừa thơ mộng, trữ tình nhưng cũng vừa ẩn chứa nét
hoang sơ, dữ dội, một dòng sông gắn liền với chặng đường hành quân của người
lính, trở thành chứng nhân lịch sử, thành kỉ niệm trường tồn của những ngày tháng
chiến đấu và hi sinh. Nhớ về sông Mã là nhớ về đoàn quân Tây Tiến, hai tiếng
thân thương ấy vang lên đầy tha thiết trong dòng cảm xúc nhớ nhung đầy tiếc nuối!
Các từ “rồi”, “ơi” đặt cuối mỗi cái tên được xướng lên nghe như da diết ngân vang,
xúc động lòng người.
Nhớ về Tây Tiến là nhớ về núi rừng hoang sơ, địa bàn hoạt động của đoàn
binh. Nhà thơ điệp lại hai lần từ “nhớ” trong một câu thơ như tô đậm cảm xúc bao
trùm toàn bài thơ. Và đặc biệt, Quang dũng đã diễn tả thật chính xác cảm giác nhớ
nhung trong lòng mình. Không phải là cái nhớ đến cồn cào da diết trong tình yêu,
cũng không phải là cái nhớ thương khắc khoải của người vợ ngóng chồng nơi biên
ải, cũng chẳng phải cái nhớ bồn chồn, bâng khuâng trong tình quân dân son sắt. dó
là nỗi nhớ chơi vơi. Một nỗi nhớ dàn trải miên man, lan tỏa qua không gian, thời
gian, làm chênh chao lòng người và ám ảnh tâm trí. Dường như không gian mênh
mông quá, lòng người trống trải quá mà nỗi nhớ tan hòa khó chế ngự đến vậy.
Theo dòng kí ức còn tươi màu thời gian ấy, những cái tên gắn liền với chặng
đường hành quân của những chiến binh tây Tiến hiện ra: Sài Khao, Mường Lát,
Mường Hịch, Pha Luông …Đó từng là những địa danh xa lạ, đầy bí hiểm của chốn
rừng thiêng nước độc đối với những chành trai Hà thành giờ đã trở thành một phần
kỉ niệm không thể nào quên:
Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi
Con đường hành quân hiện lên với đầy thử thách, hiểm nguy. Đó là kỉ niệm
về những ngày hành quân xuyên qua sương mù giăng kín lối, những đêm ngang
qua bản Mường Lát hoang sơ, huyền ảo “hoa về trong đêm hơi”. Và dấu chân
người lính đã in trên cả những sườn đèo dốc núi nhiều hiểm nguy mà không kém
phần thơ mộng:
Dốc lê khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi
Câu thơ được tạo bởi những từ láy tượng hình “khúc khuỷu”, “thăm thẳm” rồi các
từ ngữ đối lập “ngàn thước lên cao” và “ ngàn thước xuống ” như những nét vẽ
đầy gân guốc tái hiện chân thực sự hiểm trở của địa hình Tây Bắc. Càng thấu hiểu
những gian khổ hiểm nguy trên đường hành quân ta càng thấy cảm phục ý chí kiên
cường của những chàng lính trẻ Hà Thành, họ luôn dũng cảm vượt núi băng rừng
với “bước chân nát đá” tiến lên phía trước tiêu diệt quân thù.
Không chỉ cứng cỏi bản lĩnh mà giữa không gian thơ mộng của núi rừng với
“heo hút cồn mây”, mưa“mưa xa khơi”, những chàng trai hào hoa ấy luôn mở lòng
đón nhận và say mê thưởng ngoạn. Vượt qua được trăm suối nghìn đèo là phút
giây tân hưởng cảm giác được chế ngự thên nhiên, đứng trên đỉnh cao và thả hồn
bay bổng cùng trời mây. “Súng ngửi trời” – mũi súng chạm đến mây xanh, một
hình ảnh thơ thật độc đáo, vừa gợi được thế đứng trên cao của người lính, như
chiếm lĩnh không gian, vừa gợi đến cách nhìn hóm hỉnh, lạc quan của tâm hồn
người lính. Như hình ảnh “đầu súng trăng treo” đầy ấn tượng trong thơ Chính
Hữu. Tâm hồn người lính cụ Hồ là như thế, coi thường mọi gian nguy, và luôn
lãng mạn yêu đời.
Trong hai cặp câu thơ trên, tác giả đã sử dụng nghệ thuật hài thanh thật điêu
luyện. Những câu thơ nhiều thanh trắc diễn tả cái hiểm trở của địa hình được đan
xen khéo léo đầy ý nghĩa với những câu thơ có nhiều thanh bằng, miêu tả không
gian lãng mạn, huyền ảo của núi rừng Tây Bắc. Người đọc như đang cảm thấy rõ
lắm cái vị mặn của mồ hôi, của nước mắt, của máu đã thấm trên từng dãy đá tai
bèo sắc nhọn, trên từng đèo dốc treo leo. Người đọc cũng như đang cảm thấy rõ
lắm tiếng thở phào nhẹ nhõm, thảnh thơi hòa vào gió ngàn heo hút, hình dung rõ
lắm ánh mắt ngỡ ngàng thích thú của những chiến sĩ khi chạm tới mây trời và
ngắm “nhà ai” ẩn hiện trong làn mưa xa khơi. Thật sinh động vô cùng.
Trong lá thư của Đại Tướng Võ Ngyên Giáp gửi các chiến sĩ Tây Tiến trước
khi lên đường có đoạn: “Trên con đường về miền Tây, các đồng chí sẽ phải lặn lội
nơi rừng xanh suối bạc, ở những địa phương hàng nửa ngày đường không thấy một
người… Chỉ một việc cất chân lên đường tiến về hướng Tây là đủ tỏ cái chí hy
sinh, cái lòng kiên nghị của các đồng chí. Các đồng chí biết rằng trên mặt trận này
phải đương đầu với nhiều hiểm nghèo, khổ sở. Nhưng sự hiểm nghèo, khổ sở
có bao giờ chinh phục được lòng anh dũng của những thanh niên hăng hái, có bao
giờ chinh phục được chí hướng của một dân tộc...". Quang Dũng cũng đã diễn tả
những hiểm nguy, gian khổ bằng những câu thơ đầy ám ảnh:
Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người.
Chốn thâm sơn cùng cốc ấy, “Chiều chiều...” rồi “đêm đêm” luôn có những âm
thanh ghê rợn, đó là tiếng thác gầm thét, tiếng bước chân, tiếng gầm của những con
thú khát máu. Chỉ mới nghĩ đến thôi đã đủ khiến lòng người hoang mang, sợ hãi.
Những khó khăn, hiểm nguy bủa vây, dọa dẫm, trêu ngươi suốt ngày đêm.
Vậy mà, lính Tây Tiến vẫn kiên cường đối mặt để hoàn thành nhiệm vụ được giao.
Dẫu còn nhiều hi sinh mất mát.
Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời...
Câu thơ gợi lên cái mệt mỏi của những bước chân hành quân bởi âm điệu kéo dài
của các từ “dãi dầu”, “nữa”. Đó là hiện thực đau đớn của chiến trường miền Tây.
Chiến đấu trong môi trường tự nhiên khắc nghiệt, thiếu thốn đủ bề, thậm chí có
những lúc phải nhịn đói cả ngày dài thì sự hi sinh là không tránh khỏi. Nhưng,
cách Quang Dũng nói về cái chết của đồng đội mình “gục lên súng mũ bỏ quên
đời” khiến ta ngỡ như đó chỉ là một phút nghỉ ngơi lấy lại sức thôi, vẫn trong hàng
ngũ, vẫn súng mũ bên mình. Đọc đến câu thơ này, nhiều cựu chiến binh Tây Tiến
đã không thể cầm lòng, bởi thực tế, có những đồng đội hi sinh không thể chôn cất
bởi địa bàn xung quanh toàn núi đá tai bèo. Mỗi chiến sĩ đi qua chỗ đồng đội nằm
lại chỉ kịp đặt xuống một viên đá để che thân cho bạn. Họ bị ám ảnh bởi những cái
chết lặng thầm đơn độc. vì họ hiểu hơn ai hết về sự hi sinh của đồng đội mình. Cái
chết đến nhẹ nhàng, thầm lặng mà sao nghe nhói lòng!
Với bao nhiêu kí ức hiện về, Cảm xúc thơ Quang Dũng lại một lần nữa tuôn
trào thành tiếng gọi “Tây Tiến” thiết tha, trìu mến:
Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi.
Đối lập với thiên nhiên khắc nghiệt hiểm trở là một không gian yên bình ấm áp của
những bản làng đọng lại trong nỗi nhớ của nhà thơ. Đó là cơm lên khói, là “thơm
nếp xôi” tỏa lan khắp không gian, hương vị của sự đủ đầy, ấm no trong mái ấm gia
đình, nó như an ủi, động viên, như tiếp thêm sức mạnh cho những người lính trẻ xa
nhà. Hương vị của Tây Bắc cũng là sự thơm thảo của lòng người nơi ấy, nó hiện về
trong nỗi nhớ của bất kì ai đã từng lên với Tây Bắc: Đất Tây Bắc tháng ngày không
có lịch /Bữa xôi đầu còn tỏa nhớ mùi hương. (Chế Lan Viên)
Câu thơ cuối có kết hợp từ thật lạ. “Mùa em” Phải chăng đó không chỉ là
mùa của xôi nếp mới, mùa của sự đủ đầy vật chất, mà đó còn là mùa của yêu
thương, lãng mạn, mùa của sự sẻ chia tình nghĩa. Có thể, “Mùa em” đã trở thành
một mùa đặc biệt được mong đợi nhất đối với những chàng lính hào hoa, nhiều mơ
mộng ấy. Bằng nỗi nhớ và tình yêu chân thành mà sâu sắc với Tây Bắc, Quang
Dũng đã thi vị hóa những kỉ niệm, khiến chúng trở nên đẹp đẽ lung linh lạ thường!
Đọc thơ Quang Dũng, ngay những dòng đầu, độc giả đã thấy toát lên phong
vị của cái tài hoa lãng mạn. Thiên nhiên Tây Bắc hiểm trở, khoang sơ đến rùng
mình nhưng qua ngòi bút của chàng trai có tâm hồn lãng mạn, nhiều mộng mơ
bỗng trở nên lung linh huyền ảo. Núi rừng Tây Bắc được khắc họa bởi những nét
vẽ vừa gân guốc cứng cỏi, vừa mềm mại uyển chuyển của nhà thơ tạo nên nét riêng
thật độc đáo. Không phải chỉ bởi Quang Dũng vốn đa tài, có năng khiếu hội họa,
âm nhạc mà còn bởi tâm hồn yêu thiên nhiên, yêu mảnh đất hùng thiêng của một
con người đã từng gắn bó máu thịt với nơi ấy đã quyện hòa làm nên phong cách tài
hoa lãng mạn ấy.
Tóm lại, qua mười bốn câu thơ đầu bài thơ Tây Tiến, tác giả đã phác họa
thành công bức tranh thiên nhiên hoành tráng, trên đó nổi bật lên hình ảnh chiến sĩ
can trường và lạc quan, đang dấn thân vào máu lửa với niềm kiêu hãnh “Chiến
trường đi chẳng tiếc đời xanh...”. Đoạn thơ để lại một dấu ấn đẹp đẽ về thơ ca
kháng chiến mà sự thành công là ở sự kết hợp hài hòa giữa khuynh hướng sử thi và
cảm hứng lãng mạn. Gần một thế kỉ đã trôi qua mà bài thơ vẫn giữ được giá trị
trường tồn trong lòng độc giả nhiều thế hệ.

ĐỀ 2: Trong bài thơ “Tây Tiến”, Quang Dũng viết:


Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm,
Heo hút cồn mây súng ngửi trời,
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống,
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi,

Người đi Châu Mộc chiều sương ấy,


Có thấy hồn lau nẻo bến bờ?
Có nhớ dáng người trên độc mộc,
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa?
(“Tây Tiến”, Quang Dũng, Ngữ văn 12, Tập một, NXB Giáo dục
Việt Nam, 2011, tr. 87-89)
Cảm nhận của anh/ chị về hai đoạn thơ trên, từ đó chỉ ra sự biến đổi về cảm xúc và
bút pháp miêu tả của tác giả.
BÀI LÀM
I. Mở bài
- Giới thiệu một số nét tiêu biểu về tác giả Quang Dũng: Cuộc đời, con người và
phong cách nghệ thuật đặc trưng của nhà thơ.
- Nêu khái quát chung về tác phẩm “Tây tiến”: Hoàn cảnh sáng tác, vị trí, giá trị
nội dung, giá trị nghệ thuật.
- Khái quát nội dung của đoạn trích: Vẻ đẹp thiên nhiên Tây Bắc, vừa hùng vĩ dữ
dội vừa trữ tình tạo nên sự biến đổi về cảm xúc và bút pháp miêu tả của tác giả.
II. Thân bài
1. Đoạn thơ thứ nhất – Vẻ đẹp hùng vĩ của núi rừng Tây Bắc:
- Ấn tượng đầu tiên được tác giả tập trung bút lực để khắc họa là núi cao vực sâu,
là đèo dốc điệp trùng: Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm/ Heo hút cồn mây súng
ngửi trời/ Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống.
+ Những câu thơ chủ yếu dùng thanh trắc tạo nên những nét vẽ gân guốc, mạnh
mẽ, chạm nổi trước mắt người đọc cái hùng vĩ và dữ dội của thiên nhiên.
+ Nhịp ngắt 4/3 quen thuộc của thể thơ 7 chữ như bẻ gẫy câu chữ để tạo độ cao
dựng đứng giữa hai triền dốc núi. Nhịp ngắt đã trở thành giao điểm phân định rạch
ròi hai hướng lên xuống của vô vàn con dốc tạo thành các cung đường hành quân
của đoàn quân Tây Tiến, gợi ra những dãy núi xếp theo hình nan quạt trải dài khắp
miền Tây Bắc. Người đọc hình dung ra hình ảnh dốc rồi lại dốc nối tiếp nhau, khúc
khuỷu gập ghềnh đường lên, rồi lại thăm thẳm hun hút đường xuống.
+ Những từ láy giàu sức tạo hình khúc khuỷu, thăm thẳm, heo hút được đặt liên
tiếp nhau để đặc tả sự gian nan trùng điệp. Dốc khúc khuỷu vì quanh co, hiểm trở,
gập ghềnh khó đi, vừa lên cao đã vội đổ dốc, cứ thế gấp khúc nối tiếp nhau. Thăm
thẳm không chỉ đo chiều cao mà còn gợi ấn tượng về độ sâu, cảm giác như hút
tầm mắt người, không biết đâu là giới hạn cuối cùng. Heo hút gợi ra sự vắng vẻ,
quạnh hiu của chốn rừng thiêng nước độc. Từ láy cũng mang đến cho người đọc
cảm tưởng rằng người lính Tây Tiến đã vượt qua vô vàn những đèo dốc để chinh
phục đỉnh núi cao nhất
2. Đoạn thơ thứ hai – Vẻ đẹp trữ tình, thơ mộng.
- Cảnh thơ mộng trữ tình của sông nước miền Tây được nhà thơ diễn tả qua những
chi tiết: trên sông, chiều sương giăng mắc mênh mang kì ảo, dòng sông trôi lặng
tờ mang đậm sắc màu cổ tích, có dáng người mềm mại, uyển chuyển đang lướt
trên con thuyền độc mộc, hoa đôi bờ đong đưa theo dòng nước như vẫy chào tạm
biệt người ra đi…
- Cảnh đẹp như mộng lại như tranh, chỉ vài nét chấm phá mà tinh tế, tài hoa:
Quang Dũng không tả mà chỉ gợi, cảnh thiên nhiên không phải là vô tri vô giác,
mà phảng phất trong gió trong cây như có hồn người: "Có thấy hồn lau nẻo bến
bờ".
- "Hồn lau" trong thơ của Quang Dũng cũng là "hồn lau" của biệt li phảng phất
một chút buồn nhưng không xao xác, xé rách, lãng quên mà đầy nỗi nhớ thương,
lưu luyến. Nỗi nhớ thương, lưu luyến đó đã được nhà thơ thể hiện trong những từ
ngữ như "có nhớ", "có thấy". Tình yêu đối với cỏ cây, hoa lá, dòng sông, dáng
người… đã làm cho cuộc sống đầy hi sinh, gian khổ của những người lính có thêm
nhựa sống. Bốn câu thơ làm hiện lên bức tranh thủy mặc nhưng lại không tĩnh tại
mà sống động, thiêng liêng.
3. Sự biến đổi về cảm xúc và bút pháp miêu tả của tác giả.
- Nhà thơ đã vận dụng thủ pháp nghệ thuật tô đậm cái phi thường, gây ấn tượng
mạnh về cái hùng vĩ, dữ dội cũng như cái tuyệt mĩ, thơ mộng. Một trong những
thủ pháp nghệ thuật được sử dụng đắc địa nhất là thủ pháp đối lập. Đối lập giữa
cái hùng vĩ, dữ dội với cái tuyệt mĩ, thơ mộng, đối lập giữa gian khổ, vất vả với
anh hùng, bất khuất, đối lập giữa cái bi và cái hùng...
III. Kết bài:
- Vẻ đẹp thiên nhiên Tây Bắc.
- Phong cách nghệ thuật hào hoa, lãng mạn của Quang Dũng.

ĐỀ 3: Phân tích vẻ đẹp hình tượng thiên nhiên Tây Bắc trong thi phẩm Tây Tiến
của nhà thơ Quang Dũng, qua hai đoạn thơ dưới đây:
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi
Và:
Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa
BÀI LÀM:
Tây Tiến là thi phẩm của nỗi nhớ mẽnh mang, chơi vơi giữa bộn bề những hoài
niệm. Bao mảnh ký ức ập vào, cồn cào đã dội về trong trí nhớ của người đại đội
trưởng về đất, về người chốn Tây Bắc, giờ lui vào quá khứ. Và chắc chắn rằng,
một phần ký ức không thể nào quên của không chỉ người đại đội trưởng, mà tất cả
những người lính đã từng chiến đấu dọc biên giới Việt – Lào, đó chính là thiên
nhiên đầy heo hút, hoang sơ của chốn miền Tây. Làm sao có thể quên được, một
thiên nhiên thật dữ dội:
“Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”
Mà cũng nên thơ trữ tình đến thế:
“Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”
Nhắc đến Quang Dũng là nhắc đến một trong những thế hệ nhà thơ được tôi
luyện và trưởng thành trong bom lửa thời kỳ kháng chiến chống Pháp. Ông tên thật
là Bùi Đình Diệm (1921 – 1988), quê ở Hà Tây, nay thuộc về Hà Nội. Là một
người đa tài, có thể vẽ tranh, sáng tác nhạc, nhưng vẫn nổi tiếng và được nhiều
người biết đến với tư cách một nhà thơ. Phong cách thơ Quang Dũng nổi bật lên
chất phóng khoáng, hào hoa đầy lãng mạn. Bài thơ Tây Tiến là một bài thơ đem lại
dấu ấn đậm nét, khắc ghi Quang Dũng vào sâu tâm trí độc giả. Ban đầu bài thơ lấy
nhan đề: Nhớ Tây Tiến, nhưng sau khi in trong tập Mây đầu ô, tác giả đổi lại thành
Tây Tiến.
“Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”
Bốn câu thơ mà dựng lên trước mắt ta cái độ cao đến rợn người của chiến
trường Tây Tiến. Đất nước ta với đặc điểm địa hình 3/4 là núi đồi, nhưng qua
những lời thơ đậm chất tạo hình của Quang Dũng, tưởng chừng như bao dãy đồi,
ngọn núi đều đã “đổ bộ” hết lên vùng miền Tây này, phủ đặc trên những cung
đường của binh đoàn Tây Tiến. Điệp từ "dốc" vừa gợi sự liên tiếp, chồng chất của
những con dốc, dốc này chưa qua dốc khác đã phủ hiện trước mặt. Hơn thế nữa
những từ láy đi kèm còn gợi cả cái khốc liệt của những con dốc. “Khúc khuỷu”,
“thăm thẳm”, “heo hút” vẽ cho ta một hình dung về sự hoang sơ, kỳ vĩ, xa xôi,
trúc trắc, mấp mô, hun hút rợn người. Ngỡ như các anh đang đi trong mây, đang
cưỡi trên mây (“cồn mây”) để lên đến đỉnh trời. Và khi đã chiếm lĩnh được đỉnh
cao nhất thì “súng” các anh đã “ngửi trời”! Có một tiếng cười, thú vị mà tinh
nghịch của người lính hào hoa Hà Nội khi đã chiếm lĩnh được đỉnh cao nhất.
Không phải “súng chạm trời” mà là “súng ngửi trời”. Khẩu súng được nhân hóa
như con người (chính là các anh đó thôi!) đã khiến câu thơ trở nên hóm hỉnh, tinh
nghịch, nhưng không kém hào hoa của những chàng trai đất kinh thành hoa lệ lên
đánh giặc ở miền Tây. Câu trên nặng nhọc, gấp gáp; câu dưới nhẹ nhàng, thơ mộng
trong sự tự hào của người chiến thắng. Ta hiểu đây không chỉ là đỉnh cao của thiên
nhiên mặt đất mà chính là đỉnh cao trong sự chiến thắng của tinh thần, nghị lực
người chiến sĩ.
Nhưng đặc biệt hơn, bằng thủ pháp đối lập, sự kinh hoàng, hiểm trở của những
con dốc nơi đây mới hiện lên đầy đủ: “Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống”. Đó
là một sự gãy gập đột ngột, bất ngờ. Không hề thoai thoải dễ đi như những vùng
miền khác, dốc nơi này dựng cao chót vót, nổi lên, vươn lên thẳng đứng chạm cả
mây trời. Nhưng khi chạm đỉnh dốc rồi, sa chân bước hụt có thể rơi ngay xuống
chân dốc sâu thăm thẳm. Nếu câu thơ “Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm” là câu
thơ đã tạo nên được những liên tưởng thật kỳ thú, rợn ngợp, kích thích vì sự phối
hợp các thanh trắc đem lại cái hiểm trở, trúc trắc, thì câu thơ: “Nhà ai Pha Luông
mưa xa khơi” lại được kết tạo bởi những thanh bằng liên tiếp, gợi sự êm dịu, tươi
mát của tâm hồn những người lính trẻ, trong gian khổ vẫn lạc quan yêu đời. Có thế
nói, bằng cách phối họp thanh điệu với sự đối lập cao, khổ thơ như khúc nhạc trầm
bổng phiêu linh, làm say mê, quyến rũ độc giả. Sự đối lập của thanh điệu, nhịp
điệu câu thơ đem đến sự đối lập của cảnh và tình trong hai câu thơ và đấy chính là
nét tài hoa của thi sĩ. Xưa, Tản Đà cũng có câu thơ như vậy:
“Tài cao phận thấp chí khí uất
Giang hồ mê chơi quên quê hương”
Nhưng câu thơ của Tản Đà chủ yếu là gợi tình, còn câu thơ của Quang Dũng
chủ yếu lại là vẽ cảnh. Tất nhiên trong cảnh có tình. Trên đường hành quân ra trận,
hình ảnh một mái nhà thấp thoáng trong màn mưa mỏng nơi lưng chừng núi thì ấm
lòng chiến sĩ, gợi nhớ tình người biết bao! Mặt khác, trên đường hành quân cheo
leo vách núi dựng đứng, mà vẫn không bỏ qua một mái nhà thơ mộng như vậy, thì
đó chính là tâm hồn hào hoa nghệ sĩ của người lính Tây Tiến - những chàng trai
kinh thành “đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”. Tâm hồn các anh phải phong phú,
cao đẹp, lãng mạn như thế nào thì mới cảm nhận được cảnh đẹp như vậy. Và chỉ
một khổ thơ nhớ lại bước đường hành quân trên núi cao Tây Tiến của các anh mà
đã bộc lộ rõ nét tài hoa ấy. Đó là khẩu khí Quang Dũng đã thổi hồn vào ngôn ngữ
thi ca để làm nên khổ thơ tuyệt bút mang đậm chất thơ Tây Tiến này.
Chỉ bằng mấy dòng thơ, Quang Dũng đã tái hiện đầy đủ bức tranh của núi rừng
miền Tây được vẽ bằng bút pháp vừa hiện thực, vừa lãng mạn, vừa giàu chất họa
lại giàu chất nhạc. Nét vẽ vừa gân guốc, mạnh mẽ, dữ dội nhưng lại cũng rất mềm
mại tạo nên vẻ đẹp hài hòa cho bức tranh thiên nhiên miền Tây hùng vĩ mà đoàn
quân Tây Tiến đi qua. Chính điều đó tạo nên một xúc cảm mạnh mẽ trong lòng
người đọc, không chỉ bởi sự heo hút, rợn ngợp của thiên nhiên, còn bật lên trong ta
lòng ngưỡng mộ về tinh thần người lính, thiên nhiên càng ghê gớm, thì ý chí con
người càng mạnh mẽ, băng vượt qua mọi chông gai, nẻo đường.
Đến với khổ thơ thứ hai, thiên nhiên Tây Bắc đã phủ lên một hơi thở bồng
bềnh, của chốn phiêu linh, hiu hắt chiều sương, không còn cái rợn ngợp, trúc trắc
như ở khổ một nữa. Cả đoạn thơ nhuốm một vẻ buồn của tâm trạng, nếu như ở
những khổ thơ trên trong bài người ta thấy một giọng thơ lãng mạn trẻ trung và
tươi tắn của anh lính trẻ Tây Tiến thì đến đây, tâm trạng như có phần trùng xuống.
Phải chăng giữa mênh mang nỗi nhớ niềm yêu, giữa những hồi ức đẹp đẽ gian khổ
mà hào hùng, anh dũng mà tài hoa, lòng Quang Dũng bỗng dưng cảm thấy cô đơn,
buồn bã khi chợt hiểu ra rằng tất cả đều đã chìm sâu trong quá khứ.
“Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”
Đoạn thơ mở đầu bằng hình ảnh “người đi Châu Mộc” trong “chiều sương ấy”.
Giữa một không gian mờ mờ, ảo ảo, hư hư, thực thực, tác giả đã đẩy người đọc về
một điểm thời gian xa xôi vô định ở đâu đó trong nỗi nhớ của mình. Hình ảnh
“người đi” trong “chiều sương ấy” là một ý thơ độc đáo vô cùng. Độc đáo bởi
chiều sương ấy cho ta hiểu là khung cảnh của quá khứ. Cùng cảnh sông nước,
tưởng như, người đi ấy đang chèo thuyền ngược dòng ký ức để trở về bờ Châu
Mộc hoài niệm. Nơi có những bãi cỏ bát ngát mênh mông, có dãy núi Pha Luông
cao gần hai nghìn mét. Quang Dũng đã khám phá ra bao vẻ kì thú của miền Châu
Mộc. Năm tháng đã đi qua và miền đất ấy trở thành một mảnh hồn của bao người.
Buổi chiều thu đầy sương ấy in đậm hồn người khiến cho hoài niệm thêm mênh
mang. Khi sương nhòa vào dòng nước khiến sương thêm bồng bềnh, khiến dòng
nước càng bảng lảng. Với tâm hồn thi sĩ tài hoa, Quang Dũng đã cảm nhận vẻ đẹp
thơ mộng của thiên nhiên Châu Mộc qua cảnh sắc “chiều sương” và “hồn lau nẻo
bến bờ”.
Cần chú ý điệp ngữ: “có thấy”, “có nhớ”. Thấy và nhớ là ấn tượng đập mạnh
vào thị giác, cảm giác, vào chiều sâu tâm hồn. Thấy và nhớ như khắc sâu thêm ấn
tượng về miền Tây Bắc. Từ thấy và nhớ, ba hình ảnh đã trôi về lung linh, huyền
hoặc. Trước hết là thấy lau ở nẻo bến bờ. Hồn lau là hồn mùa thu, hoa lau nở trắng,
lá lau xào xạc trong gió thu nơi bờ sông bờ suối. Thân lau vốn mềm, khẽ lay trong
gió, tựa như sinh thể vô tri ấy được thổi hồn khiến cái xào xạc càng thêm miên
man, lay động. Và trong chia phôi còn có nhớ, nhớ cảnh rồi nhớ đến người: con
thuyền độc mộc và dáng người chèo thuyền độc mộc, hình ảnh “hoa đong đưa”
trên dòng nước lũ. Ý thơ “Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa” lạ mà đầy sức gợi,
cũng thật đa tình. “Hoa đong đưa” là hoa rừng đong đưa làm duyên trên dòng
nước hay là hình ảnh ẩn dụ gợi tả các cô gái miền Tây Bắc xinh đẹp lái thuyền
duyên dáng, uyển chuyển như những bông hoa rừng đang đong đưa trên dòng
suối? Có lẽ là cả hai, cả thiên nhiên và con người đều là những bông hoa kỷ niệm
tuyệt đẹp, luôn bung nở hương sắc trong trí nhớ người lính ấy. Những dòng thơ mà
đong đầy bao nỗi nhớ, bao hoài niệm về một vùng đất ẩn hiện trong sương chiều,
hiu hắt lau sậy... đem đến cho ta cái nhìn khác về thiên nhiên Tây Bắc, đâu chỉ có
nguy hiểm chết người, còn đẹp đến lạ lùng, đẹp nên thơ nên mộng.
Có thể nói, thiên nhiên Tây Bắc đã hiện lên qua hai nét tương phản cực kỳ đối
lập. Nguy hiểm đến chết chóc, mà thơ mộng đến nao lòng. Nhưng điểm chung vẫn
là vẻ đẹp, đẹp trong cái kỳ vĩ hoang sơ, hiếm nơi nào có được. Đó là vẻ đẹp để
thương và để nhớ! Bằng bút pháp lãng mạn, Quang Dũng đã tạc dựng nên hình
tượng thiên nhiên Tây Tiến thật độc đáo, Quang Dũng không chỉ là nhà thơ, ông
còn là họa sĩ, những vần thơ ông như ẩn hiện nét bút cọ, thi trung hữu họa, những
cái gồ ghề, nhấp nhô, tròng trành, thăm thẳm đã như tạc vào trong tâm trí người
đọc. Và qua thủ pháp của ngòi bút lãng mạn, cái hùng vĩ càng hiện lên sừng sững
hơn, to lớn hơn, cái bồng bềnh càng hư ảo, miên man hơn. Có thể nói, Quang
Dũng đã góp thêm một bức tranh tuyệt đẹp về những miền đất tổ quốc. Với hình
ảnh thiên nhiên hùng vĩ vô cùng mà cũng bay bổng, gợi cảm vô cùng.
Tây Tiến là bản tình ca về nỗi nhớ, qua ngòi bút bay bổng và hết mực tài hoa,
tác giả đã tạc dựng lại vẻ đẹp rất riêng của thiên nhiên núi rừng Tây Bắc: dữ dội,
mà cũng đầy trữ tình. Qua đó ta thấy được sự gắn bó của nhà thơ với thiên nhiên
và con người – biểu hiện của một tấm lòng gắn bó với quê hương, đất nước. Đồng
thời là tấm lòng trĩu nặng yêu thương với những người đồng đội, đồng chí – mà
nhà thơ luôn khắc cốt ghi tâm.

ĐỀ 4: Cảm nhận vẻ đẹp thi trung hữu hoạ trong đoạn thơ dưới đây:
Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi
Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
Nhà ai Pha luông mưa xa khơi
(Tây Tiến - Quang Dũng)
BÀI LÀM:
Một nhà phê bình đã từng quả quyết rằng nếu xét muời tác giả tiêu biểu thời kháng
chiến chống Pháp, sẽ không có Quang Dũng, nhưng nếu xét mười thi phẩm xuất
sắc nhất của thời bom lửa ấy thì không thể không có Tây Tiến. Quả là như vậy, Tây
Tiến như bức tượng đài sừng sững thách thức cả khốc liệt của chiến tranh, sự tàn
phá của thời gian để ngày càng toả sáng trong kho tàng văn chương đất Việt. Đặc
biệt không thể không nhắc đến bút pháp thi trung hữu hoạ - sức tạo hình, điêu khắc
ngôn từ của người nghệ sĩ Quang Dũng, đặc biệt trong những vần thơ dưới đây:
“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi
Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi
Dốc lên khúc khuỷu dốc thảm thắm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi.”
Quang Dũng nhà thơ của xứ Đoài mây trắng, nhà thơ của những vần thơ lãng
mạn, bay bổng, đậm nét hào hoa. Cuộc kháng chiến chống Pháp đi qua để lại
những dấu ấn không thế phai mờ trong tâm hồn dân tộc. Đó là điểm hội tụ của
muôn triệu tấm lòng yêu nước, môi trường thử thách tinh thần chiến đấu ngoan
cường, bất khuất của nhân dân ta. Cuộc kháng chiến còn làm nảy sinh biết bao
hình ảnh đẹp mà đẹp nhất là hình ảnh người lính. Bên cạnh những bài thơ nổi tiếng
một thời như Đồng chí của Chính Hữu, Nhớ của Hồng Nguyên, Tây Tiến của
Quang Dũng là một thi phẩm đặc sắc. Đoàn quân Tây Tiến quy tụ một lực lượng
đông đảo đủ mọi tầng lóp thanh niên từ khắp phố phường Hà Nội. Có nhiều thanh
niên học sinh thuộc tầng lóp trí thức tiểu tư sản vừa rời trang sách nhà trường để
tham gia vào cuộc chiến đấu của dân tộc. Tất cả những con người ấy ra đi với lí
tưởng chung của dân tộc là chiến đấu bảo vệ độc lập, tự do của Tổ quốc. Họ ra đi
không hẹn ngày trở về chiến đấu với mục đích “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh.”
Tư tưởng ấy là hào khí của cả một thế hệ, đã từng được phản ánh trong một bài hát
thời đó:
“Đoàn Vệ quốc quân một lần ra đi,
Nào có xá chi đâu ngày trở về.”
Trong đoàn người nô nức lên đường đi chiến đấu, trong hàng ngũ những thanh
niên trí thức ngày hôm qua có khi là những tự vệ chiến đấu trên phố phường, chiến
lũy Hà Nội, mà hôm nay đã có mặt trong đoàn quân Tây Tiến, thấp thoáng xuất
hiện một khuôn mặt: Quang Dũng, tác giả của bài thơ. Như bao thanh niên trí thức
của Hà Nội ngày ấy, Quang Dũng cũng háo hức gia nhập đoàn quân Tây Tiến với
một niềm say mê của tuổi trẻ và một chút lãng mạn của những người thanh niên
“nho sĩ quý tộc” ảnh hưởng trong Chinh phụ ngâm:
“Dã nhà đeo bức chiến bào”
hay
“Gieo Thái Sơn nhẹ tựa hồng mao.”
Cũng chính vì thế mà những thanh niên như Quang Dũng sẵn sàng chấp nhận
mọi gian khổ, hi sinh để chiến đấu đến ngày thắng lợi cuối cùng. Vào Tây Tiến,
Quang Dũng cùng sống và chiến đấu một thời gian với đơn vị này và sau đó
chuyển sang đơn vị khác. Một ngày ngồi ở Phù Lưu Chanh, Quang Dũng nhớ về
những người đồng đội, nhớ về những tháng ngày chiến đấu gian nan nhưng hào
hùng, nhớ đơn vị cũ, nhớ những con đường hành quân mà ông cùng đơn vị từng đi
qua.
Quang Dũng không chỉ là nhà thơ, ông còn là hoạ sĩ, là nhạc sĩ, cho nên những
vần thơ của ông đậm tính nhạc, tính hoạ. Thơ là một hình thức sáng tác văn học
nghiêng về thể hiện cảm xúc thông qua tổ chức ngôn từ đặc biệt, giàu nhạc tính,
giàu hình ảnh và gợi cảm. Thi trung hữu họa: trong thơ có hoạ (có tranh, có cảnh),
tức là nói đến đặc trưng của thơ trữ tình là giàu hình ảnh, giàu tính chất tạo hình,
đọc thơ mà tưởng thấy cả khung cảnh hiện ra ở trước mắt.
Tính hoạ được tạo nên trong nỗi nhớ chơi vơi, nỗi nhớ chông chênh giữa hai bờ
thực ảo:
“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi ”
Mở đầu bài thơ là lời gọi tha thiết, ngọt ngào. Tác giả gọi tên đơn vị Tây Tiến,
gọi tên con sông vùng Tây Bắc: sông Mã mà thân thiết, dạt dào cảm tình như gọi
tên những người thân thương trong cuộc đời mình. Phải chăng trung đoàn Tây
Tiến, núi rừng Tây Bắc gần gũi, thân thương với tác giả và khi xa thì Tây Bắc, Tây
Tiến trở thành một “mảnh tâm hồn” của tác giả. “Nhớ chơi vơi gợi lên dài rộng về
không gian, gợi nên cái xa cách về thời gian. Nhớ chơi vơi! Hai tiếng "chơi vơi"
dùng ở đây thật là đắc địa, diễn tả một nỗi nhớ không có hình, không có lượng
nhưng hình như rất nặng và mênh mang đầy ắp. Cái tâm trạng nhớ ấy ta đã bắt gặp
không chỉ một lần trong ca dao:
“Ra về nhớ bạn chơi vơi”
hoặc:
“Nhớ ai bổi hổi bồi hồi,
Như đứng đống lửa, như ngồi đống than. ”
Quang Dũng lấy nỗi nhớ trong ca dao để tượng trưng thêm cho nỗi nhớ chơi vơi
của mình, thật là chi tiết đắt giá! Nhưng tất cả đã lùi về quá khứ. Quang Dũng cất
lên tiếng gọi như sự níu kéo mọi ký ức quay trở lại.
Tính hoạ được gợi lên qua những địa danh và thời tiết khắt nghiệt xứ sở miền
Tây:
“Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi”
“Sài Khao, Mường Lát” là hai địa danh được nhắc đến. Những cái tên như có
sức tạo hình, nó gợi những nơi chốn hoang sơ, thưa vắng, heo hút. Những cái tên
như những địa chỉ in hằn dấu chân người lính. Và cũng chính nơi hoang vu đó, ký
ức đập về màn sương lạnh trắng phủ kín lối đi, che lấp cả đoàn quân mỏi mệt.
Sương bồng bềnh, giá buốt làm trơn ướt những con đường, làm tê lạnh da người.
Mỗi địa danh đều gợi lên trong người đọc về hình ảnh của một xứ lạ, phương xa;
nếu ta chỉ thử thay Sài Khao bằng một tên gọi khác là lớp sương huyền ảo ấy tan
biến ngay.
Một hình ảnh rất gợi là: “Mường Lát hoa về trong đêm hơi”. Đêm hơi là đêm
đẫm hơi sương, là đêm lạnh. Tiếp tục gợi sự khắc nghiệt của khí hậu. Nhưng từ
“hoa về”, lại đem đến nhiều cách hiểu. Có thể hiểu hoa theo nghĩa thực, những
bông hoa rừng nở, mùi hương quyện trong đêm hơi. Nhưng cũng có thể hiểu, khi
chiến sĩ hành quân đêm, những bó đuốc họ mang, giống như những bông hoa lửa,
phá đi giá lạnh và đêm tối.
Tính hoạ được thể hiện đặc sắc qua hình ảnh những con dốc Tây Tiến:
“Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”
Đất nước ta với đặc điểm địa hình 3/4 là núi đồi, nhưng qua những lời thơ đậm
chất tạo hình của Quang Dũng, tưởng chừng như bao dãy đồi, ngọn núi đều đã “đổ
bộ” hết lên vùng miền Tây này, phủ đặc trên những cung đường của binh đoàn Tây
Tiến. Điệp từ "dốc" vừa gợi sự liên tiếp, chồng chất của những con dốc, dốc này
chưa qua dốc khác đã phủ hiện trước mặt. Hơn thế nữa những từ láy đi kèm còn
gợi cả cái khốc liệt của những con dốc. “Khúc khuỷu”, “thăm thẳm”, “heo hút” vẽ
cho ta một hình dung về sự hoang sơ, kỳ vĩ, xa xôi, trúc trắc, mấp mô, hun hút rợn
người. Nhưng đặc biệt hơn, bằng thủ pháp đối lập, sự kinh hoàng, hiểm trở của
những con dốc nơi đây mới hiện lên đầy đủ: “Ngàn thước lên cao ngàn thước
xuống”. Đó là một sự gãy gập đột ngột, bất ngờ. Không hề thoai thoải dễ đi như
những vùng miền khác, dốc nơi này dựng cao chót vót, nổi lên, vươn lên thẳng
đứng chạm cả mây trời. Nhưng khi chạm đỉnh dốc rồi, sa chân bước hụt có thể rơi
ngay xuống chân dốc sâu thăm thẳm. Con đường hành quân điệp trùng với bao cái
khắc nghiệt, dữ dội của mỗi vùng rừng biên ải. Đọc đoạn thơ, chưa cần suy ngẫm
nội dung bên trong, chúng ta đã có thể hình dung ra con đường mà Quang Dũng
miêu tả. Kết cấu đoạn thơ cứ thanh bằng thanh trắc đan chéo nhau, trải dài ra miên
man, vô tận như con đường xa thẳm khấp khểnh.
Nếu câu thơ “Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm” tới 5 thanh trắc trong 1 câu
thơ đã tạo nên được những liên tưởng thật kỳ thú, rợn ngợp, kích thích, thì câu thơ:
“Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi” lại lập lại cân bình, câu thơ được dệt bởi những
thanh bằng liên tiếp gợi tả sự êm dịu, tươi mát của tâm hồn những người lính trẻ,
trong gian khổ vẫn lạc quan yêu đời. Nhịp thơ cũng chậm lại, âm điệu nhẹ nhàng
như phút nghỉ chân hiếm hoi của người lính. Trong màn mưa rừng, tất cả nhạt
nhòa, bao mệt nhọc cũng tan biến, chỉ còn lại cảnh bồng bềnh, thi vị.
Quang Dũng không chỉ được biết đến với tư cách là một nhà thơ, ông là một
nghệ sĩ đa tài, có thể vẽ tranh và sáng tác nhạc. Cho nên, chính tài năng nhiều mặt
đó đã bổ trợ tương hỗ nhau, để Quang Dũng dựng tạc nên những nét vẽ thật ấn
tượng về thiên nhiên miền Tây. Có nhà phê bình đã từng cho rằng, những vần thơ
viết về dốc Tây Tiến là những vần thơ tuyệt bút, có lẽ bởi tính hoạ đậm nét đã làm
nên điểm sáng cho cả bài thơ, làm nên ấn tượng lâu bền trong lòng người đọc.
Tây Tiến là bài thơ đặc sắc nhất góp phần đưa tên tuổi Quang Dũng lên một tầm
cao mới của nghệ thuật. Với ngòi bút tài hoa, lãng mạn của mình Quang Dũng đã
xây dựng thành công hình tượng người lính vừa bi tráng vừa tài hoa, hình tượng
thiên nhiên Tây Bắc hùng vĩ dữ dội mà nên thơ nên hoạ. Những kết hợp tương
khắc đó làm nên một Tây Tiến lạ và lệch, có sức sống lâu bền trong trái tim bạn
đọc dù bao thế hệ đi nữa.

ĐỀ 5: Trong bài thơ Tây Tiến của nhà thơ Quang Dũng có đoạn:
Doanh trại bùng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ
Người đi Mộc Châu chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa
(Trích: Tây Tiến – Quang Dũng)
Anh/chị hãy cảm nhận đoạn thơ trên. Từ đó nhận xét về nét riêng trong phong cách
sáng tác của nhà thơ.
BÀI LÀM:
Quang Dũng là nhà thơ trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Pháp và
chống MĨ, ông là một nghệ sĩ đa tài làm thơ, vẽ tranh, viết văn, soạn nhạc nhưng
thành công nhất là thơ. Với tâm hồn lãng mạn, tài hoa của một nhà thơ “xứ Đoài
mây trắng”, Quang Dũng đã sáng tác những bài thơ giàu chất nhạc, chất họa, như:
“Tây Tiến”, “Đôi mắt người Sơn Tây”, “Đôi bờ”, Mây đầu ô, Quán bên đường…
Trong đó tiêu biểu nhất là bài thơ “Tây Tiến”. Tác phẩm hấp dẫn người đọc không
chỉ ở cảm xúc thơ chân thực sâu lắng của tình đồng chí đồng đội, mà nó còn gợi về
trong tâm trí độc giả hình ảnh một miền đất xa xôi, hoang dại nhưng thơ mộng vô
cùng, nơi ấy lưu dấu những kỉ niệm không thể nào quên của một đoàn quân đã trở
thành huyền thoại:
“Doanh trại bùng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ
Người đi Mộc Châu chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”
Cất chân ra đi từ mảnh đất Hà Thành, nơi phố thị phồn hoa, những chàng
trai vừa đủ tuổi trưởng thành vốn chỉ quen với đèn sách bút nghiên, đã vượt cả
trăm cây số lên bảo vệ biên giới miền Tây Bắc của Tổ quốc. Những chặng đường
hành quân qua vực sâu núi thẳm, băng qua mưa bom bão đạn kẻ thù, và cả khi đối
diện với thiếu thốn, với bệnh tật… tất cả đều đó không làm vơi đi ý chí, nghị lực
phi thường của những chiến binh vệ trọc . Các anh vẫn giữ được tâm hồn lạc quan
yêu đời, vẫn luôn mở lòng đón nhận những rung động đẹp đẽ từ những khoảnh
khắc đầm ấm vui tươi trong những đêm hội dã chiến, hay cảnh sông nước yên
bình, lãng mạn ở chốn thâm sơn cùng cốc ấy.
Không nhớ sao được những phút giây sôi nổi cùng nhau trong đêm liên hoan
ngập tràn ánh đuốc:
“Doanh trại bùng lên hội đuốc hoa”
Câu thơ như làm bừng sáng cả không gian, xua đi cái u uất, tịch mịch của
núi rừng, xóa tan cái mệt mỏi dãi dầu trong mỗi bước hành quân của người lính.
Động từ “bừng” trong câu thơ đầu đoạn không chỉ diễn tả sự vận động nhanh, rộng
khắp và đầy bất ngờ của ánh sáng, mà còn gợi được cái háo hức của lòng người,
gợi những ánh mắt lấp lánh niềm vui với nụ cười rạng rỡ. Đêm hội liên hoan được
tổ chức, không phải tiệc rượu tưng bừng, không có đèn xanh pháo đỏ nhưng cũng
đủ làm lòng người náo nhiệt bởi ánh sáng của đuốc, sắc màu rực rỡ của những
bông hoa vừa được chọn hái giữa rừng. Chỉ một nét phác họa mà gợi cả hình, cả
tiếng, cả cái rộn ràng háo hức của lòng người, đủ cho thấy chất tài hoa nghệ sĩ của
Quang Dũng!
Trong không khí vui tươi ấy, ta mường tượng như đang được chứng kiến từ
giây phút đầu tiên khi ánh đèn sân khấu bừng lên, những diễn viên bất ngờ xuất
hiện với xiêm y lộng lẫy:
“Kìa em xiêm áo tự bao giờ”
Các cô gái Tây Bắc với trang phục biểu diễn rực rỡ như những bông hoa
tươi tắn của núi rừng bước ra sân khấu mang đến hương sắc ngọt ngào, say đắm
lan tỏa khắp nơi khiến những chàng lính trẻ Hà Thành khôi khỏi ngỡ ngàng, háo
hức “Kìa em”.
Những chàng lính đi từ ngỡ ngàng này đến ngạc nhiên khác, họ bị cuốn hút
bởi giai điệu man dại của tiếng khèn vang xa trầm hùng như tiếng của gió ngàn,
của suối reo, của chim kêu, vượn hót.
“Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ”
Khèn là nhạc cụ dân tộc ở núi rừng Tây Bắc, thường người Tây Bắc sẽ sử
dụng loại nhạc cụ này trong các dịp lễ hội, đó là tiết mục văn nghệ đặc sắc mang
nét riêng trong đời sống tinh thần của người dân Tây Bắc.
“ Vang vọng núi rừng tiếng khèn gọi bạn
Điệu múa khèn nghiêng ngả tán ô đen”
Cùng với sự khỏe khoắn, dũng mãnh của những chàng trai trong điệu múa
khèn là hình ảnh những cô gái yểu điệu dịu dàng, e ấp duyên dáng trong điệu múa
xòe ô khiến người xem ngây ngất, đắm say. Không khí đó đã xua tan mọi muộn
phiền, mỏi mệt của đoàn quân Tây Tiến, như tiếp thêm sức mạnh tinh thần cho họ
để tiếp tục chặng đường đầy khó khăn phía trước. Phải chăng, bởi vậy mà câu thơ
cuối khổ đọc lên nhẹ nhàng bay bổng làm sao: “Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ”.
Dường như tâm hồn chiến sĩ như đã cất cánh - thăng hoa.
Nhớ về những phút giây yên bình lãng mạn không thể không nhớ đến cảnh
sông nước hữu tình vùng Tây Bắc xa xôi.
“Người đi Mộc Châu chiều sương ấy”
Hình ảnh buổi chiều sương lãng mạn, nhẹ nhàng, thơ mộng khác với sự hùng vĩ dữ
dội ở khúc thượng nguồn sông Mã. Một thế giới khác của thiên nhiên Tây Bắc
được mở ra, không còn cái gân guốc, hiểm trở của sườn đèo dốc đá mà cảnh vật trở
nên thơ mộng trữ tình biết mấy. Cả không gian núi rừng Châu Mộc được bao phủ
bởi làn sương mỏng manh lãng đãng, khiến cảnh sắc thêm lung linh huyền ảo, vừa
như thực vừa như mơ, gợi nỗi buồn man mác, nỗi lưu luyến của người ra đi. Xuân
Diệu cũng đã từng bị cái không gian sương khói ấy làm cho thẩn thơ: “Sương
nương theo trăng ngừng lưng trời – Tương tư nâng lòng lên chơi vơi”.
Trong buổi chiều sương trên vùng sông nước Mộc Châu tâm hồn người
chiến sĩ còn nặng tình vương vấn với “hồn lau nẻo bến bờ”. Vạn vật như hữu linh,
lòng người sao nỡ vô tình!
Hai câu thơ cuối là nỗi nhớ về hình bóng con người hòa quyện cùng thiên
nhiên thơ mộng:
“Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”
Bóng dáng người trên độc mộc với dáng vẻ vững trãi mà duyên dáng,thướt tha hài
hòa trong vẻ đẹp của sông nước mênh mông. Trên dòng sông ấy, những cánh hoa
không bị dập vùi mà nương theo dòng nước lũ, đong đưa như làm duyên làm dáng,
bồng bềnh
Điệp ngữ "có nhớ- có thấy" làm tăng thêm xúc cảm, nỗi nhớ da diết, nồng
nàn của tác giả dành cho nơi đây. Hình ảnh đối lập giữa dòng nước lũ và hoa đong
đưa, dòng lũ cuộn trào mạnh mẽ với cành hoa nhẹ nhàng lung lay, hai hình ảnh
như đối lập hoàn toàn nhưng lại hài hòa, nên thơ.Bút pháp gợi mà không tả với
những nét vẽ cách điệu đã tạo nên bức tranh đậm đà chất hội họa hòa với chất thi
vị trữ tình lôi cuốn người đọc, đưa ta vào một thế giới hoang sơ, cổ tích.
Khi bàn về nét riêng trong phong cách sáng tác của Quang Dũng qua “Tây
Tiến”, Giáo sư Hà Minh Đức có nhận xét, “Bài thơ được viết ra với những màu sắc
thẩm mỹ phong phú. Có cái đẹp hùng tráng của núi rừng hiểm trở, và vẻ đẹp bình
dị nên thơ của cuộc sống nơi bản làng quê hương, có cảm hứng mạnh mẽ hòa hợp
với chất trữ tình nhẹ nhàng mềm mại trong thơ. Đặc biệt Tây Tiến là bài thơ giàu
nhạc điệu, nhạc điệu của cuộc sống và của tâm hồn. Mỗi đoạn thơ mang một nhạc
điệu riêng vừa mạnh mẽ, vừa uyển chuyển khi đưa người đọc về với những kỉ niệm
xa nên thơ và gợi cảm”. Và, độc giả dễ dàng nhận thấy một nhạc điệu du dương,
tình tứ ngân vang, trải dài khắp không gian nỗi nhớ từ đêm hội liên hoan đến cảnh
sông nước miền Tây thơ mộng ấy. Nét riêng đầy lãng mạn hào hoa ấy ít thấy trong
nhiều bài thơ viết về người lính cùng thời như Đồng chí (Chính Hữu), “Cá nước”
(Tố Hữu)…
Có thể nói, qua tám câu thơ đậm đà chất thơ, chất họa, chất nhạc, người
nghệ sĩ tài hoa Quang Dũng đã khắc họa thật đẹp những kỉ niệm buổi sinh hoạt văn
nghệ đầm ấm và cảnh sông nước hữu tình khiến lòng người mê đắm. Qua đoạn
thơ, ta không chỉ thấy vẻ đẹp tâm hồn lãng mạn, lạc quan yêu đời của những chàng
vệ trọc mà còn thấy được cái tình trong từng nét vẽ, câu thơ của Quang Dũng. Quả
thực nhà thơ luôn ngưỡng mộ và yêu tha thiết những kỉ niệm gắn bó cùng đoàn
quân Tây Tiến. Độc giả cũng trân trọng hơn những rung cảm đẹp đẽ của hồn thơ
Quang Dũng và yêu thêm mảnh đất và con người Tây Bắc kiên cường.

ĐỀ 6: Cho đoạn thơ:


“ Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành”
(Trích: Tây Tiến – Quang Dũng)
Anh/chị hãy cảm nhận vẻ đẹp hình tượng người lính trong đoạn thơ trên. Từ đó
nhận xét về sự quyện hòa giữa chất hiện thực và lãng mạn trong thơ Quang Dũng.
BÀI LÀM:
Quang Dũng là nhà thơ trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Pháp,
ông là một nghệ sĩ đa tài làm thơ, vẽ tranh, viết văn, soạn nhạc nhưng thành công
nhất là thơ. Với tâm hồn lãng mạn, tài hoa của một người con “xứ Đoài mây
trắng”, Quang Dũng đã sáng tác những bài thơ giàu chất nhạc, chất họa, như: “
Mây đầu ô”, “Thơ văn Quang Dũng”… Trong đó tiêu biểu là bài thơ “Tây Tiến”.
Bài thơ không là dòng cảm xúc nhớ nhung của Quang Dũng về mảnh đất Tây Bắc
hùng vĩ, hoang sơ, dữ dội với biết bao kỉ niệm gắn bó. Ấn tượng sâu đậm nhất
trong dòng cảm xúc ấy là hình ảnh những người lính Tây Tiến thật oai phong lẫm
liệt, thật sang trọng hào hoa:
“ Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành”
Tây Tiến là tên một đơn vị quân đội được thành lập đầu năm 1947, có nhiệm
vụ phối hợp với bộ đội Lào, đánh tiêu hao sinh lực địch, bảo vệ biên giới Việt –
Lào. Chiến sĩ Tây Tiến phần đông là thanh niên, học sinh, trí thức Hà Nội, những
chàng trai hào hoa thanh lịch, lãng mạn yêu đời. Lên với chiến trường Tây Bắc, họ
phải đối mặt với bao khó khăn thử thách, nhưng vẫn luôn ngời sáng một ý chí, một
tinh thần chiến đấu dũng cảm kiên cường. Quang Dũng gắn bó cùng đoàn quân
Tây Tiến từ những ngày đầu thành lập trên cương vị Đại đội trưởng, anh yêu
thương và cảm phục sâu sắc những chiến sĩ trẻ đầy quả cảm của đoàn quân. Cuối
năm 1948, khi rời đơn vị cũ chưa lâu, tại Phù Lưu Chanh, vì rất nhớ đoàn quân,
Quang Dũng đã viết bài thơ “Nhớ Tây Tiến, sau đổi tên thành “Tây Tiến” (in trong
tập thơ “Mây đầu ô”).
Hai tiếng thân thương “Tây Tiến” được nhắc đến trong bài với thật nhiều
cảm xúc, khi thì đầy nuối tiếc, luyến lưu “Tây Tiến ơi!”, lúc lại da diết cồn cào:
“nhớ ôi Tây Tiến”, và cái tên “Tây Tiến” lúc này được gọi lên đầy kiêu hãnh tự
hào:
“ Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm”
Những vần thơ ngồn ngộn chất hiện thực, nửa thế kỷ sau mà người đọc vẫn
cảm thấy trong khói lửa, trong âm vang của tiếng súng, những gương mặt kiêu
hùng của đoàn dũng sĩ Tây Tiến. “ Đoàn binh không mọc tóc”, “ Quân xanh màu
lá”, tương phản với “ dữ oai hùm”. Cả ba nét vẻ đều sắc, góc cạnh hình ảnh những
“ Vệ túm”, “Vệ trọc” một thời gian khổ đươc nói đến một cách hồn nhiên. Quân
phục xanh màu lá, nước da xanh và đầu không mọc tóc vì sốt rét rừng, thế mà quắc
thước hiên ngang, xung trận đánh giáp lá cà “ dữ oai hùm” làm cho giặc Pháp kinh
hồn bạt vía “ Tam quân tì hổ khí thôn Ngưu” là hình ảnh các tráng sĩ “ Sát Thát”,
đời Trần. “ Quân xanh màu lá dữ oai hùm” là chí khí lẫm liệt hiên ngang của anh
bộ đội cụ hồ trong chín năm kháng chiến chống Pháp.
Gian khổ và ác liệt thế, nhưng họ vẫn mộng vẫn mơ.
“Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”
Lí tưởng sống của những chàng lính thật đẹp. Họ luôn biết dung hòa giưa
mộng và mơ. Mộng giết giặc, đánh tan lũ xâm lăng để giữ bình yên cho xóm làng.
Tâm thế luôn sẵn sàng chiến đấu và lập công, “ mắt trừng” . Còn mỗi đêm khuya,
lại đắm mình trong những ước mơ thật đẹp :“Hà Nội dáng kiều thơm”. Ba chữ “
dáng kiều thơm” đã diễn tả thật “ đắt” cái phong độ hào hoa, đa tình của những
chiến binh Tây Tiến, những chàng trai của đất nghìn năm văn hiến, giữa khói lửa
chiến trường vẫn mơ, vẫn nhớ về một mái trường xưa, một góc phố cũ, một tà áo
trắng, một “dáng kiều thơm”. Ngòi bút của Quang Dũng biến hoá, lúc bình dị mộc
mạc, lúc lại mộng ảo nên thơ, và đó chính là vẻ đẹp vừa hào hùng vừa hào hoa của
một hồn thơ chiến sĩ.
Bốn câu thơ tiếp theo ở cuối phần 3, một lần nữa nhà thơ nói về sự hy sinh
tráng liệt của những anh hùng vô danh trong đoàn quân Tây Tiến.
“Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”
Có biết bao chiến sĩ đã ngã xuống nơi góc rừng, bên bờ dốc vì độc lập, tự do của
Tổ quốc. Đó là những cái chết lặng thầm, đơn độc và lạnh lẽo vô cùng. Bởi đồng
đội vẫn tiếp tục hành quân, còn các anh nằm lại nơi biên cương, miền viễn xứ - đất
khách quê người. Cả câu thơ sử dụng nhiều từ Hán Việt khiến giọng điệu thơ
trang trọng cổ kính, khiến những nấm mồ hoang dại, đơn độc trở nên thiêng liêng,
nhưng cũng không tránh khỏi nỗi xót xa, thương cảm trong lòng người đọc.
“Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành”
Hình ảnh “áo bào” xuất hiện trong câu thơ khiến cái chết của các anh trở nên
oai hùng, bi tráng lạ thường, tưởng như đó là phút sa cơ của người dũng tướng của
một thời hào khí Đông A. Nhưng sự thật đau lòng là khi nằm xuống, tấm quần
manh áo còn không lành lặn huống chi là áo bào. Quấn thân các anh có thể chỉ là
tấm vải dù che mưa che gió. Các anh đã “về đất” một cách thanh thản, bình dị; yên
nghỉ trong lòng Mẹ, giấc ngủ nghìn thu. Sự ra đi thật nhẹ nhàng mà lòng người ở
lại trĩu nặng nỗi xót xa.
Cả đoàn quân lặng đi, chỉ còn nghe thác sông Mã thay tiếng của hồn thiêng
sông núi, tiếng của đồng bào, của Tổ quốc “gầm lên” như một loạt đại bác nổ xé
trời, vừa đau đớn vừa uất nghẹn căm hờn. “Khúc độc hành” vừa là khúc hát tiễn
đưa hồn tử sĩ, vừa là khúc hát lên đường đầy thiêng liêng, bi tráng .
Có người cho rằng, Quang Dũng là một trong những nhà thơ đầu tiên của
nền thơ ca kháng chiến nói rất cảm động về sự hy sinh anh dũng của các chiến sĩ
vô danh. Quả thực vậy, nếu Chính Hữu, qua bài “Đồng Chí” đã nói rất hay về
người nông dân mặc áo lính, thì Quang Dũng, với bài thơ “Tây Tiến” đã dựng lên
một tượng đài hùng vĩ uy nghiêm và đầy bi tráng về những chàng trai Hà Nội
“mang gươm đi mở cõi” dũng cảm, can trường, trong gian khổ chiến đấu hy sinh
vẫn lạc quan yêu đời. Đó là vẻ đẹp riêng độc đáo làm nên huyền thoại về một đoàn
binh không mọc tóc thủa nào! Trong thơ Quang Dũng, hiện thực khốc liệt của
chiến tranh được nói đến thẳng thắn, không hề né tránh, nhưng cách mà nhà thơ
nhìn nhận và biểu đạt trong từng câu thơ dù có đau thương chết chóc nhưng không
khiến người đọc cảm thấy bi quan, buồn chán, mà trái lại, hiện thực chỉ càng thổi
bùng lên ý thức đấu tranh đòi sự sống, cùng tình yêu và sự tôn vinh đẹp đẽ hào
hùng. Bởi vậy mà hình tượng tập thể anh hùng Tây Tiến hiện lên trong trang thơ
của Quang Dũng mang vẻ đẹp hào hùng, bi tráng, khơi gợi cảm xúc ngưỡng mộ, tự
hào nhiều hơn là cảm xúc xót đau, thương cảm.
Nhìn chung, đoạn thơ trên đã thể hiện thật rõ nét cốt cách và bút pháp lãng
mạn, hồn thơ tài hoa của Quang Dũng. Nếu “thơ là sự thể hiện con người và thời
đại một cách cao đẹp” thì đoạn thơ đã cho ta cảm nhận về ấn tượng ấy. “Tây Tiến”
đã mang vẻ đẹp độc đáo của một bài thơ viết về người lính – anh bộ đội cụ Hồ
những năm đầu kháng chiến chống Pháp. Bài thơ hội tụ mọi vẻ đẹp và bản sắc của
thơ ca kháng chiến ca ngợi chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa anh hùng cách mạng
Việt Nam.
VIỆT BẮC ( Tố Hữu)
ĐỀ 1: Cho đoạn thơ sau:
- Mình về mình có nhớ ta
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.
Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sống nhớ nguồn?
- Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi
Áo chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay
(Trích: Việt Bắc – Tố Hữu)
Anh/chị hãy phân tích đoạn thơ trên. Từ đó nhận xét về chất trữ tình – chính trị
trong ngòi bút thơ Tố Hữu.
BÀI LÀM:
Tố Hữu là nhà thơ lớn, là cánh chim đầu đàn của nền thơ ca cách mạng Việt
Nam. Các tác phẩm của ông luôn in đậm khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng
mạn, mang tính trữ tình chính trị và đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc. “Việt Bắc” là
một trong những sáng tác hay nhất của đời thơ Tố Hữu, là đỉnh cao của thơ kháng
chiến chống Pháp. Đó được xem như một bản tổng kết bằng thơ cuộc kháng chiến
trường kì, gian khổ mà anh dũng kiên cường. Cả bài thơ cũng là dòng chảy cảm
xúc dạt dào, tha thiết về nỗi nhớ Việt Bắc. Tiêu biểu trong bài thơ là những dòng kí
ức về giờ phút chia tay đầy bịn rịn lưu luyến của kẻ ở người đi:
- Mình về mình có nhớ ta
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.
Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sống nhớ nguồn?
- Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi
Áo chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay”
Tố Hữu viết Việt Bắc nhân một sự kiện lịch sử trọng đại của dân tộc. Sau
chiến dịch Điện Biên Phủ thắng lợi, tên giặc Pháp cuối cùng rời khỏi quê hương,
cơ quan trung ương chính phủ rời chiến khu Việt Bắc về tiếp quản thủ đô sau mười
lăm năm gắn bó. Trong giờ phút chia tay đầy lưu luyến bịn rị, Tố Hữu đã viết bài
thơ này. Mạch thơ tuôn trào theo dòng hồi tưởng của nhà thơ về những năm tháng
gắn bó với mảnh đất và con người Việt Bắc mà khởi nguồn là giây phút chia li thật
xúc động nghẹn ngào.
Chúng ta đã từng có những áng văn chương lớn nói về những cuộc chia ly
làm não lòng nhiều thế hệ người đọc Việt Nam. Đó là giọt nước mắt chia li của
người chinh phụ tiễn chồng ra biên ải (Chinh phụ ngâm – Đặng Trần Côn); đó là
phút tử biệt “một giã gia đình một rửng rưng” của người chiến sĩ bước vào khói lửa
đạn bom (Tống biệt hành – Thâm tâm); hay đó là cuộc chia li “chói ngời sắc đỏ”
của người vợ xa chồng trong khánh chiến chống Mĩ...Thế nhưng, có một cuộc chia
li không thấm đẫm nước mắt, không nhuốm màu tử biệt đã đi vào lịch sử, đánh dấu
một bước ngoặt quan trọng của dân tộc. Không phải là cuộc chia li chồng vợ hay
của đôi trai gái chung tình, mà buổi tiễn chân bộ đội miền xuôi về với thủ đô vẫn
nghe sao thật tình tứ, mặn nồng.
- Mình về mình có nhớ ta
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.

Ngay từ câu thơ đầu tiên, người ở lại đã cất lên tiếng lòng đầy băn khoăn trăn trở
về tình cảm của người ra đi. Thật dễ hiểu, bởi trong mỗi cuộc chia li thì người ở lại
luôn có tâm trạng nặng nề hơn, vừa phải đối diện với một không gian trống trải,
thiếu vắng bóng người, vừa luyến tiếc những năm tháng gắn bó, liệu người đi rồi
có còn nhớ ta chăng?
Câu hỏi tu từ mang âm hưởng ca dao “mình về có nhớ ta chăng? – Ta về ta
nhớ hàm răng mình cười”, với lối xưng hô “mình – ta” ngọt ngào, đằm thắm như
đôi trai gái yêu nhau đã khơi gợi tình cảm gần gũi, tha thiết nhớ thương của người
về xuôi: Người về chốn thị thành phồn hoa, có còn nhớ đến ta?
Vừa khơi gợi cảm xúc, câu hỏi tu từ vừa như nhắc nhớ về khoảng thời gian gắn bó
mười lăm năm, kể từ những ngày đầu mới xây dựng căn cứ địa Việt Bắc. Chỉ nhắc
đến khoảng thời gian đằng đẵng ấy thôi cũng đủ khơi dậy biết bao kỉ niệm về
những gian khổ, thiếu thốn “ta” và “mình” đã trải qua. Nó “ thiết tha, mặn nồng”
bền chặt, keo sơn và luôn in dấu trong lòng người ở lại.
Kỉ niệm không chỉ được nhắc nhớ qua thời gian “mười lăm năm” mà còn
được nhắc nhớ qua không gian núi rừng Việt Bắc qua cấu trúc câu hỏi được lặp lại:
“Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sống nhớ nguồn?”
Câu thơ vẽ lên không gian đặc trưng của núi rừng Việt Bắc, không gian đã từng
gắn bó một thời gian khổ hào hùng của người đi kẻ ở, giờ đây đã trở thành không
gian của nỗi nhớ. Nhà thơ đã sử dụng hai điệp từ lặp đi lặp lại ở hai vế “nhìn –
nhớ” để nhấn mạnh và khắc sâu những diễn biến sẽ có trong tâm trí người ra đi.
Núi rừng, sông suối nơi Việt bắc sẽ trở thành một phần kí ức của bộ đội miền xuôi,
để khi về lại thủ đô, mỗi lần nhìn “cây” nhìn “sông” ở nơi ấy sẽ gợi nhắc về không
gian “núi”, “nguồn” chốn thượng ngàn. Câu thơ bộc lộ sự thấu hiểu tâm trạng
người đi và ngâmd ẩn một lời nhắc nhớ ngườ đi gìn giữ tấm chân tình: đừng vì
hoàn cảnh sống thay đổi mà quên những ngày tháng đồng cam cộng khổ ở Việt
Bắc thân thương.
Qua hai cặp câu hỏi tu từ giãi bày nỗi lòng nhớ nhung, trăn trở của người ở
lại, ta không chỉ thấy được tình cảm đậm đà sâu sắc của đồng bào Việt Bắc dành
cho cán bộ miền xuôi, mà còn thấy được sự trân trọng, nâng niu những kỉ niệm
buồn vui suốt mười lăm năm gắn bó của họ.
Để đáp lại những băn khoăn trăn trở của người ở lại, người ra đi đã khẳng
định tình cảm của mình bằng những câu thơ đầy xúc động:
- Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi
Áo chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay.
Nếu như Việt Bắc băn khoăn “mình về mình có nhớ…” thì đây chính là lời khẳng
định chắc chắn về nỗi nhớ, về tình cảm của người đi dành cho Việt Bắc trong sự
đồng điệu tâm hồn. Người đi không chỉ nhớ mà còn khắc ghi sâu đậm trong tâm
khảm “tiếng” và “hình” của người ở lại. Đại từ phiếm chỉ “ai” khiến đối tượng của
nỗi nhớ trở nên bao quát hơn và thi vị hơn, bởi nó khiến câu thơ mang dáng dấp
những câu dân ca ngọt ngào, tình tứ: “ Nhớ ai ra ngẩn vào ngơ/ Nhớ ai, ai nhớ, bây
giờ nhớ ai”. Bởi đã gắn bó rất lâu nên tiếng nói của người Việt Bắc đã trở thành
đối tượng sâu đậm đầu tiên của nỗi nhớ. Thứ thanh âm “tha thiết” quen thuộc
mang đặc trưng của vùng miền đã gieo vào lòng người đi nỗi “bâng khuâng” vừa
buồn vui, vừa luyến nhớ, khiến bước chân trở nên “bồn chồn”, bởi lòng ngổn
ngang nỗi nhớ, chùng chình nửa ở nửa đi! Trong hai câu thơ lục bát, tác giả sử
dụng đến ba từ láy “tha thiết”, bâng khuâng”, “bồn chồn” để diễn tả trạng thái cảm
xúc đang trào dân và luôn thường trực của người ra đi. Lời đáp phải chăng đã giải
đáp thỏa đáng nỗi niềm băn khoăn của đồng bào Việt Bắc?
Tiếp theo trong lời đáp ấy, nhịp thơ thay đổi, khiến câu thơ như bẻ đôi, chia
li, cách biệt:
“Áo chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay. “
Từ nhớ tiếng sang nhớ hình. Một nét ấn tượng nữa trong tâm trí người đi đó lại là
hình ảnh của chiếc áo chàm quen thuộc, đặc trưng cho lối ăn mặc của người Việt
Bắc. Mượn hình ảnh hoán dụ “áo chàm” để chỉ người dân Việt Bắc, người ra đi đã
bộc lộ một nỗi niềm thương nhớ và yêu mến cái chất phác, giản dị toát ra từ cái sắc
trầm bền bỉ, sắc son ấy. Cùng với hình ảnh đồng bào Việt Bắc, hành động “cầm
tay” cũng để lại ấn tượng thật sâu sắc. cái nắm tay thật giản đơn, mộc mạc thôi mà
chất chứa bao ân tình, hơn ngàn vạn lời nói. Qua cái nắm tay, người đi cảm nhận
được hơi ấm, niềm tin yêu, cảm nhận được tâm tư, tình cảm của người ra đi. Cách
ngắt nhịp 3/3/2 của câu thơ và dấu chấm lửng cuối dòng đã tạo nên những khoảng
lặng trong cảm xúc người ở kẻ đi. Đó là những giây phút nghẹn ngào không nói
nên lời, chỉ biết nắm tay nhau thật chặt để níu lại những thương yêu. Thật xúc động
biết bao!
Bốn câu thơ đáp lời người ở lại của cán bộ miền xuôi bằng tình cảm chân
thành và sâu nặng đã thực sự làm yên lòng người ở lại. Dù không dùng đến một từ
“nhớ”, nhưng nỗi nhớ tràn ngập bốn dòng thơ và xâm lấn trong tâm hồn, trong
chiều sâu cảm xúc của người ra đi. Tình cảm ấy cũng thủy chung son sắt, đậm đà
tha thiết lắm thay!
Nhiều nhà nghiên cứu nhận định rằng thơ Tố Hữu là thơ của thứ tình cảm
lớn, niềm vui lớn, cảm xúc thơ luôn gắn liền với những sự kiện chính trị quan
trọng có ý nghĩa cộng đồng. Nhưng phải nhận thấy một điều rằng, dù là đề cập đến
nội dung chính trị nhưng rất gần gũi, giàu cảm xúc mà không hề khô khan giáo
điều. Đoạn thơ nói tái hiện khung cảnh chia tay trong thời khắc lịch sử quan trọng
của đất nước giữa đồng bào Việt Bắc và bộ đội miền xuôi mà nghe như cuộc chia
tay đầy lưu luyến bịn rịn của đôi trai gái yêu nhau vậy. Thật lãng mạn và thắm thiết
tình người.
Qua tám câu thơ đầu, bằng việc sử dụng cấu trúc đối đáp giao duyên “ta”-
“mình”, kết hợp với việc sử dụng những ngôn từ hình ảnh giàu sức gợi hình, gợi
cảm mà mộc mạc chân thành, nhà thơ đã làm nổi bật khung cảnh chia tay đầy lưu
luyến giữa bộ đội miền xuôi và Việt Bắc. Đoạn thơ cũng góp phần ngợi ca vẻ đẹp
trong tâm hồn con người Việt Bắc, ngợi ca tình nghĩa cách mạng thủy chung gắn
bó. Bằng việc sử dụng khéo léo, tài tình ngôn ngữ dân tộc, Tố Hữu đã trữ tình hóa
mối quan hệ chính trị, khiến tình quân dân trở nên thi vị và đầy ấn tượng. Đoạn thơ
góp phần làm nên thành công của tác phẩm và đem đến cho người đọc ấn tượng
thật đẹp về một thời kì đau thương nhưng vĩ đại của dân tộc.

ĐỀ 2:
- Mình đi, có nhớ những ngày
Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù
Mình về, có nhớ chiến khu
Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai?
Mình về, rừng núi với ai
Trám bùi để rụng, măng mai để già
Mình đi, có nhớ những nhà
Hắt hui lau xám, đậm đà long son
Mình về, còn nhớ núi non
Nhớ khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh
Mình đi, mình có nhớ mình
Tân Trào, Hồng Thái, mái đình, cây đa?
(Trích: Việt Bắc – Tố Hữu)
Anh/chị hãy phân tích đoạn thơ trên. Từ đó nhận xét về tính dân tộc trong thơ Tố
Hữu.
BÀI LÀM:
Tố Hữu là nhà thơ lớn, là cánh chim đầu đàn của nền thơ ca cách mạng Việt
Nam. Các tác phẩm của ông luôn in đậm khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng
mạn, mang tính trữ tình chính trị và đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc. “Việt Bắc” là
một trong những sáng tác hay nhất của đời thơ Tố Hữu, là đỉnh cao của thơ kháng
chiến chống Pháp. Đó được xem như một bản tổng kết bằng thơ cuộc kháng chiến
trường kì, gian khổ mà anh dũng kiên cường. Cả bài thơ cũng thể hiện một tấm
lòng tri ân sâu nặng về nghĩa tình cách mạng của nhà thơ nói riêng, của bộ đội
miền xuôi nói chung với mảnh đất và con người Việt Bắc. Lịch sử đã sang trang,
mà mỗi lần đọc lại đều rưng rưng rưng xúc động:
- Mình đi, có nhớ những ngày
Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù
Mình về, có nhớ chiến khu
Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai?
Mình về, rừng núi với ai
Trám bùi để rụng, măng mai để già
Mình đi, có nhớ những nhà
Hắt hui lau xám, đậm đà long son
Mình về, còn nhớ núi non
Nhớ khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh
Mình đi, mình có nhớ mình
Tân Trào, Hồng Thái, mái đình, cây đa?
Mười lăm năm đi hết cuộc đời trai trẻ, mười lăm năm gắn bó với thượng
ngàn heo hút, biết bao kỉ niệm vơi đầy, người thi sĩ - chiến sĩ ấy làm sao không lưu
luyến khi rời xa? “ Khi ta ở chỉ là nơi đất ở - Khi ta đi đất đã hóa tâm hồn”. Tháng
10 năm 1954, nhà thơ theo cơ quan trung ương, chính phủ rời chiến khu Việt Bắc
về tiếp quản thủ đô sau khoảng thời gian dài đã đồng cam cộng khổ cùng mảnh đất
và con người Việt Bắc, trong giây phút chia tay đầy lưu luyến và dạt dào xúc cảm,
Tố Hữu đã viết bài thơ Việt Bắc. Những kỉ niệm cứ ùa về như dòng thượng nguồn
tuôn chảy qua lời đối đáp ngọt ngào đằm thắm của kẻ ở - người đi mà khởi nguồn
là phút nắm tay giã biệt bịn rịn đầy lưu luyến. Nối tiếp là những lời gợi nhắc của
người ở lại về những kỉ niệm không thể nào quên.
Vẫn trong cấu trúc đối đáp “ta – mình” như lời giao duyên tình tứ gợi về
không gian văn hóa làng Việt gần gũi thân thương, từng câu hỏi của người ở lại
như xoáy sâu vào tâm trí người đi:
“Mình đi, có nhớ những ngày
Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù”
Nhớ về Việt Bắc là nhớ về những ngày tháng cùng chung sống với những cơn
mưa đầu nguồn xối xả, với lũ suối thành sông, với âm u núi rừng mây mù giăng
khắp. Thời tiết khắc nghiệt mang đặc trưng của thiên nhiên nơi đây đã tôi luyện ý
chí, nghị lực và tinh thần thép cho những người chiến sĩ đến từ miền xuôi. Cách
nói nhấn mạnh “những mây cùng mù” càng tô đậm những khó khăn gian khổ đã
trở thành quen thuộc, đã trở thành một phần cuộc sống suốt 15 năm ròng gắn bó.
Người ở lại gợi nhắc đầy trăn trở: liệu rằng người về xuôi có còn nhớ chăng?
“Mình về có nhớ chiến khu,
Miếng cơm chấm muối mối thù nặng vai?”
Vẫn là “mình” đó mà lúc lại là “mình đi”, lúc lại là “mình về”, dường như
cảm xúc của người ở lại chộn rộn quá, như chống chếnh, như chơi vơi, vừa nhớ
tiếc, vừa luyến lưu. Không chỉ nhớ về khung cảnh mưa lũ mây mù, có chút ảm
đạm nhưng vẫn mang đậm chất trữ tình, thơ mộng, phóng khoáng và hùng vĩ của
thiên nhiên, mà người ở lại còn gợi nhớ về cuộc sống sinh hoạt ở chiến khu với
“miếng cơm chấm muối” đạm bạc mà nghĩa tình. Câu thơ có vế sóng đôi “mối thù
nặng vai” diễn tả ý chí quyết tâm một lòng của quân và dân Việt Bắc. Những khó
khắn thiếu thốn ấy càng thổi bùng lên ngọn lửa hờn căm, càng nhắc nhở về mối thù
quân xâm lược đang kết hình kết khối đè nặng lên vai. Câu thơ cũng bộc lộ niềm tự
hào của những con người đã từng trải qua những ngày tháng gian khổ, kiên trì đấu
tranh để giành lại độc lập tự do và đem đến cho nhân dân cuộc sống hạnh phúc, ấm
no.
Phút chia tay thật nhiều điều muốn nói! Những câu hỏi như khơi sâu người ở
bộc lộ nỗi trống trải, thiếu hụt trong lòng bằng hình ảnh nhân hóa:
“Mình về, rừng núi nhớ ai
Trám bùi để rụng, măng mai để già”
Người về với thị thành tấp nập, để lại khoảng trống khó lấp đầy của không gian.
Núi rừng cũng như bần thần nhớ “ai”. Những món ăn đặc sản núi rừng “trám bùi”,
“măng mai” cũng để rụng, để già, không còn người thu hái. Tất cả trở về với
nguyên sơ, với sự tĩnh lặng hiu hắt khi bộ đội về xuôi. Không buồn nhớ sao được!
Vẫn với tâm trạng băn khoăn luyến nhớ, người ở lại hỏi người ra đi:
“Mình đi có nhớ những nhà
Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son?”
Hai câu thơ có hình ảnh tượng trưng và tương phản đầy ấn tượng. Những ngôi nhà
sàn thấp thoáng sau những vạt lau sậy hắt hiu, hoang vắng, đó là mái ấm của
những con người Việt bắc chân chất mộc mạc. Đó cũng là nơi nuôi dưỡng những
tấm lòng son sắt thủy chung với cách mạng trường kì. Vẫn trong mạch cảm xúc
băn khoăn trăn trở, đồng bào gợi nhớ những hình ảnh thân thương ấy bằng một
niềm kiêu hãnh về phẩm chất cách mạng của mình. Sự tương phản hình ảnh “hắt
hiu lau xám” và “đậm đà lòng son”, một hình ảnh ẩn dụ rất đẹp ca ngợi tấm lòng
son sắt thủy chung, càng khắc sâu ấn tượng về những con người tuy còn nghèo
khổ, thiếu thốn nhưng giàu tình yêu nước, gắn bó thủy chung với cách mạng và
kháng chiến.
Nhớ về Việt Bắc, không thể không nhớ đến những ngày tháng đấu tranh gian
khổ:
“Mình về, còn nhớ núi non
Nhớ khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh
Mình đi, mình có nhớ mình
Tân Trào, Hồng Thái, mái đình, cây đa?”
Cùng với những hình ảnh đặc trưng cho vùng cao Việt Bắc của quê hương, đại
từ mình xuất hiện đều đặn, nhịp nhàng và biến hóa linh hoạt suốt khổ thơ đã tạo
nên sắc điệu trữ tình thắm thiết, đậm đà tính dân tộc. Nếu đại từ “mình” được dùng
để chỉ những người bộ đội miền xuôi, người ra đi trong cuộc chia tay ấy thì sang
đến câu thơ cuối khổ, “mình” được điệp lại ba lần với ý nghĩa khác nhau mà lại
quyện hòa, gắn bó không thể rạch ròi phân định. Đó là cách xưng hô ân tình, đằm
thắm như lời lẽ tình tứ của đôi trai gái xưa “ Mình về ta chẳng cho về - Ta nắm vạt
áo ta đề câu thơ”. Mình có trong ta mà ta cũng luôn hiện hữu trong trái tim mình.
Với tình cảm gắn bó tha thiết ấy, người ra đi hãy đừng quên những tháng ngày
cùng nhau chiến đấu “khi kháng Nhật – thủa còn Việt Minh”, và đừng quên những
cái tên thân thuộc Tân Trào, Hồng Thái, nơi khởi nguồn của những chiến công;
đừng vội phai nhòa những kí ức thiêng liêng về buổi lễ xuất quân dưới gốc đa cổ
thụ bên mái đình Tân Trào năm ấy.
Câu thơ cuối cùng có sự đổi chỗ thú vị: Mái đình Hồng Thái, cây đa Tân Trào
được hoán vị thành “Tân Trào, Hồng Thái, mái đình, cây đa” vừa nhấn mạnh cái
tên đã đi vào lịch sử vừa tạo nên tính chất mới mẻ, độc đáo cho câu thơ lục bát.
Người Việt Bắc luôn mong muốn người ra đi hãy khắc ghi và luôn gìn giữ những
phẩm chất cách mạng vốn có vẹn nguyên như những ngày đầu!
Nói đên sự đóng góp của Tố Hữu trong nền thơ ca Việt Nam hiện đại, không
thể không nói đến đóng góp quan trọng trong việc gìn giữ bản sắc văn hóa dân tộc,
tinh thần dân tộc trong thơ. Thơ Tố Hữu bài nào cũng vậy, đều đậm đà sâu sắc
phong vị quê hương, từ ngôn từ giản dị, mộc mạc, cách xưng hô ‘mình- ta” thân
tình ấm áp; hình ảnh của dưa cà mắm muối, của sân đình gốc đa, của dáng mẹ,
dáng chị, dáng anh quen thuộc, chân quê đến cách cảm, cách nghĩ và một tâm hồn
dào dạt nghĩa tình trong thơ. Tất cả điều đó đã làm nên nét rất riêng trong phong
cách sáng tác của nhà thơ. Đó cũng là lí do khiến thơ của Tố Hữu chyển tải những
điều lớn lao mà rất tự nhiên thấm sâu vào lòng người đọc nhiều thế hệ, làm nên sức
sống lâu bền.
Với mười hai câu thơ lục bát Tố Hữu đã tạo thành sáu câu hỏi với kết cấu
trùng điệp như khắc sâu vào kỉ niệm người đi về một miền đất hoang sơ mà nghĩa
tình. Mỗi câu đều gợi lại nét tiêu biểu trong chuỗi kỉ niệm về Việt Bắc: Việt Bắc
gian khổ thiếu thốn, Việt Bắc nghĩa tình sâu đậm, Việt Bắc gắn liền với những sự
kiện lịch sử trọng đại của cách mạng Việt Nam. Đọc đoạn thơ ta như thấy ngân
vang khúc nhạc tình yêu êm ái dịu dàng. Những câu hỏi là nỗi niềm băn khoăn của
đồng bào Việt Bắc đấy nhưng thực chất lại chính là những lời tự dặn lòng mình
của nhà thơ: trở về xuôi rồi đừng quên những năm tháng cơ hàn khốn khó ở Việt
Bắc, đừng quên những con người mộc mạc mà ân nghĩa thủy chung. Ta nhận thấy
một tấm lòng biết ơn sâu nặng của nhà thơ với Việt Bắc, thấy yêu mến và trân
trọng hơn sự cống hiến của nhân dân mọi miền cho độc lập hôm nay. Tôi chợt hỏi
mình “ta đã làm gì cho Tổ quốc hôm nay?”
ĐỀ 3 : Cho đoạn thơ:
- Ta với mình, mình với ta
Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh
Mình đi, mình lại nhớ mình
Nguồn bao nhiêu nước, nghĩa tình bấy nhiêu
Nhớ gì như nhớ người yêu
Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương
Nhớ từng bản khói cùng sương
Sớm khuya bếp lửa người thương đi về
Nhớ từng rừng lứa bờ tre
Ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê vơi đầy
(Trích: Việt Bắc – Tố Hữu)
Anh/chị hãy phân tích đoạn thơ trên. Từ đó nhận xét về sự kết hợp yếu tố nhạc và
họa trong thơ Tố Hữu.
BÀI LÀM:
Nói về sức hấp dẫn trong thơ Tố Hữu, Xuân Diệu đã từng nhận xét rằng đó
là những vần thơ “từ trái tim vọt ra” vừa lãng mạn vừa tràn đầy “máu huyết”. Quả
nhiên là thế! Thơ Tố Hữu được khơi dẫn bởi mạch nguồn của tinh thần và ý chí
cách mạng, của lí tưởng đẹp đẽ và tình yêu đất nước sâu sắc. Đọc mỗi dòng thơ
của ông, ta đều thấy chất chính trị quyện hòa nhuần nhuyễn với chất trữ tình đằm
thắm ngọt ngào. “ Việt Bắc” là một minh chứng tiêu biểu cho nét phong cách sáng
tác đó của nhà thơ. Trong tác phẩm, tình cảm nhớ nhung lưu luyến giữa đồng bào
Việt Bắc với bộ đội miền xuôi được Tố Hữu diễn đạt bằng những câu thơ tình tứ
vô cùng:
- Ta với mình, mình với ta
Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh
Mình đi, mình lại nhớ mình
Nguồn bao nhiêu nước, nghĩa tình bấy nhiêu
Nhớ gì như nhớ người yêu
Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương
Nhớ từng bản khói cùng sương
Sớm khuya bếp lửa người thương đi về
Nhớ từng rừng lứa bờ tre
Ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê vơi đầy
Nếu ai đó không biết rằng “Việt Bắc” là lời giã biệt, lời tri ân của cán bộ, bộ
đội miền xuôi với đồng bào Việt Bắc sau mười lăm năm gắn bó làm nên thắng lợi
của trận Điện Biên Phủ lừng lẫy thì hẳn sẽ nghĩ đó là những câu hát giao duyên
tình tứ của những bậc liền anh liền chị ở một xứ Kinh Bắc nào. Sự kiện lịch sử
quan trọng ấy được ghi khắc không chỉ trong trí nhớ mà còn khắc sâu trong trái tim
của bao người yêu thơ. Đó là sức mạnh của “một tiếng nói yêu thương luôn luôn
chan hòa ánh sáng” (Hoài Thanh) trong ngòi bút trữ tình - chính trị của Tố Hữu.
Có nhà phê bình từng nhận định “Người Tố Hữu là một thi sĩ, một chiến sĩ
nhưng chúng ta đừng quên cốt cách của nó là thi sĩ”. Tâm hồn của một thi sĩ làm
cách mạng đã khiến cho những điều khô khan, cứng nhắc cũng trở nên mềm mại
trong thơ. Chẳng thế mà,Tố Hữu đã thi vị hóa mối quan hệ quân - dân trở nên gần
gũi, cởi mở và chân thành biết mấy. Vốn dĩ, cách xưng hô “mình – ta” đã rất quen
thuộc trong đời sống người dân lao động xưa, trong đối đáp giao duyên hay trong
thơ ca dân gian. Ta dễ dàng bắt gặp những câu ca dao ngọt ngào say đắm: “ Mình
về ta chẳng cho về - ta nắm vạt áo, ta đề câu thơ”. Hay “Mình về có nhớ ta chăng –
Ta về ta nhớ hàm răng mình cười”. Ở đây, Tố Hữu thay lời bộ đội miền xuôi thân
mật xưng hô “ta-mình” với đồng bào Việt Bắc, khiến tình cảm quân dân càng thêm
khăng khít, mặn nồng.
Đoạn thơ là lời đáp lại tình cảm của người đi với người ở lại. Đồng bào Việt
Bắc vì nhớ nhung, lo lắng mà gặng hỏi người về xuôi có còn nhớ những ngày “
Mưa nguồn suối lũ những mây cùng mù?”. Đáp lại tình cảm sâu nặng ấy, người ra
đi đã bộc lộ sự thủy chung son sắt như một lời thề :
- Ta với mình, mình với ta
Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh
Câu thơ điệp lại theo cấu trúc vòng tròn: “ta với mình” rồi lại “mình với ta”
tạo nên sự gắn bó quyện hòa như không thể tách rời, không gì chia cắt. Lại thêm
câu khẳng định tấm lòng, tình cảm trước sau như một của người ra đi, vẫn luôn
“mặn mà đinh ninh”, không bao giờ phai nhạt. Đọc câu thơ, ta ngỡ như đó là lời
thề non hẹn biển của đôi trai gái yêu nhau: “Thuyền về có nhớ bến chăng – Bến thì
một dạ khăng khăng đợi thuyền”. Hẳn rằng lời khẳng định chân thành ấy của bộ
đội miền xuôi đã làm ấm lòng người ở lại.
Dường như ngần ấy chưa đủ để nói hết những lưu luyến nhớ nhung của
người ra đi dành cho mảnh đất và con người Việt Bắc. Mười lăm năm gắn bó chứ
đâu phải một sớm một chiều, tất cả như còn vẹn nguyên trong tâm trí người ra đi:
Mình đi, mình lại nhớ mình
Nguồn bao nhiêu nước, nghĩa tình bấy nhiêu
Lúc này đại từ “mình” được sử dụng để chỉ cho cả hai đối tượng, “mình” là
bộ đội miền xuôi hay “mình” cũng chính là người Việt Bắc. Dường như cảm xúc
nhớ nhung dâng trào đến độ “ta – mình” đã hòa vào một, ta là mình và mình là ta.
Đến đây, độc giả lại bắt gặp một tứ trong ca dao xưa “Qua đình ngả nón trông đình
– Đình bao nhiêu ngói thương mình bấy nhiêu”. Cách ví von “Nguồn bao nhiêu
nước nghĩa tình bấy nhiêu” vừa thân thuộc vừa mang đặc trưng lối nói của người
vùng cao Việt Bắc : tình nghĩa con người được ví với nước trong nguồn – một biểu
tượng của thiên nhiên vô tận, vĩnh hằng. Câu thơ vừa thể hiện nỗi nhớ, đồng thời
cũng thể hiện tấm lòng biết ơn sâu nặng của người cán bộ miền xuôi đối với Việt
Bắc, nơi đã che chở, nuôi dưỡng cách mạng từ trong trứng nước!
Nỗi nhớ được cụ thể hóa qua không gian, thời gian:
Nhớ gì như nhớ người yêu
Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương
Tố Hữu đã lấy thước đo giá trị của nỗi nhớ trong tình yêu để cắt nghĩa, lý giải cho
tình cảm của người chiến sĩ miền xuôi với đồng bào Việt Bắc. Đó không phải là
nỗi nhớ của ý thức, của lí trí lạnh lùng mà là nỗi nhớ hằn in trong trái tim của
người ra đi như nỗi nhớ “người yêu” – một nỗi nhớ da diết, cồn cào, mãnh liệt.
Câu thơ có từ để hỏi “nhớ gì” vừa thể hiện sự ngỡ ngàng về một hiện thực trong
trái tim mình, dường như bản thân người đi cũng thực sự bất ngờ bởi nỗi nhớ đằm
sâu mãnh liệt đến thế, vừa như khẳng định sự hiện hữu một tình cảm đặc biệt dành
cho Việt Bắc trong trái tim mình. Thật đáng trân trọng!
Trong xúc cảm của một tình yêu nồng nàn, khung cảnh thiên nhiên lãng mạn
mở ra “ Trăng lên đầu núi – nắng chiều lưng nương.” Một câu thơ phác họa hai
thời điểm khác nhau: vế đầu là hình ảnh gợi tả không gian hò hẹn lãng mạn với ánh
trăng vừa hé lộ dịu dàng e ấp, tình tứ; vế sau là hình ảnh gợi không gian của buổi
chiều lao động trên nương rẫy, những tia nắng còn trải vàng trên lưng chừng núi.
Dường như, những khoảnh khắc đẹp như tranh vẽ ấy đã lí giải tại sao nỗi nhớ đồng
bào trong lòng người đi lại như nỗi nhớ “người yêu”. Thiên nhiên và hình ảnh cuộc
sống lao động của con người nơi đây thật khiến lòng người xao xuyến, đắm say!
Và như một cuốn phim quay chậm, những hình ảnh thân thuộc hiện về
nguyên vẹn trong tâm trí người đi:
Nhớ từng bản khói cùng sương
Sớm khuya bếp lửa người thương đi về
Nhớ từng rừng lứa bờ tre
Ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê vơi đầy
Kết thúc khổ thơ , tình cảm lại toả ra tràn ngập cả núi rừng Việt Bắc. Những
kỷ niệm chung và riêng đan xen nhau, lần lượt hiện ra rõ mồn một trong tâm trí của
người đi “từng bản khói cùng sương”, “từng rừng nứa bờ tre”... Nghệ thuật điệp từ
“nhớ” nằm trong cấu trúc điệp “nhớ từng”, kết hợp với biện pháp tu từ liệt kê
những hình ảnh về không gian sinh sống của đồng bào, nơi đi về ấm áp trong tình
cảm gia đình, những địa danh lịch sử người cán bộ đã từng đặt chân “Ngòi Thia,
sông Đáy, suối Lê…” làm cho những kỷ niệm thân thương về những tháng ngày
gian khổ mà kiên cường đấu tranh chống giặc hiện lên tầng tầng lớp lớp, hết hình
ảnh này, đến hình ảnh khác như suối nguồn không bao giờ vơi cạn.
Nhà thơ Chế Lan Viên từng nói “Thơ Tố Hữu là thơ cách mạng, chứ không
phải thơ tình yêu, nhưng thơ anh là của một tình nhân, anh nói các vấn đề bằng trái
tim của một người say đắm. Cái sức mạnh lớn nhất của Tố Hữu là quả tim anh”.
Điều này dễ nhận thấy ở bài thơ Việt Bắc từ việc sử dụng thể thơ lục bát, ở cách
đối đáp giao duyện ngọt ngào thiết tha đến việc sử dụng linh hoạt, tài tình cặp đại
từ nhân xưng “mình, ta” nhịp nhàng sánh đôi để nói về tình cảm gắn bó giữa cán
bộ với nhân dân. Chính lý tưởng cộng sản là ngọn nguồn của mọi cảm hứng sáng
tạo trong thơ Tố Hữu. Thơ ông luôn có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa tình cảm yêu
nước, yêu chủ nghĩa xã hội thuần túy với một tình cảm cá nhân đằm thắm nhất.
Nhờ thế, nhà thơ đã sáng tạo nên một thế giới nghệ thuật độc đáo của thơ trữ tình
chính trị, mang đậm đà bản sắc dân tộc và nâng nó lên một trình độ mới.
Tóm lại, qua những lời thơ thủ thỉ tâm tình chân thành đằm thắm của người
ra đi với người ở lại trong đoạn thơ trên, ta không chỉ thấy những hồi ức đẹp đẽ về
một Việt Bắc thơ mộng nghĩa tình mà người đọc còn cảm nhận một tình cảm cách
mạng thiết tha, sâu đậm trong tình quân dân cá nước. Đoạn thơ cũng tiêu biểu cho
phong cách trữ tình - chính trị của Tố Hữu, để lại dấu ấn khó phai trong lòng độc
giả. Những vần thơ cũng góp phần nhắc nhớ con người về lối sống ân nghĩa thủy
chung, có được những ngày bình yên hạnh phúc, đừng vội quên những tháng ngày
gian khổ đã qua! Phải chăng vì thế mà thơ Tố Hữu bao giờ cũng mới, nó trở thành
cách nhìn, thành nếp sống phổ biến của những con người thời đại mới!”

ĐỀ 3: Cho đoạn thơ


Ta về, mình có nhớ ta
Ta về, ta nhớ những hoa cùng người
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuối từng sợi giang
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung
(Trích: Việt Bắc – Tố Hữu)
Anh/chị hãy phân tích đoạn thơ trên. Từ đó nhận xét về sự kết hợp yếu tố nhạc và
họa trong thơ Tố Hữu.
BÀI LÀM:
Tố Hữu là nhà thơ lớn, là cánh chim đầu đàn của nền thơ ca cách mạng Việt
Nam. Các tác phẩm của ông luôn in đậm khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng
mạn, mang tính trữ tình chính trị và đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc. “Việt Bắc” là
một trong những sáng tác hay nhất của đời thơ Tố Hữu, là đỉnh cao của thơ kháng
chiến chống Pháp. Đó được xem như một bản tổng kết bằng thơ cuộc kháng chiến
trường kì, gian khổ mà anh dũng kiên cường. Cả bài thơ cũng là dòng chảy cảm
xúc dạt dào, tha thiết về nỗi nhớ Việt Bắc. Tiêu biểu trong bài thơ là những dòng kí
ức về một bức tranh tứ bình Việt Bắc thơ mộng, ân tình:
Ta về, mình có nhớ ta
Ta về, ta nhớ những hoa cùng người
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuối từng sợi giang
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung
Tố Hữu viết Việt Bắc nhân một sự kiện lịch sử trọng đại của dân tộc. Sau
chiến dịch Điện Biên Phủ thắng lợi, tên giặc Pháp cuối cùng rời khỏi quê hương,
cơ quan trung ương chính phủ rời chiến khu Việt Bắc về tiếp quản thủ đô sau mười
lăm năm gắn bó. Trong giờ phút chia tay đầy lưu luyến bịn rị, Tố Hữu đã viết bài
thơ này. Mạch thơ tuôn trào theo dòng hồi tưởng của nhà thơ về những năm tháng
gắn bó với mảnh đất và con người Việt Bắc. Nhớ về Việt Bắc, không chỉ là nỗi
nhớ về những hi sinh, gian khổ “bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng” mà còn là nỗi
nhớ về một Việt Bắc đẹp như thơ, làm say đắm lòng người.
Mở đầu đoạn thơ là câu hỏi tu từ. Nhưng hỏi chỉ là cái cớ để thể hiện tâm tư
tình cảm, nhấn mạnh nỗi nhớ da diết của người về Thủ đô.
“Ta về, mình có nhớ ta
Ta về, ta nhớ những hoa cùng người”
Hai câu đầu là lời hỏi đáp của ta - người cán bộ kháng chiến về xuôi. Ta hỏi mình
có nhớ ta. Người cách mạng về xuôi hỏi người Việt Bắc để bộc lộ tâm trạng của
mình là dù có ở nơi xa xôi , dù có xa cách nhưng lòng ta vẫn gắn bó với Việt Bắc.
Chữ "ta" và "nhớ" được điệp đi điệp lại nhiều lần vừa nhấn mạnh chủ thể nỗi nhớ,
vừa khẳng định một tình cảm nhớ nhung đang chế ngự, tràn ngập trong tâm hồn
người đi. Nỗi nhớ hướng về "những hoa cùng người" hướng về thiên nhiên , núi
rừng và con người Việt Bắc. "Hoa" là sự kết tinh của hương sắc, còn "người" là
bông hoa đẹp nhất giữa núi rừng. Xét cho cùng, "người ta là hoa của đất". Hoa và
người đồng hiện càng tôn lên vẻ đẹp cho nhau,
khiến không gian trở nên hài hòa, lãng mạn.
Nỗi nhớ hiện về trong tấm trí người đi theo mạch trình tự bốn mùa, mỗi mùa
là một bức tranh đẹp toàn bích, mà khởi đầu là bức tranh Việt Bắc trong mùa đông:
“Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng”
Không gian mở ra trước mắt người đi không phải là cảnh rừng ảm đạm lạnh lẽo mà
là một cánh rừng xanh bạt ngàn vô tận. Trên tấm thảm xanh đầy sức sống ấy là sắc
đỏ rực rỡ, tươi tắn của những bông chuối rừng. Sự hài hòa giữa hai màu sắc tương
phản “xanh-đỏ” khiến lòng người cảm thấy ấm áp trước cái lạnh lẽo kahức nghiệt
của thời tiết nơi
rừng thiêng nước độc ấy.
Giữa không gian hoang vu mà thơ mộng, xuất hiện hình ảnh những con
người lao động khỏe khoắn cheo leo trên những đỉnh đèo “nắng ánh” với “dao gài
thắt lưng”. Những ánh nắng rực rỡ của ngày mới chiếu rọi vào những chiếc dao gài
ở thắt lưng tạo nên phản quang lấp lánh làm đẹp thêm hình ảnh những con người
Việt Bắc chủ động, tự tin giữa đại ngàn.
Bức tranh mùa xuân hiện ra cũng mang nét rất riêng của thiên nhiên nơi đây.
Đó là thời điểm mà cả cánh rừng mênh mông ngập tràn sắc trắng tinh khôi của hoa
mơ nở rộ:
“Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuối từng sợi giang”
Cách sử dụng kết hợp từ “mơ nở trắng rừng” khiến người đọc liên tưởng đến
sự chuyển biến của màu sắc, đồng loạt và nhất thể như nhuộn trắng cả không gian,
khác với sắc trắng điểm xuyết khiêm nhường trong những câu thơ miêu tả cảnh
ngày xuân của đại thi hào Nguyễn Du “Cành lê trắng điểm một vài bông hoa”.
Xuân ở núi rừng Việt Bắc là thế, thật riêng, thật ấn tượng.
Giữa cái nền trắng của hoa mơ ấy, nổi bật lên hình ảnh con người lao động
cần mẫn, dịu dàng: "chuốt từng sợi giang". Con người đẹp một cách tự nhiên trong
công việc hàng ngày. Động từ "chuốt" kết hợp với trợ từ "từng" đã thể hiện bàn tay
khéo léo, tỉ mĩ, và tài hoa của người lao động. Đó cũng chính là những phẩm chất
tốt đẹp của con người Việt Bắc hào hùng nhưng cũng rất hào hoa.
Nếu như bức tranh mùa đông và mùa xuân được nhà thơ cảm nhận bằng thị
giác thì sang đến bức tranh mùa hè các giác quan quan của nhà thơ được mở rộng
để đón nhận những điều thú vị tuyệt vời chỉ có ở Việt Bắc:
“Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình”
Âm vang của tiếng ve làm lá phách đổ vàng. Đó là thứ âm thanh quen thuộc của
mùa hè. Khi tiếng ve cất lên cả không gian như bừng thức, cả cánh rừng phách đột
ngột “đổ vàng”. Động từ “đổ” được sử dụng độc đáo, tạo liên tưởng thú vị về sự
chuyển biến thật nhanh, thật đột ngột của màu sắc khu rừng từ xuân sang hạ.
Tưởng như tấm voan trắng tinh khôi của mùa xuân vừa được trút bỏ thì lập tức bà
mẹ thiên nhiên đã khoác lên cách rừng một tấm hoàng bào lộng lẫy kiêu sa. Cảnh
tượng thật kì vĩ và ấn tượng vô cùng. Câu thơ có nét tương đồng với ý thơ "Một
tiếng chim kêu sáng cả rừng" của Khương Hữu Dụng. Chỉ với một câu thơ mà các
tác giả đã gợi lên cả sự vận động của
thời gian, của cuộc sống.
Và trên cái nền vàng của rừng phách ấy, hiện lên hình ảnh thật đáng yêu làm
cho bức tranh thêm nên thơ, trữ tình. Đó là hình ảnh: "cô em gái hái măng một
mình". Một mình đấy nhưng không hề cô đơn. Dường như thiên nhiên và con
người đã hòa làm một, như bạn thân như tri kỉ, tôn lên vẻ đẹp của nhau thật hài
hòa, thơ mộng: thiên nhiên đẹp lộng lẫy, lung linh , và con người lao động thì thật
dịu dàng, duyên dáng. Câu thơ khéo léo bộc lộ tấm lòng yêu mến trân trọng lối
sống giản dị, lặng thầm của những con người Việt Bắc thân thương.
Khép lại đoạn thơ là bức tranh về mùa thu ở Việt Bắc:
Rừng thu trăng rọi hoà bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung.
Có lẽ ấn tượng nhất trong nỗi nhớ về hoa và người Việt Bắc đó là những
đêm trăng thu yên bình, lãng mạn. Bức tranh thu không có hoa rừng khoe sắc, mà
đó là màu sắc dịu dàng, êm ái ánh trăng thu chiếu tỏa. Câu thơ mở ra một không
gian tràn ngập ánh trăng thanh bình soi chiếu khắp núi rừng chiến khu . Ánh trăng
ấy không chỉ mang vẻ đẹp tự nhiên mà nó còn gắn với niềm xúc động của những
con người từng trải qua bao năm khốc liệt , gian khổ của chiến tranh . Và trong
giây phút sống trong hòa bình ấy, lòng người chợt nhớ đến “tiếng hát ân tình” ngân
vang, tha thiết .Tiếng hát bộc lộ lòng người, bộc lộ ân tình thuỷ chung , tình nghĩa
của con người Việt Bắc với cách mạng, với bộ đội miền xuôi. Tiếng hát cũng nhắc
nhớ người ra đi đừng vội quên quá khứ nghĩa tình suốt mười lăm năm gắn bó. Bức
tranh mùa thu Việt Bắc đã làm hoàn chỉnh bức tranh tuyệt mỹ của núi rừng và
khép lại đoạn thơ bằng tiếng hát "ân tình thủy chung" ấy còn gợi cho người về và
cả người đọc những rung động sâu xa của tình yêu quê hương đất nước.
Tố Hữu đã diễn tả nỗi nhớ gắn với hình ảnh của núi rừng và bốn mùa hoà
chung sắc màu đa dạng làm nên vẻ hấp dẫn cho bức tranh tứ bình bằng thơ có họa
và nhạc về hoa và người Việt Bắc. Đọc thơ ông, người đọc như được huy động tất
cả các giác quan để cảm nhận: Thị giác được chiêm ngưỡng những khoảnh khắc
trong ngần của rừng mơ mùa xuân, sự chói chang huy hoàng của rừng phách mùa
hè, sự tươi tắn, ấm áp của hoa chuối mùa đông. Thính giác lắng nghe âm thanh
tiếng ve quen thuộc của mùa hè, lắng nghe tiếng hát thân thương nghĩa tình của
con người Việt Bắc và trái tim rung động biết bao! Đó là thi trung hữu họa, thi
trung hữu nhạc. nhiên, tình người. Thời gian trong đoạn thơ được diễn tả tuần tự
bốn mùa bắt đầu từ mùa đông và khép lại là mùa thu lịch sử, mùa của thắng lợi
tròn đầy, mùa của bình yên lắng đọng, nhưng có một thứ bất biến, không hề đổi
thay, đó là nỗi nhớ, là tình yêu nhà thơ dành cho Việt Bắc. Thời gian trôi đi càng
làm nỗi nhớ thêm tha thiết, sâu lắng. Đó là tình yêu đích thực, rung động chân
thành của trái tim nhà thơ, cũng là mạch nguồn làm nên chất trữ tình chính trị sâu
sắc và tính dân tộc đậm đà ở mỗi vần thơ Tố Hữu.
Qua mười câu thơ tuyệt bút , bằng việc sử dụng cấu trúc đối đáp giao duyên “ta”-
“mình”, kết hợp với việc sử dụng những ngôn từ hình ảnh giàu sức gợi hình, gợi
cảm mà mộc mạc chân thành, nhà thơ đã làm nổi bật cảnh đẹp thiên nhiên bốn mùa
ở núi rừng trong sự hài hòa với cốt cách và tâm hồn người Việt Bắc. Qua đó, tác
giả đặc biệt ngợi ca vẻ đẹp trong tâm hồn con người Việt Bắc, ngợi ca tình nghĩa
cách mạng thủy chung gắn bó bằng tấm lòng trân trọng và biết ơn sâu nặng. Với
việc sử dụng khéo léo, tài tình ngôn ngữ dân tộc, Tố Hữu đã trữ tình hóa mối quan
hệ chính trị,lãng mạn hóa không gian kháng chiến khiến tình quân dân trở nên thi
vị và đầy ấn tượng. Đoạn thơ góp phần làm nên thành công của tác phẩm và đem
đến cho người đọc ấn tượng thật đẹp về một thời kì đau thương nhưng vĩ đại của
dân tộc.

ĐỀ 4 :
Những đường Việt bắc của ta
Đêm đêm rầm rập như là đất rung
Quân đi điệp điệp trùng trùng
Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan
Dân công đỏ cuốc từng đoàn
Bước chân nát đá, muôn tàn lửa bay
Nghìn đêm thăm thẳm sương dày
Đèn pha bật sáng như ngày mai lên
Tin vui chiến thắng trăm miền
Hòa Bình, Tây Bắc, Điện Biên vui vẻ
Vui từ Đồng Tháp, An Khê
Vui lên Bắc Việt, đèo De, núi Hồng
(Trích: Việt Bắc – Tố Hữu)
Anh/chị hãy phân tích đoạn thơ trên. Từ đó nhận xét về tính sử thi trong thơ Tố
Hữu.
BÀI LÀM :
Bài thơ Việt Bắc được nhà thơ Tố Hữu viết vào tháng 10 - 1954, tức sau
chiến thắng Điện Biên Phủ (5 - 1954), miền Bắc được giải phóng. Các cơ quan
Trung ương của Đảng và Nhà nước chuyển từ Việt Bắc (thủ đô của cuộc kháng
chiến) về Hà Nội. Sự lưu luyến kẻ ở người về là nguồn cảm xúc lớn cho Tố Hữu
viết nên bài thơ này. Bài thơ Việt Bắc được trích trong tập thơ Việt Bắc (1947 -
1954) của Tố Hữu. Cả bài thơ cũng là bức tranh nhiều màu sắc về mảnh đất và con
người Việt Bắc từ buổi đầu gian khổ gây dựng sự nghiệp cách mạng đến những
đêm trường cả Việt Bắc bừng bừng khí thế đấu tranh. Đó là khúc tráng ca – khúc
ca hùng tráng về một giai đoạn lịch sử hào hùng của dân tộc.
Câu thơ đầu đoạn vang lên khỏe khoắn, hùng tráng, chứa chan niềm tự hào
kiêu hãnh:
Những đường Việt bắc của ta
Đêm đêm rầm rập như là đất rung
Khắp các nẻo đường từ Việt Bắc tỏa đi muôn nơi đều là “của ta”: Hai
tiếng “của ta” giản dị mà vô cùng thiêng liêng. Chúng thể hiện rõ ý thức làm chủ
cũng như niềm tự hào về sự bất khả xâm phạm của vùng căn cứ. Có sống trong
những ngày kháng chiến chống Pháp đầy gian khổ khó khăn, ta mới thấm thía
niềm tự hào kiêu hãnh ấy. Những con đường của ta nhưng đã phải đổ biết bao
xương máu mới giành lại được?
Hình ảnh thơ “Đêm đêm rầm rập như là đất rung” đặc tả sự lớn mạnh
nhanh chóng, vượt bậc và khí thế ra trận hào hùng, ngút trời của đoàn quân và dân
ta. Không phải ngẫu nhiên mà tác giả lại chọn thời điểm ban đêm. Trong cuộc
sống, đêm là lúc yên bình, tĩnh mịch, vạn vật đã chìm vào giấc ngủ say nông
nhưng trong kháng chiến, đêm thường là điểm khởi đầu của những hoạt động,
chiến dịch chuẩn bị cho ngày mai thắng lợi. Trong màn đêm bao la bao phủ, trùm
khắm, đoàn quân của ta ra trận rầm rập như vũ bão khiến đất rung, trời lở. Với
những từ láy rắn rỏi, hình ảnh so sánh, phóng đại, nhịp thơ đanh thép, chắc khỏe
kết hợp với những phụ âm rung, câu thơ bật lên âm hưởng khỏe khoắn hùng tráng
góp phần tái hiện sống động cuộc diễu binh hùng vĩ. Có thể nói, tinh thần chiến
đấu quả cảm, khí thế ra trận hào hùng của cha ông trong suốit bồn nghìn năm dựng
nước, giữ nước đã sống dậy trong ngày tháng ra trận.
Chúng ta từng tự hào trước các tráng sĩ thời Trần mang tinh thần Sát Thát,
về nghĩa quân Lam Sơn với sức mạnh Đánh một trận sạch không kình ngạc – Đánh
hai trận tan tác chim muông. Và cho đến bây giờ, chúng ta lại càng tự hào về cuộc
kháng chiến thần thánh của thời đại cách mạng:
Quân đi điệp điệp trùng trùng
Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan
Hai từ láy “điệp điệp" và “trùng trùng" đi liền nhau ở câu thơ có sức gợi tả
đó, nó vừa gợi lên hình ảnh của một đoàn quân đông đúc, vừa gợi lên sức mạnh,
khí thế hào hùng của một đoàn quân. Đoàn quân ra mặt trận hùng tráng, mang cả
sức mạnh của lòng yêu nước, của lí tưởng cách mạng, khát khao chiến đấu và
chiến thắng quân thù. Câu thơ thứ hai được ngắt theo nhịp 4/4: "Ánh sao đầu
súng / bạn cùng mũ nan" càng làm tăng thêm vẻ đẹp của người lính - một vẻ đẹp
vừa mang tính lãng mạn vừa mang tính hiện thực sâu sắc. Hình ảnh “Ánh sao đầu
súng" có thể là hình ảnh ánh sao trời treo trên đầu súng của những người lính trong
mỗi đêm hành quân như "Đầu súng trăng treo” trong bài thơ Đồng chí của Chính
Hữu; “ánh sao đầu súng" ấy cũng có thể là ánh sáng của ngôi sao gắn trên chiếc
mũ nan của người lính, ánh sáng của lí tưởng cách mạng soi cho người lính bước
đi, như nhà thơ Vũ Cao trong bài Núi đôi đã viết: “Anh đi bộ đội sao trên mũ Mãi
mãi là sao sáng dẫn đường”.
Góp phần vào sự hào hùng của cuộc kháng chiến chống Pháp của dân tộc ta
không chỉ có bước chân thần tốc của những chiến binh tinh nhuệ mà còn có sự góp
công góp sức của cả một tập thể quần chúng nhân dân anh hùng:
Dân công đỏ cuốc từng đoàn
Bước chân nát đá, muôn tàn lửa bay
Họ như là những người chiến sĩ thực thụ, một lực lượng hùng hậu mang sức
mạnh của tinh thần đoàn kết. Với nhiệm vụ vận chuyển lương thực, súng đạn để
phục vụ cho chiến trường, họ cũng mang vẻ đẹp hào hùng và đầy lạc quan không
kém những người lính.
Bằng một cách nói cường điệu “Bước chân nát đá ”, nhà thơ đã làm nổi bật
sức mạnh của tinh thần yêu nước, yêu lí tưởng cách mạng, ý chí quyết tâm đánh
thắng quân thù của người nông dân lao động. Những người nông dân đôn hậu, chất
phác, lớn lên từ bờ tre, gốc lúa ấy đã đi vào cuộc kháng chiến với tất cả những tình
cảm và hành động cao đẹp, họ bất chấp những hi sinh, gian khổ, chấp mưa bom
bão đạn của quân thù, đạp bằng mọi trở lực để đi theo tiếng gọi của lòng yêu nước
và lí tưởng cách mạng như nhà thơ Nguyễn Đình Thi đã nói trong bài Đất Nước:
“Ôm đất nước những người áo vải /Đã đứng lên thành những anh hùng”.
Với bước chân nát đá, muôn tàn lửa bay ấy, núi rừng như bừng thức. sự im
lặng, tăm tối bỗng bị xé toang bởi ánh sáng đèn pha:
Nghìn đêm thăm thẳm sương dày
Đèn pha bật sáng như ngày mai lên
Hình ảnh so sánh trong câu: Đèn pha bật sáng như ngày mai lên đặt trong thế đối
sánh tương phản với tình cảnh nô lệ của đất nước “ Nghìn đêm thăm thẳm sương
dày”, thoạt nghe có vẻ cường điệu nhưng phải so sánh như thế thì nhà thơ mới nói
hết được niềm phấn chấn đang tràn ngập lòng người trước sự lớn mạnh vượt bậc
của quân đội ta khi cuộc kháng chiến đang bước vào giai đoạn thắng lợi cuối cùng.
Câu thơ cũng thể hiện niềm tin vào một tương lai tốt đẹp đang đến rất gần ngay
trước mặt, khiến người người hân hoan vui sướng.
Khúc hùng ca Việt Bắc ra trận được khép lại bằng tiếng reo ca khi toàn
thắng về ta:
Tin vui thắng trận trăm miền
Hòa Bình, Tây Bắc, Điện Biên vui về
Vui từ Đồng Tháp, An Khê
Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng
Điệp từ “vui” được điệp đi, điệp lại nhiều lần cùng với nhịp thơ ngắn, nhanh mạnh
tạo nên âm hưởng hào sảng, hùng tráng. Những cụm vui từ, vui về, vui lên tạo nên
không khí phấn chấn, vui tươi, hồ hởi. Từ Việt Bắc, tốc độ của chiến thắng bùng
lên, chiến thắng nối tiếp chiến thắng, niềm vui gọi niềm vui. Điểm đáng chú ý
trong đoạn thơ là việc liệt kê hàng loạt các địa danh mà không làm mất đi sự hấp
dẫn của đoạn thơ. Nếu ở Tây Tiến, những địa danh của Quang Dũng xuất hiện với
niềm thương nỗi nhớ thì Tố Hữu lại gọi tên những địa danh lừng lẫy chiến công
với niềm vui sướng, tự hào như lan tỏa ra mênh mông. Có thể nói, đây là điểm độc
đáo, làm nên giọng điệu hào sảng trong thơ Tố Hữu.

Việt Bắc trong kháng chiến là đoạn trích tái hiện không khí đấu tranh hào
hùng, oanh liệt của quân và dân Việt Bắc trong trận chiến Điện Biên Phủ lừng lẫy
tiếng tăm. Người đọc cảm nhận được chất sử thi qua không gian trải dài của
những con đường Việt Bắc, của núi rừng trùng điệp, không gian của tụ họp trong
tình nghĩa quân dân, qua thời gian lịch sử được đo dếm bằng số từ “nghìn đêm”,
diễn tả một quá trình lâu dài trong thăm thẳm sương dày, đấu tranh kiên cường để
bảo vệ đất nước của quân và dân. Khác với giọng thơ trữ tình mềm mại ở những
đoạn thơ trên, đoạn trích mang giọng điệu khỏe khoắn, hùng tráng, khơi gợi cảm
xúc tự hào, ngưỡng mộ của độc giả.
Hình tượng nhân vật được xây dựng trong đoạn trích đó là tập thể đoàn quân
“điệp điệp trùng trùng” cùng với “dân công đỏ đuốc từng đoàn. Đó là tập thể quân
và dân mang sức mạnh quật cường “ bước chân nát đá muôn tàn lửa bay” đạp
bằng mọi thử thách gian lao, tiến về phía trước bằng sức mạnh của ý chí, của tinh
thần đoàn kết đấu tranh. Tất cả hòa làm một tạo nên bức tượng đài sừng sững về
tập thể dân tộc anh hùng Việt Nam trong cuộc đấu tranh chống xâm lược.
Trong đoạn trích, ta dễ dàng thấy được chất sử thi qua hàng loạt các từ láy
tượng thanh, từ láy tượng hình, những từ ngữ vốn có khả năng khơi gợi những
rung cảm mạnh mẽ như “rầm rập”, “điệp điệp, trùng trùng”, “ thăm thẳm” kết hợp
với lối so sánh ví von “đêm đêm rầm rập như là đất rung”, “đèn pha bật sáng như
ngày mai lên” cả cách nói khoa trương phóng đại “ bước chân nát đá” và hàng loạt
các từ ngữ cực tả không khí khẩn trương, gấp gáp ào ào như thác lũ của cuộc tổng
tiến công chống kẻ thù xâm lược “nghìn đêm, muôn tàn lửa bay, trăm miền…Tất
cả đều góp phần làm ổi bật khí thế đấu tranh của bộ đội và nhân dân Việt Bắc,
mang hào khí của những trận chiến sát thát của nghìn năm trước.
Với lối thơ lục bát ngọt ngào như ca dao, với chất thơ trữ tình cách mạng,
thật sôi nổi, hào hùng, thiết tha, nhà thơ Tố Hữu trong đoạn thơ này đã thể hiện nổi
bật khí thế đấu tranh quật cường của quân và dân ta trong cuộc kháng chiến chống
Pháp ở Việt Bắc, làm sống lại một thời đại hào hùng mang tinh thần của cuộc
chiến chống giặc Mông Nguyên thủa nào. Đồng thời, đoạn thơ còn thể hiện niềm
lạc quan cách mạng, ý chí chiến đấu và chiến thắng kẻ thù, làm nên những chiến
thắng vẻ vang, mang niềm vui về cho dân tộc. Những dòng thơ mang đậm chất sử
thi đã gieo vào lòng người đọc niềm tự hào về sức mạnh dân tộc, làm thức dậy tình
yêu quê hương đất nước và lối sống trách nhiệm với quê hương ở thế hệ trẻ hôm
nay và mãi mai sau.

ĐỀ 6: Người lính là đề tài quen thuộc, thế nhưng mỗi nhà thơ lại có cách khám
phá và thể hiện riêng. Trong bài Tây Tiến, Quang Dũng viết:
Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
Trong thi phẩm Việt Bắc, Tố Hữu viết:
Những đường Việt Bắc của ta
Đêm đêm rầm rập như là đất rung
Quân đi điệp điệp trùng trùng
Ánh sao đầu súng bạn cũng mũ nan
Cảm nhận của anh/chị về vẻ đẹp của hình tượng người lính được khắc hoạ qua hai
đoạn thơ trên.
BÀI LÀM
Lịch sử dân tộc là lịch sử được vẽ bằng thanh gươm và giọt máu. Chính những
cuộc trường chinh, vệ quốc đã khắc tạc trong ta những hình ảnh quen thuộc mà lẫm
liệt về người lính. Đó là người lính với sức mạnh át cả ngưu đẩu trong Tỏ lòng của
Phạm Ngũ Lão, người lính với sức mạnh kỳ vĩ: “đánh một trận sạch không kình
ngạc, đánh hai trận tan tác chim muông” trong Bình Ngô đại cáo của Nguyễn
Trãi. Người lính nông dân “miệng cười buốt giá, chân không giày” trong Đồng chí
của Chính Hữu. Và chắc chắn không thể thiếu hình tượng người lính dữ oai hùm
trong Tây Tiến của Quang Dũng, đoàn quân điệp trùng ánh sao trong Việt Bắc của
Tố Hữu.
Quang Dũng và Tố Hữu đều là những nhà thơ lớn, cùng trải qua những đau
thương và khốc liệt trong chiến tranh, cho nên, điểm giao thoa giữa họ là khắc tạc
những hình tượng nghệ thuật về người lính, về nhà thơ Quang Dũng, ông không
chỉ được biết tới với tư cách là một nhà thơ, mà còn là người nghệ sĩ đa tài. Gắn
mình với cuộc kháng chiến chống Pháp và tự bản thân lớn lên trong cuộc chiến
tranh vệ quốc khốc liệt đó, Quang Dũng đã cho ra đời những tác phẩm hay nhất
đời mình. Quang Dũng mang hồn thơ bay bổng, phóng khoáng, hào hoa đầy lãng
mạn, tha thiết tình cảm dành cho bạn bè, cho quê hương xứ sở. Thơ Quang Dũng
nằm giữa biên giới của thật và mơ, như khói như mây mờ mờ ảo ảo, như tiếng
vọng từ chân trời nào xa vắng... Tây Tiến - một bài thơ nói về vùng đất phía tây tổ
quốc hùng vĩ và tuyệt vời thơ mộng, cùng một đoàn binh có lắm nét khác thường
từ thành phần tham gia đến nhiệm vụ được giao và những nếm trải suốt dọc hành
trình. Viết Tây Tiến chính là viết về một đoạn đời của thi nhân. Hay nói cách khác,
mảnh ký ức, kỉ niệm của Quang Dũng cũng là của đất nước, lịch sử - một giai đoạn
gian khó hào hùng không thể nào quên.
Còn nói đến Tố Hữu là nhắc đến nhà thơ lớn của dân tộc, cánh chim đầu đàn
của nền thơ ca cách mạng Việt Nam. Về phong cách nghệ thuật: Tố Hữu là nhà thơ
trữ tình chính trị thể hiện nồng nhiệt tự hào lý tưởng cách mạng, đời sống cách
mạng của Nhân dân ta. Thơ Tố Hữu chủ yếu mang khuynh hướng sử thi và cảm
hứng lãng mạn, màu sắc lịch sử được diễn tả bằng bút pháp lãng mạn, hình tượng
thơ kì vĩ, tráng lệ. Nét đặc sắc trong thơ Tố Hữu là có giọng điệu riêng. Thơ liền
mạch, nhất khí tự nhiên, giọng tâm tình, ngọt ngào tha thiết. Thi phẩm Việt Bắc
được viết nhân một sự kiện chính trị có ý nghĩa lịch sử. Tháng 10 - 1954 Trung
ương Đảng và Chính phủ rời Việt Bắc (thủ đô kháng chiến) về thủ đô Hà Nội. Sau
bao nhiêu năm chung sống ở mảnh đất Việt Bắc, sống trong tình quân dân chan
hòa nồng thắm ấy thế mà nay những người chiến sĩ đành phải cất bước ra đi. Cảm
xúc cũng như những ưu tư chính là xuất phát điểm để bài thơ được ra đời.
Tây Tiến của Quang Dũng là dòng hồi ức vô cùng thương nhớ về những đồng
đội, chính vì thế Quang Dũng đã sử dụng hệ thống ngôn ngữ giàu hình ảnh, hàng
loạt những thủ pháp như tương phản, nhân hoá, tăng cấp ý nghĩa để tạo ấn tượng
mạnh để khắc tạc một cách sâu sắc vào tâm trí người đọc hình ảnh những người
con anh hùng của đất nước, của dân tộc. Đó là bức tượng đài sừng sững giữa núi
cao sông sâu, giữa một không gian hùng vĩ
“Tây Tiến đoàn bỉnh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm”
Hai câu thơ trần trụi như hiện thực chiến tranh những năm tháng kháng chiến
chống Pháp. Hình ảnh đoàn quân “không mọc tóc” vừa gợi nét bi hài vừa phản ánh
cái khốc liệt của chiến tranh. Cái hình hài không lấy gì làm đẹp “không mọc tóc”,
“xanh màu lá” tương phản với nét “dữ oai hùm”. Bằng bút pháp tài hoa, Quang
Dũng làm bật chí khí hiên ngang, tinh thần quả cảm xung trận của các chiến binh
Tây Tiến từng làm quân giặc khiếp sợ. “Dữ oai hùm” là hình ảnh ẩn dụ nói lên chí
khí của người lính Tây Tiến, tuy các chiến sĩ có gầy, xanh nhưng không hề yếu, chí
khí của người lính vẫn như con hổ nơi rừng xanh. Cái tài của Quang Dũng là khắc
họa chân dung bên ngoài của chiến sĩ Tây Tiến tuy gầy, xanh nhưng vẫn toát lên
được cái oai phong, khí phách. Nếu như ở những đoạn thơ trước đó người lính mới
chỉ hiện ra trong đoàn quân mỏi trong câu: “Sài Khao sưong lấp đoàn quân mỏi”,
nay trong khung cảnh hết sức lãng mạn trong đêm liên hoan, đêm lửa trại thắm tình
cá nước thì ở đây là hình ảnh đoàn binh không mọc tóc da xanh như lá rừng. Cảm
hứng chân thực của Quang Dũng đã không né tránh việc mô tả cuộc sống gian khổ
mà người lính phải chịu đựng. Vẻ ngoài dường như rất tiều tụy, nhưng thế giới tinh
thần của người lính lại cho thấy họ chính là những người chiến binh anh hùng, họ
còn chứa đựng cả một sức mạnh áp đảo quân thù, họ dũng mãnh như hổ báo, hùm
beo. Cái giỏi của Quang Dũng là mô tả người lính với những nét khắc khổ tiều tụy
nhưng vẫn gợi ra âm hưởng rất hào hùng của cuộc sống. Bởi vì câu thơ “Tây Tiến
đoàn binh không mọc tóc” với những thanh trắc rơi vào trọng âm đầu của câu thơ
như “tiến”, “mọc tóc”. Nhờ những thanh trắc ấy mà âm hưởng của câu thơ vút
lên. Chẳng những thế, họ còn là cả một đoàn binh. Hai chữ “đoàn binh” âm Hán
Việt đã gợi ra một khí thế hết sức nghiêm trang, hùng dũng. Và đặc biệt hai chữ
“Tây Tiến” mở đầu câu thơ không chỉ còn là tên gọi của đoàn binh nữa, nó gợi ra
hình ảnh một đoàn binh dù đầu không mọc tóc vẫn đang quả cảm tiến bước về phía
Tây. Thủ pháp tương phản mà Quang Dũng sử dụng ở câu thơ “Quân xanh màu lá
dữ oai hùm” không chỉ làm nổi bật lên sức mạnh tinh thần của người lính mà còn
thấm sâu màu sắc văn hoá của dân tộc. Ở đây, nhà thơ không chỉ muốn nói rằng
những người lính Tây Tiến như chúa sơn lâm, không phải muốn “động vật hoá”
người lính Tây Tiến mà muốn nói tới sức mạnh bách chiến bách thắng bằng một
hình ảnh quen thuộc trong thơ văn xưa. Phạm Ngũ Lão cũng ca ngợi người anh
hùng vệ quốc trong câu thơ:
“Hoành sóc giang san cáp kỷ thu
Tam quan kỳ hố khí thôn ngưu”
Và ngay cả Hồ Chí Minh trong Đăng sơn cũng viết:
“Nghĩa binh tráng khí thôn Ngưu Đẩu
Thệ diệt sài lang xâm lược quân”
Có thế nói Quang Dũng đã sử dụng một mô típ mang đậm màu sắc phương
Đông để câu thơ mang âm vang của lịch sử, hình tượng người lính cách mạng gắn
liền với sức mạnh truyền thống của dân tộc. Đọc câu thơ: “Quân xanh màu lá dữ
oai hùm” ta như nghe thấy âm hưởng của hào khí ngút trời Đông A.
“Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”
Các chiến sĩ Tây Tiến mộng và mơ gửi về hai phía chân trời: biên giới và Hà
Nội, biên giới là nơi còn đầy bóng giặc, Hà Nội là nơi còn đó những kỉ niệm,
những người thân thương,... Chiến sĩ Tây Tiến vốn là những thanh niên Hà Nội
“xếp bút nghiên theo việc đao, cung”, họ là những chàng thanh niên trẻ hào hoa,
lãng mạn và đa tình. Khi xa Hà Nội, tiến về Tây Bắc đế thực hiện nhiệm vụ thì các
chiến sĩ luôn “Ngàn năm thương nhớ đất Thăng Long”. Sống giữa chiến trường ác
liệt nhưng tâm hồn các anh luôn hướng về Hà Nội, mơ về Hà Nội. Hình ảnh “dáng
kiều thơm” của Quang Dũng đem đến cho người đọc nhiều điều thú vị, đặc tả được
chất lính trẻ trung, hào hoa, lãng mạn của binh đoàn Tây Tiến trong trận mạc. Đã
một thời, với cái nhìn ấu trĩ, người ta phê phán thói tiểu tư sản, thực ra nhờ vẻ đẹp
ấy của tâm hồn mà người lính có sức mạnh vượt qua mọi gian khổ, người lính trở
thành một biểu tượng cho vẻ đẹp của con người Việt Nam. Quang Dũng đã tạo nên
một tương phản hết sức đặc sắc – những con người chiến đấư kiên cường với ý chí
sắt thép cũng chính là con người có một đời sống tâm hồn phong phú. Người lính
Tây Tiến không chỉ biết cầm súng cầm gươm theo tiếng gọi của non sông mà còn
rất hào hoa, giữa bao nhiêu gian khổ, thiếu thốn trái tim họ vẫn rung động trong
một nỗi nhớ về một dáng kiều thơm, nhớ về vẻ đẹp của Hà Nội – Thăng Long xưa.
Nguyễn Đình Thi từng nói, đại ý, trọn đời, Tố Hữu là nhà thơ và làm thơ về
cách mạng, và thơ Tố Hữu luôn thiết tha, dịu dàng với quê hương đất nước và con
người của đất nước quê hương. Ngày Tố Hữu ra đi, Nguyễn Đình Thi từng nói
vậy, và ta cảm thấy thật xúc động, tự hào vì điều đó. Ngay cả trong những vần thơ
nói về khí thế ra trận, miêu tả cảnh hùng hồn, hào hùng của dân tộc, ta vẫn luôn
cảm thấy chút dịu dàng rất Huế ông gửi gắm vào người Việt Nam mình. Và thật
đặc biệt khi ta tìm ra điều đó được viết trong khổ thơ đặc tả khung cảnh ra trận
trong bài thơ Việt Bắc.
“Những đường Việt Bắc của ta
Đêm đêm rầm rập như là đất rung
Quân đi điệp điệp trùng trùng
Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan”
Chỉ vài nét phác họa khung cảnh hùng tráng của cuộc kháng chiến ở Việt Bắc,
Tố Hữu đã cho người đọc cảm nhận được khí thế hào hùng, mạnh mẽ của khối
đoàn kết toàn dân toàn diện, sự hoà quyện gắn bó giữa thiên nhiên với con người –
tất cả tạo thành hình ảnh đất nước đứng lên chiến đấu vì độc lập, tự do, vì hạnh
phúc, tương lai của dân tộc. Đêm đêm, những bước chân hành quân “rầm rập”,
làm rung chuyển cả đất trời, bước chân của những người khổng lồ đội trời đạp đất,
làm nên những kì tích anh hùng. Khí thế bừng bừng của quân ta được miêu tả hết
sức sinh động: Các từ láy có giá trị tượng thanh, tượng hình: “rầm rập”, “điệp
điệp”, “trùng trùng”, biện pháp so sánh “như là đất rung” diễn tả được không khí
hồ hởi, sôi sục trong những ngày hành quân ra mặt trận, làm nổi bật được sức
mạnh cuộn như thác lũ của quân ta. Tưởng chừng như nơi đây đang diễn ra một
cơn địa chấn làm long trời lở đất báo hiệu những đòn sấm sét sắp giáng xuống đầu
kẻ thù. Khí thế càng được thể hiện rõ nét hơn, từ “điệp trùng” được tách ra thành
“điệp điệp ” “trùng trùng” thể hiện một số lượng rất lớn đoàn dân công đang tiến
quân ra trận. Có thể nói, chỉ hai câu mà tạo nên bức phù điêu điệp trùng, hùng vĩ
của Việt Bắc kháng chiến. Không khí kháng chiến, không khí lịch sử được tái hiện
qua màu sắc thần kì sử thi. Đoàn quân ra trận đông đảo, người người lớp lớp, như
sóng cuộn “điệp điệp trùng trùng”. Có “ánh sao đầu súng” soi chiếu lý tưởng, đó
là đội quân bất khả chiến bại. Hình ảnh hoán dụ “ánh sao đầu súng” thật giống với
hình ảnh “đầu súng trăng treo” của Chính Hữu. Một hình ảnh lãng mạn, tráng lệ,
tuyệt đẹp. Đó là những người chiến sĩ giải phóng quân đang ngày đêm ra trận, hình
ảnh họ không chỉ kiêu hùng, mà còn thật lãng mạn. “Ánh sao đầu súng” sóng đôi
cùng “bạn cùng mũ nan” có thể là mũ của những người dân công hỏa tuyến, họ
đang sát cánh cùng nhau ra trận, những hình ảnh này đặt cạnh nhau đột nhiên ta
thấy thật nên thơ. Càng tô điểm thêm khối sức mạnh vĩ đại của toàn dân tộc.
Cùng nhìn lại hai hình tượng người lính được khắc tạc qua hai thi phẩm, có thể
thấy họ có những điểm chung và riêng. Trước tiên họ đều hiện lên trong sức mạnh
của ý chí phi thường, sức mạnh của niềm tin tưởng. Những người chiến sĩ đều bật
lên vẻ đẹp của lý tưởng, về sự ý thức và trách nhiệm. Họ là những con người gánh
vác đại nghiệp, là người tiên phong, là sức mạnh mũi nhọn chiến đấu chống lại kẻ
thù xâm lược. Tuy nhiên, lính Tây Tiến được hiện lên trong cái nhìn cận cảnh, cụ
thể, được hiện lên qua sự trần trụi đến tàn khốc của chiến tranh, nhưng ẩn sau vẻ
bề ngoài thô ráp là tâm hồn lãng mạn và hết sức hào hoa. Còn trong Việt Bắc, nhà
thơ không tả cận mà tả ở cấp độ khái quát, cho nên, hình ảnh đoàn quân hiện lên
trùng điệp như núi non, thác lũ. Sức mạnh nơi họ là sức mạnh của khối đoàn kết to
lớn, của lý tưởng mạnh mẽ, tầm vóc vũ trụ. Với Quang Dũng, ông khắc hoạ người
lính qua bút pháp lãng mạn, đầy bay bổng, tạo nên chất riêng của người lính trẻ Hà
thành. Với Tố Hữu, ông sử dụng bút pháp của sử thi, tạc dựng nên bức tượng đài
kỳ vĩ, sức mạnh lớn lao trong không gian rộng lớn của núi rừng. Nó phù hợp với
không khí ra trận những ngày tháng hào hùng, chói lọi.
Cùng biểu hiện hình ảnh những đoàn quân ra trận nhưng cảm hứng từ hai nhà
thơ rất khác nhau. Chính vì vậy mà hình ảnh người lính thời chống Pháp hiện lên
trong hai đoạn thơ vừa có điểm chung vừa có điểm riêng biệt mang đến cho người
đọc những ấn tượng khó phai nhòa.

ĐẤT NƯỚC ( Nguyễn Khoa Điềm)


ĐỀ 1:
Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa...” mẹ thường hay kể
Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc
Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Cái kèo, cái cột thành tên
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, dần, sàng
Đất nước có từ ngày đó...
(Trích: Đất Nước – Nguyễn Khoa Điềm)
Anh/chị hãy phân tích đoạn thơ trên. Từ đó nhận xét về nét độc đáo trong ngòi bút
thơ Nguyễn Khoa Điềm.
BÀI LÀM:
Quê hương là gì hở mẹ
Mà cô giáo dạy phải yêu
Quê hương là gì hở mẹ
Mà ai đi xa cũng nhớ nhiều
Quê Hương, Đất Nước , hai tiếng giản đơn thân thuộc mà luôn chạm vào
đáy sâu tâm hồn con người mỗi khi nhắc đến. Mỗi vần thơ ngợi ca đất nước – quê
hương đều khiến trái tim ta ngân lên những giai điệu tự hào, phấn chấn. Đó là một
đất nước mang « hình tia chớp » trong thơ Trần Mạnh Hảo, một Đất nước bền gang
bất khuất « rũ bùn đứng dậy sáng lòa » trong thơ Nguyễn Đình Thi, một đất nước
« Sống vững chãi bốn ngàn năm sừng sững - Lưng đeo gươm tay mềm mại bút
hoa » trong cái nhìn của Huy Cận. Có thể nói rằng , muốn viết những vần thơ
tuyệt vời về Đất nước không chỉ đơn thuần là nhà thơ biết rung động trước một
vầng trăng, một tia nắng, một điệu dân ca hay một tiếng thơ cổ điển... Mà trên hết,
đó là một tình yêu chân thật, nồng nàn và một ý thức tự tôn dân tộc, gắn sứ mệnh
của mình với vận mệnh của non sông. Cùng viết về đề tài này, ở đoạn thơ “Đất
Nước” (trích trong chương V trường ca “Mặt đường khát vọng”), Nguyễn Khoa
Điềm đã chọn một lối đi riêng đem đến cho người đọc những trải nghiệm mới mẻ,
độc đáo trong cách lí giải về đất nước. Điều đó thể hiện rõ nét qua đoạn thơ sau :
“Khi ta lớn lên đất nước đã có rồi

Đất Nước có từ ngày đó…”
Tác phẩm được trích từ Trường ca “Mặt đường khát vọng” viết năm 1971 tại
chiến khu Trị - Thiên giữa lúc cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước đang ở giai
đoạn cam go, ác liệt nhất. Với giọng thơ thủ thỉ tâm tình vừa nồng nàn tha thiết vừa
suy tư sâu lắng, thi sĩ đã lí giải về Đất Nước thật giản dị, mộc mạc, gần gũi mà thú
vị, đầy bất ngờ. Từng dòng thơ như thức tỉnh ý thức trách nhiệm của thế hệ trẻ về
tinh thần yêu nước, sẵn sàng đứng dậy đấu tranh để bảo vệ tổ quốc.
Nếu hai tiếng « quê hương » gợi trong ta những xúc cảm dịu dàng, gợi về
miền nhớ miền thương với sự gần gũi quê mùa như những câu thơ đậm chất đồng
nội của nhà thơ Đỗ Trung Quân : Quê hương là chùm khế ngọt, Quê hương là
vàng hoa bí/ Là hồng tím giậu mồng tơi/ Là đỏ đôi bờ dâm bụt… thì hai từ Đất
Nước lại gợi ra cái thâm nghiêm, kì vĩ, cái hoành tráng , kiêu hùng trong lòng
người. Nhưng thật lạ kì khi ta bắt gặp những vần thơ trong « Đất Nước » của
Nguyễn Khoa Điềm, cái cảm giác gần gũi thân thuộc của mùi rơm rạ, của sắc áo
nông dân, của bờ tre giếng nước quê hương cứ ăm ắp đầy lên, mơn man và dịu
ngọt biết mấy.
Bằng giọng thơ thủ thỉ trò chuyện trong vai trò của lớp người anh đi trước,
Nguyễn Khoa Điềm đã khéo léo « giác ngộ » cho người em về ý thức trách nhiệm
với Đất Nước. Từng lời giải thích nhẹ nhàng tự nhiên như lời ăn tiếng nói thường
ngày mà gợi nhiều suy tư sâu lắng. Hẳn người em sẽ không cảm thấy nặng nề khó
hiểu :
Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
Có lẽ em chưa hiểu rằng đất nước có từ bao giờ, hoặc cũng có thể câu hỏi đó
là điểm xuất phát mà Nguyễn Khoa Điềm chọn để bắt đầu cho một câu chuyện dài
về Đất Nước. Theo cách giải thích của Nguyễn Khoa Điềm thì : Đất nước là một
giá trị lâu bền, vĩnh hằng; đất nước được tạo dựng, được bồi đắp qua nhiều thế hệ,
được truyền nối từ đời này sang đời khác. Cho nên “khi ta lớn lên đất nước đã có
rồi!” (Nguyễn Khoa Điềm – Tác giả và Tác phẩm). Cách nói ấy đã thể hiện niềm
tự hào mãnh liệt về sự trường tồn của đất nước qua mấy ngàn năm lịch sử. Đất
Nước cũng như Trời và Đất, khi ta sinh ra Đất đã ở dưới chân, Trời đã ở trên đầu.
Hiểu Đất Nước phải đi từ cội nguồn của bốn nghìn năm trước. Nhưng khác với tư
duy thông thường, câu trả lời của nhà thơ không phải là một mốc thời gian cụ thể
nào mà đưa em vào không gian cổ xưa huyền thoại, để rồi tự em sẽ cảm nhận
được cả chiều dài lịch sử và bề dày của văn hóa quê hương :
Đất Nước có trong những cái ngày xửa ngày xưa mẹ thường hay
kể
Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc
Các mốc thời gian hình thành nên Đất Nước như thời điểm ra đời, bắt đầu
xây dựng và lớn lên, tất cả đều được nhà thơ hình ảnh hóa, cổ tích hóa bởi những
thứ thật gần gũi, thân thương. Tác giả mượn chất liệu văn học dân gian để giải
thích sự ra đời của Đất Nước bằng một cách diễn đạt thật lạ. ‘Đất Nước có trong
những cái ngày xửa ngày xưa mẹ thường hay kể’. Đối với trẻ thơ, Đất Nước thân
thương qua lời kể “Ngày xửa ngày xưa” của bà của mẹ…Có nghĩa là Đất Nước đã
có từ lâu đời; Đất Nước có từ trước khi những câu truyện cổ ra đời và hiện hữu
ngay trong những câu chuyện cổ tích mà em đã thuộc nằm lòng. Chính những câu
chuyện cổ và những bài hát ru thuở ta còn nằm nôi là nguồn sữa ngọt lành nuôi
dưỡng tâm hồn nhân hậu, bao dung của con người nước Việt. Thật đáng trân trọng
biết bao !
Đất Nước cũng có những ngày đầu phát triển bình dị và tự nhiên như
« miếng trầu bây giờ bà ăn »- một miếng trầu nhỏ bé đơn sơ thôi nhưng gọi về cả
nền văn hóa bốn nghìn năm của lịch sử dân tộc. Miếng trầu là hiện thân của lịch
sử, hiện thân của những giá trị văn hóa đẹp đẽ còn tồn tại đến ngày nay. Đó là
minh chứng cho tục ăn trầu từ nghìn đời « miếng trầu là đầu câu chuyện » « Miếng
trầu nên dâu nhà người », là minh chứng cho tấm lòng thủy chung son sắt, trọng
tình trọng nghĩa của hai anh em họ Cao và nàng Lưu thị trong « Sự tích trầu cau ».
Quả thật, chỉ một hình ảnh giản dị là thế mà sức gợi vô cùng!
Cách dùng từ giản đơn « Đất Nước lớn lên » khiến ta có cảm giác Đất Nước
như một cơ thể sống, được nuôi dưỡng bằng nền văn hóa phong phú đẹp đẽ, nhưng
cũng trải qua bao thử thách : ‘Thương đất nước trên ba ngàn hòn đảo/ Suốt ngàn
năm bóng giặc vẫn chập chờn’ (Nguyễn Việt Chiến). Và Đất Nước ấy vẫn lớn lên
theo kinh nghiệm « trồng tre mà đánh giặc, chủ động, cảnh giác trước quân
thù. Cách nói gợi liên tưởng sâu sắc đến chiều dài lịch sử giữ nước của dân tộc,
nhắc người em nhớ đến truyền thống đánh giặc của quê hương với hình ảnh vị Phù
Đổng Thiên vương nhổ tre làm vũ khí quét sạch bóng quân thù. Rồi Tre mọc bạt
ngàn trên khắp quê hương như thành như lũy vây chắn bước chân giặc ngoại xâm.
Nó như là sự đồng hiện những phẩm chất trong cốt cách con người Việt Nam: thật
thà chất phác, đôn hậu thuỷ chung, yêu chuộng hoà bình nhưng cũng kiên cường
bất khuất trong tranh đấu. Hình ảnh thân thương mà thể hiện ý chí bền gan, bất
khuất ấy đã trường tồn cùng Đất Nước từ thủa sơ khai đã chạm đến trái tim của
người em, làm sống dậy một lòng yêu nước và tự hào về truyền thống văn hóa,
truyền thống đánh giặc của quê hương.
Ai đó đã từng nói « Quê hương là nơi chân ta có thể rời đi nhưng tim ta vẫn
mãi ở đó ». Thật vậy, bởi đó là mảnh đất êm dịu dung dưỡng tâm hồn ta, nhắc ta
nhớ về nguồn cội, giống nòi. Ở đó có mẹ cha ta, có những kỉ niệm tuổi thơ ta ngọt
ngào, sâu lắng :
Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Cái kèo, cái cột thành tên
Còn gì thân thiết hơn, cảm xúc hơn hình ảnh người mẹ trong tim ta. Nét
đẹp bình dị chân quê, không phấn son điểm trang, không trau chuốt lụa là, mà chỉ
đơn giản trong chiếc áo bà ba đã ngả màu, ống quần luôn xắn lên cao, còn mái tóc
lúc nào cũng búi lên gọn gàng sau đầu khi làm việc... hình ảnh đó dẫu đơn sơ
nhưng lại trở thành biểu tượng văn hóa Việt, nét đẹp Việt, khiến lòng ta ngập tràn
thương mến.
Nét đằm thắm dịu dàng cùng tấm lòng thủy chung son sắt trong nghĩa vợ
tình chồng đã làm nên vẻ đẹp rất riêng của người phụ nữ Việt Nam. Nguyễn Khoa
Điềm đã khéo léo tôn lên vẻ đẹp ấy chỉ với vài nét chấm phá, chọn lọc tinh tường
bằng một giọng thơ vừa khẳng định đinh ninh, vừa tự hào sâu sắc. Câu thơ cũng
đưa ta về miền văn hóa Kinh Bắc xưa với những câu ca đậm tình đậm nghĩa như
thế :
“Tay bưng đĩa muối chén gừng
Gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau”
Hay:
“Muối ba năm muối đang còn mặn
Gừng chín tháng gừng hãy còn cay
Đôi ta tình nặng nghĩa đầy
Dù ba vạn sáu ngàn ngày cũng chẳng xa”
Thành ngữ “gừng cay muối mặn” được vận dụng một cách đặc sắc trong
câu thơ nhẹ nhàng mà thấm đượm biết bao ân tình. Nó gợi lên được ân nghĩa thủy
chung ở đời. Quy luật của tự nhiên là gừng càng già càng cay, muối càng lâu năm
càng mặn. Quy luật trong tình cảm con người là con người sống với nhau lâu năm
thì tình nghĩa càng đong đầy.
Từ cha mẹ thương nhau mới đi đến “Cái kèo cái cột thành tên”. Câu thơ gợi
nhắc cho người đọc nhớ đến tục dựng nhà của người Việt xưa. Đó là tục làm nhà
sử dụng kèo cột giằng giữ vào nhau làm cho nhà vững chãi, bền chặt tránh được
mưa gió, thú dữ. Cái kèo, cái cột bởi thế cũng trở thành quen thuộc, gắn bó với mỗi
thành viên trong gia đình, thậm chí, nó còn trở thành những cái tên mộc mạc, giản
đơn đi suốt cuộc đời một con người.
Không chỉ đằm thắm thủy chung trong tình cảm gia đình, người dân ta cũng
còn mang những vẻ đẹp tuyệt vời trong lao động, tăng gia sản xuất :
Hạt gạo cũng phải một nắng hai sương xay, giã, dần, sàng…
Câu thơ sử dụng hàng loạt các động từ chỉ hoạt động lao động làm ra hạt lúa
của người nông dân « xay, giã, dần, sàng », kết hợp với thành ngữ « một nắng hai
sương » đã làm nổi bật sự sự cần cù chăm chỉ của cha ông ta những ngày đầu của
nền văn minh lúa nước, khi nông nghiệp còn lạc hậu, nghèo nàn. « Cày đồng đang
buổi ban trưa/Mồ hôi thánh thót như mưa ruộng cày/ Ai ơi bưng bát cơm đầy/
Dẻo thơm một hạt đắng cay muôn phần. »
Đất Nước bốn ngàn năm/ Vất vả và gian lao » đã hiện hữu trong thơ
Nguyễn Khoa Điềm thật giản dị, dễ hiểu. Khép lại dòng cảm hứng lí giải Đất Nước
có từ bao giờ là một câu khẳng định thật tự nhiên :
« Đất Nước có từ ngày đó… ».
“Ngày đó” là ngày nào ta không rõ nhưng chắc chắn ngày đó là ngày bắt đầu của
những truyền thống, phong tục tập quán, ngày bắt đầu của nền văn hiến, ngày bắt
đầu của những truyền thống, đạo lí mang bản sắc quê hương….Câu thơ ngắn gọn,
kết đọng dòng cảm xúc đang tuôn chảy theo chiều dài lịch sử, găm vào lòng người
đọc biết bao suy tưởng !
Trong 9 câu thơ đầu, tác giả đã sử dụng một cách linh hoạt, độc đáo chất liệu
dân gian : ca dao dân ca, tục ngữ, truyền thuyết, cổ tích… không chỉ tạo cảm giác
gần gũi quen thuộc mà còn biểu hiện ý thức tự tôn tự hào dân tộc. Từ “Đất Nước”
được viết hoa và lặp lại 5 lần thể hiện sự thành kính, nâng niu, trân trọng của nhà
thơ. Với câu từ giản dị, đời thường, không có một từ pha tạp, vay mượn, Nguyễn
Khoa Điềm đã tạo nên những vần thơ tự do dạt dào cảm xúc, kết hợp với chất
giọng thủ thỉ tâm tình như một điệu ru dễ đi vào lòng người. Nhưng chuyển tải
mạch cảm xúc ấy là một lối lập luận chặt chẽ: tổng - phân - hợp. Chính sự kết hợp
hài hoà giữa chính luận và trữ tình, giữa trí tuệ và cảm xúc bay bổng đã làm nên
nét riêng trong phong cách thơ Nguyễn Khoa Điềm giữa rừng thơ Đất Nước.

Tóm lại, qua những dòng thơ trăn trở và suy tư về một khái niệm tưởng
chừng như đã ăn sâu vào máu thịt mỗi người dân Việt, qua chiều sâu văn hoá, sinh
hoạt Nguyễn Khoa Điềm đã có một phát hiện mới mẻ, độc đáo, một cảm nhận vô
cùng sâu sắc: Đất Nước hiện lên trong thế giới tinh thần của cộng đồng người Việt,
trong cuộc sống sinh hoạt từ bao đời. Đất Nước hiện lên gắn liền với những phong
tục tập quán với lối sống, nếp nghĩ, qua kho tàng văn học dân gian, qua bản sắc
văn hoá... Đó là một Đất Nước không trừu tượng mà cụ thể, chứa đựng mơ ước,
khát vọng, quan niêm về vẻ đẹp phẩm chất của tâm hồn dân tộc. Gương mặt Đất
Nước hiên lên thật sống động, lung linh: trong cuộc sống, trong lao động và trong
chiến đấu.. Đọc đoạn thơ nói riêng và bài thơ nói chung, ta cảm nghe như cội
nguồn dân tộc, cội nguồn văn hóa đang thấm vào tận từng mạch hồn ta, dòng máu
ta. Điều đó càng làm ta thêm yêu thêm quý quê hương Tổ quốc mình.

ĐỀ 2 :
Trong anh và em hôm nay
Đều có một phần đất nước
(…)
Làm nên đất nước muôn đời…
(Trích: Đất Nước – Nguyễn Khoa Điềm)
Anh/chị hãy phân tích đoạn thơ trên. Từ đó liên hệ đến trách nhiệm của thế hệ trẻ
ngày nay đối với đất nước.
BÀI LÀM:
Nguyễn Khoa Điềm là một trong những cây bút tiêu biểu trong nền thơ ca
kháng chiến chống Mĩ cứu nước. Thơ ông hấp dẫn bởi sự kết hợp giữa cảm xúc
nồng nàn và suy tư sâu lắng của người trí thức về đất nước, con người Việt Nam
mà trường ca Mặt đường khát vọng là một sáng tác tiêu biểu. Được ra đời trong
cuộc chiến chống MĨ các liệt tại chiến trường Trị – Thiên năm 1971, những dòng
thơ đã truyền đến người đọc bao xúc động, tự hào về đất nước và nhân dân.
Trong đó, đoạn thơ “Đất Nước” đã bộc lộ những suy nghĩ về trách nhiệm của thế
hệ trẻ với đất nước thật độc đáo và ấn tượng:
Trong anh và em hôm nay
Đều có một phần đất nước
(…)
Làm nên đất nước muôn đời…

Trong chương V trường ca Mặt đường khát vọng, hai từ “đất nước” và “nhân
dân” đều được viết hoa, trở thành “mĩ từ” gợi lên không khí cao cả, thiêng liêng và
biểu lộ cao độ cảm xúc yêu mến, tự hào về đất nước và nhân dân. Chủ thể trữ tình
là “anh và em”, giọng điệu tâm tình thổ lộ, sâu lắng, thiết tha, ngọt ngào về sự ra
đời, quá trình trưởng thành và phát triển suốt bốn nghìn năm của đất nước. Từ sự lí
giải ở chiều rộng không gian, chiều dài thời gian và ở bề dày văn hóa, nhà thơ khéo
léo khơi gợi ý thức trách nhiệm của thế hệ trẻ với đất nước qua đoạn thơ 13 câu
trữ tình sâu lắng và đầy sức thuyết phục.
Hai câu thơ mở đoạn là lời của chủ thể trữ tình “anh” nói với em về sự tồn tại
hiển nhiên đến bất ngờ của đất nước trong mỗi con người:
Trong anh và em hôm nay
Đều có một phần đất nước
Lâu nay, trong suy nghĩ của nhiều người, đất nước, quê hương, Tổ quốc, dân
tộc... luôn là những khái niệm trừu tượng. Với nhà thơ trẻ đang đối mặt với cuộc
chiến tranh khốc liệt một mất một còn, đất nước gần gũi, thân thiết. Khác với nhiều
nhà thơ thường cảm nhận đất nước từ điểm nhìn hướng ngoại, Nguyễn Khoa Điềm
đã chọn điểm nhìn hướng nội để thấy đất nước ở trong “anh” và trong “em”, đất
nước tồn tại trong mỗi con người chứ không ở ngoài ta. Đó là một nhận thức mới
mẻ và sâu sắc về đất nước.

Tứ thơ được phát triển theo mạch mở rộng từ cá nhân “anh” và “em” đến sự gắn
kết khi “hai đứa” cầm tay, cử chỉ yêu thương đã góp phần tô thắm cho Đất Nước:
Khi hai đứa cầm tay
Đất nước trong chúng ta hài hoà nồng thắm
Quả thực, Đất Nước được hình thành từ những mái ấm gia đình. Có những con
người yêu thương gắn bó trong tình nghĩa mặn nồng thì đâtý nước từ đó mới phát
triển. Và “khi hai đứa cầm tay” thì một mái ấm, tổ ấm gia đình đã được xây dựng.
Gia đình là “một phần” của đất nước. Chỉ có tình yêu và hạnh phúc gia đình mới
tạo nên sự “hài hoà, nồng thắm” với tình yêu quê hương đất nước. Đó là bản chất
thống nhất trong tình cảm của thời đại mới. ta cũng bắt gặp ý thơ này trong câu thơ
của Nguyễn Đình Thi: “Anh yêu em như anh yêu đất nước/ Vất vả đau thương tươi
thắm vô ngần…”
Khi chúng ta cầm tay mọi người
Đất nước vẹn tròn, to lớn
Hai chữ “cầm tay” trong câu thơ “Khi hai đứa cầm tay” có nghĩa là giao
duyên, là yêu thương. “Khi hai chúng ta cầm tay mọi người” là đoàn kết, là yêu
thương đồng bào,.. Mọi người có cầm tay nhau, yêu thương giúp đỡ lẫn nhau mới
có hình ảnh “Đất nước vẹn tròn, to lớn”, mới có đại đoàn kết dân tộc và sức mạnh
Việt Nam. Từ “hài hoà, nồng thắm” đến “vẹn tròn, to lớn” là cả một bước phát
triển và đi lên của lịch sử dân tộc và đất nước. Đất nước được cảm nhận là sức
mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc. Chỉ khi nào “ba cây chụm lại nên hòn núi
cao”, và chỉ khi nào “lá lành đùm lá rách”, “Người trong một nước phải thương
nhau cùng” thì mới có hình ảnh đẹp đẽ, thiêng liêng “Đất nước vẹn tròn, to lớn”.
Bốn dòng thơ nhưng thực chất là hai câu thơ có quan hệ điều kiện – kết
quả: “Khi... thì ..”. Cả bốn dòng chỉ có một hình ảnh, lại là hình ảnh mang tính
tượng trưng: cầm tay diễn tả sự thân thiết, tin cậy, yêu thương lẫn nhau. Hình ảnh
ấy đi liền với những tính từ chỉ mức độ “hài hòa”, “nồng thắm”, “vẹn tròn”, “to
lớn”. Bởi vậy, dù ý tứ tuy không phải là quá mới mẻ, song, những câu thơ ấy lại có
sức nặng của tình cảm chân thành. Những câu thơ còn gợi ngầm ẩn một thông điệp
rằng đất nước không phải là một khái niệm trừu tượng, càng không phải là một giá
trị bất biến, có sẵn. Đất nước là một thực thể sống và sự sống ấy ra sao còn phụ
thuộc vào hành động của những cá nhân trong đất nước đó.
Đất nước “Nguồn thiêng ông cha”, đất nước “Trong anh và em hôm nay”,
đất nước trong mai sau. Như một nhắn nhủ, như một kỳ vọng sáng ngời niềm tin:
Mai này con ta lớn lên
Con sẽ mang đất nước đi xa
Đến những tháng ngày mơ mộng
Thế hệ con cháu mai sau sẽ tiếp bước cha ông “Gánh vác phần người đi
trước để lại” xây dựng đất nước ta “Vạn cổ thử giang sơn” (Trần Quang Khải),
“đàng hoàng hơn, to đẹp hơn” (Hồ Chí Minh). Hai chữ “lớn lên” biểu lộ một niềm
tin về trí tuệ và bản lĩnh nhân dân trên hành trình lịch sử đi tới ngày mai tươi sáng.
“Mơ mộng” nghĩa là rất đẹp, ngoài trí tưởng tượng về một Việt Nam cường thịnh,
một cường quốc văn minh. Điều mà “anh và em”, mỗi người chúng ta mơ mộng
hôm nay, sẽ biến thành hiện thực “mai này” gần.
Bốn câu thơ cuối đoạn cảm xúc dâng lên thành cao trào. Giọng thơ trở nên
ngọt ngào, say đắm khi nhà thơ nói lên những suy nghĩ sâu sắc, đẹp đẽ của mình:
Em ơi em đất nước là máu xương của mình
Phải biết gắn bó và san sẻ
Phải biết hoá thân cho dáng hình xứ sở
Làm nên đất nước muôn đời…
“Em ơi em” – một tiếng gọi yêu thương, giãi bày và san sẻ bao niềm vui sướng
đang dâng lên trong lòng khi nhà thơ cảm nhận và định nghĩa về đất nước: “Đất
nước là máu xương của mình”. Đất nước là huyết hệ, là thân thể ruột thịt thân yêu
của mình, và mồ hôi xương máu của tổ tiên, ông cha của dân tộc ngàn đời.
Với Nguyễn Khoa Điềm thì “gắn bó”, “san sẻ”, “hoá thân” là những biểu hiện
của tình yêu nước, là ý thức, là nghĩa vụ cao cả và thiêng liêng. “Phải biết gắn bó
và san sẻ… phải biết hoá thân…” thì mới có thể “Làm nên đất nước muôn đời”.
Điệp ngữ “phải biết” như một mệnh lệnh phát ra từ con tim, làm cho giọng thơ
mạnh mẽ, tác động cả vào lí trí và tình cảm con người. Có biết trường ca “Mặt
đường khát vọng” ra đời tại một nơi nóng bỏng, ác liệt nhất của thời chiến tranh
chống Mỹ thì mới cảm nhận được các từ ngữ: “gắn bó”, “san sẻ”, “hoá thân” là
tiếng nói tâm huyết “mang sức mạnh ý chí và khát vọng được hi sinh hết mình cho
tổ quốc của nhà thơ.
Đất nước vĩ đại nhưng đất nước là một thực thể sống. Thực thể ấy không
phải là sự tập hợp của những cá nhân rời rạc mà là một cộng đồng. Hóa thân cũng
có nghĩa là dâng hiến. Thời bình, người ta dâng hiên sức lực, mồ hôi cho Tổ quốc.
Thời chiến, người ta dâng hiến cả sự sống của mình. Sự dâng hiến ấy, theo suy
ngẫm của nhà thơ, là cuộc hóa thân. Bóng dáng mỗi người đã làm nên bóng dáng
quê hương, xứ sở, đất nước. Không có sự hóa thân kia làm sao đất nước trường
tồn, làm sao có được Đất nước muôn đời! Cảm hứng ấy cũng dạt dào trong thơ
Chế Lan Viên
Ôi! Tổ quốc ta, ta yêu như máu thịt
Như mẹ cha ta như vợ như chồng
Ôi Tổ quốc, nếu cần ta chết
Cho mỗi ngôi nhà, ngọn núi, dòng sông
Ngày nay, khi đất nước đã hòa bình thống nhất, tình yêu đất nước vẫn luôn
gắn liền với ý thức trách nhiệm dựng xây và bảo vệ thành quả của cách mạng.
Không chỉ ở thái độ tu dưỡng đạo đức, học tập nghiêm túc, trau dồi kiến thức để
bắt kịp với sự phát triển của thời đại, mỗi người dân cần nâng cao ý thức cảnh giác
trước mọi biểu hiện diễn biến hòa bình của các thế lực thù địch trên thế giới. Và
khi cần, cùng phải biết « hóa thân » cho dáng hình xứ sở trên mọi mặt trận, phải
biết hi sinh khi Tổ quốc cần. Đó mới là lí tưởng sống đẹp đẽ của thanh niên dù ở
bất cứ thời đại nào !
Bởi thông điệp ý nghĩa mà Nguyễn Khoa Điềm đã gửi gắm, đoạn trích thực
sự đã có giá trị thức tỉnh thế hệ trẻ về trách nhiệm của bản thân với cộng đồng, với
đất nước. Bằng việc sử dụng thể thơ tự do, cùng với ngôn từ rất mộc mạc, giản dị
nhưng lại giàu chất triết lý, độc giả còn thấy ở nhà thơ những suy tư trăn trở của
một con người sống có trách nhiệm với đất nước . Đoạn thơ cũng góp phần thể
hiện rõ nhất nét riêng trong phong cách viết thơ của Nguyễn Khoa Điềm. Có lẽ vì
thế mà đoạn trích “Đất nước” gây nhiều xúc cảm, và luôn được yêu mến trong lòng
bạn đọc nhiều thế hệ.

ĐỀ 3 : Phân tích tư tưởng Đất nước của nhân dân được nhà thơ Nguyễn Khoa
Điềm thể hiện qua đoạn thơ sau :
Em ơi em
Hãy nhìn rất xa
Vào bốn nghìn năm Đất nước
Năm tháng nào cũng người người lớp lớp
(……..)
Để Đất Nước này là Đất Nước của nhân dân
Đất Nước của Nhân dân, Đất Nước của ca dao thần thoại
( Trích : Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm)
BÀI LÀM :
a. Yêu cầu hình thức:

- Đảm bảo cấu trúc bài văn nghị luận: Mở bài giới thiệu vấn đề, thân bài triển khai được
vấn đề, kết bài khái quát được vấn đề.

- Đảm bảo chuẩn chính tả, ngữ nghĩa, ngữ pháp tiếng Việt. b. Yêu cầu nội dung:

- Xác định đúng vấn đề cần nghị luận: Tư tưởng "Đất Nước" của Nhân dân.

- Triển khai vấn đề:

* Mở bài:

- Giới thiệu khái quát về tác giả Nguyễn Khoa Điềm và đoạn trích "Đất Nước".

- Giới thiệu vấn đề.

* Thân bài:
- Hoàn cảnh sáng tác: Trường ca "Mặt đường khát vọng" được tác giả hoàn thành ở chiến
khu Trị Thiên năm 1971 giữa lúc cuộc kháng chiến chống Mỹ diễn ra vô cùng ác liệt.

Đoạn trích "Đất Nước" được viết nhằm thức tỉnh tuổi trẻ đô thị vùng tạm chiếm miền
Nam ý thức về non sông đất nước, về sứ mệnh của thế hệ mình mà xuống đường đấu
tranh hòa nhịp với cuộc đấu tranh chống đế quốc Mỹ xâm lược.

- Vị trí, kết cấu đoạn trích, đoạn thơ:

+ Đoạn trích "Đất Nước" thuộc phần đầu chương V của trường ca, là một trong những
đoạn thơ hay về đề tài đất nước trong thơ Việt Nam hiện đại.

+ Đoạn trích gồm 2 phần:

Phần 1: Tác giả khẳng định nguồn gốc lâu đời của đất nước.

Phần 2: Tác giả tập trung làm nổi bật tư tưởng "Đất Nước" của Nhân dân.

+ Đoạn thơ trên nằm ở phần hai đoạn trích, khẳng định tư tưởng "Đất Nước" của Nhân
dân.

- Phân tích đoạn trích:

+ Ba câu đầu: Thể hiện cái nhìn khái quát về chiều dài thời gian lịch sử của "Đất Nước".
Câu mở đầu "Em ơi em" là lời gọi tha thiết khiến những câu thơ chính luận mang đậm
cảm xúc trữ tình.

Hai câu sau vừa là lời mời gọi, vừa là lời khẳng định lịch sử đầy vẻ vang của dân tộc:
Cụm từ "bốn nghìn năm" khẳng định đầy tự hào về truyền thống lịch sử hàng ngàn năm
dựng nước, giữ nước của dân tộc.

+ 15 câu tiếp: Nhân dân làm nên dòng chảy lịch sử cho "Đất Nước".
Các danh từ chung như "người người", "lớp lớp", "con gái", "con trai" để đem đến ấn
tượng về sự đông đảo vô cùng của nhân dân. Mỗi lớp người là một thế hệ, bốn nghìn lớp
người cũng là bốn nghìn thế hệ với vô vàn những người con gái, con trai. Tất cả đều trẻ
trung nối tiếp nhau hết thời này đến thời khác.

Cụm từ "năm tháng nào" kết hợp với phó từ "cũng" nhấn mạnh ở bất cứ thời điểm nào
của lịch sử đều có sự đóng góp của nhân dân.

Nhân dân "cần cù làm lụng" trong thời bình như khi đất nước có giặc họ sẵn sàng ra trận.
Ở cuộc chiến đấu đó, không chỉ có những người con trai anh dũng, mà còn có biết bao
người phụ nữ anh hùng, bất khuất vừa "nuôi cái cùng con", vừa "giặc đến nhà thì đàn bà
cũng đánh".

Đặc biệt, tác giả còn nhấn mạnh sự cống hiến âm thầm, lặng lẽ của nhân dân ở cách sống,
cách nghĩ "giản dị và bình tâm".

+ Bảy câu tiếp theo: Nhân dân làm nên giá trị văn hóa cho "Đất Nước".

Đại từ "họ" được điệp lại nhiều lần khẳng định sự đông đảo, sự đóng góp vô danh thầm
lặng của Nhân dân.

Cặp động từ "giữ… truyền" hơn một lần lặp lại trong đoạn thơ nhấn mạnh sứ mệnh
thiêng liêng của mỗi con người, mỗi thế hệ trong công cuộc xây dựng đất nước. Đó là
gánh vác việc thế hệ trước giao phó, duy trì phát triển rồi dặn dò, truyền lại cho con cháu
tiếp nối.

Nhân dân là người sáng tạo nên bề dày văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần được tiếp
nối, tôn tạo, giữ gìn qua nhiều thế hệ được thể hiện:

++ Họ giữ và truyền "hạt lúa", "ngọn lửa", thể hiện sự gieo mầm, nuôi dưỡng sự sống kết
nối. Đó là hành động bảo tồn, phát huy những kinh nghiệm canh tác của nền văn minh
lúa nước. Hành động "truyền lửa qua mỗi nhà từ hòn than qua con cúi" thể hiện lối sống
nghĩa tình của nhân dân.
++ "Họ truyền giọng điệu mình cho con tập nói" thể hiện tinh thần tự tôn dân tộc. Ngôn
ngữ là thước đo của nền văn minh, ngôn ngữ tồn tại là vì nhân dân nhưng cũng vì nhân
dân và cũng nhờ nhân dân lưu giữ bản sắc, tiếng nói của dân tộc để đất nước được trường
tồn bất diệt.

++ "Họ gánh theo tên xã, tên làng trong mỗi chuyến di dân" gợi đến những cuộc chinh
phục đất đai, mở mang bờ cõi. Những người dân vô danh đã lấy tên mảnh đất quê hương
xứ sở của mình để đặt cho những miền đất mới. Vì thế, trên suốt chiều dài đất nước hình
chữ S này có biết bao tên làng, tên xã trùng nhau. Mỗi mảnh đất đều trở nên thiêng liêng
gắn bó.

++ "Họ đắp đập be bờ để người đời sau trồng cây hái trái" khắc họa hình ảnh nhân dân
vừa gieo trồng vừa gặt hái để lại những giá trị vật chất và tinh thần cho đời sau.

. Nhân dân vô danh còn tạo nên truyền thống bất khuất anh hùng cho đất nước: "Có ngoại
xâm thì chống ngoại xâm. Có nội thù thì vùng lên đánh bại".

Trong đoạn thơ, đại từ "họ" được điệp lại năm lần, được đặt ở đầu đoạn thơ thể hiện thái
độ ngợi ca, tôn trọng nhân dân. Nhà thơ còn sử dụng một hệ thống động từ "giữ, truyền,
gánh, đắp, be" làm nổi bật một hình tượng thật lực lưỡng. Quá trình hình thành văn hóa
của đất nước giống như một cuộc chạy tiếp sức không mệt mỏi của nhân dân qua các thế
hệ.

+ Hai câu cuối đoạn: Lời tổng kết cho tư tưởng "Đất Nước" của Nhân dân.

Những khái niệm "Đất Nước", Nhân Dân được viết hoa trang trọng, lặp lại nhiều lần cho
thấy sự gắn bó không thể tách rời của nhân dân và đất nước. Cụm danh từ "Đất Nước của
Nhân Dân" khẳng định chủ nhân đích thực của Đất Nước bởi Nhân dân chính là người
dựng xây, gìn giữ, kiến tạo và bảo vệ Đất Nước nên Đất Nước phải thuộc về Nhân dân.

Câu thơ "Đất Nước của ca dao thần thoại": Hình ảnh ca dao thần thoại là hình ảnh hoán
dụ cho văn hóa dân gian, là nơi lưu giữ và tôn vinh vẻ đẹp tâm hồn, tính cách Nhân dân.
Văn học dân gian do nhân dân sáng tạo nên và phản ánh cuộc sống của nhân dân, đến với
văn học dân gian cũng là đến với Nhân dân.
** Đánh giá

+ Đoạn thơ thể hiện đặc điểm tiêu biểu của trường ca "Mặt đường khát vọng" của
Nguyễn Khoa Điềm: Chất chính luận hài hòa chất trữ tình, giọng thơ tự sự, ngôn ngữ,
hình ảnh đẹp, giàu sức liên tưởng.

+ Đoạn trích thể hiện tư tưởng Đất Nước của Nhân dân. Những nhận thức mới về vai trò
của nhân dân trong việc làm nên vẻ đẹp đất nước ở góc độ lịch sử, văn hóa càng gợi lên
lòng yêu nước, tinh thần trách nhiệm với đất nước cho mỗi con người.

* Kết bài

- Khẳng định nét riêng của Nguyễn Khoa Điềm khi viết về "Đất Nước".

- Đoạn thơ khẳng định chính Nhân dân làm nên những giá trị lâu bền cho "Đất Nước".

ĐỀ 4: Bàn về đoạn trích Đất Nước, có ý kiến cho rằng: Nguyễn Khoa Điềm đã cố
gắng thể hiện hình ảnh Đất nước gần gũi, giản dị. Đó là cách để đi vào lòng người,
cũng là cách nhà thơ đi cong đường riêng của mình không lặp lại người khác. Phân
tích 9 câu thơ đầu đoạn trích để làm sáng tỏ.
BÀI LÀM:
Đất nước luôn là tiếng gọi thiêng liêng muôn thuở, muôn nơi và của bao triệu
trái tim con người. Đất nước đi vào đời chúng ta qua những lời ru ngọt ngào êm
dịu, qua những làn điệu dân ca mượt mà và những vần thơ sâu lắng, thiết tha và rất
đỗi tự hào của bao lớp thi nhân. Ta bắt gặp một hình tượng đất nước đau thương
nhưng vẫn ngời lên ý chí đấu tranh trong trang thơ Nguyễn Đình Thi, đồng thời
cũng rất dịu dàng ý tứ trong thơ Hoàng cầm. Nhưng trong Đất Nước trích Trường
ca Mặt đường khát vọng của Nguyễn Khoa Điềm, ta bắt gặp một cái nhìn toàn vẹn,
tổng hợp từ nhiều bình diện khác nhau về một đất nước của nhân dân. Hành trình
của chương V là hành trình đi làm rõ ngọn ngành về hai tiếng “Đất
nước” thiêng liêng. Đặc biệt trong 9 câu thơ đầu, nhà thơ đã lý giải về cội nguồn
của hai tiếng thiêng liêng ấy.
Trong số các nhà thơ trẻ của nền thơ chống Mỹ, Nguyễn Khoa Điềm là gương
mặt tiêu biểu. Với Đất ngoại ô (1972) và Mặt đường khát vọng (1974), Nguyễn
Khoa Điềm là một trong những gương mặt tiêu biểu của văn học chống Mỹ nói
riêng và thơ ca dân tộc nói chung. Có nhà nghiên cứu đã gọi Nguyễn Khoa Điềm là
nhà thơ của phong vị dân gian, là bởi thơ ca Nguyễn Khoa Điềm chứa đựng nhiều
chất liệu văn học và văn hoá dân gian. Câu thơ dù ở thể thơ truyền thống hay thơ
tự do bao giờ cũng phảng phất phong vị của ca dao, tục ngữ. Thơ Nguyễn Khoa
Điềm thấm đẫm chất triết luận xuất phát từ vốn tri thức uyên bác và bề sâu văn hoá
trong mối liên tưởng vừa sắc sảo triết lý lại vừa huyền ảo thấp thoáng bóng dáng
văn hoá cổ xưa của hồn dân tộc. Đất Nước được trích từ phần đầu chương V của
bản trường ca Mặt đường khát vọng của Nguyễn Khoa Điềm - bản trường ca được
sáng tác tại chiến khu Trị - Thiên năm 1971 và gửi ra Bắc in lần đầu năm 1974.
Đề tài Đất nước không phải là xa lạ, mới mẻ trong văn chương. Nhưng với
Nguyễn Khoa Điềm, ông không nhìn Đất nước như một hình tượng trừu tượng mà
giản dị, gần gũi, thân quen vô cùng. Như vậy, với nhà thơ, Đất nước là một phần
cuộc sống, là mọi thứ quanh ta, ta có thể cầm, nắm, cảm nhận rõ ràng, cụ thể. Đất
nước đó là hai tiếng đầy giản dị, chứ không hề xa lạ, ngưỡng vọng.
Nguyễn Khoa Điềm viết bài thơ khi chiến trường miền Nam sôi sục, máu lửa.
Nguyễn Khoa Điềm đã mở đầu không phải bằng triều đại, con số, mà vô cùng giản
dị, dễ hiểu, tác giả đã hình dung về một Đất nước như thế này:
“Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi”
Đất nước luôn có trước mỗi người. “Ta” là con dân đất Việt, mang trong mình
máu đỏ, da vàng, là anh, là em, là quá khứ, hiện tại, tương lai, là tất cả chúng ta.
Khi ta sinh ra, Đất nước đã có rồi. Đã có sẵn để chở che con dân đất Việt. Đất nước
là không gian tồn tại của bao thế hệ, là không gian sinh tồn, nuôi lớn ta để rồi từ ấu
nhi đến khi thành cát bụi, lớp lớp bao thế hệ tổ tiên, con cháu. Đất nước thật giản
dị, luôn hiện hữu, và mang cho ta cảm giác được yên bình, được an toàn. Cách nói
“Đất Nước đã có rồi”: là cách nói phỏng đoán, nhưng diễn đạt một điều chân lý:
Đất nước có trước tất cả mỗi chúng ta. Đất nước có từ rất lâu đời.
“Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa...” mẹ thường hay kể”
Đất nước có trong những cái “ngày xửa, ngày xưa mẹ thường hay kể”, “ngày
xửa ngày xưa” cụm từ ấy gợi cho con trẻ bao niềm thích thú, bao háo hức, và cũng
bao quen thuộc, bởi nó dẫn lối vào những câu chuyện rất xa xưa, rất xa với thời
điểm hiện tại, đã lâu lắm rồi, nơi đó có thế giới của cổ tích, của những buổi khai
thiên lập địa. Cho nên, câu thơ cất lên, thân thuộc mà gợi cả chiều dài lịch sử của
Đất nước.
Trong mạch cảm xúc, nhà thơ đã tiếp tục lý giải về quá trình hình thành của Đất
nước. Với giọng thủ thỉ, tâm tình nhà thơ gợi lên một không khí trầm lắng, thiêng
liêng.
“Đất nước bắt đầu với miếng trâu bây giờ bà ăn”
Hình ảnh “miếng trầu” nhỏ bé, bình dị, thậm chí chẳng gì là sang, vậy nhưng
sự vật nhỏ bé đó mang chở truyền thống đạo lý tốt đẹp của dân tộc, chở trong mình
nó lịch sử ngàn năm, Đất nước cũng xuất phát từ những điều bé nhỏ, bình dị mà
sâu sắc, bắt đầu từ văn hoá phong tục đó. Như vậy, Nguyễn Khoa Điềm đã có
những cái nhìn rất sâu sắc về sự hình thành của Đất nước, không phải bằng những
triều đại, những con số cụ thể, mà bằng cách gọi tên, gợi ra những điều gắn bó
quen thuộc. Đất nước có từ rất xưa, từ buổi hồng hoang của lịch sử, trở thành
không gian sinh tồn của con ngưòi. Như vậy, để có Đất nước, yếu tố đầu tiên là
không gian địa lý. Nhưng Đất nước chỉ được gọi là Đất nước khi nó bắt đầu có văn
hoá, phong tục. Hình ảnh Đất nước bắt đầu bằng miếng trầu chính là cách nói giản
dị mà sâu sắc đó.
Quá trình lớn lên của Đất Nước được diễn đạt trong ý thơ:
“Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc”
Cụm từ “biết trồng tre mà đánh giặc” gợi cho người đọc nhớ tới truyền thuyết
Thánh Gióng. Cậu bé vươn vai trở thành tráng sĩ, nhổ tre đuổi giặc ra khỏi bờ cõi.
Từ đây ta có thế hiểu ý thơ của Nguyễn Khoa Điềm ở chữ “lớn lên” nhà thơ muốn
nói đến sự vươn mình của dân tộc. Đánh dấu sức mạnh quật khởi của “Đất Nước
lớn lên”. Như vậy, Đất nước lớn lên qua đấu tranh, qua xây dựng, gìn giữ. Lớn lên
ở đây vừa nói quy mô, vừa nói về văn hoá, truyền thống, bản sắc... Đất nước cũng
là một sinh thể sống động, có đời sống, có tâm hồn. Và trên cơ thể ấy, từng lớp lớp
người hình thành nên những phong tục, hình thành nên văn hoá qua suốt mấy ngàn
năm, làm nên hồn cốt của dân tộc.
“Tóc mẹ thì bới sau đầu”
Ý thơ gợi lên hình ảnh dung dị mà đẹp đẽ của người phụ nữ, hình ảnh ấy cho
thấy một thói quen, gợi lên cả một nền văn minh lúa nước, khi những người nông
dân lao động: “Bán mặt cho đất, bán lưng cho trời”.
“Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn”
“Gừng cay muối mặn” đó là những gia vị đậm đà, qua thời gian, gừng càng
thêm cay, muối càng thêm mặn. Đó là tình nghĩa, là ân tình thủy chung trong đời
sống tình cảm, đặc biệt là tình cảm vợ chồng. Vợ chồng gắn bó với nhau không chỉ
có tình, còn là ân nghĩa, cho nên, trải qua thời gian, càng thêm gắn bó. Thương
nhau bằng gừng cay muối mặn, đó là thuần phong mỹ tục, là truyền thống tốt đẹp
của ông cha bao đời.
“Cái kèo, cái cột thành tên”
Ở đây nhà thơ đã lấy sự hình thành và phát triển ngôn ngữ của dân tộc để nói về
nguồn gốc lâu đời của đất nước. Ý thơ cho ta hiểu, những thân cây, khúc gỗ vô tri
trên rừng, bỗng có tên, hoá tuổi, khi chúng gắn bó với đời sống con người. Nhưng
cách hiểu thứ hai, với đời sống xưa, ông cha thường đặt tên cho con cháu bằng
những sự vật xung quanh. Và tiếng Việt đã phong phú, giàu có, và mang linh hồn
Việt từ những điều như thế.
“Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng”
Nhâncâu
Qua chín dânthơ
ta đã sáng
đầu củatạo ra nềnV,văn
chương minh
Đất lúađã
Nước nước,
khơinhưng nhọccacông
lên khúc thật thay,
thân hạt
thuộc và gạo được tạo ra từ biết bao công đoạn: xay, giã, giần, sàng. Cho nên, ý thơ gợi cho
ta bài ca dao: “Ai ơi bưng bát cơm đầy/ Dẻo thơm một hạt đắng cay muôn phần”.
gần gũi, sâu xa và thấm thìa, rung động. Tưởng tượng thì phong phú, liên tưởng thì
Và từ tất cả những điều trên, Nguyễn Khoa Điềm đã tong kết: “Đất Nước có từ
bao la. ngày đó”. Cụm từ “ngày đó”, đã khái quát lại toàn bộ ý thơ của chín câu thơc đầu.
Ngày đó, Đất nước đã sinh thành qua không gian, đã hình thành văn hoá phong tục
qua thời gian. Ngày xa xưa ấy, Đất nước đã có, để cho ta bây giờ được sinh ra, lớn
lên, được bao bọc và nuôi dưỡng từ thể chất đến tinh thần trong vòng tay Đất nước.
Trải suốt chiều dài lịch sử văn học, hình tượng đất nước đã bắt nhịp trái tim của
không biết bao nhiêu nghệ sĩ để đi vào thơ với vẻ đẹp thiêng liêng và niềm tin yêu
sâu sắc. Nhưng qua cảm nhận của các nhà thơ, đất nước là một hình tượng thiêng
liêng và cao quý, đẹp đẽ vô cùng, đó là đất nước được nhìn qua các triều đại, bằng
những vị anh hùng, một đất nước linh thiêng, trừu tượng. Chỉ đến Nguyễn Khoa
Điềm, mới chú trọng đi tìm nguồn cội của Đất nước, tức là thời điểm ra đời của
Đất nước. Nhưng cách ông nói về nguồn cội ấy cũng hết sức độc đáo: “Khi ta lớn
lên Đất Nước đã có rồi”. Và sau một loạt những diễn

giải, ta không bắt gặp một con số hay triều đại cụ thể nào như ta vẫn quen hình
dung về Đất nước, mà Nguyễn Khoa Điềm cho ta cảm nhận mới mẻ: Đất nước
được sinh thành, lớn lên trong đời sống nhân dân, Đất nước có khi hình thành
phong tục, Đất nước phát triển cùng với ngôn ngữ, với văn hoá... Để làm nên Đất
nước vẹn toàn như hôm nay.
Nguyễn Khoa Điềm đã biến đất nước vô hình trở thành hữu hình, đất nước
tưởng xa mà hoá gần, tưởng mênh mông mà trở nên ấm áp, gần gũi. Nguyễn Khoa
Điềm nói về Đất nước có từ “ngày xửa, ngày xưa” mà ta thấy bao thân thuộc.
Nguyễn Khoa Điềm đã đưa Đất nước từ trời cao thượng đế, từ ngai vàng chúa
xuống miếng trầu của bà ăn, búi tóc của mẹ, hạt gạo một nắng hai sương gây xúc
động sâu sắc cho bạn độc, dù là hôm nay hay cả mai sau!
SÓNG ( Xuân Quỳnh)
ĐỀ 1 : Phân tích nét đẹp truyền thống và hiện đại của hình tượng Em trong đoạn
thơ dưới đây:
Dữ dội và dịu êm
Ồn ào và lặng lẽ
Sông không hiểu nổi mình
Sóng tìm ra tận bể.

Ôi con sóng ngày xưa


Và ngày sau vẫn thế
Nỗi khát vọng tình yêu
Bồi hồi trong ngực trẻ
(Sóng - Xuân Quỳnh)
BÀI LÀM:
Xuân Quỳnh là bà hoàng thơ tình trong lòng độc giả thi ca Việt. Xuân Quỳnh
luôn đem đến cho độc giả những cái nhìn sâu sắc về tình yêu, nhà thơ thổn thức
những lời thơ chân thành, có chút hồn nhiên, da diết của một trái tim khao khát yêu
đương. Bài thơ Sóng không chỉ thành công trong cách truyền đạt ngôn ngữ mà còn
ở việc nhà thơ tạo nên nhịp điệu riêng để thơ đi vào lòng người đọc một cách thú
vị. Một người phụ nữ luôn da diết yêu và được yêu được nhà thơ mượn hình tượng
sóng cùng nhịp điệu của sóng để nói về tiếng lòng mình:
“Dữ dội và dịu êm
Ồn ào và lặng lẽ
Sông không hiểu nổi mình
Sóng tìm ra tận bể

Ôi con sóng ngày xưa


Và ngày sau vẫn thế
Nỗi khát vọng tình yêu
Bồi hồi trong ngực trẻ.”
Xuân Quỳnh (1942 - 1988) là nhà thơ nữ hiện đại hiếm hoi xuất hiện nổi bật
trên thi đàn văn học thời kỳ kháng chiến chống Mỹ. Xuân Quỳnh được xem là nữ
thi sĩ nối tiếng với nhiều bài thơ tình được nhiều người biết đến như Thuyền và
Biển, Sóng, Thơ tình cuối mùa thu, Tiếng gà trưa... Thơ chị luôn ăm ắp những cảm
xúc, những cung bậc tình cảm, nhiều lo âu và luôn da diết cho những khát vọng đời
thường như chính tính cách con người chị vậy. Và Sóng, có lẽ cũng được viết ra
trong những ăm ắp của cung bậc cảm xúc như thế. Thi phẩm được sáng tác tại cửa
biển Diêm Điềm, khi nhà thơ đã từng trải qua những đau đớn, đố vỡ trong tình yêu.
Bài thơ là một trong những thi phấm tiêu biếu nhất trong sự nghiệp sáng tác của nữ
sĩ, được in trong tập thơ Hoa dọc chiến hào.
Ngay lời thơ mở đầu, là một sự phát hiện, khám phá về bản chất, trạng thái của
sóng, về sự muôn dạng của sóng:
“Dữ dội và dịu êm
Ồn ào và lặng lẽ
Sông không hiểu nổi mình
Sóng tìm ra tận bể”
Với phép liệt kê, tương phản, có thể thấy, những đặc điểm tưởng như đối lập lại
thống nhất với nhau và luôn tồn tại trong một chỉnh thế là sóng. Sóng phức tạp, đa
dạng về hình thức, khó hiểu về bản chất. Sự phức tạp của sóng cũng chính là đặc
tính đa dạng khó giải thích của người con gái khi yêu. Người con gái trong tình yêu
cũng luôn chứa đựng nhiều những đối cực, những mâu thuẫn và khó đoán. Có khi
yêu mãnh liệt, rào rạt, khi lại sâu lắng, diết da; lúc sôi nổi cuồng nhiệt, khi lại dửng
dưng, lạnh lùng...
Sông và bể là không gian của sóng. Nếu sông chật hẹp, sông đem đến sự tù
túng, bó buộc vào những giới hạn của khoảng cách, bù lại sông an toàn và yên
bình; thì bể lại là không gian mênh mông, cao rộng, bể đại diện cho cái tự do,
nhưng ở bể luôn đầy bão tố, luôn chứa đựng cái hiểm nguy khó lường. Vậy sự lựa
chọn của sóng là gì? Sóng bỏ sông ra bể. Bỏ nơi chật hẹp, kìm kẹp những bản tính
của sóng để tìm đến nơi sóng được vẫy vùng, được “dữ dội”, được “ồn ào”. Ở
sông tuy an toàn, nhưng sóng chẳng thể khám phá hết mình, chẳng thể hiểu nổi
mình. Sóng chỉ như dòng chảy lặng lẽ “dịu êm”, “lặng lẽ”. Cho nên, sóng quyết từ
bỏ nơi an toàn, chấp nhận thử thách gian lao, chấp nhận những bão tố ngoài bể, để
tìm được bản ngã.
Hành trình của sóng tìm đến bể là hành trình từ bỏ cái chật hẹp để đến với cái
lớn lao, cao rộng. Trái tim người con gái đang yêu cũng như sóng, không chấp
nhận sự tầm thường nhỏ hẹp, luôn vươn tới cái lớn lao có thể đồng cảm, đồng điệu
với mình. Cụm từ “ra tận” cho ta thấy quyết tâm mạnh mẽ của sóng, dù vượt
trùng dương xa xôi, sóng vẫn quyết không bỏ cuộc, quyết tìm đến đích của cuộc
hành trình. Và đó cũng là quyết tâm và sự mạnh mẽ của em, sự chủ động của em
trong tình yêu, chủ động làm kiếm tìm và làm chủ số phận cuộc đời mình.
Ôi con sóng ngày xưa
Và ngày sau vẫn thế
Nỗi khát vọng tình yêu
Bồi hồi trong ngực trẻ.”
Khổ 2 mở đầu bằng thán từ “ôi”, vừa như thể hiện sự xúc động, vừa thể hiện
những phát hiện của thi sĩ về sóng qua lăng kính thời gian. Qua chiều dài của dòng
chảy thời gian bất tận, từ quá khứ ngàn xưa, buổi khai thiên lập địa, cho đến tận
bây giờ hay là ngàn năm sau nữa, con sóng vẫn thế. Nghệ thuật đối lập “ngày xưa”
– “ngày sau” đã khẳng định sự trường tồn của con sóng. Dù thời gian có nghiệt
ngã, có làm hoán đối, xoay vần rất nhiều điều, thì “con sóng vẫn thế”. Lời thơ như
khẳng định vào sự vĩnh hằng của bản tính sóng: lúc ồn ào, khi lặng lẽ, nhưng
chẳng bao giờ đứng yên. Sự trường tồn muôn đời của sóng, bản tính sóng, một
thực thể tự nhiên, cũng là sự trường tồn muôn đời của tình yêu, của bản tính của
người phụ nữ khi yêu. Dù là ngày xưa (quá khứ), ngày sau (tương lai) thì con
người vẫn luôn khát vọng tình yêu. Soi chiếu bằng điểm nhìn thời gian, Xuân
Quỳnh đã nói lên quy luật của cảm xúc mà nhân loại ai cũng sẽ trải, ai cũng luôn
khao khát.
Có lần, thi sĩ Xuân Diệu cũng từng viết: “Làm sao sống được mà không yêu/
Không nhớ, không thương một kẻ nào”. Khi còn con người tồn tại trên cõi trần, khi
đó tình yêu vẫn còn được nhắc đến, còn được ngợi ca. Ý thơ: “Nổi khát vọng tình
yêu/ Bồi hồi trong ngực trẻ ” khiến ta cảm nhận được sức mạnh, sự mãnh liệt tình
yêu mang đến cho trái tim mỗi người, dù là thanh xuân hay tóc bạc, tình yêu vẫn
khiến trái tim thật trẻ trung và thổn thức, bởi tình yêu đâu phân biệt lứa tuổi.
Thông qua khổ 1 và 2, Xuân Quỳnh đồng thời cũng gửi gắm vào đó những
quan niệm về tình yêu mang cả nét truyền thống và hiện đại. Vẻ đẹp hiện đại đó là
cuộc hành trình kỳ công đi tìm tình yêu đích thực. Người con gái không còn cam
chịu, chấp nhận mà đầy chủ động đi tìm tình yêu của cuộc đời mình, luôn mãnh
liệt chủ động, sống hết mình, vượt qua tất cả để có được tình yêu cho mình, vẻ đẹp
truyền thống được biếu hiện ở những trạng thái cảm xúc đối lập mà thống nhất
trong trái tim người con gái đang yêu. Trong tình yêu, tâm hồn người phụ nữ
không hề bình lặng mà đầy biến động: có khi sôi nổi cuồng nhiệt, cũng có khi e lệ,
kín đáo, có lúc đằm thắm, lúc hờn ghen, điều đó làm nên sức hấp dẫn, sự quyến
rũ đầy nữ tính của người phụ nữ.
“Chỉ riêng điều được sống cùng nhau
Niềm sung sướng với em là lớn nhất
Trái tim nhỏ nằm trong lồng ngực
Giây phút nào tim đập chẳng vì anh.”
(Chỉ có sóng và em – Xuân Quỳnh)
Bằng hình tượng sóng đầy đặc sắc, Xuân Quỳnh đã mang đến hơi thở đầy mới
mẻ cho thơ tình Việt Nam, tình cảm nhẹ nhàng đầy nữ tính trong sóng cũng như
bông hoa dọc chiến hào có thể làm dịu đi cái khốc liệt của chiến tranh, làm đắm
say độc giả bao thế hệ.

ĐỀ 2: Cảm nhận về vẻ đẹp tâm hồn người con gái khi yêu qua đoạn thơ trên.
Từ đó nhận xét về nét truyền thống và hiện đại trong thơ Xuân Quỳnh.
“Dữ dội và dịu êm
Ồn ào và lặng lẽ
Sông không hiểu nổi mình
Sóng tìm ra tận bể

Ôi con sóng ngày xưa


Và ngày sau vẫn thế
Nỗi khát vọng tình yêu
Bồi hồi trong ngực trẻ

Trước muôn trùng sóng bể


Em nghĩ về anh, em
Em nghĩ về biển lớn
Từ nơi nào sóng lên?

Sóng bắt đầu từ gió


Gió bắt đầu từ đâu?
Em cũng không biết nữa
Khi nào ta yêu nhau .
(Trích “Sóng”, Xuân Quỳnh, SGK Ngữ văn 12, tập 1)
BÀI LÀM:
Có những tác phẩm văn chương đi vào tiết học một cách khiên cưỡng, gò ép
bởi trò chưa sẵn sàng để tiếp nhận hoặc chưa thể hiểu thấu hết những giá trị lớn
lao mà nó mang lại. Tuy nhiên, mỗi tiết học bài “Sóng” của nữ thi sĩ Xuân Quỳnh
lại luôn được các cô cậu hoc trò lớp 12 đón nhận đầy hào hứng. Đó không phải chỉ
bởi chủ đề tình yêu là chủ đề gần gũi, hấp dẫn mà còn bởi từng dòng thơ của Xuân
Quỳnh đã chạm tới tâm hồn nhạy cảm của nhiều bạn trẻ đang chập chững bước
vào yêu. Thơ Xuân Quỳnh không cầu kì, trau chuốt như những vần thơ của Ta –
gor, cũng không mạnh bạo, cuồng si như ông hoàng thơ tình Xuân Diệu. Đọc bài
thơ “Sóng” của chị ta bắt gặp một cảm xúc tình yêu vừa đằm thắm dịu dàng mà
vừa nồng nàn, mãnh liệt của tâm hồn người phụ nữ trong khát vọng hạnh phúc đời
thường. Điều đó thể hiện rõ nét ngay qua những khổ đầu của bài thơ:
Dữ dội và dịu êm

Khi nào ta yêu nhau

Xuân Quỳnh viết “Sóng” năm 1967 trong chuyến đi thực tế đến vùng biển
Diêm Điền (Thái Bình) giữa lúc cuộc kháng chiến chống Mĩ đang ở giai đoạn cam
go ác liệt. Trong hoàn cảnh ấy, nhiều nhà thơ, nhà văn đi tìm kiếm và phản ánh
hiện thực lịch sử gắn liền với cuộc đấu tranh vĩ đại của dân tộc, tôn vinh cái đẹp
tập thể mang chất hào hùng, rất ít các nhà thơ, nhà văn tự bứt ra khỏi không khí
chung để tìm vào cái riêng tư, sâu kín của những khát vọng rất đỗi đời thường
trong tâm hồn con người. Xuân Quỳnh đã chọn cho mình lối đi riêng khác với các
nhà thơ cùng thời. Bởi chiến tranh dù có khốc liệt đến đâu cũng không thể khiến
con người thôi mơ ước, thôi khát vọng, nhất là đối với một nữ thi sĩ có tâm hồn
bay bổng lãng mạn và giàu lòng trắc ẩn như Xuân Quỳnh.
Hình tượng trung tâm của bài thơ là “Sóng”, một hình tượng tưởng như đã
quá quen thuộc trong thơ ca viết về tình yêu. Nhưng “sóng” trong thơ của nữ thi sĩ
lại mang một diện mạo mới độc đáo, đầy sáng tạo. Không chỉ là biểu tượng cho
tâm hồn người con gái đang yêu đầy rạo rực, đam mê mà sóng còn là sự hóa thân,
sự phân thân của cái tôi trữ tình “em. Với hình tượng “sóng”, Xuân Quỳnh đã tìm
đuợc một cách thể hiện xác đáng vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ trong tình yêu.
Với cấu trúc song hành này tạo thành chiều sâu nhận thức và nét độc đáo riêng cho
bài thơ.
Mở đầu bài thơ, Xuân Quỳnh đã nêu lên đặc điểm của những con sóng:
"Dữ dội và dịu êm
Ồn ào và lặng lẽ
Sông không hiểu nổi mình
Sóng tìm ra tận bể”.
Mở ra trước mắt người đọc là một không gian mênh mông của sóng nước,
mà nhân vật trung tâm là những con sóng khi “ồn ào”, “dữ dội”, lúc lại “dịu êm”,
“lặng lẽ”. Hai cặp tính từ chỉ trạng thái đối nghịch được sử dụng đăng đối, song đôi
trong quan hệ đồng thời “và” càng khắc sâu cái phức tạp, khó nắm bắt khó lí giải
trong hình tượng sóng. Những trạng thái phức tạp ấy của sóng quả thực rất đồng
điệu với tâm hồn người con gái đang yêu. Người ta thường ví rằng tình yêu là một
bông hoa kì diệu! hay tình yêu là cây đàn muôn điệu gảy lên muôn bản nhạc tình,
có khi trầm bổng thiết tha, có khi nghẹn ngào đau đớn, cũng có khi e ấp, nũng nịu,
dễ thương. Ở đây, cảm xúc trong tình yêu của nhân vật trữ tình cũng biến thiên
phức tạp và khó hiểu như những con sóng ngoài biển khơi: khi sôi nổi,ồn ào, lúc
lại lặng thầm sâu lắng.
Vì trong sóng luôn tồn tại những xúc cảm đối nghịch đầy phức tạp nên vấn
đề mà sóng gặp phải là “không hiểu nổi mình”. Cũng chính bởi sự băn khoăn, trăn
trở “đi tìm lẽ yêu đời” ấy mà sóng quyết định thực hiện một cuộc hành trình gian
khó từ sông ra biển. Phải chăng, sóng nghĩ rằng nơi biển rộng mênh mông, nơi trời
nước bao la ấy sẽ giúp cho sóng có thể hiểu được mình.
Hình ảnh ẩn dụ “ Sóng” được nhân cách hóa trở thành một sinh thể tràn đầy
khát khao, mơ ước. Con sóng hay chính nỗi lòng người con gái say đắm trong tình
yêu đang cố gắng vượt thoát khỏi cái tù túng, chật chôi của lòng sông để tìm đến
với biển cả bao la, cao thượng. Câu thơ có cấu trúc phủ định “Sông không hiểu nổi
mình”, kết hợp với phó từ “tận” trong “tìm ra tận bể” góp phần nhấn mạnh khát
vọng mãnh liệt, cháy bỏng và đầy táo bạo trên hành trình khám phá bản thân, khám
phá những điều đẹp đẽ trong tình yêu, trong cuộc đời.
Ba hình ảnh sông, sóng, bể như là những chi tiết bổ sung cho nhau: sông và bể làm
nên đời sóng, sóng chỉ thực sự có đời sống riêng khi ra với biển khơi mênh mang
thăm thẳm. Tất cả các khía cạnh tương phản dữ dội – dịu êm, ồn ào – lặng lẽ tạo
nên một cái nhìn bao quát về sóng. Mạch sóng mạnh mẽ như bứt phá không gian
chật hẹp để khát khao một không gian lớn lao. Hành trình tìm ra tận bể chất chứa
sức sống tiềm tàng, bền bỉ để vươn tới giá trị tuyệt đỉnh của chính mình.

Tuy tâm trạng luôn biến động nhưng con sóng cũng như tấm lòng người con
gái khi yêu vẫn luôn như thế, không biến đổi, nó càng mãnh liệt hơn:
Ôi con sóng ngày xưa
Và ngày sau vẫn thế
Và ngày sau vẫn thế
Nỗi khát vọng tình yêu
Bồi hồi trong ngực trẻ
Thoát khỏi cái không gian chật hẹp tù túng của dòng sông, đối diện với biển lớn,
sóng chiêm nghiệm về một tình yêu vĩnh cửu, muôn đời. Vẫn trong mạch đối sánh
tương đồng giữa sóng và tình yêu, thi sĩ khẳng định một chân lí muôn đời bằng
một cảm xúc đắm say, sôi nổi “Ôi con sóng ngày xưa/ Và ngày sau vẫn thế”. Con
sóng dù của ngày xưa, hay ngày sau, quá khứ hay hiện tại thì vẫn luôn ào ạt vỗ vào
bờ và mãi rì rào hát khúc tình ca của biển cũng như tình yêu con người - dù trải
qua nhiều thế hệ, dù thời gian có làm phai màu tóc, thì trái tim yêu đương vẫn đập
rộn ràng một nhịp đập tình yêu nồng nàn, tha thiết.
Xuân Diệu đã từng nói: “Hãy để trẻ con nói cái ngon của kẹo, hãy để tuổi trẻ
nói hộ tình yêu" Tình yêu gắn liền với tuổi trẻ. Tuổi trẻ là trái tim dào dạt, đa cảm
và rạo rực niềm yêu thương cuộc sống. Chính vì thế mà cái “khát vọng tình yêu”
cứ “bồi hồi trong ngực trẻ”, nó cứ thôi thúc tuổi trẻ đi tìm chân lí yêu đương, cũng
như con sóng "ngày xưa và ngày sau vẫn thế'' – mãi đắm say và mãnh liệt bất kể
thời gian, bất kể thời đại.
Nhà phê bình văn học người Nga V. Biêlinxki đã từng nói “Thơ, trước hết là
cuộc đời, sau đó mới là nghệ thuật”. Quả đúng như vậy, những vần thơ rạo rực tình
yêu ấy xuất phát từ một trái tim đa cảm, luôn sống hết mình và yêu hết mình của
Xuân Quỳnh. Dù đã từng trải qua đổ vỡ trong tình yêu, nhưng nữ thi sĩ luôn tin
tưởng đến một ngày, từ dòng sông nhỏ bé, sóng sẽ tìm ra được biển cả mênh
mông; hạnh phúc tròn đầy, trọn vẹn sẽ đến với những con người luôn khao khát
nó.
Cũng có nhà phê bình từng nhận xét: "Tình yêu trong thơ Xuân Quỳnh
không dừng lại ở mức độ yêu buổi đẩu giản đơn hò hẹn, non nớt, ngọt ngào, mà là
tình yêu hạnh phúc, tình yêu gắn bó với cuộc sống chung với nhiều đòi hỏi ở chiều
sâu tình cảm,với nhiều chứng minh của thử thách, mang đậm dấu ấn trách nhiệm".
Chính vì thế nên tình yêu của người "Em" ở đây có thể nói không còn bồng bột mà
khá chín chắn, có sự can thiệp của lí trí, có ý thức về mặt tình cảm. Yêu thương
cháy bỏng, nồng say là thế nhưng cũng đầy suy tư, trăn trở:
Trước muôn trùng sóng bể
Em nghĩ về anh, em
Em nghĩ về biển lớn
Từ nơi nào sóng lên?
Em đã đến đích của hành trình từ sông ra bể, nhưng trong tâm thế của một
người con gái đã qua tuổi bồng bột dại khờ, em không vồ vập, không hối hả trước
những điều thú vị của biển khơi mà lại lắng lòng chiêm nghiệm về “anh, em” về
tình yêu của chúng mình. Cấu trúc điệp “em nghĩ về” càng nhấn mạnh sự suy tư,
dè dặt khi bước vào cánh cửa hạnh phúc của người con gái ấy.
Sự băn khoăn là điều dễ hiểu, bởi trong tình yêu, người con gái luôn có khao
khát được hiểu đến tận cùng tình yêu, muốn chiếm trọn trái tim của người mình
yêu: “ Đôi mắt băn khoăn của em buồn / Đôi mắt em muốn nhìn sâu vào tâm
tưởng anh/Như trăng kia muốn vào sâu biển cả” (R.Đ. Tago). Mong ước chính
đáng đó luôn thôi thúc người phụ nữ đi tìm câu trả lời cho những câu hỏi đặt ra:
“Từ nơi nào sóng lên?” “Từ nơi nào tình yêu bắt đầu?”
Giữa đại dương mênh mông ấy, nơi nào là nơi bắt đầu của sóng, thật khó mà
trả lời cho chính xác. Song vẫn có thể nói: “Sóng bắt đầu từ gió”.
Một câu hỏi được giải đáp thì lập tức câu hỏi khác theo mạch mà hình thành:
“Sóng bắt đầu từ gió
Gió bắt đầu từ đâu?
Em cũng không biết nữa
Khi nào ta yêu nhau ! »
Sẽ không bao giờ thỏa nguyện được khát vọng tìm hiểu tận cùng tình yêu của
người con gái ngay cả khi người đó là người đàn ông chân thành nhất. Xuân Diệu
cũng từng lắc đầu “Làm sao cắt nghĩa được tình yêu/ có nghĩa gì đâu một buổi
chiều/ Nó chiếm hồn ta bằng nắng nhạt/ Bằng mây nhè nhẹ gió hiu hiu”. Quả đúng
như vậy, tình yêu là thứ tình cảm thiêng liêng đẹp đẽ, cũng giống như sóng biển và
gió trời, nó đến và đi tự nhiên, bí ẩn không tuân theo lí trí của con người.
Soi vào “sóng”, người phụ nữ nghĩ về tình yêu của mình và đi tìm lời đáp
cho sự khởi nguồn đẹp đẽ ấy, nhưng câu trả lời chỉ là cái lắc đầu nhẹ nhàng, ý vị:
“Em cũng không biết nữa/ Khi nào ta yêu nhau”. Nhịp thơ thay đổi linh hoạt, khi
thì 3/2, lúc lại là 2/3 như diễn tả sự khúc mắc, bất an, bất ổn trong lòng người con
gái đang yêu. Càng khao khát được khám phá thì dường như càng rơi vào bế tắc.
Một câu hỏi rất con gái, nhẹ nhàng, bối rối lẫn chút đắm say, ngọt ngào, nũng nịu
vẫn được đặt ra sau một câu trả lời « em cũng không biết nữa ». Dường như người
con gái cá tính ấy vẫn chưa chịu dừng lại trong những suy tư trăn trở dù đã lắc đầu
bất lực.
Ta thấy ở thơ Xuân Quỳnh một vẻ đẹp vừa mang nét truyền thống vừa mang
nét hiện đại. Đó là vẻ đẹp của sự khỏe khoắn trong tâm hồn, là cái khát khao mãnh
liệt trong những ước muốn được khám phá đến tận cùng tình yêu, muốn đi đến tận
cùng cái cao cả, mênh mông hòa quyện tinh tế với vẻ đẹp dịu dàng, đằm thắm đầy
nữ tính trong những suy tư sâu lắng, những ngọt ngào đắm say quyến rũ. Đối với
chị « Thơ là cái thật, cái đẹp của tâm hồn được chắt lọc, gọt giũa bằng nghệ thuật
ngôn từ ». Bằng tài hoa và lăng kính nghệ thuật Xuân Quỳnh đã « biến ngôn ngữ
đời sống thành ngôn ngữ văn học ». Bởi thế mà đọc giả đọc thơ chị như bát gặp
tâm hồn mình được soi chiếu, chân thực và sâu sắc vô cùng.
Đại văn hào Lamáctin từng nói“Thơ ca là sự hiện thân cho những gì thầm
kín nhất của con tim, thiêng liêng nhất của tâm hồn con người”. Quả đúng như
vậy. Có thể nói, qua những dòng thơ năm chữ đều đặn, nhịp nhàng, sự sáng tạo
trong xây dựng hình tượng, hình ảnh sóng đôi, sự khéo léo trong việc vận dụng các
thủ pháp nghệ thuật ẩn dụ, nhân hóa, ta luôn thấy lấp lánh vẻ đẹp tâm hồn nữ thi sĩ
Xuân Quỳnh, người phụ nữ vừa đằm thắm thiết tha vừa mãnh liệt cháy bỏng trong
khát vọng tình yêu trong sáng. Thơ Xuân Quỳnh vẫn khiến ta cảm nhận thấy nét
dịu dàng truyền thống trong cái mạnh mẽ, táo bạo vừa đủ để khơi dậy những xúc
cảm thẩm mĩ đẹp đẽ, những ước vọng đầy thi vị trong lòng độc giả nhiều thế hệ!

ĐỀ 3: Cho đoạn thơ sau:


“Con sóng dưới lòng sâu
Con sóng trên mặt nước
Ôi con song nhớ bờ
Ngày đêm không ngủ được
Lòng em nhớ đến anh
Cả trong mơ còn thức
Dẫu xuôi về phương Bắc
Dẫu ngược về phương nam
Hướng về anh một phương”
(Trích: Sóng – Xuân Quỳnh)
Cảm nhận về vẻ đẹp tâm hồn người con gái khi yêu qua đoạn thơ trên. Từ đó nhận
xét về nét truyền thống và hiện đại trong thơ Xuân Quỳnh.
BÀI LÀM:
Bạn hãy thử tưởng tượng nếu không có tình yêu thì thế giới này sẽ ra sao?
Hẳn sẽ chỉ như một hoang mạc khô cằn, không hoa thơm quả ngọt, không hương
sắc mặn nồng. Nó thật tẻ nhạt biết bao! Tình yêu đã khiến thế giới trở nên lung
linh đẹp đẽ hơn, cũng như nó biến tâm hồn ta trở thành một thế giới diệu kì đầy bí
ẩn mà đôi khi, chính bản thân ta cũng không ngờ tới. Tình yêu cũng làm ngân lên
trong tâm hồn con người những xúc cảm mãnh liệt và đầy thi vị làm tan chảy trái
tim của hết thảy con người trong vũ trụ. Nó trở thành nguồn cảm hứng bất tận và
không lặp lại trong tâm hồn những thi nhân. Ta bắt gặp một tình yêu đầy triết lý
trong thơ Tago, một tình yêu chân thành mà mãnh liệt trong thơ Puskin, một tình
yêu rạo rực đến vội vàng cuống quýt trong thơ Xuân Diệu. Và đến với bài thơ
“Sóng” ta nhận ra một Xuân Quỳnh vừa đằm thắm dịu dàng đầy nữ tính mà cũng
vừa nồng nàn, mãnh liệt giữa biển tình yêu mênh mông, cao cả. Đọc những dòng
thơ tình yêu của chị mà lòng độc giả xốn xang vô cùng:
“Con sóng dưới lòng sâu

Hướng về anh một phương”
Xuân Quỳnh viết “Sóng” năm 1967 trong chuyến đi thực tế đến vùng biển
Diêm Điền (Thái Bình) giữa lúc cuộc kháng chiến chống Mĩ đang ở giai đoạn cam
go ác liệt. Bài thơ như một bông hoa dịu dàng mà kiêu hãnh khoe sắc tỏa hương
dọc chiến hào hành quân gian khổ. Được xem là một trong những người viết thơ
tình hay nhất trong nền thơ Việt Nam từ sau Cách mạng, “với giọng điệu hết sức
thơ, hết sức tự nhiên, Xuân Quỳnh đã bộc lộ những xúc cảm tình yêu nhiều cung
bậc trong sự đối sánh với cung bậc tình yêu của sóng với biển khơi vô tận – một
hình tượng vừa gợi sự quen thuộc vừa giàu liên tưởng. Hòa trong mạch cảm xúc
sôi nổi, đắm say của “sóng” và “em” ở những khổ thơ đầu, Xuân Quỳnh đã diễn tả
nỗi nhớ trong tình yêu bằng một khổ thơ dài sáu dòng thật độc đáo:
“Con sóng dưới lòng sâu

Cả trong mơ còn thức”
Có thể nói đây là khổ thơ hay nhất, ấn tượng nhất trong bài thơ không chỉ ở
độ dài mà ở đó hình tượng sóng và em hiện lên trong quan hệ đối sánh hài hòa, soi
chiếu. Dù cho thi sĩ không sử dụng bất kì một từ so sánh nào suốt bài thơ nhưng
người đọc dễ dàng nhận ra sóng chính là biểu tượng cho những cảm xúc mãnh liệt
của người con gái khi yêu. Nếu sóng của thiên nhiên luôn ào ạt vỗ bờ không ngơi
không nghỉ, thì em cũng tha thiết yêu anh mãnh liệt như tình yêu của sóng với bờ
vậy. “Sóng” được diễn tả rất tự nhiên và đầy bất ngờ khơi gợi những liên tưởng
thật thú vị cho độc giả. Sóng và “em” có khi tách biệt để chiêm nghiệm, để soi
chiếu vào nhau, có lúc lại quyện hòa trong một chỉnh thể thống nhất: sóng là em
mà em cũng là sóng.
Câu thơ mở ra không gian hai chiều “dưới lòng sâu” và “trên mặt nước”, đó
là không gian vẫy vùng của sóng cũng chính là không gian mênh mông hun hút
của nỗi nhớ, của tình yêu. Điệp từ “con sóng” được nhắc lại hai lần ở đầu mỗi câu
thơ như nhấn mạnh chủ thể của nỗi nhớ, đồng thời diễn tả sự dày vò trong tâm can
của sóng, dù ở đâu, bất cứ nơi nào thì con sóng cũng luôn cồn cào da diết một nỗi
nhớ bờ:
“Ôi con sóng nhớ bờ
Ngày đêm không ngủ được”
Dường như khát vọng được bộc lộ xúc cảm nhớ nhung đã bật lên thành lời
giãi bày gan ruột “ Ôi con sóng nhớ bờ”. Thẳng thắn và chân thành. Sóng bộc lộ
nỗi lòng nhớ nhung khắc khoải với bờ, Nỗi nhớ không chỉ vượt qua không gian
mênh mông, bất tận của biển cả mà còn trải dài qua thời gian miên man, thay đổi
nhịp sinh học của sóng “ngày đêm không ngủ được”.
Những tưởng mạch thơ bị hẫng hụt thiếu lôgic mà trái lại, hai câu thơ tiếp
theo đã tạo liên tưởng bất ngờ, thú vị cho người yêu thơ:
Lòng em nhớ đến anh
Cả trong mơ còn thức
Một lời bộc bạch tâm tình vừa chân thành vừa táo bạo đã thể hiện hết cái cốt cách
rất riêng của Xuân Quỳnh. Chị không chấp nhận cái gì là hời hợt nửa vời, đã yêu
thương phải tìm đến cái tận cùng của cao cả, phải như con sóng cuộn xoáy đến tận
đáy vực biển sâu. Người con gái đang yêu ấy không e ngại khi bộc lộ xúc cảm
mãnh liệt đang trào dâng trong trái tim mình, trong tấm lòng mình mà hãnh diện
phô khoe đầy chân thành và tha thiết: “Lòng em nhớ đến anh”. Đó là thứ tình cảm
thiêng liêng xuất phát từ nơi sâu kín nhất trong tâm hồn mà người phụ nữ luôn có
nhu cầu được bộc lộ, được sẻ chia và thấu hiểu. Như nhà phê bình văn học Võ Văn
Trực từng nhận xét: “Điều đáng quý nhất ở Xuân Quỳnh và thơ Xuân Quỳnh là sự
thành thật, rất thành thật, thành thật trong quan hệ bạn bè, với xã hội và cả tình
yêu. Chị không quanh co không giấu diếm một điều gì. Mỗi dòng thơ, mỗi trang
thơ đều phơi bày một tình cảm, một suy nghĩ của chị. Chỉ cần qua thơ ta biết khá kĩ
đời tư của chị. Thành thật, đây là cốt lõi thơ Xuân Quỳnh”. Quả thực, thơ chị nồng
đậm hơi thở cuộc đời!
Yêu thương mãnh liệt thì nỗi nhớ sẽ cồn cào da diết. Nỗi nhớ trong lòng thi
sĩ cũng như con sóng dàn trải miên man, vượt qua không gian, thời gian và xâm
lấn cả vào tiềm thức của trái tim đang yêu “cả trong mơ còn thức”.
Câu thơ với những từ ngữ đối lập “mơ-thức” tưởng như phi lí mà thực sự có
lí khi nói về nỗi nhớ trong tình yêu. Khoảng cách về không gian địa lí chỉ khiến
tình yêu thêm nồng nàn, bởi hình ảnh người mình yêu luôn hiện hữu trong tâm trí,
nó choáng ngợp và chi phối cả lí trí của con người “Nhớ ai ra ngẩn vào ngơ – Nhớ
ai, ai nhớ, bây giờ nhớ ai” (ca dao).
Không dừng lại ở sự nhớ nhung khắc khoải, tình yêu còn đẹp đẽ bởi tấm
lòng thủy chung son sắt: Dẫu xuôi về phương Bắc

Dẫu ngược về phương Nam


Đọc những vần thơ của Xuân Quỳnh, ta như luôn thấy cái suy nghĩ của một
người phụ nữ truyền thống, “rất đồng nội, quê kiểng, nó gắn với sự duy nhất, sự
chung tình, với tổ ấm, với mái nhà, với hạnh phúc của hôn nhân, nó đòi tuyệt đối,
nó dứt khoát không chấp nhận mọi ngập ngừng trù trừ, láu cá, nó không chịu bị xẻ
chia, bị vay mượn, dẫu là tạm thời, là thường tình, nó xoè tất cả lông cánh, móng
vuốt ra để giữ gìn tình yêu trước mọi sự xâm phạm tự phía ngoài. (Lại Nguyên
Ân). Bởi thế mà ý thơ, nhịp thơ mang sự quả quyết, dứt khoát như một lời thề
nguyện “trăm năm tạc một chữ đồng đến xương” trong mối tình Kim – Kiều năm
xưa. Qua điệp từ “dẫu”, điệp cấu trúc: “Dẫu xuôi về…Dẫu ngược về…” được diễn
đạt trong một cách nói không thuận chiều (đúng ra phải là xuôi Nam – ngược Bắc)
ta thấy cái tất bật của dòng đời xô đẩy, của con tạo xoay vần, của khó khăn chồng
chất. Và đằng sau đó là một người phụ nữ kiên định, thủy chung:
Nơi nào em cũng nghĩ
Hướng về anh một phương
“Nơi nào” – “cũng nghĩ” là cách diễn tả một cảm xúc thường trực, bao trùm, một
cảm xúc được định hướng, được soi đường bởi lí trí của một người phụ nữ chín
chắn và luôn biết trân trọng tình yêu. Còn “hướng về anh” là sự toàn tâm toàn ý.
Lại thêm dấu gạch nối ở giữa và chữ “một phương” ở cuối câu thơ càng chắc chắn
thêm cho sự khẳng định hướng về anh là “tâm nguyện suốt đời” của em. Người ta
cho rằng “Thơ là những xúc động đặc biệt được diễn tả bằng một ngôn ngữ đặc
biệt của một sinh linh có năng khiếu đặc biệt mệnh danh là thi sĩ”. Vậy mà đọc
những vần thơ của thi sĩ Xuân Quỳnh, ta vẫn cảm thấy cái gần gũi mộc mạc như
chính tính cách thẳng thắn trong cuộc sống đời thường của chị, nghĩ sao thì nói
vậy. Và khi đã yêu thì nhất thiết phải là yêu hết mình và dành trọn trái tim cho
người mình yêu, cả tâm trí bị chi phối bởi phương anh - không phải chỉ bởi vì đó là
nơi tình yêu rực cháy, mà còn bởi lí trí mách bảo chị phải hướng về.
Xuân Quỳnh viết những dòng thơ tình yêu mãnh liệt khi vừa trải qua đổ
vỡ trong tình yêu. Bằng trực cảm của một người phụ nữ chín chắn và sâu sắc, hơn
ai hết, chị hiểu được giá trị của một tình yêu đích thực, một tình yêu cao cả, bền
lâu. Càng yêu thương hết mình chị càng khao khát một sự thủy chung mãi mãi. Đó
là ước muốn chính đáng và đẹp đẽ, góp phần làm nên nét đẹp vừa truyền thống vừa
hiện đại trong tâm hồn Xuân Quỳnh, trong thơ Xuân Quỳnh.
Có thể nói, bằng lối viết chân thật, giàu xúc cảm, cách sử dụng ngôn từ, hình
tượng độc đáo giàu sức gợi, hai khổ thơ đã đủ cho ta thấy sự mãnh liệt, hết mình
trong tình yêu, một tấm lòng thủy chung son sắt của thi sĩ Xuân Quỳnh. Đọc thơ
chị, ta càng hiểu hơn vẻ đẹp tâm hồn người con gái đang yêu, càng trân trong hơn
những cảm xúc đẹp đẽ trong tình yêu. Trái tim sinh học của thi sĩ đã ngừng đập
nhưng những vần thơ tình yêu có hương vị cổ truyền, có cả cay đắng, ngọt ngào,
hờn giận, xót xa, những tiếng lòng khao khát hiến dâng, được trường tồn cùng thời
gian sẽ không dễ lìa xa cuộc sống chúng ta, con người chúng ta, văn học chúng ta
cũng như những vần thơ tự hát còn ngân vang mãi:
Em trở về đúng nghĩa trái tim em
Là máu thịt đời thường ai chẳng có
Vẫn ngừng đập khi cuộc đời không còn nữa
Nhưng biết yêu anh ngay cả khi chết đi rồi!

ĐỀ 4: Cảm nhận của anh/chị về vẻ đẹp tâm hồn người phụ nữ trong tình yêu qua
đoạn trích:
Con sóng dưới lòng sâu
Con sóng trên mặt nước
Ôi con sóng nhớ bờ
Ngày đêm không ngủ được
Lòng em nhớ đến anh
Cả trong mơ còn thức

Dẫu xuôi về phương bắc


Dẫu ngược về phương nam
Nơi nào em cũng nghĩ
Hướng về anh - một phương

Ở ngoài kia đại dương


Trăm nghìn con sóng đó
Con nào chẳng tới bờ
Dù muôn vời cách trở

Cuộc đời tuy dài thế


Năm tháng vẫn đi qua
Như biển kia dẫu rộng
Mây vẫn bay về xa

Làm sao được tan ra


Thành trăm con sóng nhỏ
Giữa biển lớn tình yêu
Để ngàn năm còn vỗ
(Trích Sóng, Xuân Quỳnh, Ngữ văn 12, Tập một, Nxb Giáo dục Việt Nam, 2019)

a. Mở bài:
- Giới thiệu tác giả Xuân Quỳnh: Xuân Quỳnh là một trong những nhà thơ trưởng
thành trong kháng chiến chống Mỹ. Thơ Xuân Quỳnh là tiếng lòng của một
người phụ nữ giàu yêu thương, khát khao hạnh phúc đời thường.
- Giới thiệu tác phẩm Sóng: Là một tác phẩm đặc sắc của Xuân Quỳnh khi viết về
đề tài tình yêu. Tác phẩm được trích trong tập thơ “Hoa dọc chiến hào”
- Nêu luận đề: Vẻ đẹp tâm hồn người phụ nữ trong tình yêu.
b. Thân bài:
- Vẻ đẹp người phụ nữ được thể hiện qua nỗi nhớ nhung trong tình yêu. (khổ 5)
+ Đây là đoạn thơ có số lượng câu thơ trong một khổ đột nhiên tăng lên từ bốn
câu thành sáu câu. Nghệ thuật tương phản để gợi ra những phạm vi không gian
khác nhau “dưới lòng sâu”, “trên mặt nước”, phạm vi thời gian khác nhau:
‘”ngày” – “đêm”, thêm vào đó việc sử dụng biện pháp điệp cấu trúc ở câu thơ 1
và 2, phép lặp từ “con sóng” và phép đối “dưới lòng sâu – trên mặt nước” đã thể
hiện những dạng thức khác nhau của sóng. Sóng trên mặt đại dương, sóng trong
lòng biển cả. Con sóng như đang được nhân hóa sóng là em, em là sóng nên sóng
cũng biết nhớ nhung da diết.
+ “Ôi con sóng nhớ bờ/ Ngày đêm không ngủ được”. Con sóng nhớ bờ luôn xao
động ở mọi không gian trên mặt biển, dưới lòng sâu và mọi thời gian từ ngày tới
đêm khiến sóng không lúc nào ngủ yên. Xuân Quỳnh mượn trạng thái của sóng để
diễn tả tâm lý của người con gái trong tình yêu. Nỗi nhớ đến đây đã trở thành một
quy luật do vậy nỗi nhớ ấy đã trở nên vĩnh hằng. Nhưng dường như ngần ấy thôi là
chưa đủ. Hai câu thơ tiếp nhân vật trữ tình “em” đã tách bạch ra khỏi “sóng” để
trực tiếp bộc lộ nỗi lòng mình. Nếu sóng nhớ bờ cả khi ở dưới lòng sâu đến khi
trên mặt nước cả đêm lẫn ngày thì em cũng nhớ anh mọi lúc mọi nơi. Nếu sóng vì
nhớ bờ
mà ngày đêm không ngủ được thì em vì nhớ anh mà thức cả trong mơ. Hình ảnh
của người yêu đã ám ảnh trong tâm trí người con gái, trở thành một phần máu thịt
của họ và dù trong vô thức hay trong tiềm thức thì hình ảnh đó vẫn hiện lên rõ
ràng, chân thực. Chi tiết “trong mơ còn thức” ngoài việc thể hiện nỗi nhớ sâu sắc
còn thể hiện một dự cảm lo âu. Người con gái lo sợ rằng tình yêu sẽ vuột mất khỏi
tầm tay bất cứ lúc nào nên cả trong mơ người con gái vẫn thức để canh giữ tình
yêu.
+ Người phụ nữ bày tỏ nỗi nhớ một cách trực tiếp, mạnh dạn, chân thành “Lòng
em nhớ đến anh”, cách nói thậm xưng “Cả trong mơ còn thức” thể hiện nỗi nhớ
ăn sâu vào tiềm thức, thường trực trong suy nghĩ.
- Vẻ đẹp người phụ nữ thông qua sự thủy chung của họ trong tình yêu. (khổ 6)
+ Sóng luôn tìm về với bờ cũng như em luôn hướng về nơi có anh. Đó là lòng
chung thủy của người con gái trong tình yêu.
+ Nếu phương Bắc, phương Nam gợi sự xa xôi cách trở thì hai động từ “xuôi”,
“ngược” lại thể hiện sự gian nan vất vả. Tuy vậy, từ “dẫu” đứng đầu câu lại thể
hiện bản lĩnh kiên cường của người phụ nữ. Một khi đã yêu nhau thì đôi lứa nói
chung và người phụ nữ nói riêng cũng bất chấp tất cả mọi khó khăn để đến được
với nhau.
+ Câu thơ cuối cùng mang một ý nghĩa vô cùng độc đáo. Nếu những con sóng có
thể hướng về bốn phương Đông – Tây – Nam – Bắc thì người con gái chỉ hướng
về một nơi duy nhất, ấy là nơi anh. Từ xưa đến nay người ta vẫn thường nói
“Xuôi Nam, ngược Bắc” giờ đây Xuân Quỳnh lại nói “Xuôi Bắc, ngược Nam” là
cách nói ngược. Phải chăng tình yêu đã làm cho con người bị đảo lộn phương
hướng ? Nhưng có một phương mà em không thể nào lẫn lộn, không thể nào
nguôi nhớ đó là phương anh. Giữa cuộc đời này, anh là bến bờ hạnh phúc duy
nhất để em hướng về. Nơi nào có anh thì ấm áp, đẹp đẽ tươi vui, nơi nào không
anh thì tất cả đều trở nên u buồn, lạnh lẽo. Đó cũng chính là tấm lòng thủy chung
son sắc của người con gái trong tình yêu mà Xuân Quỳnh muốn thể hiện.
- Vẻ đẹp tâm hồn người phụ nữ thông qua khát khao về tình yêu vĩnh cửu. (còn lại)
+) Khổ 7: khẳng định quy luật vĩnh cửu của thiên nhiên “con nào chẳng tới bờ ...
Dù muôn vời cách trở”, cũng giống như “em”, dù khó khăn, thử thách vẫn luôn
hướng đến “anh”.
+ Trăm ngàn con sóng là cụm từ chỉ số lượng. Dù có muôn vàn con sóng ở ngoài
kia thì chúng cũng đều tuân theo một quy luật bất di bất dịch là tìm đến với bờ dù
có xa xôi cách trở bao nhiêu.
+ Mượn hình ảnh con sóng, Xuân Quỳnh như muốn khẳng định một điều rằng trái
tim người phụ nữ luôn hướng về người mình yêu. Đó không còn là cảm xúc nhất
thời mà nó đã trở thành quy luật mà đã là quy luật thì cho dù có bao nhiêu năm
tháng đi qua lòng chung thủy ấy cũng không bao giờ biến đổi. Để rồi sau bao nhiêu
khó khăn, gian nan thử thách chính lòng chung thủy sẽ giúp con sóng tới được bến
bờ mà nó thổn thức nhớ mong đến nỗi không ngủ yên cũng như đưa em đến bên
anh sau tháng ngày xa xôi cách trở.
+ Câu thơ như tiếng lòng hay nói đúng hơn là niềm tin mãnh liệt vào một cái kết
đầy viên mãn cho một tình yêu vĩnh cửu.
+) Khổ 8:
+ Cuộc đời chỉ quỹ thời gian ngắn ngủi của một kiếp người, năm tháng chỉ dòng
thời gian vô thủy vô chung. Biển cả chỉ giới hạn không gian trật hẹp trong khi đó
mây trời lại chỉ không gian rộng lớn của vũ trụ. Cuộc đời tuy dài nhưng so với
dòng chảy vô tận của thời gian nó chỉ là một cái chớp mắt. Tương tự với đó, biển
kia tuy rộng nhưng nếu đem so sánh với mây trời thì nó thật nhỏ bé biết bao. Đem
đặt cái hữu hạn cạnh cái vô hạn Xuân Quỳnh đã thể hiện nỗi lo ấu trước sự phù du
của kiếp người. Rồi một ngày nào đó, anh và em sẽ không còn nữa đồng nghĩa với
với việc chúng ta sẽ không thể yêu nhau.
+ Tuy thế nhà thơ vẫn tin tưởng, tin tưởng ở tấm lòng nhân hậu và tình yêu chân
thành của mình sẽ vượt qua tất cả như áng mây kia như năm tháng kia. Có thể nói
Xuân Quỳnh yêu thương tha thiết, mãnh liệt nhưng cũng tỉnh táo nhận thức dự
cảm những trắc trở, thử thách trong tình yêu; đồng thời cũng tin tưởng vào sức
mạnh tình yêu sẽ giúp người phụ nữ vượt qua thử thách đến với bến bờ hạnh
phúc. Cho nên, sóng sẽ đến bờ, năm tháng sẽ đi qua thời gian dài đằng đẵng và
đám mây nhỏ bé sẽ vượt qua biển rộng để bay về xa.
+ Một loạt hình ảnh thơ ẩn dụ được bố trí thành một hệ thống tương phản, đối lập
để nói lên dự cảm tỉnh táo, đúng đắn và niềm tin mãnh liệt của nhà thơ vào sức
mạnh của tình yêu. Yêu thương mãnh liệt nhưng cao thượng, vị tha. Nhân vật trữ
tình khao khát hòa tình yêu con sóng nhỏ của mình vào biển lớn tình yêu – tình
yêu bao la, rộng lớn – để sống hết mình trong tình yêu, để tình yêu riêng hoá thân
vĩnh viễn thành tình yêu muôn thủa.
+) Khổ 9:
+ Câu thơ “Làm sao được tan ra” là một câu thơ mang cấu trúc cầu khiến, nghi
vấn thể hiện niềm mong ước da diết và hiện thực. Tan ra là hi sinh, là dâng hiến,
là mong được hóa thân. Tan ra thành trăm con sóng là mong ước biến cái hữu hạn
thành cái vô hạn. Xuân Quỳnh muốn vượt qua cái hữu hạn của đời người giống
như con sóng kia ngàn năm còn vỗ giữa biển lới tình yêu. Đó là tiếng lòng của
một tâm hồn giàu đức hi sinh và lòng cao thượng.
+ Cuộc đời là biển lớn tình yêu, kết tinh vị mặn ân tình, được tạo nên và hòa lẫn
cùng trăm con sóng nhỏ. Trong quan niệm của nhà thơ, số phận cá nhân không
thể tách khỏi cộng đồng. Sóng không phải là biểu tượng của một cái tôi ngạo
nghễ, cô đơn và ích kỷ sóng là sự tổng hòa những vẻ đẹp khác nhau để tạo thành
biển lớn. Song song với đó như một lẽ thường tình cái tôi ích kỷ nhỏ bé trật hẹp
sẽ không thể tạo nên một tình yêu đẹp. Chỉ có lòng bao dung và trái tim yêu
thương vượt lên trên mọi ích kỷ tầm thường để tạo ra một tình yêu vĩnh cửu. Nhà
thơ đã thể hiện một khát vọng mãnh liệt muốn làm trăm con sóng để hòa mình
vào đại dương bao la, hòa mình vào biển lớn tình yêu để một đời vỗ muôn điệu
yêu thương “Người yêu người, sống để yêu nhau” (Tố Hữu)..
c. Kết bài:
Khái quát lại nội dung, nghệ thuật.
ĐỀ 5:
Ở ngoài kia đại dương
Trăm nghìn con sóng đó
Con nào chẳng tới bờ
Dù muôn vời cách trở

Cuộc đời tuy dài thế


Năm tháng vẫn đi qua
Như biển kia dẫu rộng
Mây vẫn bay về xa

Làm sao được tan ra


Thành trăm con sóng nhỏ
Giữa biển lớn tình yêu
Để ngàn năm còn vỗ
(Trích: Sóng – Xuân Quỳnh)
Cảm nhận về vẻ đẹp tâm hồn người con gái khi yêu qua đoạn thơ trên. Từ đó nhận
xét về nét riêng độc đáo trong thơ Xuân Quỳnh.
BÀI LÀM:
Xuân Quỳnh là nhà thơ nữ tiêu biểu cho phong trào thơ ca kháng chiến
chống Mĩ. Thơ chị là tiếng lòng của tâm hồn người phụ nữ nhiều trắc ẩn vừa hồn
nhiên tươi tắn vừa chân thành đằm thắm và luôn da diết trong những khát vọng
bình dị, đời thường. Sóng là một tác phẩm tiêu biểu cho hồn thơ ấy. Bài thơ là lời
giãi bày chân thật, hồn nhiên mà đầy sâu lắng của về khát vọng tình yêu, hạnh
phúc vĩnh hằng của thi sĩ. Vẻ đẹp tâm hồn của người con gái khi yêu được thể hiện
thật ấn tượng qua đoạn thơ sau:
Ở ngoài kia đại dương
Trăm nghìn con sóng đó
Con nào chẳng tới bờ
Dù muôn vời cách trở

Cuộc đời tuy dài thế


Năm tháng vẫn đi qua
Như biển kia dẫu rộng
Mây vẫn bay về xa

Làm sao được tan ra


Thành trăm con sóng nhỏ
Giữa biển lớn tình yêu
Để ngàn năm còn vỗ
Xuân Quỳnh viết “Sóng” năm 1967 trong chuyến đi thực tế đến vùng biển
Diêm Điền (Thái Bình) giữa lúc cuộc kháng chiến chống Mĩ đang ở giai đoạn cam
go ác liệt. Những tưởng trong hoàn cảnh khói bom khốc liệt ấy chỉ khiến lòng
người trào lên nỗi căm hờn quân xâm lược, nỗi quặn thắt trước những mất mát hi
sinh và cả niềm tự hào về một thời đại “ Xẻ dọc trường Sơn đi cứu nước”. Vậy
nhưng, đến với “Sóng” ta vẫn thấy những vần thơ lãng mạn dạt dào cảm xúc, như
những bông hoa thơm ngát trên con đường ra trận địa. Bằng ngòi bút lãng mạn
bay bổng, Xuân Quỳnh đã đem đến cho người đọc những trải nghiệm được khám
phá thế giới tâm hồn nhiều cung bậc cảm xúc của người con gái đang yêu, trong sự
đồng điệu với hình tượng “sóng” – một hình ảnh tưởng như đã quen thuộc trong
thơ ca. Sóng ở đây xuất hiện như một nhân vật trữ tình, một chủ thể trữ tình chứ
không chỉ đứng riêng rẽ, không chỉ là hình ảnh đối sánh. Sóng có khi tách rời sóng
đôi để soi chiếu, để chiêm nghiệm, có khi lại hòa hợp đồng nhất, tôn lên vẻ đẹp
tâm hồn người con gái đang yêu.

Nếu hình tượng nghệ thuật là bức tranh vừa cụ thể vừa khái quát về cuộc
sống thì hình tượng sóng chính là tấm gương phản chiếu tâm hồn nhiều suy tư trăn
trở mà đầy khát khao của người nữ thi sĩ ấy:

Ở ngoài kia đại dương


Trăm nghìn con sóng đó
Con nào chẳng tới bờ
Dù muôn vời cách trở
Trong cuộc hành trình vạn dặm từ sông ra bể, sóng - người con gái kiên định bản
lĩnh ấy không chỉ bộc lộ một tình yêu chân thành luôn “bồi hồi trong ngực trẻ”,
một nỗi nhớ da diết đến “cả trong mơ còn thức” và một lời khẳng định đầy giá trị
“Nơi nào em cũng nghĩ – Hướng về anh - một phương” mà người con gái chín
chắn ấy còn hiểu rằng: đến được với tình yêu đã khó, gìn giữ được tình cảm thiêng
liêng ấy bền lâu mãi mãi lại khó hơn nhiều. Để cập được bến bờ hạnh phúc, con
sóng lại phải thực hiện tiếp cuộc hành trình vượt đại dương, qua “muôn vời cách
trở”.
Với sự từng trải từ thực tế cuộc đời, từ một mối tình vừa đổ vỡ, người con
gái ấy có những nhận thức chín chắn về những khó khăn trắc trở luôn gặp phải
trong tình yêu. Trăm nghìn con sóng dù sinh ra từ lòng biển sâu hay trên mặt nước
cũng đều hướng đến đích cuối cùng là lến bờ bình yên. Trong cuộc đời con người
cũng vậy, cứ chân thành và mãnh liệt với tình yêu thì con người cũng được đền
đáp xứng đáng mà thôi.
Để khẳng định một niềm tin mãnh liệt vào những điều tốt đẹp đang chờ đón
ở phía trước, thi sĩ đã sử dụng những hình ảnh diễn tả không gian mênh mông “đại
dương”, “con sóng”, “bến bờ” kết hợp với những từ ngữ chỉ số lượng lớn “trăm,
nghìn”, “muôn vời” bằng một giọng thơ đầy quả quyết “Con nào chẳng tới bờ - Dù
muôn vời cách trở”. Yêu thương hết mình và luôn tin tưởng vào những điều tốt
đẹp sẽ đến, đó là cốt cách và bản lĩnh cần có trong tình yêu. Nhưng, ta vẫn thấy cái
lắng lo, trăn trở trong cách kết thúc câu khẳng định bằng “muôn vời cách trở”.
Điều đó làm nên giọng thơ Xuân Quỳnh, mãnh liệt đấy, đắm say đấy mà vẫn có gì
như dè dặt, như băn khoăn.
Và căn nguyên của những băn khoăn trăn trở là đây:
Cuộc đời tuy dài thế
Năm tháng vẫn đi qua
Như biển kia dẫu rộng
Mây vẫn bay về xa
Giọng thơ từ sôi nổi đắm say bỗng trùng xuống đầy suy tư! Tình yêu thì
mãnh liệt có thể vượt qua mọi không gian thời gian, vượt qua mọi thử thách,
nhưng có một điều đáng buồn là con người không thể sống mãi để yêu. Trong trăm
năm cuộc đời, tưởng như dài thế, mà thời gian có đợi chờ ai, “năm tháng vẫn đi
qua” vô tình, không gì níu kéo được. Xuân Quỳnh diễn tả điều đó bằng một hình
ảnh so sánh ví von khơi gợi nỗi buồn dàn trải miên man: “Như biển kia dẫu rộng –
Mây vẫn bay về xa”. Biển dẫu rộng thế cũng chẳng thể giữ mây làm mát tâm hồn.
Đó là quy luật khắc nghiệt của thời gian , con người cũng chẳng thể thay đổi nó,
chỉ biết than trách, hờn giận với tạo hóa: “Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn –
Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại – Còn trời đất nhưng chẳng còn tôi mãi – Nên
bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời” (Xuân Diệu). Quả thực, càng mến yêu, trân quý
cuộc sống bao nhiêu, con người càng ý thức về sự hữu hạn của nó và càng trăn trở
đi tìm phương cách để níu kéo thời gian. Bài thơ nào của nữ thi sĩ cũng có những
dòng thơ vò xé, day dứt tâm can như thế. Phải chăng, nó còn mang những dự cảm
không lành về cuộc đời ngắn ngủi của nhà thơ?

Khác với quan niệm tình yêu của Xuân Diệu. Khi nhận thức sự hữu hạn của
cuộc đời con người, Ông hoàng thơ tình muốn biến từng phút giây của cuộc sống,
của tuổi trẻ trở nên có giá trị, có ý nghĩa. Xuân Diệu có những ước mơ đầy táo bạo
và phi lí, muốn “tắt nắng”, “buộc gió” để níu giữ lấy thời gian, níu giữ lấy màu sắc
và hương vị của cuộc sống, muốn tận hưởng đến cuống quýt, say mê cuộc đời.
Xuân Quỳnh lại trăn trở đi tìm cách hóa thân bất tử cùng tình yêu:
Làm sao được tan ra
Thành trăm con sóng nhỏ
Giữa biển lớn tình yêu
Để ngàn năm còn vỗ
Khổ thơ bắt đầu bằng một câu hỏi “làm sao được tan ra”, hỏi đấy nhưng thực chất
là giãi bày tâm sự, giãi bày ước muốn phi lí trong lòng mình. Câu thơ cũng thể hiện
một tâm trạng bế tắc của một con người luôn khao khát yêu hết mình nhưng không
tìm được phương cách nào để níu giữ tình yêu mãi mãi khi cuộc đời con người thì
ngắn ngủi.
Dường như, đối với Xuân Quỳnh, yêu trong vòng một trăm năm cuộc đời là
không đủ, chị phải quyết hóa thân thành “trăm con sóng nhỏ”, sống cuộc đời của
sóng để được hòa vào “biển lớn tình yêu” và “ngàn năm” rì rào hát khúc tình ca
của biển. Đứng giữa không gian kì vĩ mênh mông của biển cả, người con gái ấy
ước muốn được “tan ra” - ước muốn tự nguyện được dâng hiến cái tôi nhỏ bé của
mình hòa vào cái chung lớn lao cao cả, ước nguyện được sống vĩnh hằng trong
tình yêu, bất tử hóa cùng tình yêu. Biết rằng, đó là ước mơ phi lí, nhưng nó thật
đúng với suy nghĩ, đúng với con người chị trong đời thường: luôn yêu hết mình và
sống hết mình. Ước vọng lớn lao như thế thường phải xuất phát từ tâm hồn của
những con người lãng mạn, đắm say và sẵn sàng hi sinh cho người mình yêu, như
Ta –go cũng từng viết: “Nếu đời anh chỉ là viên ngọc quý anh sẽ đập nó ra làm
trăm mảnh xâu thành chuỗi quàng vào cổ em.” Những ước vọng thật đẹp đẽ, thật
nhân văn!
Ở vào thời đại của thi sĩ Xuân Quỳnh, những vần thơ cháy bỏng khát vọng
tình yêu ấy như một luồng gió mới mẻ mát lành, thổi vào cánh đồng thơ ca nhiều
hương sắc. Thơ Xuân Quỳnh là tiếng lòng của người phụ nữ có vẻ đẹp tâm hồn
vừa đằm thắm thiết tha, thủy chung son sắt lại vừa mãnh liệt táo bạo trong những
đam mê và dâng hiến. Hai nét đẹp truyền thống và hiện đại hòa quyện trong tâm
hồn thi sĩ làm nên nét riêng độc đáo trong phong cách thơ Xuân Quỳnh khiến độc
giả không thể nào quên
Trong âm hưởng dạt dào của những con sóng, ta như nghe ngân vang lời “tự
hát” của Xuân Quỳnh – người nữ thi sĩ tài hoa mà bạc mệnh: “Em trở về đúng
nghĩa trái tim em – Là máu thịt đời thường ai chẳng có – Cũng ngừng đập khi
cuộc đời không còn nữa – Nhưng biết yêu anh ngay cả khi chết đi rồi.” Ba khổ thơ
cuối khép lại bài thơ với tiếng sóng biển vỗ ào ạt ngàn năm như nhắc nhớ một tâm
hồn mang khát vọng tình yêu vĩnh hằng. Những dư ba ấy còn nhắc nhở con người
hãy biết sống ân nghĩa thủy chung và hãy biết trân quý những phút giây hạnh phúc
mình đang có! Hãy yêu thương thật nhiều để từng phút giây trong cuộc đời hữu
hạn trở thành bất tử.
NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ (Nguyễn Tuân)
ĐỀ 1:
“..Hùng vĩ của sông Đà không phải chỉ có thác đá. Mà nó còn là những cảnh đá
bờ sông, dựng vách thành, mặt sông chỗ ấy chỉ lúc đúng ngọ mới có mặt trời. Có
vách đá thành chẹt lòng Sông Đà như một cái yết hầu. Đứng bên bờ này nhẹ tay
ném hòn đá qua bên kia vách. Có quãng con nai con hổ đã có lần vọt từ bờ này
sang bờ kia. Ngồi trong khoang đò qua quãng ấy, đang mùa hè mà cũng thấy lạnh,
cảm thấy mình như đứng ở hè một cái ngõ mà ngóng vọng lên một khung cửa sổ
nào trên cái tầng nhà thứ mấy nào vừa tắt phụt đèn điện.
Lại như quãng mặt ghềnh Hát Loóng, dài hàng cây số, nước xô đá, đá xô
sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm như lúc nào cũng đòi nợ
xuýt bất cứ người lái đò Sông Đà nào tóm được qua đấy. Quãng này mà khinh suất
tay lái thì cũng dễ lật ngửa bụng con thuyền ra.
Lại như quãng Tà Mường Vát dưới Sơn La. Trên sông bỗng có những cái
hút nước giống như cái giếng bê tông thả xuống sông để chuẩn bị làm móng cầu.
Nước ở đây thở và kêu như cửa cống cái bị sặc. Trên mặt cái hút xoáy tít đáy, cũng
đang quay lừ lừ những cánh quạ đàn. Không thuyền nào muốn men gần những cái
hút nước ấy, thuyền nào cũng chèo nhanh để lướt qua quãng sông, y như là ô tô
sang số ấn ga cho nhanh để vứt qua một quãng đường mượn cạp ra ngoài bờ vực.
Chèo nhanh và tay lái cho vững mà phóng qua cái giếng sâu, những cái giếng sâu
nước ặc ặc lên như vừa rót dầu sôi vào. Nhiều bè gỗ rừng đi nghênh ngang vô ý là
những cái giếng hút ấy nó lôi tuột xuống. Có những thuyền đã bị cái hút nó hút
xuống, thuyền trồng ngay cây chuối ngược rồi vụt biến đi, bị dìm và đi ngầm dưới
lòng sông đến mươi phút sau mới thấy tan xác ở khuỷnh sông dưới.”
(Người lái đò Sông Đà, Nguyễn Tuân, Ngữ văn 12, Tập, NXB Giáo dục Việt Nam,
2018, T.186)
Cảm nhận nét cá tính hung bạo của dòng sông Đà qua đoạn trích trên. Từ đó
nhận xét về bút pháp tài hoa, uyên bác của Nguyễn Tuân.
BÀI LÀM:
Nguyễn Tuân là một trong những nhà văn nổi tiếng của nền văn học Việt
Nam hiện đại. Ông từng được mệnh danh là đại thụ trong rừng đầu nguồn văn học
nước nhà thế kỉ XX. Không chỉ thành công ở thể loại truyện ngắn, sau cách mạng,
nhà văn còn gây tiếng vang lớn với tập tùy bút “Sông Đà”. Nhắc đến tập tùy bút,
không thể không nhắc đến tác phẩm “ Người lái đò sông Đà” – một sự khám phá
mang đầy nét phóng túng, tài hoa của Nguyễn Tuân về dòng sông Đà và con người
lao động ở vùng cao Tây Bắc. Người đọc sẽ luôn nhớ một sông Đà thật sống động
với đầy đủ diện mạo, tính cách như một cơ thể sống: vừa hung bạo đến hãi hùng lại
vừa lãng mạn trữ tình đến say đắm. Đoạn thơ sau đã khắc họa thật ấn tượng nét cá
tính hung bạo của dòng sông, đem đến những xúc cảm mạnh mẽ trong lòng người
đọc: “..Hùng vĩ của sông Đà không phải chỉ có thác đá…đến mươi phút sau mới
thấy tan xác ở khuỷnh sông dưới.”
Trong chuyến đi thực tế lên vùng cao Tây Bắc năm 1958, với ý thức đi tìm
kiếm chất vàng mười đã qua thử lửa của thiên nhiên và con người nơi đây,
Nguyễn Tuân đã có dịp được khám phá những vẻ đẹp hoang sơ, hùng vĩ của dòng
sông Đà, một con sông độc đáo và đầy cá tính. Sự gặp gỡ thú vị giữa một người
nghệ sĩ khao khát đi tìm kiếm cái đẹp tuyệt đỉnh với thực thể sông Đà – một viên
kim cương xù xì của hoang sơ, nguyên thủy đã kết tinh thành thiên tùy bút “ Người
lái đò sông Đà”. Sông Đà đã đáp ứng mọi tiêu chí khắt khe trong quan niệm về cái
đẹp hoàn hảo của Nguyễn Tuân, để rồi, như rồng gặp hội gió mưa, ngòi bút tài hoa,
điêu luyện của nhà văn cứ thế điều khiển đội quân chữ nghĩa nhào lộn, biến ảo thần
tình. Không để độc giả tò mò chờ đợi, ngay từ đầu thiên tùy bút, Nguyễn Tuân đã
khuấy động những xúc cảm mạnh mẽ ở người đọc bởi liên tiếp những câu văn
khắc họa sự hùng vĩ của dòng sông.
“..Hùng vĩ của sông Đà không phải chỉ có thác đá.” Bằng một câu văn
ngắn gọn chắc khỏe, Nguyễn Tuân đã báo trước cho độc giả chuẩn bị thưởng
ngoạn một cảnh sắc dòng sông ở một góc nhìn khác, một yếu tố khác không kém
phần sống động như thác đá vừa giới thiệu ở trên. Đó là “những cảnh đá bờ sông,
dựng vách thành, mặt sông chỗ ấy chỉ lúc đúng ngọ mới có mặt trời. Có vách đá
thành chẹt lòng Sông Đà như một cái yết hầu.” Mở ra trước mắt người đọc là một
công trình kiến tạo của tự nhiên, sự sắp đặt của đá hai bên bờ sông. Không phải
như sông Hồng, sông Đáy, chảy qua miền quê yên ả với đôi bờ là phù sa màu mỡ
mà Sông Đà ở khúc thượng nguồn Tây Bắc mang đặc trưng của địa hình hiểm trở,
khắp nơi đều trở thành địa hạt của đá. Đọc những câu văn miêu tả cụ thể sự hiện
hữu của đá hai bên bờ sông mà người đọc ngỡ như Sông Đà nứt ra từ lòng núi, nó
khiến con người có cảm giác choáng ngợp khi hình dung sự lấn át, chiếm lĩnh của
đá, như vây kín, như “chẹt” lấy lòng sông làm cho nó hẹp đến mức “Đứng bên bờ
này nhẹ tay ném hòn đá qua bên kia vách. Có quãng con nai con hổ đã có lần vọt
từ bờ này sang bờ kia.” Lũ đá hai bên bờ sông khiến dòng nước bị ức chế, bị bóp
nghẹt đến cuồng nộ. Có lẽ chính vì thế mà Đà giang càng trở nên bí hiểm và thực
sự mang tính cách của một thứ kẻ thù số một của con người.
Ngòi bút của Nguyễn Tuân không chỉ miêu tả sống động cảnh vật khiến độc
giả như đang nhìn thấy tận mắt mà nhất thiết phải khiến độc giả rùng mình, rợn tóc
gáy về những cảnh tượng đó mới thỏa lòng. Đó là cái cảm giác ớn lạnh đến xương
sống của một người dám mạo hiểm ngồi trong khoang đò qua quãng sông đá thắt
cổ chai mà hai bên bờ là đá dựng vách thành ấy. “Đang mùa hè mà cũng thấy lạnh,
cảm thấy mình như đứng ở hè một cái ngõ mà ngóng vọng lên một khung cửa sổ
nào trên cái tầng nhà thứ mấy nào vừa tắt phụt đèn điện.”Hình ảnh so sánh sống
động trong vai trò một nghệ sĩ nhiếp ảnh, tác giả vừa khắc sâu sự kì bí, hùng vĩ của
sông Đà vừa cho thấy khả năng tái hiện hình ảnh bằng ngôn từ bậc thầy của
Nguyễn Tuân.
Người “ phu chữ” tài ba ấy đã lôi cuốn người đọc vào một cuộc vượt thác
ngôn từ trên dòng sông văn chương lấp lánh. Từng câu văn của Nguyễn Tuân dài
như con sông Đà quãng ghềnh Hát Loóng. Sóng chữ xô đẩy nhau hối hả, như
muốn chồm lên mặt giấy, như muốn làm mỏi ý chí người đọc. Ngồi trên khoang đò
của người cầm lái cừ khôi, độc giả nín thở, tay bấu chặt lấy thuyền khi vượt qua
ghềnh thác. Tại đoạn ghềnh Hát Loóng ấy, “dài hàng cây số, nước xô đá, đá xô
sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm như lúc nào cũng đòi nợ
xuýt bất cứ người lái đò Sông Đà nào tóm được qua đấy”. Sự bạo liệt của hình ảnh
sông Đà được cộng hưởng bởi nước, đá, sóng, gió, thêm vào đó là sự thanh viện
của những luồng gió ‘gùn ghè suốt năm” đã trở thành nỗi ngán ngẩm của bất kể tay
lái dày dặn kinh nghiệm nào. ‘Quãng này mà khinh suất tay lái thì cũng dễ lật ngửa
bụng con thuyền ra.” Sông Đà lúc này không chỉ còn là một con sông thiên nhiên
mà nó thực sự đã trở thành một con thủy quái sống dậy trong nỗi oán hận vô cơ với
loài người.

Nhà nghiên cứu phê bình Tạ Tỵ đã nhận xét “Nguyễn Tuân viết mà giống
như nhà điêu khắc cần cù chạm trổ vào mặt đá quý những hình nét trác tuyệt.” Quả
đúng như vậy, đọc từng dòng miêu tả sông Đà hung bạo ở quãng Tà Mường Vát
dưới Sơn La, độc giả đều dễ dàng hình dung bởi thứ ngôn từ giàu tính tạo hình ấy.
Không miêu tả sự ác liệt của đá, sóng, gió như quãng ghềnh Hát Loóng, nhà văn
tập trung khắc họa sự nguy hiểm của những cái hút nước ”xoáy tít đáy”. Nó xuất
hiện đột ngột, ngoài tầm kiểm soát của con người. Tác giả dùng hình ảnh so sánh
tương đồng về hình dáng“những cái hút nước giống như cái giếng bê tông thả
xuống sông để chuẩn bị làm móng cầu.” Và sự so sánh tương đồng về âm thanh
“nước ở đây thở và kêu như cửa cống cái bị sặc.” Qua miêu tả, người đọc không
chỉ thấy cái kì vĩ, bí hiểm của những hút nước mà còn như nghe được âm thanh và
cảm giác bị cuốn vào cái lỗ hổng đáng sợ ấy như những cánh quạ yếu ớt sắp sửa bị
nó nuốt chửng cả đàn vậy.

Sông Đà không hiện lên trong trạng thái tĩnh tại của một bức điêu khắc mà
Nguyễn Tuân muốn nó hiện lên trong những cảm giác phong phú của người đọc.
Độc giả được cùng xuống thuyền trải nghiệm giây phút vượt qua những hút nước
ấy, được mở rộng các giác quan để tận mắt nhìn thấy cái kích thước khổng lồ khi ở
men cái hút nước, để lắng nghe tiếng ‘nước ặc ặc lên như vừa rót dầu sôi vào”,và
sống trong sự sợ hãi khi đứng giữa bờ vực của sinh tử “Nhiều bè gỗ rừng đi
nghênh ngang vô ý là những cái giếng hút ấy nó lôi tuột xuống. Có những thuyền
đã bị cái hút nó hút xuống, thuyền trồng ngay cây chuối ngược rồi vụt biến đi, bị
dìm và đi ngầm dưới lòng sông đến mươi phút sau mới thấy tan xác ở khuỷnh sông
dưới.” Để rồi, khi “chèo nhanh và tay lái cho vững mà phóng qua cái giếng sâu”
ấy, ta mới thấy hết được tận cùng ý nghĩa của cuộc sống, mới đi đến tận cùng cảm
giác chiến thắng của một người chế ngự được nỗi sợ hãi của bản thân, chế ngự
được con thủy quái Sông Đà.

Độc giả yêu thơ từng biết đến sự hùng vĩ và hung bạo của dòng Sông Đà qua
tiếng thác nước gầm réo trong câu thơ của Quang Dũng “Chiều chiều oai linh thác
gầm thét”. Nhưng phải đến những trang văn tài hoa, uyên bác của Nguyễn Tuân ta
mới thấy hết cái diện mạo và tâm địa ghê gớm của Đà giang. Nó độc nhất vô nhị
trong cái nhìn độc đáo cuả nhà văn. Nó không chỉ sinh động có hồn như những
dòng sông trong bao tác phẩm thơ ca khác mà là dòng sông biết tương tác, biết
giao tiếp với con người bằng cá tính riêng của nó. Bởi thế mà Nguyễn Tuân cũng
được coi là nhà văn của những cảm xúc tuyệt đối. Sông Đà ở khúc thượng nguồn
ấy đạt tới cái hùng vĩ cái hung bạo đến tột cùng, vậy mà nó có thể uốn mình theo
những cánh đồng miền trung du để rồi trở nên trữ tình thơ mộng đến đắm say tột
đỉnh. Điều đó chỉ có thể là cái nhìn độc đáo đầy tài hoa của một con người suốt đời
đi tìm cái đẹp và ngợi ca cái đẹp như Nguyễn Tuân.

“Ngôn ngữ Nguyễn Tuân đó là thứ ngôn ngữ có hình, có khối, có nhạc, và đương
nhiên là có hồn - cái hồn được truyền lại từ cha ông và cái hồn của người viết phả
vào, bởi tài năng vận dụng, khai thác hết công suất của nó” (Tạ Tỵ). Quả đúng như
vậy, Chỉ một đoạn tùy bút nhỏ cũng đủ thấy tài năng sử dụng ngôn ngữ bậc thầy
của nhà văn. Hơn nữa, qua đoạn trích, độc giả không chỉ thấy được một góc nhìn
về sông Đà hùng vĩ, hung bạo, mà còn thấy ở Nguyễn Tuân cái chất kiêu bạc,
phóng túng trong nhãn quan,nhưng lại hết sức nghiêm túc trong nghề viết. Đọc
đoạn trích nói riêng, cả thiên tùy bút nói chung, ta thêm hiểu biết và yêu quý hơn
những cảnh sắc quê hương và trân trọng hơn những người lao động nghệ thuật
nghiêm túc và cống hiến hết mình để có những trang viết hay để lại cho hậu thế
như Nguyễn Tuân – một người “phu chữ” lão luyện trong nền văn chương hiện
đại Việt Nam .

ĐỀ 2: Cảm nhận vẻ đẹp trữ tình của Sông Đà (Người lái đò Sông Đà - Nguyễn
Tuân) trong hai đoạn trích dưới đây:
Con Sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn
hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù
khói núi Mèo đốt nương xuân. Tôi đã nhìn say sưa làn mây mùa xuân bay trên
Sông Đà, tôi đã xuyên qua đám mây mùa thu mà nhìn xuống dòng nước Sông Đà.
Mùa xuân dòng xanh ngọc bích, chứ nước Sông Đà không xanh màu xanh canh
hến của Sông Gâm Sông Lô. Mùa thu nước Sông Đà lừ lừ chín đỏ như da mặt một
người bầm đi vì rượu bữa, lừ lừ cái màu đỏ giận dữ ở một người bất mãn bực bội
gì mỗi độ thu về.
Và:
Thuyền tôi trôi trên Sông Đà. Cảnh ven sông ở đây lặng tờ. Hình như từ đời Lí
đời Trần đời Lê, quãng sông này cũng lặng tờ đến thế mà thôi. Thuyền tôi trôi qua
một nương ngô nhú lên mấy lá ngô non đầu mùa. Mà tịnh không một bóng người.
Cỏ gianh đồi núi đang ra những nõn búp. Một đàn hươu cúi đầu ngốn búp cỏ
gianh đẫm sương đêm. Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên
như một nỗi niềm cổ tích tuổỉ xưa.
BÀI LÀM:
Nguyễn Tuân là nhà văn duy mỹ - suốt đời tôn thờ và phụng sự cái đẹp. Tác
phẩm của ông là những trang viết sống động về con người và thiên nhiên với cảm
hứng ngợi ca. Người láỉ đò Sông Đà là tác phẩm tiêu biểu cho khuynh huớng thẩm
mĩ đó của nhà văn. Dưới ngòi bút của ông, Sông Đà hiện lên hung bạo như một
“loài thủy quái nham hiểm và độc dữ” nhưng cũng rất dịu dàng và say đắm như
một mỹ nhân Tây Bắc. Đặc biệt là hai đoạn văn tả lại cảnh sông Đà ở hạ nguồn -
một vẻ đẹp khiến người ta đắm đuối: “Con sông Đà tuôn dài tuôn dài... bực bội gì
mỗi độ thu về.” và “Thuyền tôi trôi trên sông Đà... một nỗi niềm cổ tích cổ xưa.”
Nguyễn Tuân là một trong chín tác giả lớn của văn học nước nhà. Chữ “ngông”
chính là từ dùng khi người ta nhắc về phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân. Cái
ngông trong nghệ thuật thể hiện ở sự tài hoa và uyên bác trong trang văn, trong
cách sử dụng Tiếng Việt, mới, lạ, không giống ai trong hệ thống đề tài. Mỗi một
nhà văn vẽ lại thế giới theo cách riêng của mình, Nguyễn Tuân là nhà văn tô điểm
cho thế giới bằng cái đẹp. Đối với Nguyễn Tuân, văn phải đẹp, phải trau chuốt. Cả
một đời người nghệ sĩ ấy say mê và truy tìm cái đẹp, cái thật, làm phát lộ nó dưới
ngòi bút tài hoa của mình. Người lái đò Sông Đà là một tùy bút xuất sắc được in
trong tập Sông Đà 1960, đó là thành quả của một chuyến đi gian khổ nhưng rất
hứng thú của nhà văn vào những năm 1958 - 1960. Chuyến đi đã thỏa mãn niềm
khát khao xê dịch, đi để tìm kiếm vẻ đẹp của thiên nhiên, miền đất Tây Bắc, tìm ra
thứ “vàng mười” đã qua thử lửa trong vẻ đẹp của con người miền Tây Bắc.
Phần đầu của đoạn trích, tác giả chủ yếu miêu tả sự hung bạo, hùng vĩ, hiểm nguy
của một dòng sông lắm thác nhiều ghềnh. Đó là sự dữ dội của cảnh đá dựng bờ
sông, cảnh ghềnh Hát Loóng “nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió”, cảnh những
hút nước rùng rợn; cảnh thác đá gào thét; dòng sông với biết bao cửa tử cửa sinh...
Đến cuối đoạn trích tác giả chủ yếu bàn về vẻ đẹp trữ tình của con sông Đà.
Nguyễn Tuân quan sát sông Đà ở nhiều điểm nhìn. Đầu tiên là từ trên cao nhìn
xuống với điểm nhìn bao quát. Ở điểm nhìn ấy tác giả đã hình dung con sông Đà
giống như một người đàn bà kiều diễm với áng tóc trữ tình đằm thắm: “Con Sông
Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây
trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núỉ Mèo
đốt nương xuân”. Hình ảnh so sánh Sông Đà như một áng tóc kết hợp với điệp ngữ
“tuôn dài tuôn dài” như mở ra trước mắt của người đọc độ dài vô tận của dòng
sông; mái tóc của Đà giang như nối dài đến vô tận, trùng điệp giữa bạt ngàn màu
xanh lặng lẽ của núi rừng. Phép so sánh “như một áng tóc trữ tình” tạo cho người
đọc một sự xuýt xoa trước vẻ đẹp diễm tuyệt của sông Đà. Sông Đà giống như một
kiệt tác của trời đất. Chữ “áng” thường gắn với áng thơ, áng văn, nay được họ
Nguyễn gắn với “tóc” thành “áng tóc trữ tình”. Hai chữ “ẩn hiện” càng tăng lên sự
bí ẩn và trữ tình của dòng sông. Sắc đẹp diễm tuyệt của sông Đà - của người thiếu
nữ còn được tác giả nhấn mạnh qua động từ “bung nở” và từ láy “cuồn cuộn” kết
hợp với hoa ban nở trắng rừng, hoa gạo đỏ rực hai bên bờ làm người đọc liên
tưởng mái tóc như được trang điểm bởi mây trời, như cài thêm hoa ban hoa gạo và
đẹp mơ màng như sương khói mùa xuân.
Xuyên qua màn mây, dòng sông còn hiện lên qua màu sắc biến ảo. Chính vẻ đẹp
của mây trời đã tạo cho con sông Đà một vẻ đẹp riêng không trộn lẫn. Nguyễn
Tuân phát hiện ra vẻ đẹp của sắc nước sông Đà thay đổi theo mùa. Mùa xuân, nước
sông Đà xanh ngọc bích “chứ không xanh màu xanh canh hến của nước sông Gâm,
sông Lô”. Xanh ngọc bích là xanh trong, xanh sáng, xanh biếc - một sắc màu gợi
cảm, trong lành. Đó là sắc màu của nước, của núi, của da trời. Mùa thu, nước sông
Đà “lừ lừ chín đỏ như da mặt một người bầm đỉ vì rượu bữa, lừ lừ cái màu đỏ giận
dữ ở một người bất mãn bực bội độ thu về”. Câu văn sử dụng phép so sánh “lừ lừ
chín đỏ như da mặt người bầm đi vì rượu bữa” khiến người đọc hình dung được vẻ
đẹp đa dạng của sắc nước sông Đà. Cách miêu tả sắc đỏ mùa thu sông Đà của
Nguyễn Tuân cũng thật độc đáo. Đỏ bầm, màu đỏ không gắt, không nhạt, mang
trong mình chút hồng hào, pha vào đó sắc phù sa, lại không đục ngầu, màu sắc ấy
còn mang dáng hình của kẻ say, hay là vì người đã quá say dòng sông, quá mê đắm
cảnh sông nước Tây Bắc.
Sông Đà qua góc nhìn của người trôi thuyền trên sông phía hạ lưu lại trở thành
niềm say sưa, sự thích thú trước vẻ đẹp của chốn hoang sơ, thoát hẳn khỏi xã hội
hiện đại ngoài kia. Bằng cảm quan góc của người đi ròng và của người trôi thuyền
trên sông phía hạ lưu, tức là điểm nhìn cận cảnh, dòng sông Đà đã hiện lên trong
tầm mắt một vẻ đẹp hoang sơ, với hai bờ đúng như tác giả đã so sánh “bờ sông
hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổỉ
xưa”. Đó là vẻ đẹp của ngàn năm kiến tạo còn vẹn nguyên đến tận bây giờ. Tưởng
như, thế giới ngoài kia đã bỏ quên chốn này, nơi đây, vẫn giữ cho nó khối hình,
dáng vóc của hoang sơ nguyên thủy. Trôi thuyền trên sông quãng này, quá khứ còn
vọng dư âm bởi sự tĩnh lặng, im ắng, tưởng như Thời Lí, Trần, Lê... quãng sông
cũng chỉ im ắng như vậy.
Qua cái nhìn đầy say mê và thưởng thức, hai bên bờ sông Đà đã hiện lên một vẻ
đẹp đầy sức sống “một nương ngô nhú lên mấy lá ngô non đầu mùa mà tịnh không
một bóng người, cỏ gianh đồi núi đang ra những nõn búp”. Cảnh tượng đó còn ấn
tượng bởi một “đàn hươu cúi đầu ngốn búp cỏ gianh đẫm sương đêm”. Vẻ đẹp ấy
vừa mang trong nó một sức sống căng tràn, đó là màu xanh của nương ngô, của cỏ
gianh mới nhú, màu xanh của trù phú, mỡ màng, non trẻ, thanh khiết vô cùng. Là
hình ảnh con hươu thơ ngộ ngẩng đầu nhung khỏi áng cỏ sương chẳng sợ sệt ông
khách Sông Đà. Là đàn cá dầm xanh quẫy đuôi để lộ cái bụng trắng như bạc thoi.
Tất cả tạo cho Sông Đà ở hạ nguồn nét hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích, chẳng
lưu mang hơi thở hiện đại.
Trước cái tĩnh lặng của Sông Đà, tác giả bỗng thèm nghe một tiếng còi xúp - lê,
tiếng còi ấy là tiếng còi của tương lai, của nhịp sống, hơi thở hiện đại. Tiếng còi sẽ
phá đi sự tĩnh lặng, báo hiệu những đoàn tàu sẽ lên Tây Bắc để xây dựng quê
hương.
Sông Đà là nơi hội tụ hai nét tiêu biểu, đặc trưng của thiên nhiên Tây Bắc vừa
hùng vĩ, uy nghiêm, dữ dội lại vừa trữ tình, thơ mộng. Con sông Đà hùng vĩ dài
trên năm trăm cây số, ở nơi thượng nguồn nó mang một vẻ đẹp hào hùng và thách
thức, vậy mà vượt qua đoạn thượng nguồn dòng sông hoàn toàn mang bộ mặt
khác: thơ mộng, trữ tình, thanh bình, yên ả; nó giống như một cô thiếu nữ xinh đẹp
trút bỏ cái vẻ “đỏng đảnh” đế trở về với vẻ đẹp dịu dàng lãng mạn của mình.
Nguyễn Tuân đã gợi lên vẻ đẹp của sông Đà bằng hai từ “gợi cảm”. Và quả thực,
vẻ đẹp thơ mộng của dòng sông khiến cho người ngoạn cảnh gặp lại có cảm giác
“đằm đằm ấm ấm”, gợi biết bao thi vị. Nhà nghiên cứu Mai Quốc Liên từng nhận
định: Nguyễn Tuân là “nhà thơ bị đóng đinh trên cây thập giá của văn xuôi”, ý nói
rằng những trang văn Nguyễn Tuân thấm đẫm chất trữ tình, thấm đẫm chất thơ, hơi
thở của không gian thơ. Và với hai đoạn văn trên, ta cảm nhận chất thơ thấm vào
từng câu chữ.
Sông Đà là dòng sông của miền non tản Tây Bắc. Đó cũng là một dòng sông
hiểm nguy rình rập với “trăm bảy cái thác, trăm ba cái ghềnh”. Nhưng đó cũng là
một dòng sông lai láng chất thơ trong cảm nhận của Nguyễn Tuân. Nguyễn Tuân
đã miêu tả con sông như một công trình nghệ thuật, một tác phẩm hội họa mà tạo
hoá ban tặng tô điểm cho đất nước; ông khám phá dòng sông ở phương diện thẩm
mỹ thể hiện phong cách tài hoa. Trang sách khép lại rồi mà dường như tâm hồn
của bạn đọc vẫn đang trôi mênh mang trên một dòng sông “hồn nhiên như một nỗi
niềm cổ tích.

ĐỀ 3:Cảm nhận hình tượng sông Đà qua đoạn trích sau:


“Tôi có bay tạt ngang qua Sông Đà mấy lần,…rồi chốc lại bẳn tính và gắt gỏng
thác lũ ngay đấy”
(Trích: Người lái đò sông Đà – SGK Ngữ văn 12 – Tr.190 - 191)
Cảm nhận vẻ đẹp trữ tình của dòng sông Đà qua đoạn trích trên. Từ đó nhận
xét về ngòi bút tài hoa, uyên bác của Nguyễn Tuân.
BÀI LÀM
Nguyễn Tuân là một trong những nhà văn nổi tiếng của nền văn học Việt
Nam hiện đại. Ông từng được mệnh danh là đại thụ trong rừng đầu nguồn văn học
nước nhà thế kỉ XX. Không chỉ thành công ở thể hoại truyện ngắn, sau cách mạng,
nhà văn còn gây tiếng vang lớn với tập tùy bút “Sông Đà”. Nhắc đến tập tùy bút,
không thể không nhắc đến tác phẩm “ Người lái đò sông Đà” – một sự khám phá
mang đầy nét phóng túng, tài hoa, của Nguyễn Tuân về dòng sông Đà và con
người lao động ở vùng cao Tây Bắc. Người đọc không thể quên một sông Đà thật
sống động với đầy đủ diện mạo, tính cách như một cơ thể sống: vừa hung bạo đến
hãi hùng lại vừa lãng mạn trữ tình đến say đắm. Đoạn thơ sau đã khắc họa thật ấn
tượng vẻ đẹp trữ tình mềm mại của dòng sông : “Trích dẫn đoạn VB:”
Trong chuyến đi thực tế lên vùng cao Tây Bắc những năm 1958-1960, với ý
thức đi tìm kiếm chất vàng mười đã qua thử lửa của thiên nhiên và con người nơi
đây, Nguyễn Tuân đã có dịp được khám phá những vẻ đẹp hoang sơ, hùng vĩ của
dòng sông Đà, một con sông độc đáo và đầy cá tính. Nếu ở khúc thượng nguồn,
dòng sông hùng hổ, bạo ngược như một con thủy quái – kẻ thù số một của con
người thì xuôi về hạ lưu, dòng sông trở nên dịu dàng, quyến rũ, đầy chất thơ.
Cũng như sự chuyển dòng êm ái của Đà giang ở khúc hạ lưu, những câu văn
của Nguyễn Tuân như giãn ra mềm mại uyển chuyển khi miêu tả vẻ đẹp trữ tình
của dòng sông. Vẻ đẹp ấy được tác giả khám phá ở những điểm nhìn khác nhau,
đã cho người đọc những trải nghiệm thú vị về một dòng sông đa tính cách, đa diện
mạo và khơi gợi thật nhiều cảm xúc. Ở góc nhìn từ trên tàu bay, sông Đà hiện ra
trước mắt du khách thật kiều diễm trong dáng hình của nó. Đó không phải là cái
dây thừng ngoằn ngoèo vắt qua các ghềnh thác như khúc đầu nguồn mà nó trở nên
dịu dàng, quyến rũ như mái tóc bồng bềnh của một thiếu nữ vùng cao: “ Con Sông
Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc, chân tóc ẩn hiện trong mây
trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi mèo
đốt nương xuân. Hình ảnh so sánh khiến độc giả liên tưởng đến một dòng sông trôi
giữa bồng bềnh mây khói vùng cao, trôi giữa sắc màu tinh khôi, tươi mới của hoa
ban, hoa gạo, giữa cái chói lọi của màu đỏ hoa đỗ quyên rừng. Quả thực, nét trữ
tình ấy đã khiến du khách ngỡ ngàng thích thú.
Cũng ở góc nhìn ấy, tác giả đã quan sát được sự thay đổi màu nước của dòng
sông trong hai thời điểm khác nhau. Ông đã tận mắt nhìn thấy những điều thật thú
vị: “Mùa xuân dòng xanh ngọc bích”, một sắc nước trong trẻo, thanh bình. Và “
Mùa thu, nước sông Đà lừ lừ chín đỏ như da mặt một người đã bầm đi vì rượu
bữa.” Lối so sánh ví von gợi hình gợi cảm của Nguyễn Tuân luôn kích thích trí
tưởng tượng của độc giả, khiến ta như có cảm giác đang được tận mắt chứng kiến
sự biến ảo diệu kì của mặt nước dòng sông, như chứng kiến từ cái giây phút làm
mình làm mẩy mỗi độ thu về đến cái sắc xuân ngọc ngà, quyến rũ của của Đà
giang.
Với Nguyễn Tuân, đi tìm kiếm và khám phá cái đẹp, phải khám phá đến tận
cùng tuyệt mĩ của nó. Khám phá sông Đà cũng vậy, chỉ một góc nhìn trên cao mà
con người nghệ sĩ ấy đã phải bay qua bay lại mấy lần cho tường tận. Hơn nữa, ông
còn khám phá sông Đà ở những góc nhìn độc đáo khác. Bởi vậy mà người đọc
luôn ngạc nhiên và thú vị trước vẻ đẹp đa dạng của dòng sông miền Tây Bắc ấy.
Với điểm nhìn mang đầy tâm trạng của một người đi rừng lâu ngày ra chợt
bắt gặp sông Đà ngay trước mắt, sông Đà lại hiện lên thật ấn tượng.
Trước hết đó là cái ấn tượng mạnh đến giật mình của sự lấp lánh mặt nước
lòng sông. Nó sáng lóe lên niềm vui, như thức tỉnh, như bừng sáng. “Mặt nước
loang loáng như trẻ con nghịch chiếu gương vào mắt rồi bỏ chạy”. Hình ảnh so
sánh sinh động khiến sông Đà hiện ra thật nhí nhảnh hồn nhiên đến ngỡ ngàng. Nó
khác hoàn toàn với cái vẻ độc dữ, tai ác của mặt nước sông ở khúc thượng nguồn,
lúc nào cũng gầm gừ, dọa nạt…
Cùng với sự trong trẻo hồn nhiên của mặt nước lòng sông là cảnh đẹp thơ
mộng yên bình ở hai bên bờ: “Bờ sông Đà, bãi sông Đà. Chuồn chuồn bươm bướm
trên sông Đà.” Không gian của một miền hoang dại, mang hương đồng gió nội ấy
như một phần thưởng ngọt ngào cho những tay lái kiên cường vượt thác lũ. Không
lãng mạn sao được khi cả dòng sông đã trở nên thơ mộng trữ tình đến thế. Người
lái đò không phải căng mắt, chắc tay trước những thủ đoạn nham hiểm của Đà
giang ở khúc thượng nguồn, mà lúc này, họ được thả hồn phiêu lưu êm ái cùng sự
yên ả của lòng sông.
Cảnh đẹp dòng sông đã khiến lòng người mê đắm. Nguyễn Tuân đã không
ngần ngại nhận định bằng một câu văn gọn gàng, quả quyết: “Con sông Đà gợi
cảm”, và nó gợi cảm đến mức nhà văn phải thốt lên:“ Chao ôi! Trông thấy con
sông, vui như thấy nắng giòn tan sau kì mưa dầm, vui như nối lại chiêm bao đứt
quãng.” Đã bao giờ dòng sông lại trở nên gợi cảm cho con người đến thế. Đó
không còn là cái cảm giác đắm say một thiên nhiên tươi đẹp mà đó còn là niềm vui
gặp gỡ để thỏa nỗi nhớ nhung, là cái cảm giác “đằm đằm ấm ấm” khi đứng trước
một cố nhân. Với những người đi từ rừng ra, sông Đà như một thế giới khác tươi
đẹp tràn đầy ánh sáng, xua tan cái âm u, lạnh lẽo chốn thâm sâu, đem đến những
cảm xúc tích cực. Bằng những so sánh liên tưởng thú vị, tác giả đã đem đến cho
người đọc cái nhìn thật mới lạ về một dòng sông xa xôi nơi thượng nguồn Tây Bắc.
Chỉ với đoạn tùy bút ngắn ngủi hẳn sẽ không thể thấy hết được chất tài hoa
nghệ sĩ của con người luôn đam mê tìm tòi sáng tạo ấy, nhưng quả thực Nguyễn
Tuân đã cho người đọc thấy vẻ đẹp độc đáo của dòng sông Đà qua đôi mắt người
nghệ sĩ đầy tài hoa, uyên bác mà phóng túng đa tình. Một Sông Đà biến ảo đa tính
cách, đem đến những cảm xúc phong phú và sâu sắc cho người đọc. Quả thực, cái
đẹp của Sông Đà là cái đẹp tuyệt đỉnh khiến lòng người say đắm và khát khao
khám phá.
Bằng nghệ thuật miêu tả thiên nhiên, cảnh vật tài tình, sử dụng các thủ pháp
so sánh, nhân hóa sinh động, giàu hình ảnh, tác giả đã làm nổi bật vẻ đẹp con sông
Đà qua góc nhìn từ trên cao đến đi từ rừng ra thật độc đáo, ấn tượng. Đoạn trích
góp phần làm nên thành công của tùy bút, ngợi ca vẻ đẹp thiên nhiên Tây Bắc vừa
hùng vĩ hoang sơ vừa thơ mộng trữ tình. Đọc những dòng tùy bút của Nguyễn
Tuân, ta vừa trân quý chất tài hoa nghệ sĩ của nhà thơ, vừa thêm yêu mến những
cảnh đẹp của mọi miền đất nước thân yêu.

ĐỀ 4:
Đọc đoạn văn bản sau:

…”Sóng thác đã đánh đến miếng đòn hiểm độc nhất, cả cái luồng nước vô sở bất
chi ấy bóp chặt lấy hạ bộ người lái đò […]. Mặt sông trong tích tắc lòa sáng lên
như một cửa bể đom đóm rừng ùa xuống mà châm lửa vào đầu sóng. Nhưng ông
đò vẫn cố nén vết thương, hai chân vẫn kẹp lấy cuống lái, mặt méo bệch đi như cái
luồng sóng đánh hồi lùng, đánh đòn tia, đánh đòn âm vào chỗ hiểm. Tăng thêm
mãi lên tiếng hỗn chiến của nước của đá thác. Nhưng trên cái thuyền sáu bơi chèo
vẫn nghe rõ tiếng chỉ huy ngắn gọn tỉnh táo của người cầm lái. Vậy là phá xong
cái trùng vi thạch trận vòng thứ nhất. Không một phút nghỉ tay nghỉ mắt, phải phá
luôn vòng vây thứ hai và đổi luôn chiến thuật. Ông lái đã cầm chắc binh pháp của
thần sông thần đá. Ông đã thuộc quy luật phục kích của lũ đá nơi ải nước hiểm trở
này. Vòng đầu vừa rồi, nó mở ra năm cửa trận, có bốn cửa tử một cửa sinh, cửa
sinh nằm lập lờ phía tả ngạn sông. Vòng thứ hai này tăng thêm nhiều cửa tử để
đánh lừa con thuyền vào, và cửa sinh lại bố trí lệch qua phía bờ hữu ngạn. Cưỡi
lên thác sông Đà, phải cưỡi đến cùng như là cưỡi hổ. Dòng thác hùm beo đang
hồng hộc tế mạnh trên sông đá. Nắm chặt lấy được cái bờm sóng đúng luồng rồi,
ông đò ghì cương lái, bám chắc lấy cái luồng nước đúng mà phóng nhanh vào cửa
sinh, mà lái miết một đường chéo về phía cửa đá ấy. Bốn năm bọn thủy quân cửa
ải nước bên bờ trái liền xô ra định níu thuyền lôi vào tập đoàn cửa tử. Ông đò vẫn
nhớ mặt bọn này đứa thì ông tránh mà rảo bơi chèo lên, đứa thì ông đè sấn lên mà
chặt đôi ra để mở đường tiến. Những luồng tử đã bỏ hết lại sau thuyền. Chỉ còn
vẳng reo tiếng hò của sống thác luồng sinh. Chúng vẫn không ngớt khiêu khích,
mặc dầu cái thằng đá tướng đứng chiến ở cửa vào đã tỉu nghỉu cái mặt xanh lè
thất vọng thua cái thuyền đã đánh trúng vào cửa sinh nó trấn lấy. Còn một trùng
vây thứ ba nữa. Ít cửa hơn, bên phải bên trái đều là luồng chết cả. Cái luồng sống
ở chặng ba này lại ở ngay giữa bọn đá hậu vệ của con thác. Cứ phóng thẳng
thuyền, chọc thủng cửa giữa đó. Thuyền vút qua cổng đá cánh mở cánh khép. Vút,
vút, cửa ngoài, cửa trong, lại cửa trong cùng, thuyền như một mũi tên tre xuyên
nhanh qua hơi nước, vừa xuyên vừa tự động lái được lượn được. Thế là hết thác…

(Trích Người lái đò sông Đà – Nguyễn Tuân, Ngữ văn 12, Tập một, NXB Giáo
dục Việt Nam, 2015, tr 189 – 190)

Cảm nhận của anh/chị về nhân vật ông lái đò trong đoạn trích trên. Từ đó nhận xét
về quan điểm nghệ thuật của Nguyễn Tuân thể hiện qua đoạn trích trên.
BÀI LÀM
Đánh giá về Nguyễn Tuân, nhà văn Nguyễn Minh Châu thật có lí khi cho
rằng: “Nguyễn Tuân là một định nghĩa về người nghệ sĩ”. Suốt cuộc đời sáng tác,
Nguyễn Tuân luôn khát khao tìm kiếm và khám phá cái mới lạ, độc đáo “xưa nay
chưa từng có” trong hành trình sáng tạo. Tuỳ bút “Người lái đò Sông Đà” là kết
quả của chuyến đi thực tế lên vùng cao Tây Bắc năm 1958 – một hành trình bền bỉ
và sáng tạo về vẻ đẹp kì diệu của thiên nhiên và con người Tây Bắc . Bằng sự tài
hoa, uyên bác, Nguyễn Tuân đã khắc hoạ một dấu ấn không thể mờ phai về con
sông miền Tây Bắc vừa hung bạo vừa trữ tình và nổi lên trên thác dữ là vẻ đẹp của
một chiến binh sông nước với “tay lái ra hoa” đã vượt bao trùng vi thạch trận như
một người nghệ sĩ trên mặt trận vượt thác leo ghềnh. Điều đó được khắc hoạ thật
ấn tượng mang cảm giác thật mãnh liệt qua đoạn văn sau đây:
“Thạch trận dàn bày vừa xong thì cái thuyền vụt tới [… ] thế là hết thác”

“Cảnh vượt thác” là cảnh tượng người lái đò vượt qua ba trùng vi thạch trận
với bao tướng dữ quân tợn, “Xưa nay chưa từng có” – cảnh tượng hiếm gặp, trước
sau chưa có. Bằng ngòi bút tài hoa và quan niệm duy mỹ về cái đẹp – Nguyễn
Tuân đã xây dựng thành công hình tượng người lái đò sông Đà – một hình tượng
nghệ thuật độc đáo hấp dẫn.
Ông khách sông Đà tuổi ngoài 70 nhưng thân hình rắn chắc như một bức
tượng cẩm thạch: ngực ông đầy những củ nâu – thương tích trên chiến trường
Sông Đà mà Nguyễn Tuân gọi đó là “huân chương lao động siêu hạng”, tay ông
“lêu nghêu” như cây sào, chân ông “khuỳnh khuỳnh”; nhỡn giới ông “cao vời
vợi”, giọng ông “ồ ồ” như tiếng thác nước mặt ghềnh. Miêu tả người lái đò như
vậy – Nguyễn Tuân đã phần nào khắc họa được vẻ đẹp của con người lao động gắn
bó với chiến trường sông nước.

Hình tượng người lao động không chỉ khắc họa qua ngoại hình mà còn được
khắc họa qua tính cách và trí thông minh. Ông xem sông Đà như một thiên anh
hùng ca và thuộc lòng sông Đà, thuộc tất cả luồng lạch; nắm được binh pháp của
thần sông thần đá. Chính vì vậy trong trận thủy chiến đầy binh hùng tướng mạnh,
phần thắng vẫn thuộc về con người trí dũng và tài hoa.
Đoạn văn thứ nhất – Nguyễn Tuân dồn hết bút lực vào miêu tả trùng vi
thạch trận đầu tiên. Ở trùng vi thạch trận này – thác đá sông Đà đã chuẩn bị dàn
trận địa sẵn, đó là trận địa với bốn cửa tử, một cửa sinh. Ở đây nước phối hợp với
đá reo hò làm thanh viện; những hòn đá bệ vệ, oai phong lẫm liệt; một hòn ấy
trông như đang hất hàm hỏi cái thuyền phải xưng tên tuổi trước khi giao chiến và
thách thức cái thuyền có giỏi thì tiến gần vào. Bằng các từ ngữ: “reo hò”, “bệ vệ”,
“oai phong lẫm liệt”, “hất hàm hỏi”, “thách thức”… người đọc cảm nhận được
không khí trận chiến nóng bỏng gay cấn hồi hộp, kịch tính. Đó chính là biệt tài phù
thuỷ ngôn ngữ của Nguyễn Tuân.
Thác đá sông Đà rất khôn ngoan, chúng không chỉ đánh trên mặt trận giáp lá
cà mà còn đánh bằng cả nghệ thuật tâm lý chiến. Trước đó chúng đã dùng âm
thanh của thác khiêu khích “giọng gằn mà chế nhạo”. Còn giờ đây chúng lại nhờ
“nước thác làm thanh viện cho đá”. Với bản tính hung hãn như một loài thủy quái,
sông Đà đã đánh phủ đầu người lái đò với những đòn thế vô cùng hiểm hóc. Sông
Đà cậy thế quân đông tướng mạnh nên đã “ùa vào mà bẻ gãy cán chèo”, “liều
mạng vào sát nách mà đá trái”, “thúc gối vào bụng và hông thuyền”, có lúc chúng
“đội cả thuyền lên”. Giáo viên Phan Danh Hiếu – Một loạt động từ được Nguyễn
Tuân huy động để miêu tả cách đánh của sông Đà làm người đọc không khỏi rùng
mình trước sự hung bạo của thiên nhiên: “ùa vào”, “bẻ gãy”, “đá trái”, “thúc gối”,
“đội”,… Bị tấn công bất ngờ nhưng người lái đò vẫn bình tĩnh.
Với chiến thuật phòng ngự để dưỡng sức cho những trùng vi sắp tới, “ông
đò hai tay giữ mái chèo khỏi bị hất lên khỏi sóng”; lúc này sông Đà lại chuyển thế
bám lấy thuyền và sử dụng đòn vật “túm lấy thắt lưng ông lái đò đòi lật ngửa mình
ra”. Không để cho ông đò có cơ hội xoay xở, sông Đà lại chuyển thể đánh miếng
đòn hiểm độc nhất “cả cái luồng nước vô sở bất chí ấy bóp chặt lấy hạ bộ người lái
đò”. Dính miếng đòn hiểm, mắt ông hoa lên, tưởng như “một cửa bể đom đóm
rừng ùa xuống châm lửa lên đầu sóng”. Đòn đau khiến ông đò “mặt méo bệch đi”.
Phép điệp động từ “đánh hồi lùng, đánh đòn tỉa, đánh đòn âm vào chỗ hiểm” gợi
lên cơn đau dồn dập, hành hạ người lái đò. Nhưng ông đò nén đau, giọng ông vẫn
bình tĩnh, tỉnh táo, sắc lạnh chỉ huy chiếc thuyền vượt cửa tử vào cửa sinh.
Nếu đoạn văn thứ nhất, Nguyễn Tuân tập trung miêu tả thế trận một chiều từ
sông Đà thì ở đoạn văn tiếp theo nhà văn tập trung miêu tả thế trận của ông khách
sông Đà ở sự thông minh, linh hoạt và tài nghệ vượt thác dũng mãnh, phi thường.
Chuyển từ thế trận phòng ngự, ông lái đò chuyển thế chủ động tấn công. Ở trùng vi
thạch trận thứ hai này, sông Đà tăng cường một “tập đoàn cửa tử” và cửa sinh bố
trí lệch qua bờ hữu ngạn. So với trùng vi một thì trùng vi này khó khăn hơn.
Nhưng không vì thế mà ông đò nao núng. Với kinh nghiệm mười năm chiến
trường sông nước, người lái đò đã “nắm chắc binh pháp của thần sông thần đá, ông
đã thuộc quy luật phục kích của lũ đá”. Ông đò cũng tự triết lý với mình “cưỡi lên
thác sông Đà là cưỡi đến cùng như là cưỡi hổ”, vì thế “không một phút nghỉ tay
nghỉ mắt phải phá luôn vòng vây thứ hai và đổi luôn chiến thuật”. Ở trận này ông
đò đánh phủ đầu với kế hoạch đánh nhanh thắng nhanh.
Như một vận động viên đua ngựa, ông đò “nắm chắc được cái bờm sóng
đúng luồng rồi, ông đò ghì cương lái”, ông “phóng nhanh”, “lái miết”… tốc độ di
chuyển mau lẹ. Nhưng sông Đà cũng không phải dạng vừa. Chúng xô ra định níu
chiếc thuyền vào tập đoàn cửa tử. Ông đò đã cảnh giác sẵn nên “đứa thì ông tránh
mà rảo bơi chèo”, “đứa thì đè sấn lên chặt đôi ra để mở đường tiến”. hàng loạt
động từ được huy động như một đội quân ngôn ngữ hùng hậu hò reo theo từng
nhịp tiến của ông đò: nắm, ghì, phóng, lái, tránh, rảo, đè, chặt…Chính nhờ sự mưu
trí và tài năng ấy ông đò vượt qua hết các cửa tử. Một trùng vi với bao cửa tử, cửa
sinh mà chỉ vài ngón đòn ông lái đò đã đánh sập vòng vây của lũ đá, đồng thời làm
cho bọn đá phải thua cuộc với bộ mặt “tiu nghỉu, xanh lè thất vọng”. Qua đó để
thấy người khách sông Đà quả thật là Trí Dũng song toàn.
Ở trùng vi thứ ba, sông Đà còn một cơ hội cuối để thử thách người lái đò.
Trùng vi này ít cửa hơn mà bên trái bên phải đều là luồng chết cả, luồng sống thì
lại nằm ngay giữa bọn đá hậu vệ. Có thể nói trận chiến này sông Đà đã dùng thế
“trên đe dưới búa” làm cho người lái đò phải đối mặt với thế “tiến thoái lưỡng
nan” nhưng vào “cái khó lại ló cái khôn” – ông lái đò đã biến chiếc thuyền sáu bơi
chèo thành một mũi tên còn ông giống như một cung thủ đã “phóng thẳng thuyền
chọc thủng cửa giữa. Thuyền vút qua cửa đá cánh mở, cánh khép, vút vút, cửa
ngoài, cửa trong lại cửa trong cùng. Thuyền như một mũi tên tre xuyên nhanh qua
hơi nước, vừa xuyên vừa tự động lái được, lượn được. Thế là hết thác”.
Một loạt các động từ lại được Nguyễn Tuân huy động để miêu tả cách đánh
của ông đò: “phóng”, “chọc thủng”, “xuyên qua”, “xuyên nhanh”, “lái được”,
“lượn được”… sự thần tốc trong cách đánh và cách đánh nhanh thắng nhanh đã
giúp người lái đò vượt trùng vi đầy phi thường. Quả là “Đọc “Người lái đò sông
Đà”, ta có ấn tượng rõ rệt về sự tự do của một tài năng, của một đấng hóa công
thực sự trong nghệ thuật ngôn từ” (Phan Huy Đông). Nghệ thuật lái thuyền đến đây
khiến người đọc hoàn toàn tâm phục, khẩu phục. Đúng là ông lái đò đã đạt đến
mức nghệ sĩ trong nghề nghiệp của mình. Đoạn trích vì thế đã xây dựng được một
“cảnh tượng xưa nay chưa từng có”.
Trên con đường tác nghệ thuật của mình, Nguyễn Tuân luôn là người nghệ
sĩ ưa tìm tòi khám phá những vẻ đẹp của thiên nhiên và con người. Trước cách
mạng, nhà văn hướng cây bút của mình ngợi ca những vẻ đẹp mang nét văn hóa cổ
xưa đã bị mai một với những nhân vật truyện là người anh hùng thất thế. Ông quay
lưng với thực tại, trốn vào quá khứ để được đắm mình trong những cái đẹp đã
mất… Nhưng, sau cách mạng, văn của Nguyễn Tuân đã có nhiều đổi mới trong
quan điểm nghệ thuật. Ông giúp con người hiểu rằng, cái đẹp có thể tồn tại ở cả
những điều tưởng chừng bình thường nhất. Ông lái đò là một người lao động vô
danh, ở chốn hoang sơ đã được nhà văn khám phá và tôn vinh như một người anh
hùng, người nghệ sĩ trên sông nước Đà giang, đó là một cái nhìn đầy mới mẻ và
tích cực trong ngòi bút của nhà văn. Phải chăng, chính vì thế mà bút lực của
Nguyễn Tuân sau cách mạng càng trở nên dồi dào ở những tác phẩm kí chăng?
Qua đoạn trích, ông lái đò hiện lên là một con người phi thường, tài hoa.
Một nghệ sĩ có phong thái ung dung, nhàn nhã mà đầy trí tuệ. Ông chính là hình
tượng con người lao động là biểu tượng cho trí dũng song toàn trong hành trình đi
tìm cái đẹp của nhà văn. Qua đó, ta thấy Nguyễn Tuân đích thực là một nghệ sĩ tài
hoa bậc thầy trong việc ngợi ca những con người lao động trong gian lao nguy
hiểm nhưng đầy vinh quang, điển hình là hình tượng ông lái đò trong tùy bút
“Người lái đò sông Đà” với nhiều nét đẹp và cả chất nghệ sĩ trong nghề. Cuộc vượt
thác của người khách sông Đà quả thật là phi thường, xứng đáng là một trong
những “cảnh tượng xưa nay chưa từng có”.

ĐỀ 5: Trong tuỳ bút Ngườỉ lái đò Sông Đà, Nguyễn Tuân đã hai lần miêu tả hình
ảnh người lái đò. Đó là
“Ông lái đã nắm chắc binh pháp của thần sông thần đá. Ông đã thuộc quy luật
phục lách của lũ đá nơi ải nước hiếm trở này”.
Và:
Đêm ấy nhà đò đốt lửa trong hang đá, nướng ống cơm lam và toàn bàn tán về
cá anh vũ cá dầm xanh [...] Cũng chả thấy ai bàn thêm một lời nào về cuộc chiến
thắng vừa qua nơi cửa ảỉ nước đủ tướng dữ quân tợn vừa rồi.
Phân tích hình ảnh ông lái đò trong hai lần miêu tả trên. Từ đó, hãy làm nổi bật
vẻ đẹp của nhân vật này và làm rõ quan niệm nghệ thuật về con người của nhà văn
Nguyễn Tuân.
BÀI LÀM:
Đánh giá về Nguyễn Tuân, nhà văn Nguyễn Minh Châu thật có lí khi cho rằng:
“Nguyễn Tuân là một cái định nghĩa về người nghệ sĩ”. Nguyễn Tuân luôn tìm
mọi cách để kiếm tìm và phát hiện cái mới lạ, độc đáo “xưa nay chưa từng có”
trong hành trình sáng tạo. Tuỳ bút Người lái đò Sàng Đà là kết quả của hành trình
bền bỉ và sáng tạo về vẻ đẹp kì diệu của thiên nhiên và con nguời Tây Bắc. Bằng
sự tài hoa, uyên bác, Nguyễn Tuân đã khắc hoạ một dấu ấn không thể mờ phai về
con sông miền Tây Bắc vừa hung bạo vừa trữ tình và nổi lên trên thác dữ là vẻ đẹp
của một chiến binh sông nuớc với “tay lái ra hoa” đã vượt bao trùng vi thạch trận
như một nguời nghệ sĩ trên mặt trận vuợt thác leo ghềnh, nhưng đó cũng là lão đò
thật dung dị trong cuộc sống thuờng nhật
Nguyễn Tuân là nhà văn lớn của nền văn học hiện đại, ông có nhiều những
thành tựu nghệ thuật xuất sắc. Đặc biệt, ông tạo lập đuợc cho mình đuợc một
phong cách nghệ thuật độc đáo: văn chuơng tài hoa, uyên bác. Nguyễn Tuân là nhà
văn suốt đời đi tìm cái đẹp, luôn khám phá thế giới ở bình diện văn hóa, thẩm mỹ,
luôn miêu tả con nguời trong vẻ đẹp tài hoa, nghệ sĩ. Người láỉ đò Sông Đà - tùy
bút xuất sắc đuợc in trong tập Sông Đà (1960) là thành quả của một chuyến đi gian
khổ nhưng rất hứng thú của nhà văn vào những năm 1958 - 1960. Chuyến đi đã
thỏa mãn niềm khát khao xê dịch, đi để tìm kiếm vẻ đẹp của thiên nhiên, miền đất
Tây Bắc.
Và như Nguyễn Tuân từng nói, ông đã tìm thấy chất vàng nơi thiên nhiên,
nhưng với con người đó là thứ “vàng mười”, chất vàng không pha lẫn, lấp lánh
trong đất trời Tây Bắc hùng vĩ. Tuỳ bút Người lái đò Sông Đà đã làm bật lên ánh
sáng lấp lánh đó, mà đại diện cho người lao động nơi đây là lão đò tóc bạc. Trong
thiên tuỳ bút, hai lần nhà văn mô tả ông lái đò trong hai góc nhìn rất khác nhau, khi
là: “Ông lái đã nắm chắc binh pháp của thần sông thần đá. Ông đã thuộc quy luật
phục kích của lũ đá nơi ải nước hiểm trở này”. Lúc thì: “Đêm ấy nhà đò đốt lửa
trong hang đá, nướng ống cơm lam và toàn bàn về cá anh vũ cá dầm xanh... Cũng
chả thấy ai bàn thêm một lời nào về cuộc chiến thắng vừa qua nơi cửa ải nước đủ
tướng dữ quân tợn vừa rồi”.
Vị trí 2 trích đoạn nằm ở các phần khác nhau của tác phẩm, trích đoạn một đã
miêu tả hình ảnh ông lái đò vượt trùng vi thạch trận số hai trên thác đá sông Đà, và
đoạn hai là hình ảnh khi ông đò đã vượt qua cửa ải nước, họ nhóm lửa trong hang
đá và bàn về cá dầm xanh, cá anh vũ.
Nhưng trước khi hiểu sâu hơn về tay lái nở hoa qua hai góc nhìn rất khác về
cùng hình tượng ông lái, Nguyên Tuân đã có những trang văn vô cùng đặc săc mà
tạc dựng lại bức chân dung lao động tiêu biểu miền Tây này. Bước vào cái tuổi 70,
đầu tóc bạc trắng, thân hình ông lái đò vẫn đẹp như một pho tượng tạc bằng đá cẩm
thạch. Nước da ánh lên chất sừng chất mun. Cánh tay rắn chắc: “Tay ông lêu
nghêu như cái sào, chân ông lúc nào cũng khuỳnh khuỳnh như kẹp lấy một cuống
lái tưởng tượng”. Cặp mắt tinh anh, nhãn lực nhìn xa vời vợi. Ngoại hình của
người lái đò còn được miêu tả gắn với những dấu tích trên thân thể và mỗi dấu tích
là một thành tích, một sự kiện lịch sử của cuộc đời ông lão đã âm thầm lặng lẽ lập
lên. Trên ngực của ông nổi lên một số “củ nâu” thương tích trên “chiến trường
Sông Đà” - một “thứ chương lao động siêu hạng”.
Khó có thể trộn lẫn nhân vật được miêu tả này với những người 70 tuổi khác,
làm nghề nghiệp khác. Một ngoại hình gắn với sức lực phi thường với cuộc sống
chèo đò vượt thác đã thấm vào trong máu thịt và thể hiện ra trong từng động tác
ngay khi cuộc sống đang diễn ra bình thường. Và đẹp nhất là lúc ông lái đò chinh
phục con thuỷ quái Sông Đà. Lão đò sẵn sàng đối mặt với thác dữ, chinh phục
“cửa tử”, “cửa sinh”, vượt qua trận thuỷ chiến với đá chìm, đá nổi, với những
trùng vi thạch trận và phòng tuyến đầy nguy hiểm. Ông lái đò vượt qua bằng
những hành động táo bạo và chuẩn xác. Ông hiện lên như một vị chỉ huy dày dạn
kinh nghiệm: ở trùng vây thứ nhất, sông Đà đã tung ra những cú đánh tới tấp, phủ
đầu, bao gồm luôn cả những đòn hiểm, và những kẻ “non tay” sẽ gục ngã ngay từ
tuyến đầu này. Phải bằng chữ “Dũng”, sự quả cảm, người lái đò mặc dù đau đớn và
thương tích, ngay cả lúc bị trúng đòn hiểm, mặt méo bệch đi nhưng ông vẫn tỉnh
táo chỉ huy con thuyền lướt đúng vào luồng sinh.
Ở trùng vây thứ 2, dòng sông đã thay đổi sơ đồ phục kích và cả chiến thuật.
Vòng vây thứ 2 này tăng thêm nhiều cửa tử để đánh lừa con thuyền vào. Cửa sinh
lại bố trí lệch qua phía bờ hữu ngạn. Nhưng ông đò đã “nắm chắc quy luật của
thần sông thần đá” nên lập tức cũng thay đổi chiến thuật theo, nhận ra cạm bẫy
của bọn thuỷ quân nơi cửa ải nước này. Có thể nói ở trùng vi này, chữ “Trí” chính
là vũ khí mà ông đò dùng để khắc chế con thuỷ quái. Hãy đọc những dòng văn tuỳ
bút, mà ta cảm tưởng như được lạc vào thế giới của sử thi, truyền thuyết: “cưỡi lên
thác Sông Đà, phải cưỡi đến cùng như là cưỡi hổ”. “Nắm chắc được cái bờm sóng
đúng luồng rồi, ông đò ghì cương lái, bám chắc lấy luồng nước đúng mà phóng
nhanh vào cửa sinh, mà lái miết một đường chéo vào cửa đá ấy”. Người lái đò tả
xung, hữu đột như một chiến tướng dày dạn kinh nghiệm trận mạc có thừa lòng
quả cảm đã đưa được con thuyền vượt qua tập đoàn cửa tử khiến cho những bộ mặt
đá hung hăng dữ tợn phải xanh lè, thất vọng.
Ở trùng vây thứ 3, thạch trận ít cửa tử hơn nhưng bên phải bên trái đều là luồng
chết cả, cửa sinh lại nằm giữa lòng sông và bọn đá hậu vệ canh giữ. Nhưng ông đò
không hề bất ngờ trước mưu mô hiểm độc của bọn chúng, tiếp tục chỉ huy con
thuyền vượt qua trùng vây thứ 3. Ông bằng đôi bàn tay tài hoa đã vượt qua cửa ải
nước hiểm độc.
Thế nhưng, khi vượt qua gian nguy, sóng nước lại tan xèo xèo trong trí nhớ
sông nước lại thanh bình. “Đêm ấy nhà đò đốt lửa trong hang đá, nướng ống cơm
lam, và toàn bàn tán về cá anh vũ, cá dầm xanh... Cũng chẳng thấy ai bàn thêm
một lời nào về cuộc chiến thắng vừa qua.” Đoạn viết về đêm hang đá tràn ngập
chất trữ tình bên lửa cháy và có cả những câu chuyện đời thường ở quá khứ ở phía
trước nhưng tuyệt nhiên không có hồi ức về hiểm nguy mà tất cả đều lãng mạn
ngọt ngào. Điều ấy như một thứ khí chất, một tính cách cấu thành con người ông
lái. Có thể thấy, ông lái đò hiện lên giản dị đời thường như bao người lao động
giản dị trên miền Tây Bắc, âm thầm làm việc và cống hiến, đó là vẻ đẹp của những
con người khiêm nhưòng, xem vượt thác sinh tử như một phần trong đời sống, nên
không có gì mà phải đáng bàn.
Hình ảnh ông lái đò trong hai đoạn, tương đương với hai cảnh tưởng chừng như
là hai con người hoàn toàn khác nhau. Khi vượt thác, ông hiện lên như một anh
hùng, một kỵ sĩ mà nắm mọi bờm sóng sông Đà, vẻ đẹp của ông ánh lên chất sử
thi, truyền thuyết. Còn trong đêm hang đá, ông dung dị, khiêm nhường như bao
người lao động vô danh lặng lẽ. Thế nhưng, đó là những khía cạnh khác nhau của 1
bức chân dung lao động miền Tây Bắc, chất “vàng mười” đã qua thử lửa mà
Nguyễn Tuân tìm thấy trên vùng nắng gió của miền Tây.
Thể hiện hai khía cạnh tưởng chừng đối lập đó, là quan niệm của Nguyễn Tuân
về người nghệ sĩ tài hoa là người lao động rất đời thường mà vô cùng phi thường.
Nguyễn Tuân đã bị người lao động sông Đà mê hoặc. Nhà văn đã tung hết vốn chữ
nghĩa của mình để miêu tả hình ảnh người lái đò sông Đà đầy trí dũng chiến đấu
với thác nước sông Đà hung hãn đầy mưu mô xảo quyệt. Nhưng lại rất đỗi bình dị
trong cuộc sống đời thường, chất riêng có đó khiến nhà văn say mê. Nếu ví lái đò
là một bộ môn nghệ thuật thì người lái đò chính là người nghệ sĩ trên mặt trận vượt
thác leo ghềnh, là tay lái ra hoa trên dòng sông Đà hùng vỹ, là anh hùng lao động
trong thời đại mới.

ĐỀ 6:
“…Con Sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình mà đầu tóc chân
tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn
cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân. Tôi đã nhìn say sưa làn mây mùa xuân bay
trên Sông Đà, tôi đã xuyên qua đám mây mùa thu mà nhìn xuống dòng nước Sông
Đà. Mùa xuân dòng xanh ngọc bích chứ nước Sông Đà không xanh màu xanh cánh
hến của nước Sông Gâm Sông Lô. Mùa thu nước sông Đà lừ lừ chín đỏ như da mặt
một người bầm đi vì rượu bữa, lừ lừ cái màu đỏ giận dữ ở một người bất mãn bực
bội gì mỗi độ thu về. Chưa hề bao giờ tôi thấy dòng sông Đà là đen như thực dân
Pháp đã đè ngửa con sông ra đổ mực Tây vào mà gọi bằng cái tên Tây láo lếu, rồi
cứ như thế mà phiết vào bản đồ lai chữ.
Con Sông Đà gợi cảm. Đối với mỗi người, Sông Đà lại gợi một cách. Đã có lần
tôi nhìn Sông Đà như nhìn một cố nhân. Chuyến ấy ở từng đi núi cũng đã hơi lâu,
đã thấy thèm chỗ thoáng. Mải bám gót anh liên lạc, quên đi mất là mình sắp đổ ra
Sông Đà. Xuống một cái dốc núi, thấy trước mắt loang loáng như trẻ con nghịch
chiếu gương vào mắt mình rồi bỏ chạy. Tôi nhìn thấy cái miếng sáng lóe lên một
màu nắng tháng ba Đường thi “Yên hoa tam nguyệt há Dương Châu”. Bờ Sông
Đà, bãi Sông Đà, chuồn chuồn bươm bướm Sông Đà. Chao ôi, trông con sông, vui
như thấy nắng giòn tan sau kì mưa dầm, vui như nối lại chiêm bao đứt quãng. Đi
dừng dài ngày rồi lại bắt ra Sông Đà, đúng thế, nó đằm đằm ấm ấm như gặp lại cố
nhân, mặc dầu người cố nhân ấy mình biết là lắm bệnh lắm chứng, chốc dịu dàng
đấy, rồi chốc lại bắn tính và gắt gỏng thác lũ ngay đấy…”
(Trích Người lái đò Sông Đà, Nguyễn Tuân – SGK Ngữ Văn 12, Tập 1,
NXBGD HN, 2016). Cảm nhận của anh/chị về vẻ đẹp của hình tượng con Sông
Đà, từ đó hãy nêu những nhận xét khái quát về cái tôi của Nguyễn Tuân được thể
hiện qua đoạn trích. (vận dụng cao)
HƯỚNG DẪN:
* Giới thiệu tác giả, tác phẩm
- Nguyễn Tuân là cây bút xuất sắc của văn học Việt Nam hiện đại, là một nhà văn
có cá tính độc đáo, có thể coi ông là một định nghĩa về người nghệ sĩ.
- Nét nổi bật trong phong cách của Nguyễn Tuân là ở chỗ, Nguyễn Tuân luôn nhìn
sự vật ở phương diện văn hóa và mĩ thuật, nhìn con người ở phẩm chất nghệ sĩ và
tài hoa. Sáng tác của Nguyễn Tuân thể hiện hài hòa màu sắc cổ điển và hiện đại.
Đặc biệt, ông thường có cảm hứng mãnh liệt với cái cá biệt, phi thường, dữ dội và
tuyệt mĩ.
- Người lái đò sông Đà là bài tùy bút được in trong tập Sông Đà (1960) của
Nguyễn Tuân. Sông Đà nói chung và Người lái đò Sông Đà nói riêng còn tiêu biểu
cho phong cách nghệ thuật độc đáo của Nguyễn Tuân: uyên bác, tài hoa, không
quản nhọc nhằn để cố gắng khai thác kho cảm giác và liên tưởng phong phú, bộn
bề, nhằm tìm cho ra những chữ nghĩa xác đáng nhất, có khả năng làm lay động
người đọc nhiều nhất.
* Phân tích hình tượng của con Sông Đà – con sông trữ tình
a) Góc nhìn từ trên cao (máy bay), Sông Đà mang vẻ đẹp của một mĩ nhân
- Dòng sông mang vẻ đẹp của một áng tóc trữ tình mềm mại, tha thướt và duyên
dáng.
- Vẻ đẹp của dòng sông hài hòa với núi rừng Tây Bắc, được núi rừng điểm tô thêm
cho nhan sắc mĩ miều.
* Nhìn ngắm sông Đà từ nhiều thời gian khác nhau, tác giả đã phát hiện ra những
sắc màu tươi đẹp và đa dạng của dòng sông. Màu nước biến đổi theo mùa, mỗi
mùa có vẻ đẹp riêng trong cách so sánh rất cụ thể:
- Mùa xuân, nước Sông Đà xanh màu “xanh ngọc bích”, tươi sáng, trong trẻo, lấp
lánh
- Mùa thu, nước Sông Đà lại “lừ lừ chín đỏ như da mặt một người bầm đi vì rượu
bữa, lừ lừ cái màu đỏ giận dữ ở một người bất mãn bực bội gì mỗi độ thu về”
- Đặc biệt, nhà văn khẳng định chưa bao giờ con sông có màu đen như thực dân
Pháp đã “đè ngửa con sông ta ra đổ mực Tây vào”, và gọi bằng cái tên lếu láo
Sông Đen.
* Góc nhìn từ bờ bãi sông Đà, dòng sông mang vẻ đẹp của một “cố nhân”
- Vẻ đẹp của nước Sông Đà gợi nhớ đến một trò chơi của con trẻ “trước mắt thấy
loang loáng như trẻ con nghịch chiếu gương vào mắt mình rồi bỏ chạy”, đẹp một
cách hồn nhiên và trong sáng
- Vẻ đẹp của nắng sông Đà lại gợi nhớ đến thế giới Đường thi “tôi nhìn cái miếng
sáng lóe lên một màu nắng tháng ba Đường thi “Yên hoa tam nguyệt há Dương
Châu”” (Xuôi thuyền về Dương Châu giữa tháng ba, mùa hoa khói).
- Vẻ đẹp của bờ bãi sông Đà lại gợi nhớ đến thế giới thần tiên trong khu vườn cổ
tích “bờ sông Đà, bãi sông Đà, chuồn chuồn bươm bướm trên sông Đà”.
-> nhà văn đã cảm nhận được cái chất “đằm đằm ấm ấm” thân thuộc khi gặp lại
sau một thời gian “ở rừng đi núi đã hơi lâu”.
* Nhận xét về cái tôi của Nguyễn Tuân trong đoạn trích
+Cái tôi tài hoa nghệ sĩ – suốt đời rong ruổi đi tìm cái đẹp
+Cái tôi luôn có cảm hứng mãnh liệt với những cái tuyệt mĩ
+Cái tôi giàu suy tư trước vẻ đẹp của thiên nhiên, đất nước
* Tổng kết

ĐỀ 7: Có ý kiến cho rằng: sông Đà nói chung và Người lái đò Sông Đà nói riêng
tiêu biểu cho phong cách của Nguyễn Tuân không quản nhọc nhằn để cố gắng khai
thác kho cảm giác và liên tưởng phong phú, bộn bề, nhằm tìm cho ra những chữ
nghĩa xác đáng nhất, có khả năng làm lay động người đọc nhiều nhất. Anh/chị hãy
làm sáng tỏ qua đoạn trích dưới đây:
... Còn xa lắm mới đến cái thác dưới. Nhưng đã thấy tiếng nước réo gần mãi lại
réo to mãi lên. Tiếng nước thác nghe như là oản trách gì, rồi lại như là van xin, rồi
lại như là khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo. Thế rồi nó rống lên như tiếng một
ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu rừng tre nứa no lửa, đang phá
tuông rừng lửa, rừng lửa cùng gầm thét với đàn trâu da cháy bùng bùng. Tới cải
thác rồi. Ngoặt khúc sông lượn, thấy sóng bọt đã trắng xoá cả một chân trời đá.
Đá ở đây từ ngàn năm vẫn mai phục hết trong lòng sông, hình như mỗi lần có
chiếc thuyền nào xuất hiện ở quãng ầm ầm mà quạnh hiu này, mỗi lần có chiếc
nào nhô vào đường ngoặt sông là một số hòn bèn nhôm cả dậy để vồ lấy thuyền.
BÀI LÀM:
Nguyễn Tuân là một trong chín tác gia lớn của văn học nuớc nhà. Nói đến tác
gia văn học, ta hiểu rằng nếu thiếu vắng đi họ, ta khó hình dung đuợc diện mạo của
bức tranh văn học, và Nguyễn Tuân chính là một góc cạnh, một màu sắc nổi bật
của bức tranh đó. Sở truờng của Nguyễn Tuân là tuỳ bút, là ông vua tuỳ bút mà
chẳng ai có thể vuợt qua, đặc biệt khi độc giả đã bị đóng đanh vào trí nhớ hình ảnh
con Sông Đà, vuơn chảy từ mờ mịt chốn non cao Tây Bắc, mà đổ vào trang văn
Nguyễn Tuân đẹp kì vĩ, lạ lùng. Đặc biệt khi nhà văn đã dồn bao vốn liếng và bút
lực cho đoạn tả thác đá Sông Đà: “... Còn xa lắm... một số hòn bèn nhổm cả dậy để
vồ lấy thuyền”. Vì vậy mà có nhà nghiên cứu đã khẳng định: “Sông Đà nói chung
và Người ỉảỉ đò Sông Đà nói riêng tiêu biểu cho phong cách của Nguyễn Tuân
không quản nhọc nhằn để cố gắng khai thác kho cảm giác và liên tưởng phong
phú, bộn bề, nhằm tìm cho ra những chữ nghĩa xác đáng nhất, có khả năng làm lay
động người đọc nhiều nhất.”
Nguyễn Tuân là nhà văn lớn của nền văn học hiện đại, ông có nhiều những
thành tựu nghệ thuật xuất sắc. Đặc biệt, ông tạo lập đuợc cho mình đuợc một
phong cách nghệ thuật độc đáo: văn chuơng tài hoa, uyên bác. Nguyễn Tuân là nhà
văn suốt đời đi tìm cái đẹp, luôn khám phá thế giới ở bình diện văn hóa, thẩm mỹ,
luôn miêu tả con nguời trong vẻ đẹp tài hoa, nghệ sĩ. Người lái đò Sông Đà – tùy
bút xuất sắc đuợc in trong tập Sông Đà (1960). Là thành quả của một chuyến đi
gian khổ nhung rất hứng thú của nhà văn vào những năm 1958 – 1960. Chuyến đi
đã thỏa mãn niềm khát khao xê dịch, đi để tìm kiếm vẻ đẹp của thiên nhiên, miền
đất Tây Bắc, tìm ra thứ “vàng muời” đã qua thử lửa trong vẻ đẹp của con người
miền Tây Bắc. Vị trí trích đoạn nằm ở phần I của tác phẩm – khắc hoạ nét tính
cách hung bạo của con Sông Đà ở thượng nguồn, mà nổi bật nhất là thác đá – khu
tử địa hiểm hóc nhất người lái đò phải vượt qua.
Người lái đò Sông Đà tiêu biểu cho phong cách của Nguyễn Tuân không quản
nhọc nhằn để cố gắng khai thác kho cảm giác và liên tưởng phong phú, bộn bề,
nhằm tìm cho ra những chữ nghĩa xác đáng nhất, có khả năng làm lay động người
đọc nhiều nhất: Trước hết, cần khắng định tuỳ bút Người lái đò Sông Đà rất tiêu
biểu cho phong cách: uyên bác, tài hoa của Nguyễn Tuân. Cái uyên bác khi ông đã
tung nhiều vốn liếng của nhiều ngành nghề khoa học mà dựng nên “kỳ quan” Sông
Đà. Cái tài hoa chính là khả năng truyền cảm hứng, gợi liên tưởng đầy những bất
ngờ, độc đáo, làm lay động người đọc nhiều nhất.
Để dựng lại cái thác đá hung hiểm, nhà văn đã biến đoạn này giống như một
cuốn phim đầy sinh động, đặc sắc để truyền lại cảm hứng chân thực, sống động
nhất cho độc giả. Làm được như vậy, nhà văn đã áp dụng kỹ thuật của nghệ thuật
điện ảnh khi ông miêu tả: từ xa đến gần, từ âm thanh đến hình ảnh, từ khái quát
đến cận cảnh. Trước hết là cái thác đá khi còn ở xa, được cảm nhận qua thính giác.
Từ rất xa, những luồng âm thanh đã vọng lại: “van xin”, “khiêu khích”, “gằn”,
“chế nhạo”. Có thế nói, không như cách miêu tả âm thanh thông thường, với
những từ chỉ âm thanh để miêu tả tiếng nước thác như ầm ầm, rào rào... mà nhà
văn lại sử dụng những từ chỉ trạng thái, thái độ của con người để gán lên âm thanh
tiếng nước thác. Với cách dịch chuyển này, nhà văn đã đem lại cho người đọc cảm
giác, ở xa kia, không còn là thác nước nữa, chờ đón con thuyền chính là con quái
vật hung hăng, đầy hiểm ác. Đặc biệt hơn, các từ này được tăng dần lên theo cấp
độ, từ van xin đến gằn và chế nhạo nghĩa là ngày một hung hãn hơn, tác dụng thứ
nhất của nó là làm cho độc giả như đang hình dung sự chuyển động của con
thuyền, ngày một đến gần hơn với con thác dữ, do đó mà âm thanh ngày một rõ,
lớn hơn. Thứ hai, với sự tăng tiến này, nhà văn đã gây cho người đọc sự hồi hộp,
cái tò mò, kích thích ngày một cao.
Thác đá khi lại gần đã biến thành một tổ hợp trường đoạn âm thanh khủng
khiếp chưa từng thấy. Nó đem đến sự giật thột, cái bàng hoàng trước luồng âm
thanh va đập, phóng thẳng vào màng nhĩ. Đi bóc tách các luồng âm thanh này, ta
sẽ thấy lần lượt hiện lên: là tiếng rống của hàng ngàn con trâu mộng đang hoảng
sợ: tiếng rống là âm thanh lớn, âm vực cao, nhưng không phải một mà là hàng
ngàn, sự cộng hưởng đông đảo đó làm cho âm thanh xé toang cả không gian; là
tiếng nổ của rừng vầu, tre, nứa bị cháy: với cấu tạo đặc biệt là rỗng ruột, khi cháy,
vầu, tre, nứa sẽ có tiếng nổ lớn; là tiếng xèo xèo của da trâu cháy và đặc biệt nhất
đó là bước chân chạy của những con trâu mộng đang hoảng sợ, giẫm đạp, phá
tuông, hoảng loạn. Ta có thể hình dung ra ngay khung cảnh hỗn loạn đó, với thân
hình to lớn, đồ sộ, lại đông đảo, cùng chạy khỏi rừng lửa, những bước chân trâu
không chỉ làm nên âm thanh, nó còn làm chấn động, làm chòng chành, rung
chuyển cả không gian trên bờ, dưới mặt. Qua mô tả âm thanh, có thể nói, chưa cần
phải nhìn, ta đã cảm nhận được sự kỳ vĩ của thác đá Sông Đà. Và bằng nghệ thuật
miêu tả độc đáo: lấy lửa tả nước, lấy rừng tả sông, Nguyễn Tuân đã cho ta thấy sức
mạnh của ngòi bút tài hoa, của trí tưởng tưởng tuyệt vời, của một bản lĩnh hiếm ai
có.
Thác đá qua cảm nhận thị giác, khi diện kiến “đối thủ nặng ký” nhất với người
lái đò, quả thực là một cái thác vĩ đại. Chỉ bằng câu văn: “sóng bọt đã trắng xóa cả
một chân trời đả” đã giúp ta cảm nhận được cả độ cao của thác và tính chất lòng
sông. Để sóng bọt tung trắng xóa cả không gian, trước hết thác phải rất cao, thứ hai
lòng sông phải toàn đá, có như vậy độ va đập khi nước chạm lòng sông mới làm
văng lên những bọt nước, mới trắng xóa, che lấp cả tầm nhìn gần.
Nhưng ấn tượng hơn là cụm từ “chân trời đá”. Cụm từ này nói lên hình ảnh
thật kỳ vĩ, bằng góc nhìn ra xa, lên cao, đến tận cuối chân trời, không nhìn thấy
chân mây, hay mặt đất quen thuộc, mà chỉ thấy lổm ngổm, ngổn ngang toàn đá là
đá, đá vươn dài, bò đến tận chân trời. Đó là thác đá, khúc ác hiểm nhất, là chiến
trường mà người lái đò sẽ phải chiến đấu đế giành giật sự sống.
Trong cái nhìn cận cảnh, nhà văn đã soi chiếu đến từng cảnh, thổi hồn vào từng
hòn, từng thớ đá. Đá ở đây ngàn năm mai phục, lũ đá Sông Đà chính là những binh
tướng lão luyện, dạn dày qua hàng trăm trận đánh, qua hàng nghìn năm tích lũy
kinh nghiệm, do đó mà vô cùng dũng mãnh. Sở trường của chúng là ẩn nấp, mai
phục. Thế đòn hiếm của đá là biết chồm cả dậy để vồ lấy thuyền, vô cùng bất ngờ,
đẩy đối phương vào thế bị động. Cách miêu tả của nhà văn thật kỳ thú, trong hình
dung của ông, sự dập dềnh của sóng nước phủ lấy đá, làm đá lúc ẩn, lúc chồi như
sự mai phục, như thể đá biết nhào, vồ những con thuyền.
Nhà văn Nguyễn Minh Châu đã tùng khẳng định: “Nguyễn Tuân là cái định
nghĩa về người nghệ sĩ”. Và rất nhiều ý kiến khác nói về sự nhọc công của ông
trong công việc viết lách, mỗi trang văn là một sự dụng công, một tinh thần trách
nhiệm cao độ. Nguyễn Tuân đã huy động cả nghệ thuật văn chương lẫn các hình
thức nghệ thuật khác như hội họa, điêu khắc, âm nhạc, sân khấu, vũ đạo, điện
ảnh... Ông thường sử dụng nghệ thuật điện ảnh khiến cho những trang văn như
phập phồng, tạo sức gợi. Nguyễn Tuân còn vận dụng cả nghệ thuật quân sự và võ
thuật. Nào là “cửa sinh cửa tử”, “đánh khuýp vu hồi”, “đảnh du kích”, “phục
lách”, “đánh giáp lá cà”,... Cho nên nhà phê bình Lã Nguyên đã gọi ông là “nhà
văn của những hình dung” hay nói cách khác, đọc văn Nguyễn Tuân không chỉ
thuần ngẫm về ý nghĩa, thấu cái hay của câu chữ. Đọc văn Nguyễn Tuân, thấy bao
hình ảnh ập đến, bao hình tượng nổi hình, tạo khối, va đập, bao xúc cảm trào dâng
chính bởi sự am hiểu nhiều ngành nghề, cách so sánh và liên tưởng độc đáo đã thổi
hồn cho chữ. Chất tài hoa của Nguyễn Tuân còn ở cách sử dụng và huy động vốn
Tiếng Việt thật tài tình. Không phải ngẫu nhiên mà Tố Hữu đã gọi Nguyễn Tuân là
bậc “chuyên viên cao cấp của Tiếng Việt”.
Bằng tình yêu thiên nhiên đất nước kết hợp với ngôn từ độc đáo, tài hoa,
Nguyễn Tuân đã tái hiện lên một khung cảnh Tây Bắc thật hùng vĩ mà cũng thật
trữ tình, làm ta thêm tự hào về núi sông Tổ quốc nguy nga, tráng lệ. Sông Đà quả
là một quà tặng vô giá của thiên nhiên và là một công trình nghệ thuật tuyệt vời
của bậc thầy tùy bút Nguyễn Tuân.

ĐỀ 8:
Trong tùy bút “Người lái đò sông Đà ”, nhà văn Nguyễn Tuân có viết:
“…Sóng thác đã đánh đến miếng đòn hiểm độc nhất, cả cái luồng nước vô sở
bất chí ấy bóp chặt bộ hạ người lái đò […]. Mặt sông trong tích tắc lòa sáng
lên như một cửa bể đom đóm rừng ùa xuống mà châm lửa vào đầu sóng. Nhưng
ông đò cố nén vết thương, hai chân vẫn kẹp chặt lấy cuống lái, mặt méo bệch đi
như cái luồng sóng đánh hồi lùng, đánh đòn tỉa, đánh đòn âm vào chỗ hiểm.
Tăng thêm mãi lên tiếng hỗn chiến của nước của đá thác. Nhưng trên cái
thuyền sáu bơi chèo, vẫn nghe rõ tiếng chỉ huy ngắn gọn tỉnh táo của người
cầm lái. Vậy là phá xong cái trùng vi thạch trận vòng thứ nhất. Không một phút
nghỉ tay nghỉ mắt, phải phá luôn vòng vây thứ hai và đổi luôn chiến thuật. Ông
lái đã nắm chắc binh pháp của thần sông thần đá. Ông đã thuộc quy luật phục
kích của lũ đá nơi ải nước hiểm trở này. Vòng đầu vừa rồi, nó mở ra năm cửa
trận, có bốn cửa tử một cửa sinh, của sinh nằm lập lờ phía tả ngạn sông. Vòng
thứ hai này tăng thêm nhiều của tử để đánh lừa con thuyền vào, và cửa sinh lại
bố trí lệch qua phía bờ hữu ngạn. Cưỡi lên thác Sông Đà, phải cưỡi đến cùng
như là cưỡi hổ. Dòng thác hùm beo đang hồng hộc tế mạnh trên sông đá. Nắm
chặt lấy được cái bờm sóng đúng luồng rồi, ông đò ghì cương lái, bám chắc lấy
luồng nước đúng mà phóng nhanh vào cửa sinh, mà lái miết một đường chéo về
phía cửa đá ấy. Bốn năm bọn thủy quân của ải nước bên bờ trái liền xô ra định
níu thuyền lôi vào tập đoàn cửa tử. Ông đò vẫn nhớ mặt bọn này, đứa thì ông
tránh mà rảo bơi chèo lên, đứa thì ông đè sấn lên mà chặt đôi ra để mở đường
tiến. Những luồng tử đã bỏ hết lại sau thuyền. Chỉ còn vẳng reo tiếng hò của
sóng thác luồng sinh. Chúng vẫn không ngớt khiêu khích, mặc dầu cái thằng đá
tướng đứng chiến ở cửa và đã tiu nghỉu cái mặt xanh lè thất vọng thua cái
thuyền đã đánh trúng vào của sinh nó trấn lấy. Còn một trùng vây thứ ba nữa.
Ít cửa hơn, bên phải bên trái đều là luồng chết cả. Cái luồng sống ở chặng ba
này lại ở ngay giữa bọn đá hậu về của con thác. Cứ phóng thuyền, chọc thủng
cửa giữa đó. Thuyền vút qua cổng đá cánh mở cánh khép. Vút, vút, cửa ngoài,
cửa trong, lại cửa trong cùng, thuyền như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi
nước, vừa xuyên vừa tự động lái được lượn được…. ”
(Nguyễn Tuân, Ngữ văn 12, Tập một, NXB Giáo dục)

Cảm nhận của anh/chị về hình tượng người lái đò trong đoạn trích trên. Từ
đó nhận xét về quan điểm nghệ thuật của Nguyễn Tuân.
BÀI LÀM:
Nguyễn Tuân là một nghệ sĩ lớn, một nhà văn hóa lớn. Ông được mệnh danh
là đại thụ trong rừng đầu nguồn văn chương Việt Nam thế kỉ XX. Dù sáng tác ở
thể loại truyện ngắn hay tùy bút thì các tác phẩm của ông đều hướng đến khám phá
cái đẹp tuyệt đỉnh, siêu việt của thiên nhiên và con người bằng ngòi bút tài hoa,
phóng túng và uyên bác vô cùng. “Người lái đò sông Đà” của ông là một thiên tùy
bút tiêu biểu, một khúc ca đầy hào hứng về mảnh đất và con người Tây Bắc. Cùng
với hình tượng dòng Sông Đà hùng vĩ, thơ mộng, là hình ảnh người lái đò trên
sông nước đầy tráng kiện và tài hoa tuyệt đỉnh được nhà văn khắc họa thật dộc đáo.
Đoạn trích sau đã thể hiện tập trung nhất vẻ đẹp hình tượng ông lái đò Lai Châu
mà tác giả đã có dịp tiếp xúc: “…”
Trong chuyến đi thực tế lên vùng cao Tây Bắc những năm 1958 – 1960,
Nguyễn Tuân thực sự đã trở thành người giàu có khi ông đã khám phá ra những
mỏ vàng, mỏ quặng không phải chỉ của thiên nhiên núi rừng Tây Bắc mà đó là thứ
“vàng trong tâm” con người nơi đây. Giữa bao nhiêu của chìm của nổi ở mảnh đất
hoang sơ ấy, nhà văn có cái nhìn đặc biệt trân trọng và ngưỡng mộ những người
lái đò trên sông Đà. Với ông, họ đều là những thỏi vàng nguyên chất của một khối
vàng xã hội chủ nghĩa đã qua thử lửa, “thứ lửa mà không một thoi vàng giả, một
cục vàng pha nào chịu nổi.” Hẳn rằng, trong tùy bút của mình, ông đang chứng
minh cho độc giả thấy chất vàng mười rắn rỏi, quý giá ở ông lái đò chở chè người
Lai Châu. Từ đặc điểm vóc dáng đến nét tài hoa trí dũng của ông đều khảm vào
tâm trí người đọc như một bức phù điêu sống động và hài hòa. Đó là ông lão tuổi
đã gần bảy mươi với “cái đầu bạc quắc thước và thân hình cao lớn, gọn quánh như
chất sừng chất mun”. “Cánh tay ông dài lêu nghêu như cây sào”, “chân khuỳnh
khuỳnh gò lại như kẹp lấy một cuống lái tưởng tượng”. Nhãn giới ông vòi vọi như
lúc nào cũng mong một cái bến xa nào trong sương mù”. Vẻ đẹp của thứ vàng
trong tâm hồn ông đò đã được tôi luyện qua “lò lửa” sông Đà và hiện lên đầy ấn
tượng qua đoạn vượt ba trùng vi thạch trận trên sông.
Trước hết, đó là vẻ đẹp của tình yêu lao động, lòng nhiệt huyết với nghề và
dày dặn kinh nghiệm sông nước của ông lái đò. Làm nghề lái đò chuyên chở hàng
hóa dọc sông Đà vô cùng vất vả, “người lúc nào cũng dựng đứng lên, phải luôn
mắt, luôn tay, luôn chân, luôn gân và luôn tim nữa”. Biết là thế nhưng ông đã từng
gắn bó với nó suốt 10 năm liền. Ông từng ngược xuôi hơn trăm lần, chính tay giữ
lái cũng 6 chục lần cho những chuyến thuyền then đuôi én sáu chèo. Ông thuộc
lòng sông Đà như thuộc bản trường ca đến từng dấu chấm, dấu phẩy, dấu chấm
than và cả những đoạn xuống dòng. Ông nhớ như đóng đinh vào lòng những con
thác, những mặt ghềnh và thậm chí là bộ dạng ngỗ ngược của những hòn đá trên
sông. Đặc biệt ở đoạn sông nhiều thác ghềnh phía Sơn La, sông Đà dàn bày thạch
trận với ba trùng vi, ông đò nắm rõ quy luật phuc kích của chúng và nhớ mặt, nhớ
vị trí của từng hòn, từng tảng. Sự chú ý, quan sát tỉ mỉ, kĩ lưỡng và ghi nhớ chính
xác từng đặc điểm dòng sông của ông đò vừa cho thấy sự nghiêm túc với công việc
vừa thấy lòng say mê, tâm huyết với nghề của ông.
Cuộc vượt thác sông Đà dưới ngòi bút miêu tả độc đáo của Nguyễn Tuân trở
nên sống động như một cuộc chiến đấu sinh tử, mà ở đó, ông đò Lai Châu hiện lên
đẹp đẽ như một người anh hùng trên sông nước. Giữa trận đồ bát quái, thiên la địa
võng đang bủa vây các tay chèo, “ Sóng thác đã đánh đến miếng đòn hiểm độc
nhất, cả cái luồng nước vô sở bất chí ấy bóp chặt lấy hạ bộ người lái đò”, thì ông
đò vẫn “cố nén vết thương, hai chân vẫn kẹp chặt lấy cuống lái, mặt méo bệch đi
như cái luồng sóng đánh hồi lùng, đánh đòn tỉa, đánh đòn âm vào chỗ hiểm”. Như
một chiến binh dũng cảm, ông đò vẫn kiên cường chiến đấu với quân liều mạng ấy
dù cơ thể có chịu nhiều thương tích. Khó khăn nguy hiểm đối với một người lái đò
ưa mạo hiểm lại không đáng sợ bằng những lúc “dại tay, dại chân và buồn ngủ”
khi qua những khúc sông không có thác. Dường như, sông Đà càng dữ tợn càng
khiến người chèo đò phấn khích mà bộc lộ hết cái khí chất anh hùng của mình:
“Trên chiếc thuyền sáu bơi chèo, vẫn nghe rõ tiếng chỉ huy ngắn gọn tỉnh táo của
người cầm lái.” Đó là hình ảnh của một con người với sức khỏe phi thường và luôn
trong tâm thế chủ động, ngang tàng khi xung trận.
Người dũng tướng sông Đà ấy ở cái tuổi thất thập cổ lai hi vẫn còn dám
thách thức các tay đò đầy khẩu khí: “tôi dám thi đua với bạn đò ở khắp mấy châu
có địa giới loang ra bờ sông Đà” ông dám khẳng định mình còn đủ linh lợi để chở
đoàn cán bộ khảo sát một vòng sông Đà. Cái khẩu khí ấy hẳn sẽ làm yên lòng du
khách trong khoang thuyền khi cùng ông vượt qua ba trùng vi thạch trận đầy hiểm
hóc trên sông. Du khách chưa kịp định thần thì cái thuyền đã lọt qua trùng vi thứ
nhất trong tiếng hỗn chiến của nước, của đá thác. “Trùng vi thứ nhất có năm cửa
trận, bốn của tử và một cửa sinh, cửa sinh nằm lập lờ phía tả ngạn sông”. Không
một phút nghỉ tay, nghỉ mắt, ông đò phải phá luôn các vòng vây tiếp theo của sông
Đà. Thủy quái sông Đà đã đánh lừa chiếc thuyền, đánh lừa trí não của người lái đò
bằng cách bày bố các cửa sinh, cửa tử lắt léo không theo quy luật nào: trùng vi
thạch trận thứ hai tăng thêm nhiều cửa tử để đánh lừa con thuyền vào, và cửa sinh
lại bố trí lệch qua phía bờ hữu ngạn sông. Và ở trùng vi thứ ba, ít cửa hơn, bên phải
bên trái đều là luồng chết cả, luồng sống lại nằm ở giữa, lập lờ cánh mở cánh khép.
Phải là người có cái đầu thép mới đủ tỉnh táo và sáng suốt để vượt qua những thử
thách đầy nguy hiểm của Đà giang. Càng dấn thân vào các trùng vi thạch trận, cơ
hội sống càng ít ỏi, chỉ cần một chút khinh suất tay lái thì cả người và thuyền sẽ tan
xác. Nhưng ta thực sự ngỡ ngàng và thán phục trước sự kiên cường dũng cảm của
ông đò. Nhìn cái cách ông lái thuyền băng qua các trùng vi thạch trận mà ngỡ như
người kị sĩ đang thuần phục con mãnh thú bất kham. Sóng sông Đà “hồng hộc tế
mạnh như hùm beo”, đá trên sông như lũ hải tặc gớm giếc. Ông lái đò vẫn hiên
ngang, chủ động điều khiển chiếc thuyền đương đầu với thử thách trên sông nước.
Ta thấy thoáng hiện ở hình tượng ông lái đò vẻ đẹp hào hùng của vị Phù Đổng
Thiên vương cưỡi ngựa thần nhổ tre đánh giặc.
Bằng hàng loạt các động từ mạnh như: cưỡi lên thác, nắm chặt lấy bờm
sóng, ghì cương lái, phóng nhanh, lái miết…,“rảo bơi chèo”, “đè sấn lên mà chặt
đôi ra”, tác giả đã tái hiện thật sinh động cuộc chiến đấu không cân sức giữa thiên
nhiên hùng vĩ hung tợn sông Đà và ông lái đò, mà trong cuộc chiến ấy, con người
nhỏ bé, đơn độc vẫn giành phần thắng đầy vinh quang. Người đọc như đang được
xem một thước phim hành động gay cấn, với những cảnh quay ngoạn mục, mạo
hiểm đến thót tim: giữa những âm thanh gầm réo ghê rợn của thác, của sóng, giữa
bao nhiêu tướng dữ quân tợn đá lớn đá bé, ông lái đò vẫn không hề nao núng tinh
thần: “Cứ phóng thẳng thuyền, chọc thủng cửa giữa đó”, và đánh trúng vào cửa
sinh mà thoát hiểm. Quả thực, hình tượng người dũng tướng sông Đà không chỉ
được xây dựng bằng những hiểu biết sâu sắc về phẩm chất những tay đò trên Tây
Bắc của Nguyễn Tuân mà còn bằng cả niềm ưu ái đặc biệt của ông dành cho họ -
những con người lao động thầm lặng mà dũng cảm phi thường, họ trở thành biểu
tượng của cái đẹp trong quan niệm thẩm mĩ tiến bộ của nhà văn.
Nhưng trên hết, trong cái nhìn của Nguyễn Tuân, ông đò Lai Châu mang vẻ
đẹp tuyệt đỉnh không phải chỉ ở sự trí dũng vô song, mà còn là cái đẹp đạt tới trình
độ nghệ thuật, cái đẹp toát ra chất tài hoa nghệ sĩ. Đọc đoạn miêu tả cảnh ông đò
vượt thác, ta vừa thấy cái cứng cỏi, bản lĩnh của một chiến binh, nhưng cũng thấy
ở ông hình ảnh của người nghệ sĩ xiếc đi mô tô bay, chỉ khác là phương tiện biểu
diễn của ông là chiếc thuyền đuôi én sáu bơi chèo, không có cần số, không có tay
phanh, không thể lùi được như ô tô, xe máy; nơi biểu diễn không phải là ánh đèn
sân khấu hào nhoáng mà ngay giữa thiên thiên hùng vĩ, giữa đời thường. Với tay
chèo lão luyện, ông điều khiển chiếc thuyền nhẹ tênh, lướt đi như không qua các
chướng ngại vật trên sông. Lúc nhu, lúc cương: lúc “đè sấn” lên đá mà chặt đôi ra,
lúc lại tránh mà rảo bơi chèo”. Nhịp nhàng và chính xác đến từng tích tắc khi đối
diện với đội quân sóng hung hãn: “Vút, vút, cửa ngoài, cửa trong, lại cửa trong
cùng, thuyền như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước, vừa xuyên vừa tự
động lái được, lượn được.” Không hề căng thẳng, ông đò vẫn bình tĩnh, tỉnh táo và
phong thái kiêu bạc lạ thường. Dường như công việc chèo đò với ông không phải
chỉ là nghề lao động mà đó còn là một thú vui, một sở thích ăn vào máu của ông
vậy.
Hình tượng ông lái đò người Lai Châu đã góp vào bộ sưu tập chân dung
những con người có vẻ đẹp siêu việt, toàn mĩ trong những trang văn của Nguyễn
Tuân – một nhà văn luôn miệt mài trên con đường tìm kiếm, khám phá và tôn vinh
cái đẹp tuyệt đỉnh. Nếu như trước năm 1945, nhà văn duy mĩ ấy chỉ đi tìm cái đẹp
trong quá khứ, bởi không tin vào thực tại thì sau thời điểm này, “Cách mạng là sự
đổi đời đối với Nguyễn Tuân, vì ông thấy cái có thật bây giờ đẹp và cái đẹp bây
giờ có thật trong cuộc đời” (Nguyễn Đình Thi). Cùng với chất ngông vốn có
Nguyễn Tuân đầy phấn khích khi khám phá ra giá trị cuộc sống ngay ở thực tại,
chỉ việc xách ba lô lên và đi. Mỗi chuyến đi ông đã nhặt về cho mình bao nhiêu
quặng, bao nhiêu vàng, thứ vàng lắng đọng trong tâm mình. Đó là niềm tin yêu tha
thiết những con người lao động lặng thầm như ông đò Lai Châu ấy. Người nghệ sĩ
đam mê cái đẹp, cái tài lại gặp gỡ một ông lái đò tài hoa nghệ sĩ thì sung sướng
nào bằng. Bởi thế mà nhà văn cứ việc phóng bút mà ghi lại cái thăng hoa trong
cảm xúc của mình. Từ việc sử dụng ngôn từ độc đáo, những hình ảnh so sánh,
nhân hóa tạo liên tưởng thú vị, đến sự huy động kiến thức thuộc nhiều lĩnh vực như
thể thao, võ thuật, quân sự, điện ảnh… tất cả đều hướng đến mục tiêu tôn vinh cái
đẹp của người lao động giữa đời thường. Với ông, hẳn rằng thước phim đẹp nhất,
nghệ thuật nhất là thước phim cắt ra từ đời thực, mà diễn viên chính phải là con
người thực mang vẻ đẹp tuyệt đỉnh, siêu phàm. Đó cũng là quan điểm nghệ thuật
táo bạo và đầy nhân văn của Nguyễn Tuân.
Đoạn trích cảnh vượt ba trùng vi thạch trận trên sông Đà khép lại hành
trình chinh phục thiên nhiên ở khúc thượng nguồn của ông lái đò nhưng để lại thật
nhiều xúc cảm đẹp đẽ trong lòng người đọc. Ta không chỉ cảm thấy ngưỡng mộ tài
năng, khí chất anh hùng, nghệ sĩ của ông lái đò nói riêng, của những người lao
động thầm lặng ở mọi miền Tổ quốc nói chung mà còn thấy khâm phục tài năng sử
dụng ngôn từ, xây dựng hình tượng của ngòi bút Nguyễn Tuân. Tác phẩm “Người
lái đò Sông Đà” đã góp phần ngợi ca con người mới, cuộc sống mới trong thời kì
đầu xây dựng xã hội chủ nghĩa ở nước ta, đồng thời cũng góp phần thể hiện quan
niệm thẩm mĩ tiến bộ và thông điệp đầy chất nhân văn: Dù bất kể bạn là ai, bạn
làm nghề gì, hãy cứ sống hết mình, luôn tâm huyết với nghề nghiệp bạn chọn, bạn
sẽ trở thành nghệ sĩ!
AI ĐẶT TÊN CHO DÒNG SÔNG
( Hoàng Phủ Ngọc Tường)
ĐỀ 1: Có ý kiến cho rằng: “Nghệ thuật là lĩnh vực của cái độc đáo, vì vậy, nó đòi
hỏi người sáng tác phải có phong cách nôi bật, tức là có nét gì đó rất riêng, mới lạ
thể hiện trong các tác phẩm của mình”. Hãy làm sáng tỏ điều đó bằng cảm nhận
của anh/chị về những đoạn văn sau:
[...] Con Sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc
ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn
mù khói núi Mèo đốt nương xuân... Mùa xuân dòng xanh ngọc bích, chứ nước
Sông Đà không xanh màu xanh canh hến của Sông Gâm Sông Lô. Mùa thu nước
Sông Đà lừ lừ chín đỏ như da mặt một người bầm đi vì rượu bữa, lừ lừ cái màu đỏ
giận dữ ở một người bất mãn bực bội gì mỗi độ thu về...
(Nguyễn Tuân - Người lái đò Sông Đà)

[...] Từ tuần về đây, sông Hương vẫn đi trong dư vang của Trường Sơn, vượt qua
một lòng vực sâu dưới chân núi Ngọc Trản đế sac nước trở nên xanh thẳm, và từ
đó nó trôi đi giữa hai dãy đồi sừng sững như thành quách, với những điểm cao đột
ngột như Vọng Cảnh, Tam Thai, Lựu Bảo mà từ đó, người ta luôn nhìn thấy dòng
sông mềm như tấm lụa, với những chiếc thuyền xuôi ngược chỉ bé vừa bằng con
thoi. Những ngọn đồi này tạo nên những mảng phản quang nhiều màu sắc trên nên
trời tây nam thành phố, “sớm xanh, trưa vàng, chiều tím” như người Huế thường
miêu tả ...
(Hoàng Phủ Ngọc Tường – Ai đã đặt tên cho dòng sông?)
BÀI LÀM :
Nước ta được thiên nhiên ưu ái ban tặng cho hệ thống sông ngòi dày đặc. Có
những dòng sông “quê hương, yêu thương” đầy thơ mộng, kỳ vỹ và nó đã trở thành
nguồn cảm hứng bất tận cho các nhà văn, nhà thơ viết lên những tác phẩm văn học
nghệ thuật xuất sắc. Tiêu biểu là tùy bút Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân
và bút ký Ai đã đặt tên cho dòng sông của Hoàng Phủ Ngọc Tường. Thành công
của hai tác phẩm trên chính là việc xây dựng hình tượng hai con sông là Đà giang
và Hương giang. Ở hai con sông này, bên cạnh những nét khác biệt, chúng còn có
những nét tương đồng. Đây phải chăng là sự gặp gỡ của hai nhà văn lớn khi cùng
miêu tả về các con sông khác nhau trên mảnh đất Việt Nam. Đặc biệt với cảnh
sông Đà từ góc nhìn trên tàu bay trong Người lái đò Sông Đà và cảnh sông Hương
ở ngoại vi thành phố trong Ai đã đặt tên cho dòng sông?, ta đều thấy bật lên được
sự tài hoa trong từng ngòi bút, như một nhà phê bình đã từng nhận xét: “Nghệ
thuật là lĩnh vực của cái độc đảo, vì vậy, nó đòi hỏi người sáng tác phải có phong
cách nối bật, tức là có nét gì đó rất riêng, mới lạ thể hiện trong các tác phẩm của
mình”
Nhắc đến Hoàng Phủ Ngọc Tường là nhắc đến nhà văn có phong cách độc
đáo và đặc biệt sở trường về thể loại bút kí, tùy bút. Tác phẩm của ông luôn có sự
kết hợp nhuần nhuyễn giữa chất trí tuệ và trữ tình; giữa nghị luận sắc bén với trình
bày giàu chất thơ và sự vận dụng tống hợp tri thức triết học, địa lí, lịch sử, văn
hoá... Lối hành văn trong bút kí của Hoàng Phủ Ngọc Tường thường hướng nội,
súc tích, mê đắm và rất mực tài hoa. Bút kí Ai đã đặt tên cho dòng sông? được
Hoàng Phủ Ngọc Tường viết năm 1981 bằng tình yêu, sự gắn bó hơn nửa cuộc đời
với mảnh đất, cảnh vật, con người xứ Huế. Tác phẩm được in trong tập bút kí cùng
tên năm 1986. Ban đầu, tác giả đặt tên là: Hương ơi, e phải mày chăng? Vị trí trích
đoạn thuộc phần đầu của thiên tùy bút, là một trong những trích đoạn hay nhất khi
nhà văn miêu tả con sông Hương ở ngoại vi thành phố.
Còn nhắc đến Nguyễn Tuân, điều đầu tiên phải khẳng định, đó là nhà văn
lớn của nền văn học hiện đại. Nguyễn Tuân tạo lập được cho mình được một
phong cách nghệ thuật độc đáo: văn chương tài hoa, uyên bác. Ông là nhà văn suốt
đời đi tìm cái đẹp, luôn khám phá thế giới ở bình diện văn hóa, thẩm mỹ, luôn
miêu tả con người trong vẻ đẹp tài hoa, nghệ sĩ. Người lái đò Sông Đà - tùy bút
xuất sắc được in trong tập sông Đà 1960. Là thành quả của một chuyến đi gian khổ
nhưng rất hứng thú của nhà văn vào những năm 1958 - 1960. Chuyến đi đã thỏa
mãn niềm khát khao xê dịch, đi để tìm kiếm vẻ đẹp của thiên nhiên, miền đất Tây
Bắc, tìm ra thứ “vàng mười” đã qua thử lửa trong vẻ đẹp của con người miền Tây
Bắc. Vị trí trích đoạn trích là khúc Nguyên Tuân say sưa miêu tả Đà giang phía hạ
nguồn, qua góc nhìn trên tàu bay.
Nghệ thuật là lĩnh vực của cái độc đáo, nó đòi hỏi người sáng tác phải có
phong cách nổi bật, tức là có nét gì đó rất riêng, mới lạ thể hiện trong các tác phẩm
của mình. Có thể nói, nghệ thuật nói chung, văn chương nói riêng là lĩnh vực của
cái độc đáo, độc đáo trong việc đi tìm cái đẹp của cuộc sống để tạo nên tác phẩm,
trong việc sáng tạo nên cái đẹp, cái riêng của tác giả ở tác phẩm. Tác phẩm nghệ
thuật nói chung, tác phẩm văn chương nói riêng đòi hỏi sự sáng tạo, mới lạ, độc
đáo, thể hiện tài năng, dấu ấn cá nhân của tác giả. Nếu nhà văn không chịu tìm tòi,
không đào sâu, khám phá, khơi những nguồn chưa ai khơi, nhà văn đó sẽ là một
bản sao của kẻ khác. Trong làng văn, Nguyễn Tuân và Hoàng Phủ Ngọc Tường
xứng đáng là cây đa cây đề, là những kẻ tiên phong trên hành trình văn chương
nhiều vinh dự mà cũng lắm cực nhọc.
Trước hết với Hoàng Phủ Ngọc Tường qua cái nhìn về dòng Hương giang ở
ngoại vi thành phố, có ai đã từng tưởng tượng về một dòng sông như thế này: “Từ
tuần về đây, sông Hương vẫn đi trong dư vang của Trường Sơn, vượt qua một lòng
vực sâu dưới chân núi Ngọc Trản để sắc nước trở nên xanh thẳm, và từ đó nó trôi
đi giữa hai dãy đồi sừng sững như thành quách, với những điểm cao đột ngột như
Vọng Cảnh, Tam Thai, Lựu Bảo mà từ đó, người ta luôn nhìn thấy dòng sông mềm
như tấm lụa, với những chiếc thuyền xuôi ngược chỉ bé vừa bằng con thoi. Những
ngọn đồi này tạo nên những mảng phản quang nhiều màu sắc trên nền trời tây
nam thành phố, “sớm xanh, trưa vàng, chiều tím” như người Huế thường miêu
tả ...”
Sông Hương ở ngoại vi thành phố miêu tả lại thuỷ trình của dòng sông khi
chảy về với Huế, nhưng trong cảm quan nhà văn, đó là cuộc hành trình của người
con gái Hương giang tìm đến với người tình xứ Huế. Vẻ đẹp của sông Hương là vẻ
đẹp được tô điểm qua thử thách. Khi chảy qua lòng vực sâu dưới chân núi Ngọc
Trản, giống như là một bể lọc lớn, để nước sông Hương trở nên xanh thẳm, phải
chăng giống như người con gái, sông Hương đang tự làm mới mình. Khi trôi qua
những dãy đồi sừng sững, sông Hương phải uốn dòng chảy, và qua hướng chảy lắt
léo đó, sông Hương đã phô ra được những đường cong quyến rũ của nó. Tại nơi
đây, sông Hương mềm đi như một dải lụa. Đặc biệt hơn, khi uốn mình qua hai dãy
đồi sừng sững như thành quách, những ngọn đồi này tạo nên những mảng phản
quang nhiều màu sắc trên nền trời tây nam thành phố: “sớm xanh, trưa vàng, chiều
tím”, hay nói cách khác, những ngọn đồi ấy đã tạo nên chiếc áo màu sắc để khoác
lên mình người con gái Hương giang. Khiến cô gái ấy thêm phần lộng lẫy và xinh
đẹp.
Với Nguyễn Tuân, khi nhìn từ tàu bay, góc nhìn có thể bao quát hết sắc diện
Đà giang, những dòng liên tưởng và miêu tả phóng khoáng đã bung nở trên trang
văn xuân sắc hơn bao giờ hết: “Con Sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc
trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa
gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân... Mùa xuân dòng
xanh ngọc bích, chứ nước Sông Đà không xanh màu xanh canh hến của Sông Gầm
sông Lô. Mùa thu nước Sông Đà lừ lừ chín đỏ như da mặt một người bầm đi vì
rượu bữa, lừ lừ cái màu đỏ giận dữ ở một người bất mãn bực bội gì mỗi độ thu
về...”
Từ trên cao nhìn xuống, quả là điểm quan sát thật lý tưởng để có thể thu vào
tầm mắt dòng chảy Sông Đà. Nguyễn Tuân đã đưa ra hai liên tưởng vô cùng mới
mẻ, chưa từng thấy về hình dáng con sông. Có lẽ, từ điểm nhìn rất cao, hình ảnh
Sông Đà đã hóa thành sợi dây thừng ngoằn ngoèo, và khi tàu bay hạ xuống, dòng
sông đã hóa thành áng tóc trữ tình tuôn dài tuôn dài. Liên tưởng dòng sông như
mái tóc óng ả để buông lơi, chảy dài đến bất tận. Hoa ban trắng, hoa gạo đỏ đôi bờ
bung nở như nhánh xuân cài lên mái tóc, lại ẩn hiện mờ ảo trong sương khói Tây
Bắc, đó là vẻ đẹp rất thơ, vẻ đẹp của người thiếu nữ bước ra từ cõi tiên, mà mái tóc
nàng làm bừng hương sắc, xao động đất trời. Xuyên qua màn mây, dòng sông còn
hiện lên qua màu sắc biến ảo. Chính vẻ đẹp của mây trời đã tạo cho con sông Đà
một vẻ đẹp riêng không trộn lẫn. Nguyễn Tuân phát hiện ra vẻ đẹp của sắc nước
sông Đà thay đổi theo mùa. Mùa xuân, nước sông Đà xanh ngọc bích “chứ không
xanh màu xanh canh hến của nước sông Gâm, sông Lô”. Xanh ngọc bích là xanh
trong, xanh sáng, xanh biếc - một sắc màu gợi cảm, trong lành. Đó là sắc màu của
nước, của núi, của da trời. Mùa thu, nước sông Đà “lừ lừ chín đỏ như da mặt một
người bầm đi vì rượu bữa, lừ lừ cái màu đỏ giận dữ ở một người bất mãn bực bội
độ thu về”. Câu văn sử dụng phép so sánh “lừ lừ chín đỏ như da mặt người bầm đi
vì rượu bữa” khiến người đọc hình dung được vẻ đẹp đa dạng của sắc nước sông
Đà. Cách miêu tả sắc đỏ màu thu Sông Đà của Nguyễn Tuân cũng thật độc đáo. Đỏ
bầm, màu đỏ không gắt, không nhạt, mang trong mình chút hồng hào, pha vào đó
sắc phù sa, lại không đục ngầu, màu sắc ấy còn mang dáng hình của kẻ say, hay là
vì người đã quá say dòng sông, quá mê đắm cảnh sông nước Tây Bắc.
Điểm gặp nhau giữa Nguyễn Tuân và Hoàng Phủ Ngọc Tường: là đi tìm cái
đẹp và thể hiện cái đẹp bằng ngòi bút tài hoa, độc đáo tạo được nét riêng, mới lạ
qua hình ảnh dòng sông. Qua những đoạn văn, hai tác giả thể hiện nét tài hoa, độc
đáo trong phong cách nghệ thuật của mình, sự tỉ mỉ, kỳ công khi khắc hoạ hình
tượng. Tuy nhiên, như ý kiến bàn luận, mỗi nhà văn đều tạo nên bầu khí quyển
riêng trong hình tượng và phong cách. Nguyễn Tuân tài hoa, uyên bác luôn nhìn sự
vật, hiện tượng ở nhiều góc độ để khám phá, phát hiện; vận dụng kiến thức của
nhiều lĩnh vục, tổng hợp cảm nhận của các giác quan để khám phá đối tượng. Tất
cả làm nên phong cách Nguyễn Tuân vừa độc đáo vừa phong phú. Dưới ngòi bút
tài hoa của cụ Nguyễn, sông Đà như một công trình thẩm mĩ, một kì công nghệ
thuật mà thiên nhiên ban tặng con người với hai đặc điểm: hung bạo, dữ dội và thơ
mộng, trữ tình.
Với Hoàng Phủ Ngọc Tường, ẩn trong câu chữ biến hóa là vẻ đẹp lấp lánh
ánh sáng trí tuệ, tri thức và cả chất phong tình, tài hoa, lãng mạn từ tâm hồn nhà
văn. Tất cả làm nên một ngòi bút độc đáo, sâu sắc mà tràn đầy cảm xúc... Trang
viết của Hoàng Phủ Ngọc Tường là khám phá của tác giả về vẻ đẹp vừa “phóng
khoáng và man dại” vừa “dịu dàng và say đắm” của dòng sông, là kết quả của trí
tưởng tượng đầy tài hoa. Cảnh sông ở đây được khắc họa với những hình ảnh đầy
ấn tượng bằng năng lực quan sát tinh tế và sự phong phú về ngôn ngữ, phố là lối
hành văn hướng nội, súc tích, mê đắm và tài hoa của sông Hương qua phép nhân
hóa khi miêu tả dòng chảy và cách đặc tả màu nước phản quang hai bên bờ và thay
đổi trong ngày.
Có thể nói, bằng sự tinh tế, bằng sự khám phá và cái Tôi đầy trách nhiệm
với nghiệp cầm bút, hai nhà văn đã góp cho đất nước những cảnh đẹp không lặp
lại, trở thành những tượng đài ký khó có thể phai mờ.

ĐỀ 2: Trong bài kí Ai đã đặt tên cho dòng sông ? Hoàng Phủ Ngọc Tường đã
miêu tả vẻ đẹp của sông Hương:
Ở thượng nguồn: “Trước khi về đến vùng châu thổ êm đềm, nó đã là một
bản trường ca của rừng già, rầm rộ giữa những bóng cây đại ngàn, mãnh liệt qua
những ghềnh thác, cuộn xoáy như cơn lốc vào những đáy vực bí ẩn, và cũng có lúc
nó trở nên dịu dàng và say đắm giữa những dặm dài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ
quyên rừng.”
Khi về đến thành phố Huế: “sông Hương vui tươi hẳn lên giữa những biền
bãi xanh biếc của vùng ngoại ô Kim Long”; “sông Hương uốn một cánh cung rất
nhẹ sang đến Cồn Hến; đường cong ấy làm cho dòng sông mềm hẳn đi, như một
tiếng “vâng” không nói ra của tình yêu”; “Đấy là điệu slow tình cảm dành riêng
cho Huế”; “sông Hương đã trở thành một người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya.”
Hãy phân tích những chi tiết trên để làm nổi bật nét đặc sắc trong hành trình
của sông Hương. Từ đó nhận xét về nghệ thuật miêu tả của Hoàng Phủ Ngọc
Tường.
BÀI LÀM:

* Giới thiệu khái quát về tác giả Hoàng Phủ Ngọc Tường, tác phẩm Ai đã
đặt tên cho dòng sông và vấn đề nghị luận: vẻ đẹp của sông Hương qua
hai đoạn văn.
* Phân tích hai đoạn văn
- Sông Hương ở thượng nguồn:
+ Sông Hương là một bản trường ca của rừng già mang vẻ đẹp hùng vĩ với
sức sống mãnh liệt, sự hoang dã đầy ấn tượng.
+ Sông Hương mang một vẻ đẹp lãng mạn, dịu dàng, giàu sức quyến rũ và
bí ẩn.
+ Sử dụng thủ pháp điệp cấu trúc với những động từ, tính từ giàu sức biểu
đạt đã tạo nên âm hưởng mạnh mẽ hùng tráng của con sông trong mối
quan hệ với rừng già.
- Sông Hương khi về đến thành phố Huế:
+ Sự thay đổi trong cảm xúc của dòng sông khi đã tìm được đúng đường
về.
+ Sông Hương mang dáng điệu mềm mại trữ tình, tính cách dịu dàng, kín tuệ và
giàu tính nghệ thuật
đáo của người con gái Huế.
+ Sông Hương mang điệu chảy lững lờ, bởi tình cảm dành riêng cho Huế
quá sâu đậm.
+ Sông Hương gắn liền với văn hóa Huế, mang vẻ đẹp tâm hồn sâu sắc, trí
* So sánh hai đoạn văn và nhận xét về nghệ thuật miêu tả của Hoàng Phủ
Ngọc Tường.
- Giống nhau: hai đoạn văn đều nói đến vẻ đẹp của sông Hương, đặc biệt
đều chú ý khắc họa vẻ đẹp nữ tính của dòng sông.
- Khác nhau: + Ở thượng nguồn: khám phá phần đời bí mật, hoang dại
+ Ở thành phố Huế: khám phá vẻ đẹp thơ mộng, trữ tình
- Nhận xét về nghệ thuật miêu tả:
+ Lựa chọn những chi tiết nghệ thuật tiêu biểu, đắt giá để miêu tả vẻ đẹp
của sông Hương.
+ Sử dụng ngôn ngữ giàu hình ảnh, nhạc điệu.
+ Khả năng quan sát tinh tế, trí tưởng tượng phong phú.
+ Vốn hiểu biết sâu rộng cùng cới sự say mê vẻ đẹp sông Hương của
Hoàng Phủ Ngọc Tường.
* Đánh giá, khái quát lại vấn đề
- Khẳng đinh vẻ đẹp độc đáo của hình tượng sông Hương, dòng sông
hoang dã vừa trữ tình.
- Khẳng định sự độc đáo, tài hoa trong phong cách nghệ thuật của Hoàng
Phủ Ngọc Tường.

VỢ CHỒNG A PHỦ ( Tô Hoài )


ĐỀ 1: Cảm nhận chi tiết nghệ thuật giọt nước mắt A phủ trong đêm mùa đông ở
Hồng Ngài, để từ đó làm nổi bật bức tranh hiện thực và giá trị nhân đạo mà nhà
văn Tô Hoài gửi gắm trong Vợ chồng A phủ.
BÀI LÀM:
Nếu chỉ dừng lại ở tác phẩm Dế mèn phiêu lưu ký, nhà văn Tô Hoài đã rất
nổi tiếng, đã làm được cái việc mà như nhà văn Nam Cao nói là “để đời” đối với
nghiệp cầm bút. Thế nhưng, nhà văn Tô Hoài không dừng lại chú “dế mèn” mà còn
đi xa hơn. Chặng đường văn chương đã dẫn ông đến với nhiều miền đất xa xôi,
nhưng hiếm có mảnh đất nào để thương, để nhớ cho Tô Hoài nhiều như Tây Bắc.
Vợ chồng A phủ chính là kết quả của niềm thương, nỗi nhớ đó. Đặc biệt, đọc
truyện ta không thể nào quên chi tiết giọt nước mắt lấp lánh của A Phủ trong đêm
mùa đông - giọt nước mắt trong đêm lạnh buốt nhưng làm ấm lại một trái tim băng
giá.
Tô Hoài - nhà văn xuất sắc trong nền văn học Việt Nam hiện đại. Nguyễn
Sen là tên khai sinh của ông, là người con của mảnh đất Hà Thành văn hiến nhưng
ông lại được sinh ra và có tuổi thơ gắn với làng Nghĩa Đô, phủ Hoài Đức, tỉnh Hà
Đông chính là quê ngoại của Tô Hoài. Là nhà văn giỏi về phân tích diễn biến tâm
lý nhân vật, về miêu tả thiên nhiên, các phong tục tập quán, tác phẩm của Tô Hoài
luôn hấp dẫn người đọc bởi lối kể chuyện hóm hỉnh, sinh động, bởi vốn từ vựng
giàu có. Vợ chồng A Phủ là truyện ngắn thành công nhất trong ba truyện ngắn viết
về đề tài Tây Bắc của ông. Tác phẩm có một giá trị hiện thực và nhân đạo đáng kể.
Vợ chồng A Phủ in trong tập Truyện Tầy Bắc (1954) là kết quả của chuyến đi thực
tế của nhà văn cùng với bộ đội giải phóng Tây Bắc năm 1952. Tác phẩm thể hiện
chân thực, xúc động về cuộc sống cơ cực, tủi nhục của đồng bào các dân tộc thiếu
số vùng cao dưới ách thống trị của thực dân và phong kiến cùng quá trình giác ngộ
cách mạng, tự vùng lên giải phóng cuộc đời.
Chi tiết văn học hiểu một cách đơn giản nhất đó chính là những biểu hiện,
những tình tiết góp phần xây dựng lên cốt truyện, đồng thời thể hiện được tư tưởng
chủ đề của truyện. Đối với những tình tiết đặc sắc trong tác phẩm còn có thể chứa
đựng được những cảm xúc lớn lao, những tư tưởng sâu sắc mà tác giả muốn truyền
tải trong tác phẩm của mình. Giọt nước mắt A Phủ là một trong những chi tiết đặc
sắc nhất trong truyện ngắn Vợ chồng A Phủ. Giọt nước mắt của A Phủ không chỉ
thể hiện cảm xúc của nhân vật khi cái chết đang cận kề mà còn mang sức mạnh của
sự thức tỉnh bởi chính giọt nước mắt ấy đã đánh thức sức sống tiềm tàng, khả năng
phản kháng tưởng chừng đã ngủ quên bên trong con người của Mị.
A Phủ là chàng trai khỏe mạnh, một người lao động giỏi, chỉ vì đánh nhau
với con trai Thống lí mà A Phủ buộc phải trở thành người ở trừ nợ cho gia đình
thống lí. Sống trong cuộc sống của con trâu con ngựa nhưng A Phủ không bao giờ
bi quan trước cuộc đời, anh vẫn nỗ lực vươn lên, làm việc chăm chỉ để mang đến
những lợi ích cho gia đình Thống lí. Tuy nhiên, do sơ ý để hổ bắt mất một con bò
của Thống lí mà A Phủ bị trói đứng ở giữa sân, bỏ mặc đói rét suốt mấy ngày liền
mà theo nhận thức của Mị thì chỉ đêm nay, đêm mai người kia sẽ chết, một cái chết
đầy đau đớn. Cũng giống như A Phủ, Mị là cô gái xinh đẹp nhưng gia cảnh nghèo
hèn nên đã phải trở thành con dâu trừ nợ cho gia đình thống lí. Xét về địa vị, Mị là
con dâu của Thống lí Pá Tra, vợ của A Sử nhưng trong thực tế Mị chỉ là một người
ở đợ không hơn không kém, cô phải làm việc quần quật ngày đêm như con trâu
con ngựa, sống lâu trong sự đày đọa đã khiến Mị mất đi khả năng phản kháng,
sống cam chịu như con rùa nuôi trong xó cửa. Trong những ngày A Phủ bị trói
đứng ngoài sân, đêm nào Mị cũng thức dậy thổi lửa hơ tay, cũng chính hoàn cảnh
này đã làm cho Mị chứng kiến giọt nước mắt của A Phủ. Sống trong gia đình
Thống lí, Mị thường xuyên chứng kiến cảnh những con người bất hạnh bị trói
đứng đến chết, do đó lúc đầu khi thấy A Phủ phải trói đứng ở sân Mị chỉ dửng
dưng, vô cảm. Sau mọi nỗ lực tự giải cứu mình nhưng không thành, trong nỗi bất
lực, tuyệt vọng đến cùng A Phủ đã khóc. Đúng lúc ấy Mị thức dậy thổi lửa hơ tay
và chứng kiến cảnh giọt nước mắt đang bò trên hõm má của A Phủ. Giọt nước mắt
ấy có sự tác động mạnh mẽ đến nhận thức của Mị, mang đến những thay đổi lớn
bên trong người đàn bà bất hạnh ấy.
Dòng nước mắt của A Phủ được nhà văn miêu tả trong câu văn đầy sức gợi
tả: “một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại” của A
Phủ. Hãy đọc kỹ câu văn để thấy nhà văn đã miêu tả về A Phủ, một chàng trai vốn
sức vóc, khỏe mạnh, ngang tàng, hổ chẳng biết sợ, dám đánh cả con quan. Ấy vậy
mà giờ đây, sau nhiều đêm bị trói và bỏ đói, thân thể cường tráng ấy giờ kiệt quệ
đi, và lộ ra trên hai hõm má, làn da đã xám đen lại, như cái xác sắp héo khô. A Phủ
đã như một cái xác rồi, chỉ duy nhất một thứ để nhận ra A Phủ còn sống đó chính
là giọt nước mắt. Nhưng dòng nước mắt ấy là nước mắt của kẻ đang hấp hối, nước
mắt của một thân phận nô lệ đang bất lực, tủi nhục trước số phận, giọt nước mắt
của sự đau đớn, khi nhận ra mình đang bờ vực của sự sống, cái chết.
Giọt nước mắt của A Phủ, đó là niềm cảm thương trước số phận nô lệ rẻ
rúng, và đó còn là sự căm phẫn những thế lực cường quyền chà đạp con người.
Mỗi chúng ta, khi đọc đến chi tiết này hẳn rằng sẽ dấy lên cái căm phẫn. Không
căm phẫn sao được khi mạng người bị rẻ rúng đến vậy, sự hành hạ tra tấn sao tàn
ác đến vậy. Thế nhưng ta rất cần quan tâm đến một nhân vật ở đây chịu tác động
mạnh mẽ, khi giọt nước mắt của chàng trai ngang tàng kia chảy xuống. Có thể nói,
nước mắt A Phủ đã chạm đến trái tim Mị, làm tan đi giá băng của trái tim Mị. Đã
thức dậy trong Mị lòng thương người cùng cảnh ngộ. Trái tim Mị quặn đau khi
“trông người lại ngẫm đến mình”. Mị chợt “nhớ lại đêm năm trước A Sử trói Mị,
Mị cũng phải trói đứng thế kia. Nhiều lần khóc, nước mắt chảy xuống miệng,
xuống cổ, không lau đi được”. Lòng Mị dấy lên sự căm phẫn: “Trời ơi, nó bắt trói
đứng người ta đến chết, nó bắt mình chết cũng thôi, nó bắt trói đến chết người đàn
bà ngày trước cũng ở cái nhà này”. Mị nguyền rủa cha con nhà thống lí “Chúng
nó thật độc ác”. Từ “chúng nó” ở đây, hiện lên trực tiếp những cái tên như Pá Tra,
A Sử, đó là những cái tên mang tính đại diện, nhưng sâu hơn, “chúng nó” chính là
những kẻ thống trị, bọn chúa đất miền núi đã đày đọa những kẻ như Mị, A Phủ.
Khi một kẻ đang trong tình trạng mất hết ý thức lại nhận ra nguyên nhân của cái
khổ mà mình gánh chịu thì đúng là một cuộc lội ngược dòng của ý thức. Chắc
chắn, ý thức này sẽ trỗi dậy, sẽ phản kháng mãnh liệt chứ không dừng lại ở đây.
Mị nhận ra giá trị của con người, giá trị được sống nhưng lại bị bắt chết. Mị
nghĩ đến thân phận mình, là đàn bà, bị cúng trình ma, Mị có chết cũng là tất yếu, là
lẽ vốn phải vậy, nhưng A Phủ đâu bị kiếp như vậy, sao lại phải chết, sao bị ép đến
chết, sao mạng người quý thế, lại chỉ đánh đổi ngang giá với một con bò. Mị tự
thương cảnh ngộ mình; thương A Phủ trên bờ vực thẳm, khi tử thần đã gõ cửa:
“Cơ chừng này chỉ đêm mai là người kia chết, chết đau, chết đói, chết rét, phải
chết”. Mị nghĩ về thân phận mình, tưởng như là cam chịu: “Ta là thân đàn bà, nó
đã bắt ta về trình ma nhà nó rồi thì chỉ còn biết đợi ngày rũ xương ở đây thôi...”
Thương người cùng khổ, cùng cảnh ngộ. Mị đã đi đến hành động rất nhanh: cắt
dây trói cứu A Phủ rồi cùng A Phủ bỏ trốn. Hành động ấy là hành động đồng thời
phản ánh quá trình thức tỉnh và đấu tranh của Mị. Đấu tranh vì Mị đã dám chống
lại cả cường quyền và thần quyền. Đấu tranh để tìm đến tự do, thoát khỏi địa ngục
đọa đày.
Chi tiết nhỏ làm nên nhà văn lớn, qua chi tiết giọt nước mắt A phủ, ta thấy
được tài năng trong tạo dựng tình huống, khắc hoạ chi tiết, miêu tả diễn biến tâm lý
nhân vật của một ngòi bút bậc thầy. Tô Hoài qua Vợ chồng A Phủ, qua những chi
tiết đã cài trong tác phẩm như: nắm lá ngón, sợi dây trói, giọt nước mắt A Phủ đã
phản ánh bộ mặt giai cấp thống trị miền núi, mà ở đây là thống lý Pá Tra và A Sử.
Những tên chúa đất độc ác, tàn nhẫn, vô nhân tính. Chúng dùng sợi dây thần quyền
và cường quyền để trói chặt và hành hạ con người. Tác phẩm cũng đã vẽ nên bức
tranh của người dân miền núi Tây Bắc trước cách mạng, đó là sự tối tăm, ngột
ngạt. Nhưng qua đó, tác giả cũng đã dựng nên quá trình đấu tranh của họ, vùng lên
để giành tự do, giành quyền được sống, giành quyền làm người. Và cuối cùng, đó
là tiếng nói thương cảm, sự cảm thông sâu sắc của nhà văn đối với số phận bất
hạnh của người dân lao động miền núi. Phát hiện vẻ đẹp trong tâm hồn của họ:
lòng khát khao tự do, yêu đời, yêu người và tinh thần phản kháng.
Giọt nước mắt A Phủ chảy xuống, sáng lấp lánh trong ánh lửa bập bùng nơi
non cao, đó là giọt nước mắt vô cùng hiếm hoi mà ta tưởng như không thể ngờ tới.
Giọt nước mắt của người sắp chết đã đánh thức tâm hồn của một con người tưởng
như đã chết. Trong cái chết, những người dân lao động Tây Bắc càng bùng lên
khát vọng sống mãnh liệt. Hành trình của Mị, của A Phủ đã trải bao đau thương,
giọt nước mắt họ đã chảy bao lần, để đến lúc này, gạt nước mắt đi, họ đứng dậy
giải phóng, phá tan xiềng xích thắt chặt để chạy đến với miền đất hứa.

ĐỀ 2: Đọc đoạn văn bản sau:


… “Ngày tết, Mị cũng uống rượu. Mị lén lấy hũ rượu, uống ực từng bát. Rồi say,
Mị lịm mặt ngồi đấy nhìn người nhảy đồng, người hát. Nhưng lòng Mị đang sống
về ngày trước, tai văng vẳng tiếng sáo gọi bạn đầu làng. Ngày trước Mị thổi sáo
giỏi. Mùa xuân đến, Mị uống rượu bên bếp và thổi sáo. Mị uốn chiếc lá trên môi,
thổi lá cũng hay như thổi sáo. Có biết bao nhiêu người mê, cứ ngày đêm thổi sáo
đi theo Mị hết núi này sang núi khác.
Rượu tan lúc nào. Người về, người đi chơi đã vãn cả, Mị không biết. Mị vẫn ngồi
trơ một mình giữa nhà. Mãi sau Mị mới đứng dậy. Nhưng Mị không bước ra
đường. Mị từ từ vào buồng.
Chẳng năm nào A Sử cho Mị đi chơi Tết.
Bấy giờ Mị ngồi xuống giường, trông ra cửa sổ lỗ vuông mờ mờ trăng trắng. Từ
nãy Mị thấy phơi phới trở lại, trong lòng đột nhiên vui như những đêm Tết ngày
trước. Mị trẻ. Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi. Bao nhiêu người có chồng cũng đi
chơi Tết. Huống chi A Sử với Mị, không có lòng với nhau mà vẫn phải ở với nhau.
Nếu có nắm lá ngón trong tay lúc này, Mị sẽ ăn cho chết ngay, chứ không buồn
nhớ lại nữa. Nhớ lại, chỉ thấy nước mắt ứa ra.
Mà tiếng sáo gọi bạn vẫn lửng lơ bay ngoài đường.
Anh ném pao, em không bắt
Em không yêu, quả pao rơi rồi
A Sử vừa ở đâu về, lại sửa soạn đi chơi. A Sử thay áo mới, khoác thêm hai vòng
bạc vào cổ rồi bịt cái khăn trắng lên đầu. Có khi nó đi mấy ngày mấy đêm. Nó còn
đương rình bắt nhiều người con gái nữa về làm vợ. Cũng chẳng bao giờ Mị nói.
Bây giờ Mị cũng không nói. Mị đến góc nhà, lấy ống mỡ, xắn một miếng, bỏ thêm
vào đĩa đèn cho sáng.
Trong đầu Mị đang rập rờn tiếng sáo. Mị muốn đi chơi. Mị cũng sắp đi chơi. Mị
quấn lại tóc. Mị với tay lấy cái váy hoa vắt phía trong vách. A Sử sắp bước ra,
bỗng quay lại, lấy làm lạ. A Sử nhìn quanh thấy Mị rút thêm cái áo.”
(Trích Vợ chồng A Phủ - Sách giáo khoa Ngữ văn 12 - Tập 2 – Trang
7,8)
Phân tích diễn biến tâm lí nhân vật Mị trong đoạn trích trên. Từ đó nhận xét
về ngòi bút nhân đạo của nhà văn Tô Hoài.
BÀI LÀM:
Có một nhà văn mà mỗi lần đọc tác phẩm của ông là một lần ta bước vào
một thế giới đa dang của cuộc sống, của ngôn từ của những xúc cảm chân thực, đời
thường. Đó là nhà văn mang bút danh Tô Hoài – một người nghệ sĩ có sức sáng tạo
dồi dào, mãnh liệt. Nhà thơ Trần Đăng Khoa đã từng nhận xét: “Tô Hoài như một
từ điển sống, một pho sách sống. Ông như cuốn Bách khoa toàn thư mà không
Viện sĩ nào, không Học giả nào có thể sánh được.”Không chỉ là người am hiểu về
mảnh đất Hà Nội ngàn năm văn hiến, mà mỗi chuyến đi thực tế sáng tác còn là cơ
hội để nhà văn mở mang, làm dày thêm vốn hiểu biết về phong tục tập quán của
nhiều vùng miền đất nước. Và chuyến đi dài tám tháng lên với Tây Bắc xa xôi đã
trở thành chuyến đi đáng nhớ không chỉ trong cuộc đời tác giả mà đó còn là một
“chuyến phiêu lưu” đầy ý nghĩa của độc giả nhiều thế hệ theo bước chân Mị, bước
chân A Phủ từ Hồng Ngài đến Phiềng Sa. Ai đã một lần đọc “Vợ chồng A Phủ” –
một truyện ngắn xuất sắc của Tô Hoài – hẳn sẽ không thể quên một cô gái Tây Bắc
có số phận bất hạnh mà luôn âm ỉ một sức sống tiềm tàng. Đoạn trích sau đã khắc
họa thật ấn tượng sự trỗi dậy sức sống trong tâm hồn Mị:
“Ngày tết, Mị cũng uống rượu…A Sử nhìn quanh thấy Mị rút thêm cái áo.”

Câu chuyện về cuộc đời Mị là câu chuyện mà người dân nghèo ở Hồng
Ngài còn nhớ mãi. Từ một cô gái trẻ trung xinh đẹp, yêu tự do và tràn đầy
sức sống, Mị đã trở nên chai sạn, vô hồn, cứ “lùi lũi như con rùa nuôi sau xó
cửa” khi bị bắt về làm dâu gạt nợ nhà thống lí Pá Tra. Tiếng là con dâu nhưng
Mị sống cuộc đời của một người ở không công, bị tước đoạt quyền tự do, bị
bóc lột sức lao động, bị chà đạp lên những ước mơ. Mị cũng từng khóc tới
mấy tháng liền cho bất hạnh của mình, từng sẵn sàng chết với nắm lá ngón
trong tay, nhưng rồi vì thương cha mà Mị chấp nhận sống kiếp đời trâu ngựa.
Sức mạnh của cường quyền và thần quyền những tưởng sẽ dập tắt được ngọn
lửa của niềm ham sống trong người con gái nhỏ bé ấy. Nhưng không, trong
Mị vẫn tiềm tàng một sức sống mãnh liệt, một khát khao tự do đến cháy
bỏng, chỉ cần có cơ hội, nó có thể bùng lên mạnh mẽ và quyết liệt.
“Hồng Ngài năm ấy ăn tết giữa lúc gió thổi vào cỏ gianh vàng ửng, gió
và rét rất dữ dội”. Những tưởng gió rét sẽ làm lòng người thêm se sắt, sẽ
chẳng còn nổi nhựa sống để yêu đời, huống hồ là một người đã “quen cái
khổ” như Mị. Nhưng đó lại là yếu tố đầu tiên tác động tới tâm hồn Mị. Thời
tiết khác lạ mà không khí đón xuân vẫn rộn ràng trước mắt Mị: những chiếc
váy hoa phơi trên mỏm đá xòe như con bướm sặc sỡ. Tiếng trẻ con nô đùa.
Và đặc biệt là tiếng sáo ngoài đầu núi lấp ló vọng lại.
Các giác quan mở rộng, từ xúc giác đến thị giác rồi thính giác. Mị
dường như đã hoàn toàn thức tỉnh, như cái giây phút thức tỉnh đầy ý nghĩa
của Chí Phèo sau những cơn say triền miên vậy. Mị thấy thiết tha bổi hổi. Mị
hát và lòng đầy xuân sắc.
Tiếng sáo, thứ âm thanh của tuổi trẻ, của tình yêu, của tự do đã ùa vào
tâm hồn Mị, đánh thức miền quá khứ đẹp đẽ một thời con gái trong Mị. Cảm
nhận những cơn sóng lòng đang trỗi dậy mạnh mẽ, “Mị lén lấy hũ rượu uống
ực từng bát”. Uống cho thỏa cơn khát hay uống để chế ngự những khát khao
đang trào dâng? Hẳn là cách uống rất tâm trạng. Ta chợt nhớ cái cách Chí
Phèo uống rượu, hắn uống để quên đi sự đơn độc, uống để thấy mình mạnh
mẽ hơn. Ở đây, rượu đã khiến những khát khao của Mị trở nên mãnh liệt hơn,
rượu đã đưa Mị vào thế giới khác với cái thực tại ê chề, bế tắc cô đang sống.
“Lòng Mị đang sống về ngày trước”, sống trong không gian ngập tràn tiếng
sáo.
Tiếng sáo ở hiện tại hòa vào tiếng sáo trong tâm tưởng. Tiếng sáo gọi
bạn tình năm nào. Mị không chỉ nhẩm hát, mà mị còn uống rượu và thổi sáo.
Dường như con người trẻ trung sôi nổi đã trở về trong Mị, cô không còn lầm
lũi, buồn bã nữa. Tô Hoài đã khéo léo trần thuật linh hoạt, đan xen quá khứ
hiện tại, với những câu văn ngắn gọn, tiết tấu nhanh tạo nên những mảnh
ghép tươi tắn chập chờn của hạnh phúc và những khát khao, của tự do và hi
vọng…
Một con người khi không còn thiết tha với thực tại, họ thường hay tìm
về quá khứ để vực dậy những yêu thương. Tiếng sáo đã dẫn đường cho Mị
trở về ngày trước, nơi đầy ắp những kỉ niệm của tuổi trẻ, của tình yêu: “Mị
thổi sáo rất giỏi, thổi lá cũng hay như thổi sáo”. “Có biết bao nhiêu người mê,
ngày đêm thổi sáo đi theo Mị”. Mị nhớ những ngày xuân rạo rực ấy không
phải chỉ bởi Hồng Ngài đang ở những ngày xuân mà còn bởi đó là những
ngày tháng đáng sống nhất của Mị. Vượt lên trên sự cầm tù của cái nghèo cái
đói, của món nợ truyền kiếp, Mị vẫn sống hết mình với nguồn sinh lực tràn
trề vốn có của tuổi trẻ. Tiếng sáo chính là nhịp cầu nối những mùa xuân ngày
trước với mùa xuân hiện tại, tiếng sáo thức tỉnh mùa xuân trong lòng Mị.
Mị vẫn cứ say, rồi Mị lịm mặt ngồi đấy cho đến khi “người về, người đi
chơi đã vãn cả”, lòng Mị vẫn sống về ngày trước. Vẫn cái vẻ ngoài lùi lũi như
vô cảm, vô thức nhưng những tàn lụi héo úa đang thực sự hồi sinh, những
chai sạn đang dần dần tan chảy trong tâm hồn Mị. Mị bước vào buồng, tiếng
sáo vẫn theo Mị. Căn buồng có cửa sổ một lỗ vuông bằng bàn tay lúc này
không cầm tù được những cảm xúc trong Mị. “Đã từ nãy, Mị thấy phơi phới
trở lại, trong lòng đột nhiên vui sướng như những đêm tết ngày trước.” Sự
thức tỉnh bất ngờ sau nhiều năm làm dâu nhà thống lí khiến lòng Mị rạo rực,
những xúc cảm chộn rộn của niềm vui sướng, sự hồi hộp thổn thức lẫn cả
những khát khao…
Hàng loạt những câu văn ngắn gọn được Tô Hoài sử dụng để diễn tả
những suy nghĩ rất sáng rõ của Mị “Mị còn trẻ lắm. Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn
đi chơi…”. Mị thực sự đã nhận thức được giá trị của bản thân, nhận thức
được ý nghĩa của cuộc sống. Mị muốn bước ra khỏi căn phòng như tù ngục
để đến với không gian của yêu thương hò hẹn. Nhưng khi Mị vừa ý thức
quyền được vui chơi, quyền được tự do của mình thì cũng là lúc Mị nhận
thức rất rõ tình cảnh éo le của Mị: Mị đã thực sự bị cầm tù trong cái gia đình
không biết đến yêu thương. Mị đau đớn và muốn chấm dứt ngay cuộc sống
không bằng chết ấy. “Giá có nắm lá ngón trong tay lúc này Mị sẽ ăn cho chết
ngay chứ không buồn nhớ lại nữa!”.
Quả thực, khi con người ở tận cùng nỗi đau, tận cùng sự tuyệt vọng, con
người muốn được giải thoát đến một nơi mà họ tin rằng sẽ không thể khổ sử
hơn thế. Bởi vậy mà lúc này với Mị, nghĩ đến cái chết cũng là một biểu hiện
đầy đớn đau của niềm ham sống một kiếp cho ra người.
Những cảm xúc đối lập, vừa vui sướng vừa đớn đau cứ trào dâng trong
lòng Mị khiến cô không thể ngồi yên. Tiếng sáo gọi bạn yêu vẫn lửng lơ bay
ngoài đường, tiếng sáo vẫn rập rờn trong đầu Mị, nó nhắc nhở, nó níu kéo Mị
ở lại với cuộc đời này. Cùng với men say, nó khiến Mị trở nên mạnh bạo hơn,
quyết liệt hơn. Từ suy nghĩ “muốn đi chơi” đến hành động “đến góc nhà, xắn
thêm mỡ bỏ vào đĩa đèn rồi chuẩn bị váy áo cho một chuyến đi chơi, tất cả
đều là bản năng trỗi dậy, là nhu cầu chính đáng của con người. Mị không
quan tâm tới sự có mặt của A Sử, không sợ kẻ vũ phu tàn ác ấy bởi trong Mị
lúc này chỉ còn một ngọn lửa khao khát tự do đang bùng lên mạnh mẽ, đang
nung sôi từng mạch máu trong cơ thể Mị.
Xắn thêm mỡ vào đĩa đèn không phải chỉ để khơi sáng không gian mà đó còn
là sự khơi sáng chính tâm hồn Mị, tiếp thêm sức mạnh cho Mị bứt thoát khỏi
sự tù túng bế tắc ấy. Sự chuẩn bị kĩ lưỡng và đàng hoàng của Mị từ việc cuốn
lại tóc, lấy váy hoa, rút thêm cái áo càng cho thấy sự điềm tĩnh, chín chắn
trong hành động, sự tin tưởng quyết tâm thực hiện mong muốn chính đáng
của Mị. Mặc dù, tất cả đều diễn ra trước mắt A Sử là một sự liều lĩnh. Không
phải Mị không đoán biết hậu quả của sự nổi dậy ấy, mà bởi Mị trân trọng và
muốn nuôi dưỡng những cảm xúc đẹp đẽ vừa trở lại trong mình. Mị muốn
một lần được thực hiện những mong muốn của bản thân dù có thể bị dập vùi
đau đớn. Đó cũng là một hành động liều lĩnh như cái hành động nhặt vợ của
Tràng trong câu chuyện “Vợ nhặt” của Kim Lân vậy. Phải chăng, khi con
người nhận thức được giá trị của hạnh phúc thì không gì có thể cản ngăn họ
tìm đến, không thế lực nào có thể dập tắt được những khát khao, ngay cả thần
chết.
Vẫn cái nhìn đầy nhân ái và giàu lòng trắc ẩn, Tô Hoài viết về những
phận người khổ cực nơi vùng cao Tây Bắc bằng tấm lòng trân trọng nâng niu.
Họ nghèo đói, họ lạc hậu, họ khổ sở đến chai lì đấy nhưng họ yêu tự do,
trong họ luôn tiềm tàng sức sống bền bỉ, mãnh liệt vô cùng. Mị đã trở nên
chai sạn đến thế mà khi nghe tiếng sáo mùa xuân là lòng Mị đột nhiên vui
sướng và phơi phới trở lại. Đó là niềm tin mãnh liệt của Tô Hoài vào khả
năng tự thức tỉnh của Mị cũng như của những người lao động cực khổ ở miền
cao. Họ không cần đến sự giác ngộ bởi trong họ luôn sẵn niềm khát khao yêu
cuộc sống. Đêm tình mùa xuân là đêm trõi dậy mạnh mẽ và quyết liệt của Mị.
Chỉ tiếc rằng, A Sử đã dập tắt ngọn lửa vừa kịp bùng lên ấy. Cường quyền đã
lại trói buộc Mị với đớn đau tủi nhục. Chẳng có gì dễ dàng cả. Chỉ là, sau cái
lần liều lĩnh ấy, độc giả tin tưởng Mị sẽ trở nên mạnh mẽ hơn.
Và quả thực, đêm tình xuân chính là tiền đề cho một cuộc nổi dậy
quyết liệt và triệt để của Mị sau này, khi dũng cảm cầm chiếc dao nhỏ cắt nút
dây mây cởi trói cho A Phủ và bỏ trốn. Cuộc đấu tranh đơn độc của Mị với
hai thế lực khủng khiếp của chế độ phong kiến miền núi Tây Bắc mang ý
nghĩa to lớn. Đó là khởi đầu cho một cuộc cách mạng lớn đang đến rất gần.
Nếu như Ngô Tất Tố xúi người nông dân miền xuôi nổi loạn thì Tô Hoài
cũng góp thêm tiếng nói đấu tranh cho người lao động vùng cao tự giải
phóng.
Với tài miêu tả tâm lí nhân vật vừa tỉ mỉ vừa chân thực, cùng vốn hiểu
biết phong phú và sâu sắc về cuộc sống và tâm hồn con người Tây Bắc, Tô
Hoài đã tái hiện thật thành công sức sống tiềm tàng của nhân vật Mị trong
đoạn trích đêm tình mùa xuân nói riêng, trong cả thiên truyện nói chung.
Qua đó, người đọc không chỉ có thêm những hiểu biết về nếp sống, nếp suy
nghĩ của con người nơi ấy mà còn cảm mến và trân trọng biết bao những con
người trong khổ cực áp bức vẫn luôn khao khát hướng đến ánh sáng tự do,
đấu tranh để giành lấy hạnh phúc trong cuộc đời.Câu chuyện về cuộc đời Mị
vẫn còn đó những suy tư cho kiếp người: không đấu tranh liệu hạnh phúc có
tự đến với mình?

ĐỀ 3: Phân tích diễn biến tâm lí nhân vật Mị trong đoạn trích sau để thấy được
sức sống mãnh liệt của con người trong đấu tranh tìm đến tự do:
“Những đêm mùa đông trên núi cao dài và buồn. ..Và hai người lẳng lặng
đỡ nhau lao chạy xuống dốc núi.”
“Những đêm mùa đông trên núi cao dài và buồn. Nếu không có bếp lửa sưởi kia
thì Mị cũng đến chết héo. Mỗi đêm, Mị dậy ra thổi lửa hơ tay, hơ lưng, không biết
bao nhiêu lần.
Thường khi đến gà gáy sáng, Mị ngồi dậy ra bếp sưởi một lúc thật lâu, các
chị em trong nhà mới bắt đầu ra dóm lò bung ngô, nấu cháo lợn.Chỉ chợp mắt
được từng lúc Mị lại thức sưởi lửa suốt đêm. Mỗi đêm, khi nghe tiếng phù phù thổi
bếp, A Phủ lại mở mắt. Ngọn lửa sưởi bùng lên, cùng lúc ấy thì Mị cũng nhìn sang,
thấy mắt A Phủ trừng trừng. Mới biết A Phủ còn sống. Mấy đêm nay như thế.
Nhưng Mị vẫn thản nhiên thổi lửa, hơ tay. Nếu A Phủ là cái xác chết đứng ở đấy,
cũng thế thôi. Mị vẫn trở dậy, vẫn sưởi, chỉ biết, chỉ còn ở với ngọn lửa. Có đêm A
Sử chợt về thấy Mị ngồi đấy, A Sử đánh Mị ngã ngay xuống cửa bếp. Nhưng đêm
sau Mị vẫn ra sưởi như đêm trước.
Lúc ấy đã khuya. Trong nhà đã ngủ yên, thì Mị trở dậy thổi lửa, ngọn lửa
bập bùng sáng lên. Mị lé mắt trông sang thấy hai mắt A Phủ cũng vừa mở, một
dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại. Thấy tình cảnh thế,
Mị chợt nhớ lại đêm năm trước, A Sử trói Mị, Mị cũng phải trói đứng thế kia.
Nhiều lần khóc, nước mắt chảy xuống miệng, xuống cổ, không biết lau đi được.
Trời ơi, nó bắt trói đứng người ta đến chết. Nó bắt mình chết cũng thôi, nó đã bắt
trói đến chết người đàn bà ngày trước ở cái nhà này. Chúng nó thật độc ác. Chỉ
đêm mai là người kia chết, chết đau, chết đói, chết rét, phải chết. Ta là thân đàn
bà, nó đã bắt ta về trình ma rồi, thì chỉ còn biết đợi ngày rũ xương ở đây thôi...
Người kia việc gì mà phải chết thế. A Phủ... Mị phảng phất nghĩ như vậy.
Đám than đã vạc hẳn lửa. Mị không thổi cũng không đứng lên. Mị nhớ lại
đời mình. Mị lại tưởng tượng như có thể một lúc nào, biết đâu A Phủ chẳng đã
trốn được rồi, lúc ấy bố con thống lý sẽ bảo là Mị đã cởi trói cho nó, Mị liền phải
trói thay vào đấy, Mị phải chết trên cái cọc ấy. Nghĩ thế, nhưng làm sao Mị cũng
không thấy sợ...
Lúc ấy, trong nhà đã tối bưng, Mị rón rén bước lại, A Phủ vẫn nhắm mắt.
Nhưng Mị tưởng như A Phủ đương biết có người bước lại... Mị rút con dao nhỏ cắt
lúa, cắt nút dây mây. A Phủ cứ thở phè từng hơi, không biết mê hay tỉnh. Lần lần,
đến lúc gỡ được hết dây trói ở người A Phủ thì Mị cũng hốt hoảng. Mị chỉ thì thào
được một tiếng “Đi ngay…” rồi Mị nghẹn lại. A Phủ bỗng khuỵu xuống không
bước nổi. Nhưng trước cái chết có thể đến nơi ngay, A Phủ lại quật sức vùng lên,
chạy.
Mị đứng lặng trong bóng tối.
Rồi Mị cũng vụt chạy ra. Trời tối lắm. Nhưng Mị vẫn băng đi. Mị đuổi kịp A Phủ,
đã lăn, chạy xuống tới lưng dốc, Mị nói, thở trong hơi gió thốc lạnh buốt:
- A Phủ cho tôi đi.
A Phủ chưa kịp nói, Mị lại nói:
- Ở đây thì chết mất.
A Phủ chợt hiểu.
Người đàn bà chê chồng đó vừa cứu sống mình.
A Phủ nói: “Đi với tôi”. Và hai người lẳng lặng đỡ nhau lao chạy xuống dốc núi.
(Trích Vợ chồng A Phủ - Sách giáo khoa Ngữ văn 12 - Tập 2 )
BÀI LÀM:
Mùa xuân này, Mị muốn xúng xính trong váy hoa
Không đi làm sao biết ngoài kia một mai là sương hay nắng toả
Cơ hội này Mị sẽ nắm lấy, Mị chẳng cần một ai dắt tay!
Hẳn những ca từ này không còn xa lạ với mỗi chúng ta, đó là một đoạn rap trong
lời bài hát “Để Mị nói cho mà nghe của nhóm nhạc DTAP, Thịnh Kainz, Kata
Trần. Ca khúc với âm điệu vui tươi và ca từ sôi nổi cuốn hút đã đem đến cho người
nghe sự thích thú và tràn đầy phấn khích. Mị trong bài hát thật rực rỡ trẻ trung và
rạng ngời hạnh phúc, nhưng có đọc “Vợ chồng A Phủ” của nhà văn Tô Hoài ta mới
thấu hiểu số phận cuộc đời khổ cực cùng những đấu tranh dai dẳng, bền bỉ để vươn
tới tự do của Mị. Hẳn người đọc vẫn còn nhớ cô Mị trong cái đêm định mệnh của
cuộc đời với diễn biến tâm lí vừa phức tạp vừa bất ngờ mà rất chân thực qua đoạn
trích sau:
“Những đêm mùa đông trên núi cao dài và buồn. ..Và hai người lẳng lặng
đỡ nhau lao chạy xuống dốc núi.”
Trong chuyến đi thực tế kéo dài tám tháng lên vùng cao Tây Bắc năm 1952
của mình, Tô Hoài có dịp tiếp xúc, tìm hiểu về cuộc sống và tâm hồn người dân.
Cùng với chất liệu hiện thực và một cái nhìn đầy yêu mến những con người Tây
Bắc kiên cường, nhà văn đã xây dựng hình tượng nhân vật Mị mang vẻ đẹp riêng
độc đáo. Đó là một cô gái trẻ đẹp, có phẩm chất tốt, nhưng cuộc đời đầy cay đắng.
Vì món nợ truyền kiếp của cha mẹ, Mị bị bắt làm dâu gạt nợ nhà thống lí Pá – tra.
Cuộc sống của Mị thống khổ hơn trâu ngựa, bị bóc lột về sức lao động, bị cầm tù
về tinh thần. Từ một cô gái yêu tự do, vô tư, hồn nhiên, Mị trở thành người đàn bà
chai sạn, vô cảm, băng giá. Nhưng trong sâu thẳm con người ấy luôn ẩn chứa một
sức sống tiềm tàng mãnh liệt. Ngọn lửa của niềm ham sống, ham ánh sáng tự do ấy
cứ âm ỉ, và từng bùng lên nhưng rồi lại bị dập tắt, cho đến khi Mị gặp A Phủ,
chàng trai tự do phóng khoáng của núi rừng bị thống lí tước đoạt quyền sống chỉ vì
để hổ bắt mất một con bò.
Ta thấy rằng, đoạn trích bắt đầu bằng đoạn kể về Mị trong những đêm mùa
đông. Mị sưởi lửa suốt đêm. “ Mỗi đêm, Mị đã dậy ra thổi lửa hơ tay, hơ lưng
không biết bao nhiêu lần. Các từ ngữ chỉ thời gian “những đêm mùa đông”, mỗi
đêm, các từ này cho thấy những hành động lặp đi lặp lại trong cảm giác buồn bã, tẻ
nhạt. Mị thổi lửa hơ tay hơ lưng không phải chỉ để chống trọi lại vơi cái gió rét dữ
dội khắc nghiệt của thời tiết mà còn để giữ mình không bị “chết héo” vì những
đêm mùa đông dài và buồn ấy.
Hình ảnh ngọn lửa, hành động sưởi lửa được nhắc đi nhắc lại nhiều lần trong một
đoạn văn ngắn càng cho thấy vai trò to lớn của ngọn lửa với cuộc sống quẩn quanh,
bế tắc của Mị. Ngọn lửa như là người bạn tâm tình, như một liều thuốc an thần,
như cái cọc neo cuối cùng để Mị bám vào mà sống. Dường như, chỉ có hơi nóng
của ngọn lửa mới đủ khiến tâm hồn băng giá của Mị không bị hoại tử. Càng nói
nhiều đến ngọn lửa, và việc sưởi lửa, ta càng thấm thía cái cô đơn, lạnh lẽo trong
tâm hồn Mị.
Sau đêm mùa xuân nổi dậy không thành ấy, Mị lại trở về với trạng thái vô cảm
vô hồn. Ngoài ngọn lửa, chẳng gì có thể khiến Mị quan tâm gắn bó.
A Phủ đã bị trói đứng ở cột nhà mấy đêm liền, ngay chỗ Mị dậy thổi lửa hơ tay hơ
lưng. Nhưng người đàn bà chai sạn ấy không mảy may nghĩ ngợi gì. “ Mị vẫn thản
nhiên thổi lửa, hơ tay”. Không hề rủ lòng thương hại, thậm chí “ Nếu A Phủ là cái
xác chết đứng đấy cũng thế thôi”. Thế mới biết, sức mạnh của cường quyền, thần
quyền ghê gớm như thế nào. Nó triệt tiêu ý thức về quyền sống của con người ,
triệt tiêu cả tính người. Sống lâu trong cái khổ Mị không còn biết đến khổ mà
buồn, cũng không còn biết đến lòng thương với đồng loại. Đó cũng là một bi kịch
đau đớn của người nghèo ở vùng cao Tây Bắc trước giải phóng. Họ không nhận
thức được đâu là bất hạnh, đâu là nỗi đau thì làm sao còn ý thức đấu tranh?
Người con gái vốn trẻ trung sôi nổi ấy giờ còn không biết đến cả cảm giác đau
đớn về thể xác và nỗi nhục nhã về tinh thần. Mị bị A Sử đánh ngã ngay xuống cửa
bếp. Nhưng sau Mị vẫn ra sưởi như đêm trước”. đó không phải là cái kiên cường
bám trụ của một con người ý thức được hành động mình đang làm mà Mị lúc ấy
chỉ giống như một con vật lành bị ngược đãi mà không bỏ được thói quen cũ.
Không sưởi lửa, Mị sẽ chẳng biết làm gì cho qua đêm dài…
Tô Hoài càng đậm tô những biểu hiện của sự chai sạn cả về suy nghĩ, hành
động và cảm xúc của Mị thì độc giả sẽ càng ngỡ ngàng, ngạc nhiên trước sự hồi
sinh kì diệu của Mị
Không phải do tiếng sáo gọi bạn tình lấp ló ngoài đầu núi mà lại là “một dòng
nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại” của A Phủ đã làm tan
chảy khối băng trong tâm hồn Mị. Vẫn là ngọn lửa quen thuộc “bập bùng sáng lên”
soi cho Mị nhìn thấy A Phủ khóc – điều Mị chưa từng tưởng tượng ra, nó tác động
mạnh mẽ hơn cả khi nhìn thấy cái xác chết đứng đó. Phải chăng, bởi đó là giọt
nước mắt hiếm hoi của một người đàn ông, họ chỉ khóc khi ở tận cùng của tuyệt
vọng? A Phủ yêu tự do và luôn sống tự do, phóng túng, anh không tin rằng chỉ vì
mất một con bò mà thống lí có thể tước đoạt cả tự do, cả mạng sống của anh. Khi
nhận ra đó là sự thật đang đến rất gần mà bản thân không có cách nào giải thoát
mình, A Phủ đã khóc. Khóc cho những tháng ngày tự do không còn nữa, khóc cho
một cuộc đời bị chấm dứt quá đỗi vô lí. Giọt nước mắt của uất hận, tuyệt vọng, đớn
đau.
Ai đó từng nói, nước mắt là miếng kính làm biến hình vũ trụ - quả thực,
dòng nước mắt của A Phủ đủ sức mạnh để đánh thức lòng trắc ẩn trong người phụ
nữ vô hồn kia. Mị “chợt nhớ” mình đã từng rơi vào tình cảnh như A Phủ. Đau đớn
nhất là “nước mắt chảy xuống miệng, xuống cổ, không biết lau đi được”. A Phủ
cũng vậy, anh không thể che giấu giọt nước mắt của mình bởi anh cũng chẳng biết
lau đi được. Thương thân mình là biểu hiện đầu tiên của sự hồi sinh trong tâm hồn
Mị. Cô cảm nhận nỗi đau của A Phủ bằng chính nỗi đau đớn và nhục nhã về thể
xác của mình trong suốt những năm tháng làm dâu khổ cực.
Lời kể từ gián tiếp đột ngột chuyển thành lời nửa trực tiếp với câu cảm thán
đầy phẫn uất “ Trời ơi, nó bắt trói đứng người ta đến chết, nó bắt mình chết cũng
thôi, nó bắt trói đến chết người đàn bà ngày trước cũng ở cái nhà này”. Một câu
văn chất chứa cả những xúc cảm của người kể và nhân vật, vạch trần sự tàn bạo có
hệ thống, tác quái bao kiếp người của gia đình thống lí. Câu nói cũng cho thấy sự
tỉnh thức không phải chỉ ở cảm xúc mà còn ở nhận thức bản chất tội ác nhà thống
lí.
Mị nghĩ đến người đàn bà làm dâu năm xưa cũng chết ở cái nhà này. Và đó là
kết cục mà người đàn ông đáng thương kia phải gánh chịu, cũng như Mị, rồi sẽ
“chết rũ xương” trong cực khổ mà thôi. Tâm trí Mị được khai thông, Mị đã hiểu ra
“chúng nó thật độc ác”. Mị nhận ra bản chất của nhà thống lí và lên tiếng tố cáo
bằng một sự căm giận đang dâng lên trong lòng. Sự thức tỉnh của nhận thức sẽ là
ngọn đuốc soi đường cho những hành động sau này của Mị.
Từ lòng đồng cảm sẻ chia và sự căm phẫn cái ác, cái xấu, Mị thấy thương A
Phủ, cô hiểu sự phi lí trong cái chết của anh khi so sánh với thân phận của mình.
“Người kia việc gì mà phải chết thế.” Mị nghĩ mình có thể bị chết thế vào chỗ của
A Phủ nếu A Phủ bỏ trốn, “Nghĩ thế, trong tình cảnh này, làm sao Mị cũng không
sợ”. Bởi lúc này, tình yêu thương, lòng nhân ái trong con người Mị lớn hơn sức
mạnh của cường quyền, thần quyền.
Hành động cắt đứt dây cởi trói cho A Phủ trở thành một hành động phản
kháng, quyết liệt. Lỗ Tấn từng nói “ một tia lửa nhỏ hôm nay, báo hiệu một đám
cháy ngày mai”. Ai đó cũng từng so sánh, nếu như coi đêm tình mùa xuân là một
tia lửa nhỏ, thì đêm cởi trói cho A Phủ là đám cháy lớn, đám cháy bùng lên của
khát vọng tự do, giải phóng thân phận con người. Thật chí lí.
Mị lần trong bóng tối đến cắt dây cho A Phủ. “Lần lần đến lúc gỡ được hết
dây trói ở người A Phủ thì Mị cũng hốt hoảng.” Mị đã ý thức rất rõ về hậu quả việc
làm của mình. Hoàn toàn trái ngược với suy nghĩ trước đó rằng nếu phải chết thay
cho A Phủ Mị cũng không sợ, lúc này, lòng khao khát sống trỗi dậy, khiến Mị
không còn cam tâm chịu chết nữa. Mị sợ cuộc đời mình sẽ kết thúc vô nghĩa ở nơi
tàn bạo này.
“Mị đứng lặng trong bóng tối”. Câu văn ngắn gọn được tách dòng như phân
định ranh giới giữa sự sống và cái chết. Trong Mị đang chơi vơi trong cuộc đấu
tranh tâm lý rất gay gắt: đi hay ở, sống hay chết, nô lệ hay tự do? Rồi tiếng gọi của
tự do đã thôi thúc Mị hành động dứt khoát “Rồi Mị cũng vụt chạy ra”. Mị quyết
liệt và dữ dội tìm đến với tự do “đuổi kịp”, lăn. Chạy, nói, thở “A Phủ , cho tôi đi”
“Ở đây thì chết mất”. Một lần nữa, nỗi sợ hãi cái chết lại đến với Mị. Đó là biểu
hiện cao nhất của lòng ham sống. Mị đã tự mình cắt đứt sợi dây thần quyền và
cường quyền trói buộc mình nhiều năm liền. Đó là sức sống tiềm tàng, sức phản
kháng mãnh liệt của người lao động, một phẩm chất cao quý của con người giữa
cuộc đời đầy giông bão.

“Đời thay đổi khi chúng ta thay đổi” , cuộc đời Mị sẽ vẫn sống những năm
tháng tối tăm và vô nghĩa nếu không vụt chạy theo A Phủ. Tô Hoài đã để cho Mị tự
nhận thức, tự giác ngộ bởi ông luôn tin tưởng ở khả năng tự giải phóng của Mị
cũng như bao con người Tây Bắc chịu áp bức, cường quyền khác. Đó không phải
chỉ là quy luật tâm lí thông thường mà còn bởi tâm hồn yêu tự do và luôn vươn lên
trong cuộc sống như những cây xanh giữa đại ngàn của họ. Nếu như trong “Tắt
đèn” Ngô Tất Tố xúi người nông dân nổi loạn thì ở đây, Tô Hoài đã góp phần thức
tỉnh ý thức đấu tranh giành lấy tự do vốn có trong người lao động nghèo ở Tây
Bắc. Họ như những con chim tự tháo cũi xổ lồng tìm đến với bầu trời tự do bằng
đôi cánh của chính mình. Đó mới là cách mạng triệt để nhất, là hình ảnh đẹp đẽ
nhất của khát vọng sống!
Tô Hoài đã từng phát biểu: “Muốn viết văn, điều quan trọng nhất là chi tiết .
Mà chi tiết thì không thể phịa ra được. Phải chịu khó quan sát, ghi chép, đọc và
tiếp xúc càng nhiều càng tốt”. Câu chuyện về sự trỗi dậy của Mị trong đêm cởi trói
cho A Phủ nói riêng, cả thiên truyện nói chung với những chi tiết giàu ý nghĩa là
kết quả tốt đẹp của sự quan sát, tìm hiểu kĩ lưỡng và nghiêm túc trong nghề nghiệp
của nhà văn. Cùng với nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật tỉ mỉ, chân thực và đầy
tinh tế, sử dụng từ ngữ điêu luyện của mình, Tô Hoài đã cho độc giả thấy sức sống
mãnh liệt của nhân vật Mị trong đêm cởi trói cho A Phủ. Qua đoạn trích, tác giả
cũng thể hiện sự đồng cảm sâu sắc với nỗi khổ đau của nhân vật, tố cáo thế lực tàn
bạo đã chà đạp lên con người, đồng thời phát hiện, trân trọng, ngợi ca những phẩm
chất tốt đẹp của con người và niềm tin vào khả năng tự giải phóng của người dân
lao động được gửi gắm qua tác phẩm. Đoạn trích góp phần làm nên thành công
cho truyện ngắn. Đọc tác phẩm, người đọc cũng thêm yêu mến và trân trọng tài
năng cùng tấm lòng nhân ái của nhà văn, trân trọng những con người miền cao Tây
Bắc mộc mạc mà kiên cường.

ĐỀ 4: Có ý kiến cho rằng nhân vật Mị trong truyện Vợ chồng A Phủ là một thành công của
nhà văn Tô Hoài khi xây dựng con người thức tỉnh. Phân tích đoạn trích Vợ chồng A Phủ
để làm sáng tỏ nhận định trên.
BÀI LÀM:
Nếu ai từng một lần đến với Tây Bắc, đến với những bản làng hiền hòa chìm trong
sương, đến với những phong cảnh núi rừng hùng vĩ trữ tình, đến với cuộc sống
tươi vui của những đứa con nơi núi rừng hẳn không nghĩ rằng, những con người
nơi đây từng khổ cực trăm bề. Cảnh đói nghèo cơ cực cùng sức nặng cường quyền
và thần quyền đè nặng lên đôi vai những số phận bé nhỏ. Mị trong Vợ chồng A Phủ
của nhà văn Tô Hoài là một số phận, một cuộc đời như thế. Cô gái người Mèo
chính là thành công của Tô Hoài trong việc xây dựng con người thức tỉnh, con
người đứng dậy đấu tranh để giành lại tự do, công bình và hạnh phúc.
Tô Hoài tên thật là Nguyễn Sen, là nhà văn có hiểu biết sâu rộng và vốn sống
phong phú về phong tục, tập quán của nhiều dân tộc ở nhiều vùng miền khác nhau
trên đất nước. Tác phẩm của Tô Hoài luôn hấp dẫn nguời đọc bởi lối kể chuyện
hóm hỉnh, sinh động, bởi vốn từ vựng giàu có lạ thường. Vợ chồng A Phủ là truyện
ngắn thành công nhất trong ba truyện ngắn viết về đề tài Tây Bắc của ông. Tác
phẩm có một giá trị hiện thực và nhân đạo đáng kể. Vợ chồng A Phủ in trong tập
Truyện Tây Bắc (1954). Tác phẩm ra đời là kết quả của chuyến đi thực tế của nhà
văn cùng với bộ đội giải phóng Tây Bắc. Tác phẩm thể hiện chân thực, xúc động
về cuộc sống cơ cực, tủi nhục của đồng bào các dân tộc thiểu số vùng cao dưới ách
thống trị của thực dân và phong kiến cùng quá trình giác ngộ cách mạng, tự vùng
lên giải phóng cuộc đời.
Con người thức tỉnh trong văn học là những nhân vật từng nếm trải nhiều cay
đắng, tủi nhục và đau khổ; trải qua những năm dài bị áp bức bóc lột, bị chà đạp,
giày xéo mà trở thành con người gần như vô cảm vô hồn, sống trong trạng thái
nhẫn nhục, cam chịu cho thân phận mình. Cuối cùng, con người thức tỉnh dần dần
“hồi sinh”, tự ý thức về quyền sống và quyền làm người của mình, phản kháng áp
bức, bất công giành lấy tự do và hạnh phúc, xây dựng một cuộc sống có ý nghĩa.
Cùng với nhân vật A Phủ, ta thấy rõ nhân vật Mị là “con người thức tỉnh” giàu ý
nghĩa nhân văn.
Thành công đầu tiên phải kể đến là việc xây dựng hình tượng nhân vật Mị trong
tập truyện ngắn này. Khi sinh ra Mị đã bị mặc định là một món nợ, một cái giá
phải trả cho hạnh phúc gia đình thiêng liêng mà cha mẹ Mị đã mượn của nhà
Thống lí Pá Tra ngày trước. Quãng đời của người con gái ấy ở Hồng Ngài quả thật
là một chuỗi ngày đen tối ở chốn địa ngục trần gian khi bị bắt làm “con dâu gạt nợ”
cho nhà Thống lí.
Tưởng đâu đây sẽ là dấu chấm hết cho cuộc đời của người đàn bà Mèo ấy, nhưng
đằng sau đống tro tàn của lòng Mị, vẫn còn thấp thoáng đâu đó những tia lửa nhỏ
của khát vọng sống, nói đúng hơn là sự bừng tỉnh sau bao đêm ngủ mê của số phận
oái ăm, nhất quyết không chấp nhận thân kiếp tôi đòi, nô lệ.
Quá trình thức tỉnh của con người thức tỉnh là những năm dài đen tối, là những
tháng ngày tủi nhục đắng cay. Mị cũng vậy. Nơi Mị ở là một cái buồng kín mít, chỉ
có một lỗ vuông bằng bàn tay ra. Có lúc Mị nghĩ rằng mình cứ chỉ ngồi trong cái lỗ
vuông ấy mà ra “đến bao giờ chết thì thôi”. Nhan sắc, tuổi xuân của Mị bị tước
đoạt, bị giày xéo, bị chà đạp. Mị bị bóc lột tàn nhẫn, phải làm quần quật quanh
năm. Lên núi hái thuốc phiện, bẻ bắp, hái củi, bung ngô... lúc nào cũng gài một bó
đay trong tay để tước thành sợi. Có lúc lại thấy Mị quay sợi bên tảng đá trước cửa,
cạnh tàu ngựa. Bó đay ấy, tảng đá ấy như cái xiềng, cái xích, cái thòng lọng oan
nghiệt đối với Mị. Mị bị áp bức mà trở nên tê liệt dần. Không nghĩ đến việc ăn lá
ngón tự tử nữa. Mị “tưởng mình cũng là con trâu, cũng là con ngựa”. Mị “cúi
mặt”, “mặt buồn rười rượi”. Mị cam chịu “ở lâu trong cái khố, Mị quen khổ rồi”.
Gần như vô cảm vô hồn, lâu dần “Mị càng không nói, lùi lũi như con rùa nuôi
trong xó cửa”. Thân phận Mị có khác nào cô gái Thái bị ép duyên trong truyện thơ
Tiễn dặn người yêu: “Ngẫm thân em chỉ bằng thân con bọ ngựa/Bằng con chẫu
chuộc thôi...”
Cảm thấy kiếp mình, thân phận mình như con trâu, con ngựa, con rùa, con bọ
ngựa, con chẫu chuộc, có nghĩa là chén đắng cay của cuộc đời đã uống cạn, chỉ còn
sống trong tê liệt, nhẫn nhục và cam chịu. Chẳng phải đời Mị đã lụi tàn?
Con người thức tỉnh được hồi sinh không chỉ với ngoại cảnh mà còn tự tâm hồn
mình, ý thức mình. Mị đã thức tỉnh với những đêm tình mùa xuân ở Hồng Ngài.
Tiếng sáo lay gọi, thức tỉnh tâm hồn Mị. Mị lén lấy hũ rượu, “cứ uống ừng ực từng
bát”, uống cho tan nỗi hận! Uống cho vơi đi bao đau khổ chứa chất trong lòng!
Say “lịm mặt”, Mị “sống về ngày trước”. Mị nhớ lại thời con gái, Mị thổi sáo bao
người mê. Tiếng sáo gọi bạn tình đã nhập vào hồn Mị "tai Mị nghe văng vẳng
tiếng sáo”. Mị đã thật sự hồi sinh và hồi xuân. Mị tự ý thức là “Mị trẻ lắm, Mị vẫn
trẻ”. Mị cảm thấy “phơi phới”, trong lòng “đột nhiên vui sướng” như những đêm
Tết ngày trước thời con gái. Mị muốn đi chơi Tết. Khao khát được sống trong tình
yêu hạnh phúc như ngọn lửa bùng cháy tâm hồn Mị.
Mị được thức tỉnh về cảnh ngộ. Mị thấy vô lí, bất công đến tàn nhẫn, đến cay
đắng “bao nhiêu người có chồng cũng đi chơi ngày Tết.”. Mị với A Sử “không có
lòng với nhau mà vẫn phải ở với nhau!”. Thật là trớ trêu! Mị muốn ăn lá ngón cho
chết. Mị ứa nước mắt. Tiếng sáo gọi bạn yêu đang “lửng lơ bay” ngoài đường. Đó
là tâm lí của Mị trong đêm tình mùa xuân. Tiếng sáo lay tỉnh Mị đang “vùng vẫy”
cố thoát cảnh ngộ đau khổ và tủi nhục!
Mị đã phản kháng, đã hành động. Mị xắn mỡ bỏ vào đĩa đèn cho sáng. Với tay
lấy váy hoa, rút thêm cái áo, quấn lại tóc. Mị sắp đi chơi. Hành động Mị ngang
nhiên diễn ra trước mắt thằng A Sử. Mị chẳng thèm trả lời câu hỏi của hắn: “Mày
muốn đi chơi à?”. Mị đã bị thằng A Sử trói vào cột buồng bằng cả một thúng sợi
đay, làm cho Mị “không cúi, không nghiêng đầu được nữa”. Mặc dù lúc mê lúc
tỉnh, lúc khắp người “bị trói thít lại, đau nhức”, nhưng Mị vẫn nồng nàn tha thiết
nhớ, “vẫn nghe tiếng sáo đưa Mị đi theo những cuộc chơi, những đám chơi”. Điều
đó cho thấy, Mị được thức tỉnh về tình yêu, về hạnh phúc, lòng khao khát của Mị
rất mãnh liệt. Đêm tình mùa xuân cho thấy ngòi bút phân tích tâm lí và hành động
Mị, con người thức tỉnh của Tô Hoài rất tinh tế, sâu sắc, trăng vàng thấm đượm
tinh thần nhân văn cao cả.
Mị có bị ngã gục trước số phận đen tối tủi nhục không? Lần thức tỉnh cuối cùng
của Mị chính là yếu tố quyết định của tác phẩm. Khi một người đàn bà vô cảm,
chai sạn cảm xúc như Mị lại cảm thấy xót thương vô cùng cho A Phủ lúc nhìn thấy
“dòng nước mắt bò xuống hai hõm má đã đen xám lại của A Phủ”. Sự xâu xé của
lương tâm và lí trí mỗi lúc một mãnh liệt hơn, rồi Mị chợt thấy được bóng dáng
của chính mình trong A Phủ để dẫn tới hành động cắt dây trói cho A Phủ. Cắt được
cái dây trói ấy, cũng như cắt được sợi dây vô hình trói buộc Mị với nhà Thống lí,
như xóa bỏ được áp lực thần quyền đè nén bấy lâu nay lên người Mị về con ma nhà
Thông lí, sự bừng tỉnh vỡ òa trong niềm hạnh phúc giải thoát bản thân. Chạy theo
A Phủ là bước trỗi dậy đầu tiên sau khi thức giấc đến tìm đến với cách mạng, đến
với ánh sáng tự do, không còn kiếp nô lệ đọa đày.
Hành động của con người thức tỉnh là hành động tự phủ định, hành động tự giải
thoát. Mị và A Phủ dìu nhau cùng chạy trốn đến Phiềng Sa khu du kích. Phiềng Sa
là chốn nương thân cho họ. Cách mạng và kháng chiến mới là đất hứa, đất thánh
cho người thức tỉnh. Mị cắt dây trói A Phủ cũng là tự cắt dây trói để giải thoát
mình. Như con chim sổ lồng, Mị từ bóng tối vươn tới ánh sáng, từ nô lệ tủi nhục
mà giành được tự do, hạnh phúc, cùng với A Phủ nên vợ nên chồng, rồi trở thành
chiến sĩ du kích.
Tô Hoài đã phân tích tinh tế, sâu sắc mọi biến thái về tâm lí và hành động Mị
trong quá trình thức tỉnh với tất cả tình thương xót và đồng cảm sâu sắc. Mị là
nhân vật thức tỉnh có sức mạnh phản kháng và sức sống tiềm tàng. Nhân vật Mị đã
góp phần thể hiện giá trị nhân đạo của truyện Vợ chông A Phủ.

ĐỀ 5: Trong truyện ngắn Vợ chồng A Phủ – Tô Hoài có hai lần nhắc đến hình ảnh
sợi dây trói:
Lần thứ nhất: A Sử bước lại, nắm Mị, lấy thắt lưng trói hai tay Mị. Nó xách cả
một tháng sợi đay ra trói đứng Mị vào cột nhà. Tóc Mị xõa xuống, A Sử quấn luôn
tóc lên cột, làm cho Mị không cúi, không nghiêng được đầu nữa. Trói xong vợ, A
Sử thắt nốt cái thắt lưng xanh ra ngoài áo rồi A Sử tắt đèn, đi ra, khép của buồng
lại. Trong bóng tối, Mị đứng im lặng, như không biết mình đang bị trói. Hơi rượu
còn nồng nàn.
Lần thứ hai: Trời ơi, nó bắt trói đúng người ta đến chết, nó bắt mình chết cũng
thôi, nó bắt trói đến chết người đàn bà ngày trước cũng ở cái nhà này. Chúng nó
thật độc ác. Cơ chừng này chỉ đêm mai là người kia chết, chết đau, chết đói, chết
rét, phải chết. Ta là thân đàn bà, nó đã bắt ta về trình ma nhà nó rồi thì chỉ còn
biết đợi ngày rũ xương ở đây thôi... Người kia việc gì mà phải chết thế.
(Ngữ văn 12, Tập hai, NXB Giáo dục Việt Nam, 2017)
Từ việc phân tích hai đoạn trên, anh/chị hãy cho biết và đánh giá vấn đề nhân sinh
nhà văn Tô Hoài đã gửi gắm.
BÀI LÀM:
“Nhà văn tồn tại ở trên đời trước hết để làm công việc giống như kẻ nâng
giấc cho những con người bị cùng đường, tuyệt lộ, bị cái ác hoặc số phận đen đủi
dồn đến chân tường. Những con người cả tâm hồn và thể xác bị hắt hủi và đọa đày
đến ê chề, hoàn toàn mất hết lòng tin vào con người và cuộc đời. Nhà văn tồn tại ở
trên đời để bênh vực cho những con người không có ai để bênh vực.” (Nguyễn
Minh Châu). Với hình tượng nhân vật Mị trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ, nhà
văn Tô Hoài đã thực hiện trọn vẹn sứ mệnh ấy khi mang đến cho người đọc một
hình tượng nghệ thuật với biết bao vẻ đẹp – nhất là sức sống tiềm tàng mãnh liệt
mà không thế lực nào có thể dập tắt được. Đặc biệt sức mạnh tiềm tàng của cô gái
người Mèo bé nhỏ ấy được thể hiện rất rõ qua chi tiết có tính biểu tượng cao độ:
sợi dây trói. Không phải là vô cớ khi chi tiết ấy xuất hiện nhiều lần trong tác
phẩm.
Tô Hoài – nhà văn xuất sắc trong nền văn học Việt Nam hiện đại. Là nhà
văn giỏi về phân tích diễn biến tâm lý nhân vật, về miêu tả thiên nhiên, các phong
tục tập quán, tác phẩm của Tô Hoài luôn hấp dẫn người đọc bởi lối kể chuyện hóm
hỉnh, sinh động, bởi vốn từ vựng giàu có. Vợ chồng A Phủ là truyện ngắn thành
công nhất trong ba truyện ngắn viết về đề tài Tây Bắc của ông. Tác phẩm có một
giá trị hiện thực và nhân đạo đáng kể. Vợ chồng A Phủ in trong tập Truyện Tây Bắc
(1954). Tập truyện được tặng giải nhất của giải thưởng Hội văn nghệ Việt Nam
1954 - 1955. Tác phẩm ra đời là kết quả của chuyến đi thực tế của nhà văn cùng
với bộ đội giải phóng Tây Bắc năm 1952. Tác phẩm thể hiện chân thực, xúc động
về cuộc sống cơ cực, tủi nhục của đồng bào các dân tộc thiểu số vùng cao dưới ách
thống trị của thực dân và phong kiến cùng quá trình giác ngộ cách mạng, tự vùng
lên giải phóng cuộc đời.
Chi tiết sợi dây trói xuất hiện đầu tiên trong đêm tình mùa xuân, khi cô Mị
đã thức tỉnh, khao khát muốn đi chơi, khao khát được tự do, đi theo tiếng sáo gọi
bạn mùa xuân. Nhưng: A Sử bước lại, nắm Mị, lấy thắt lưng trói hai tay Mị. Nó
xách cả một tháng sợi đay ra trói đứng Mị vào cột nhà. Tóc Mị xõa xuống, A Sử
quấn luôn tóc lên cột, làm cho Mị không cúi, không nghiêng được đầu nữa. Trói
xong vỢ, A Sử thắt nốt cái thắt lưng xanh ra ngoài áo rồi A Sử tắt đèn, đi ra, khép
cửa buồng lại. Trong bóng tối, Mị đứng im lặng, như không biết mình đang bị trói.
Hơi rượu còn nồng nàn. Sợi dây trói xuất hiện trong đoạn này đã thể hiện được sức
mạnh của cường quyền và thần quyền thống trị. Khi Mị ấp ủ ý định đi chơi, khao
khát tự do và hạnh phúc thì A Sử về, dùng dây trói, là cưỡng bức lại ước muốn và
khao khát của Mị, là chặn đứng hành động muốn đi chơi của Mị. A Sử trói đứng
Mị vào cột, hành động trói đứng người vợ của mình, cuốn luôn cả tóc và cột,
không cho cúi, nghiêng, làm cho Mị nước mắt rơi xuống cô không lau đi được,
hình phạt đó chẳng khác nào sự tra tân thời trung cổ. Sự tàn bạo đó, có lẽ đã giết
chết bao cô gái cả thể xác lẫn tâm hồn. Thế nhưng A Sử không thể trói được tâm
hồn Mị, Mị bị trói nhưng Mị vẫn vùng bước đi. Cái vùng bước đi ấy, đó là cả một
sức sống tiềm tàng trỗi dậy mãnh liệt, dù lúc này nó chưa đủ sức phá tan dây trói,
nhưng cái vùng bước đi ấy là một sự phản kháng, chống lại.
Lần hai, chi tiết sợi dây trói xuất hiện trong đêm tình mùa xuân, khi Mị
chứng kiến giọt nước mắt A Phủ lăn dài: Trời ơi, nó bắt trói đúng người ta đến
chết, nó bắt mình chết cũng thôi, nó bắt trói đến chết người đàn bà ngày trước
cũng ở cái nhà này. Chúng nó thật độc ác. Cơ chừng này chỉ đêm mai là người kia
chết, chết đau, chết đói, chết rét, phải chết. Ta là thân đàn bà, nó đã bắt ta về trình
ma nhà nó rồi thì chỉ còn biết đợi ngày rũ xương ở đây thôi... Người kia việc gì mà
phải chết thế.
Cần phải nói thêm, Mị sau đêm mùa xuân, sau những gì đã bùng cháy, nay
trở lại với sự thờ ơ vô cảm, chẳng đoái hoài những gì xảy ra xung quanh. Tâm hồn
Mị như tê dại trước mọi chuyện kể cả lúc ra sưởi lửa, bị “A Sử đánh ngã xuống
của bếp, hôm sau Mị vẫn thản nhiên ra sưởi lửa như đêm trước”. Mị vô cảm với
chính bản thân mình, Mị không đau đớn, cũng không sợ hãi. Dòng nước mắt của A
Phủ đã đánh thức và làm hồi sinh lòng thương mình rồi đến thương người trong
Mị. Chính nhờ ngọn lửa đêm ấy, Mị lé mắt trông sang và nhìn thấy “một dòng
nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại” của A Phủ. Và từ sự
đồng cảm đó, lòng Mị dấy lên sự căm phẫn: “Trời ơi, nó bắt trói đúng người ta
đến chết, nó bắt mình chết cũng thôi, nó bắt trói đến chết người đàn bà ngày trước
cũng ở cái nhà này”. Mị nguyền rủa cha con nhà thống lí “Chúng nó thật độc ác”.
Từ “chúng nó” ở đây, hiện lên trực tiếp những cái tên như Pá Tra, A Sử, đó là
những cái tên mang tính đại diện, nhưng sâu hơn, chúng nó” chính là những kẻ
thống trị, bọn chúa đất miền núi đã đày đọa những kẻ như Mỹ, A Phủ. Khi một kẻ
đang trong tình trạng mất hết ý thức lại nhận ra nguyên nhân của cái khổ mà mình
gánh chịu thì đúng là một cuộc lội ngược dòng của ý thức. Chắc chắn, ý thức này
sẽ trỗi dậy, sẽ phản kháng mãnh liệt chứ không dừng lại ở đây. Mị nhận ra giá trị
của con người, giá trị được sống nhưng lại bị bắt chết. Mị nghĩ đến thân phận
mình, là đàn bà, bị cúng trình ma, Mị có chết cũng là tất yếu, là lẽ vốn phải vậy,
nhưng A Phủ đầu bị kiếp như vậy, sao lại phải chết, sao bị ép đến chết, sao mạng
người quý thế, lại chỉ đánh đổi ngang giá với một con bò.
Để đi đến hành động cắt dây trói cứu A Phủ, Mị đã phải trải cả một quá trình
diễn biến tâm lý đầy phức tạp, với những dòng độc thoại, những chiều suy nghĩ,
nhận thức và đấu tranh đầy mãnh liệt. Trong đó có cả nỗi sợ dấy lên, khi Mị tưởng
tượng: A Phủ trốn đi được, Mị sẽ là người thay thế A Phủ, bị trói đúng vào cột, và
rồi sẽ chết. Nhưng tình thương A Phủ, sự đồng cảm với kiếp người cùng khổ đầy
khốn nạn, thêm cả lòng căm phẫn, và sự thúc bách về mặt thời gian, cô gái đó đã
có một hành động hết sức táo bạo, liều lĩnh: cắt dây trói để cứu A Phủ.
Hình ảnh sợi dây trói xuất hiện trong hai đoạn nhưng lại mang hai ý nghĩa
khác nhau, nếu đoạn 1 như sự hiện lên của uy quyền và sức mạnh thì đoạn 2, nó
hiện lên như chướng ngại, với bao lòng căm phẫn và phải được cắt bỏ. Nếu đoạn 1,
Mị hiện lên trong sự cam chịu vì quyền uy của sợi dây trói như chính sức mạnh
thần quyền và cường quyền thì đoạn 2, Mị đã vùng lên giải phóng, mà việc đầu
tiên là cắt đi sợi dây trói buộc cuộc đời mình.
Qua việc khắc họa cuộc sống và số phận của những người nông dân miền
núi, nhà văn Tô Hoài đã mở ra bức tranh hiện thực tăm tối, ngột ngạt của người
dân Tây Bắc dưới chế độ phong kiến đen tối, nơi giai cấp thống trị có thể tự do áp
bức, tước đoạt đi tự do, hạnh phúc và cả quyền sống của những người dân nghèo
vô tội. Quá trình vượt qua nghịch cảnh, giải phóng bản thân, đi theo cách mạng của
Mị, mà tiêu biểu là cắt được sợi dây trói đời mình cả theo nghĩa đen và nghĩa bóng,
chính là hành trình đi từ đau thương đến với tự do, quá trình giác ngộ cách mạng
của đồng bào dân tộc miền núi. Truyện ngắn không chỉ thể hiện tinh thần nhân đạo
của Tô Hoài khi bênh vực, đồng cảm với số phận con người mà còn thể hiện niềm
tin của tác giả vào cách mạng, khẳng định chỉ có đi theo cách mạng con người mới
có thể thực sự tìm thấy tự do, phá bỏ xiềng xích áp bức để hướng đến cuộc sống
hạnh phúc.

ĐỀ 6: Cảm nhận về hành động nhân vật Mị chạy theo A Phủ (Vợ chồng A Phủ -
Tô Hoài) và hành động theo Tràng của nhân vật người vợ nhặt (Vợ nhặt - Kim
Lân) trong hai đoạn văn sau:
Mị đuổi kịp A Phủ, đã lăn, chạy, chạy xuống tới lưng dốc, Mị nói, thở trong hơi
gió thốc lạnh buốt:
- A Phủ cho tôi đi.
A Phủ chưa kịp nói, Mi lại nói:
- Ở đây thì chết mất.
(Trích Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài)
Ăn xong thì cầm dọc đôi đũa quệt ngang miệng, thở:
- Hà, ngon! Về chị ấy thấy hụt tiền thì bỏ bố.
Hắn cười:
- Làm đếch gì có vợ. Này nói đùa chứ có về với tớ thì ra khuân hàng lên xe rồi
cùng về.
Nói thế Tràng cũng tưởng là nói đùa, ai ngờ thị về thật.
(Trích Vợ nhặt của Kim Lân)
BÀI LÀM:
Người phụ nữ là đề tài quen thuộc trong nền văn học Việt Nam, nhất là
những phụ nữ phận nhỏ bé, chịu nhiều đắng cay, tủi nhục. Đặc biệt trong giai đoạn
1945 đến hết thế kỉ XX, đề tài này đã được thể hiện khá đặc sắc qua nhiều nhân
vật. Nổi trội hơn cả là hiện tượng Mị trong Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài, nhân vật
người vợ nhặt trong tác phẩm cùng tên của Kim Lân. Mỗi nhân vật đều mang mỗi
hoàn cảnh, số phận đáng thương nhưng ở họ vẫn toát lên những phẩm chất đáng
quý của người phụ nữ Việt Nam. Những nhà văn này đã góp lên tiếng nói chung -
tiếng nói nhân đạo đối với họ. Không những thể hiện sự quan tâm, thông cảm,
đồng cảm với những số phận bất hạnh này mà những nhà văn còn trân trọng, ngợi
ca những phẩm chất cao quý của người phụ nữ. Đặc biệt, hai nhà văn đều làm nên
những ấn tượng song trùng trong độc giả, khi làm nên cảnh Mị chạy theo A Phủ,
và cô Vợ nhặt theo Tràng về làm vợ.
Nhắc đến Tô Hoài là nhắc đến một nhà văn có sự nghiệp trải dài hơn bảy
thập niên. Tô Hoài là bút danh, ông tên thật là Nguyễn Sen. Thời trẻ, ông kiếm
sống bằng nhiều nghề, từ gia sư, thư ký cho tới bán hàng, làm chân kế toán cho
một hiệu buồn... Đây chính là quãng thời gian ông bắt đầu khởi mạch cho vốn sống
ngồn ngộn của mình tuôn trào trên những trang văn Tô Hoài đi nhiều, trải nghiệm
nhiều, với cảm quan hiện thực đầy tinh tế về cuộc sống đời thường cộng vốn hiểu
biết giàu có về phong tục và đời viết không ngừng nghỉ đưa nhà văn Tô Hoài lên vị
trí không thể nhầm lẫn, khó có thể thay thế. Truyện Tây Bắc ra đời năm 1953 khơi
mạch cho một dòng chảy sáng tác khác, mang lại nhiều thành công hơn cho ông.
Núi rừng Tây Bắc từ đấy đã trở thành đề tài mà ông gắn bó lâu dài, nặng tình và
nặng nghĩa. Vợ chồng A Phủ, một trong ba truyện in trong tập Truyện Tây Bắc, có
thể nói là một tác phẩm thành công bậc nhất của nhà văn Tô Hoài khi ông khơi
ngòi vào mảnh đất văn chương các dân tộc miền núi.
Trong truyện ngắn Vợ chồng A Phủ, chi tiết Mị chạy theo A Phủ nằm phần
cuối của đoạn trích, cũng là đoạn mở nút, cuộc đời nhân vật bước sang một trang
khác. Hành động Mị chạy theo A Phủ trước nhất chính là hành động Mị chạy khỏi
những áp bức, đày đọa của đời mình. và Cuộc đời của Mị những ngày tháng ở
Hồng Ngài gồm hai giai đoạn chính: trước khi làm dâu và sau khi làm dâu nhà
thống lý Pá Tra. Trước khi bị bắt về cái gia đình đã giết chết tuổi xuân của mình,
Mị là một cô gái trẻ trung, xinh đẹp, tài năng, yêu lao động lại hiếu thảo với cha
mẹ. Thế nhưng số phận bi kịch đã không buông tha cho Mị Mị bị bắt và trở thành
con dâu gạt nợ. Mị bị bắt đem cúng “trình ma” nhà thống lý. Từ đó, đoạn đời vui
vẻ của Mị đặt một dấu chấm kết thúc để bắt đầu thân phận của con người lao động
mịt mờ không lối thoát. Cuộc đời A Phủ cũng như vậy, cũng là nạn nhân của
cường quyền, thần quyền và chính sách cho vay nặng lãi của bọn chủ nô phong
kiến miền núi.
Những ngày tháng làm nô lệ ở nơi địa ngục trần gian của một Mị tưởng
chừng không lối thoát nhưng cuối cùng, chính sức sống tiềm tàng bên trong đã
khiến Mị hành động. Quá khứ thì tươi đẹp. Hiện tại thì nhục nhã ê chề. Còn tương
lai sẽ ra sao? Đêm tình mùa xuân đã khe khẽ nhen nhóm nhận thức bên trong Mị
để đến đêm mùa đông, Mị quyết định cắt dây cởi trói của A Phủ. Chỉ vì để con hổ
ăn mất bò mà chàng phải chịu cảnh trói đứng, gần như phải dùng mạng sống của
mình thay thế. A Phủ bị bắt trói đứng ngoài sân nhiều đêm nhiều. Một cuộc vượt
ngục âm thầm diễn ra, hai con người nô lệ giờ dìu dắt nhau để thoát khỏi cảnh tù
đày.
Hành động cắt dây thể hiện sự can đảm tuyệt đối. Mị trân trọng giá trị con
người, mạng sống con người. Lòng thương người tỉnh thức là cơ sở để Mị phát
triển thành lòng thương mình, xót thương cho số phận đau thương mà bấy lâu nay
nàng âm thầm chấp nhận. Mị sẽ chẳng còn phải chịu cảnh “thổn thức nghĩ mình
không bằng con ngựa” hay bị A Sử “xách cả một tháng sợi đay ra trói đứng Mị
vào cột nhà nữa”... Mị cũng sẽ chẳng còn phải vay mượn men rượu, vay mượn
tiếng sáo để sống lại những ngày tự do trước nữa bởi phía trước nàng chính là cuộc
đời mới, là con đường mới.
Bên cạnh đó, hành động Mị chạy theo A Phủ còn là hành động Mị hiện thực
hóa khát vọng tự do, đến với ánh sáng cách mạng. Cắt dây cởi trói cho A Phủ, Mị
đã từng nghĩ đến viễn cảnh phải thay thế mạng sống mình nhưng cuối cùng, vượt
qua bóng ma thần quyền và sự áp chế của cường quyền, khi A Phủ chạy đi, Mị
đứng lặng trong bóng tối, khoảnh khắc ấy, trong Mị trào lên niềm khao khát sống.
Lúc này, cùng với nỗi sợ và lòng ham sống mãnh liệt, Mị vụt chạy theo A Phủ.
Bước chân Mị như đạp đổ thần quyền của bọn lãnh chúa phong kiến bao
năm qua đè nặng lên Mị. Mị đã nói trong cơn gió thốc “A Phủ cho tôi đi! Ở đây thì
chết mất”. Ta hãy nhớ lại Mị của trước kia, từng nhiều lần muốn tìm đến cái chết,
thì giờ đây, Mị lại thèm được sống. Con ma đã bất lực không thể giam giữ được Mị
nữa, Mị đã thành người tự do, chính Mị chứ không phải ai khác, tự quyết định vận
mệnh cho cuộc đời mình. Họ dìu dắt nhau từ bóng đêm lầm than, từ áp bức của
cường quyền và thần quyền để đến vùng đất Phiềng Sa - vùng đất hứa hẹn niềm
tin, tự do và hạnh phúc.
Khi nói về Nhà văn Kim Lân, trong hình dung độc giả đó là một trong
những cây bút truyện ngắn xuất sắc nhất của nền văn học Việt Nam đương đại, là
người đã viết những trang hay nhất về làng quê bằng cả lòng yêu thương, sự gắn
bó và trái tim hết mực chân thành. Ngòi bút Kim Lân sâu lắng, cẩn trọng, tỉ mẩn,
viết chân thật, xúc động về cuộc sống và người dân quê mà ông hiểu sâu sắc cảnh
ngộ và tâm lí của họ – những con người gắn bó tha thiết với quê hương và cách
mạng. Trong tác phẩm của Kim Lân ta vẫn thấy thấp thoáng cuộc sống và con
người của làng quê Việt Nam nghèo khổ, thiếu thốn mà vẫn yêu đời; thật thà, chất
phác mà thông minh, hóm hỉnh. Vợ nhặt nằm trong tập Con chó xấu xí (1962).
Tiền thân của truyện ngắn này là tiểu thuyết Xóm ngụ cư – được viết ngay sau
Cách mạng tháng Tám nhưng dang dở và thất lạc bản thảo. Sau khi hòa bình lặp lại
(1954), ông dựa vào một phần cốt truyện cũ để viết truyện ngắn này.
Chi tiết cô vợ nhặt theo không Tràng về làm dâu, làm vợ của một anh xóm
ngụ cư giữa nạn đói khủng khiếp năm Ất Dậu nằm ngay đầu tác phẩm, như một
nút thắt làm bung nở những mâu thuẫn, những đối nghịch, những trạng huống dở
khóc, dở cười.
Thị là nhân vật không tên, cũng chẳng hề có quê quán, chẳng tài sản, không
gia đình, cũng không có nghề nghiệp. Thị như người trôi dạt giữa cơn lũ của nạn
đói. Thật tội nghiệp. Cái đói biến người phụ nữ ấy với ngoại hình chẳng mấy ưa
nhìn: “áo quần tả tơi như tổ đỉa”, “khuôn mặt lưỡi cày xám xịt” nổi bật với “hai
con mắt trũng hoáy”. Cái đói không chỉ tàn hại dung nhan của thị mà còn tàn hại
cả tính cách, nhân phẩm, điều đó được thể hiện từ lời nói đến hành động. Trước hết
là trong lời nói, vì đói mà thị trở nên “chao chát”, “chỏng lỏn”, “chua ngoa, đanh
đá”. Thị “cong cớn”, “sưng sỉa” khi giao tiếp, nói chuyện. Cái đói khiến thị quên
cả việc phải giữ ý tứ, lòng tự trọng của người con gái được cho ăn, thị sẵn sàng “sà
xuống cắm đầu ăn một chặp bốn bát bánh đúc liền chẳng chuyện trò gì”. Thị đã
đặt sự tồn tại của mình, đặt miếng ăn lên trên nhân cách.
Trong cơn lũ của nạn đói, thị là người đang chết đuối, vớ được cái cọc là
Tràng, thị đã bấu víu lấy, bám lấy để duy trì sự sống. Thân phận người vợ thật rẻ
rúng bởi chỉ bằng bốn bát bánh đúc, một câu nói đùa, hai hào dầu... để làm vợ
người ta. Thị bất chấp tất cả để được ăn, ăn để được tồn tại. Đó là ý thức bám lấy
sự sống. Khi anh cu Tràng hay đùa, lại đùa “có muốn theo tớ về nhà thì ra khuân
đồ lên xe rồi ta cùng về”. Thì người đàn bà kia lại im lặng sau câu đùa của Tràng.
Nói đúng hơn là thị đồng ý, đồng ý mà không hề do dự, phân vân. Nhưng có lẽ bởi
Thị cảm được cái chân thật, cái tốt bụng của anh Tràng, Tràng có lẽ là duyên phận,
xuất hiện như chiếc phao cứu sinh với đời Thị. Cho nên hành động theo Tràng của
thị, một mặt xuất phát từ nhu cầu bám lấy sự sống, từ lòng khao khát được sống.
Nhưng ta còn thấy trong đó, một mong muốn tựa nương, một bến bờ sau những
trôi dạt của số phận.
Đều là những con người đáng thương, bị số phận đưa đẩy vào chốn đường
cùng. Mị và người vợ nhặt cùng hiện lên là những người phụ nữ đầy chủ động,
không chấp nhận thực tại, bằng hành động mà thay đổi số phận mình. Tuy nhiên,
hai nhân vật cũng có những điểm khác biệt, hành động của Mị là hành động thuộc
phần cuối đoạn trích, đó là hành động đấu tranh, vùng lên giải phóng cuộc đời
mình. Còn với cô vợ nhặt, hành động đó là hành động mang tính khơi màn cho tác
phẩm, để bao hệ quả sau đó được đẩy đưa đến, đó là hành động thể hiện khát khao
sống, bám lấy sự sống mãnh liệt.
Nếu như trước cách mạng, các nhân vật thường rơi vào bế tắc, vào bi kịch
thì sau cách mạng, họ đến được với sự giải phóng, với ánh sáng tự do. Ta thấy cái
kết của nhân vật Chí Phèo hay chị Dậu hoàn toàn đối lập với cái kết của Mị, của A
Phủ, Vợ nhặt, Tràng,...Thông qua hai tác phẩm, các tác giả đã khẳng định đề cao
khát vọng sống, niềm hi vọng, niềm tin vào cuộc sống, đều mang tính phát hiện
những vẻ đẹp của con người, những vẻ đẹp không thể bị bất cứ một thực cảnh phũ
phàng nào có thể làm tiêu mất đi, trái lại lại càng toả sáng hơn.
Có thể nói, nhân vật Mị và người vợ nhặt là hai nhân vật điển hình, tiêu biểu
cho những kiếp người cùng khổ, bị cuộc sống đày đọa, làm cho đổi thay. Thế
nhưng, bên trong tâm hồn lúc nào cũng tiềm ẩn một nội lực sinh tồn, một sức sống
tiềm tàng mạnh mẽ. Có lúc nó chìm lắng xuống và hiện thực quá khắc nghiệt, tàn
nhẫn. Thế nhưng, chỉ cần có cơ hội là nó mạnh mẽ trỗi dậy chiến thắng tất cả, đưa
nhân vật đi lên, tìm về với sự sống đúng nghĩa. Qua hai nhân vật, Kim Lân và Tô
Hoài đã có những cống hiến lớn trong phát hiện và ngợi ca vẻ đẹp của cuộc sống,
tạo động lực thúc đẩy con người không bao giờ dầu hàng trước số phận và nghịch
cảnh. Phải chăng, đó cũng là tiếng nói của cách mạng, của chủ nghĩa nhân đạo đã
tồn tại mấy nghìn năm qua của dân tộc ta.
ĐỀ 7: Có ý kiến cho rằng: Hình tượng tượng tiếng sáo trong truyện ngắn Vợ chồng
A phủ là một sáng tạo nghệ thuật độc đáo nhằm khám phá, thể hiện vẻ đẹp nhân vật
và chủ đề tư tưởng của tác phẩm. Ý kiến khác lại cho rằng: Tiếng sáo góp phần tô
đậm thêm những giá trị nhân đạo của tác phẩm. Hãy bình luận.
BÀI LÀM:
Lép Tôn-Xtôi đã từng nói rằng: “Chi tiết nhỏ làm nên nhà văn lớn”. Chi tiết nghệ
thuật là những mắt xích rất nhỏ trong tác phẩm nhưng có tác động lớn đến diễn
biến tâm lí, số phận nhân vật thúc đẩy cốt truyện phát triển. Nhà văn Tô Hoài với
biệt tài xây dựng chi tiết nghệ thuật âm thanh tiếng sáo đã tạo nên điểm nhấn, dấu
ấn khó quên của tác phẩm. Bàn về chi tiết đầy sức nặng này, có ý kiến cho rằng:
Hình tượng tiếng sáo trong truyện ngắn Vợ chồng A phủ là một sáng tạo nghệ thuật
độc đáo nhằm khám phá, thể hiện vẻ đẹp nhân vật và chủ đề tư tưởng của tác
phẩm. Ý kiến khác lại cho rằng: Tiếng sáo góp phần tô đậm thêm những giá trị
nhân đạo của tác phẩm.
Tô Hoài như một từ điển sống, một pho sách sống. Ông có vốn hiểu biết sâu
sắc, phong phú về phong tục tập quán của nhiều vùng miền khác nhau, lối trần
thuật hóm hỉnh, vốn từ vựng giàu có, sáng tạo, cách miêu tả đậm chất tạo hình lay
động lòng người. Ông đã viết thành công tác phẩm Truyện Tây Bắc, trong đó có
truyện Vợ chồng A Phủ. Qua truyện ngắn này, Tô Hoài đã phản ánh nỗi thống khổ
và sự vùng dậy của người Mèo ở Tây Bắc, một lòng quyết tâm đi theo kháng chiến
để giành lấy tình yêu, hạnh phúc. Trong truyện, Tô Hoài không chỉ thành công ở
việc khắc họa chân dung các nhân vật mà nhà văn còn có biệt tài trong việc xây
dựng các chi tiết truyện rất đặc sắc. Trong đó, chi tiết tiếng sáo trong đêm tình mùa
xuân mang nhiều ý nghĩa.
Bàn về chi tiết này, ngoài những lời ngợi khen, còn là những đánh giá nhiều
chiều làm nên đời sống phong phú của tác phẩm. Có ý kiến cho rằng: “Hình tượng
tiếng sáo - hình tượng nghệ thuật thể hiện sự khám phá độc đáo của nhà văn Tô
Hoài”. Điều này có thể hiểu, trước hết tiếng sáo là một chi tiết hết sức đặc sắc, trở
đi trở lại nhiều lần trong tác phẩm, có ý nghĩa như một hình tượng nghệ thuật, chứa
nhiều giá trị mang sức nặng. Có thể nói, từ một hình tượng quen thuộc ngoài đời
sống, thường xuất hiện trong các lễ hội mùa xuân, thì qua ngòi bút Tô Hoài đã biến
thành một chi tiết, một hình tượng thật đắt giá. Ý kiến khác lại cho rằng: “Hình
tượng tiếng sáo - hình tượng tô đậm giá trị nhân đạo của tác phẩm”, nghĩa là không
chỉ có sự phát hiện, tái hiện hình tượng thành công, tiếng sáo còn cộng hưởng, làm
gia tăng sức mạnh của tư tưởng nhân đạo trong tác phẩm. Đặc biệt khi nó nhấn
mạnh vào những mộng tưởng, những thôi thúc của Mị trong đêm tình mùa xuân.
Tiếng sáo xuất hiện trong đêm tình mùa xuân - đây là âm thanh quen thuộc,
đặc trưng của người Mèo ở vùng cao mỗi khi tết đến, xuân về. Đó là tiếng sáo gọi
bạn yêu, là cầu nối cho các đôi lứa, giúp các chàng trai tỏ tình và giãi bày yêu
thương. Âm thanh ấy cũng chất chứa nhiều khát vọng yêu thương cháy bỏng trong
các nhịp đập trái tim trẻ. Tiếng sáo là một trong những chi tiết được Tô Hoài dụng
công miêu tả. Nó xuất hiện nhiều lần, trở đi trở lại với các mức độ và sắc thái khác
nhau. Lúc đầu là tiếng sáo lấp ló ngoài đầu núi, tiếp đến nó văng vẳng ở đầu làng,
“lửng lơ bay ngoài đường”. Và rồi giữa Mị và tiếng sáo không còn khoảng cách.
Âm thanh ấy len lỏi vào trong tâm trí của Mị. Không chỉ có tiếng sáo hiện tại cô
nghe, mà Mị còn nhớ lại cả tiếng sáo trong quá khứ, về khoảng thời gian tươi đẹp,
kiêu hãnh của mình. Cuối cùng, tiếng sáo trở thành động lực, dù tiếng sáo thực đã
mất, nhưng tiếng sáo tâm tưởng - hay tiếng lòng khát khao của Mị đã bừng tỉnh.
Nghệ thuật miêu tả tiếng sáo và tâm trạng nhân vật của nhà văn Tô Hoài rất tài
hoa. Tám lần ông nói tới tiếng sáo, kể về những cô gái, chàng trai thổi sáo, hát tình
ca, nghe sáo, đi theo tiếng sáo. Ba lần ông đặc tả tiếng sáo: “văng vẳng tiếng sáo”,
“tiếng sáo lửng lơ bay”, “trong đầu Mị rập rờn tiếng sáo”. Những từ tượng thanh,
kết hợp nghệ thuật đảo âm tiết (không viết lơ lửng mà viết lửng lơ), đảo từ (động
từ văng vẳng trước danh từ tiếng sáo, tính từ lửng lơ trước động từ bay, động từ rập
rờn trước danh từ tiếng sáo) khiến cho những âm thanh của thứ nhạc cụ dân dã ấy
trở nên sống động, có hồn, ấn tượng xiết bao. Và nhờ đó, những cung bậc tâm
trạng của nhân vật Mị trở nên phong phú, trầm thăng, xốn xang, rung nhịp cùng
tiếng sáo. Nhờ tiếng sáo đêm tình mùa xuân đó mà nhà văn mở được cánh cửa tâm
hồn nhân vật Mỵ đã im ỉm khóa suốt bao nhiêu năm trời.
Tiếng sáo đã gọi dậy một tâm hồn chai sạn. Hay nói cách khác, nhờ tiếng sáo,
nhà văn đã đi sâu vào để phát hiện sức sống tiềm tàng của người con gái Mèo ấy.
Đó là một sức sống mạnh mẽ, đầy những khát khao. Tiếng sáo làm Mị thức dậy
những ký ức xưa cũ, tiếng sáo là đại diện cho miền ký ức tươi đẹp: có biết bao
người ngày đêm thổi sáo đi theo Mị, cái thời Mị là một cô gái xinh đẹp, yêu tự do.
Nhớ lại, Mị lại ứa nước mắt, mà tiếng sáo lại lửng lơ bay ngoài đường, lúc này
tiếng sáo như động lực, như thôi thúc Mị, đẩy đưa Mị đến với những đêm tình mùa
xuân. Và tiếng sáo vẫn tiếp tục vang lên những giai điệu như tô đậm hơn những
khát khao bung toả, khát khao tự do, khát khao hạnh phúc của Mị mặc cho những
nút thít của sợi dây đang siết chặt tấm thân Mị.
Chi tiết nhỏ làm nên nhà văn lớn, cả hai ý kiến đều đã bổ sung để làm bật nên
giá trị của chi tiết tiếng sáo trong đêm mùa xuân. Đọc tác phẩm, suy ngẫm về sức
sống tiềm tàng của nhân vật Mị, chúng ta không thể lướt qua hình tượng thẩm mỹ
tiếng sáo. Bởi vì đấy là một điểm sáng nghệ thuật vừa hiện thực, vừa lãng mạn,
đậm chất dân tộc và chất thơ. Bởi vì, đấy cũng là một cung bậc tinh tế trong cảm
hứng nhân đạo, nhân văn rất đáng trân trọng của ngòi bút Tô Hoài.
Đọc Vợ chồng A Phủ ta thấy Mị là bức chân dung tĩnh lặng. Hầu như trong thời
gian ở nhà thống lí Mị chỉ nói có vài ba câu. Nhưng ẩn chứa trong tâm hồn câm
lặng ấy là một sức sống mãnh liệt, một khát vọng lớn lao như mạch suối ngầm
trong mắt. Đặc biệt bước chuyển biến lớn lao có tác nhân mạnh mẽ của tiếng sáo
gọi bạn. Tiếp xúc với Vợ chồng A Phủ ta nhớ, ta yêu một cô Mị ở Hồng Ngài càng
bị đọa đày, đau khổ càng khao khát muốn vươn lên một cuộc sống tốt lành. Một cô
Mị tiềm tàng sức sống mãnh hệt để có thể hiểu hơn một cô Mị du kích Phiềng Sa
sau này.

VỢ NHẶT ( Kim Lân)


ĐỀ 1: Phân tích bức tranh hiện thực và vẻ đẹp tình người thông qua chi tiết nồi
cháo cám trong truyện ngắn Vợ nhặt của nhà văn Kim Lân.
BÀI LÀM:
Thành công của một tác phẩm được làm nên từ rất nhiều yếu tố. Một trong
số đó là những chi tiết đắt giá làm nên ấn tượng sâu sắc với người đọc và đồng thời
qua đó phải thể hiện được dụng ý nghệ thuật cũng như tư tưởng của tác giả trong
tác phẩm đó. Trong truyện ngắn Vợ nhặt, nhà văn Kim Lân đã rất thành công khi
đưa vào một chi tiết đắt như thế: “nồi cháo cám” - hiện thân của cái đói, của bức
tranh hiện thực thê thảm, đồng thời cũng là nồi cháo của tình thân, của vẻ đẹp nhân
ái con người.
Kim Lân (01/08/1920 - 20/07/2007), tên thật là Nguyễn Văn Tài, quê ở làng
Phù Lưu, xã Tân Hồng, huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Do hoàn cảnh gia đình khó
khăn, ông chỉ học hết tiểu học rồi vừa làm thợ sơn guốc, khắc tranh bình phong,
vừa viết văn. Năm 1944, Kim Lân tham gia Hội Văn hóa cứu quốc, sau đó liên tục
hoạt động văn nghệ phục vụ kháng chiến và cách mạng (viết văn, làm báo, diễn
kịch, đóng phim). Kim Lân là một trong những tác giả tiêu biểu của văn xuôi hiện
đại, cây bút chuyên viết truyện ngắn, chuyên viết về nông thôn với những con
người nông thôn hiền hậu, chân chất.
Vợ nhặt là tác phẩm nằm trong tập Con chó xấu xí (1962). Tiền thân của
truyện ngắn này là tiểu thuyết Xóm ngụ cư - được viết ngay sau Cách mạng tháng
Tám nhưng dang dở và thất lạc bản thảo. Sau khi hòa bình lặp lại (1954), ông dựa
vào một phần cốt truyện cũ để viết truyện ngắn này. Đây là một trong những
truyện ngắn xuất sắc nhất trong văn xuôi Việt Nam hiện đại. Vợ nhặt là bức tranh
hiện thực thê thảm của Nhân dân ta thời kỳ trước Cách mạng tháng Tám, mà cụ thể
là nạn đói năm 1945.
Chi tiết “nồi cháo cám” nếu như nó xuất hiện trong bữa ăn giữa nạn đói
năm 1945 lại dường như dễ hiểu, nhưng trong tác phẩm nó lại được xuất hiện ngay
sau buổi sáng hôm sau. Buổi sáng mà nhà bà cụ Tứ có thêm người con dâu. Lễ ra
mắt con dâu bình thường không có cao lương mĩ vị thì cũng phải mâm cao cỗ đầy,
nhưng trong tình thế đó đã khiến người ta không khỏi nghẹn ngào. Bữa cơm trong
ngày đói thật thê thảm, mà bất cứ ai nhìn vào cũng đều chạnh lòng. Đó là cảnh
“giữa cái mẹt rách có độc một lùm rau chuối thái rối, và một đĩa muối ăn với
cháo” nhưng ngạc nhiên thay là cả nhà đều ăn rất ngon lành. Tất cả đều vui vẻ,
không khí thật đầm ấm, và bao viễn cảnh được vẽ ra. Cho đến khi nồi cháo loãng
đã hết veo. Bữa chính kết thúc hơi sớm so với nhu cầu của cái dạ dày. Và đến phần
thứ hai, bữa ăn phụ, ăn chơi, là cách mà bà cụ Tứ gọi là chè khoán. Nồi chè ăn chơi
như một thú rất tao nhã sau bữa chính, khiến câu chuyện vui như được kéo dài hơn,
cái ngọt ngào của chè làm dư vị của miệng thêm đậm đà, cảm xúc thêm lâng lâng
khoan khoái. Thế nhưng “nồi chè” trong bữa cơm đón dâu mới ấy đã làm điều
ngược lại, phá tan đi mọi xúc cảm vui tươi, sung sướng và góp phần ném trả lại
thực tại tàn khốc.
Bằng ngòi bút đầy tinh tế, nhà văn đã làm nổi bật lên phản ứng của từng
thành viên trong gia đình trước món ăn thê thảm của ngày đói này. Theo lời quảng
cáo của bà cụ Tứ, nồi chè, thực chất là cháo cám, ngon đáo để, là thức ăn mà ối
nhà còn không có, ăn vậy là ăn sang trong cái nạn đói tàn khốc này. Khác với lời
quảng cáo, hãy nhìn phản ứng của Tràng và Thị. Thị là nạn nhân của cái đói, sống
vật vờ và lay lắt qua ngày, có gì là Thị chưa trải trong đại nạn này. Cho nên, ngay
khi nhận bát cháo cám, Thị hiểu ngay ra bao điều. Có rất nhiều điều ta sáng ra qua
đôi mắt tối sầm lại của Thị. Anh Tràng thì bao biểu hiện đã rõ cả trên phản ứng
khuôn mặt. Bằng thủ pháp liệt kê: “chun”, “đắng chát”, “nghẹn bứ” có thể thấy
thứ thức ăn đó nó khó nuốt như thế nào, tình cảnh người dân ngày đó cơ cực ra
sao.
Nhưng nồi cháo cám còn là dư vị đậm đà của tình thân, là sợi dây kết nối
những thành viên trong gia đình lại với nhau. Trước hết, hãy chú ý vào những chi
tiết rất nhỏ nhà văn cài vào. Là thái độ, hành động của bà cụ Tứ. Hàng loạt các
hành động miêu tả cách bà cụ đưa nồi cháo cám ra: “lật đật chạy xuống, lễ mễ,
bưng, đặt cái nồi xuống bền cạnh mẹt com, cầm cái môi, khuấy khuấy, cười...”
giống như một sự trì hoãn. Bởi bữa cơm đang vui, bà muốn nó kéo dài hơn chút
nữa. Và vì bà là người chuẩn bị bữa cơm, nên bà biết khi ăn cháo cám, cái thứ thức
ăn dành cho vật này, bao niềm vui sẽ biến mất, nên trong sự gắng gượng, bà cố
tình kéo dài thêm ra. Người mẹ ấy, bằng tình thương con, đã không nở phá đi cảm
xúc vui tươi, không khí đầm ấm này. Với người con dâu điềm nhiên vào cám vào
miệng, sau phút tối sầm lại của ưu tư, Thị đã mặc nhiên gạt đi, điềm nhiên đón
nhận bát cháo cám - bát cháo đại diện cho gia cảnh nhà chồng. Thị đã lấy chồng,
Thị đã lựa chọn, Thị thấu hiểu, Thị chấp nhận. Và cuối cùng là anh cu Tràng và vội
vào miệng, cái đắng đến từ cháo, nhung cái đắng còn đến từ ý thức trách nhiệm
của người trụ cột, của cái sĩ diện khi để vợ và mẹ phải ăn thứ thức ăn này. Cái bứ
cổ đó cho thấy cả cái trách nhiệm phải chăm lo tốt hơn cho gia đình của anh ta.
Điển hình là sau bữa ăn đó, trong đầu Tràng chỉ còn nghĩ đến hình ảnh đoàn người
phá kho thóc Nhật, hay cụ thể hơn, đó là hình ảnh bữa cơm trắng mà Tràng, sẽ
cướp được từ kho thóc Nhật, mang về cho gia đình mình. Tóm lại - nồi cháo cám,
vừa đại diện cho hiện thực tàn khốc, cho sự ám ảnh kinh hoàng, nhưng đồng thời
nó đại diện cho cả tình người. Cả Tràng, Thị hay bà cụ Tứ đều nghĩ cho người
khác khi ăn. Đó chính là tình người, là tình thân, luôn nghĩ cho nhau, cùng nhau
chống lại nạn đói, dắt díu nhau qua cơn bĩ cực này.
Chi tiết nồi cháo cám đã góp phần thể hiện bức tranh chân thực đến ám ảnh
về nạn đói năm 1945, qua đó ta thấy được sự thê lương, tình cảnh đáng thương của
những người lao động nghèo khổ. Thông qua chi tiết nồi cháo cám, ta thấy được
tiếng nói thương cảm của nhà văn trước tình cảnh đáng thương của những con
người tội nghiệp. Những thân phận bị đẩy đến chỗ cùng kiệt. Chuyện hạnh phúc
của cả đời người thì lại sơ giản đến qua quýt. Nhưng Vợ nhặt còn là tiếng nói
khẳng định đề cao hạnh phúc gia đình, dù đói khổ nhưng luôn hướng tới tổ ấm gia
đình. Hạnh phúc gia đình làm cho con người thay đổi, trở nên tốt đẹp hơn. Và cuối
cùng, tác phẩm khắng định đề cao khát vọng sống, niềm hi vọng, niềm tin vào cuộc
sống, vào tương lai. Trong đói khổ, vẫn lấp lánh niềm hi vọng, không bị hiện thực
chôn vùi mà bụng cháy mãnh hệt hơn.
Có thể nói rằng, hình ảnh nồi cháo cám đã để lại những ấn tượng đậm nét
trong tâm trí người đọc. Chi tiết này vừa có giá trị hiện thực lại vừa có giá trị nhân
văn, nhân đạo rất lớn. Khiến ta nhận ra rằng giữa cái kiệt cùng của đói rét và chết
chóc, vẫn có những sức mạnh giúp ta vượt lên được: là niềm tin bất diệt, lòng nhân
ái và hạnh phúc gia đình.

ĐỀ 2: Sáng hôm sau, mặt trời lên bằng con sào, Tràng mới trở dậy. Trong
người êm ái lửng lơ như người vừa ở trong giấc mơ đi ra. Việc hắn có vợ đến hôm
nay hắn vẫn còn ngỡ ngàng như không phải.
Hắn chắp hai tay sau lưng, lững thững bước ra sân. Ánh nắng buổi sáng
mùa hè sáng lóa xói vào hai con mắt còn cay sè của hắn. Hắn chớp chớp liên hồi
mấy cái, và bỗng vừa chợt nhận ra, xung quanh mình có cái gì vừa thay đổi mới
mẻ, khác lạ. Nhà cửa, sân vườn, hôm nay đều được quét tước, thu dọn sạch sẽ gọn
gàng. Mấy chiếc quần áo rách như tổ đỉa vẫn vắt khươm mươi niên ở một góc nhà
đã thấy đem ra sân hong. Hai cái ang nước vẫn để khô cong ở dưới gốc ổi đã kín
nước đầy ăm ắp. Đống rác mùn tung bành ngay lối đi đã hót sạch.
Ngoài vườn người mẹ đang lúi húi giẫy những búi cỏ mọc nham nhở. Vợ hắn
quét lại cái sân, tiếng chổi từng nhát kêu sàn sạt trên mặt đất. Cảnh tượng thật đơn
giản, bình thường nhưng đối với hắn lại rất thấm thía cảm động. Bỗng nhiên hắn
thấy hắn thương yêu gắn bó với cái nhà của hắn lạ lùng. Hắn đã có một gia đình.
Hắn sẽ cùng vợ sinh con đẻ cái ở đấy. Cái nhà như cái tổ ấm che mưa che nắng.
Một nguồn vui sướng, phấn chấn đột ngột tràn ngập trong lòng. Bây giờ hắn mới
thấy hắn nên người, hắn thấy hắn có bổn phận phải lo lắng cho vợ con sau này.
Hắn xăm xăm chạy ra giữa sân, hắn cũng muốn làm một việc gì để dự phần tu sửa
lại căn nhà....
(Trích Vợ nhặt – Kim Lân, Ngữ văn 12, tập hai. NXB Giáo dục,
2008)
Phân tích diễn biến tâm lí nhân vật Tràng trong đoạn trích trên. Từ đó, nhận xét về
ngòi bút nhân đạo của nhà văn Kim Lân.
BÀI LÀM:
Ta đã từng nghe nhà văn Kim Lân tâm sự: “Khi viết về nạn đói người ta
thường viết về sự khốn cùng và bi thảm. Khi viết về con người năm đói người ta
hay nghĩ đến những con người chỉ nghĩ đến cái chết. Tôi muốn viết một truyện
ngắn với ý khác. Trong hoàn cảnh khốn cùng, dù cận kề bên cái chết nhưng những
con người ấy không nghĩ đến cái chết mà vẫn hướng tới sự sống, vẫn hi vọng, tin
tưởng ở tương lai. Họ vẫn muốn sống, sống cho ra con người.” Những mong muốn
này đã được Kim Lân thể hiển rất thành công trong tác phẩm Vợ nhặt – một kiệt
tác truyện ngắn viết về đề tài người nông dân của ông. Người đọc đã từng biết đến
Chị Dậu, anh Pha, Lão Hạc, Chí Phèo…những hiện thân sống động của cái nghèo,
cái khổ với bao phẫn uẫn, đớn đau thì đến « Vợ nhặt », khi anh cu Tràng bước ra từ
bóng chiều chạng vạng với cái cảnh tối sầm lại vì đói ấy, ta lại nhận ra ở người
nông một vầng sáng mát lành của tình yêu thương con người, của những khát vọng
đẹp đẽ không bao giờ bị dập tắt. Đoạn trích miêu tả diễn biến tâm lí nhân vật Tràng
trong buổi sáng đầu tiên khi có vợ đã thể hiện sâu sắc ngòi bút nhân đạo của nhà
văn : « Sáng hôm sau, ….dự phần tu sửa lại căn nhà… »
Câu chuyện lấy bối cảnh là nạn đói năm 1945, cái đói tràn đến xóm ngụ cư
như một cơn lốc, gây bao cảnh tang thương chết chóc, người chết thì như ngả rạ
còn người sống cũng chỉ như những bóng ma xanh xám, dật dờ. Giữa lúc thần chết
bủa vây thì anh chàng ngờ ngệch của xóm ngụ cư lại dẫn về một người phụ nữ đói
khổlàm vợ. Tình huống đầy bất ngờ và éo le khiến mọi người trong cái xóm nghèo
xơ xác ấy lo lắng và ái ngại. Chỉ có Tràng mới đủ can đảm thực hiện hành động
liều lĩnh ấy.Và cũng chỉ khi liều lĩnh cưu mang một con người Tràng mới có cơ hội
được thấy hạnh phúc, được tận hưởng những giây phút thực sự sống trong cuộc đời
của mình. Buổi sang đầu tiên sau khi Tràng có vợ là cái mốc quan trọng đánh dấu
sự trưởng thành về nhân cách, từ đây Tràng không còn ngờ nghệch dại khờ nữa.
Đoạn trích bắt đầu bằng hình ảnh của buổi sáng quang đãng tươi tắn. « Sáng
hôm sau, mặt trời lên bằng con sào, Tràng mới trở dậy.” Đã qua một đêm Tràng có
vợ, kể từ cái buổi chiều chạng vạng nhá nhem mặt người ấy. Đất trời đã sang ngày
mới, cũng như cuộc đời Tràng đã sang trang mới sáng sủa và tràn đầy hi vọng. Có
lẽ đó là cái nhìn đầy ưu ái của Kim Lân khi dụng ý miêu tả sự vận động của thời
gian từ bóng tối đến ánh sáng. . Chí Phèo của Nam Cao cũng tỉnh rượu trong môt
buổi sáng với nắng vàng rực rỡ cùng tiếng chim ríu rít líu lo. Dường như, mỗi khi
nói đến sự thay đổi mới mẻ và tốt đẹp, các nhà văn đều chọn gắn với một buổi sớm
mai tran hòa nắng !
Ai đó từng nói : Chiếc chìa khóa mở ra năng lượng là "Khao khát". Đó cũng
là chìa khóa mở ra một cuộc đời lâu dài và thú vị. » Tràng bắt đầu trang mới trong
cuộc đời của mình với một tâm trạng rất tích cực. « Trong người êm ái lửng lơ
như người vừa ở trong giấc mơ đi ra”. Tác giả đã diễn tả rất chính xác tâm trạng
Tràng, một người đang cảm nhận vị ngọt ngào của cuộc sống hạnh phúc gia đình.
Nó đẹp đẽ như một giấc mơ, một giấc mơ mà Tràng chưa bao giờ mơ tới. Tràng
vẫn chưa thoát khỏi sự bất ngờ “Việc hắn có vợ đến hôm nay hắn vẫn còn ngỡ
ngàng như không phải.” Hạnh phúc đến với Tràng quá nhanh, chỉ trong hai lần gặp
thị, người phụ nữ không tên không tuổi, không quê hương, không gia đình, thế mà
nên vợ nên chồng. Tràng không hề chủ tâm mà sự thật đã hiện hữu, một chuyện hệ
trọng như thế lại đến với Tràng quá dễ dàng? Tràng không bất ngờ sao được?
Không hề nghĩ đến cái đói, không hề quan tâm tới tình cảnh khốn khó ở
hiện tại, Tràng vẫn điềm nhiên say hưởng những phút giây yên lành, ấm áp trong
căn nhà rúm ró, xiêu vẹo của mình. “Hắn chắp hai tay sau lưng, lững thững bước ra
sân.” Bước ra sân để đến với không gian khoáng đạt hơn, để hít thở không khí
trong lành của buổi sáng yên bình. Tràng đã không khỏi bất ngờ khi bắt gặp sự
thay đổi mới mẻ, khác lạ của căn nhà mình.
“Hắn chớp chớp liên hồi mấy cái, và bỗng vừa chợt nhận ra, xung quanh
mình có cái gì vừa thay đổi mới mẻ, khác lạ.” Đó hoàn tòa không phải là cảnh
tượng quen thuộc của một căn nhà hoang lạnh, thiếu sức sống. Tất cả đã thay đổi
tốt đẹp hơn: Nhà cửa, sân vườn, hôm nay đều được quét tước, thu dọn sạch sẽ gọn
gàng. Mấy chiếc quần áo rách như tổ đỉa vẫn vắt khươm mươi niên ở một góc nhà
đã thấy đem ra sân hong. Hai cái ang nước vẫn để khô cong ở dưới gốc ổi đã kín
nước đầy ăm ắp. Đống rác mùn tung bành ngay lối đi đã hót sạch.” Quả thực,
những điều Tràng thấy trước mắt không phải khó khăn lắm mới thay đổi được.
Nhưng vì nó trở nên không cần thiết khi mẹ con tràng chỉ coi căn nhà xiêu vẹo đó
là chỗ ngả lưng, che mưa che nắng mà thôi. Hẳn là sự thay đổi ấy đã tác động
mạnh mẽ vào tâm trí Tràng, nhen lên một khao khát đổi đời chăng?
Khi chứng kiến sự thay đổi tâm lí của Tràng, ta lại nhớ đến cái giây phút
tỉnh ngộ của Chí Phèo trong tác phẩm của Nam Cao. Tưởng như đó là sự đồng
nhất, nhưng không. Nếu Chí Phèo quan sát thấy những điều vốn dĩ vẫn diễn ra
hằng ngày: tiếng chim hót, tiếng người cười nói, tiếng anh thuyền chài gõ mái chèo
đuổi cá, vẫn là những âm thanh từ xa vọng lại, thì Tràng lại tận mục sở thị sự thay
đổi từ chính cuộc sống của mình, rất gần, đó là những điều Tràng chưa từng thấy
trong căn nhà của mình. Khác với sự thức tỉnh phần người trong Chí, tâm lí của
Tràng là tâm lí của một người ngờ nghệch bỗng trưởng thành, sự quan sát trở nên
kĩ lưỡng và tỉ mỉ hơn. Tức là Tràng đã chú ý quan sát, chú ý cảm nhận, điều mà
trước đây Tràng không mấy quan tâm. Nhà văn Kim Lân đã rất tin tưởng vào sức
mạnh của tình yêu thương, sức mạnh của khát vọng hạnh phúc, nó như một thứ
thuốc bồi bổ tâm hồn con người, khiến cho con người trở nên tinh nhạy và trưởng
thành hơn.
“ Khát khao sẽ hình thành ý chí. Ý chí sẽ hình thành hành động. Hành động
sẽ hình thành vận mệnh. » Quả thực vậy, Tràng đã trở thành một con người trưởng
thành thực thụ từ cái cách mà Tràng quan sát những người thân làm việc « Ngoài
vườn người mẹ đang lúi húi giẫy những búi cỏ mọc nham nhở. Vợ hắn quét lại cái
sân, tiếng chổi từng nhát kêu sàn sạt trên mặt đất.Cảnh tượng thật đơn giản, bình
thường nhưng đối với hắn lại rất thấm thía cảm động.” Thấm thía cảm động bởi đó
là những hình ảnh của một cuộc sống gia đình đúng nghĩa: yên bình, đầm ấm, và
gắn bó. Mỗi thành viên đang cố gắng cải thiện không gian sống,với một mong
muốn dọn dẹp nhà cửa cho quang quẻ sạch sẽ thì tương lai sẽ tốt đẹp hơn”. Chưa
biết tương lai thế nào nhưng hiện tại trước mắt Tràng là những điều mới mẻ tốt
đẹp: một căn nhà gọn gàng, sạch sẽ, một gia đình với mẹ già nhân hậu và người vợ
đảm đang, chăm chỉ. Điều đó đã tác động mạnh mẽ vào tình cảm của Tràng: “ Hắn
thấy hắn thương yêu gắn bó với cái nhà của hắn lạ lùng”. Quả đúng là lạ lùng, bởi
dẫu sao với người dân xóm ngụ cư thì căn nhà chỉ là nơi tạm bợ qua ngày, vậy mà
Tràng lại thương yêu và gắn bó với nó.
Chỉ có thể là bởi căn nhà đó đã có thị, chính sự hiện diện của thị đã khiến
căn nhà trở nên ý nghĩa và nhiều sinh khí. Tràng nhận thức được hạnh phúc mình
đang có, đó là một gia đình”. So với Chí thì Tràng may mắn hơn rất nhiều, bởi với
Chí, gia đình chỉ là một mơ ước xa vời: “Giá cứ thế này mãi thì thích nhỉ?” “Hay là
mình sang ở với tớ một nhà cho vui?”. Hạnh phúc của Tràng đang ở hiện tại , còn
tương lai thì …rất gần: “Hắn sẽ cùng vợ sinh con đẻ cái ở đấy. Cái nhà như cái tổ
ấm che mưa che nắng.” Nhà văn Kim Lân đã miêu tả thật tỉ mỉ, chi tiết từng
chuyển biến nhỏ trong suy nghĩ của nhân vật Tràng như một nỗ lực đi đến tận cùng
nỗi niềm tâm trạng của nhân vật.

Càng thấy được những chuyển biết tốt đẹp trong ý thức của Tràng, độc giả
càng thấy được sức mạnh to lớn của tình người, sức mạnh của những khát khao
bình dị, chính nó là đôi cánh nâng đỡ con người vượt thoát khỏi tối tắm, khổ ải.
Tràng đã thực sự thăng hoa trong cảm xúc hạnh phúc: “Một nguồn vui sướng,
phấn chấn đột ngột tràn ngập trong lòng.” Và trưởng thành về nhận thức: “Bây giờ
hắn mới thấy hắn nên người, hắn thấy hắn có bổn phận phải lo lắng cho vợ con sau
này.” Trong trí óc Tràng lúc này không có chỗ cho nỗi sợ hãi cái đói, cái chết.
Dường như khát vọng có một mái ấm gia đình, khát vọng được hạnh phúc đã khai
sáng trí tuệ Tràng, không phải là sự tỉnh thức mà là sự phát triển trở nên khôn
ngoan hơn, “người lớn” hơn ở Tràng. Tận hưởng niềm hạnh phúc và gắn với ý
thức trách nhiệm, bổn phận phải thu vén cho gia đình, cho vợ con là điều không
phải người khôn ngoan nào cũng nghĩ được. Có lẽ, biết điều này, bà cụ Tứ có thể
yên tâm mà nhắm mắt, bởi Tràng đã biết tự lo cho cuộc sống của mình.
Không chỉ dừng lại ở suy nghĩ, niềm phấn chấn, hân hoan khiến Tràng
không thể đứng yên. Chẳng còn cái vẻ lững thững, chắp tay sau lưng ngắm nhìn
nữa mà: “ Hắn xăm xăm chạy ra giữa sân, hắn cũng muốn làm một việc gì để dự
phần tu sửa lại căn nhà....”. Căn nhà phải trở nên hoàn hảo, theo cách Tràng nghĩ,
để bắt đầu cho một tương lai tốt đẹp. Muốn có được hạnh phúc, phải bắt tay hành
động, phải có sự góp sức của các thành viên. Đó là ý thức tự giác của một con
người nhận ra giá trị của những gì mình đang có. Không chỉ tận hưởng mà còn
phải xây đắp và bảo vệ giữ gìn nó. Nhà văn Kim Lân đã rất tin tưởng rằng tình
người, khát vọng hạnh phúc sẽ giúp con người hoàn thiện mình hơn, cũng như
Nam Cao tin tưởng tình người sẽ cảm hóa Chí vậy.
Trong tiểu thuyết nổi tiếng “Thép đã tôi thế đấy”, nhà văn Nga Nhicôlai
Oxtrôpxki đã để cho nhân vật Paven Coocsaghin ngẫm nghĩ: "Hãy biết sống cả
những khi cuộc đời trở nên không thể chịu được nữa". Nhân vật Tràng của Vợ nhặt
không nghĩ nhiều về hoàn cảnh sống, anh chỉ có một khao khát mãnh liệt biến cuộc
sống hiện tại trở nên tốt đẹp hơn, dù thực sự anh chưa biết phải làm bằng cách nào,
làm như thế nào. Chỉ cái tinh thần “xăm xăm” đầy háo hức ấy đã đủ thấy cái nhiệt
huyết đang trào dâng ở Tràng. Người nông dân trong cái nhìn của Kim Lân thật
mộc mạc, giản dị, nhưng là cái mộc mạc thanh cao, không bần hàn, không rẻ rúng,
dù cuộc đời có cố dập vùi đến đâu. Nhà văn luôn yêu thương trân trọng từng nếp
sống, nếp nghĩ thuần hậu, chân quê ấy. Kim Lân không chỉ có cái nhìn cảm thông
chia sẻ với nỗi khổ cực của người nông dân; mà ông còn muốn giúp họ nhận ra
con đường hoàn thiện nhân cách là tình người và khát vọng được hạnh phúc, được
bình yên. Và ông luôn tin tưởng một điều rằng: họ có thể nghèo đói đến quay quắt,
nhưng tấm lòng nhân hậu, bao dung và khát vọng hạnh phúc mãnh liệt sẽ dẫn
đường cho họ vượt qua tất cả.
Kết bài
Có ý kiến cho rằng “Nghệ thuật miêu tả tâm lí con người là thước đo tài năng
người nghệ sĩ”. Thực sự Kim Lân rất tài tình trong việc tái hiện một cách sinh
động diễn biến tâm lí của nhân vật Tràng trong buổi sáng đầu tiên khi có vợ. Qua
đoạn trích, độc giả không chỉ thấy vẻ đẹp tâm hồn của Tràng nói riêng, của người
lao động nghèo nói chung mà còn thấm thía nhiều thông điệp ý nghĩa. Đọc “Vợ
nhặt”, ta không chỉ xót xa trước những phận đời khổ cực mà hơn hết là một nỗi
niềm trân trọng, thương yêu những con người lao động thuần hậu, mà giàu nghị
lực. Càng yêu mến nhân vật ta càng biết trân trọng hơn cuộc sống của bản thân
mình!

ĐỀ 3: Trong truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân có đoạn:


… Bà lão cúi đầu nín lặng. Bà lão hiểu rồi. Lòng người mẹ nghèo khổ ấy còn
hiểu ra biết bao nhiêu cơ sự, vừa ai oán vừa xót thương cho số kiếp đứa con mình.
Chao ôi, người ta dựng vợ gả chồng cho con là lúc trong nhà ăn nên làm nổi,
những mong sinh con đẻ cái mở mặt sau này. Còn mình thì… Trong kẽ mắt kèm
nhèm của bà rỉ xuống hai dòng nước mắt… Biết rằng chúng nó có nuôi nổi nhau
sống qua được cơn đói khát này không.
Bà lão khẽ thở dài ngửng lên, đăm đăm nhìn người đàn bà. Thị cúi mặt
xuống, tay vân vê tà áo đã rách bợt. Bà lão nhìn thị và bà nghĩ: Người ta có gặp
bước khó khăn, đói khổ này, người ta mới lấy đến con mình. Mà con mình mới có
vợ được… Thôi thì bổn phận bà là mẹ, bà đã chẳng lo lắng được cho con… May
ra mà qua khỏi được cái tao đoạn này thì thằng con bà cũng có vợ, nó yên bề nó,
chẳng may ra ông giời bắt chết cũng phải chịu chứ biết thế nào mà lo cho hết được
?
Bà lão khẽ dặng hắng một tiếng, nhẹ nhàng nói với “nàng dâu mới” :
- Ừ, thôi thì các con đã phải duyên phải kiếp với nhau, u cũng mừng lòng…
Tràng thở đánh phào một cái, ngực nhẹ hẳn đi. Hắn ho khẽ một tiếng, bước
từng bước dài ra sân. Bà cụ Tứ vẫn từ tốn tiếp lời:
- Nhà ta thì nghèo con ạ. Vợ chồng chúng mày liệu mà bảo nhau làm ăn. Rồi
ra may mà ông giời cho khá… Biết thế nào hở con, ai giàu ba họ, ai khó ba đời ?
Có ra thì rồi con cái chúng mày về sau”.
Bà lão đăm đăm nhìn ra ngoài. Bóng tối trùm lấy hai con mắt. Ngoài xa dòng sông
sáng trắng uốn khúc trong cánh đồng tối. Mùi đốt đống rấm ở những nhà có người
chết theo gió thoảng vào khét lẹt. Bà lão thở nhẹ ra một hơi dài. Bà lão nghĩ đến
ông lão, nghĩ đến đưa con gái út. Bà lão nghĩ đến cuộc đời cực khổ dài dằng dặc
của mình. Vợ chồng chúng nó lấy nhau, cuộc đời chúng nó liệu có hơn bố mẹ trước
kia không?...
Con ngồi xuống đây. Ngồi xuống đây cho đỡ mỏi chân.
Bà lão nhìn người đàn bà, lòng đầy thương xót.Nó bây giờ là dâu là con trong nhà
rồi. Người đàn bà khẽ nhúc nhích, thị vẫn khép nép đứng nguyên chỗ cũ. Bà lão hạ
thấp giọng xuống thân mật:
Kể ra làm được dăm ba mâm thì phải đấy, nhưng nhà mình nghèo, cũng chả ai
người ta chấp nhặt chi cái lúc này. Cốt làm sao chúng mày hòa thuận là u mừng
rồi. Năm nay thì đói to đấy. Chúng mày lấy nhau lúc này, u thương quá…
Bà cụ nghẹn lời không nói được nữa, nước mắt cứ chảy xuống ròng ròng.
(Trích Vợ nhặt, Kim Lân, Ngữ văn 12, Tập hai, NXB Giáo dục, 2013,tr 28-29)

Cảm nhận của anh/chị về tâm trạng của nhân vật bà cụ Tứ trong đoạn trích
trên. Từ đó, rút ra nhận xét tấm lòng nhân đạo của nhà văn Kim Lân trong tác
phẩm.
BÀI LÀM:
Tôi may mắn không phải sinh ra trong thời khắc đen tối nhất của lịch sử dân
tộc, khi mà nạn đói tràn đến đã cướp đi sinh mạng của hơn hai triệu người dân trên
đất nước. Tôi cũng may mắn không phải chân lấm tay bùn trong kiếp đời nông dân
khổ cực. Nhưng mỗi lần đọc “Vợ nhặt” của nhà văn Kim Lân tôi như thấy mình
đang sống với biết bao nỗi sợ hãi, xót thương, nỗi buồn lo khắc khoải cùng những
con người lao động đói khổ mà nặng tình nặng nghĩa. Tôi vẫn luôn nhớ một anh cu
Tràng ngờ nghệch mà tốt bụng, một chị con dâu đói rách nhiều khát khao và đặc
biệt, tôi cứ ấn tượng mãi với hình ảnh bà cụ Tứ - một người mẹ nghèo khổ mà
nhân hậu vô cùng. Dường như, bao nhiêu tình cảm yêu thương, trân trọng, nhà văn
đều gửi gắm vào nhân vật bà cụ Tứ qua những đoạn diễn tả tâm trạng đầy xúc
động. Sau đây là một đoạn trích tiêu biểu:
“ Bà cụ cúi đầu nín lặng… nước mắt chảy xuống ròng ròng”
“Khi viết về nạn đói người ta thường viết về sự khốn cùng và bi thảm. Khi
viết về con người năm đói người ta hay nghĩ đến những con người chỉ nghĩ đến cái
chết.” Kim Lân chọn lối đi riêng cho mình. Với ông, nan đói thê thảm năm Ất Dậu
trở thành một phép thử cho nhân cách con người. Trong tình huống nhặt vợ đầy éo
le ngang trái của anh cu Tràng, những tưởng, câu chuyện sẽ chỉ là những buồn đau
u ám, những lo lắng hoang mang, nhưng qua ngòi bút nhân đạo của nhà văn, độc
giả cảm nhận niềm vui, niềm hạnh phúc cứ len lỏi và dần chế ngự trong tâm hồn
những con người khốn khổ. Bà cụ Tứ - người mẹ nghèo khó già nua, khổ hạnh với
dáng người lọng khọng xuất hiện cuối cùng trong câu chuyện không phải với dụng
ý làm tăng kịch tính mà trái lại, bà như một thứ phao cứu sinh, một cái cọc neo để
hai đứa con tội nghiệp đang hoang mang kia bấu víu. Sau những giây phút ngạc
nhiên ngỡ ngàng, bà cụ Tứ đã mở lòng đón nhận nàng dâu mới đầy ấm áp, yêu
thương mặc cho thần chết đang thét gào thịnh nộ.
Mở đầu đoạn trích là tâm trạng ai oán xót thương của bà cụ Tứ khi đón nhận
một tin bất ngờ: Tràng có vợ. Phải đợi đến lúc Tràng phân trần rành mạch “Nhà tôi
nó về làm bạn với tôi đấy u ạ! Chúng tôi phải duyên phải kiếp với nhau…Chẳng
qua nó cũng là cái số cả.” bà cụ Tứ mới hiểu ra một điều mà đến những đứa trẻ con
cũng nhận ra ngay từ đầu ngõ khi nhìn thấy Tràng dẫn thị về. “Con bà có vợ” –
một tin đầy bất ngờ, và thật trớ trêu. Tràng là đứa con duy nhất bên bà, đứa con
ngờ nghệch, vừa xấu xí lại thuộc thành phần dân xóm ngụ cư luôn bị coi rẻ, bị miệt
thị, nay bỗng dưng có vợ một cách quá dễ dàng. Bà phải vui chứ? Nhưng thật sự bà
không thể vui mừng vào lúc này, khi cái đói đã tràn về, khắp không gian chỉ thấy
mùi của chết chóc: những thây ma nằm còng queo bên đường, tiếng hờ khóc, tiếng
quạ réo lên từng hồi thê thiết, rồi mùi ẩm mốc của rác rưởi và mùi gây của xác
người.
Cũng như bao con người khốn khổ khác, bà không thể không nghĩ đến cái
chết: “Bà lão cúi đầu nín lặng”. Một cử chỉ nói lên biết bao nỗi niềm đau đớn xót
xa của người mẹ. “Cúi đầu” không chỉ thể hiện sự bế tắc trong tâm trạng, sự trốn
tránh thực tại mà còn là giây phút bà tự vấn lòng mình, một nỗi niềm bà không thể
thổ lộ hay chia sẻ cùng ai và cũng không muốn ai nhìn thấy, không muốn ai chứng
kiến nỗi tủi hờn của mình. Giống như cái phút đứng lặng trong bóng tối của Mị
(Vợ chồng A Phủ - Tô Hoài), cái cúi đầu nín lặng của bà cụ Tứ là những giây phút
nhận thức về sự sống và cái chết. Không phải nghĩ về sự sống của bản thân mình,
mà bà “hiểu ra biết bao nhiêu cơ sự, vừa ai oán xót thương cho số kiếp đứa con
mình.” Nhà văn đã dùng rất chính xác từ “ai oán”, xót thương” để diễn tả tâm trạng
của bà cụ lúc này. Rất chân thật. Lòng bà lão nghèo khổ oán trách số phận hẩm
hiu, tạo hóa trêu ngươi, để con bà có được vợ vào đúng lúc đói khổ quay quắt thế
này. Oán trách bao nhiêu thì xót xa cho số kiếp của con mình bấy nhiêu. Nó thua
thiệt đủ đường. “Người ta dựng vợ gả chồng cho con là lúc trong nhà ăn nên làm
nổi. Còn mình thì…” Lòng người cha người mẹ nào mà chẳng muốn sắm sanh cho
con một đám cưới đàng hoàng, tươm tất để mở mày mở mặt với xóm làng? Bà lão
cũng vậy, chẳng nhiều nhặn gì thì giá như có thể làm răm ba mâm đãi làng và
mừng cho hạnh phúc to lớn của con bà thì tốt biết mấy. Tràng sẽ được an ủi mà
lòng người mẹ cũng không phải áy náy, day dứt. Câu văn bỏ lửng trong xúc cảm
nghẹn ngào, chua xót khơi gợi bao nỗi đồng cảm sẻ chia của người đọc: “Còn
mình thì…”.
Cuộc sống tối tăm, bế tắc khiến người mẹ ấy chẳng còn biết làm gì để giúp
đỡ con. Đến giọt nước mắt xót thương cũng khô cạn trong kẽ mắt kèm nhèm của
bà cụ. Hình dung khuôn mặt khắc khổ của bà cụ, người đọc lại nghĩ đến hình ảnh
Lão Hạc khóc thương cho cậu Vàng, khóc thương cho số kiếp của mình: “ Mặt lão
đột nhiên co rúm lại. Những nếp nhăn xô lại với nhau, ép cho nước mắt chảy ra”.
Thật ám ảnh!
Tuy nhiên, cái cách bà cụ Tứ khóc thật lặng thầm và tế nhị, bà lão không để
người phụ nữ khốn khổ kia biết được. Vẫn cúi đầu kìm nén cảm xúc tiêu cực, bà
lão đơn độc với bao nhiêu buồn lo, sợ hãi “Biết rằng chúng nó có nuôi nổi nhau
sống qua được cơn đói khát này không.” Người mẹ đáng thương ấy luôn hiểu mọi
phản ứng tiêu cực của mình sẽ chỉ khơi thêm những tủi hờn cho con trai và người
đàn bà kia mà thôi. Bởi vậy mà sau phút trấn an tinh thần, bà lão “khẽ thở dài
ngửng lên”, đối diện với sự đã rồi. Bà lão “đăm đăm nhìn người đàn bà”. Đó hoàn
toàn không phải là cái nhìn soi mói, cái nhìn xét nét hành vi của người khác, trái
lại, bà nhìn thấu suốt cả cuộc đời người đàn bà trước mặt với tấm lòng cảm thông
chia sẻ đầy nhân hậu. “Bà lão nhìn thị và bà nghĩ: Người ta có gặp bước khó khăn,
đói khổ này, người ta mới lấy đến con mình. Mà con mình mới có vợ được…” Đó
là suy nghĩ của một con người nhận thức rõ may mắn của con trai mình, nhận thức
rõ tình cảnh đáng thương của thị và hơn hết, đó là tấm lòng bao dung, thương
người như thể thương thân của bà cụ. Cũng lo lắng lắm, nhưng cố gắng chắt chiu
lấy niềm vui, niềm hi vọng dẫu mong manh để sống: “Thôi thì bổn phận bà là mẹ,
bà đã chẳng lo lắng được cho con… May ra mà qua khỏi được cái tao đoạn này thì
thằng con bà cũng có vợ, nó yên bề nó, chẳng may ra ông giời bắt chết cũng phải
chịu chứ biết thế nào mà lo cho hết được?”.
Mỗi câu độc thoạt nội tâm của bà cụ đều chất chứa một nỗi chua xót đắng
cay, một sự bế tắc nhưng vẫn luôn thấm đượm tình người. Xem cách bà cụ phản
ứng với tin Tràng có vợ, độc giả càng thấm thía vẻ đẹp của nếp sống, nếp suy nghĩ
nặng tình nặng nghĩa của những con người dân quê mộc mạc. Khác hẳn với suy
nghĩ đầy định kiến của bà cô thị Nở khi đón nhận tin cháu gái bà muốn lấy Chí
Phèo. Không có một sự cảm thông chia sẻ, trong lời lẽ của bà cô chỉ có những lời
thóa mạ, miệt thị tàn nhẫn trút lên đầu Chí. Giá như, người cô ấy có chỉ một chút
thôi sự tế nhị, sự thấu hiểu và cảm thông thì hẳn Chí Phèo đã được nhận về với xã
hội loài người. Thế mới biết, chỉ có tấm lòng người mẹ thương con, chỉ có tình
người ấm áp mới đủ bao dung mở lòng cưu mang những kiếp người bên bờ vực
của tuyệt vọng như thị. Và có bị thử thách trong hoàn cảnh bĩ cực ấy, ta mới thấy
cái nhìn đầy tin yêu của nhà văn dành cho những con người lao động lam lũ.
Từ sự cảm thông, thấu hiểu trong suy nghĩ, bà lão thấy cần phải an ủi con,
bởi chúng không có lỗi. Chúng thật đáng thương và tội nghiệp! Dù cất lời lên lúc
này cũng thgật khó lắm thay! Bà lão khẽ dặng hắng một tiếng, và “nhẹ nhàng nói
với “nàng dâu mới””: “ Ừ, thôi thì các con đã phải duyên phải kiếp với nhau, u
cũng mừng lòng…”. Một câu nói ngắn gọn mà giá trị vô cùng! Ngạn ngữ Nhật có
câu: “ Một lời nói thiện ý có thể sưởi ấm cả ba tháng mùa đông”. Lời nói của bà cụ
Tứ cũng vậy, đó không phải chỉ là lời nói chấp nhận nàng dâu mới giải tỏa tâm lí
căng thẳng, thấp thỏm lo âu, đem đến niềm hạnh phúc ngập tràn cho Tràng mà còn
hướng đên sự đồng cảm, bênh vực nàng dâu mới, khiến thị không còn thấy ngượng
ngùng bởi hành động đường đột của mình. Tất cả là do duyên số, chứ không phải
vì miếng ăn! Và điều đặc biệt là bà lão cũng bộc lộ tâm trạng của mình trong câu
nói “u cũng mừng lòng”. Bà cụ sẽ khiến thị hiểu rằng, dù sao sự xuất hiện của thị
trong căn nhà rúm ró, xiêu vẹo cũng đem đến nguồn vui sống cho người mẹ già
nua ấy. Chỉ tiếc rằng niềm vui sướng không thể vút lên giữa cảnh chết chóc tang
thương này, đúng là chỉ có thể “mừng lòng” – một nguồn hạnh phúc trào lên từ đáy
lòng mà bị kìm hãm bởi ngoại cảnh, không thổ lộ ra bằng nụ cười mãn nguyện
được. Đằng sau cái “mừng lòng” còn bao ai oán đang chờ đợi phía trước. Kim Lân
đã sử dụng từ ngữ thật chính xác và tinh tế khi diễn tả tâm lí phức tạp, éo le vừa
mừng vừa tủi của bà cụ.
Người mẹ nghèo ấy không chỉ chấp nhận nang dâu mà còn ngay sau đó, an
ủi động viên để thị không còn thấy mình xa lạ nữa. bà cụ phân trần về gia cảnh:
“Nhà ta thì nghèo con ạ.” Khuyên bảo con tu chí làm ăn “ Vợ chồng chúng mày
liệu mà bảo nhau làm ăn.” Và nhen nhóm trong các con niềm tin tưởng, lạc quan
vào tương lai phía trước. “ Rồi ra may mà ông giời cho khá… Biết thế nào hở con,
ai giàu ba họ, ai khó ba đời ? Có ra thì rồi con cái chúng mày về sau”. Động viên
an ủi con suy nghĩ lạc quan để sống nhưng mỗi lời nói đều hàm chứa sự hoài nghi
“may mà” biết thế nào, có ra thì…, một viễn cảnh mơ hồ mà bà hiểu chỉ có thể phó
mặc cho may rủi. Trước mắt bà là bóng tối bao trùm, là tương lai mờ mịt “Vợ
chồng chúng nó lấy nhau, cuộc đời chúng nó liệu có hơn bố mẹ trước kia
không?...”
Từ suy nghĩ, lời nói đến cử chỉ, hành động của bà cụ Tứ đều cho thấy sự
nhân hậu bao dung. Bà lão đang cố gắng kéo gần khoảng cách giữa người con dâu
tội nghiệp với mình: “Con ngồi xuống đây. Ngồi xuống đây cho đỡ mỏi chân.” Bà
có thêm bổn phận phải lo lắng, yêu thương người đàn bà đói rách ấy, bởi “nó bây
giờ là dâu là con trong nhà rồi.”
Kim Lân sử dụng liên tiếp các từ ngữ bộc lộ cảm xúc “lòng đầy thương xót”
“mừng”, “thương quá”… khiến lời nói của bà cụ càng thêm tình cảm, xúc động.
Hẳn rằng, người con dâu sẽ cảm thấy mình thật may mắn khi có một người mẹ
chồng nhân hậu, có một gia đình yêu thương gắn bó. Sự nhân hậu của bà cho thị
thấy cuộc đời còn đáng sống, giá trị của bản thân còn được nhìn nhận. Sống trong
tình người, con người sẽ trở nên mạnh mẽ hơn!
Nhưng trong tâm trạng rối bời, bà cụ Tứ vẫn không thể xua tan được bóng
mây đen đặc của chết chóc đang trùm lên tổ ấm gia đình bà. Bà vẫn phải nhắc các
con về nạn đói bởi nó là hiện thực rất gần, bà cũng có nhu cầu bộc lộ tình cảm yêu
thương các con “Chúng mày lấy nhau lúc này u thương quá”…Bà muốn nói thật
nhiều, nhưng nghẹn ngào không nói được nữa, “nước mắt cứ chảy xuống ròng
ròng.” Lại một lần nữa bà khóc. Nhưng lần này, giọt nước mắt cứ mặc sức tuôn
rơi, bởi đó là giọt nước mắt của tình yêu thương, không cần ngăn lại. Giọt nước
mắt chảy xuống có thể xoa dịu những phiền lo, có thể khiến thị hiểu mình được
yêu thương và vì thế mà gắn bó hơn với các thành viên trong gia đình. Yêu thương
vô điều kiện, thị nhanh chóng trở thành một phần cuộc sống của bà cụ. Khóc cho
mình, khóc cho người và rồi bà sẽ lại khóc nữa cho tương lai mờ mịt của các con.
Trong hoàn cảnh ấy, giọt nước mắt là vũ khí duy nhất của người nông dân chống
lại số phận.
Từng sinh ra từ đồng ruộng với xuất thân bần cố nông, Kim Lân thấu hiểu
những vất vả khổ cực, những nỗi tủi hờn cay đắng của người lao động nghèo và
đặc biệt, ông thấu hiểu vẻ đẹp tâm hồn những con người quê mùa lam lũ ấy. Bà cụ
Tứ già nua khắc khổ mà có cách hành xử đầy nhân văn. Trong đói khổ, bà luôn
hướng đến sự sống, luôn nghĩ về những điều tốt đẹp sẽ đến dù là mong manh và
hoài nghi… Đề cao và ngợi ca những nét đẹp trong tâm hồn người lao động nghèo
như bà cụ Tứ, như Tràng, thị… cũng là một cách thể hiện tấm lòng tri ân, thể hiện
sự trân trọng yêu thương của Kim Lân dành cho họ. Cái nôi làng quê đã cho ông
nguồn tư liệu và nguồn cảm hứng dồi dào trong sáng tác. Tình cảnh đất nước năm
1945 trở thành phông nền cho tình người ngời sáng. Với giọng kể chuyện thân
tình, gần gũi, tấm lòng nhân đạo của Kim Lân không chỉ thể hiện qua nỗi xót
thương cho số phận người nông dân mà còn gửi gắm qua hình ảnh bà cụ Tứ một
niềm tin mãnh liệt vào sức mạnh của tình người. Nếu bát cháo hành của thị Nở có
thể kéo Chí từ con quỷ dữ về với xã hội loài người thì chính sự cưu mang nhân từ
của bà cụ Tứ đã cứu vớt cả cuộc đời thị. Quả thực, trong xã hội này, chỉ có tình
người mới làm nên điều kì diệu trong cuộc sống.
Bằng cái nhìn đầy nhân hậu của con người “một lòng đi về với đất”, với
“thuần hậu nguyên thủy”, qua đoạn trích, Kim Lân đã khắc họa diễn biến tâm lý
nhân vật bà cụ Tứ thật chân thực, tỉ mỉ mà sâu sắc, Qua đó, tác giả làm nổi bật vẻ
đẹp tâm hồn nhân hậu, bao dung, giàu lòng nhân ái, thương con vô hạn, hết lòng
vun đắp cho các con được hạnh phúc của Bà cụ Tứ - một hình mẫu tiêu biểu cho vẻ
đẹp người mẹ Việt Nam. Nhân vật cũng góp phần thể hiện rõ cái nhìn đầy nhân ái
của nhà văn về con người: “Trong hoàn cảnh khốn cùng, dù cận kề bên cái chết
nhưng những con người ấy không nghĩ đến cái chết mà vẫn hướng tới sự sống, vẫn
hi vọng, tin tưởng ở tương lai. Họ vẫn muốn sống, sống cho ra con người”. Có lẽ,
chính thông điệp ý nghĩa ấy đã làm nên giá trị lâu bền cho kiệt tác này!

ĐỀ 4: Xây dựng nhân vật bà cụ Tứ, nhà văn Kim Lân đã để chi tiết dòng nước mắt
xuất hiện hai lần trong buổi chiều nhập nhoạng.
Lần đầu: Bà lão cúi đầu nín lặng. Bà lão hiểu rồi. Lòng người mẹ nghèo khổ ấy
còn hiểu ra biết bao nhiêu cơ sự, vừa ai oán vừa xót thương cho số kiếp đưa con
mình. Chao ôi, người ta dựng vợ gả chồng cho con là lúc trong nhà ăn nên làm
nổi, những mong sinh con đẻ cái mở mặt sau này. Còn mình thì... Trong kẽ mắt
kèm nhèm của bà rỉ xuống hai dòng nước mắt... Biết rằng chúng nó có nuôi nổi
nhau sống qua được cơn đói khát này không?
Lần thứ hai: Kể có ra làm được dăm ba mâm thì phải đấy, nhưng nhà mình
nghèo, cũng chả ai người ta chấp nhặt chi cái lúc này. Cốt làm sao chúng mày hòa
thuận là u mừng rồi. Năm nay thì đói to đấy. Chúng mày lấy nhau lúc này, u
thương quá... Bà cụ nghẹn lời không nói được nữa, nước mắt cứ chảy xuống ròng
ròng.”
Qua việc cảm nhận chi tiết trên, hãy bàn luận vẻ đẹp tình mẫu tử qua hình tượng
bà cụ Tứ.
BÀI LÀM:
Những năm tháng trước cách mạng tháng Tám, số phận người nông dân trong
trang viết của các nhà văn khốn khổ đến mức tột cùng. Ở Ngô Tất Tố, ta bắt gặp chị Dậu
với bầu trời tăm tối, ở Nguyễn Công Hoan là tình cảnh cho vay lấy lãi nặng nề. Còn đến
Kim Lân, sau nỗi đau của ông Hai, nhà văn lại tìm về với nạn đói 1945 với truyện ngắn Vợ
nhặt. Trong tác phẩm này, nhà văn của nông dân không chỉ thành công ở việc xây dựng
tình huống truyện độc đáo mà còn có biệt tài trong việc xây dựng các chi tiết truyện đặc
sắc. Trong đó, chi tiết miêu tả giọt nước mắt của bà cụ Tứ khi Tràng đưa cô vợ nhặt về
nhà giới thiệu là một chi tiết tiêu biểu, góp phần làm nên thành công lớn cho tác phẩm.
Kim Lân là nhà văn một lòng đi về với “đất” với “người” với “thuần hậu
nguyên thủy” của cuộc sống nông thôn. Hay nói cách khác, nhà văn Kim Lân là
một trong những cây bút truyện ngắn xuất sắc nhất của nền văn học Việt Nam
đương đại, là người đã viết những trang hay nhất về làng quê bằng cả lòng yêu
thương, sự gắn bó và trái tim hết mực chân thành. Tác phẩm Vợ nhặt nằm trong tập
Con chó xấu xí (1962). Tiền thân của truyện ngắn này là tiểu thuyết Xóm ngụ cư -
được viết ngay sau Cách mạng tháng Tám nhưng dang dở và thất lạc bản thảo. Sau
khi hòa bình lặp lại (1954), ông dựa vào một phần cốt truyện cũ để viết truyện
ngắn này.
Truyện ngắn Vợ nhặt được đặt trong bối cảnh nạn đói thê thảm năm 1945
với trên hai triệu đồng bào nước ta bị chết đói. Trong cái chết bủa vây ấy, Tràng
dẫn cô vợ về nhà ra mắt mẹ. Sự kiện này làm xáo động cả vùng quê, cả xóm ngụ
cư nghèo khổ. Họ ngạc nhiên vì trong thời buổi đói khát này, Tràng lại liều mạng
nước thêm một miệng ăn.
Bà cụ Tứ là mẹ của Tràng, người phụ nữ đã mất chồng, chịu cảnh “mẹ góa,
con côi”. Bà hiện lên qua cái dáng lom khom, là dáng hình của một người đã lớn
tuổi, cái lưng còng như đã hứng chịu cả một đời gió sương, hơn nữa, lom khom
còn vẽ lên cái dáng hình gầy guộc), tiếng ho hung hăng thể hiện sự ốm yếu, cái đặc
trưng của người già và miệng thì lầm bầm tính toán, có lẽ cả đời bà, vì không còn
chồng, nên chẳng phút thảnh thơi, phải lo chắt chiu, ki cóp, phải lo từng đồng, từng
bữa, và tội nghiệp thay, đến cả lúc già cả, gần đất xa trời, cái toan tính vẫn chẳng
thể bỏ được, cái khốn khổ, trách nhiệm đã đeo đẳng cả cuộc đời bà.
Chi tiết miêu tả giọt nước mắt thứ nhất của bà cụ Tứ ở phần giữa của tác
phẩm, khi anh Tràng đưa thị về ra mắt bà Tứ là một chi tiết nhỏ nhưng lại có sức
ám ảnh và lay động người đọc. Khi hiểu ra, người mẹ nhạy cảm nhận ra cảnh bi hài
của câu chuyện, để rồi nỗi tủi thân đã hóa thành nước mắt “trong kẽ mắt kèm nhèm
của bà rỉ xuống hai dòng nước mắt”. “Kẽ mắt kèm nhèm” là sự hiện hình của một
bức chân dung đầy khổ hạnh của người phụ nữ nông dân lớn tuổi: “Bà lão cúi đầu
nín lặng. Bà lão hiểu rồi. Lòng người mẹ nghèo khổ ấy còn hiểu ra biết bao nhiêu
cơ sự, vừa ai oán vừa xót thương cho số kiếp đứa con mình. Chao ôi, người ta
dựng vợ gả chông cho con là lúc trong nhà ăn nên làm nôi, những mong sinh con
đẻ cái mở mặt sau này. Còn mình thì... Trong kẽ mắt kèm nhèm của bà rủ xuống
hai dòng nước mắt... Biết rằng chúng nó có nuôi nổi nhau sống qua được cơn đói
khát này không?”
Khi nghe Tràng giới thiệu về người vợ nhặt, bà lão chỉ cúi đầu nín lặng. Cái
nín lặng của người mẹ già đã hiểu ra bao cơ sự. Từ sự phấp phỏng, ngạc nhiên ban
đầu, bà đã hiểu được gần như đầy đủ. Từ cái cúi đầu nín lặng đến hiểu ra bao cơ sự
là cả một sự ứng xử khéo léo, bao dung mà độ lượng. Cái cúi đầu hiểu ra bao cơ sự
cũng chứng tỏ sự thấu hiểu và từng trải lẽ đời. Bà đã giải được những éo le, lạ lùng
trong ngôi nhà mình lúc bấy giờ. Là những chuyện khó nói, mà Tràng không nêu
rõ, có thể là điều mà người phụ nữ kia sẽ thấy xấu hổ khi được hỏi hoặc được nói
ra thẳng thắn. Bà hiểu ra, và bà không nỡ hỏi. Đó là trí tuệ của một người đã từng
trải, và đó là trái tim của một người mẹ vị tha, nhân hậu. Trong nó của bà cụ Tứ,
bao ngổn ngang, bối rối. Mà trong những nỗi niềm đó, có một chữ lo. Đó là cái lo
không biết chúng nó có nuôi được nhau qua cảnh khốn khó này không. Cái đói,
dường như phủ đầy trong cuộc sống, xâm lấn vào tận mỗi tế bào. Vì thế, chuyện hỉ
sự, vậy mà, người ta vẫn còn nhức nhối vì lo, vì sợ.
Trong đoạn văn miêu tả bà cụ Tứ khóc, Kim Lân đã rất tinh tế khi dùng từ
“rỉ”. Dường như bà cụ Tứ đang phải kìm nén cảm xúc của chính mình, bao nhiêu
tủi phận, cay đắng, xót xa như nghẹn lại trong lòng khiến bà không thể khóc. Hình
ảnh “giọt nước mắt” trong lần miêu tả thứ nhất của bà cụ Tứ khiến người đọc đắng
lòng bởi số kiếp nghèo khổ, khốn khó, tội nghiệp của con người. Biết bao nhiêu cơ
cực của cuộc đời đã chất chứa, dồn tụ và ứ nghẹn trong dòng nước mắt hiếm hoi, ít
ỏi ấy. Viết về hình ảnh “giọt nước mắt”, Nguyễn Khuyến trong bài Khóc Dương
Khuê cũng có câu:
“Tuổi già như hạt lệ sương
Hơi đâu ép lấy hai hàng chứa chan”
Hay Nam Cao khi miêu tả nước mắt của Lão Hạc “những vết nhăn xô lại với nhau,
ép cho nước mắt chảy ra”. Những năm tháng trải đời với biết bao cay đắng khiến
cho họ dù đau đớn nhưng cũng đã cạn khô nước mắt , chai sạn với cuộc đời nên
những dòng nước mắt chỉ là sự “rỉ” ra hiếm hoi mà thôi.
Với người phụ nữ Việt Nam thì nào đâu chỉ có việc mang nặng đẻ đau, nuôi
con trưởng thành, mà còn phải lo cho con yên bề gia thất. Cha mẹ nào chưa lo
được tấm chồng, cô vợ cho con thì chết không nhắm mắt được. Với quan niệm
truyền thống ấy, bà cụ Tứ cũng hiện lên đầy tâm sự.
Chi tiết miêu tả bà cụ Tứ khóc lần thứ hai, vẫn xuất hiện trong cuộc gặp gỡ
người con dâu. Nếu như lần miêu tả thứ nhất giọt nước mắt của bà Tứ, Kim Lân
dùng từ “rỉ” thì lần này, nhà văn lại sử dụng từ láy “ròng ròng”: “Kể có ra làm
được dăm ba mâm thì phải đấy, nhưng nhà mình nghèo, cũng chả ai người ta chấp
nhặt chỉ cái lúc này. Cốt làm sao chúng mày hòa thuận là u mừng rồi. Năm nay thì
đói to đấy. Chúng mày lấy nhau lúc này, u thương quá... Bà cụ nghẹn lời không nói
được nữa, nước mắt cứ chảy xuống ròng ròng.”
Cách khóc “ròng ròng” giống như một sự giải tỏa, gột rửa những nỗi đau,
tủi hận. Tiếng khóc lúc này không còn là sự kìm nén mà còn là sự giãi bày. Bà
khóc để sẻ chia lòng mình, để tìm được sự thông cảm từ các con. Nhưng thật đặc
biệt là lúc này anh Tràng đã đi ra ngoài, chỉ còn lại không gian riêng giữa bà Tứ và
nàng dâu. Điều này đã cho thấy bà Tứ không chỉ thương con trai, thương bản thân
mình mà còn thương người đàn bà xa lạ.
Hình ảnh dăm ba mâm cho thấy được sự chu đáo và trân trọng người con
dâu của bà cụ Tứ. Chỉ là cô gái tầm phơ tầm phào anh cu Tràng nhặt ngoài đường
ngoài chợ, nhưng bà không muốn vì thế mà cô bị rẻ rúng. Làm dăm ba mâm để cho
cô một thân phận, thế mới thấy người mẹ nghèo thật sâu sắc và tinh tế. Hình ảnh
dòng nước mắt lại xuất hiện như cả một bầu trời thương lo và trách nhiệm của
người mẹ nghèo. Bà không chỉ thương con, còn thấy mình có lỗi với con. Là mẹ,
không lo được cho con, trong xúc cảm người mẹ, thấy trào dâng niềm hờn tủi.
Bà cụ Tứ khóc nhưng cũng là người chủ động gạt đi nước mắt để sống lạc
quan, bà là điểm tựa cho hạnh phúc của đôi vợ chồng son. Bà dậy sớm cùng con
dâu thu dọn nhà cửa như để đón chào một cuộc sống mới tươi vui hơn “làm ăn có
cơ khấm khá hơn” đang mở ra ở phía trước. Có thể nói cả hai lần xuất hiện hình
ảnh dòng nước mắt, ta đều thấy vẻ đẹp bà cụ Tứ hiện lên, đó là lòng thương con vô
hạn. Bằng tài năng và tấm lòng đồng cảm sâu sắc, Kim Lân đã dựng lên hình ảnh
chân thật và cảm động về người mẹ nông dân nghèo khổ trong trận đói khủng
khiếp năm 1945. Nhân vật bà cụ Tứ được khắc họa chủ yếu qua sự vận động trong
nội tâm nhân vật. Ngoài ra, qua những lời nói, cử chỉ, hành động của nhân vật ta
cũng có thể cảm nhận được tấm lòng yêu thương con sâu sắc. Đặc biệt với chi tiết
dòng nước mắt cài vào và lặp lại, ta thấy một sự am hiểu tâm lý rất sâu và tinh của
nhà văn. Người già hay lo nghĩ, cũng hay tủi hờn, dòng nước mắt làm ta nhớ đến
cái dáng quen thuộc của những người bà, người mẹ nông thôn lam lũ mà cần cù,
một đời lo cho con, tất cả vì con.
Vợ nhặt là truyện ngắn xuất sắc nhất của Kim Lân, là tác phẩm giàu giá trị
hiện thực, nhân đạo; là bài ca về tình người ở những người nghèo khổ, ca ngợi
niềm tin bất diệt vào tương lai tươi sáng của con người. Truyện xây dựng thành
công hình tượng nhân vật bà cụ Tứ, một người mẹ nghèo khổ mà ấm áp tình
thương, niềm hi vọng, lạc quan qua cách dựng tình huống truyện và dẫn truyện độc
đáo, nhất là ngòi bút miêu tả tâm lí tinh tế, khiến các phẩm mang chất thơ cảm
động và hấp dẫn.

ĐỀ 5:
Bữa cơm ngày đói trông thật thảm hại. Giữa cái mẹt rách có độc một lùm
rau chuối thái rối, và một đĩa muối ăn với cháo, nhưng cả nhà đều ăn rất ngon
lành. Bà cụ vừa ăn vừa kể chuyện làm ăn, gia cảnh với con dâu. Bà lão nói toàn
chuyện vui, toàn chuyện sung sướng về sau này:
- Tràng ạ. Khi nào có tiền ta mua lấy đôi gà. Tao tin rằng cái chỗ đầu bếp kia
làm cái chuồng gà thì tiện quá. Này ngoảnh đi ngoảnh lại chả mấy mà có
ngay đàn gà cho mà xem…
Tràng chỉ vâng. Tràng vâng rất ngoan ngoãn. Chưa bao giờ trong nhà này
mẹ con lại đầm ấm, hòa hợp như thế. Câu chuyện trong bữa ăn đang đà vui bỗng
ngừng lại. Niêu cháo lõng bõng, mỗi người được có lưng lưng hai bát đã hết nhẵn.
Bà lão đặt đũa bát xuống, nhìn hai con vui vẻ:
- Chúng mày đợi u nhá. Tao có cái này hay lắm cơ.
Bà lật đật chạy xuống bếp, lễ mễ bưng ra một cái nồi khói bốc lên nghi ngút.
Bà lão đặt cái nồi xuống bên cạnh mẹt cơm, cầm cái môi vừa khuấy khuấy vừa
cười:
- Chè đây. – Bà lão múc ra một bát – Chè khoán đây, ngon đáo để cơ.
Người con dâu đón lấy cái bát, đưa lên mắt nhìn, hai con mắt thị tối lại. Thị điềm
nhiên và vào miệng. Tràng cầm cái bát thứ hai mẹ đưa cho, người mẹ vãn tươi
cười, đon đả:
- Cám đấy mày ạ, hì. Ngon đáo để, cứ thử ăn mà xem. Xóm ta khối nhà còn
chả có cám mà ăn đấy.
Tràng cầm đôi đũa, gợt một miếng bỏ vội vào miệng. Mặt hắn chun ngay lại,
miếng cám đắng chát và nghẹn bứ trong cổ. Bữa com từ đấy không ai nói câu gì,
họ cắm đầu ăn cho xong lần, họ tránh nhìn mặt nhau. Một nỗi tủi hờn len vào tâm
trí mọi người…”
(Trích Vợ nhặt, Kim Lân)
Phân tích vẻ đẹp của của các nhân vật qua đoạn trích trên. Từ đó chỉ ra giá trị hiện
thực của tác phẩm.
BÀI LÀM:
1. Giới thiệu về tác giả, tác phẩm, đoạn trích
- Kim Lân là cây bút chuyên viết truyện ngắn. Đề tài trong các sáng tác của Kim là nông
thôn và người nông dân. Ông có biệt tài miêu tả tâm lí nhân vật; văn phong giản dị
nhưng gợi cảm, hấp dẫn; ngôn ngữ sống động, gần gũi với lời ăn tiếng nói hàng ngày và
mang đậm màu sắc nông thôn; am hiểu và gắn bó sâu sắc về phong tục và đời sống làng
quê Bắc Bộ.
- Truyện ngắn Vợ nhặt in trong tập Con chó xấu xí (1962). Tiền thân của truyện ngắn này
là tiểu thuyết Xóm ngụ cư - được viết ngay sau Cách mạng tháng Tám nhưng dang dở
và thất lạc bản thảo. Sau khi hòa bình lập lại (1954), ông dựa vào một phần cốt truyện
cũ để viết truyện ngắn này.
Đoạn trích: “Giữa một cái mẹt rách […] len vào tâm trí mọi người” nằm ở gần cuối tác
phẩm miêu tả diễn biến tâm lí và hành động của các nhân vật: bà cụ Tứ, Tràng, người vợ nhặt
trong bữa cơm đầu tiên.
2. Nội dung
2.1. 2.1. Tóm tắt đoạn trước: Ở đoạn văn trước đó, Kim Lân đã mang đến tình huống truyện độc
đáo: anh Tràng nghèo khổ, xấu xí, thô kệch nhưng chỉ nhờ bốn bát bánh đúc, một câu nói
bông đùa thế mà lại có được vợ. Sự kiện này tạo nên bước ngoặt của tác phẩm và góp phần
làm hoàn chỉnh bức tranh cảm động về vẻ đẹp tình người trong nạn đói. Ấn tượng nhất của
bức tranh ấy chính là cảnh bữa cơm đầu đón nàng dâu.
2.2. Chi tiết “bát chè khoán”
- Kim Lân miêu tả bữa ăn đón nàng dâu chỉ với mấy câu: “bữa ăn ngày đói trông thật
thảm hại. Giữa cái mẹt rách có độc một lùm rau chuối thái rối, và một đĩa muối ăn với cháo,..”
mà bức tranh ngày đói đã hiện lên với tất cả sự khốn cùng.
+ Hai chữ “thảm hại” gợi tả bữa ăn đạm bạc, khổ sở, đáng thương. Bữa tiệc cưới đơn sơ
quá khiến cho ai cũng quặn lòng vì xót xa, thương cảm. Bình thường, cuộc sống của người dân
xóm ngụ cư vốn đã đầy ắp những nỗi khó khăn. Giờ giữa nạn đói, mọi chuyện càng trở nên tồi
tệ hơn.
+ Trông vào “cái thực đơn” bữa cơm ấy mà ái ngại. Món chính là cháo, nhưng lại là
“niêu cháo lõng bõng”. “Lõng bõng” là từ láy gợi tả hình ảnh nồi cháo loãng loẹt, nước nhiều
hơn cái. Đã vậy “mỗi người chỉ được lưng lưng hai bát đã hết nhẵn”. Món kèm theo càng tô
đậm thêm cho sự kham khổ. Cháo ăn với muối và “rau chuối thái rối”. Ngay đến cái mẹt để
bày biện cho ra dáng bữa ăn thì cũng chỉ là cái mẹt đã rách nát. Và chừng đó đủ để thấy thảm
cảnh của cả dân tộc trong nạn đói khủng khiếp năm nào.
2.3. Qua chi tiết ‘bát chè khoán” nhà văn đã làm nổi bật vẻ đẹp của các nhân vật
 Bà cụ Tứ: người mẹ đảm đang, yêu thương con hết mực (mặc dù đã già nhưng bà vẫn dậy
sớm chuẩn bị bữa ăn cho cả nhà; hơn thế nữa khi cái đói đang rình rập bà vẫn cố gắng để có
được bữa tiệc cưới giản dị cho con trai của mình).
 Tràng: “Tràng cầm đôi đũa, gợt một miếng bỏ vội vào miệng. Mặt hắn chun ngay lại, miếng
cám đắng chát và nghẹn bứ trong cổ”, cách ứng xử này vừa cho thấy Tràng là người chồng
có trách nhiệm với nỗi thẹn không thể dành cho người vợ mới cưới của mình một bữa ăn đủ
đầy, một tiệc cưới sang trọng; vừa cho thấy Tràng là người con hết sức khéo léo trong cách
cư xử với mẹ, hiểu rõ được hoàn cảnh của gia đình mình.
 Vợ Tràng: qua chi tiết này ta càng khẳng định được sự thay đổi về tính cách của vợ Tràng,
hết sức ngạc nhiên trước nồi cháo cám nhưng người con dâu mới vẫn điềm nhiên và vào
miệng để làm vui lòng mẹ chồng. Điều đó cũng cho thấy vợ Tràng không còn nét cách đỏng
đảnh như xưa nữa mà cô đã chấp nhận hoàn cảnh, đã thực sự sẵn sàng cùng gia đình vượt
qua những tháng ngày khó khăn sắp tới.
3. Nghệ thuật: Nhà văn đã đặt nhân vật vào tình huống truyện độc đáo; diễn biến tâm lí
được miêu tả chân thực, tinh tế; ngôn ngữ mộc mạc, giản dị, phù hợp với tính cách nhân
vật. Nghệ thuật trần thuật hấp dẫn, kịch tính...
4. Thái độ của nhà văn đối với con người và thực trạng xã hội đương thời
- Nhà văn lên án tội ác của bọn phát xít Nhật, thực dân Pháp và phong kiến tay sai đã gây ra
nạn đói khủng khiếp năm 1945 (giá trị hiện thực)
- Thái độ của nhà văn đối với con người: Kim Lân trân trọng, tôn vinh những phẩm chất tốt
đẹp của người dân nghèo: Dù đối mặt với hoàn cảnh sống ngặt nghèo, tăm tối, người dân
nghèo vẫn luôn thương yêu, đùm bọc, cưu mang nhau. Thật đúng với tinh thần” Thương người
như thể thương thân”, “Lá lành đùm lá rách” của dân tộc Việt Nam. (giá trị nhân đạo)

RỪNG XÀ NU ( Nguyễn Trung Thành)

ĐỀ 1: Có ý kiến cho rằng: Nổi bật trong tác phẩm Rừng xà nu của Nguyễn Trung
Thành là hình tượng cây xà nu, đây là một hình tượng nghệ thuật biểu trưng cho
sức sống, phẩm chất của người Tây Nguyên thời chống Mĩ. Anh/chị hãy bàn luận
về ý kiến này.
BÀI LÀM:
Tây Nguyên - mảnh đất hùng vĩ và thơ mộng, với những con người nồng hậu
yêu thương mà kiên cường bất khuất, từ lâu đã là nguồn cảm hứng cho biết bao
văn nhân nghệ sĩ. Mỗi người đều tìm thấy ở mảnh đất này một biểu tượng đẹp cho
tâm hồn cất cánh, ngòi bút thăng hoa. Ngọc Anh có Bóng cây Kơ nia như nỗi lòng
thổn thức thiết tha của tình yêu thủy chung son sắt, Thu Bồn có Bài ca chim Chơ-
rao, ngân vang khúc hát trong trẻo nồng đượm tình người chiến thắng... Còn
Nguyễn Trung Thành lại đem đến cho ta hình tượng những Rừng xà nu nối tiếp
chạy đến chân trời như sức sống bền và bất diệt của nhân dân Tây Nguyên trong
công cuộc chống Mĩ cứu nước. Bàn về hình tượng này, có ý kiến đã cho rằng:
“Nổi bật trong tác phấm Rừng xà nu của Nguyên Trung Thành là hình tượng cây
xà nu, đây là một hình tượng nghệ thuật biểu trưng cho sức sống, phẩm chất của
người Tây Nguyên thời chống Mĩ.”
Nguyễn Trung Thành là nhà văn lớn lên và trưởng thành trong cả hai cuộc
kháng chiến trường kỳ của dân tộc. Ông sớm bén duyên với mảnh đất Tây Nguyên
đầy nắng và gió, và cho đến hiện tại, những tác phẩm hay nhất của ông có dấu ấn
của miền đất nắng gió ấy. Những sáng tác của nhà văn mang đậm tính sử thi và
cảm hứng lãng mạn, thường đề cập đến những vấn đề trọng đại, lớn lao của dân
tộc. Truyện ngắn Rừng xà nu là một tác phẩm như thế. Rừng xà nu được viết năm
1965, ra mắt trên tạp chí Văn nghệ giải phóng Trung Bộ, sau đó in trong tập Trên
quê hương những anh hùng Điện Ngọc.
Đọc Rừng xà nu, không chỉ những nhân vật như cụ Mết, Tnú, Dít, Mai tạo nên
ấn tượng sâu sắc trong chúng ta, mà còn là cây xà nu - một hình tượng đặc sắc bao
trùm toàn bộ thiên truyện ngắn này. Chính hình tượng cây xà nu tạo nên vẻ đẹp
hùng tráng, chất sử thi lãng mạn cho câu chuyện về làng Xô Man bất khuất, kiên
cường. Đó là hình tượng hàm chứa nhiều ỳ nghĩa tượng trưng. Qua hình tượng
này, người đọc có thể thấy rõ sức sống kiên cường, sức sống mãnh liệt của con
người Tây Nguyên nói riêng, của con người Việt nói chung trong những ngày đánh
Mĩ.
Đầu tiên, có thể khẳng định, hình tượng cây xà nu là hình tượng trung tâm,
được trở đi trở lại, xuyên suốt toàn bộ tác phẩm. Từ tên nhan đề: Rừng xà nu - một
danh từ vừa cụ thể vừa mang tính hình tượng. Xà nu như nhà văn chia sẻ, là loại
cây mạnh mẽ, căng tràn mạch sống, xanh ngút ngàn kéo dài tít tắp trên mảnh đất
Tây Nguyên nắng và gió. Đặt tên cho tác phẩm như vậy khắc dấu đầu tiên đầy ấn
tượng về một đặc trưng của vùng đất, ngầm chứa nhiều mạch ngầm tư tưởng mà sẽ
hé lộ dần trong truyện. Trong truyện ngắn này, xà nu là hình tượng xuất hiện dày
đặc, từ mở đầu, kết thúc, những sinh hoạt của dân làng Xô Man, những sự kiện
trọng đại, những kỷ niệm ngọt ngào đến đau thưong,.. đều có cây xà nu.
Cây xà nu mang trong mình nguồn sống và sức mạnh mãnh liệt, không gì quật
ngã nổi. Cây xà nu là hình ảnh tiêu biểu, tượng trưng cho phẩm chất của dân làng
Xô man nói riêng và người Tây Nguyên nói chung: “Trong rừng ít có loại cây sinh
sôi nảy nở khoẻ như vậy. Cạnh một cây xà nu mới ngã gục, đã có bốn năm cây con
mọc lên, ngọn xanh rờn, hình nhọn mũi tên lao thắng lên bầu trời”. Xà nu mang
trong mình vẻ đẹp của loài cây ham ánh sáng mặt trời. Sự sống của nó chính là sự
vươn lên để sinh tồn. Cây xà nu rất ham ánh sáng và khí trời.
Xét về vai trò, xà nu là máu thịt, là phần không thể thiếu trong đời sống dân
làng Xô Man: ngọn lửa xà nu nấu ăn trong mỗi bếp, lửa xà nu cháy bập bùng trong
nhà ưng tập trung cả dân làng để nghe cụ Mết kể về cuộc đời Tnú; khói xà nu đen
nhẻm thân hình lũ trẻ, khói xà nu còn làm tấm bảng đen cho anh Quyết dạy Tnú và
Mai học chữ cụ Hồ... Xà nu còn tham dự vào những sự kiện quan trọng của cuộc
sống làng Xô Man: ngọn đuốc xà nu cháy sáng trên tay cụ Mết dẫn cả dân làng đi
vào rừng sâu lấy giáo mác chuẩn bị cho cuộc nổi dậy; đêm đêm, cả dân làng thức
mài vũ khí dưới ánh đuốc xà nu; giặc đốt hai bàn tay Tnú bằng giẻ tẩm nhựa xà
nu...
Rừng xà nu còn là bức tường thành vững chãi bao bọc, chở che cho buôn làng
Xô Man. Mỗi ngày giặc bắn đại bác ba lần vào làng nhưng làng Xô Man vẫn bình
yên vì “Hầu hết đạn đại bác đều rơi vào ngọn đồi xà nu cạnh con nước lớn”. Đổi
lại, vì bảo vệ cho dân làng nên cánh rừng xà nu lại chịu nhiều đau thương mất mát:
“Cả rừng xà nu hàng vạn cây không có cây nào là không bị thương. Có những cây
bị chặt đứt ngang nửa thân mình, đổ ào ào như một trận bão”.
Và cuối cùng, có thể khẳng định, rừng xà nu đã trở thành biểu tượng của sức
sống mãnh liệt của nhân dân các dân tộc Tây Nguyên. Là cụ Mết, người truyền và
giữ ngọn lửa tinh thần cách mạng: “Chúng nó đã cầm súng, mình phải cầm giáo”.
Người anh hùng Tnú với tinh thần kìm nén đau thương để biến thành sức mạnh
quật khởi. Dít với đôi mắt mở to trong suốt, bình thản ngày Mai chết. Dít như cây
xà nu nhanh chóng trưởng thành, nhanh chóng trở thành bí thư chi bộ, cùng cụ Mết
lãnh đạo dân làng Xô Man đánh giặc, vẻ đẹp của bé Heng, thế hệ xà nu măng non,
chưa trưởng thành nhưng tinh thần thì đã “nhọn hoắt như những mũi lê”...
Đi suốt chiều dài tác phấm, xà nu là hình tượng bao trùm, là mạch sống mạch
hồn của tác phẩm. Hình tượng thiên nhiên ấy đã trở thành chủ âm của tác phẩm, nó
chiếm giữ những vị trí quan trọng nhất của truyện ngắn: nhan đề, mở đầu và kết
thúc. Hình ảnh cây xà nu còn trở đi trở lại nhiều lần tạo nên không gian đặc trưng
của núi rừng Tây Nguyên.
Xà nu trở thành biểu tượng cho cuộc sống và phẩm chất của dân làng Xô Man -
đó là một sáng tạo nghệ thuật đặc sắc của Nguyễn Trung Thành. Nhà văn đã lựa
chọn hình ảnh cây xà nu và đem lại cho nó những ý nghĩa mới, những vẻ đẹp mới
để dựng lên bức tranh sử thi chống Mĩ của những con người kiên cường bất khuất
nơi núi rừng hùng vĩ Tây Nguyên.

ĐỀ 3: . Phân tích hình tượng người dũng sĩ Tnú, trong Rừng xà nu của nhà văn
Nguyễn Trung Thành, từ đó làm nổi bật vẻ đẹp độc đáo của nhân vật anh hùng sử
thi.
BÀI LÀM:
Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành là một bản anh hùng ca về cuộc đấu tranh
anh dũng của đồng bào Tây Nguyên trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ. Tác
phẩm đã thế hiện sự truởng thành của một thế hệ cách mạng trẻ trung, mưu trí, kiên
cường. Mỗi nhân vật mang một vẻ đẹp riêng tiêu biểu cho cốt cách, linh hồn của
mảnh đất Tây Nguyên anh hùng. Nổi bật nhất là nhân vật Tnú, nhân vật trung tâm
của tác phẩm. Xây dựng con người này, Nguyễn Trung Thành đã nhúng hình
tượng vào lò nung của sử thi, để khi nhân vật bước ra, toả rạng phẩm chất dũng sĩ,
lấp lánh như một huyền thoại, và mãi là bài ca vang vọng giữa đại ngàn.
Nguyễn Trung Thành là nhà văn lớn lên và trưởng thành trong cả hai cuộc
kháng chiến trường kỳ của dân tộc. Ông đặc biệt thành công về đề tài văn học viết
về miền núi Tây Nguyên. Như PGS.TS Lã Nhâm Thìn từng nhận xét: “Nguyên
Ngọc là một trong những nhà văn sớm mở cánh cửa văn học vào mảnh đất Tây
Nguyên”, trên mảnh đất ấy, nhà văn đã xây dựng được những lâu đài nghệ thuật
nguy nga, tráng lệ. Những sáng tác của ông mang đậm tính sử thi và cảm hứng
lãng mạn, thường đề cập đến những vấn đề trọng đại, lớn lao của dân tộc. Truyện
ngắn Rừng xà nu là câu chuyện về dân làng Xô Man trong kháng chiến chống Mĩ.
Trong số những con người hiên ngang bất khuất của làng Xô Man nối bật lên là
hình ảnh Tnú. Câu chuyện về cuộc đời anh đã đuợc tái hiện cụ thể qua lời kể của
già làng bên bếp lửa.
Trong văn học Việt Nam giai đoạn chống Mĩ, khuynh hướng sử thi là một
khuynh hướng lớn. Tính sử thi được thể hiện trong đề tài, chủ đề mang ý nghĩa
thời đại, bàn đến những vấn đề lớn lao, những vấn đề cộng đồng, cùng với đó là
ngôn ngữ đầy trang trọng. Nhân vật trong sử thi là nhân vật tiêu biểu cho cả cộng
đồng, là người anh hùng, người dũng sĩ của thời đại mang sức mạnh, phấm chất lý
tưởng, thể hiện qua lời nói, hành động dũng cảm, với những chiến công hiển hách.
Nhân vật anh hùng sử thi không thể tồn tại nếu không vượt qua được mọi khó khăn
thử thách để giành chiến thắng. Tnú được xây dựng trên cảm hứng sử thi ấy.
Trước hết, Tnú tiêu biểu cho tính cách đồng bào Tây Nguyên. Tnú mang trong
mình những phẩm chất đáng quý: trung thực, gan góc, dũng cảm. Những phẩm
chất ấy được biểu hiện từ khi Tnú còn nhỏ đến khi đã là một chiến sĩ cách mạng.
Đó là khi Tnú học cái chữ, học thua Mai đã tự lấy đá ghè vào đầu mình. Là những
lần vượt con thác dữ, mình như con cá kình, tìm những khúc xiết mà vượt khiến kẻ
thù không ngờ. Là đôi bàn tay như mười ngọn đuốc rực đỏ nhưng không một tiếng
van xin, chỉ có ánh mắt căm hờn lửa cháy.
Tnú là hiện thân của sự trung thành tuyệt đối với cách mạng, với Đảng, là hiện
thân của sự khoẻ mạnh với bộ ngực rộng rãi, hai cánh tay khoẻ chắc như lim, là sự
bất khuất kiên cường đã được thử thách qua tra tấn dã man và sự tù đày của kẻ thù.
Tnú cường tráng như một cây xà nu lớn. Tnú không hề biết sợ hãi, không hề biết
khuất phục dù tàn bạo có hiện hình trong mũi súng hay lưỡi dao chém ngang dọc
trên lưng. Trong một lần chuyển thư của anh Quyết gửi về huyện, Tnú bị giặc bắt.
Họng súng chĩa vào tai lạnh ngắt, Tnú kịp nuốt luôn cái thư. Giặc giam cầm, tra
khảo Tnú dã man, lưng Tnú dọc ngang vết dao chém nhưng anh quyết không khai
một lời.
Tnú còn là người mang trong mình tình yêu thương và lòng căm thù cháy bỏng.
Tình yêu thương được thể hiện rất rõ trong mối quan hệ giữa Tnú với buôn làng và
với những người dân trong buôn. Làng Xô Man là cội nguồn, là nơi nuôi dưỡng
Tnú. Nơi đây có những người thân thuộc, có gia đình bé nhỏ của anh. Nhưng nơi
thân thuộc, những người thân thương của anh đã bị giặc giày xéo. Anh chứa trong
lòng niềm căm thù: mối thù ấy được tích góp qua năm tháng, đó là những vết chém
dọc ngang lưng khi Tnú còn nhỏ, là đôi bàn tay chỉ còn hai đốt, nhưng sâu sắc
nhất, ám ảnh nhất là bọn giặc đã cướp đi gia đình nhỏ của anh, những con người
thân thiết nhất của anh.
Tnú cũng là điển hình cho con đường đấu tranh đến với cách mạng của người
dân Tây Nguyên. Bi kịch của Tnú là một bi kịch điển hình. Khi anh dùng tay
không để đấu tranh với toán giặc, gia đình anh không cứu được, trái lại còn bị đốt
cháy đôi bàn tay. Tnú chỉ được cứu khi dân làng Xô Man cầm vũ khí đứng lên tiêu
diệt kẻ thù. Nhưng Tnú không chìm đắm trong đau thương mất mát, anh biết vượt
qua nỗi đau ấy, biến đau thương thành căm hờn và tôi luyện ý chí chiến đấu. Bị
giặc bắt sau khi Mai chết, Tnú không nghĩ đến bản thân mà chỉ lo lắng đến việc ai
sẽ tiếp tục lãnh đạo dân làng kháng chiến khi Đảng phát lệnh. Chỉ còn cách cầm vũ
khí: “Chúng nó đã cầm súng, mình phải cầm giáo”, dùng bạo lực cách mạng mới
có thể tiêu diệt được cái ác, cái bạo lực.
Khi xây dựng nhân vật Tnú, Nguyễn Trung Thành đặc biệt dụng công miêu tả
đôi bàn tay của anh. Từ đôi bàn tay này, người đọc có thể thấy hiện lên không
những cả cuộc đời mà cả những tính cách của nhân vật. Khi còn lành lặn, bàn tay
Tnú là bàn tay nghĩa tình, thẳng thắn. Đấy là bàn tay cầm phấn học chữ do cán bộ
dạy, bàn tay cầm đá ghè vào đầu để trừng phạt cái tội không nhớ mặt chữ, bàn tay
đặt lên bụng để chỉ cộng sản ở đây... Tuy vậy ấn tuợng mạnh nhất về đôi bàn tay
của Tnú chính là đoạn cao trào của truyện, cũng là đọan đời bi tráng nhất của nhân
vật. Giặc quấn giẻ tẩm dầu xà nu vào muời đầu ngón tay và đốt. “Mười ngón tay
đã thành mười ngọn đuốc”, thiêu cháy cả ruột gan Tnú, anh “nghe lửa cháy trong
lồng ngực, cháy ở bụng. Máu anh mặn chát ở đầu lưỡi”. Chứng kiến cảnh kẻ thù
dã man đốt hai bàn tay của Tnú, dân làng Xô Man không thể kiềm chế được nữa đã
bột phát vùng lên tiêu diệt lũ giặc, mở ra trang sử đấu tranh mới của dân làng. Từ
đây bàn tay của Tnú thành tật nguyền, mỗi ngón chỉ còn hai đốt và như một chứng
tích về tội ác của kẻ thù mà Tnú mang theo suốt đời. Đến cuối tác phẩm, bàn tay
tật nguyền đấy vẫn tiếp tục cầm súng giết giặc, vẫn có thể giết chết tên chỉ huy đồn
địch dù nó cố thủ trong hầm. Như vậy, có thể nói bàn tay Tnú được miêu tả trải dài
theo suốt cả câu chuyện. Dường như mọi nét tính cách cũng như số phận và chiến
công của Tnú đều gắn liền với hình ảnh hai bàn tay ấy.
Tnú - người anh hùng sử thi với những phẩm chất phi thường, hiện lên ngạo
nghễ, dũng mãnh với những kỳ tích mà hiếm kẻ thường nào làm được. Đó là người
anh hùng đại diện cho phẩm chất, cho sức mạnh, cho tính cách và trở thành niềm
tự hào của cộng đồng, đặc biệt ta thấy được vẻ đẹp của người anh hùng không rời
xa lợi ích, mối quan hệ với cộng đồng. Người anh hùng chỉ đẹp khi gắn với mối
quan hệ cộng đồng.

ĐỀ 4:
Làng ở trong tầm đại bác của đồn giặc. Chúng nó bắn, đã thành lệ, mỗi
ngày hai lần, hoặc buổi sáng sớm và xế chiều, hoặc đứng bóng và sẩm tối, hoặc
nửa đêm và trở gà gáy. Hầu hết đạn đại bác đều rơi vào ngọn đồi xà nu cạnh con
nước lớn. Cả rừng xà nu hàng vạn cây không cócây nào không bị thương. Có
những cây bị chặt đứt ngang nửa thân mình, đổ ào ào như một trận bão. Ở chỗ vết
thương, nhựa ứa ra, tràn trề, thơm ngào ngạt, long lanh nắng hè gay gắt, rồi dần
dần bầm lại, đen và đặc quyện thành từng cục máu lớn.
Trong rừng ít có loại cây sinh sôi nảy nở khoẻ như vậy. Cạnh một cây xà nu
mới ngã gục, đã có bốn năm cây con mọc lên, ngọn xanh rờn, hình nhọn mũi tên
lao thẳng lên bầu trời. Cũng có ít loại cây ham ánh sáng mặt trời đến thế. Nó
phóng lên rất nhanh để tiếp lấy ánh nắng, thứ ánh nắng trong rừng rọi từ trên cao
xuống từng luồng lớn thắng tắp, lóng lánh vô số hạt bụi vàng từ nhựa cây bay ra,
thơm mỡ màng. Có những cây con vừa lớn ngang tầm ngực người lại bị đại bác
chặt đứt làm đôi. Ở những cây đó, nhựa còn trong, chất dầu còn loãng, vết thương
không lành được, cứ loét mai ra, năm mười hôm thì cây chết. Nhưng cũng có
những cây vượt lên được cao hơn đầu người, cành lá sum sê như những con chim
đã đủ lông mao, lông vũ. Đạn đại bác không giết nổi chúng, những vết thương của
chúng chóng lành như trên một thân thể cường tráng. Chúng vượt lên rấtnhanh,
thay thế những cây đã ngã... Cứ thế hai ba năm nay rừng xà nu ưỡn tấm ngực lớn
của mình ra, che chở cho làng...
Đứng trên đồi xà nu ấy trông ra xa, đến hết tầm mắt cũng không thấy gì
khác ngoài những đồi xà nu nối tiếp tới chân trời.
( Trích Rừng xà nu – Nguyễn Trung Thành, Ngữ văn 12,Tập hai, tr 38,NXB Giáo
dục Việt Nam, 2008)
Cảm nhận của anh/ chị về vẻ đẹp hình tượng cây xà nu trong đoạn trích trên
trên. Từ đó, nhận xét bút pháp miêu tả thiên nhiên của nhà văn Nguyễn Trung
Thành.

BÀI LÀM:
3.1.Mở bài
- Nguyễn Trung Thành là nhà văn có sở trường viết về Tây Nguyên qua hai
cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ. Rừng xà nu-truyện ngắn đỉnh cao và
xuất sắc nhất của văn xuôi đánh Mĩ. Tác phẩm phản ánh cuộc đấu tranh anh dũng
bất khuất, kiên cường của đồng bào Tây Nguyên. Một trog những thành công nổi
bật của Nguyễn Trung Thành là xây dựng hình tượng Rừng xà nu thể hiện chiều
sâu của tác phẩm, tạo nên tính cô đúc, hàm xúc mang sắc màu anh hùng ca của tác
phẩm của văn xuôi đánh Mĩ.
- Nêu vấn đề cần nghị luận: Tác phẩm tập trung ca ngợi vẻ đẹp hình tượng cây
xà nu, qua đó thể hiện bút pháp miêu tả thiên nhiên của nhà văn Nguyễn Trung
Thành.
3.2.Thân bài
a. Khái quát về truyện ngắn, đoạn trích
-Truyện ngắn “Rừng xà nu” viết năm 1965, in trong tập “Trên quê hương
những anh hùng Điện Ngọc”;
-Truyện miêu tả rừng xà nu và kể chuyện về Tnú sau ba năm đi “lực lượng”
được về thăm làng. Đêm đó, cụ Mết kể lại câu chuyện cuộc đời Tnú và cuộc nổi
dậy của dân làng Xô Man. Kết truyện, cụ Mết và Dít tiễn Tnú trở về đơn vị.
-Đây là đoạn mở đầu thiên truyện về một làng Xô Man nhỏ bé nhưng kiên
cường, bất khuất.
-Đoạn trích là một bức tranh, trong đó tác giả tái hiện hình ảnh rừng xà nu
hiên ngang, đầy sức sống trước sự huỷ diệt của kẻ thù. Nó là hình ảnh thu nhỏ của
làng Xô Man, như là biểu tượng của người dân Tây Nguyên anh dũng, khát khao
độc lập, tự do.
b. Cảm nhận nội dung, nghệ thuật vẻ đẹp hình tượng cây xà nu
b.1. Về nội dung
- Cây xà nu, rừng xà nu đau thương trong bom đạn:
+Năm 1965, đế quốc Mỹ đưa quân vào miền Nam, chúng mở rộng cuộc
chiến tranh và dập tắt các phong trào đấu tranh cách mạng trên mảnh đất Tây
Nguyên. Hình ảnh cây xà nu, rừng xà nu cùng chịu chung số phận từ bom đạn của
kẻ thù với hình ảnh “Cả rừng xà nu hàng vạn cây không có cây nào không bị
thương. Có những cây bị chặt đứt ngang nửa thân mình, đổ ào ào như một trận
bão. Ở chỗ vết thương, nhựa ứa ra, tràn trề, thơm ngào ngạt, long lanh nắng hè
gay gắt, rồi dần dần bầm lại, đen và đặc quyện thành từng cục máu lớn”. Với đoạn
văn miêu tả thật sống động, nhà văn đã thổi vào cây xà nu, rừng xà nu như một
sinh thể có hồn, mang dáng vẻ của một con người, một tập thể đang chịu đựng
trước sự tàn phá do bom đạn của đế quốc. Đặc biệt, với nghệ thuật tăng cấp “cả
rừng xà nu không có cây nào không bị thương” chứng tỏ, bom đạn của đế quốc,
chúng ra sức hủy diệt sức sống của thiên nhiên, môi trường sống của con người với
chính sách “đốt sạch, quét sạch, giết sạch”. Và hình ảnh “nhựa ứa ra, tràn trề … và
đặc quyện thành từng cục máu lớn”, một hình ảnh nhân hóa độc đáo, chứng tỏ
nhựa xà nu chính là hơi thở, mạch sống là máu thịt của con người Tây Nguyên
đang chịu đựng sự đau thương tàn khốc trước bom đạn của Đế quốc, càng khơi dậy
lòng căm thù sâu sắc của người dân Tây Nguyên đối với quân giặc thật vô cùng.
+Hình ảnh cây xà nu tiếp tục khắc họa với nét bút độc đáo của Nguyễn
Trung Thành, tác giả đã thổi vào cây xà nu mang dáng vẻ như con người đang
hứng chịu trước bom đạn tàn khốc của đế quốc qua hình ảnh thật xúc động: “Có
những cây con vừa lớn ngang tầm ngực người lại bị đạn đại bác chặt đứt làm đôi.
Ở những cây đó, nhựa còn trong, chất dầu còn loãng, vết thương không lành được,
cứ loét mãi ra, năm mười hôm thì cây chết”. Với ngôn ngữ tạo hình độc đáo, tác
giả khắc họa hình ảnh cây xà nu con đang vươn mình tràn đầy sức sống nhưng
bom đạn của kẻ thù ra sức hủy diệt, những cây con không đủ sức đề kháng, vết
thương cứ loét mãi ra rồi cây chết, càng gợi cho người đọc thấy rõ sức sống thiên
nhiên bị hủy diệt cũng là sự hủy diệt cả hơi thở của người dân Tây Nguyên, càng
cho chúng ta thấy rõ bom đạn tội ác của đế quốc trong chiến tranh Việt Nam thật
vô cùng tàn bạo.
-Cây xà nu, rừng xà nu vươn mình trổi dậy:
+Rừng xà nu nằm cạnh con nước lớn ngang tầm đạn đại bác của giặc, mỗi
ngày đều chịu sự tàn phá khốc liệt do bom đạn của kẻ thù, nhưng cây xà nu vẫn
vươn mình trổi dậy, đón nhận ánh sáng của mặt trời, toát lên một sức sống mãnh
liệt, hiên ngang, bất khuất như tinh thần bất khuất của người dân Tây Nguyên
trước kẻ thù, với hình ảnh: “Cạnh một cây xà nu mới ngã gục, đã có bốn năm cây
con mọc lên, ngọn xanh rờn, hình nhọn mũi tên lao thẳng lên bầu trời”. Bằng nghệ
thuật tăng cấp, kết hợp biện pháp nhân hóa, so sánh cho chúng ta hình dung, trước
sự tàn phá do bom đạn của đế quốc nhưng không thể nào hủy diệt sức sống của cây
xà nu, khi một cây ngã gục lại nhiều cây khác trồi lên, nhú lên “ngọn xanh rờn”,
chứng tỏ sức sống tiềm tàng của cây xà nu thật mãnh liệt và hình ảnh “hình nhọn
mũi tên lao thẳng lên bầu trời” có khác gì như mũi tên của những chàng dũng sĩ
Tây Nguyên đang hướng về phía kẻ thù để chiến đấu nhằm tiêu diệt cũng là vẻ đẹp
về tinh thần bất khuất của người dân Xô Man thời chống Mỹ.
+Sức sống của cây xà nu vẫn hiên ngang, ngạo nghễ thách thức trước bom
đạn kẻ thù với hình ảnh nhân hóa độc đáo, sáng tạo qua ngòi bút của Nguyễn
Trung Thành: “Có những cây vượt lên được cao hơn đầu người, cành lá sum sê
như những con chim đã đủ lông mao, lông vũ. Đạn đại bác không giết nổi chúng,
những vết thương của chúng chóng lành như trên một thân thể cường tráng”. Qua
đoạn văn miêu tả vừa hiện thực vừa lãng mạn, tác giả khắc họa hình ảnh cây xà nu
mang một sức sống tiềm tàng, bất diệt. Nó có sức đề kháng rất mãnh liệt trước bom
đạn tối tân của đế quốc, toát lên một dáng vẻ mạnh mẽ cường tráng, ngạo nghễ,
cho chúng ta liên tưởng tinh thần bất khuất của người dân Xô Man dù đối diện
trước bom đạn cùng hành động tàn bạo, khủng bố, dã man của kẻ thù, nhưng
không thể nào dập tắt ngọn lửa đấu tranh của họ. Họ vẫn bất khuất kiên cường
dưới ngọn cờ cách mạng. Đúng như lời nói cụ Mết: “Chúng nó đã cầm súng, mình
phải cầm giáo!..., Đảng còn, núi nước này còn”.
- Cây xà nu, rừng xà nu sừng sững tiếp nối bất diệt.
+ Nói đến, bom đạn của đế quốc là vũ khí tối tân, mà rừng xà nu lại nằm
ngay trong tầm đạn đại bác của giặc. Trước sự tàn phá của kẻ thù nhằm hủy diệt
sức sống thiên nhiên và cuộc sống con người Tây Nguyên, chúng ra sức tàn phá,
đàn áp, khủng bố nhằm dập tắt cuộc đấu tranh của nhân dân Tây Nguyên tiêu biểu
là dân làng Xô Man. Nhưng lạ thay, đã bao năm qua, cây xà nu, rừng xà nu vẫn
sinh sôi nảy lộc, vươn mình khoe sắc dưới ánh sáng mặt trời, rừng Xà nu vẫn “ưỡn
tấm ngực lớn của mình ra che chở cho làng”. Một hình ảnh so sánh nhân hóa độc
đáo, toát lên vẻ đẹp giữa thiên nhiên và con người Tây Nguyên thật kiên cường bất
khuất.
+Nhà văn tiếp tục khám phá sức sống của cây xà nu, rừng xà nu thật mãnh
liệt bền vững đó là hình ảnh: “Đứng trên đồi xà nu ấy trông ra xa, đến hết tầm mắt
cũng không thấy gì khác ngoài những đồi xà nu nối tiếp tới chân trời”. Với nghệ
thuật nhân hóa, tăng cấp, tác giả thổi vào cây xà nu có một sức sống bất diệt, nó
vượt lên sự khắc nghiệt do bom đạn của đế quốc. Nó vẫn đứng sừng sững kiên
cường giữa vùng đất Tây Nguyên anh dũng là vẻ đẹp về tinh thần đấu tranh bất
khuất bền bỉ của người dân Tây Nguyên thời chống Mỹ.
- Mở rộng cảm nhận: Không chỉ ở đoạn văn mở đầu mà càng đi sâu vào nội
dung của tác phẩm, người đọc lại càng tìm thấy sức sống bất diệt của cây xà nu,
một loài cây đáng quý dù bom đạn tàn phá, cày nát đồi xà nu, rừng xà nu nhưng
qua lời nói khẳng định của cụ Mết: “Không có cây gì mạnh bằng cây xà nu đất ta.
Cây mẹ ngã, cây con mọc lên. Đố nó giết hết rừng xà nu này”. Lời nói dứt khoát
khẳng định của cụ Mết càng cho ta thấy rõ sức sống mãnh liệt bền vững của cây xà
nu thật vô cùng, cũng là sức sống kiên cường, bất khuất của người dân Tây
Nguyên qua hai thời kì đấu tranh chống Pháp và chống Mỹ.
b.2.Về nghệ thuật: Hình tượng cây xà nu được xây dựng bằng nghệ thuật độc
đáo:
- Kết hợp miêu tả bao quát lẫn cụ thể, khi dựng lên hình ảnh cả khu rừng,
khi đặc tả cận cảnh một số cây.
- Phối hợp cảm nhận của nhiều giác quan trong việc miêu tả những cây xà
nu với vóc dáng đầy sức lực, tràn trề mùi nhựa thơm, ngời xanh dưới ánh nắng...
- Miêu tả cây xà nu trong sự so sánh, đối chiếu thường xuyên với con người.
Các hình thức nhân hóa, ẩn dụ, tượng trưng đều được vận dụng nhằm thể hiện sống
động vẻ hùng vĩ, khoáng đạt của thiên nhiên đồng thời gợi nhiều suy tưởng sâu xa
về con người, về đời sống.
- Giọng văn đầy biểu cảm với những cụm từ được lặp đi lặp lại gây cảm
tưởng đoạn văn giống như một đoạn thơ trữ tình.
c. Nhận xét bút pháp miêu tả thiên nhiên của nhà văn Nguyễn Trung
Thành: Tác giả đã sử dụng bút pháp miêu tả giàu chất sử thi và cũng rất lãng mạn,
bay bổng:
- Đối lập giữa sự tàn khốc của chiến tranh với sức sống của cây xà nu;
-Tạo dựng được một bức tranh hoành tráng và đầy lãng mạn về cây xà nu, rừng
xà nu (không gian ngút ngàn và hình tượng cây xà nu khoẻ khoắn, mạnh mẽ, ham
ánh sáng, khí trời, tràn đầy sinh lực, căng đầy nhựa sống,...).
-Ngôn ngữ miêu tả trong đoạn trích khi mạnh mẽ, hùng tráng khi tha thiết, tự
hào; vừa lãng mạn bay bổng vừa trữ tình sâu lắng... Mạnh mẽ, hùng tráng khi miêu
tả, nhấn mạnh sự khốc liệt của chiến tranh; tha thiết, tự hào khi miêu tả sức sống kì
diệu của cây xà nu.
- Điểm nhìn mang tính sử thi và cảm hứng lãng mạn: đó là một cái nhìn thể
hiện sự khâm phục, trân trọng và ngưỡng vọng đối với cái cao cả; đó là cảm hứng
ngợi ca, tôn vinh cái hùng, cái đẹp của thiên nhiên và con người.
3.3.Kết bài
-Đoạn trích mở đầu truyện ngắn Rừng xà nu mang đầy ý nghĩa biểu trưng, là
âm hưởng chủ đạo tạo phông nền cho diễn biến của toàn bộ thiên truyện. Hình
tượng cây xà nu và rừng xà nu tiêu biểu cho sức sống của người dân Tây Nguyên.
Mỗi cây xà nu là một con người, các thế hệ xà nu là các thế hệ người dân làng Xô
Man, cả rừng xà nu là hình ảnh làng Xô Man kiên cường, bất khuất.
- Nêu cảm nghĩ về tư tưởng và nghệ thuật của nhà văn qua đoạn trích nói
riêng, tác phẩm nói chung.

ĐỀ 5: Trong truyện ngắn Rừng xà nu, nhà văn Nguyễn Trung Thành đã miêu tả đôi
bàn tay Tnú:
Khi giặc tra tấn mẹ con Mai: “Hai bàn tay anh bíu chặt lấy gốc cây khi bọn lính,
mười thằng, dẫn Mai ra giữa sân”; “Anh đã bứt đứt hàng chục trái vả mà không
hay”; “Hai cánh tay rộng lớn như hai cánh lim chắc của anh ôm chặt lấy mẹ con
Mai.”
Khi bị giặc đốt mười đầu ngón tay: “Mười ngón tay Tnú đã thành mười ngọn đuốc
…Tnú không thèm, không thèm kêu van”; “Lửa đã tắt trên mười đầu ngón tay Tnú.
Nhưng đống lửa xà nu lớn giữa nhà vẫn đỏ. Xác mười tên lính giặc ngổn ngang
quanh đống lửa đó.”
(Ngữ văn 12, Tập hai, NXB Giáo dục Việt Nam, 2017)
Phân tích hình ảnh đôi bàn tay Tnú trong hai lần miêu tả trên, từ đó làm nổi bật sự
thay đổi của nhân vật này.
BÀI LÀM:
1. Giới thiệu chung:
Giới thiệu ngắn gọn về tác giả Nguyễn Trung Thành, tác phẩm Rừng xà nu và nhân vật
Tnú, đôi bàn tay Tnú.
2. Phân tích hình ảnh đôi bàn tay Tnú qua hai lần miêu tả của nhà văn như y/c
của đề:
2.1. Khái quát chung:
+ Ở Tnú hình tượng đôi bàn tay mang dấu ấn tính cách, cuộc đời: Đôi bàn tay
Tnú như một “Bản lí lịch trích ngang” về cuộc đời anh.
- Trong tác phẩm có rất nhiều chi tiết mà nhà văn xây dựng gây ấn tượng mạnh mẽ tới
người đọc. Đặc biệt hình ảnh đôi bàn tay Tnú có sức lay động lớn.
- Nhà văn nhiều lần miêu tả về đôi bàn tay Tnú. Tuy nhiên, có hai lần rất tiêu biểu ông
miêu tả về đôi bàn tay ấy trong hai hoàn cảnh khắc nghiệt, gắn với những hành động
khác nhau của Tnú và dân làng Xô Man.
2.2. Phân tích cụ thể:
+ Khi giặc tra tấn mẹ con Mai: “Hai bàn tay anh bíu chặt lấy gốc cây khi bọn lính,
mười thằng, dẫn Mai ra giữa sân”; “Anh đã bứt đứt hàng chục trái vả mà không hay”;
“Hai cánh tay rộng lớn như hai cánh lim chắc của anh ôm chặt lấy mẹ con Mai.”
=> Giặc tra tấn mẹ con Mai nằm trong âm mưu thâm độc của kẻ thù muốn bắt Tnú,
muốn tiêu diệt tận gốc nhân vật là thủ lĩnh cách mạng lãnh đạo dân làng Xô Man chống
lại chúng.
=> Ý nghĩa: Giặc bắt vợ con Tnú tra tấn dã man hòng lung lạc tinh thần anh. Đây là
một trong hai hoàn cảnh khắc nghiệt đối với cuộc đời Tnú. Chứng kiến cảnh ấy, Tnú đã
tay không xông ra cứu vợ con bằng đôi bàn tay “rộng lớn như hai cánh lim chắc” của
mình. Động lực ghê gớm ấy chỉ có thể được khơi nguồn từ trái tim cháy bỏng ngọn lửa
yêu thương và ngọn lửa căm thù… Tuy nhiên, chỉ với hai bàn tay không Tnú đã không
cứu được vợ con, mà cụ Mết và dân làng cũng không cứu được Tnú. Đó là một bi kịch
… Lần này, Tnú và dân làng phải chịu những tổn thất, những đau đớn. Tuy nhiên
những tổn thất, đau đớn đó chỉ là tạm thời mà thôi. Cuộc đấu tranh hứa hẹn sẽ mạnh mẽ
hơn, quyết liệt hơn và đi xa hơn về sau này. Đây là hoàn cảnh mà đôi bàn tay Tnú còn
lành lặn. Đôi bàn tay thể hiện Tnú là một con người sống rất tình nghĩa. Anh là người
chồng, người cha đầy trách nhiệm. Đôi bàn tay Tnú là đôi bàn tay căm thù tột độ bọn
giặc xâm lược đã tra tấn, giết hại vợ con anh - mối thù của gia đình Tnú đối với kẻ thù.
+ Khi bị giặc đốt mười đầu ngón tay: “Mười ngón tay Tnú đã thành mười ngọn đuốc
…Tnú không thèm, không thèm kêu van”; “Lửa đã tắt trên mười đầu ngón tay Tnú.
Nhưng đống lửa xà nu lớn giữa nhà vẫn đỏ. Xác mười tên lính giặc ngổn ngang quanh
đống lửa đó.”
=> Giặc tra tấn Tnú lần này hòng làm lung lạc ý chí đấu tranh cách mạng của anh và
dân làng Xô Man, từ đó Tnú và dân làng sẽ phải hạ vũ khí đầu hàng, chấp nhận thân
phận nô lệ. Nhưng không, tội ác của chúng càng làm cho ngọn lửa căm hờn của Tnú,
của dân làng bùng cháy lên mạnh mẽ hơn bao giờ hết.
=> Ý nghĩa:
- Đây chính là hoàn cảnh vô cùng khắc nghiệt trong cuộc đời Tnú: Mặc dù bị đốt mười
đầu ngón tay nhưng Tnú vẫn nhớ lời anh Quyết dạy: “Người cộng sản không thèm kêu
van …”, Tnú đã “không thèm kêu van”. Tnú một lòng trung thành với cách mạng, luôn
thể hiện ý chí, bản lĩnh gan dạ, dũng cảm của một người anh hùng. Đôi bàn tay Tnú khi
bị giặc đốt không còn lành lặn. Đôi bàn tay anh lúc này là chứng tích của một giai đoạn
đau thương, của thời điểm lòng căm hận sôi trào - mối thù của bản thân Tnú đối với kẻ
thù. Vì vậy, đó là đôi bàn tay trừng phạt, bàn tay quả báo đối với chúng khi anh bóp
chết tên chỉ huy đồn giặc trong một trận chiến đấu của quân giải phóng.
- Cũng chính từ thời điểm đôi bàn tay Tnú bị đốt mà dân làng Xô Man đã nổi dậy trong
đêm đồng khởi với vũ khí trong tay để cứu Tnú, cứu dân làng và kết quả là “Lửa đã tắt
trên mười đầu ngón tay Tnú. Nhưng đống lửa xà nu lớn giữa nhà vẫn đỏ. Xác mười tên
lính giặc ngổn ngang quanh đống lửa đó.”. Kẻ thù đã phải đền tội cho những tội ác mà
chúng đã gây ra cho Tnú và dân làng.
2.3. Từ hình ảnh đôi bàn tay Tnú qua hai lần miêu tả trên, làm nổi bật sự thay đổi
của nhân vật này.
+ Qua hai lần miêu tả đôi bàn tay Tnú như trên, nhà văn NTT cho thấy sự thay đổi, sự
chuyển biến lớn, có ý nghĩa sống còn trong nhận thức, trong hành động của Tnú, của
dân làng Xô Man, đồng thời làm sáng tỏ chân lí của thời đại đánh Mĩ: "Chúng nó đã
cầm súng, mình phải cầm giáo!":
Trong câu chuyện bi tráng về cuộc đời Tnú có đến bốn lần cụ Mết nhắc đi nhắc lại việc
Tnú “không cứu được vợ con”. Cụ Mết nhắc như vậy là để nhấn mạnh một sự thật: nếu
chỉ có hai bàn tay không (trong hoàn cảnh giặc tra tấn mẹ con Mai) thì chẳng những
Tnú không cứu được vợ con mà dân làng Xô Man cũng không cứu được Tnú, không
cứu được buôn làng mình.
 Từ hình ảnh đôi bàn tay Tnú mà tác giả cũng muốn khắc ghi một chân lí: muốn thoát
khỏi sự đè nén, áp bức của kẻ thù, muốn được tự do thì chỉ có con đường duy nhất là
phải đứng lên đấu tranh với kẻ thù hung bạo.
- Bi kịch của Tnú khi chưa cầm vũ khí cũng là bi kịch của người dân Strá khi chưa giác
ngộ chân lí (bà Nhan, anh Xút bị giặc giết hại). Tnú là người có thừa sức mạnh cá nhân
nhưng với hai bàn tay không có vũ khí trước kẻ thù hung bạo anh đã không bảo vệ
được vợ con và bản thân.
- Tnú chỉ được cứu, dân làng Xô Man chỉ được cứu, được bảo vệ, được giải phóng khi
đã cầm vũ khí đứng lên trong đêm đồng khởi để “Xác mười tên lính giặc ngổn ngang
quanh đống lửa đó.”. (trong hoàn cảnh Tnú bị giặc đốt mười đầu ngón tay).
=> Cuộc đời bi tráng của Tnú qua hình ảnh đôi bàn tay gắn chặt với cuộc đời của dân
làng Xô Man quê mình, là một minh chứng cho chân lí của thời đại đánh Mĩ: "Chúng
nó đã cầm súng, mình phải cầm giáo!" - Phải dùng bạo lực CM để tiêu diệt bạo lực
phản CM. Nghĩa là phải đấu tranh vũ trang.
=> Hình tượng đôi bàn tay Tnú cũng rất điển hình cho con đường đấu tranh đến với
cách mạng của nhân vật này, của dân làng Xô Man, người dân Tây Nguyên đi từ tự
phát đến tự giác, từ bóng tối bước ra ánh sáng, từ nô lệ đến tự do trong thời đại chống
Mĩ. Nói về sự thay đổi, sự chuyển biến này không thể không nhắc đến vai trò của Đảng,
của cách mạng (đại diện là nhân vật Anh Quyết) đã giác ngộ lí tưởng, con đường đấu
tranh cho Tnú, cho dân làng Xô Man.
3. Kết luận chung:
- Tnú đã can đảm vượt lên mọi đau đớn - bi kịch cá nhân, quyết tâm trả thù nhà, đền nợ
nước. Câu chuyện về cuộc đời và con đường đi lên của Tnú mang ý nghĩa tiêu biểu cho
số phận và con đường của các dân tộc Tây Nguyên trong cuộc k/c chống đế quốc Mĩ.
- Nguyễn Trung Thành cũng rất thành công trong việc truyền tải, ngợi ca tấm lòng yêu
nước, căm thù giặc, sự chuyển biến trong nhận thức về cách mạng, đấu tranh cách
mạng của Tnú, của dân làng Xô Man, của người dân Tây Nguyên.

CHIẾC THUYỀN NGOÀI XA ( Nguyễn Minh Châu)


ĐỀ 1: Ngay lúc ấy, chiếc thuyền đâm thẳng vào trước chỗ tôi đứng. Một người
đàn ông và một người đàn bà rời chiếc thuyền. Họ phải lội qua một quãng bờ phá
nước ngập đến quá đầu gối. Bất giác tôi nghe người đàn ông nói chõ lên thuyền
như quát: “Cứ ngồi nguyên đấy. Động đậy tao giết cả mày đi bây giờ”.
Chắc chắn họ không trông thấy tôi. Người đàn bà trạc ngoài bốn mươi, một thân
hình quen thuộc của đàn bà vùng biển, cao lớn với những đường nét thô kệch. Mụ
rỗ mặt. Khuôn mặt mệt mỏi sau một đêm thức trắng kéo lưới, tái ngắt và dường
như đang buồn ngủ. Người đàn ông đi sau. Tấm lưng rộng và cong như lưng một
chiếc thuyền. Mái tóc tổ quạ. Lão đi chân chữ bát, bước từng bước chắc chắn,
hàng lông mày cháy nắng rủ xuống hai con mắt đầy vẻ độc dữ lúc nào cũng nhìn
dán vào tấm lưng áo bạc phếch và rách rưới, nửa thân dưới ướt sũng của người
đàn bà.
Từ chỗ chiếc xe tăng mà tôi đang đứng với chiếc máy ảnh, đi quá mươi bước sâu
vào phía trong có một chiếc xe rà phá mìn của công binh Mỹ, chiếc xe sơn màu
vàng tươi và to lớn gấp đôi một chiếc xe tăng. Hai người đi qua trước mặt tôi. Họ
đi đến bên chiếc xe rà phá mìn. Người đàn bà đứng lại, ngước mắt nhìn ra ngoài
mặt phá nước chỗ chiếc thuyền đậu một thoáng, rồi đưa một cánh tay lên có lẽ
định gãi hay sửa lại mái tóc nhưng rồi lại buông thõng xuống, đưa cặp mắt nhìn
xuống chân.
Lão đàn ông lập tức trở nên hùng hổ, mặt đỏ gay, lão rút trong người ra một
chiếc thắt lưng của lính ngụy ngày xưa, có vẻ như những điều phải nói với nhau họ
đã nói hết, chẳng nói chẳng rằng lão trút cơn giận như lửa cháy bằng cách dùng
chiếc thắt lưng quật tới tấp vào lưng người đàn bà, lão vừa đánh vừa thở hồng
hộc, hai hàm răng nghiến ken két, cứ mỗi nhát quất xuống lão lại nguyền rủa bằng
cái giọng rên rỉ đau đớn: “Mày chết đi cho ông nhờ. Chúng mày chết hết đi cho
ông nhờ!”.
Người đàn bà với một vẻ cam chịu đầy nhẫn nhục không hề kêu một tiếng, không
chống trả, cũng không tìm cách trốn chạy.
Tất cả mọi việc xảy đến khiến tôi kinh ngạc đến mức, trong mấy phút đầu, tôi cứ
đứng há mồm ra mà nhìn. Thế rồi chẳng biết từ bao giờ, tôi đã vứt chiếc máy ảnh
xuống đất chạy nhào tới.
(Trích Chiếc thuyền ngoài xa – Nguyễn Minh Châu, Ngữ văn 12, Tập hai, NXB Giáo dục Việt Nam,
2019).

Anh/chị hãy phân tích đoạn văn bản trên. Từ đó, nhận xét về ngòi bút nhân đạo của
Nguyễn Minh Châu thể hiện trong tác phẩm.
BÀI LÀM:

Nhắc đến Nguyễn Minh Châu là nhắc đến một cây bút của sư thức tỉnh. Các
tác phẩm của ông như những tiếng chuông ngân vang lay động đến những góc
khuất u tối nhất của lòng người, thứ âm thanh thôi thúc con người nhìn lại mình,
nhìn lại những thói quen tưởng rằng đã chuẩn mực. Đọc tác phẩm của Nguyễn
Minh Châu, nhất là những tác phẩm được viết sau năm 1975, người đọc đã thực sự
“tìm thấy trên trang sách nhà văn một sự rung động sâu sắc, một sự quan tâm thực
sự đối với cuộc đời của họ, một niềm tin yêu, một tiếng nói chung” như chính nhà
văn đã mong muốn. Với “Chiếc thuyền ngoài xa”, người phu chữ ấy đã gieo vào
lòng bạn đọc rất nhiều bận bịu, những bận bịu không hề nhẹ nhàng dễ chịu, mà nó
ám ảnh không nguôi. Tôi sẽ chẳng thể quên hình ảnh và số phận cuộc đời của một
gia đình hàng chài khổ đau, bế tắc cùng những điều vỡ ra từ câu chuyện. Ngòi bút
nhân đạo của ông đã khảm vào tâm trí bạn đọc những cảnh huống đầy day dứt về
hiện thực trớ trêu của cuộc đời, như trong đoạn văn bản sau:

“Ngay lúc ấy, chiếc thuyền đâm thẳng vào trước chỗ tôi đứng…Thế rồi chẳng biết
từ bao giờ, tôi đã vứt chiếc máy ảnh xuống đất chạy nhào tới.”
Chiếc thuyền ngoài xa được viết năm 1983, trong bối cảnh xã hội đang rơi
vào khủng hoẳng sau chiến tranh, nhiều nét đẹp trong bản sắc văn hóa dân tộc bị
chao đảo, đời sống người dân lao động hết sức khó khăn thiếu thốn. Sự thật nghiệt
ngã ấy được Nguyễn Minh Châu đề cập đầy sống động trong tác phẩm đã góp
phần tạo những nét vẽ đậm đà cho khuôn mặt hiện thực của văn chương giai đoạn
đổi mới. Hình ảnh chiếc thuyền lưới vó ngoài xa tiến đến gần bờ ngay trước sự ngỡ
ngàng đến sửng sốt của nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng, nó phô bày tất cả hiện thực đớn
đau, nó đã xua tan làn khói lãng mạn phủ lên hình ảnh về một ngư phủ dưới cánh
buồm mờ ảo lúc ban mai trong văn chương trước đó. Nó khiến anh giật mình ớn
lạnh trước sự thật phũ phàng ẩn sau vẻ đẹp mơ hồ huyền ảo mà chỉ vài phút trước
đó anh xúc động đến ngộp thở và ca tụng hết lời rằng “Cái đẹp là đạo đức”. Đoạn
trích khắc họa hình ảnh chiếc thuyền lưới vó đầy thơ mộng tiến đến gần bờ, trên
thuyền bước xuống một người đàn ông và một người đàn bà. Họ đến từ hiện thực,
đến để đánh thức những ảo giác của người nghệ sĩ. Phùng đã như tỉnh dậy sau cơn
mơ đầy lãng mạn.
Câu chuyện về những con người bước ra từ chiếc thuyền lưới vó mà Phùng
chứng kiến không nằm ngoài kết quả tìm kiếm và khám phá cái đẹp của người
nghệ sĩ nhiếp ảnh này. Anh đã mất cả tuần để săn cho kì được một bức ảnh ưng ý
về cảnh biển trong buổi sớm mai. Với sự lao động nghệ thuật nghiêm túc và say
mê, anh đã bắt gặp được cảnh tượng trời cho. Đó là cảnh một chiếc thuyền lưới vó
ngoài xa, ẩn hiện mờ ảo qua “làn sương mù trắng như sữa có pha đôi chút màu
hồng của ánh mặt trời chiếu vào”. Vốn là một con người mang trong mình khát
khao khám phá cái đẹp tuyệt đỉnh, Phùng đã vô cùng xúc động, gần như cuống
quýt. Anh bấm liên thanh hết một phần tư cuốn phim để thu lấy vẻ đẹp đơn giản
mà toàn bích của khung cảnh và tận hưởng những khoảnh khắc trong ngần của tâm
hồn.
Quả thực, nó sẽ là toàn bích nếu như chiếc thuyền không cập bến quá nhanh.
“ Ngay lúc ấy, chiếc thuyền đâm thẳng vào trước chỗ tôi đứng”. Cách mà nó hiện
hình quá nhanh khiến Phùng không kịp định thần. Hẳn là tâm hồn anh còn đang
lâng lâng với niềm hạnh phúc tràn ngập do cái đẹp tuyệt đỉnh vừa mang lại. “Một
người đàn ông và một người đàn bà rời chiếc thuyền”. Người đọc sẽ có cảm giác
đó như một sự đổ bộ, một sự khủng bố về tinh thần, nó đe dọa những giá trị thẩm
mĩ Phùng vừa chiễm lĩnh. Chiếc thuyền cập bến không chỉ tác động một cách sống
sượng lên thị giác của người nghệ sĩ mà còn gây sốc về thính giác với âm thanh tục
tằn, thô lỗ mà anh ta nghe được: “ Cứ ngồi nguyên đấy. Động đậy tao giết cả mày
đi bây giờ.”
Trên hành trình khám phá và tôn vinh cái đẹp, Phùng đã chứng kiến những điều
mình không hề mong muốn. Sự việc diễn ra ngay trước mắt không chỉ phá tan
những xúc cảm đẹp đẽ trong tâm hồn người nghệ sĩ say mê cái đẹp mà còn làm sụp
đổ cả những quan niệm thẩm mĩ, cái chân lí của sự toàn thiện, từ đó vỡ ra biết bao
điều trong suy nghĩ của anh. Hiện thực trần trụi, tàn nhẫn cứ thế phơi bày mặc cho
người nghệ sĩ có thể bị tổn thương thế nào.
Trước hết đó là hiện thực về cuộc sống khổ cực, lam lũ của người dân miền
biển qua sự chú ý quan sát của Phùng, qua ngòi bút miêu tả chân dung đầy tài năng
của Nguyễn Minh Châu. Xuất hiện trước mắt Phùng là “Người đàn bà trạc ngoài
bốn mươi, một thân hình quen thuộc của đàn bà vùng biển, cao lớn với những
đường nét thô kệch. Mụ rỗ mặt. Khuôn mặt mệt mỏi sau một đêm thức trắng kéo
lưới, tái ngắt và dường như đang buồn ngủ.” Đó là sự quan sát bằng cái nhìn cảm
thông, sẻ chia của người nghệ sĩ từng bước ra từ chiến trường gian khổ. Anh thấy ở
họ sự thiệt thòi khi phải lựa chọn nghề chài lưới làm kế mưu sinh. Người đàn bà
kia không mang nét duyên dáng, yểu điệu hay ít nhất cũng là sự nhỏ nhắn tháo vát.
Trái lại, chị có thân hình cao lớn và thô kệch, phù hợp với công việc nặng nhọc đòi
hỏi sức vóc hơn người. “Mụ rỗ mặt”. Và điều ám ảnh hơn là sắc mặt “mệt mỏi, tái
ngắt và dường như đang buồn ngủ” của người đàn bà. Hẳn rằng, khi quan sát,
Phùng đã không khỏi chạnh lòng xót xa. Người đàn bà ấy đã phải trải qua một đêm
dài thức trắng trên biển, chống chọi với sóng gió để mưu sinh. Những nhọc nhằn
hằn in lên khuôn mặt và cả tấm lưng áo bạc phếch, rách rưới, ướt sũng nửa thân
dưới của mụ.
Cùng với sự xuất hiện của người đàn bà không còn sức sống ấy là một người
đàn ông đi sau đầy vẻ độc dữ : “Tấm lưng rộng và cong như lưng một chiếc
thuyền. Mái tóc tổ quạ. Lão đi chân chữ bát, bước từng bước chắc chắn, hàng lông
mày cháy nắng rủ xuống hai con mắt đầy vẻ độc dữ”. Tất cả những đặc điểm ấy
đều cho thấy cuộc đời khổ cực của lão. Từ tấm lưng cong bởi nhũng lần gò người
đẩy thuyền ra khơi; mái tóc tổ quạ xác xơ vì cái mặn mòi của gió biển; hàng lông
mày cháy nắng vì chuỗi ngày dài cơ cực dãi dầu với nắng gắt ngoài khơi. Ánh mắt
đầy vẻ độc dữ của lão chất chứa bao nhiêu nỗi cùng cực, bế tắc, và đơn độc, có
khác nào cái lườm đời, hận đời “gờm gờm trông gớm chết” của Chí Phèo trong tác
phẩm của Nam Cam?. Vậy mà, chính họ lại đã là một phần trong cái toàn thiện
toàn mĩ của bức ảnh nghệ thuật mà Phùng vừa chụp. Thật trớ trêu thay!
Lẽ ra, cái đẹp càng đến gần càng mãn nhãn, thì ở đây anh Phùng đã được
chứng kiến một tình huống thật trớ trêu từ những bóng người lố nhố ngồi im như
tượng bước ra ấy.. Họ không chỉ xấu xí về ngoại hình mà từng cử chỉ, hành động
của họ đều khiến Phùng cảm thấy ám ảnh vô cùng. Từ cái nhìn “dán mắt” đầy thù
hận chỉ nhăm nhăm trút giận vào tấm lưng vợ của lão chồng, đến cái “ngước mắt
nhìn” đầy vẻ mệt mỏi về phía chiếc thuyền của người đàn bà. Mụ chỉ muốn chắc
chắn rằng, khoảng cách đã đủ để những đứa trẻ không nhìn thấy điều đau đớn sắp
xảy ra. Phùng cố gắng quan sát và giải mã những cử chỉ của người đàn bà, nhưng
dường như anh cũng bất lực: mụ “đưa một cánh tay lên có lẽ định gãi hay sửa lại
mái tóc nhưng rồi lại buông thõng xuống, đưa cặp mắt nhìn xuống chân.” Sau này
Phùng mới hiểu đó là sự buông xuôi, sự chấp nhận bị ngược đãi của chị , dù sao
chồng chị cũng đã cố gắng kìm nén cơn giận đến lúc này.
Nhà nghiên cứu, phê bình văn học Trần Đình Sử từng nhận xét về Nguyễn
Minh Châu rằng: “Anh là nhà văn có biệt tài sử dụng chi tiết, miêu tả chân dung,
môi trường, khắc họa tâm lí.” Quả đúng như vậy! Chân dung nhân vật được nhà
văn khắc họa bằng những chi tiết, cử chỉ và hành động đặc trưng đầy sống động
như đó không phải là nhân vật văn học mà là con người đời thực vậy. Những chi
tiết miêu tả về lão đàn ông hàng chài đều hùa nhau dẫn đến một hành động tàn độc
diễn ra ngay lập tức: “ lão rút trong người ra một chiếc thắt lưng của lính ngụy
ngày xưa, … quật tới tấp vào lưng người đàn bà”. Hàng loạt các từ ngữ miêu tả
hành động được huy động để diễn tả tình huống bất ngờ như “rút’ thắt lưng, “trút”
cơn giận, quật tới tấp, vừa đánh vừa thở hồng hộc, hai hàm răng nghiến ken két,
nguyền rủa, rên rỉ đau đớn”… Chỉ một đoạn ngắn với tiết tấu kể chuyện gấp gáp,
độc giả thấy ngộp thở, thấy rùng mình đau xót như chính đòn roi của lão đàn ông
đang quất thẳng vào mình vậy. Đó là sự khốc liệt của hiện thực. Nó hoàn toàn đối
lập với cái lãng mạn bay bổng trong cái nhìn của người nghệ sĩ. Dù muốn hay
không thì nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng cũng phải chấp nhận rằng: cái đẹp không phải
lúc nào cũng là đạo đức. Đằng sau cái đẹp có thể ẩn giấu nỗi đau, sự tàn bạo…
Nhưng có lẽ, điều bất ngờ nhất đối với Phùng lại là ở thái độ kì quặc của
người phụ nữ khốn khổ kia: “Người đàn bà với một vẻ cam chịu đầy nhẫn nhục
không hề kêu một tiếng, không chống trả, cũng không tìm cách chạy trốn.” Câu
văn rơi xuống chơi vơi với hàng loạt các từ phủ định triệt để: “không hề kêu”,
“không chống trả”, “không tìm cách chạy trốn”. Điều đó thực sự khó hiểu đối với
Phùng, dù anh vốn là một người nghệ sĩ tinh đời và từng kinh qua chiến tranh, từng
chứng kiến biết bao khổ đau trong kiếp người. Tại sao mụ lại cam chịu? Tại sao
mụ không kêu van, không chống trả? Tại sao mụ không trốn chạy? Phải chăng mụ
đã rạn đòn? Hay đã có một giao kèo nào cho cuộc bạo hành này?Ai có ngờ rằng,
tất cả những đau đớn ê chề mà người phụ nữ khốn khổ ấy gánh chịu đều xuất phát
từ tình yêu thương con đến quặn xé của chị.
Tình huống xảy ra quá nhanh không phải là lí do khiến Phùng rơi vào tâm
trạng “kinh ngạc” đến “há mồm ra mà nhìn”. Hẳn Phùng kinh ngạc là bởi đột nhiên
trong đầu mình đã vỡ ra biết bao điều mới mẻ về cuộc sống. Từ lúc nào, anh đã
“vứt chiếc máy ảnh xuống đất và chạy nhào tới”. Chiếc máy ảnh đắt tiền đang lưu
giữ bức ảnh toàn mĩ, tất cả bỗng trở nên vô nghĩa trước hiện thực. Lúc này, Phùng
không chỉ còn là một người nghệ sĩ yêu cái đẹp, hơn hết, anh đang sống với nhịp
đập trái tim của một người lính bước ra từ chiến trường,đầy nhiệt hiết và nghĩa
hiệp. Anh chạy nhào tới để bênh vực người phụ nữ khốn khổ, đáng thương kia, bỏ
lại sau lưng nghệ thuật và chân lí của sự toàn thiện, tyoàn mĩ.
Trong nhận thức của Phùng vỡ ra: Đằng sau lớp sương mù trắng như sữa
có pha đôi chút màu hồng hồng hồng của ánh mặt trời chiếu vào kia là số phận khổ
đau của những con người. Chiến tranh đã kết thúc, nhưng bình yên không có nghĩa
là đã hết khổ hạnh. Rồi đây, tấm ảnh nghệ thuật của Phùng sẽ chứa đựng cả hình
ảnh về một người đàn bà vùng biển cao lớn với lưng áo bạc phếch có miếng vá ,
nửa thân dưới ướt sũng. Anh hiểu rằng: cái đẹp bắt nguồn từ cuộc sống. Nghệ thuật
chính là cuộc sống! – điều mà trước đó nhiều thập niên Nam Cao đã từng khẳng
định trong tác phẩm của mình, vậy mà thứ nghệ thuật minh họa tồn tại quá lâu đã
khiến người nghệ sĩ quen với lối mòn, ngại rẽ! Có quan tâm tới cuộc sống thường
ngày, nhà văn mới thấu cảm bao cảnh ngộ, mới thấy thương yêu cuộc sống thực
sự.
Nói về giá trị nhân đạo trong tác phẩm văn chương, Nguyễn Minh Châu
từng phát biểu: “Tôi không thể nào tưởng tượng nổi một nhà văn mà lại không
mang nặng trong mình tình yêu cuộc sống và nhất là tình yêu thương con người.
Tình yêu này của người nghệ sĩ vừa là một niềm hân hoan say mê, vừa là một nỗi
đau đớn khắc khoải, một mối quan hoài thường trực về số phận, hạnh phúc của
những người chung quanh mình.” Trong đoạn trích nói riêng, cả tác phẩm Chiếc
thuyền ngoài xa nói chung, ta không chỉ thấy một niềm hân hoan say mê trước cái
đẹp của khung cảnh biển buổi sớm mai; mà qua bức tranh hiện thực cuộc sống dân
chài miền biển, ta còn thấy nỗi đau đớn khắc khoải về số phận con người của tác
giả. Từ cách miêu tả chân dung nhân vật đến giọng kể đầy xót xa, ông đã bày tỏ sự
cảm thông, chia sẻ với những khó khăn, bế tắc của họ, đồng thời góp tiếng nói thể
hiện sự bất bình trước cách mà những con người khốn khổ ấy giải quyết bi kịch
đầy bế tắc: người đàn ông hàng chài dùng cách đánh vợ để giải tỏa căng thẳng, áp
lực cuộc sống. Nhưng hơn hết, đó vẫn là một tiếng nói ngợi ca con người, trong
khổ cực, tối tăm, người đàn bà xấu xí, nghèo khổ ấy vẫn nhận hết thua thiệt, đắng
cay về mình để giữ cái nhìn cuộc sống trong trẻo cho những đứa con. Đó là hạt
ngọc lấp lánh ẩn sâu bên trong con người mà Nguyễn Minh Châu đã khám phá và
tôn vinh.
Với nghệ thuật xây dựng hình ảnh đối lập giữa cái đẹp và cái xấu, giữa lãng
mạn và hiện thực; nghệ thuật miêu tả chân dung nhân vật độc đáo; xây dựng tình
huống truyện bất ngờ, gaiù kịch tính, đoạn trích không chỉ tái hiện một trang trong
hiện thực cuộc đời con người sau chiến tranh, mà còn thể hiện chiều sâu tư tưởng,
và tấm lòng nhân đạo của Nguyễn Minh Châu. Cùng với tác phẩm, đoạn trích đã
khảng định Nguyễn Minh Châu thực sự là người mở đường tinh anh và tài năng
cho nền văn học Việt Nam. Ông là một trong số người hiếm hoi chạm được vào
những vỉa quặng lớn của đời sống (Phong Lê), và “Chiếc thuyền ngoài xa” là một
thứ quặng chắt lọc từ đời sống bằng ngòi bút tự sự triết lí giàu ý nghĩa. Qua đoạn
trích, bài học cho người sáng tác cũng được đặt ra gay gắt: để trở thành nhà nghệ sĩ
– nhà tư tưởng trong công cuộc đổi mới hôm nay, nhà văn buộc phải chấp nhận sự
đớn đau để cắt bỏ trên thịt da, gạn chắt trong máu tuỷ tất cả những gì đang làm
phương hại cho một cơ thể cường tráng.” Qua thái độ nghiêm túc trên con đường
phấn đấu tự hoàn thiện mình của nhà văn, độc giả cũng có được những thông điệp
thật sâu sắc.

ĐỀ 2: Có ý kiến cho rằng hình tượng người đàn bà hàng chài trong Chiếc thuyền
ngoài xa chính là “hạt ngọc ẩn giấu trong bề sâu tâm hồn con người” mà nhà văn
cất công tìm kiếm. Hãy làm sáng tỏ ý kiến trên.
BÀI LÀM:
Nguyễn Minh Châu là một trong số những nhà văn tiêu biểu với rất nhiều
các tác phẩm được sáng tác trong thời kì kháng chiến chống Mĩ và hậu chiến tranh.
Như lời đánh giá của nhà văn Nguyễn Khải “Nguyễn Minh Châu là người kế tục
xuất sắc những bậc thầy của nên văn xuôi Việt Nam và cũng là người mở đường
rực rỡ cho những cây bút trẻ tài năng sau này”. Ông đã để cho lớp người đi sau
một tác phẩm rất đặc sắc mang tên Chiếc thuyền ngoài xa với nguồn cảm hứng vô
tận và những bài học từ cuộc sống. Nhân vật trung tâm cho câu chuyện của ông
chính là người đàn bà hàng chài - người phụ nữ xuất hiện thật lem luốc, xấu xí,
nhưng ẩn sâu trong bề ngoài lấm láp đó là cái lấp lánh của vẻ đẹp tâm hồn. Chính
vì vậy mà đã có ý kiến cho rằng: Hình tượng người đàn bà hàng chài trong Chiếc
thuyền ngoài xa chính là “hạt ngọc ẩn giấu trong bề sâu tâm hồn con người” mà
nhà văn cất công tìm kiếm.
Nguyễn Minh Châu (1930-1989) là gương mặt nhà văn tiêu biểu trong văn
học giai đoạn chống Mỹ và sau giải phóng. Ông là một trong số những nhà văn đầu
tiên của thời kì đối mới đã đi sâu khám phá sự thật đời sống ở bình diện đạo đức,
thế sự. Ngòi bút ấy giàu trách nhiệm, giàu suy tư, trăn trở và khám phá. Chiếc
thuyền ngoài xa được in lần đâu trong tập Bến quê, sau được tác giả lấy làm tên
chung cho cả tập truyện ngắn từ truyện Bức tranh trở đi, in năm 1987. Chiếc
thuyền ngoài xa là truyện ngắn rất tiêu biểu trong văn nghiệp của Nguyên Minh
Châu, đông thời cũng là tác phẩm tiêu biểu cho hướng tiếp cận đời sống từ góc độ
thế sự của nhà văn ở giai đoạn sáng tác thứ hai - hậu chiến tranh.
Hình tượng người đàn bà hàng chài trong Chiếc thuyền ngoài xa chính là
“hạt ngọc ẩn giấu trong bề sâu tâm hồn con người” mà nhà văn cất công tìm kiếm.
Có thể hiểu “hạt ngọc ẩn giấu trong bề sâu tâm hồn con người” để chỉ vẻ đẹp tâm
hồn, điều làm nên giá trị của một con người, vẻ đẹp của người đàn bà hàng chài, đó
không phải là vẻ đẹp của ngoại hình, mà là vẻ đẹp tâm hồn được giấu kín bởi vẻ
ngoài lấm láp, thô kệch xấu xí. Vẻ đẹp ấy nếu không đi sâu, khám phá sẽ không
bao giờ thấy được, cảm nhận được.
Người đàn bà hiện lên trong câu chuyện của nhiếp ảnh gia Phùng là một
người đầy nhọc nhằn, lam lũ. Chị là hiện thân của những thống khổ của người phụ
nữ làm nghề chài lưới. Nguyễn Minh Châu với những nét vẽ tinh tế đã phác họa
nên một hình ảnh giàu sức gợi “Người đàn bà chạc ngoài 40, một thân hình quen
thuộc của đàn bà vùng biển, cao lớn với những đường nét thô kệch. Mụ rỗ mặt.
Khuôn mặt mệt mỏi sau một đêm thức trắng kéo lưới, tái ngắt và dường như đang
buồn ngủ”. Đối với một người phụ nữ, ngoại hình xấu xí cũng là một bất hạnh. Bởi
hệ lụy của nó khiến cho cuộc đời người đàn bà hàng chài thêm bao cơ cực. Vì vốn
dĩ người đàn bà ấy sinh ra trong một gia đình khá giả ở đất liền, rõ ràng cái cơ cực
của bà nó đến khi bà lập gia đình. Còn trước đó, ắt hẳn cuộc đời người đàn bà dễ
chịu hơn rất nhiều. Nhưng vì khuôn mặt rỗ chằng chịt sau một bận lên đậu mùa,
nên trai trong phố không ai lấy. Lẽ vì thế, nên người đàn bà luôn thầm biết ơn
người con trai hàng chài đã lấy mình. Cho mình được làm vợ, làm mẹ. Nhưng
đồng thời với đó, cái khắc nghiệt của cuộc đời mới ập xuống.
Đời người đàn bà hàng chài ấy chìm trong cái vòng luẩn quẩn của cái nghèo
đói, đông con bám riết. Nỗi khổ trực tiếp, là nguyên nhân chính cho bao xung đột,
khổ đau với người đàn bà hàng chài chính là nghèo đói. Cái nghèo nó bám riết từ
khi đất nước còn chiến tranh đến khi đất nước đã yên bóng giặc. Có những ngày
biển động, gia đình đó đã phải ăn món xương rồng luộc chấm muối cả tháng trời.
Cái thứ thức ăn mà đến cả vật còn chê. Đó không chỉ là nỗi khổ đau về vật chất,
mà hệ lụy của nó còn tai hại không ngờ. Cái nghèo đói khiến người chồng trở nên
cục cằn thô lỗ. Cái nghèo khiến những đứa con phải chịu món ăn khủng khiếp ròng
rã, ngày này tháng nọ. Và tất cả những khó chịu ấy, nỗi đau ấy, người đàn bà phải
hứng chịu gấp đôi so với những thành viên còn lại. Bởi, khi túng quẫn, người
chông đã trút sự bế tắc vào lưng vợ. Và có người mẹ nào, nhìn thấy những đứa con
đói khát lại cam tâm.
Nỗi khổ thứ hai bám riết gia đình người đàn bà hàng chài chính là đông con,
với những gia đình ngư dân, nhà nào cũng một sắp con trên dưới 10 đứa. Ta có thể
tưởng tượng cảnh trên con thuyền lưới vó chật chội, bầy con nheo nhóc, công việc
thì cực nhọc, lại thêm bụng mang dạ chửa. Chưa kể, như ông cha ta từng nói:
“người chửa là cửa mả”, thêm điều kiện thiếu thốn, những lần sinh nở là chạm đến
lưỡi hái tử thần. Hơn nữa, thêm một đứa con là gia đình phải gánh thêm một miệng
ăn.
Nỗi khố thứ ba với người đàn bà hàng chài chính là nỗi khổ từ nạn bạo hành.
Người đàn bà bị đánh đập từ chính người mình yêu thương và hết mực mang ơn.
Cho nên, không chỉ gây nên nỗi đau đớn về mặt thể xác, nỗi đau về mặt tinh thần
lại càng thêm nặng nề. Hơn nữa, mỗi lần cảnh bạo hành diễn ra, tố ấm lại thêm một
lần lung lay, rạn vỡ, nhưng đứa con lại thêm những rạn nứt tâm hồn, tuổi thơ bị
hủy hoại.
Những nỗi khổ kể trên là phần ngoài, là hiện thân lấm láp vây bọc lấy chị,
nhưng ẩn sâu bên trong là vẻ đẹp toả sáng. Trước hết là vẻ đẹp của lòng bao dung,
nhân ái và vị tha. Nếu như cả Phác, Đẩu, Phùng đều nhìn người đàn ông hàng chài
với một thái độ hằn học, căm phẫn, đều chung quan điểm, đó là một kẻ vũ phu, tàn
nhẫn... thì với người đàn bà, chị đã nhìn chồng mình như một nạn nhân của đói
nghèo. Trước đây, chồng chị chưa bao giờ đánh chị, là người đàn ông hiền lành
cục tính. Người đàn ông ấy đã từ chối đi lính cho Ngụy, từ chối chĩa mũi súng vào
đồng bào mình, ắt hẳn không thể là người xấu. Hơn thế nữa, trên thuyền cũng có
lúc vợ chồng hòa thuận, vui vẻ. Người phụ nữ ấy nhận hết phần thua thiệt về mình,
nhận hết trách nhiệm về mình. Chị nhận mình là kẻ không nhan sắc: “từ nhỏ tôi đã
là một đứa con gái xấu xí”. Nhận mình khổ là do đẻ nhiều: “cũng tại đàn bà ở
thuyền chúng tôi đẻ nhiều quá”. Với chồng, trong suốt câu chuyện dài dằng dặc
của đời mình người đàn bà không tỏ ra oán giận.
Ẩn đằng sau lóp vỏ thất học, lam lũ kia, người đàn hàng chài hiện lên là
người phụ nữ rất thấu hiểu lẽ đời. Nguyễn Minh Châu đã đặt ra một tình huống độc
đáo, là lúc người đàn bà đột ngột thay đổi cách xưng hô từ “con” thành “chị”. Sự
thay đổi ngôi thứ này khiến cho Phùng và Đẩu không khỏi ngạc nhiên. Có thể nói
đây là “cuộc cách mạng trong xưng hô của người đàn bà”; và sau đó làm nên “cuộc
cách mạng trong nhận thức” của Phùng và Đẩu (chữ dùng của GS. Nguyễn Đăng
Mạnh). Trong vai “chị”, người đàn bà sắc sảo ấy đã làm thay đổi nhận thức một
chiều của Phùng và Đẩu. Chị lên án họ vì thiếu sự đồng cảm, thiếu cái nhìn khách
quan. Không thể bỏ chồng dù hắn tàn bạo cũng bởi vì chị hiểu thế nào là “nỗi vất
vả của người đàn bà trên một chiếc thuyền không có đàn ông”; người đàn ông là
trụ cột của gia đình; sẽ như thế nào nếu bi kịch ly hôn xảy ra? Chị và sắp nhỏ sẽ
sống như thế nào khi không có người đàn ông đê chèo chông khi phong ba”; không
có người đàn ông khoẻ mạnh, biết nghề, làm ăn nuôi con thì cuộc sống của người
phụ nữ và đàn con sẽ như thế nào giữa đại dương của số phận? Rõ ràng Phùng và
Đẩu là những kẻ có học, nhưng các anh còn thiếu vốn sống, thiếu sự từng trải.
Chính điều này đã mang đến sự đánh giá, nhìn nhận thiếu khách quan, thiếu sự
cảm thông.
Và cuối cùng, vẻ đẹp lấp lánh trong tâm hồn người đàn bà hàng chài hiện lên
qua tình yêu thương con vô bờ bến, người phụ nữ truyền thống ấy luôn quan niệm:
lấy chồng thì phải theo chồng rồi nuôi cho con khôn lớn. Chị chấp nhận tất cả vì
con: “Đàn bà ở thuyền chúng tôi phải sống cho con chứ không thể sống cho mình
như ở trên đất được!”. Tình thương con ở người mẹ ấy sâu sắc đáng ngưỡng mộ.
Vì thương con mà chị quặn lòng gửi thằng Phác lên rừng ở với ông ngoại nó. Vì
thương con và để tránh sự tổn thương cho những tâm hồn con trẻ nên chị đã bảo
lão chồng có đánh thì “đưa tôi lên bờ mà đánh”. Tình thương con ấy không chỉ
gắn liền với cảm xúc, tình cảm mà còn gắn liền với lý trí và trách nhiệm của một
người mẹ. Chị luôn nhìn về các con, lấy các con làm điểm tựa, là chỗ dựa tinh thần
để sống. Khi nhắc đến con, mắt chị sáng lên niềm vui và hạnh phúc. Câu trả lời của
chị cũng đầy vẻ tự hào: “Vui nhất là lúc ngồi nhìn đàn con tôi chúng nó được ăn
no...”. Chị đã lấy những niềm vui bé nhỏ góp nhặt trong cuộc đời để khỏa lấp niềm
đau, lấy niềm tin để vá vết thương đời cay cực.
Khép những trang sách kể về cuộc đời một người đàn bà vô danh trên vùng
biển, nhưng dư âm của câu chuyện vân cứ day dứt, ám ảnh người đọc. Phải chăng
sau câu chuyện rất buồn này, trái tim nhân hậu của Nguyễn Minh Châu vẫn ấm áp
niềm tin yêu cuộc sống, trân trọng vẻ đẹp của tuổi thơ, của tình mẫu tử, sự can đảm
và tấm lòng bao dung của người phụ nữ? Đó không phải là vẻ đẹp chói chang, hào
hùng mà là những hạt ngọc khuất lấp, lẫn trong cái lấm láp, lam lũ của đời thường.

ĐỀ 3:
Giá tôi đẻ ít đi, hoặc chúng tôi sắm được chiếc thuyền rộng hơn, từ ngày cách
mạng về đã đỡ đói khổ chứ trước kia vào các vụ bắc, ông trời làm động biển suốt
hàng tháng, cả nhà vợ chồng con cái toàn ăn cây xương rồng luộc chấm muối…
- Lão ta hồi bảy lăm có đi lính ngụy không? Tôi bỗng hỏi một câu như lạc đề.
- Không chú à, cũng nghèo khổ, túng quẫn đi vì trốn lính-bỗng mụ đỏ mặt -
nhưng cái lỗi chính là đám đàn bà ở thuyền đẻ nhiều quá, mà thuyền lại chật.
- Vậy sao không lên bờ mà ở - Đẩu hỏi.
- Làm nhà trên đất ở một chỗ đâu có được cái nghề lưới vó? Từ ngày cách mạng
về, cách mạng đã cấp đất cho nhưng chẳng ai ở, vì không bỏ nghề được!
- Ở trên thuyền có bao giờ lão ta đánh chị không ?- Tôi hỏi.
- Bất kể lúc nào thấy khổ quá là lão lôi tôi ra đánh, cũng như đàn ông thuyền
khác uống rượu…Giá mà lão uống rượu…thì tôi còn đỡ khổ…Sau này con cái lớn
lên, tôi mới xin được với lão…đưa tôi lên bờ mà đánh…
- Không thể nào hiểu được,Không thể nào hiểu được!- Đẩu và tôi cùng một lúc
thốt lên.
- Là bởi vì các chú không phải là đàn bà, chưa bao giờ các chú biết như thế nào
là nỗi vất vả của một người đàn bà trên một chiếc thuyền không có đàn ông…
- Phải, phải, bây giờ tôi đã hiểu,- bất ngờ Đẩu trút một tiếng thở dài đầy chua
chát, - trên thuyền phải có một người đàn ông… dù hắn man dợ, tàn bạo…
- Phải…Người đàn bà đáp – Cũng có khi biển động sóng gió chứ chú?
- Không thể nào hiểu được, không thể nào hiểu được! Đẩu và tôi cùng lúc thốt
lên.”…
(Trích Chiếc thuyền ngoài xa – Nguyễn Minh Châu, Ngữ văn 12, Tập hai,
NXB Giáo dục Việt Nam, 2019).
Phân tích nhân vật người đàn bà hàng chài qua đoạn trích trên. Từ đó nhận
xét về tấm lòng nhân đạo của Nguyễn Minh Châu.
BÀI LÀM:
Nhắc đến Nguyễn Minh Châu là nhắc đến một nhà văn mặc áo lính – người
đồng hành sát sao với thời đại. “Trước sau, Nguyễn Minh Châu chỉ “hành quân”
trên một con đường lớn. Đó là đại lộ chiến đấu vì quyền sống, và quyền hạnh phúc
của con người”
( Đoàn Trọng Huy). Mỗi trang viết của ông đều thấm thía sự dằn vặt, day dứt của
một tâm hồn nhân ái trước hiện thực éo le, ngang trái. Bênh vực và tôn vinh những
vẻ đẹp khuất lấp ẩn chứa trong tâm hồn những con người lao động nghèo khổ là
mục tiêu quan trọng trong nhiều sáng tác của ông. Ở “Chiếc thuyền ngoài xa” cũng
vậy, ta thấy trong cái dằn vặt đau đớn của người nghệ sĩ đi tìm chân lí lấp lánh ánh
sáng của niềm tin yêu con người thiết tha, trìu mến. Niềm tin ấy, tình yêu ấy ông
dành cho nhân vật người đàn bà hàng chài khốn khổ trong câu chuyện. Qua những
phát hiện đầy bất ngờ của nhân vật Phùng, vẻ đẹp của người phụ nữ ấy được bộc lộ
đầy ấn tượng. Đoạn trích kể về cuộc gặp gỡ và đối thoại giữa Phùng, Đẩu và người
đàn bà ở tòa án huyện sau đây đã thể hiện rất rõ điều đó: “Trong phút chốc ngồi
trước mặt chúng tôi lại vẫn là một người đàn bà đầy lúng túng, đầy sợ sệt nhưng có
vẻ thông cảm với chúng tôi hơn...Đẩu và tôi cùng lúc thốt lên.”
Tôi từng nghe câu nói “phụ nữ sinh ra là để được yêu thương”, bởi từ khi
sinh ra phụ nữ đã được mặc định là phái đẹp. Đã là đẹp thì đâu cần phải cố công đi
tìm kiếm và phát hiện? Nhưng, cuộc đời vốn dĩ không đơn giản thế! Ai có thể nhận
ra vẻ đẹp mang thiên tính nữ ở người đàn bà hàng chài trong câu chuyện nếu
không phải là Nguyễn Minh Châu? Chị không có nhan sắc, không mang nét yểu
điệu, duyên dáng của một người phụ nữ. Chị xấu xí, thô kệch,và nghèo khổ. Tất cả
đều hiện lên rõ ràng ngay trong cái nhìn đầu tiên của Phùng khi thấy chị bước
xuống thuyền cùng người chồng vũ phu độc ác. Nếu chỉ nhìn vào vẻ bề ngoài tiều
tụy, khổ sở của chị, nghệ sĩ Phùng sẽ chỉ cảm thấy ái ngại và xót xa cho một kiếp
người chịu quá nhiều thua thiệt. Chỉ khi tiếp xúc với người phụ nữ ấy ở tòa án
huyện, Phùng mới hiểu ra phẩm chất tốt đẹp khuất lấp phía sau cái khắc khổ, tiều
tụy và lạc hậu của chị.
Xuất hiện trong tâm thế là người bảo vệ công lí, từng xả thân bênh vực, bảo
vệ người phụ nữ khỏi đòn roi của chồng, Phùng, cũng như Đẩu, tưởng mình có lợi
thế giao tiếp, họ dùng lợi thế ấy để khuyên người đàn bà đó bỏ chồng, chấm dứt
những chuỗi ngày đau đớn. Nhưng họ lại nhận được phản ứng đầy bất ngờ của
người đàn bà hàng chài: “ Con lạy quý tòa…Quý tòa bắt tội con cũng được, phạt tù
con cũng được, đừng bắt con bỏ nó.” Rồi, để bảo vệ gia đình mình chị bỗng trở
nên “to gan”khi tự bước lên vị thế cao hơn để giành lấy cái quyền được phân trần,
giảng giải tại sao mình không thể làm theo lời khuyên của hai con người tốt bụng
ấy. Một lần nữa, Phùng đã thực sự hoang mang khi nhận ra vốn sống, vốn kinh
nghiệm của mình trở nên ít ỏi so với hiện thực mà anh đang chứng kiến. Trước
người đàn bà kì lạ ấy, Phùng chỉ như một cậu thiếu niên non nớt, chưa hề thấu
hiểu lẽ đời vậy. Chính người phụ nữ đáng thương ấy đã dạy cho Phùng bài học quý
giá về sự thận trọng trong cách nhìn nhận và đánh giá một con người.
Trước hết, Phùng nhận ra chị là người phụ nữ biết cảm thông, sẻ chia với
chồng – một trong những lí do khiến chị có thể chịu đựng những đòn roi “ba ngày
một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng” từ con người vũ phu ấy. Chị luôn tự nhủ
mình là người may mắn vì có được chồng. Chị tâm sự: “Từ nhỏ tuổi tôi đã là một
đứa con gái xấu, lại rỗ mặt, sau một bận lên đậu mùa. Hồi bấy giờ nhà tôi còn khá
giả,….Cũng vì xấu, trong phố không ai lấy”. Giống như thị Nở mang lòng yêu của
một người chịu ơn Chí Phèo (“Chí Phèo” – Nam Cao), trong lời kể của mình,
người đàn bà hàng chài muốn nói đến cái ơn đó để bào chữa cho những hành động
ngược đãi của chồng. Hắn đã chấp nhận lấy chị thì bổn phận của chị phải phục
tùng hắn.
Khi nói về lão chồng vũ phu, chị không có một lời nào trách móc hay than
vãn, trái lại chị dành những lời lẽ trìu mến và đầy cảm thông khiến Phùng và Đẩu
ngỡ ngàng: “Lão chồng tôi là một anh con trai cục tính nhưng hiền lành lắm, không
bao giờ đánh đập tôi”. Cách chị nhấn mạnh vào ưu điểm vốn có của chồng cho
thấy chị đã từng có những giây phút hạnh phúc và chị đã từng rất hài lòng về người
chồng của mình. Đương nhiên, đó vẫn là một quá khứ đẹp đẽ, bình yên và nguyên
vẹn trong tâm trí chị. Ngay cả lúc bị ngược đãi tàn bạo bởi chính lão chồng ấy chị
cũng vẫn không hề phủ nhận điều đó. Dường như những suy nghĩ đó trở thành liều
thuốc giảm đau cho những trận đòn chị phải chịu, nó góp phần xí xóa hết những
vết thương trên thịt da và tinh thần của chị khi bị chồng bạo hành.
Suốt cuộc đối thoại đầy căng thẳng với những người lắm chữ nhiều nghĩa,
người phụ nữ ấy vẫn kiên trì bảo vệ người chồng bằng những lí lẽ chắt ra từ chính
cuộc đời khổ cực của dân hàng chài. “Giá tôi đẻ ít đi, hoặc chúng tôi sắm được một
chiếc thuyền rộng hơn…”. Câu nói bỏ ngỏ để mặc người nghe xâu chuỗi lập luận.
Chị muốn nói rằng sự thay đổi của người chồng là do chị, do cuộc sống túng quẫn
quá. Như vậy, chồng chị cũng là nạn nhân của cái đói, cái nghèo, cái lạc hậu, mà
chị là một phần nguyên nhân.Chị không thể trách cứ chồng mình được, bởi cũng
như chị và những đứa con, chồng chị cũng phải ăn xương rồng luộc chấm muối để
qua cơn đói lòng. Dường như, chưa bao giờ người phụ nữ hàng chài này có mảy
may suy nghĩ gạt bỏ người đàn ông khổ sở ấy ra khỏi cuộc đời mình. Với chị, gã
đàn ông độc dữ ấy đáng thương hơn là đáng trách. Quả thực, chị rất bao dung và
nhân hậu!
Mặc cho người đàn bà phân bua, Phùng tiếp tục nỗ lực tìm lấy một lời giải
thích thỏa đáng hơn cho tính vũ phu của gã đàn ông hàng chài bằng câu hỏi như lạc
đề: “Lão ta hồi bảy nhăm có đi lính ngụy không?”, thì người đàn bà ấy có cơ hội
thể hiện sự cảm thông rõ hơn với chồng mình: “Không chú à, cũng nghèo khổ,
túng quẫn đi vì trốn lính”. Rõ ràng, chị đang chứng minh cho Phùng và Đẩu thấy
bản chất tốt đẹp của chồng. Chồng chị cũng biết phân biệt lẽ đúng sai, cũng có
trách nhiệm với quê hương, cũng căm thù kẻ xâm lược như bất kì người dân yêu
nước nào thời đó. Mỗi câu nói của chị đều bênh vực người chồng và kèm luôn lời
nhận lỗi về mình: “cái lỗi chính là đám đàn bà ở thuyền đẻ nhiều quá, mà thuyền
lại chật”. Đây là lần thứ hai chị nói đến điều này, nhưng với giọng thành khẩn hơn,
xót xa hơn. Dường như điều đó làm chị day dứt mãi, nhận ra thì đã quá muộn rồi.
Lí lẽ của người đàn bà lạc hậu ấy chưa thể thuyết phục được Phùng và Đẩu
cảm thông với lão đàn ông từng đánh chị như đánh một kẻ thù không dung thứ. Họ
ngờ vực, họ liên tiếp chất vấn chị. Nhưng, ngay cả khi nói đến điều đau đớn nhất;
“Bất kể lúc nào thấy khổ quá là lão xách tôi ra đánh” chị cũng phải tìm cho được lí
lẽ để bênh vực chồng. Rằng lại vẫn là do cùng quẫn quá, bế tắc quá mà thành ra
độc ác. Đàn ông thuyền khác uống rượu để giải tỏa những căng thẳng còn lão
chồng chị lại không uống rượu. Và đánh chị là cách giải tỏa căng thẳng của lão.
Chị cố gắng thuyết phục quan tòa tin rằng sự vũ phu của lão không xuất phát từ
một tâm địa độc ác mà chỉ là một cách để giải tỏa những áp lực cuộc sống mà thôi.
Minh chứng là, lão chấp nhận lời cầu xin của chị: đưa chị lên bờ mà đánh. Lão
thực hiện rất nghiêm túc lời hứa của mình, dù rằng, chịu đựng một cơn giận dữ
đang trào sôi, giần giật ở các thớ thịt, đường gân , bốc hỏa ngầu ngầu trong mắt là
vô cùng khó khăn. Lão vẫn chịu đựng cho tận tới lúc đưa chị khuất khỏi tầm nhìn
của lũ nhỏ mới động thủ. Hẳn rằng sự chịu đựng ấy cũng phải xuất phát từ ý thức
trách nhiệm của lão với các con, với gia đình mình. Chị thấu hiểu và biết ơn lão vì
điều đó. Và trong vai trò người chất vấn, Phùng và Đẩu đã thực sự bất lực, cả hai
đều kinh ngạc thốt lên: “Không thể nào hiểu được, không thể nào hiểu được!”.
Thật khó có thể tưởng tượng sức chịu đựng của người đàn bà ấy và tấm lòng cảm
thông, sẻ chia không hề có giới hạn của chị. Nhất nhất mọi suy nghĩ, lời nói của chị
đều chống lại ý định của Phùng và Đẩu. Cho dù có cố gắng thế nào cũng không thể
làm lung lay tinh thần của chị. Phùng lại học được một sàng khôn! Anh hiểu ra
rằng, thực tế cuộc sống có những khi còn khốc liệt hơn cả những trận tuyến mà anh
đã đi qua.
Sự cảm thông, sẻ chia với chồng của chị cũng xuất phát từ vốn hiểu biết, vốn
sống, sự thấu tỏ lẽ đời của chị, hoàn toàn khác hẳn với cảm nhận ban đầu của
Phùng. Chị hiểu rất rõ rằng căn nguyên của sự khổ cực trong cuộc sống người dân
chài là đẻ quá nhiều “mỗi nhà trên dưới chục đứa mà thuyền thì chật. Cái khó nó
bó cái khôn, biết thế mà không thể tự tháo gỡ khó khăn được nên cuộc sống càng
rơi vào bế tắc, quẩn quanh: “Làm nhà trên đất ở một chỗ đâu có thể làm được cái
nghề thuyền lưới vó”. Chị cũng hiểu rằng, nghề chài lưới bấp bênh, nguy hiểm và
cực khổ, luôn cần có người đàn ông chèo chống, dù người đó có tàn bạo đến đâu.
Chị cũng hiểu cái tàn bạo của người chồng là do áp lực cuộc sống, do bế tắc. Hiểu
biết cộng với tấm lòng nhân hậu bao dung đã khiến chị chấp nhận đồng hành cùng
lão chồng tàn tệ để duy trì sự sống cho cả gia đình.
Nhưng điều khiến Phùng kinh ngạc nhất lại là cách mà người đàn bà hàng
chài thể hiện tình yêu thương đàn con của chị. Trong cuộc đối thoại ở tòa án
huyện, từ lúc chị xuất hiện ở tòa án khúm núm và sợ sệt, ta có thể nhận ra đó
không phải chỉ là cảm giác của một người phụ nữ quen với sông nước lần đầu đến
nơi công sở mà ẩn sâu bên trong là nỗi lo lắng cho tương lai của các con. Trong
cuộc chất vấn sắp diễn ra, nếu chị đuối lí trước quan tòa, rất có thể các con của chị
sẽ không còn bố. Chị đến với một quyết định đã đinh ninh nhưng lại sợ mình bé
mọn không đủ lí lẽ để thuyết phục quý tòa nghe theo.
Nếu nỗi sợ hãi về một gia đình đổ vỡ làm cho chị bỗng nhiên sắc sảo, mạnh bạo,
hơn trước quan tòa thì trong tình huống buộc phải chia sẻ thì chính nó cũng đã giữ
chị ngồi lại bình tĩnh, kể tường tận về lão chồng mình cho quý tòa nghe. Chị tha
thiết mong nhận được sự cảm thông và chia sẻ từ phía Phùng và Đẩu để họ từ bỏ ý
định khuyên chị bỏ chồng. Không phải vì yêu thương hắn, mà trên hết, đó là vì các
con của chị cần có bố, vì gia đình cần có một người đàn ông để chèo chống những
lúc sóng to gió lớn. Ngay cả trong cái cách mà chị kể về người chồng của mình
cũng thể hiện nỗ lực bảo vệ gia đình mình cho các con. Với chị, sự đổ vỡ của gia
đình đáng sợ hơn tất cả các trận đòn cộng lại. Quả thật,nhà văn đã quan sát và miêu
tả rất tinh tế, chính xác từ thái độ, cử chỉ đến điệu bộ, lời nói của chị - một người
mẹ hết lòng hi sinh bản thân vì các con.
Với lão chồng vũ phu, chị chấp nhận làm cây thịt để hắn trút xuống những
uất ức, những đắng cay, tủi nhục của kiếp nghèo. Một phần như để nhận lỗi, một
phần như để sẻ chia với hắn những áp lực cuộc sống. Nhưng dù không thể tránh
nổi đòn roi, chị vẫn cố xin với chồng đưa chị lên bờ mà đánh. Đúng là “không thể
nào tin nổi”, chỉ chị mới có nguyện vọng kì quặc thế! Không phải chị xin vì mình,
mà vì các con. Chị muốn tránh cho chúng khỏi những cảm xúc tiêu cực. Đau đớn,
sợ hãi, thù hận sẽ giết chết tâm hồn non nớt ngây thơ của những đứa trẻ. Chúng đã
quá cơ cực, quá thiệt thòi, và trong nỗ lực đau đớn của mình, chị phải bảo vệ
chúng, bảo vệ con thuyền số phận trước những sóng gió cuộc đời. Những thương
lo của tình mẫu tử ấy cũng được nữ nhân vật Quỳ trong truyện ngắn “Người đàn bà
trên chuyến tàu tốc hành”của ông chia sẻ: “Đó là bản năng chăm lo bảo vệ lấy sự
sống của con người do chính chúng tôi mang nặng đẻ đau sinh ra. Đó là tình
thương bẩm sinh của nữ tính – sợi dây thần kinh đặc biệt của nữ giới chúng tôi”.
Thật đáng trân trọng biết bao!
Cũng như nhiều nhà văn có tấm lòng nhân đạo khác, Nguyễn Minh Châu
vẫn luôn xót xa trăn trở trước số phận những người phụ nữ lao động nghèo. Bởi dù
ở hoàn cảnh xã hội nào, người đầu tiên chịu thiệt thòi bao giờ cũng là họ. Trong
câu chuyện về cuộc đời người đàn bà không tên ở làng chài ven biển miền Trung
ấy cũng vậy! Nhà văn đã cho thấy biết bao khổ cực, bất hạnh cùng lúc đè lên vai
chị. Nếu như người đàn ông chỉ chịu áp lực nặng nề của cuộc sống mưu sinh thì
chị cũng phải chịu ngần ấy gánh nặng và cộng thêm những trận đòn như cơm bữa
từ người đồng hành trên đường đời cùng chị. Nếu như người chồng được chị chìa
lưng ra san sẻ những đắng cay, uất ức thì chị lại đơn độc chịu đựng những đớn đau
tủi nhục. Đáng thương biết nhường nào! Nhưng ngòi bút nhân đạo của nhà văn
không dừng lại ở những xót xa thương cảm trước số phận bất hạnh của chị mà ông
còn vén kéo những tối tăm bủa vây xung quanh chị, để hé lộ những ánh sáng dịu
dàng lấp lánh của tâm hồn nhân từ, bao dung và giàu tình yêu thương con cái ở chị.
Người đàn bà khốn khổ, đáng thương, đáng trân trọng ấy vẫn là một phần không
thể thiếu của bức ảnh nghệ thuật, thứ nghệ thuật bắt rễ từ hiện thực trần trụi của
cuộc sống nhưng gieo vào lòng người thưởng lãm những xúc cảm thật sâu sắc,
lắng đọng và rưng rưng!
Vẫn là lối kể chuyện linh hoạt, vừa triết lí vừa lãng mạn, nhẹ nhàng, đoạn
trích đã tái hiện một tình huống nhận thức về nhân cách con người đầy độc đáo và
bất ngờ Dưới ngòi bút tài năng của tác giả, nhân vật người đàn bà hàng chài có cơ
hội bộc lộ đầy đủ những phẩm chất tốt đẹp từng khuất lấp sau vẻ bề ngoài lam lũ,
cơ cực khiến người đọc ngỡ ngàng. Viết truyện ngắn này chắc hẳn nhà văn không
chỉ bức xúc vì nạn bạo hành, bạo ngược trong gia đình mà tâm điểm của truyện
hướng vào đề cao, tôn vinh người phụ nữ và khẳng định sức sống bất tử của cái
đẹp thiên tính nữ. Đoạn trích nói riêng, tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa” nói
chungđã mang lại nhiều dư âm trong lòng độc giả: vừa xót xa thương cảm trước số
phận bất hạnh của người đàn bà hàng chài, vừa yêu thương trân trọng những phẩm
chất tốt đẹp ở chị. Gấp trang sách lại, người đọc vẫn còn ám ảnh bởi những suy tư,
trăn trở về kiếp người, nó thật mỏng manh, xa vời, chấp chới như “chiếc thuyền
ngoài xa” không biết đâu là bến đỗ bình yên. Tác phẩm đã góp phần thức tỉnh
lương tri, lòng vị tha, nhân cách, đạo đức của bao người từng đọc và yêu mến nó.

ĐỀ 4: Trong truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa, khi miêu tả gia đình thuyền chài,
Nguyễn Minh Châu viết: “Có lẽ suốt một đời cầm máy ảnh chưa bao giờ tôi được
thấy một cảnh “đắt” trời cho như vậy: trước mặt tôi là một bức tranh mực tầu của
một danh họa thời cổ. Mũi thuyền in một nét mơ hồ lòe nhòe vào bầu sương mù
trắng như sữa có pha đôi chút màu hồng hồng do ánh mặt trời chiếu vào.Vài bóng
người lớn lẫn trẻ con ngồi im phăng phắc như tượng trên chiếc mui khum khum,
đang hướng mặt vào bờ”.
Ở đoạn khác, ông lại viết: “Ngay lúc ấy, chiếc thuyền đâm thẳng vào trước chỗ tôi
đứng. Một người đàn ông và một người đàn bà rời chiếc thuyền...Lão đàn ông lập
tức trở nên hùng hổ, mặt đỏ gay, lão rút trong người ra một chiếc thắt lưng của
lính ngụy ngày xưa... lão trút cơn giận như lửa cháy bằng cách dùng chiếc thắt
lưng quật tới tấp vào lưng người đàn bà, lão vừa đánh vừa thở hồng hộc, hai hàm
răng nghiến ken két, cứ mỗi nhát quất xuống lão lại nguyền rủa bằng cái giọng rên
rỉ, đau đớn: “Mày chết hết đi cho ông nhờ. Chúng mày chết hết đi cho ông nhờ”.
(Nguyễn Minh Châu – Ngữ văn 12, tập 2, NXB Giáo dục, trang)
Từ việc cảm nhận hai đoạn văn trên, anh/ chị hãy làm nổi bật mối quan hệ giữa
nghệ thuật và cuộc sống.
BÀI LÀM:
* Giới thiệu khái quát về tác giả Nguyễn Minh Châu và truyện ngắn “Chiếc thuyền
ngoài xa”.
* Phân tích hai tình huống:
- Phát hiện thứ 1: “Có lẽ suốt một đời cầm máy ảnh chưa bao giờ tôi được thấy một
cảnh “đắt” trời cho như vậy: trước mặt tôi là một bức tranh mực tầu của một danh họa
thời cổ”. Mũi thuyền in một nét mơ hồ lòe nhòe vào bầu sương mù trắng như sữa có
pha đôi chút màu hồng hồng do ánh mặt trời chiếu vào.Vài bóng người lớn lẫn trẻ con
ngồi im phăng phắc như tượng trên chiếc mui khum khum, đang hướng mặt vào bờ”.
+ Đây là cảnh một cảnh kì diệu về chiếc thuyền ngoài xa đang thu lưới trong biển sớm
mờ sương mà Phùng đã chớp được: “mũi thuyền in một nét mơ hồ, lòe nhòe vào bầu
sương mù trắng như sữa…đang hướng mặt vào bờ” . Trong con mắt Phùng, cảnh tượng
đó giống như một bức tranh mực tàu của một danh họa thời cổ.
+ Vẻ đẹp giản dị và toàn bích của thiên nhiên đã đem đến cho nghệ sĩ Phùng niềm hạnh
phúc tột cùng.
=> Chiếc thuyền ngoài xa ẩn hiện trong sương sớm chính là cái đẹp của nghệ thuật
được con người chiêm ngưỡng ở tầm xa.
- Phát hiện thứ 2:
“Ngay lúc ấy, chiếc thuyền đâm thẳng vào trước chỗ tôi đứng. Một người đàn ông và
một người đàn bà rời chiếc thuyền...Lão đàn ông lập tức trở nên hùng hổ, mặt đỏ gay,
lão rút trong người ra một chiếc thắt lưng của lính ngụy ngày xưa... lão trút cơn giận
như lửa cháy bằng cách dùng chiếc thắt lưng quất tới tấp vào lưng người đàn bà, lão
vừa đánh vừa thở hồng hộc, hai hàm răng nghiến ken két, cứ mỗi nhát quất xuống lão
lại nguyền rủa bằng cái giọng rên rỉ, đau đớn: “Mày chết hết đi cho ông nhờ. Chúng
mày chết hết đi cho ông nhờ”.
+ Cảnh tượng nghiệt ngã kinh hoàng: Cảnh bạo hành trong gia đình thuyền chài xảy ra
vô tình trước sự chứng kiến từ đầu đến cuối của nhà nghệ sĩ.
+ Phùng cay đắng nhận ra những ngang trái, xấu xa, bi kịch gia đình nhà chài kia lại
chính là thứ thuốc rửa quái đản lộn trái những thước phim anh đã dày công mới chụp
được.
=> Phát hiện nghịch lí cuộc sống ngay sau bức tranh thiên nhiên đẹp.
* Bình luận, đánh giá ý kiến:
- Hai phát hiện của Phùng cho thấy: Đằng sau bức tranh thuyền và biển tuyệt diệu là
cuộc đời đầy khắc nghiệt với những mảnh đời tội nghiệp. Từ đó tác giả làm nổi bật mối
quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc đời:
+ Cuộc đời không đơn giản xuôi chiều mà chứa đựng nhiều nghịch lí với những mảng
sáng tối, xấu đẹp, thiện ác, thật giả… Quan trọng là chúng ta đừng nhầm lẫn giữa hình
thức bên ngoài và bản chất bên trong, chúng ta phải có cái nhìn đa diện, đa chiều về
cuộc sống.
+ Cuộc đời chính là nơi sản sinh ra cái đẹp nhưng cuộc đời không phải lúc nào cũng
đẹp như nghệ thuật.
+ Người nghệ sĩ trước khi sáng tạo cái đẹp cần phải biết rung động trước những buồn,
vui, đau khổ của cuộc con người.
+ Nghệ thuật vốn nảy sinh từ cuộc đời nhưng để thưởng thức nghệ thuật thì cần phải có
khoảng cách.
* Nghệ thuật:
- Tạo tình huống hấp dẫn
- Cách kể chuyện tự nhiên
- Xây dựng nhân vật gần gũi với đời thường
HỒN TRƯƠNG BA, DA HÀNG THỊT
( Lưu Quang Vũ)
ĐỀ 1: Trong cảnh VII, vở kịch Hồn Trương Ba, da hàng thịt, cuộc đối thoại xác và
hồn là cuộc đối thoại vô cùng gay gắt, mạnh mẽ. Phân tích cuộc đối thoại để thấy
được bi kịch tha hoá của Trương Ba và triết lý nhân sinh Lưu Quang Vũ gửi gắm.
BÀI LÀM:
Từng có nhận định cho rằng: "Có lẽ năm mươi năm trở lại đây, không có
một ai có thể làm được như Lưu Quang Vũ". Lời nhận định không chỉ công nhận
tài năng mà còn khẳng định những đóng góp to lớn của nhà viết kịch Lưu Quang
Vũ đối với nghệ thuật kịch hiện đại. Tên tuổi của Lưu Quang Vũ gắn liền với rất
nhiều vở kịch nổi tiếng như: Mùa hạ cuối cùng, Bệnh sĩ, Lời thề số 9 và tiêu biểu
nhất có thể kể đến Hồn Trương Ba, da hàng thịt. Thành công của Hồn Trương Ba,
da hàng thịt không chỉ là sự tài tình của tác giả khi biến một cốt truyện dân gian
thành một vở kịch hiện đại với cái kết đầy ám ảnh, thành công của vở kịch còn
nằm ở những triết lý ngầm trong từng câu thoại, mà ám ảnh nhất chính là cuộc đối
thoại của hồn Trương Ba và xác anh hàng thịt.
Lưu Quang Vũ, người được mệnh danh là cây bút vàng của sân khấu kịch
Việt Nam, đến với kịch như cơ duyên, Lưu Quang Vũ luôn mang khát vọng được
bày tỏ, muốn được thể hiện tâm hồn mình vào thế giới xung quanh, muốn được
tham dự vào dòng chảy mãnh liệt của đời sống, được trao gửi và dâng hiến. Có
người gọi đó là nguồn nhiệt hứng không bao giờ vơi cạn của ông. Hồn Trương Ba,
da hàng thịt được Lưu Quang Vũ viết năm 1981 nhưng đến năm 1984 mới công
diễn. Vở kịch chia làm 7 cảnh, đoạn trích chúng ta tìm hiểu là cảnh cuối cùng. Vở
kịch được lấy cảm hứng từ truyện Dân gian: Hồn Trương ba, da hàng thịt.
Đoạn trích hồi VII, màn đối thoại giữa hồn và các chính là cảnh mâu thuẫn
được đẩy lên cao trào, bi kịch tha hóa của Trương Ba được bật lên rõ rệt. Mở đầu
đoạn trích là màn độc thoại của Hồn Trương Ba. Tác giả để Trương Ba ngồi ôm
đầu một hồi lâu rồi vụt đứng dậy tuôn ra một trang độc thoại đầy đau khổ “Không!
Không! Tôi không muốn sống như thế này mãi! Tôi chán cái chỗ ở không phải là
của tôi này lắm rồi!... Nếu cái hồn của ta có hình thù riêng nhỉ, để nó được tách
khỏi thân xác này, dù chỉ một lát”. Lời độc thoại cho thấy con người đang ở trạng
thái u uất, bế tắc, không lối thoát. Và trong sự khát khao tách bạch ấy, hồn đã được
tách ra khỏi thể xác vốn không phải của hồn và màn đối thoại bắt đầu. Trong màn
đối thoại giữa hồn Trương Ba và xác hàng thịt này ta thấy lượt lời của Trương Ba
ít hơn và ngắn hơn lời của các hàng thịt. Trong đó những lời thoại đầu là dài nhất,
và mạnh mẽ hơn cả: “A, mày cũng có tiếng nói kia a? Vô li, mày không thể có
tiếng nói mà chỉ là xác thịt âm 14, đui mù”, “Mày chỉ là cái vỏ ngoài, không có ý
nghĩa gì hết, không có tư tưởng, không có cảm xúc!”, “Chỉ là những thứ thấp kém,
mà bất cứ con thú nào cũng có được: thèm ăn ngon, thèm rượu thịt.”
Từ những lời thoại trên, ta nhận ra mấy điều mà Trương Ba đang nghĩ, đang
cảm nhận, cũng như nỗi đau của Trương Ba. Trước hết, Trương Ba phủ nhận hoàn
toàn vai trò của xác thịt. Phủ nhận tiếng nói, phủ nhận tư tưởng, cảm xúc. Và dùng
những lời cay nghiệt vỗ thẳng mặt xác hàng thịt là: thứ âm u đui mù, thứ thấp kém,
là cái vỏ ngoài, ngang bằng với loài thú. Những lời lẽ này cho thấy một sự căm
phẫn của phần hồn. Đặc biệt hơn đây là những lời miệt thị, coi khinh phần xác của
hồn, cũng là cách hồn nâng cao giá trị của mình so với xác.
Thế nhưng, xác thịt cũng có những lý lẽ, những dẫn chứng khiến cho hồn
phải đuối lý. Xác hàng thịt đã cười nhạo hồn Trương Ba, tuyên bố về sức mạnh âm
u, đui mù ghê gớm của mình “Có đấy, xác thịt có tiếng nói đấy. Chính vì âm u đui
mù nên tôi mới có sức mạnh ghê gớm lắm khi lấn át được cái linh hồn cao khiết
của ông”. Như một sự mỉa mai và láu cá, xác đã làm hồn phải ứ nghẹn. Và để
chứng minh, xác đã chỉ ra sự tha hoá của hồn bằng những chứng cứ khiến hồn
không thể chối cãi, xác dẫn dắt hồn vào sự thật không thể phủ nhận. Nếu như trước
đây, Trương Ba là một người thanh cao, một con người đứng đắn, thì nay hồn
Trương Ba ít nhiều đã bị vấy bẩn, tha hóa bởi dục vọng thấp hèn của thân xác:
“Khi ông ở bên nhà tôi... Khi ông đứng bên cạnh vợ tôi, tay chân run rẩy, hơi thở
nóng rực, cổ nghẹn lại... Đêm hôm đó, suýt nữa thì...”. Xác đã nhắc lại sinh động,
tường tận dục vọng vật chất thấp hèn càng bồi thêm nỗi dằn vặt vì sự thật không
thể chối. Là người có tuổi, lại rất tự trọng, điều đó khiến Trương Ba đau đớn, và
khó có thể tha thứ cho bản thân.
Nhưng chưa hết, để chứng minh sức mạnh của xác, nó tiếp tục chứng minh
sự sai khiến với hồn. Chính hồn đã lâng lâng cảm xúc trước các món ăn dung tục
“tiết canh, cổ hũ, khấu đuôi”. Những món ăn của phường đồ tể nay lại khiến một
con người thanh đạm thích thú, đó là điều khó có thể chấp nhận. Trương Ba từ một
người cha mẫu mực, luôn khuyên dạy con những điều hay lẽ phải, thì giờ trở thành
con người thô lỗ, phũ phàng. Khi khuyên thằng con đi vào con đường ngay thẳng
không được, ông đã nổi giận “tát thằng con toé máu mồm, máu mũi”, trong cái tát
nảy lửa đó, có sự góp sức của bàn tay đồ tể. Và cả tính cách đồ tể nữa.
Một chi tiết thêm để nói về sự tha hóa của Trương Ba trong cuộc đối thoại
với đứa cháu gái. Cái Gái yêu quý ông nó bao nhiêu thì giờ đây nó không thể chấp
nhận cái con người có “bàn tay giết lợn”, bàn chân to bè như cái xẻng” đã làm
“gãy tiệt cái chồi non”, “giẫm lên nát cả cây sâm quý mới tươm” trong mảnh
vườn của ông nội nó. Nó hận ông vì ông chữa cái điều cho cu Tị mà làm gãy nát
khiến cu Tị trong cơn sốt mê man cứ khóc, cứ tiếc, cứ bắt đền. Với nó, “Ông nội
đời nào thô lỗ, phũ phàng như vậy”. Hay nói cách khác, ông Trương Ba làm vườn
khéo léo nay còn đâu, chỉ còn con người thô vụng, đụng đầu hỏng đó. Và, để
khẳng định vai trò của xác, đáp lại sự phủ nhận của hồn, xác khẳng định, xác là
“cái bình để chứa đựng linh hồn. Nhờ tôi mà ông có thể làm lụng cuốc xới. Ông
nhìn ngắm trời đất, cây cối, những người thân... nhờ có tôi mà ông cảm nhận thế
giới qua những giác quan của tôi...”.
Như vậy, đối với hồn, xác rất quan trọng bởi dù sao đi chăng nữa nếu không
có xác, hồn chẳng có chốn dung thân và ngược lại nếu không có hồn thì xác cũng
chỉ “âm u đui mù”. Vì thế cho nên “chúng ta tuy hai mà một”. Màn đối thoại kết
thúc, Trương Ba thua cuộc và buộc chấp nhận hoàn cảnh.
Nội dung cuộc đối thoại xoay quanh một vấn đề giàu tính triết lí, thể hiện
cuộc đấu tranh dai dẳng giữa hai mặt tồn tại trong một con người. Từ đó nói lên
khát vọng hướng thiện của con người và tầm quan trọng của việc tự ý thức, tự
chiến thắng bản thân. Qua đó ta thấy: Trương Ba được sống nhưng là sống nhờ
sống gửi, sống vay mượn đáng hổ thẹn vì phải chung đụng với sự dung tục và bị sự
dung tục đồng hoá. Tác giả cảnh báo: “Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng”. Khi
con người phải sống trong dung tục thì cái dung tục sẽ ngự trị, sẽ dần thắng thế, lấn
át và sẽ tàn phá những gì trong sạch, đẹp đẽ, cao quý trong con người.
Còn gì đau khổ hơn khi phải sống trong tình cảnh bên trong một đằng, bên
ngoài một nẻo như Trương Ba? Thấm thía! Ngậm ngùi! Chấp nhận giải thoát để
được là “tôi toàn vẹn”! Từng lời thoại của vở kịch Hồn Trương ba, da hàng thịt
như chất chứa bao trăn trở, suy tư của người viết về cuộc đời, con người. Và sau tất
cả, Lưu Quang Vũ, với đôi mắt nhìn đời tỉnh táo, đã để nhân vật của mình được
giải thoát, để cuộc đời của Trương Ba mãi là một cuộc đời có nghĩa. Còn bạn, bạn
chọn một cuộc sống thực hay chọn sự tồn tại vô nghĩa?
Kiến thức bổ trợ
CUỘC ĐỐI THOẠI GIỮA HỒN VÀ XÁC (TRÍCH)
Kịch của Lưu Quang Vũ khai thác nhiều đề tài, đi vào khám phá mọi mặt
của đời sống xã hội và con người. Có thể phân chia, sắp xếp kịch Lưu Quang Vũ ra
làm nhiều loại căn cứ vào cốt truyện của kịch bản. Cha ông ta có câu “có tích mới
dịch nên trò”. Có thể hiểu nôm na “tích” chính là cốt truyện, phải có cốt truyện
mới tạo dựng thành tác phẩm, sân khấu mới có kịch để diễn. Kịch của Lưu Quang
Vũ thường được xây dựng trên một cốt truyện chắc chắn, chủ yếu tập trung vào các
vấn đề, các sự kiện quan trọng trong đời sống. Việc khai thác các mô típ dân gian,
dựa vào đó để viết kịch bản mang đậm dấu ấn cá nhân và phong cách của mình đã
tạo cho kịch Lưu Quang Vũ một chiều sâu đáng kể. Nó tạo cho kịch của anh sự
phong phú về đề tài, hấp dẫn ở cốt truyện, lôi cuốn ở nghệ thuật xây dựng nhân
vật. Trong số kịch bản của Lưu Quang Vũ, khối lượng những vở khai thác trực tiếp
từ cốt truyện dân gian không nhiều, nhưng hầu hết những vở kịch đó đều đạt tới
hiệu quả nghệ thuật tương đối cao. Tiêu biểu nhất là vở Hồn Trương Ba, da hàng
thịt. Vở kịch này được viết từ năm 1984, nhưng cho đến năm 1987, trong không
khí đổi mới dân chủ, mới được ra mắt công chúng. Giới nghiên cứu phê bình cho
rằng đây là một trong những vở kịch hay nhất của Lưu Quang Vũ. Ngay khi mới
công diễn, vở kịch đã gây chấn động dư luận, tạo ra một không khí tranh luận sôi
nổi trên báo chí và trong giới sân khấu. Với sự dàn dựng của đạo diễn Nguyễn
Đình Nghi và lớp diễn xuất có nghề của Nhà hát Kịch Việt Nam, vở diễn đã thể
hiện sâu sắc tính đa nghĩa của một kịch bản có cấu trúc chặt chẽ, giàu trí tuệ. Một
cốt truyện dân gian quen thuộc, chẳng mấy ai tranh luận về ý nghĩa của truyện, vậy
mà khi Lưu Quang Vũ đưa lên sân khấu, vở kịch không chỉ dừng lại ở những giá
trị ban đâu mà nó còn đặt ra nhiều vấn đề mới mẻ. Vở kịch không chỉ nói đến sự
hoà hợp và ý thức đạo lý về phần hồn và phần xác con người mà còn đề cao cuộc
đấu tranh cho sự hoàn thiện nhân cách con người. Qua những lời đối thoại ngắn
gọn, súc tích, các nhân vật trong thế giới dân gian xưa cũ trở nên gần gũi, quen
thuộc, như đang cùng tham dự với cuộc sống đương đại của chúng ta. Vở kịch
không chỉ đề cập đến chuyện của một thời mà còn đề cập đến chuyện của muôn
đời. Đó là triết lý nhân sinh về lẽ sống, lẽ làm người. Những rắc rối đổ vỡ bắt
nguồn từ sự sống vay mượn của Trương Ba trong các anh hàng thịt đã khiến cho
chúng ta thấy: Cuộc sống thật là đáng quý nhưng không phải sống thế nào cũng
được. Sống vay mượn, chắp vá, không có sự hài hoà giữa hồn và xác chỉ đem lại bi
kịch cho con người. Cuộc sống chỉ có giá trị khi con người được sống đúng là
mình, được sống trong một thể thống nhất.
Vở kịch Hồn Trương Ba, da hàng thịt không chỉ đề cập đến đời sống một cá
nhân mà còn đặt ra những vấn đề của xã hội. Thói quan liêu, vô trách nhiệm của
Nam Tào Bắc Đẩu đã tước đi mạng sống của người dân vô tội và gây nên bao
nhiêu chuyện rắc rối. Sự sửa sai chắp vá của Đế Thích lại là tiền đề bất hạnh cho
cuộc đời hồn nọ xác kia không hoàn chỉnh của ông Trương Ba. Mọi sự sửa sai
không đúng chỗ đều chứa trong nó nhiều bi kịch hơn là niềm vui. Quyết định vĩnh
viễn từ bỏ cuộc sống vay mượn giả tạo của Trương Ba ở phần kết là một sự phản
kháng mãnh liệt và đau đớn.
Trích đoạn Hồn Trương Ba, da hàng thịt đưa vào dạy trong SGK Ngữ văn
lớp 12 là một phần thuộc Cảnh VII – cũng là cảnh cuối cùng của vở kịch, được đặt
tên là "Thoát ra nghịch cảnh". Trọng tâm của lớp kịch là cuộc đối thoại giữa Hồn
và Xác Trương Ba. Do đó lời thoại đây vừa có thể coi là độc thoại vừa có thể coi là
đối thoại. Nó là một lời thoại đặc biệt, vừa chứa đựng mâu thuẫn vừa mang tính
hành động, thúc đẩy tình huống kịch phát triển đến mức cao nhất. Cuộc đối thoại
giữa Hồn và Xác là đỉnh cao tư tưởng triết lý của vở kịch. Cuộc đối thoại đó cùng
với thái độ và những lời đối thoại của những người ruột thịt thân yêu nhất đã dẫn
đến hành động quyết liệt - kiên quyết chối từ một cuộc sống chắp vá hồn nọ xác
kia của Trương Ba. Lưu Quang Vũ đã để cho nhân vật của mình chọn một con
đường tưởng như tiêu cực nhưng hết sức cần thiết và đúng đắn: Rời bỏ cõi đời này
để được đúng là mình, để giữ trong ký ức những người thân kỷ niệm tốt đẹp về
mình.

You might also like