You are on page 1of 1

Tìm kiếm Wikipedia Tạo tài khoản

[ Giúp chúng tôi dịch thông tin! ]

Play your part! Take part in an open contest to find the sound of all human knowledge – a sound
Enter now
logo for all Wikimedia projects.

Biểu quyết nội dung chọn lọc Danh sách chọn lọc: Danh sách xã Luxembourg
Biểu quyết nội dung tốt Bài viết tốt: Lịch sử Madagascar • Thuy Trang • Philippe III của Pháp

Albert Schweitzer 78 ngôn ngữ

Bài viết Thảo luận Đọc Sửa đổi Sửa mã nguồn Xem lịch sử Thêm
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

Albert Schweitzer (phiên âm tiếng Việt là Anbớt Sutơ (14 tháng 1 năm 1875 - 4 tháng 9 năm
1965) là một tiến sĩ, thầy thuốc, nhà triết học, thần học người Đức, sau mang quốc tịch Pháp. Ông
đoạt Giải Goethe năm 1928 và giải Nô-ben Hoà bình năm 1952 vì đã có công lớn trong giúp đỡ
người Châu Phi, bất chấp gian khổ, bệnh tật. Ông đã có khoảng 50 năm chữa bệnh cho người dân
Ga-bông, một đất nước nằm ở miền Tây Trung Phi. Khi mất, ông cũng được chôn tại đây.

Ông được trao Giải Hòa bình của ngành kinh doanh sách Đức năm 1951

Giáo dục [ sửa | sửa mã nguồn ]

Schweitzer sinh ra tại Kaysersberg, ông là con của Adele (Schillinger) và Ludweg (Louis)
Schweitzer.[1] Trải qua thời thơ ấu của mình tại làng Gunsbach ở Alsace. Cha ông, một mục sư tin
lành phái Lutheran thuộc giáo hội EPCAAL, đã dạy ông cách chơi nhạc.[2] Trải qua một thời gian dài
tranh chấp, vùng Alsace thuộc Elsaß, bất chấp tiếng Đức là ngôn ngữ chính của vùng, vùng đã
thuộc về Pháp năm 1648 theo điều khoản của Hòa Ước Westphalia; sau đó vùng lại được tái sáp Albert Schweitzer
nhập vào Đức năm 1871; sau Chiến tranh Thế giới Thứ Nhất, vùng lại về với Pháp. Hiện nay ngôi
làng nhỏ này đã trở thành nơi đặt trụ sở của Hội Albert Schweitzer Quốc tế (Association Internationale Albert Schweitzer).[3] Một
ngôi nhà thờ có từ thời trung cổ ở Gunsbach là nơi thờ phượng chung của các giáo dân Công giáo và Tin Lành, các giáo đoàn này
tổ chức các buổi lễ của họ tại những khu vực khác nhau và ở những thời điểm khác nhau trong ngày chủ nhật. Sự thỏa thuận này
có kể từ sau cuộc cải cách Tin Lành và cuộc Chiến tranh Ba mươi Năm. Là con của một mục sư và lớn lên trong một môi trường
hòa hợp tôn giáo, Schweitzer tin rằng mọi người tin vào Thiên Chúa bất kể thuộc giáo phái nào cần phải hướng đến sự đoàn kết về
niềm tin và mục đích.[4] Ngôn ngữ được sử dụng tại nhà của Schweitzer là tiếng Đức giọng Alsatian. Năm 1893, tại trường trung
học Mulhouse, ông lấy bằng “Abitur” (một chứng chỉ được cấp sau khi hoàn tất bậc trung học cơ sở). Ông học chơi đàn đại phong
cầm từ năm 1885 đến 1893 với thầy Eugène Munch, một người chơi đàn đại phong cầm cho nhà thờ Tin Lành. Eugène Munch là
người ảnh hưởng lên Schweitzer bởi lòng nhiệt thành mà ông dành cho một nhà soạn nhạc người Đức tên Richard Wagner.[5]
Năm 1893 ông chơi đàn cho nghệ sĩ đại phong cầm người Pháp tên là Charles-Marie Widor (tại Saint-Sulpice, Paris). Khi
Schweitzer chơi những bản nhạc do Johann Sebastian Bach phối cho đàn đại phong cầm, các bản nhạc bỗng chất chứa một sự
huyền nhiệm nội tâm. Widor hết sức ấn tượng với Schweitzer và đã đồng ý dạy Schweitzer mà không lấy tiền. Đó là khởi đầu của
một tình bạn vĩ đại và có nhiều ảnh hưởng đến thế giới.[6]

Từ năm 1893 ông học thần học Tin Lành tại đại học Kaiser Wilhelm Universität ở Straßburg. Ông cũng được học piano và đối âm
dưới sự hướng dẫn của giáo sư Gustav Jacobsthal và kết thân với Ernest Munch, một nghệ sĩ đại phong cầm tại nhà thờ St
William và cũng là người ngưỡng mộ âm nhạc của J.S. Bach.[7] Schweitzer cũng thực hiện một năm nghĩa vụ quân sự bắt buộc
trong năm 1894. Schweitzer đã đi xem rất nhiều vở ô-pê-ra tại Straßburg của nghệ sĩ Richard Wagner (dưới sự chỉ huy của Otto
Lohse), trong năm 1896 ông gom đủ tiền để dự lễ hội âm nhạc Bayreuth và xem các vở diễn Der Ring des Nibelungen và Parsifal,
ông đã cảm thấy hết sức yêu thích các vở diễn này. Năm 1898 ông trở lại Paris để viết một bài tiểu luận của chương trình tiến sĩ tại
trường đại học Sorbonne, nhan đề luận văn là Triết Học Tôn Giáo Của Kant, ông đã chăm chỉ học tập với Widor. Ông thường
xuyên gặp Aristide Cavaillé-Coll. Ông cũng học piano với Marie Jaëll.[8] Ông lấy bằng tiến sĩ thần học năm 1899 và công bố luận
văn tiến sĩ tại Đại học Tübingen cũng trong năm này.[9]

Y học [ sửa | sửa mã nguồn ]

Năm 1905, ở độ tuổi 30, Schweitzer đáp ứng lời kêu gọi của “Hội Sứ Mạng Tin Lành Paris” vốn đang tìm một bác sĩ y khoa. Tuy
nhiên ủy ban điều hành của hội không tán thành sự tham gia của ông, hội cho rằng thần học Tin Lành Lutheran mà ông đề xướng
là “không chính xác”. Ông có thể dễ dàng có một chỗ trong các hội sứ mạng Tin Lành Đức, nhưng ông mong muốn đáp ứng lời kêu
gọi đầu tiên bất chấp những khó khăn về thần học. Giữa sự phản đối gay gắt từ phía bạn bè, gia đình và đồng nghiệp, ông từ chức
khỏi vị trí hiệu trưởng trường thần học Saint Thomas và tái nhập học trường đại học Strasbourg như một sinh viên, ông hướng tới
việc lấy bằng bác sĩ y khoa trong một khóa học kéo dài ba năm, y khoa là một lĩnh vực mà ông có ít hiểu biết hoặc năng lực. Ông
định sẽ rao giảng Phúc Âm qua việc chữa bệnh chứ không phải là giảng dạy bằng lời nói, ông tin rằng việc này phải được chấp
nhận trong mọi nhánh của Cơ Đốc Giáo.

Ngay trong việc học y khoa, Schweitzer theo đuổi lý tưởng của một nhà khoa học – triết gia. Bằng cách chuyên cần thực hành và
làm việc, ông hoàn tất việc học cuối năm 1911. Luận văn y khoa của ông cũng là một công trình về Chúa Giê-xu trong khía cạnh
Giê-xu là một nhân vật lịch sử, “Nghiên cứu Tâm thần học về Giê-xu”. Tháng 6 năm 1912, ông cưới Helene Bresslau, con gái của
sử gia Harry Bresslau. Năm 1912, với bằng y khoa, Schweitzer đệ đơn xin làm một bác sĩ với kinh phí tự túc cho công việc của Hội
Giáo Sĩ Paris tại Lambaréné bên dòng sông Ogooué tại Gabon, Phi Châu (lúc này là thuộc địa của Pháp). Ông từ chối đến dự một
hội đồng thẩm vấn về thuyết thần học của ông nhưng đã gặp từng thành viên của hội đồng và cuối cùng đã được chấp thuận. Tiền
thu được từ các buổi hòa nhạc và các hoạt động gây quỹ khác đã đủ kinh phí cho ông trang bị một bệnh viện nhỏ.[10] Mùa xuân
1913, ông và vợ bắt đầu xây dựng một bệnh viện gần một khu vực truyền giáo đã định sẵn.

Tham khảo [ sửa | sửa mã nguồn ]


1. ^ Books , Google, 1988, ISBN 9780961722548.
2. ^ Stammbaum – Genealogic tree Arbre généalogique de la famille Schweitze , Schweitzer, Bản gốc lưu trữ ngày 26 tháng 4 năm
2006, truy cập ngày 15 tháng 11 năm 2015 Đã định rõ hơn một tham số trong |archiveurl= và |archive-url= (trợ giúp); Đã định
rõ hơn một tham số trong |archivedate= và |archive-date= (trợ giúp).
3. ^ Association Internationale Albert Schweitzer , truy cập ngày 1 tháng 8 năm 2012.
4. ^ Seaver (1951) pp. 3–9.
5. ^ A. Schweitzer, Eugene Munch (J. Brinkmann, Mulhouse 1898).
6. ^ Joy (1953) pp. 23–24.
7. ^ Joy (1953) p. 24.
8. ^ George N. Marshall, David Poling, Schweitzer , JHU Press, 2000, ISBN 0-8018-6455-0
9. ^ Joy (1953) pp. 24–25.
10. ^ From the Primeval Forest, Chapter 1.

Wikimedia Commons
có thêm hình ảnh và
phương tiện truyền
tải về Albert
Schweitzer.

Thể loại: Sinh năm 1875 Mất năm 1965 Người đoạt giải Nobel Hòa bình Thầy thuốc Pháp Người Pháp đoạt giải Nobel
Thầy thuốc Đức Người Đức đoạt giải Nobel Nhà triết học Kitô giáo Người ăn chay

Trang này được sửa đổi lần cuối vào ngày 20 tháng 7 năm 2022 lúc 13:54.

Văn bản được phát hành theo Giấy phép Creative Commons Ghi công–Chia sẻ tương tự; có thể áp dụng điều khoản bổ sung. Với việc sử dụng trang web này, bạn chấp
nhận Điều khoản Sử dụng và Quy định quyền riêng tư. Wikipedia® là thương hiệu đã đăng ký của Wikimedia Foundation, Inc., một tổ chức phi lợi nhuận.

Quy định quyền riêng tư Giới thiệu Wikipedia Lời phủ nhận Phiên bản di động Lập trình viên Thống kê Tuyên bố về cookie

You might also like