You are on page 1of 16

CHÚNG CON CHIẾN ĐẤU

Đường dài đi giữa Trường Sơn


Nghe vọng bài ca đất nước
- Hoàn cảnh ra đời bài thơ: Không gian Trường Sơn hùng vỹ, thời gian cuộc
kháng chiến chống Mỹ ác liệt. Đó là không gian thời gian mang tầm vóc sử
thi, vĩ đại, là âm hưởng “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước/ mà lòng phơi phới
dậy tương lai”.
- Ra trận đánh giặc là nhiệm vụ, trách nhiệm cũng là niềm tự hào, những bước
chân hừng hực khí thế giữa con đường dài khói lửa đạn bom. Nhưng bao bom
đạn không lùi bước được người lính, vì Đất nước – bài ca vĩ đại cứ vang lên
trong tâm trí.
Đường dài đi giữa Trường Sơn/Nghe vọng bài ca đất nước, đúng như 2 câu thơ
trên, nhà thơ Nam Hà bắt đầu viết khúc tráng ca này khi cùng đồng đội hành quân
trên đường Trường Sơn năm 1964. Nhà thơ kể rằng, trên đường đi, cứ nghĩ đến việc
quân ta đương đầu với giặc Mỹ, ông luôn tin tưởng cuộc chiến tranh có diễn ra khốc
liệt đến đâu cuối cùng dân tộc ta cũng chiến thắng. Tên bài thơ, ý tưởng, nội dung
từng đoạn thơ cứ dần hình thành, ông cũng đã viết được một vài đoạn... Cứ nghĩ vào
chiến trường sẽ viết tiếp, nhưng đến Khu 6, đơn vị ông phải lao vào phát rẫy, trồng
sắn, bắp để kiếm cái ăn. Nhiều lần nhớ đến bài thơ, ông lại lấy ra làm nhưng vẫn
không xong. Mãi đến năm 1966, khi đơn vị tham gia một trận đánh lớn ở Bắc Bình
- Bình Thuận, thắng lợi giòn giã cùng sự hồn nhiên của những người bạn lính đã làm
mạch thơ của ông tuôn chảy trở lại. Và trong vòng hai giờ đồng hồ, ông đã hoàn
thành bài hùng ca ấy.

Bài thơ mở đầu với những vang vọng lịch sử ngàn đời của đất Việt, gợi nhắc đến
những chiến công hiển hách của Ngô Quyền đại phá quân Nam Hán, quân dân nhà
Trần 3 lần thắng quân Nguyên - Mông, cuộc hành binh thần tốc của Quang Trung
phá giặc Thanh...

Đất Nước
Bốn ngàn năm không nghỉ
Những đạo quân song song cùng lịch sử
Đi suốt thời gian, đi suốt không gian
Sừng sững dưới trời anh dũng hiên ngang

1
Trong cảm hứng viết về Đất nước, cảm hứng lịch sử với niềm tự hào về đất nước
4000 năm luôn trào dâng mãnh liệt, trong 4000 năm ấy, có lẽ điều mà bất cứ người
con đất Việt nào cũng xúc động là tinh thần chiến đấu bền bỉ của quân dân ta trước
giặc ngoại xâm. Hình ảnh những “đạo quân” song song cùng lịch sử gợi nhiều chiều
suy tưởng:

- Đạo quân là những người dũng sĩ, những trang anh hùng vệ quốc khi ra trận
- Đạo quân là quân dân bền bỉ mà vĩ đại gìn giữ văn hóa lịch sử

Dù là đạo quân nào (dân hay quân) thì “song song” nhưng nhấn mạnh vai trò vĩ đại
và bền bỉ của nhân dân. Sự bền bỉ ấy, kiên trì ấy còn được khẳng định, tô đậm qua
điệp từ “đi suốt” kết hợp với “thời gian”, “không gian”, để ngày hôm nay chúng ta
có một đất nước có chiều dài của thời gian lịch sử đáng tự hào, chiều rộng của không
gian địa lý giàu đẹp. Hình tượng đất nước – nhân dân vốn trừu tượng trong phút chốc
bỗng cụ thể hóa như hình tượng sống động, không chỉ “đi” – chiến đấu – mà còn
anh dũng hiên ngang rồi sừng sững vững trãi như bức tượng đài bất diệt…

Từ đây, mở đầu cho mỗi khổ thơ, điệp khúc Đất nước... lại vang lên như bồi
đắp thêm lòng tự hào về quê hương, xứ sở. Mảnh đất cong hình chữ S này đã ẩn
chứa trong mình biết bao huyền sử, biết bao trầm tích văn hóa: Đất nước/Của thơ
ca/Của bốn mùa hoa nở/Đọc trang Kiều tưởng câu hát dân gian và Của những dòng
sông/Nghe mát rượi tâm hồn/Ngọt lịm những giọng hò xứ sở. Nhưng đất nước ấy
không chỉ có thơ ca mà còn có những trang sử chói ngời sắc đỏ, đã vượt qua biết bao
bão giông của những thế lực ngoại bang. Hình ảnh bà mẹ tảo tần, nghèo khó mặc áo
thay vai/hạt lúa củ khoai/Bền bỉ nuôi con, nuôi chồng chiến đấu chính là biểu tượng
cao cả cho khát vọng độc lập tự do ngàn đời của dân tộc.

Đất Nước
Của những câu chuyện đều làm ta rưng rưng
nước mắt
Đã trở thành những bài ca không bao giờ tắt
Trên mỗi con đường mỗi thôn xóm ta qua
Từ non ngàn cho tới biển xa

Nhắc đến đất nước, đâu chỉ có tự hào về những chiến công, về lịch sử oai
hùng, mà ở một đất nước có biết bao khó khăn, bao vất vả nhọc nhằn, thì niềm xúc
động khôn nguôi lại trào dâng. Nước mắt “rưng rưng” là đau thương, xúc động,
nghẹn ngào, là cảm thông cho những câu chuyện của mất mát, hi sinh, của giọt mồ

2
hôi ướt đẫm áo, của dòng máu chảy ướt vai. Từ “thôn xóm” đến “con đường”, từ
“non ngàn” đến “biển xa”, đâu đâu cũng in dấu chân của những con người chân lấm
tay bùn, phải đổ mồ hôi và nước mắt để xây dựng quê hương. Nhắc đến những trang
sử ấy, là bài ca bi tráng về sức mạnh của ý chí nghị lực, là niềm tin….

Đất Nước
Của thơ ca
Của bốn mùa hoa nở
Đọc trang Kiều tưởng câu hát dân gian
Nghe xôn xao trong gió hội mây ngàn

Đất Nước
Của những dòng sông
Gọi tên nghe mát rượi tầm hồn
Ngọt lịm những giọng hò xứ sở
Trong sáng như trời xanh, mượt mà như nhung lụa

Nhưng Đất nước mình, dù cuộc sống có muôn vàn khó khăn, dù trải qua bao đau
thương mất mát vẫn giữ được vẻ đẹp tâm hồn đáng quý: lạc quan yêu đời. Thiên
nhiên tươi đẹp “hoa nở bốn mùa”; tài nguyên trù phú “những dòng sông – gọi tên
nghe mát rượi” đã in bóng trong thơ ca dân tộc. Con người Việt yêu thiên nhiên, yêu
đất nước, yêu quê hương, tình yêu ấy hóa thành thơ ca, thành trang Kiều đậm dấu ấn
của văn học dân gian, thành những giọng hò xứ sở. Những từ ngữ “hoa nở”, mát
rượi, gió hội mây ngàn cùng phép so sánh “trong sáng như trời xanh, mượt mà như
nhung lụa” khẳng định vẻ đẹp lãng mạn, tràn đầy niềm lạc quan và tình yêu cuộc
sống tha thiết. Đất nước mình là vậy, yêu hòa bình, cuộc sống con người mộc mạc,
giản dị, đầy lạc quan và giàu nghị lực sống.

Đất Nước
Của những người mẹ
Mặc áo thay vai
Hạt lúa củ khoai
Bền bỉ nuôi chồng, nuôi con chiến đấu

Đất Nước
Của những người con gái con trai
Đẹp như hoa hồng cứng như sắt thép

3
Xa nhau không hề rơi nước mắt
Nứơc mắt để dành cho ngày gặp mặt

Đất Nước
Của Bác Hồ
Của óc thông minh và lòng dũng cảm
Của những đèn pha cách mạng
Soi sáng chân trời xuyên suốt đại dương

Đất nước, trong suy tư của người chiến sĩ trên đường hành quân, đọng lại những
gường mặt thân quen, của những người mẹ giản dị, áo vá vai, chỉ có hạt lúa củ
khoai, mà lại là hậu phương vững chắc cho chồng ra trận đánh giặc. Hình ảnh
những người mẹ Việt Nam anh hùng ấy, chắc chắn sống mãi trong trái tim dân tộc,
bởi chiến thắng vĩ đại của những cuộc chiến tranh vệ quốc này vinh quang không
chỉ của những người chiến sĩ trên chiến trường, mà còn là của rất nhiều, rất nhiều
những người vợ chờ chồng ra trận, của biết bao hòn vọng phu thủy chung bền bỉ.
Hình ảnh người mẹ, không xây dựng bằng châu ngọc, mà đến từ những điều giản
dị mộc mạc nhất, cái áo vá vai, củ khoai củ sắn, nhưng cái giản dị mà thiêng liêng
ấy sẽ còn mãi, còn mãi trong chúng ta….

Rồi đất nước, còn đẹp ở những con người không ai nhớ mặt đặt tên, những người
con gái con trai, thế hệ trẻ anh hùng nối tiếp nhau làm việc lớn. Hình ảnh những con
người ấy, được tác giả sử dụng thủ pháp so sánh Đẹp như hoa hồng cứng như sắt
thép. Phép so sánh thật độc đáo, vừa gợi hình, gợi cảm, vừa sống động và gây ấn
tượng. Hoa hồng là một trong những loài hoa đẹp nhất trên thế gian, sắt thép là một
trong những thứ cứng rắn bậc nhất trong vũ trụ, và tất cả là để tôn vinh vẻ đẹp và
sức mạnh của những chàng trai cô gái đất Việt. Họ đẹp ở tình yêu thủy chung, bền
chặt, họ đẹp ở nét duyên dáng, mềm mại, nhưng họ cũng mạnh mẽ, kiên cường,
mạnh mẽ kiên cường đến mức mà “Xa nhau không hề rơi nước mắt”. “không rơi
nước mắt” không phải vì không yêu không thương không nhớ, không phải vì họ là
những người khổng lồ không tim, mà vì họ nuốt nước mắt vào trong, nước mắt của
nỗi buồn và sự chia ly, xin là động lực để “khi tổ quốc cần họ cũng biết sống xa
nhau”, và nước mắt – hạnh phúc đoàn tụ “để dành cho ngày gặp mặt”

Và Đất nước, là hình ảnh sáng ngời của vị cha già dân tộc, của “Bác vẫn cùng chúng
cháu hành quân”, của lý tưởng cách mạng “không có gì quý hơn độc lập tự do”. Hình
ảnh đèn pha cách mạng vừa gợi những chuyến xe, những con tàu ngày đêm trên
tuyến đường Trường sơn (trên núi và trên biển) khẩn trương, khí thế để giải phóng
miền Nam thống nhất đất nước, nhưng cũng là lý tưởng, với nguồn sáng mạnh mẽ
Soi sáng chân trời xuyên suốt đại dương. Điệp từ “của” kết hợp với liệt kê những

4
con người, khối óc, trí tuệ, tấm lòng và lý tưởng, như nhắc nhở mỗi chúng ta, phải
biết học tập, phấn đấu, phải biết chiến đấu và tiếp nối sự nghiệp cách mạng vĩ đại
ấy.

Ôi tuổi thanh xuân


Mang bốn ngàn năm lịch sử trong tim
Ta sung sướng được làm người con Đất Nước
Ta băng tới trước quân thù như triều như thác
Ta làm bão, làm dông
Ta lay trời chuyển đất
Ta trút hờn căm để làm nên
những vinh quang bất diệt
Giáng xuống quân thù như sấm sét không nguôi
Sức mạnh bốn ngàn năm đã biến thành
bão lửa ngút trời

Sau những chiêm nghiệm về đất nước của lịch sử, của văn hóa, của con người, thi sĩ
– vẫn là cái “ta” chung của cả một thế hệ, cất lên khát vọng mãnh liệt của tuổi thanh
xuân. Những con người trẻ ấy – đâu chỉ mang trong mình sức mạnh của tuổi thanh
xuân, mà còn mang sứ mệnh vĩ đại của 4000 năm lịch sử. Dòng máu lạc hồng, dòng
máu thanh xuân, dòng máu chảy trong tim họ nồng nàn lòng yêu nước, nồng nàn
niềm tự hào về lịch sử dân tộc mình. Là người con của Đất nước anh hùng, “ta”
không giấu nổi niềm vui sướng và biến niềm vui sướng mãnh liệt ấy thành sức mạnh
căm hờn, sức mạnh của tình yêu thương. Điệp từ “ta” kết hợp với thủ pháp liệt kê
các hành động, cảm xúc “sung sướng; băng tới; làm bão dông; lay trời chuyển đất,
trút căm hờn, giáng xuống quân thù”… khiến nhịp thơ nhanh, dồn dập, như sóng vỗ
bờ, mang sức mạnh dường như không gì cản nổi, giống như:
Gươm mài đá, đá núi cũng mòn
Voi uống nước, nước sông phải cạn
Đánh một trận, sạch không kình ngạc
Đánh hai trận, tan tác chim muông
Cơn gió to trút sạch lá khô
Tổ kiến hổng sụt toang đê vỡ”

Bên cạnh đó phép so sánh “băng tới trước quân thù như triều như thác hay Giáng
xuống quân thù như sấm sét không nguôi” giúp ta như hình dung trước mắt mình

5
những đoàn quân bừng bừng khí thế, ánh mắt sáng ngời ngùn ngùn lửa căm hờn,
bước chân vững vàng mà mạnh mẽ tiến về phía trước, giáng cho quân thù những
“sấm sét” “bão lửa”… Tự hào làm sao người chiến sĩ giải phóng quân, trên vai họ là
Đất nước, họ tiến lên chiến đấu và chiến thắng.

Nước Việt có những người lính - người con như thế, chắc chắn sẽ chiến thắng mọi
kẻ thù. Trong niềm vui ấy, giọng thơ vút lên: Đất nước/Ta hát mãi bài ca đất
nước/Cho tuổi thanh xuân sáng bừng lên như ngọc/Cho mắt ta nhìn tận cùng chân
trời/Và cho chân ta đi tới cuối đất/Ôi Tổ quốc mà ta yêu quý nhất/Chúng con chiến
đấu cho Người sống mãi/Việt Nam ơi. Nhiều cựu chiến binh cho biết, những năm
cuối chống Mỹ, những câu thơ của Nam Hà qua giọng ngâm của nghệ sĩ Linh Nhâm
đã khiến họ không thể ngồi yên, tất cả đều muốn lên đường chiến đấu. Câu thơ
Chúng con chiến đấu cho Người sống mãi Việt Nam ơi đã trở thành một lời hiệu
triệu con dân nước Việt chiến đấu vì sự sống còn của Tổ quốc.

Đất Nước
Ta hát mãi bài ca Đất Nước
Cho tuổi thanh xuân sáng bừng lên như ngọc
Cho mắt ta nhìn tận cùng trời
Và cho chân ta đi tới cuối đất
Ôi! Tổ quốc mà ta yêu quý nhất
Chúng con chiến dấu cho Người sống mãi Việt Nam ơi!

Bài thơ khép lại với niềm tin và hi vọng. Vẫn là bài ca đất nước, nhưng không còn
dồn dập mãnh liệt, không còn hừng hực căm hờn, thay vào đó, là bài ca thanh xuân,
bài ca mang ánh mắt hướng tới tương lai sáng ngời “như ngọc”. Vẫn là bước chân
trẻ trung ấy, ánh mắt ấy, nhưng giờ là quyết tâm và khát vọng độc lập, khát vọng
chiến đấu đến cùng, đến khi Đất Nước độc lập thống nhất. Lúc này, thi sĩ xưng
“chúng con” với Tổ quốc, và gọi Đất nước là Người. Đất nước không còn trừu tượng
mà như có hình khối, sống động ngay trước mắt. Đất nước không ở đâu xa, không
phải là ngai vàng hoàng đế, không ở sách trời, mà ở trong trái tim mỗi người, để
chúng ta, chiến đấu cho Người. Để chúng ta tự hào hai tiếng Việt Nam.

Bài thơ mang âm hưởng sử thi, được viết bằng ngôn ngữ đậm chất anh hùng ca, ngôn
ngữ thơ giàu hỉnh ảnh, nhạc điệu, khiến nhịp thơ thật cuốn hút. Tác giả cũng sử dụng
linh hoạt các thủ pháp nghệ thuật: đối, điệp, so sánh… khiến câu thơ cuốn hút và
sống động, người đọc như đắm chìm không dứt vào nhịp điệu sôi nổi trong lời kể
của về đất nước – tổ quốc.

6
TỰ NGUYỆN
Nếu là chim, tôi sẽ làm loài bồ câu trắng,
Nếu là hoa, tôi sẽ làm một đóa hướng dương,
Nếu là mây, tôi sẽ làm một vầng mây ấm,
Nếu là người, tôi sẽ chết cho quê hương.

Là chim, tôi sẽ cất cao đôi cánh mềm,


Từ Nam ra ngoài Bắc báo tin nối liền.
Là hoa, tôi nở tình yêu ban sớm,
Cùng muôn trái tim ngất say hòa bình.

Là mây, theo làn gió tôi bay khắp trời,


Nghìn xưa oai hùng đó nên xin tiếp lời.
Là người, xin một lần khi nằm xuống,
Nhìn anh em đứng bên cắm cao ngọn cờ.
KHỔ 1:
Nếu là chim, tôi sẽ làm loài bồ câu trắng,
Nếu là hoa, tôi sẽ làm một đóa hướng dương,
Nếu là mây, tôi sẽ làm một vầng mây ấm,
Nếu là người, tôi sẽ chết cho quê hương.
Bài hát mở đầu bằng điệp khúc nếu là … tôi sẽ … lặp đi lặp lại, như muốn khẳng
định khát vọng hóa thân – dâng hiến cho cuộc đời. Bồ câu trắng là biểu tượng của
hòa bình, của tự do, của tương lai tươi sáng. Đóa hướng dương biểu tượng cho ấm
áp, cho thiên nhiên rực rỡ, cho khát vọng vươn tới ánh sáng. Vầng mây ấm là vầng
mây dịu dàng, bồng bềnh trên bầu trời thênh thang, là khát vọng tự do bay bổng.
Trong cuộc đời mỗi người, chắc hẳn ai cũng có mơ ước được hóa thân làm một điều
gì đó… nhưng tại sao không phải là những thứ kỳ vĩ lớn lao mà đơn giản chỉ là mây,
chim, hoa…. Có lẽ vì những điều ấy giản dị, mộc mạc, khiêm nhường… nhưng làm
gì có mùa xuân nào không có những cánh chim, làm gì có bầu trời nào không có
những vầng mây, và bức tranh hẳn sẽ thiếu đi màu sắc nếu ta không còn hoa rực rỡ.
Hóa thân, là để hướng tới những điều có ích, tích cực, đem lại giá trị cho cuộc sống.
Nhưng trong hoàn cảnh đất nước bị giặc ngoại xâm, chia cắt hai miền, tự do bị xâm
phạm, cuộc sống bị bom đạn tàn phá, thì sẽ chẳng còn ước mơ gì, khát vọng gì lớn
lao hơn khát vọng chiến đấu, hi sinh cho đất nước. Chính vì thế Nếu là người, tôi sẽ

7
chết cho quê hương …Câu thơ thật kỳ lạ, có ai lại nói “nếu là người…” cơ chứ,
nhưng chiều sâu suy tưởng của lời thơ thật độc đáo, trên mảnh đất này, ở muôn kiếp
này, dù là ai, dù đang trong trạng thái gì, cũng mang khát vọng chiến đấu và tinh
thần “chết cho quê hương”. Đó là bản lĩnh, là ý thức tự nguyện dâng hiến trái tim,
tình yêu và cả bản thân mình cho Tổ quốc, đó là tinh thần khát vọng:

Ôi Tổ quốc, ta yêu như máu thịt


Như mẹ cha ta, như vợ như chồng
Ôi Tổ quốc, nếu cần, ta chết
Cho mỗi ngôi nhà, ngọn núi, con sông

KHỔ 2:
Là chim, tôi sẽ cất cao đôi cánh mềm,
Từ Nam ra ngoài Bắc báo tin nối liền.
Là hoa, tôi nở tình yêu ban sớm,
Cùng muôn trái tim ngất say hòa bình.

Khổ thơ thứ hai tiếp tục những hình ảnh thơ sống động gợi cảm mang cảm hứng tự
do bay bổng. Là chim, sẽ là loài bồ câu trắng, sẽ cất cao đôi cánh mềm, đôi cánh của
tự do bay “từ Nam ra ngoài Bắc”, sẽ không còn chia cắt, sẽ không còn những dây
thép gai đâm nát trời chiều, mà sẽ là thống nhất là tự do. Lúc này, còn gì vui sướng
hơn “tin nối liền”, còn gì hạnh phúc hơn khi nước nhà độc lập. Lúc ấy, dù là hoa –
thứ vật tưởng như vô tri, cũng sẽ nở rực rỡ nhất, khoe hương sắc của tình yêu ban
sớm, vì hoa ấy như biết muôn trái tim con người Việt đang khát khao điều gì, không
phải là vinh quang, không phải là chiến tích, mà là hòa bình là ngất ngây men say tự
do độc lập. Phải là một dân tộc trải qua bao cuộc chiến vệ quốc, một dân tộc trải qua
bao hi sinh, bao máu xương đổ xuống, thì dân tộc ấy, con người ấy mới hiểu ý nghĩa
và khát vọng của hai chữ hòa bình…

KHỔ 3:
Là mây, theo làn gió tôi bay khắp trời,
Nghìn xưa oai hùng đó nên xin tiếp lời.
Là người, xin một lần khi nằm xuống,
Nhìn anh em đứng bên cắm cao ngọn cờ
8
Bài thơ khép lại với đám mây của gió ngàn, đám mây của tự do cháy bỏng, nhưng
đám mây kia không thoát tục không lững lờ trôi nhẹ nhàng thong dong, đám mây ấy
đi theo gió đến khắp nơi, đám mây ấy nhưng nhìn suốt cả lịch sử vĩ đại của dân tộc
mình. Mang trong huyết quản, trong trái tim mỗi con người Việt, đâu chỉ là trách
nhiệm của ngày hôm nay, mà còn là dấu ấn của hôm qua, của quá khứ “nghìn xưa
oai hùng” mà giờ đây ta phải có trách nhiệm “xin tiếp lời”. Làm sao ta quên được
cọc nhọn Bạch Đằng, ống đồng Thoát Hoan, làm sao ta quên được Trần Quốc Tuấn,
Ngô Quyền, Quang Trung, làm sao ta quên được dấu ấn của lịch sử vĩ đại… Ngày
hôm nay, chiến đấu, hi sinh, là trách nhiệm, là ý thức tự nguyện, là tiếng gọi của trái
tim mình. Để rồi sau này, nếu có nằm xuống, có hi sinh, có ra sao thì khát vọng lớn
nhất vẫn là chứng kiến đất nước tự do, độc lập, là ngọn cờ vẫy cao, ngọn cờ đỏ sang
vàng lấp lánh dưới ánh mặt trời. Những mong muốn khát vọng của tác giả thật sự
đáng ngưỡng mộ và khâm phục.

9
BÊN KIA SÔNG ĐUỐNG

Nhà thơ Hoàng Cầm sinh ra ở Bắc Ninh – quê hương quan họ với những làn điệu
dân ca ngọt ngào đằm thắm chính là suối nguồn nuôi dưỡng tâm hồn thơ ca của
ông. Mảnh đất Kinh Bắc đã gợi thương gợi nhớ cho Hoàng Cầm, nó giống như một
ám ảnh nghệ thuật trong thơ ông. Đọc thơ ông, thấy hiện lên cảnh vật và con người
Kinh Bắc – một vùng đất trù phú, hữu tình với biết bao di tích lịch sử, đền đài,
miếu mạo, biết bao những sinh hoạt, những truyền thống văn hoá lâu đời: Hội
Gióng, hội Lim.. Bài thơ Bên kia sông Đuống là một kết tinh nghệ thuật tiêu biểu
của nhà thơ.

Mỗi khổ thơ trong bài thơ đều được mở đầu bằng hình ảnh dòng sông Đuống – một
sinh thể hữu hình tiềm ẩn sức sống, văn hoá, tâm hồn Kinh Bắc, tạo cho bài thơ
như một bản giao hưởng trầm hùng thấm đượm chất trữ tình, cảm hứng ấy được
bộc lộ khá rõ ngay từ mở đầu bài thơ, khi người con của quê hương đứng ở “Bên
này” nhìn về bên kia sông Đuống:
Em ơi buồn lòng chi
Anh đưa em về Bên kia sông Đuống
Bài thơ mở đầu thật tự nhiên, câu thơ vừa như lời gọi vừa như một lời an ủi, vỗ về.
Hai câu thơ chủ yếu sử dụng toàn thanh bằng, tạo ra được độ mênh mang, dàn trải
trong cảm xúc. Nó làm cho bài thơ nhẹ nhàng, như ru như hát gợi dậy trong lòng
người bao nỗi niềm bâng khuâng. Tác giả trò chuyện tâm tình với người em gái
Kinh Bắc hay cũng chính là giãi bày lòng mình, an ủi em cũng chính là an ủi mình,
đó chỉ là cái cớ để bộc lộ cảm xúc của tác giả. Sông Đuống là điểm đến trong tâm
tưởng của Hoàng Cầm. Ngay cả lời an ủi người em gái cũng hướng về dòng sông
đầy kỉ niệm ấy.

Rõ ràng hình ảnh sông Đuống là một ám ảnh trong ký ức của Hoàng Cầm về quê
hương Kinh Bắc. Sau khi giới thiệu, nhà thơ tiếp tục làm rõ bức tranh toàn cảnh
của dòng sông này:

Ngày xưa cát trắng phẳng lì


Sông Đuống trôi đi
Một dòng lấp lánh
Nằm nghiêng nghiêng trong kháng chiến trường kì
“Ngày xưa cát trắng phẳng lì” giống như một câu thơ bản lề. Từ “ngày xưa” làm
cho thời gian hiện tại như bị đẩy lùi về quá khứ, người ta ngỡ như bắt gặp đâu đó
thế giới cổ tích huyền diệu. Câu thơ ắp đầy hoài niệm bâng khuâng. Hình ảnh Kinh
10
Bắc thanh bình phẳng lặng còn được gợi tả khá tài tình qua “cát trắng phẳng lì” –
chỉ cần gợi ra một chi tiết mà giúp người đọc nhận ra thần thái của cả bức tranh. Ở
đây, hình ảnh sông Đuống được miêu tả cụ thể, đẹp đẽ, sống động, nó giống như
một chinh thể đẹp mà ở góc nhìn nào người ta cũng cảm nhận được và kiêu hãnh
với vẻ đẹp của nó. Không những thế, sông Đuống còn được nhìn trong trạng thái
động “Sông Đuống trôi đi” nhưng quan trọng hơn nữa, người đọc cảm nhận dòng
chảy của nó, sự trôi chảy của dòng sông cũng chính là sự trôi chảy của thời gian
lịch sử. Nhà thơ còn sử dụng từ láy “lấp lánh” tạo ra sự lung linh, rực rỡ, mỹ lệ cho
dòng sông. Trong cái lấp lánh ấy người đọc cảm nhận được ánh sáng của nó, lúc
này đây dòng sông đã trở thành dòng ánh sáng, không những thế dường như chúng
ta còn cảm thấy niềm tự hào kiêu hãnh của tác giả gửi gắm trong câu thơ này. Nhà
thơ đã sử dụng biện pháp tu từ nhân hoá là cho dòng sông có dáng “nằm nghiêng
nghiêng trong kháng chiến trường kì”, sông Đuống giống như một chứng nhân lịch
sử trong suốt cuộc kháng chiến của dân tộc. Cái hay của câu thơ là ở từ “nghiêng
nghiêng” – từ láy tạo hình chúng ta như cảm nhận được vóc dáng của dòng sông
mềm mại uốn lượn và rất nhịp nhàng, gợi cảm. Có lẽ phải có cái dáng “nằm
nghiêng nghiêng” ấy con sông mới như một sinh thể có hồn, có tâm trạng hơn, phải
chăng vì thế mà có ý kiến cho rằng: hình ảnh sông Đuống trong cảm nhận của
Hoàng Cầm được miêu tả như một người thiếu nữ trong nỗi niềm trăn trở, lo âu.
Tiếp đó, hình ảnh một chốn quê thanh bình, một không gian yên ả đã hiện ra:

Xanh xanh bãi mía bờ dâu


Ngô khoai biêng biếc
Đây là những nét vẽ điển hình của làng quê Việt Nam, đây là bãi mía bờ dâu, kia là
ngô khoai. Tất cả đều là những hình ảnh quen thuộc, bình dị đối với con người
Việt Nam. Hoàng Cầm viết về những hình ảnh ấy bằng tất cả sự gắn bó và niềm
yêu mến tha thiết. Bao trùm lên toàn bộ không gian là một mầu xanh nhưng với
những sắc độ khác nhau, “xanh xanh”, “biêng biếc”. Người đọc cảm nhận được nét
trù phú tốt tươi, khoáng đạt, trong sáng của cảnh vật, chúng như ánh lên một sự
sống mạnh mẽ. Bài thơ này được viết theo mạch cảm xúc nhớ thương, mê mải với
quá khứ thanh bình rồi ngỡ ngàng với nỗi đau ở hiện tại. Hai câu thơ tiếp theo như
vỡ oà nước mắt:

Đứng bên này sông sao nhớ tiếc


Sao xót xa như rụng bàn tay
Bên này – bên kia, một dòng sông chia cách hai khoảng trời, chia cách đôi bờ Kinh
Bắc một bên là vùng tự do, một bên đã bị giặc chiếm đóng. Cấu trúc “sao nhớ tiếc”
“sao xót xa” ẩn chứa đầy tâm trạng đớn đau, mà nhớ, tiếc nuối xót xa. Chữ “sao”
như xoáy vào lòng người đọc một nỗi nhức nhối, đau đáu, khôn nguôi, xưa là
11
thanh bình đẹp đẽ, nay là đau đớn chia lìa. Ở đây nỗi đau đã lên đến tột cùng và
được cụ thể hoá như là có thể cảm giác được quê hương như là một phần máu thịt,
bởi thế quê hương bị chia cắt cũng giống như con người mất đi một phần cơ thể
mình. “Như rụng bàn tay – một hình ảnh so sánh thật tự nhiên, giản dị nhưng rất
sâu sắc đã tiếp thêm tình yêu nỗi nhớ khôn nguôi của Hoàng Cầm đối với mảnh đất
Kinh Bắc. Nỗi nhớ này là điểm xuất phát, sự bùng nổ cho cảm hứng về quê hương
Kinh Bắc tuôn chảy dào dạt trong mạch thơ của ông. Đoạn thơ thứ hai trong bài
thơ là một điệp khúc giàu sức gợi hình tượng:

Bên kia sông Đuống


Quê hương ta lúa nếp thơm nồng
Tranh Đông Hồ gà lợn nét tươi trong
Màu dân tộc sáng bừng trên giấy điệp
Bằng những câu thơ trên, nhà thơ đã khái quát được nét vẽ đẹp nhất, sống động và
điển hình nhất bức tranh làng quê Kinh Bắc. Một bức tranh đầy màu sắc, ánh sáng
và hương vị. Lời giới thiệu “quê hương ta lúa nếp thơm nồng” hết sức mộc mạc, nó
như một nét vẽ bình dị, quen thuộc của làng quê Việt Nam gợi dậy bao ám ảnh
trong lòng người đọc về một quê hương thanh bình yên ả. Những bức tranh Đông
Hồ là hình ảnh đặc trưng của quê hương Kinh Bắc thể hiện được bản sắc văn hoá
tinh hoa của con người trên từng nét vẽ. Đó là sự kết tinh vẻ đẹp tài hoa trong cuộc
sống tinh thần người Kinh Bắc. Những bức tranh Đông Hồ do những nghệ sĩ dân
gian sáng tác bao gồm những đề tài quen thuộc phản ánh tâm tư khát vọng trong
sáng lãng mạn và không kém phần dí dỏm của người liên doanh: đám cưới chuột,
đàn lợn, hứng dừa, đánh ghen... chúng được vẽ trên giấy dó, giấy điệp, vẽ bằng
chất liệu cỏ cây, hoa lá, đất cát quê hương. Như vậy nét tươi trong của tranh Đông
Hồ không chỉ gợi ra cái tươi tắn trong trẻo mà còn chứa nét đẹp rạng ngời tinh
khôi. Chữ “sáng bừng” được dùng khá độc đáo, nó không còn là tính từ mà đã
được sử dụng như một động từ không chỉ để chỉ ánh sáng mà còn khẳng định sức
sống kỳ diệu của dân tộc. “Màu dân tộc” trở thành một ẩn dụ độc đáo của Hoàng
Cầm, qua đó thể hiện niềm kiêu hãnh của nhà thơ về bản sắc văn hoá của dân tộc
mình. Bởi quê hương xiết bao yêu dấu, tự hào sống trọn trong trái tim khói lửa, nhà
thơ đã diễn tả nồi đau xót căm hờn xen lẫn sự tiếc nuối xót thương với những hình
ảnh đầy ấn tượng:

Quê hương ta từ ngày khủng khiếp


Giặc kéo lên ngùn ngụt lửa hung tàn
Ruộng ta khô
Nhà ta cháy
Chó ngộ một đàn

12
Lưỡi dài lê sắc máu
Kiệt cùng ngõ thẳm bờ hoang
Mẹ con đàn lợn âm dương
Chia lìa đôi ngả
Đám cưới chuột đang tưng bừng rộn rã
Bây giờ tan tác về đâu
Câu thơ đầu giống như câu thơ bản lề làm chuyển đổi mạch cảm xúc của bài thơ.
Tác giả gọi những ngày giặc xâm chiến là những ngày “khủng khiếp” cho thấy sự
khốc liệt của chiến tranh. Nhiều hình ảnh ẩn dụ được sử dụng để gọi tả sự khốc liệt
này, hình ảnh “lửa hung tàn” gợi ra sự tàn bạo của kẻ thù đồng thòi là tiếng nói tố
cáo phê phán gay gắt chiến tranh. Nếu ở khổ thơ phía trên nhịp thơ đều đặn dàn
trải ổn định thì đến khổ thơ này những câu thơ ngôn ngắt nhịp mạnh dồn dập liên
tiếp chỉ tội ác chồng chất của kẻ thù cùng với niềm căm thù ngút tròi và nổi đau tột
cùng của con người Từ láy “ngùn ngụt” không chi là từ gợi hình chi ngọn lửa mà
chính là lòng căm thù của con người bị đốt cháy – những câu thơ của Hoàng Cầm
rất giàu sắc thái biểu cảm, bao trùm lên không gian là sự hoang tàn, vắng lạnh, xơ
xác, không còn cái vẻ thanh bình, cái nét trù phú tươi tắn. Tất cả chi là một cảnh
tượng chia li chết chóc. Chữ kiệt cùng được dùng rất hay – không gian càng trở
nên sâu thẳm, nỗi đau được biểu hiện tột cùng. Điều đặc biệt là tác giả không miêu
tả cụ thể hình ảnh con người nhưng dấu ấn về cuộc sống chia li hoang tàn vẫn được
biểu hiện rõ, ông đã mượn hình ảnh nhũng con vật vô tri trong bức tranh Đông Hồ
để nói về nỗi đau của con người, đây là một dụng ý nghệ thuật sâu xa của nhà thơ
Hoàng Cầm. Đằng sau nỗi đau là hình ảnh quê hương Kinh Bắc với những phong
tục tập quán, những hội hè, đình đám, được gợi nhắc lại hết sức sống động:

Ai về Bên kia sông Đuống


Cho ta gửi tấm the đen
Mấy trăm năm thấp thoáng mộng bình yên
Những hội hè đình đám
Trên núi Thiên Thơi
Trong chùa Bút Tháp
Giữa huyện Lang Tài
Gửi về may áo cho ai
Chuông chùa văng vẳng nay người ở đâu
Ở đây ta bắt gặp một phong tục đẹp đẽ vùng Kinh Bắc. Tấm the đen gửi về may
áo. Nó không chỉ là nét vẽ truyền thống mà con là hành động gửi thương gửi nhớ
của con người, qua đó thể hiện niềm trân trọng yêu mến sâu sắc của tác giả với con
người Kinh Bắc. Các địa danh Thiên Thai, Bút Tháp, Lang Tài được gợi nhắc đã
thể hiện niềm kiêu hãnh và tự hào sâu sắc của nhà thơ về vẻ đẹp quê hương mình.
13
Mặt khác các địa danh này lại đi liền với các từ có ý nghĩa định vị về mặt không
gian là “trên”, “trong”, “giữa”. Nhà thơ Hoàng Cầm đã mở ra trước mắt người đọc
một không gian rộng lớn mênh mông, không gian của “mộng bình yên” đẹp đẽ, thơ
mộng. Thêm nữa có một nét vẽ cổ điển của âm thanh tiếng chuông chùa văng vẳng
lại như điểm nhịp cho cuộc sống yên ả, bình dị của Kinh Bắc. Hình ảnh con người
Kinh Bắc được phác hoạ bằng những câu thơ cụ thể:

Những nàng môi cắn chỉ quết trầu


Những cụ già phơ phơ tóc trắng
Những em sột soạt áo nâu
Chỉ bằng vài nét phác hoạ, Hoàng Cầm đã dựng nên trước mắt người đọc từng bức
chân dung cụ thể của con người Kinh Bắc, họ đều rạng ngời với vẻ đẹp truyền
thống, những người thiếu nữ, có vẻ đảm đang tháo vát, nhũng cụ già phúc hậu,
những em nhỏ ngây thơ tinh nghịch. Rõ ràng ở đây ta thấy niềm yêu mến sâu sắc
của tác giả. Những nỗi ám ảnh trong Hoàng Cầm sâu sắc nhất có lẽ là hình ảnh
người con gái Kinh Bắc. Ông đã dùng những câu thơ đẹp nhất, tài hoa nhất để gợi
tả họ:

Có nhớ từng khuôn mặt búp sen


Những cô hàng xén răng đen
Cười như mùa thu toả nắng
Chữ “Có nhớ” đặt ở đầu câu thơ là lời gợi nhắc đầy ám ảnh, hình ảnh “khuôn mặt
búp sen” gợi tả khuôn mặt người con gái vừa đoan trang, trong trắng, phúc hậu vừa
dịu dàng, và đây cũng là nét vẽ điển hình nhất của người con gái Kinh Bắc nói
riêng và của người con gái Việt Nam nói chung. Và gắn liền với hình ảnh “cô hàng
xén ràng đen”, đây lại là một phong tục tập quán cổ truyền, một nét vẽ truyền
thống người con gái Kinh Bắc. Cái hay nhất của đoạn thơ trên là biện pháp tu từ so
sánh giữa nụ cười thiếu nữ Kinh Bắc với ánh nắng mùa thu. Dường như ở đây có
một sự giao hoà giữa vẻ đẹp con người và vẻ đẹp thiên nhiên đất trời. Nét rạng
ngời tươi tắn trong nụ cười cô gái cũng giống với nét rạng ngời tươi tắn của nắng
mùa thu chứ không phải cái nắng nóng bỏng gay gắt của mùa hè hay yếu ớt ảm
đạm của mùa đông, nắng thu như toả trong nó một sức sống mạnh mẽ. Đến đây
người đọc như không còn thấy dấu tích của chiến tranh, bởi vậy câu thơ ẩn chứa
một niềm tin tưởng lạc quan của con người. Một không gian Kinh Bắc nhộn nhịp,
tấp nập được gợi tả qua một loạt những câu thơ tiếp, hình ảnh người người đông
đúc trong một không khí tưng bừng náo nức đã khẳng định một sức sống mạnh mẽ
của quê hương Kinh Bắc. Tình yêu quê hương Kinh Bắc tràn đầy trong những vần
thơ. Trong hoài niệm của Hoàng Cầm về con người Kinh Bắc có hình ảnh người

14
mẹ:

Mẹ già nua còm cõi gánh hàng rong


Dăm miếng cau khô
Mấy lọ phẩm hồng
Vài thếp giấy đầm hoen sương sớm
Những câu thơ đậm màu sắc tả thực. Từ láy “còm cõi” đã diễn tả rất tinh tế vóc
dáng khổ hạnh của người mẹ đồng thời chỉ rõ những vất vả, nhọc nhằn, lo toan mà
người mẹ phải chịu đựng, trong lòng người đọc như dâng lên sự cảm thương sâu
sắc. Gian hàng của người mẹ chẳng có gì, dăm miếng cau khô, mấy lọ phẩm hồng,
vài thếp giấy đã hoen vàng. Các từ “dăm”, “vài” là các từ chỉ số nhiều nhưng trong
cảm nhận của người đọc, người ta ngỡ như chỉ những thứ hàng hoá ít ỏi, sơ sài của
người mẹ, chữ “hoen” được sử dụng rất hay, “hoen” không chỉ là sương thấm vào
giấy mà như thấm cả giọt nước mắt, mồ hôi của mẹ. Đi liền với hình ảnh người mẹ
là tội ác của kẻ thù:

Chợt lũ quỷ mắt xanh trừng trợn


Khua giầy đinh đạp gãy quán gầy teo
Xì xồ cướp bóc
Tan phiên chợ nghèo
Tác giả gọi kẻ thù là “lũ quỷ mắt xanh” – một hình ảnh ẩn dụ chỉ tội ác tàn bạo và
dã man của kẻ thù, từ láy “trừng trợn” không chỉ gợi dáng vẻ nạt nộ, doạ dẫm của
kẻ thù mà con góp phần lột tả sống động chân dung của kẻ khát máu, quân cướp
bóc. Không những thế, chữ “chợt” chỉ gót giày quân xâm lược đột ngột, bất ngờ,
không gian thanh bình bỗng chốc bị phá vỡ. Tác giả sử dụng những từ mạnh mang
sắc thái biểu cảm cao “khua” “đạp”, “xì xồ”, “tan”, “gầy teo” diễn tả những hành
động dã man liên tiếp của kẻ thù những tội ác chồng chất. Hình ảnh con người
hàng xóm, quê hương như bị thu hẹp lai dưới gót giày tàn bạo của quân xâm lược.
Qua đó ta thấy tội ác kẻ thù càng tăng, niềm căm thù càng trở nên mạnh mẽ, nỗi
đau càng trở nên sâu thẳm. Tột cùng nỗi đau thương trong tâm hồn thi sĩ được đúc
kết, gửi gắm qua hai câu thơ lục bát đầy xúc động:

Lá đa lác đác trước lều


Vài ba vét máu loang chiều mùa đông
Không gian hoang sơ hiu quạnh được gọi tả với vài chiếc lá đa thưa thớt, một chiều
mùa đông nhuộm đỏ: đỏ của mầu máu, đỏ của ráng chiều. Câu thơ có khả năng gây
ấn tượng cực mạnh đối với người đọc. Câu lá đa lác đác trước lều” gợi âm điệu
buồn tẻ, rời rạc, điểm nhịp cho không gian vắng vẻ, thưa thớt, hiu quạnh của làng

15
quê Việt Nam trong những ngày tháng kẻ tù xâm lược các từ “vài ba”, loang được
sử dụng rất đắt giúp người đọc cảm nhận được từng vết máu đang loang dần, từng
chút từng chút vào cảnh vật cũng như vào con người. Mùa đông vốn ảm đạm, thời
gian chiều mùa dông càng khắc sâu thêm sự ảm đạm ấy. Câu thơ đã gọi tả sực
khốc liệt của chiến tranh. Những vết máu của chiến tranh thấm đỏ khung trời hay
ráng chiều nhuộm đỏ. Tất cả đều gợi sự bi thương tang tóc. Như vậy, hai câu thơ tả
ít mà gợi nhiều, nó không chỉ đánh thức người đọc niềm căm thù sôi sục quân xâm
lược mà con gợi dậy một nỗi đau khôn cùng. Câu thơ tràn ngập một màu máu và
thấm đẫm nỗi khóc thương nhỏ lệ.

Không có cuộc sống gắn bó máu thịt vói quê hương, không tha thiết với vẻ đẹp
tinh tuý của truyền thống quê hương thì nhà thơ Hoàng Cầm có lẽ không thể có
những mẫn cảm kỳ diệu như vậy. Đọc những dòng thơ nhà thơ viết về Kinh Bắc,
chúng ta lại bồi hồi liên tưởng đến quê hương mình và cảm ơn nhà thơ đã nói đúng
phần hồn linh nghiêm nhất của chúng ta mỗi khi trào dâng cảm xúc hoài niệm về
quê hương.

16

You might also like