You are on page 1of 594

Chịu trách nhiệm xuất bản

GIÁM ĐỐC - TỔNG BIÊN TẬP


PGS. TS. PHẠM MINH TUẤN

Chịu trách nhiệm nội dung


ỦY VIÊN HỘI ĐỒNG BIÊN TẬP - XUẤT BẢN
TS. VÕ VĂN BÉ

Biên tập nội dung: ThS. NGUYỄN THỊ HẢI BÌNH


ĐINH ÁI MINH
ThS. NGUYỄN VIỆT HÀ
Trình bày bìa: ThS. PHÙNG MINH TRANG
Chế bản vi tính: NGUYỄN THỊ THU THẢO
Sửa bản in: PHÒNG BIÊN TẬP KỸ THUẬT
Đọc sách mẫu: ĐÀO BÍCH
TRẦN PHAN BÍCH LIỄU

Số đăng ký kế hoạch xuất bản: 2266-2021/CXBIPH/36-23/CTQG.


Số quyết định xuất bản: 448-QĐ/NXBCTQG, ngày 29/6/2021.
Nộp lưu chiểu: tháng 7 năm 2021.
Mã ISBN: 978-604-57-6921-8.
BAN BIÊN SOẠN

PGS.TS. VŨ VĂN QUÂN ThS. TRẦN MINH ĐỨC


PGS.TS. PHAN AN TS. LÊ THỊ MINH HẠNH
TS. PHẠM ĐỨC ANH ThS. TỐNG VĂN LỢI
ThS. HÀ DUY BIỂN ThS. NGUYỄN NGỌC PHÚC
TS. NGUYỄN KHẮC CẢNH ThS. ĐỖ XUÂN TRƯỜNG
5

LỜI NHÀ XUẤT BẢN

Vùng đất Nam Bộ với tư cách là một không gian địa lý và địa bàn hành
chính thân thuộc, thiêng liêng của người dân đất Việt đã trải qua một quá
trình hình thành, phát triển lâu dài, được bồi tụ chủ yếu bởi hai con sông lớn:
sông Đồng Nai và sông Mékong. Nơi đây cũng đã từng tồn tại, phát tích của
nền văn hóa Óc Eo và các vương quốc Phù Nam, Chân Lạp phát triển huy
hoàng rồi suy tàn theo năm tháng.
Từ thế kỷ XVII, người Việt từ miền Bắc và miền Trung đã vào đây khai
phá, dựng làng, lập ấp cùng với người dân bản địa chinh phục vùng đất hoang
vu nhưng rất trù phú này. Đến thế kỷ XVIII, từ tầm nhìn chiến lược và công
lao to lớn của các chúa Nguyễn, sau này là vương triều Nguyễn, xác lập, sắp đặt
các đơn vị hành chính, vùng đất phương Nam giàu có chính thức thuộc chủ
quyền của dân tộc Việt Nam, đến nay đã được hơn 300 năm.
Vùng đất Nam Bộ với cương vực như hiện nay bao gồm cả Đông Nam Bộ
và Tây Nam Bộ - đồng bằng sông Cửu Long, có 17 tỉnh và hai thành phố trực
thuộc Trung ương, diện tích tự nhiên hơn 64.000 km2, dân số hơn 33 triệu
người với nhiều tộc người tụ cư sinh sống, gồm các dân tộc ít người bản địa,
các dân tộc thiểu số từ Trường Sơn - Tây Nguyên xuống, từ các tỉnh miền núi
phía Bắc vào, một số ít người từ các nước khác đến, nhưng chủ yếu là địa bàn
của người Kinh, người Hoa, người Khmer, người Chăm.
Về mặt địa lý, nhìn từ Bắc vào Nam, Đông Nam Bộ giáp cực Nam Trung
Bộ từ tỉnh Ninh Thuận, giáp Trường Sơn - Tây Nguyên từ các tỉnh Lâm Đồng,
Đắk Nông; có đường biên giới trên đất liền với Campuchia từ Bình Phước tới
Hà Tiên; có đường bờ biển trải dài từ Ninh Thuận tới đất mũi Cà Mau (Biển
Đông) và từ mũi Cà Mau đến Hà Tiên (biển Tây - vịnh Thái Lan). Nằm ở ngã
ba đường giao thông quốc tế, Nam Bộ có vị trí địa - kinh tế, địa - chính trị cực
kỳ quan trọng.
6 VÙNG ĐẤT NAM BỘ VIII THIẾT CHẾ QUẢN LÝ XÃ HỘI

Với tư cách một vùng đất giàu trầm tích văn hóa, đa dạng tộc người,
đa tôn giáo, giàu tiềm năng và có vị trí chiến lược trọng yếu, từ lâu Nam Bộ
đã là đối tượng nghiên cứu của nhiều nhà khoa học trong nước và ở nước
ngoài, nhiều hội thảo khoa học về vùng đất này đã được tổ chức, nhiều
công trình khoa học trên các lĩnh vực đã được công bố, nhưng cho đến nay
vẫn thiếu một công trình có tầm vóc, quy mô lớn nghiên cứu toàn diện,
liên ngành để có cái nhìn toàn cảnh, sâu sắc, nhiều chiều cạnh về vùng đất
phương Nam này.
Để đáp ứng yêu cầu đó, chương trình nghiên cứu tổng thể về vùng đất
Nam Bộ dưới dạng một đề án khoa học cấp nhà nước do GS. Phan Huy Lê làm
chủ nhiệm, gồm 11 đề tài khoa học đã được Bộ Khoa học và Công nghệ cho
phép triển khai từ năm 2008. Từ những đề tài khoa học nghiên cứu cơ bản này,
Ban Chủ nhiệm đề án đã tổ hợp lại thành báo cáo tổng quan Quá trình hình
thành và phát triển vùng đất Nam Bộ. Sau 4 năm nghiên cứu, toàn bộ đề án đã
được Bộ Khoa học và Công nghệ nghiệm thu và đánh giá đây là chương trình
khoa học - công nghệ xuất sắc năm 2011.
Mặc dù công trình được đánh giá cao, nhưng khi xuất bản thành sách, các
tác giả phải tiếp tục bổ sung, sửa chữa, chỉnh lý trong vòng hơn 3 năm - đến
giữa năm 2015 mới chuyển giao bản thảo cho Nhà xuất bản. Sau khi tiếp nhận
bản thảo, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật đã huy động một đội ngũ
đông đảo biên tập viên, họa sĩ, nhân viên kỹ thuật, tổ chức biên tập, đọc duyệt,
thiết kế makét, trình bày trong hơn một năm để công trình khoa học lớn này
lần đầu tiên đến tay bạn đọc vào cuối năm 2016 đầu năm 2017.
Đây là một công trình khoa học nghiên cứu công phu, nghiêm túc, được
tiến hành bởi đội ngũ các nhà khoa học trên nhiều lĩnh vực khác nhau, trong
đó Ban Chủ nhiệm đề án và chủ biên của từng đề tài là các chuyên gia hàng
đầu trong từng giai đoạn lịch sử cũng như trong các lĩnh vực nghiên cứu. Tuy
vậy, ở một vài chương trong bộ tổng quan hoặc từng đề tài, chất lượng nghiên
cứu và hàm lượng khoa học không giống nhau, có chương, có tập chưa được
như kỳ vọng hoặc yêu cầu nghiên cứu đặt ra.
Tất nhiên mỗi đề tài khoa học là công trình độc lập, nhưng khi đặt trong
một chỉnh thể thì có đề tài không tránh được sơ lược, dàn trải; có đề tài có
một số nội dung đã được trình bày ở các đề tài khác. Vì vậy, Nhà xuất bản
LỜI NHÀ XUẤT BẢN 7

đã thống nhất với chủ biên đề nghị các tác giả bổ sung, nâng cấp hoặc cắt
bỏ những trùng lặp để bộ sách tuân thủ nghiêm ngặt sự thống nhất trong
chỉnh thể.
Bộ sách về vùng đất Nam Bộ gồm bộ tổng quan, rút gọn: Vùng đất Nam
Bộ - Quá trình hình thành và phát triển, 2 tập và một bộ chuyên khảo sâu gồm
10 tập, nghiên cứu khá toàn diện trên nhiều lĩnh vực của vùng đất phương
Nam, từ điều kiện tự nhiên, quá trình lịch sử, dân cư, dân tộc, tôn giáo và thiết
chế quản lý xã hội, quá trình Nam Bộ hội nhập với khu vực và quốc tế.
Khi triển khai nghiên cứu, tên đề án và tên từng đề tài khoa học rất cụ thể
và thường khá dài, nhưng khi xuất bản, Nhà xuất bản đã trao đổi với chủ biên
thống nhất bộ sách có tên chung là Vùng đất Nam Bộ.
Riêng bộ tổng quan Vùng đất Nam Bộ - Quá trình hình thành và phát triển,
ngoài Chương mở đầu và Chương kết có 10 chương nội dung, được kết cấu
hoàn chỉnh. Nhưng với dung lượng 1.500 trang sách rất khó dung nạp trong một
cuốn sách, cho nên chúng tôi chia thành hai tập: tập I gồm Chương mở đầu và
sáu chương nội dung, tập II gồm bốn chương nội dung và Chương kết.
Riêng Chương kết, các tác giả dành mục cuối cùng để trình bày đề
xuất, kiến nghị của Ban Chủ nhiệm đề án với Đảng, Nhà nước và các cơ
quan lãnh đạo, quản lý, chúng tôi tách ra làm phần Phụ lục đặt ở cuối sách.
Như vậy kết quả nghiên cứu của đề án được công bố thành các cuốn sách
sau đây:
- Vùng đất Nam Bộ - Quá trình hình thành và phát triển, gồm 2 tập,
GS. Phan Huy Lê chủ biên.
- Vùng đất Nam Bộ, tập I: Điều kiện tự nhiên, môi trường sinh thái,
TS. Trương Thị Kim Chuyên chủ biên.
- Vùng đất Nam Bộ, tập II: Từ cội nguồn đến thế kỷ VII, GS. TSKH. Vũ
Minh Giang - Nguyễn Việt đồng tác giả.
- Vùng đất Nam Bộ, tập III: Từ thế kỷ VII đến thế kỷ XVI, GS. TS. Nguyễn
Văn Kim chủ biên.
- Vùng đất Nam Bộ, tập IV: Từ đầu thế kỷ XVII đến giữa thế kỷ XIX,
GS. TS. Nguyễn Quang Ngọc chủ biên.
- Vùng đất Nam Bộ, tập V: Từ năm 1859 đến năm 1945, PGS. TS. Đoàn
Minh Huấn - PGS. TS. Nguyễn Ngọc Hà đồng chủ biên.
8 VÙNG ĐẤT NAM BỘ VIII THIẾT CHẾ QUẢN LÝ XÃ HỘI

- Vùng đất Nam Bộ, tập VI: Từ năm 1945 đến năm 2010, PGS. TS. Trần
Đức Cường chủ biên.
- Vùng đất Nam Bộ, tập VII: Đặc trưng tín ngưỡng, tôn giáo và sinh hoạt
văn hóa, GS. TS. Ngô Văn Lệ chủ biên.
- Vùng đất Nam Bộ, tập VIII: Thiết chế quản lý xã hội, PGS. TS. Vũ Văn
Quân chủ biên.
- Vùng đất Nam Bộ, tập IX: Tộc người và quan hệ tộc người, TS. Võ Công Nguyện
chủ biên.
- Vùng đất Nam Bộ, tập X: Tiến trình hội nhập khu vực và thế giới,
PGS. TS. Võ Văn Sen chủ biên.
Về mặt xuất bản, bộ sách được biên tập, thiết kế, trình bày thống nhất
trong từng tập và trong cả bộ sách, được in ấn đẹp, trang trọng.
Xuất bản bộ sách này chúng tôi hy vọng cung cấp cho bạn đọc, các nhà
nghiên cứu, học viên, sinh viên các học viện, nhà trường và các nhà lãnh đạo,
quản lý, các địa phương, đơn vị một khối lượng tri thức lớn, khá đầy đủ, toàn
diện và chân xác về vùng đất Nam Bộ, phục vụ cho công tác học tập, nghiên cứu
và hoạch định chính sách ở khu vực trọng yếu, năng động này của đất nước.
Bộ sách cũng cung cấp cơ sở lịch sử - pháp lý vững chắc phục vụ cuộc
đấu tranh bảo vệ chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, xây dựng biên giới hòa bình,
hữu nghị.
Các tác giả và Nhà xuất bản đã nỗ lực rất cao trong nghiên cứu, biên soạn
và biên tập - xuất bản, nhưng với khối lượng công việc đồ sộ, bộ sách khó
tránh khỏi những hạn chế, thiếu sót, rất mong được bạn đọc góp ý, phê bình.
Xin trân trọng giới thiệu bộ sách quý cùng bạn đọc.

Tháng 4 năm 2017


NHÀ XUẤT BẢN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA SỰ THẬT
9

LỜI GIỚI THIỆU

Quá trình hình thành và phát triển vùng đất Nam Bộ là một đề án khoa
học xã hội cấp nhà nước do Bộ Khoa học và Công nghệ chủ trì, được thực
hiện trong thời gian từ năm 2008 đến năm 2010 và nghiệm thu vào cuối
năm 2011. Đề án gồm 11 đề tài:
1- Điều kiện địa lý tự nhiên, môi trường sinh thái tác động đến tiến
trình lịch sử và đặc trưng văn hóa vùng đất Nam Bộ do TS. Trương
Thị Kim Chuyên, Trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn, Đại học
Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh làm Chủ nhiệm.
2- Nam Bộ từ cội nguồn đến thế kỷ VII do GS.TSKH. Vũ Minh Giang,
Viện Việt Nam học và Khoa học phát triển, Đại học Quốc gia Hà Nội làm
Chủ nhiệm.
3- Nam Bộ từ thế kỷ VII đến thế kỷ XVI do PGS.TS. Nguyễn Văn Kim,
Trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội
làm Chủ nhiệm.
4- Nam Bộ từ thế kỷ XVII đến thế kỷ XIX: Quá trình khai phá và xác lập
chủ quyền của Việt Nam trên vùng đất Nam Bộ do GS.TS. Nguyễn Quang
Ngọc, Viện Việt Nam học và Khoa học phát triển, Đại học Quốc gia Hà Nội
làm Chủ nhiệm.
5- Nam Bộ từ khi Pháp xâm lược Việt Nam đến năm 1945 do
PGS.TS. Đoàn Minh Huấn, Học viện Chính trị hành chính khu vực I
làm Chủ nhiệm.
6- Nam Bộ từ năm 1945 đến năm 2010 do PGS.TS. Trần Đức Cường,
Viện Sử học Việt Nam làm Chủ nhiệm.
7- Đặc trưng tín ngưỡng, tôn giáo và sinh hoạt văn hóa của cư dân Nam
Bộ do GS.TS. Ngô Văn Lệ, Trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn,
Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh làm Chủ nhiệm.
10 VÙNG ĐẤT NAM BỘ VIII THIẾT CHẾ QUẢN LÝ XÃ HỘI

8- Đặc trưng thiết chế quản lý xã hội ở Nam Bộ do PGS.TS. Vũ Văn


Quân, Trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn, Đại học Quốc gia Hà
Nội làm Chủ nhiệm.
9- Tộc người và quan hệ tộc người ở Nam Bộ - lịch sử và hiện trạng do
TS. Võ Công Nguyện, Viện Khoa học xã hội vùng Nam Bộ làm Chủ nhiệm.
10- Nam Bộ trong tiến trình hội nhập khu vực và thế giới của Việt
Nam do PGS.TS. Võ Văn Sen, Trường Đại học Khoa học xã hội và
nhân văn, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh làm Chủ nhiệm.
11- Nghiên cứu giải pháp nâng cao nhận thức của cán bộ và nhân dân về
lịch sử vùng đất Nam Bộ do PGS.TS. Phan Xuân Biên, Viện Nghiên cứu xã hội,
Trưởng ban Tuyên giáo Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh làm Chủ nhiệm.
Toàn bộ kết quả nghiên cứu của các đề tài được tổng hợp trong một
công trình mang tên Quá trình hình thành và phát triển vùng đất Nam Bộ
do GS. Phan Huy Lê, Chủ nhiệm đề án, làm Chủ biên.
Công trình có một số đề tài nghiên cứu về quá trình lịch sử, nhưng
không đơn thuần là lịch sử Nam Bộ. Cùng với các lớp cắt lịch đại theo tiến
trình lịch sử, còn có những nghiên cứu trên một số lĩnh vực cơ bản về điều
kiện tự nhiên, quan hệ tộc người, thiết chế quản lý xã hội, đời sống văn
hóa, tôn giáo, tín ngưỡng, về quá trình xác lập chủ quyền của quốc gia Đại
Việt... Trong một số đề tài lịch sử cũng có những yêu cầu làm sáng tỏ một
số nội dung quan trọng như đề tài số 2 với yêu cầu nghiên cứu về văn hóa
Óc Eo và vương quốc Phù Nam, đề tài số 4 có yêu cầu nghiên cứu sự xác lập
chủ quyền của Việt Nam trên vùng đất Nam Bộ. Đặc biệt, từ kết quả nghiên
cứu, đề án xác lập một nhận thức mới coi lịch sử vùng đất Nam Bộ không
phải bắt đầu khi người Việt vào khai phá từ thế kỷ XVII mà phải ngược lên
quá khứ xa xưa từ khi con người xuất hiện trên vùng đất phương Nam này.
Vùng đất Nam Bộ đã được các nhà khoa học nghiên cứu từ lâu dưới
góc độ của nhiều chuyên ngành từ địa chất, địa lý đến khảo cổ học, dân
tộc học, nhân học, xã hội học, kinh tế học, văn hóa học và sử học. Đề
án một mặt tổng hợp các kết quả nghiên cứu đó, mặt khác nghiên cứu
thêm một số nội dung cần thiết nhằm tạo ra một nhận thức tổng hợp về
LỜI GIỚI THIỆU 11

toàn bộ quá trình hình thành và phát triển của vùng đất phương Nam
này. Đó là cơ sở khoa học để hiểu biết và lý giải những nét độc đáo của
không gian lịch sử văn hóa vùng đất Nam Bộ với những trầm tích của
nhiều thời kỳ lịch sử, những biến đổi trong cấu trúc tộc người, vai trò
và cống hiến của các lớp cư dân - tộc người đã từng sinh sống trên vùng
đất này, những đặc trưng về văn hóa, phong cách, lối sống của con người
Nam Bộ, quá trình hội nhập của vùng đất Nam Bộ vào lãnh thổ của
nước Đại Việt từ thế kỷ XVII-XVIII cho đến cuộc đấu tranh bảo vệ chủ
quyền và sự thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của đất nước đến ngày nay.
Tham gia đề án có hơn một trăm nhà khoa học thuộc một số viện của
Viện Khoa học xã hội Việt Nam (nay là Viện Hàn lâm Khoa học xã hội
Việt Nam) và Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, một số khoa và
viện của Đại học Quốc gia Hà Nội và Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí
Minh và Hội Khoa học lịch sử Việt Nam. Các nhà khoa học tham gia dưới
nhiều phương thức như trực tiếp biên soạn, nghiên cứu chuyên đề, điều tra
khảo sát điền dã, tham luận trong các hội thảo khoa học. Trong quá trình
chuẩn bị xây dựng đề án, Bộ Khoa học và Công nghệ đã phối hợp với Hội
Khoa học lịch sử Việt Nam tổ chức ba hội thảo khoa học tại Thành phố Hồ
Chí Minh và thành phố Cần Thơ: Văn hóa Óc Eo và vương quốc Phù Nam
(năm 2004), Vùng đất Nam Bộ cho đến cuối thế kỷ XIX (năm 2006), Nam Bộ
thời cận đại (năm 2008). Trong quá trình triển khai đề án, Ban chủ nhiệm
đề án cùng chủ nhiệm các đề tài còn tổ chức một số hội thảo trao đổi về
lịch sử nghiên cứu, phương pháp tiếp cận và một số nội dung cơ bản của
đề án như tiến trình lịch sử xã hội, bản sắc văn hóa xã hội. Những hội thảo
này đã được Nhà xuất bản Thế giới biên tập và in thành sáu tập kỷ yếu1.
Kết quả nghiên cứu của Đề án được Nhà xuất bản Chính trị quốc
gia Sự thật biên tập rất công phu và công bố thành một bộ sách mang

1. Văn hóa Óc Eo và vương quốc Phù Nam, 2008; Lịch sử nghiên cứu và phương
pháp tiếp cận, 2008; Một số vấn đề lịch sử vùng đất Nam Bộ đến cuối thế kỷ XIX,
2009; Một số vấn đề lịch sử vùng đất Nam Bộ thời kỳ cận đại, 2009; Mấy vấn đề tiến
trình lịch sử xã hội, 2011; Mấy vấn đề bản sắc văn hóa xã hội, 2011.
12 VÙNG ĐẤT NAM BỘ VIII THIẾT CHẾ QUẢN LÝ XÃ HỘI

tên chung Vùng đất Nam Bộ gồm 11 tập sách. Riêng tập Tổng quan là
Vùng đất Nam Bộ: Quá trình hình thành và phát triển dày đến 1.500
trang chia làm hai tập. So với nội dung của các đề tài có yêu cầu thống
nhất lại tên từng tập và sắp xếp lại một số nội dung để tránh trùng lặp.
Cách phân tập và bố cục này đã được nói rõ trong Lời Nhà xuất bản.
Tập thể các tác giả đã rất cố gắng hoàn thành công trình nghiên cứu
nhưng trước một đối tượng nghiên cứu rộng lớn, bao quát nhiều nội
dung phong phú, trong đó có những vấn đề mới đang nghiên cứu và thảo
luận nên khó tránh khỏi sơ suất. Rất mong nhận được sự quan tâm và
đóng góp ý kiến của bạn đọc. Chúng tôi xin bày tỏ lời cảm ơn chân
thành đến Bộ Khoa học và Công nghệ đã tạo mọi điều kiện thuận lợi
cho việc triển khai đề án, cảm ơn Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự
thật đã dày công biên tập và xuất bản toàn bộ công trình khoa học này.

Hà Nội, mùa Hè năm 2016


GS. Phan Huy Lê
MỞ ĐẦU 13

MỞ ĐẦU

1. Quản lý xã hội có nội dung hết sức rộng lớn. Suy cho cùng, mọi
lĩnh vực của đời sống xã hội đều là đối tượng của quản lý, nghĩa là một
mối quan hệ biện chứng giữa một bên là hoạt động quản lý với một bên
là đối tượng quản lý. Rộng ra hơn nữa còn là mối quan hệ biện chứng
giữa quản lý và phát triển: quản lý tốt thì mới phát triển tốt và phát triển
tốt là một biểu hiện của quản lý tốt. Vùng đất Nam Bộ của Việt Nam,
xuất phát từ các điều kiện tự nhiên, đặc điểm lịch sử có không ít những
khó khăn, phức tạp trong vấn đề quản lý. Vì thế, quản lý Nam Bộ bảo
đảm ổn định và phát triển bền vững là vấn đề cấp thiết đặt ra hiện nay.
Trên phương diện nghiên cứu khoa học, việc làm rõ tiến trình lịch sử và
những đặc trưng của các thiết chế quản lý xã hội ở Nam Bộ thực sự là
một đề tài khoa học có ý nghĩa thực tiễn góp phần nâng cao nhận thức
trong chỉ đạo thực tiễn và xác lập cơ sở khoa học cho việc hoạch định
các chính sách nhằm quản lý hiệu quả vùng đất này.
2. Thiết chế quản lý xã hội có nội hàm rộng và có thể nhìn trên
nhiều chiều cạnh khác nhau. Trên phương diện loại hình có thiết chế
quản lý “quan phương”, có thiết chế quản lý “phi quan phương”; trên
phương diện tộc người có thiết chế quản lý của tộc người này, có thiết
chế quản lý của tộc người kia... Dưới đây là một số quan điểm cụ thể
trong cách tiếp cận vấn đề thiết chế quản lý xã hội ở Nam Bộ được thể
hiện trong cuốn sách này:
14 VÙNG ĐẤT NAM BỘ VIII THIẾT CHẾ QUẢN LÝ XÃ HỘI

a) Tiếp cận dưới góc độ loại hình. Loại hình1 thiết chế quản lý phân
biệt thành nhà nước - “quan phương” và “phi quan phương”.
Thiết chế quản lý nhà nước - “quan phương” là hệ thống quản lý
hành chính nhà nước từ cơ sở đến trung ương. Ở Nam Bộ, từ khi người
Việt vào khai phá đất đai, việc thiết lập các cấp hành chính trải qua một
quá trình lịch sử, từ chỗ chưa thống nhất đến chỗ thống nhất với toàn
quốc. Tiếp cận vấn đề hệ thống quản lý nhà nước ở Nam Bộ có mục tiêu
là vừa tìm ra những nét riêng, vừa khẳng định tính thống nhất của nó
trong toàn bộ nền hành chính quốc gia.
Thiết chế quản lý “phi quan phương” cực kỳ phong phú và phức tạp.
Chính ở đây chúng ta mới dễ nhận biết tính đặc thù của Nam Bộ. Tính
“phi quan phương” có thể nhìn nhận trên rất nhiều chiều cạnh khác
nhau, gắn với tộc người, gắn với khu vực kinh tế - xã hội, gắn với các
hình thức tôn giáo - tín ngưỡng. Có cái “phi quan phương” hình thành
trong quá trình lịch sử gắn với hình thức định cư của từng tộc người nhất
định. Chẳng hạn, như người Việt với các thôn ấp của mình. Các dạng
thức kết hợp cộng đồng trong làng xã người Việt cực kỳ phong phú:
theo huyết thống, theo nghề nghiệp, theo sở thích... Có tính phổ biến
của hiện tượng này nhưng chắc chắn không có sự đồng nhất của hiện
tượng này. Khi có “làng Bắc Bộ - Trung Bộ” và “làng Nam Bộ” thì chắc
chắn sẽ có nét riêng của các thiết chế “phi quan phương” giữa các vùng
trên. Đối với người Khmer, người Hoa, người Chăm... cũng thế. Có cái
phi quan phương là những yếu tố truyền thống có một quá trình lịch sử
lâu dài. Người Việt với các công xã nông thôn từ thời kỳ văn minh sông
Hồng, trong đó tính tự trị - tự quản là yếu tố bao trùm, không giải thể
mà gia cố thêm ở thời Bắc thuộc do nhu cầu đấu tranh giành độc lập
dân tộc và bảo tồn các truyền thống văn hóa, trở thành căn tính - gen di
truyền. Nó biểu hiện trên nhiều phương diện, nhưng được cụ thể hóa
qua các thiết chế phi quan phương. Căn tính - gen di truyền đó với các
thiết chế đó được người Việt mang theo trong quá trình mở đất, cho đến

1. Cách dùng thuật ngữ này xin chỉ được xem như một ký hiệu để nhận biết,
chưa phải là một thuật ngữ khoa học chuẩn mực.
MỞ ĐẦU 15

tận mũi Cà Mau. Người Hoa, người Khmer và các cộng đồng tộc người
khác, dù cách thức hình thành các dạng thức cộng đồng có khác nhau,
thì cũng là sản phẩm của một quá trình lịch sử lâu dài.
b) Tiếp cận gắn với tộc người. Vấn đề tộc người ở Nam Bộ là rất
đáng quan tâm. Các cư dân bản địa đầu tiên trên đất Nam Bộ giờ hầu
như khó xác định được một cách chính xác các hậu duệ của họ. Thành
ra, tất cả các tộc người như ta biết hiện nay đều là “nhập cư” vào. Người
Khmer và một vài tộc thiểu số khác có thể là những người đến trước.
Sau đó là người Việt, người Hoa. Trong công cuộc khai phá đất đai, xây
dựng xóm làng ở vùng đất Nam Bộ, mỗi cộng đồng tộc người đều có
những đóng góp riêng, trong đó người Việt đóng vai trò chủ đạo, nhân
tố đoàn kết và hợp lực các cộng đồng cư dân khác.
Có đặc tính chung nhưng mỗi một tộc người ở Nam Bộ có một sắc
thái văn hóa riêng, một phương thức riêng trong tổ chức xã hội và tự
quản. Trong khi hầu như không có sự phân biệt trong yếu tố nhà nước
của thiết chế quản lý gắn với tộc người thì yếu tố “phi quan phương” lại
là nét nổi bật của thiết chế quản lý gắn với tộc người. Thực ra, trong lịch
sử Việt Nam, phân biệt quản lý nhà nước gắn với tộc người thường là
sự phân biệt giữa vùng đồng bằng (cũng là địa bàn cư trú chủ yếu của
người Kinh - tộc người đa số) với vùng miền núi (địa bàn cư trú chủ
yếu của các tộc người thiểu số). Quá trình phát triển lịch sử của nền
hành chính Việt Nam là tiến tới sự giảm thiểu và xóa bỏ để thống nhất
hành chính. Xu hướng này được Vua Minh Mạng thực hiện một cách
quyết liệt và đã thành công (cuộc cải cách hành chính nổi tiếng năm
1831-1832).
Sau khi yếu tố quản lý hành chính nhà nước gắn với đặc thù tộc
người về cơ bản bị xóa bỏ muộn nhất là từ giữa thế kỷ XIX, thì ở khía
cạnh thứ hai, các thiết chế quản lý “phi quan phương” gắn với tộc
người vẫn được duy trì. Nhưng các tộc người Nam Bộ không tồn tại
một cách biệt lập mà trong sự giao thoa liên tục và quá trình đó vẫn
tiếp tục diễn ra. Sự giao thoa thể hiện trên rất nhiều phương diện,
nhiều hình thức: sự đan xen trong cư trú, trong tôn giáo - tín ngưỡng,
trong các sinh hoạt văn hóa... Nghiên cứu thiết chế phi nhà nước trong
16 VÙNG ĐẤT NAM BỘ VIII THIẾT CHẾ QUẢN LÝ XÃ HỘI

quản lý xã hội phải tính đến thực tế này, xu hướng này. Rõ ràng có sự
ảnh hưởng, sự tác động qua lại giữa các tộc người.
3. Với cách tiếp cận đối tượng như trên, vấn đề thiết chế quản lý
xã hội ở vùng đất Nam Bộ trong tiến trình lịch sử đã được giới học giả
quan tâm nghiên cứu từ khá sớm, ở cả trong nước và ngoài nước. Có
thể thấy vấn đề này được đề cập trực tiếp hoặc gián tiếp trong hầu hết
các nghiên cứu chung hoặc riêng về vùng đất Nam Bộ trên các phương
diện lịch sử, xã hội, văn hóa, tộc người... Đặc biệt, đã có những nghiên
cứu mang tính chuyên khảo hay chuyên luận trực tiếp về vấn đề này
trong phạm vi không gian vùng Nam Bộ, về lịch sử hình thành và phát
triển, các phương thức tổ chức quản lý trong quá trình khai phá đất đai,
lập làng, lập ấp, về quy hoạch hành chính và thiết lập bộ máy quản lý
nhà nước, về các hình thức tự quản gắn với từng tộc người ở vùng đất
Nam Bộ... Kết quả nghiên cứu đã đem đến những nhận thức ngày một
rõ ràng về vấn đề thiết chế quản lý xã hội ở Nam Bộ, không chỉ có giá
trị khoa học, mà còn góp phần không nhỏ trong quản lý và phát triển ở
vùng đất Nam Bộ.
Tuy nhiên, những thành tựu rất đáng ghi nhận đó vẫn còn khá rời
rạc. Một cái nhìn toàn diện hơn trong một công trình có tính tổng hợp
là mục đích mà cuốn sách này hy vọng đem đến cho người đọc. Cũng
vì lẽ đó, cuốn sách này có phần quan trọng là sự kế thừa các thành tựu
nghiên cứu trước đó, có thể được tổng hợp từ kết quả nghiên cứu của
chính các tác giả tham gia biên soạn công trình này, nhưng phần lớn là
từ thành tựu nghiên cứu của đông đảo các học giả khác. Nhân đây tập
thể tác giả xin được bày tỏ lời cảm ơn sâu sắc.
4. Chủ đề của cuốn sách này rất rộng và có thể tiếp cận dưới nhiều
góc độ khác nhau; mặt khác, dù tập thể tác giả đã có nhiều cố gắng trong
tiếp cận để có những tìm tòi, bổ sung, thì tính “tập thành” vẫn là nét nổi
bật. Cuốn sách chắc chắn còn nhiều hạn chế. Tập thể tác giả rất mong
nhận được ý kiến đóng góp của các nhà nghiên cứu và bạn đọc.



CHƯƠNG I: HỆ THỐNG QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH... 17

Chương I

HỆ THỐNG QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH


Ở NAM BỘ
TỪ ĐẦU THẾ KỶ XVII ĐẾN NĂM 1858

I- VÀI NÉT VỀ VÙNG ĐẤT NAM BỘ TRƯỚC THẾ KỶ XVII

1. Vùng đất Nam Bộ từ cội nguồn đến đầu thế kỷ VII

Từ cách đây hàng chục vạn năm, trên vùng đất Nam Bộ đã có
người cổ sinh sống. Đó là phát hiện của ngành khảo cổ học qua
những di tích thuộc sơ kỳ thời đại đá cũ, như ở Xuân Lộc, Hàng Gòn,
Dầu Giây, Sáu Lé, Gia Tân (đều thuộc Đồng Nai) và An Lộc (Bình
Phước). Bước sang hậu kỳ thời đá mới (khoảng 5.000 - 6.000 năm
trước), những cộng đồng cư dân thời tiền sử đã sinh sống khá đông
đúc ở cả lưu vực sông Đồng Nai và châu thổ sông Mékong (Cửu
Long). Họ biết trồng lúa, đánh cá, săn bắt, sinh sống trên những ngôi
nhà sàn hay thuyền bè, có tục chôn người chết, thờ cúng tổ tiên và
linh vật.
Thời đại đồng thau ở khu vực Nam Bộ bắt đầu từ khoảng thiên
niên kỷ thứ II tr.CN, với sự xuất hiện của các văn hóa thời Tiền Óc
Eo. Những di tích thời kỳ này phân bố rộng khắp trên địa bàn các
tỉnh ở cả khu vực miền Đông và miền Tây Nam Bộ, trong đó không
18 VÙNG ĐẤT NAM BỘ VIII THIẾT CHẾ QUẢN LÝ XÃ HỘI

ít di tích được xác định là phát triển từ thời Tiền Óc Eo lên Óc Eo.
Vào khoảng trước và đầu Công nguyên, văn hóa Óc Eo đã được hình
thành trên cơ sở phát triển những yếu tố nội sinh và sự tiếp thu
những yếu tố văn hóa mới qua các dòng giao lưu thời đại.
Văn hóa Óc Eo được nhà khảo cổ học người Pháp Louis Malleret
phát hiện đầu tiên vào năm 1944 tại cánh đồng Óc Eo, nay thuộc xã
Vọng Thê, huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang. Từ đó đến nay, đặc biệt là
từ sau năm 1975, các nhà khảo cổ học Việt Nam đã phát hiện mới, khai
quật và nghiên cứu trên 100 địa điểm văn hóa Óc Eo. Địa bàn phân bố
các di tích văn hóa Óc Eo trải rộng khắp Nam Bộ, từ vùng đồng bằng
trũng thấp miền Tây sông Hậu đến vùng cao miền trung lưu sông Đồng
Nai. Văn hóa Óc Eo là một nền văn hóa bản địa, được hình thành tại
chỗ và phát triển liên tục trên vùng đất Nam Bộ. Mặt khác, do vị trí địa
lý cùng đặc tính hướng ngoại, cởi mở vốn có của một truyền thống ven
biển, chủ nhân văn hóa Óc Eo đã sớm có quan hệ giao lưu rộng rãi với
thế giới bên ngoài. Kết quả khai quật khảo cổ học, nhất là ở di tích Ba
Thê - Óc Eo đã cho thấy những mối liên hệ thường xuyên và mật thiết
giữa Óc Eo với các văn hóa khu vực, cũng như với các nền văn minh
lớn: Ấn Độ, Trung Quốc, Tây Á, Địa Trung Hải. Văn hóa Óc Eo là nền
tảng, đồng thời là sự phát triển sớm nhất, tiêu biểu nhất của văn hóa
Phù Nam và vương quốc Phù Nam.
Nhà nước Phù Nam được hình thành vào khoảng đầu Công
nguyên, gắn với truyền thuyết về quan hệ hôn nhân giữa Liễu Diệp
(Soma, Mặt trăng) - nữ chúa bản địa của một nước (bộ lạc) có “tục
khỏa thân, xăm mình, xõa tóc” và một người vượt biển đến từ phương
Nam tên là Hỗn Điền (Kaundinya). Nhà nước sơ khai này, do đó, là
một cộng đồng cư dân ven biển và sớm đã diễn ra những cuộc tiếp
xúc ở vùng ven biển, có lẽ thuộc hạ lưu sông Mékong.
CHƯƠNG I: HỆ THỐNG QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH... 19

Các học giả phương Tây coi Hỗn Điền là vua sáng lập nước Phù
Nam và Phù Nam chính là quốc gia Ấn Độ hóa1 đầu tiên ở khu vực
Đông Nam Á. Hỗn Điền và Liễu Diệp sinh được bảy người con “chia
nước làm bảy ấp, cho các con cai trị” (Lương thư). Sau đó, một người con
là Hỗn Bàn Huống dùng kế ly gián để các ấp nghi ngờ, đánh lẫn nhau
và cuối cùng thôn tính tất cả. Hỗn Bàn Huống lên làm vua, lại cho con
cháu mình cai trị các ấp, gọi là “Tiểu vương”. Như vậy, trong hai đời vua
đầu là Hỗn Điền và Hỗn Bàn Huống, Phù Nam là một nhóm gồm một
số tiểu quốc, vừa có vua đứng đầu Phù Nam, vừa có tiểu vương cai trị
các tiểu quốc mà vua/vương ở đây còn mang nặng tính chất thủ lĩnh. Đó
cũng là mô hình nhà nước sơ khai thường thấy trong lịch sử cổ đại của
nhiều nước Đông Nam Á và một số khu vực trên thế giới, thường được
các nhà nghiên cứu phương Tây gọi là Mandalas2.
Đến đời Vua Hỗn Bàn Bàn (con Hỗn Bàn Huống), “chính sự trong
nước giao cho Đại tướng Phạm Man trông coi” (Nam sử). Đây có thể

1. Theo giải thích của G. Coedès: “Ấn Độ hóa cần được hiểu về bản chất như
sự truyền bá một nền văn hóa có tổ chức được xây dựng trên quan niệm của Ấn
Độ và vương quyền, có đặc trưng là những lễ thức thờ cúng Hindu hoặc Phật
giáo, thần thoại trong Puranas, sự tuân thủ giáo luật Dharmacasras và có phương
tiện biểu đạt là ngôn ngữ Phạn” (Xem G. Coedès: Cổ sử các quốc gia Ấn Độ hóa
ở Viễn Đông, Nxb. Thế giới, Hà Nội, 2008, tr.49). Ở đây, không nên hiểu “Ấn Độ
hóa” là “thực dân hóa”, tức sự du nhập và áp đặt theo lối đồng hóa của văn hóa từ
bên ngoài. Trong phạm vi ảnh hưởng của một trung tâm văn minh lớn là Ấn Độ,
những nước xung quanh tiếp nhận ở những mức độ khác nhau và theo những
phương thức khác nhau ảnh hưởng của nền văn minh đó. Phù Nam là trường hợp
đầu tiên và là một trong những ví dụ điển hình nhất của “Ấn Độ hóa” theo cách đó.
2. Mandalas vốn là một khái niệm trong tín ngưỡng Ấn Độ thời cổ đại để
chỉ một hệ thống phụ thuộc vào trung tâm. Các học giả phương Tây, tiêu biểu là
O.W. Wolters, đã sử dụng khái niệm này để đặt tên cho một loại hình thiết chế tập
quyền liên kết, đúng hơn là một loại hình liên bang hướng tâm của các tiểu quốc.
Mandalas là kiểu nhà nước phi lãnh thổ, chưa thống nhất và tập trung, nhưng chịu
ảnh hưởng từ trung tâm. Loại hình nhà nước này tồn tại phổ biến ở các quốc gia
Đông Nam Á thời cổ đại.
20 VÙNG ĐẤT NAM BỘ VIII THIẾT CHẾ QUẢN LÝ XÃ HỘI

được coi là giai đoạn củng cố và tăng cường sức mạnh của nhà nước
trung ương, xây dựng một vương quốc thống nhất, dù được hiểu theo
nghĩa tương đối. Vương quốc Phù Nam trong thời kỳ này chủ yếu vẫn
nằm trong phạm vi hạ lưu sông Mékong. Sách Lương thư miêu tả như
sau: “Nước Phù Nam ở phía nam quận Nhật Nam, trong một vịnh lớn
phía tây biển, cách Nhật Nam khoảng 7.000 dặm, cách Lâm Ấp về phía
tây nam hơn 3.000 dặm. Thành cách biển 500 dặm, có sông lớn, rộng 10
dặm, chảy theo hướng tây bắc sang đông, đổ ra biển. Nước ấy rộng hơn
3.000 dặm, đất thấp và bằng phẳng”. Theo miêu tả trên, lãnh thổ hay ít
ra là địa bàn trung tâm của nước Phù Nam ở gần biển, tức vùng hạ lưu
sông Mékong.
Sau khi Hỗn Bàn Bàn qua đời (đầu thế kỷ III), “người trong nước
đều cử Phạm Man làm vua”. Phạm Man xưng là “Phù Nam đại vương”,
mang quân đánh chiếm các nước, bắt phải thần phục. Lúc đầu, nhà
vua chinh phạt các nước láng giềng rồi sau đó cho “đóng thuyền lớn,
kéo quân đi đánh khắp vùng biển rộng lớn”, “thu được các xứ như Đô
Côn, Cửu Trĩ, Điển Tôn, cả thảy hơn 10 nước, chiếm đất đai đến năm,
sáu nghìn dặm vuông” (Lương thư). Vua Phạm Man được đánh giá là
nhà quân sự “dũng mãnh và có mưu lược”. Ông đã tổ chức một lực
lượng quân đội gồm quân bộ và quân thủy khá đông và thiện chiến,
riêng người cháu con chị gái là tướng Phạm Chiên (sau này làm vua Phù
Nam) chỉ huy 2.000 quân. Đến đây, Phù Nam sau hơn hai thế kỷ hình
thành đã không còn là một vương quốc nữa mà đã phát triển thành một
đế chế lớn mạnh đầu tiên ở khu vực Đông Nam Á.
Từ thế kỷ III đến thế kỷ VI, đế chế Phù Nam không ngừng lớn
mạnh. Các vua Phù Nam như Phạm Chiên, Phạm Tầm, Thiên Chúc
Chiên Đàn, Kiều Trần Như, Trì Lê Đà Bạt Ma, Đồ Tà Bạt Ma đã tiến
hành nhiều cải cách, “thay đổi pháp độ trong nước theo quy chế nước
Thiên Trúc (Ấn Độ)”, phát triển kinh tế, mở mang văn hóa, đồng
thời thiết lập và duy trì quan hệ ngoại giao với các nước, nhất là với
CHƯƠNG I: HỆ THỐNG QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH... 21

Trung Quốc và Ấn Độ... Thiên Trúc Chiên Đàn (Chandra) và Kiều


Trần Như (Kaundynia II) là hai vị vua người Ấn Độ dòng Bà La Môn.
Vua Đồ Tà Bạt Ma (Jayavarman) nhiều lần cử sứ thần tới phương
Bắc, được hoàng đế Trung Hoa phong làm “An Nam tướng quân Phù
Nam vương”.
Trong đế chế Phù Nam, các nước bị thôn tính được thư tịch cổ
Trung Hoa gọi là “thuộc quốc”, “nước kimi” hay “chi nhánh”. Tổ chức
quản lý và cách thức cai trị của đế chế Phù Nam như thế nào đến nay
vẫn chưa được rõ, nhưng qua các từ “thuộc quốc”, “kimi”, “chi nhánh”
có thể cho rằng đế chế Phù Nam gồm một chính quyền trung ương và
những nước bị chinh phục hay thần phục ở những mức độ lệ thuộc và
ràng buộc khác nhau với nước tôn chủ. Quan hệ thần phục này trước
hết và chủ yếu trên lĩnh vực kinh tế. Phạm vi đế chế khống chế con
đường thông thương hàng hải của vùng Đông Nam Á lục địa nên dưới
sự chi phối của Phù Nam có nền mậu dịch quốc tế mạnh, các nước
thành viên đều được chia lợi trong xuất khẩu các lâm thổ sản và các
mặt hàng thủ công cũng như trong nhập khẩu và buôn bán các hàng
hóa nước ngoài. Cơ chế quản lý và vận hành của đế chế Phù Nam, do
đó, mang nặng tính chất liên kết kinh doanh, thương mại, rất linh hoạt
nhưng cũng rất lỏng lẻo.
Trong thời thịnh đạt, lãnh thổ thuộc Phù Nam được mở rộng trên
một địa bàn khắp vùng Đông Nam Á lục địa, bao gồm vùng hạ lưu và
trung lưu sông Mékong, kéo sang vùng hạ lưu và có thể một phần trung
lưu sông Mê Nam và xuống đến bán đảo Mã Lai1. Theo thư tịch cổ
Trung Quốc, đế chế Phù Nam gồm hơn 10 nước, trong đó có nhắc tới
một số tên như: Đốn Tốn, Khuất Đô Côn, Cửu Trĩ (có lẽ là Câu Lợi,
Đầu Câu Lợi hay Takola/Takkola), Điển Tôn, Kim Lân... Chưa rõ vào

1. Xem Phan Huy Lê: “Thử nhận diện nước Phù Nam qua tư liệu thư tịch và
khảo cổ học”, trong Văn hóa Óc Eo và Vương quốc Phù Nam, Nxb. Thế giới, Hà
Nội, 2008, tr.238.
22 VÙNG ĐẤT NAM BỘ VIII THIẾT CHẾ QUẢN LÝ XÃ HỘI

thời điểm cụ thể nào, có lẽ vào thời Tùy (589 - 618), hai nước Xích Thổ
và Chân Lạp cũng trở thành thuộc quốc của Phù Nam.
Trong đế chế rộng lớn này, cơ sở và trung tâm là vương quốc Phù
Nam nằm ở vùng hạ lưu sông Mékong, chủ yếu thuộc Nam Bộ Việt
Nam ngày nay và có lan rộng một phần lên phía bắc. Kinh đô của Phù
Nam theo thư tịch Trung Quốc là thành Đặc Mục (Tân Đường thư),
nhưng đó là những ghi chép vào thời kỳ cuối của lịch sử Phù Nam. Vị
trí của tòa thành này, hay trước Đặc Mục có kinh đô nào khác không là
những vấn đề đến nay vẫn còn nhiều ý kiến chưa thật thống nhất. Tuy
nhiên, có một sự thực chắc chắn rằng, đô thị - cảng Óc Eo luôn giữ vai
trò trung tâm kinh tế, văn hóa quan trọng và là trung tâm mậu dịch
quốc tế lớn nhất của Phù Nam.
Từ cuối thế kỷ VI, Phù Nam suy yếu và bị Chân Lạp, vốn là một
thuộc quốc, tấn công rồi xâm chiếm. Vua Phù Nam rút chạy về phía
nam, giữ thành Na Phất Na (Naravaranagara, có thể là vùng đô thị -
cảng Ba Thê - Óc Eo) được một thời gian thì thất bại. Đầu thế kỷ VII,
Phù Nam chấm dứt sự tồn tại với tư cách một quốc gia độc lập, một đế
chế hùng mạnh.
Như vậy, Phù Nam từ rất sớm đã tiếp nhận các giá trị văn hóa -
văn minh Nam Á, đặc biệt là quan niệm về vương quyền, cách thức
tổ chức lãnh thổ và quản lý xã hội. Nhà vua không chỉ là người đứng
đầu vương quốc về quyền lực chính trị, mà còn là thủ lĩnh quân sự
và chủ tể tôn giáo. Một số vị vua sau khi chết được thờ phụng như
những vị thần bảo trợ đầy quyền năng. Khác với văn minh Trung
Hoa và khu vực chịu ảnh hưởng của nó, những quan niệm về “thiên
mệnh”, “đế quyền” hay truyền thống nối ngôi theo huyết thống không
phổ biến ở các nước Đông Nam Á thời cổ đại. Qua phổ hệ có thể thấy
14 vị vua Phù Nam thuộc về 7 dòng họ khác nhau. Bên cạnh những
cuộc đảo chính cướp ngôi, rồi tự “xưng làm vua” diễn ra trong nội bộ
hoàng tộc, sự thay đổi các vương triều nhiều khi diễn ra trong hòa
CHƯƠNG I: HỆ THỐNG QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH... 23

bình, do sự suy tôn của dân chúng. Liễu Diệp - nữ chúa đầu tiên của
Phù Nam - khi nhận thấy không đủ sức chống lại Hỗn Điền, đã chủ
động giảng hòa, rồi trở thành hoàng hậu của vua mới. Phạm Man sau
ba năm phò tá Hỗn Bàn Bàn, nhà vua mất, “được người trong nước
cử làm vua”1. Một số vua Phù Nam có nguồn gốc Ấn Độ, thường là
các giáo sĩ Bà La Môn. Kiều Trần Như (Kaundynia) từ Ấn Độ tới
nước Bàn Bàn, “dân Phù Nam nghe tin rất mừng, cả nước vui vẻ rước
về làm vua2...
Suốt chiều dài lịch sử, sự chi phối, kiểm soát và quản lý trong lãnh
thổ trung tâm Phù Nam, cũng như giữa Phù Nam với các thuộc quốc rất
lỏng lẻo. Các địa phương và nước chư hầu khuất phục Phù Nam không
phải bởi những thiết chế của một nhà nước trung ương tập quyền mạnh,
mà chủ yếu do sự lệ thuộc về kinh tế và những ảnh hưởng trên các khía
cạnh văn hóa, xã hội, tôn giáo. Quyền lực chính trị dựa trên những cơ
sở như thế, rõ ràng chưa đủ và thiếu bền vững. Trên thực tế, khi vai trò
kinh tế của Phù Nam suy yếu từ thế kỷ VI, vị thế chính trị của đế chế
này cũng không còn tồn tại.

2. Vùng đất Nam Bộ từ thế kỷ VII đến thế kỷ XVI

Các tư liệu hiện còn đều xác nhận Phù Nam bị Chân Lạp tiêu diệt
vào khoảng đầu thế kỷ VII3. Sách Tân Đường thư chép: “Vua Phù Nam
đóng đô ở thành Đặc Mục (Vyadhapura). Đột nhiên thành bị quân Chân
Lạp đánh phá, nhà vua phải bôn tẩu về phía nam đến thành Na Phất Na
(Navanagara)”4. Bắt đầu từ Tùy thư (soạn năm 636), thư tịch Trung Hoa

1. Xem Lương thư, q.48; Nam sử, q.68.


2. Xem Lương thư, q.54; Nam sử, q.78.
3. Căn cứ thư tịch cổ Trung Quốc ghi chép sự kiện Phù Nam lần cuối cùng
đến tiến cống nhà Đường, tác giả Lê Hương trong Sử liệu Phù Nam xác định niên
điểm mất sớm nhất của Phù Nam là năm 627.
4. Xem Tân Đường thư, q.222.
24 VÙNG ĐẤT NAM BỘ VIII THIẾT CHẾ QUẢN LÝ XÃ HỘI

không thấy nhắc đến Phù Nam nữa, thay vào đó là một nước mới đến
triều cống phương Bắc, có tên Chân Lạp. Theo ghi chép của các bộ sử
thời Tùy - Đường: Nước Chân Lạp ở phía tây nam của Lâm Ấp, nguyên
là một nước chư hầu của Phù Nam1.
Dù xâm chiếm Phù Nam, nhưng trong một khoảng thời gian dài,
Chân Lạp đã không thể kiểm soát và quản lý toàn bộ lãnh thổ của đế chế
xưa, nhất là đối với vùng Nam Bộ Việt Nam ngày nay. Thực tế này xuất
phát từ nhiều nguyên nhân, do biến đổi về điều kiện tự nhiên, những khác
biệt trong truyền thống kinh tế và văn hóa, song chủ yếu bởi những hạn
chế của chính quyền Chân Lạp.
Dư vang của đợt biển tiến Flandrian cuối cùng, theo xác định của
các nhà địa chất, đã nhấn chìm toàn bộ trung tâm Phù Nam, trong đó có
vùng đồng bằng thấp ở hạ châu thổ sông Mékong, xuống dưới gần 1m
so với mực nước biển hiện tại, vào khoảng thế kỷ VI - VII2. Hệ quả là,
“ở đó chỉ còn những nhóm người biệt lập, nghèo khổ tiếp tục sinh sống
trên những cồn phù sa và những giồng cát ven biển. Họ không còn giữ
một vai trò đáng kể nào trong vương quốc. Sau này, địa bàn hoạt động
của đế quốc Khmer, người thừa kế Chân Lạp, luôn luôn giữ giới hạn
trong vùng đất phía bắc vĩ tuyến Phnom Penh”3.
Địa bàn cư trú và canh tác truyền thống của người Chân Lạp
(Khmer) là vùng đất cao ở phía tây bắc Campuchia hiện nay. Tuy đều
phát triển nông nghiệp, nhưng phương thức canh tác của Chân Lạp
hoàn toàn khác biệt so với Phù Nam. Người Phù Nam trồng lúa nước
đại trà, trên vùng đồng bằng thấp, thường xuyên ngập lụt, nên phải tập

1. Xem Tùy thư, q.82.


2. Xem Liêu Kim Sanh: “Hải xâm và hải thoái xưa ảnh hưởng tới vùng đồng
bằng sông Cửu Long”, trong Văn hóa Óc Eo và các văn hóa cổ ở đồng bằng Cửu
Long, Long Xuyên, 1984, tr.74-86.
3. B.P. Groslier: Indochine: Carrefour des Arts, Paris, 1961, tr.67; dẫn theo Võ
Sĩ Khải: “Giai đoạn chuyển tiếp từ Phù Nam đến Chân Lạp”, trong Một số vấn đề
lịch sử vùng đất Nam Bộ đến cuối thế kỷ XIX, Nxb. Thế giới, Hà Nội, 2009, tr.72-73.
CHƯƠNG I: HỆ THỐNG QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH... 25

trung thoát thủy cho cả vùng châu thổ rộng lớn, thay vì phải dẫn thủy
nhập điền. Trong khi đó, người Chân Lạp quen trồng cấy trên đất núi
đồi, lợi dụng nước tự nhiên chảy theo những sườn dốc. Họ phải tích trữ
nước vào mùa mưa để tưới ruộng trong mùa khô hạn. Hai tập quán sản
xuất hoàn toàn khác nhau, tất yếu dẫn đến những khác biệt cơ bản trong
lối sống, tập quán, truyền thống xã hội và văn hóa.
Văn hóa Phù Nam mang nặng yếu tố Indonesian ven biển, của
những cư dân luôn có cái nhìn hướng biển, sẵn sàng đón nhận và hội
nhập với thế giới bên ngoài, đồng thời là nền văn hóa có ảnh hưởng
lớn tới nhiều nước trong khu vực. Ngược lại, văn hóa Khmer của người
Chân Lạp luôn khép kín và tự giới hạn trong vùng rừng núi cao nguyên
trung lưu sông Mékong, tâm thức biển nhìn chung kém. Nền văn hóa
ấy, dù chịu ảnh hưởng của Ấn Độ và hình thành trên cơ sở Phù Nam,
cũng chỉ giới hạn trong lãnh thổ vương quốc, tuy ngày càng được mở
rộng, song không đủ sức lan tỏa ra bên ngoài1.
Những mâu thuẫn, xung đột chính trị và tranh chấp lãnh thổ diễn
ra khá thường xuyên ở Chân Lạp đã làm suy yếu quyền lực của nhà
nước tập trung. Ngay đầu thế kỷ VIII, sau một cuộc tranh giành quyền
lực, Chân Lạp bị phân chia làm hai vùng đất (quốc gia) cát cứ. Sách
Đường thư chép: “Sau năm Thần Long (705 - 707) [Chân Lạp] chia làm
hai nước. Phía Bắc nhiều núi đồi và thung lũng gọi là Lục Chân Lạp, phía
Nam có biển bao bọc và có nhiều ao hồ gọi là Thủy Chân Lạp. Đất đai của
Thủy Chân Lạp khoảng 800 dặm. Nhà vua đóng ở kinh thành Bà La Đề
Bạt (Baladityapura). Lục Chân Lạp còn gọi là Văn Đan hay Bà Lâu, đất
đai rộng khoảng 700 dặm”. Trong Văn hiến thông khảo, Mã Đoan Lâm,
sử gia đời Tống cũng cho biết: Nửa phía Bắc vùng đồi núi và thung lũng
gọi là Lục Chân Lạp. Nửa phía Nam có biển bao quanh và đầm lầy gọi
là Thủy Chân Lạp.

1. Xem Võ Sĩ Khải: “Giai đoạn chuyển tiếp từ Phù Nam đến Chân Lạp”, trong
Một số vấn đề lịch sử vùng đất Nam Bộ đến cuối thế kỷ XIX, Sđd, tr.75.
26 VÙNG ĐẤT NAM BỘ VIII THIẾT CHẾ QUẢN LÝ XÃ HỘI

Căn cứ những chỉ dẫn trong thư tịch cổ Trung Hoa, các nhà nghiên
cứu xác định Lục Chân Lạp gồm vùng núi Hạ Lào và vùng tiếp giáp
Lào - Thái, tức là miền đất phát tích của người Khmer. Trung tâm của
vương quốc là vùng Bhavapura ở phía bắc Biển Hồ, nơi có cố đô dưới
triều vua Bhavavarman (598-600). Các vị vua Lục Chân Lạp luôn tự
coi mình là đại diện chính thức của triều đình và của người dân Chân
Lạp. Họ đã không ít lần cử các sứ đoàn ngoại giao sang Trung Hoa triều
cống và phần lớn đều được Bắc sử ghi chép lại. Năm 753, một trong số
các hoàng tử của Lục Chân Lạp đã đi sứ sang Trung Hoa, được vua nhà
Đường phong chức Trung kiên Bảo hộ vương. Năm 771, Phó vương Lục
Chân Lạp là Bà Mi sai sứ sang tiến cống vua Đường 11 con voi thuần,
được ban tên Tân Hán và thụ phong chức Thí điện Trung giám1.
Thủy Chân Lạp, có thể ước đoán tương ứng với phần đất thấp của
Phù Nam khi xưa. Sau khi ly khai, Thủy Chân Lạp được chia làm nhiều
khu vực, cũng có thể gọi là thành bang hay tiểu quốc. Trong số đó, nhà
vua đóng ở Andinditapura - một tiểu quốc ở phía nam, nên đây thường
được xem là kinh đô của Thủy Chân Lạp. Theo một số tư liệu, đặc biệt
là bài minh văn chữ Phạn được tìm thấy ở núi Ba Thê (An Giang) có
niên đại đầu thế kỷ VIII, các vua Thủy Chân Lạp đều là hậu duệ của vua
Phù Nam.
Sự phân chia Chân Lạp thành hai quốc gia riêng biệt, phản ánh
những xung đột gay gắt trong triều đình Khmer, đồng thời một lần nữa
cho thấy những khác biệt cơ bản giữa hai vùng đất, xét về cả yếu tố lịch
sử, địa lý, kinh tế, xã hội và văn hóa. Thủy Chân Lạp được hình thành
trên vùng đất trung tâm cũ của Phù Nam, do dòng dõi các vua Phù Nam
cai trị, cho thấy một thực tế: miền hạ lưu sông Mékong, trong đó có
Nam Bộ Việt Nam luôn là một thách thức và trở ngại lớn đối với chính
quyền Chân Lạp.

1. Xem Lê Hương: Sử Cao Miên, Nhà sách Khai Trí, Sài Gòn, 1970, tr.61-62.
CHƯƠNG I: HỆ THỐNG QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH... 27

Khi Chân Lạp phân tranh, cũng là thời kỳ trỗi dậy của một số
quốc gia trong khu vực Đông Nam Á, đặc biệt là các quốc đảo. Vương
quốc Srivijaya ở Sumatra (Indonesia) được hình thành vào cuối thế
kỷ VII, dưới triều đại Sailendra đã không ngừng bành trướng ra bên
ngoài, xâm chiếm các nước ở khu vực Đông Nam Á lục địa. Sau khi
tấn công Giao Châu (năm 767) và Chămpa (năm 774), đến năm 787,
quân Java dùng chiến thuyền vượt biển, sau đó đánh chiếm ngôi đền
Bhadradhipatisvard ở phía tây thành Virapura (gần Phan Rang). Triều
đình Chân Lạp khi ấy hầu như đã đầu hàng quân Java. Đến đầu thế
kỷ IX, nhân khi vương triều Sailendra suy thoái, hoàng tử Chân Lạp
là Jayavarman II, dòng dõi Phù Nam đang lưu vong tại Java, đã trở
về giải phóng đất nước, thống nhất hai miền Lục và Thủy Chân Lạp
(năm 802), sáng lập vương triều Ăngkor.
Dưới thời trị vì của vương triều Ăngkor, Chân Lạp phát triển
mạnh mẽ trên nhiều phương diện. Vương quốc này đã lần lượt thôn
tính nhiều nước xung quanh, vươn lên thành một đế quốc lớn mạnh -
“đế quốc Ăngkor” hay “đế quốc Khmer”. Họ cũng đã tạo dựng nền văn
minh Ăngkor nổi tiếng. Tuy nhiên, từ khoảng giữa thế kỷ XV, Chân
Lạp dần suy yếu, ngập chìm trong những cuộc nội chiến kéo dài hàng
thế kỷ và thất bại trong cuộc chiến chống quân Xiêm năm 1593 - 1594.
Triều đình Chân Lạp chia rẽ thành nhiều nhóm phái, thân Việt hoặc
thân Xiêm. Các vua Chân Lạp, để bảo vệ ngai vàng và chống lại sự uy
hiếp của người Xiêm, đa số đã cậy nhờ chính quyền chúa Nguyễn ở
Đàng Trong. Các vua Chân Lạp đã dâng cho chúa Nguyễn rất nhiều
báu vật, lợi ích kinh tế, nhưng giá trị nhất là đất đai thuộc Nam Bộ ngày
nay. Thực tế, những vùng đất mà Chân Lạp dâng cho chúa Nguyễn,
xưa kia vốn thuộc Phù Nam, và họ hầu như không thể quản lý.
Kể từ sau khi Phù Nam sụp đổ (thế kỷ VII) cho đến trước khi có
sự xuất hiện của người Việt (thế kỷ XVII), cảnh quan thiên nhiên cũng
28 VÙNG ĐẤT NAM BỘ VIII THIẾT CHẾ QUẢN LÝ XÃ HỘI

như dấu vết con người trên vùng đất Nam Bộ Việt Nam có nhiều biến
đổi. Đây thực sự là một quá trình hoang địa hóa trên miền đất vốn đã
sớm có nền văn minh rực rỡ.
Kết quả khai quật khảo cổ học cho thấy, 10 thế kỷ sau thời đại Phù
Nam, dấu ấn con người trên vùng đất Nam Bộ hết sức mờ nhạt. Điều
này hoàn toàn phù hợp với nhiều nguồn tư liệu đã phản ánh, nhất là
thư tịch cổ. Tùy thư, sách chép vào thế kỷ thứ VII, trong đoạn viết
về Thủy Chân Lạp đã mô tả: “(nước ấy) có bờ biển bao quanh và có
nhiều hồ lớn”. Một thế kỷ sau, Tân Đường thư khi chép về Thủy Chân
Lạp cũng nhấn mạnh, đây là “vùng đầm lầy rộng lớn”. Những ghi chú
trên đây trong thư tịch cổ Trung Hoa cho thấy cảnh tượng thiên nhiên
vùng châu thổ rộng lớn từ bằng phẳng, mênh mông, nhiều sông ngòi
đã biến thành “nhiều hồ lớn”, “vùng đầm lầy rộng”1... Biến động này
hẳn đã ảnh hưởng trực tiếp đến các vùng thấp trũng ở Nam Bộ và để
lại những hậu quả lâu dài và nghiêm trọng khi mực nước biển hạ thấp
ngang mức hiện tại vào khoảng thế kỷ XII - XIII2.
Sách Chân Lạp phong thổ ký do Châu Đạt Quan ghi chép trong khi
đi sứ đến Chân Lạp vào năm 1296 - 1297 đã có một số mô tả chi tiết về
cảnh quan châu thổ sông Cửu Long thời kỳ này. Theo đó: “Từ Chân
Bồ (nay thuộc Bà Rịa - Vũng Tàu) đi theo hướng khôn thân (tây nam
và 1/3 tây), qua biển Côn Lôn (tức Côn Đảo, nay thuộc Bà Rịa - Vũng
Tàu) vào cảng. Có đến 10 cảng nhưng chỉ có cảng thứ tư (cửa sông Tiền
và Mỹ Tho) là có thể vào được, tất cả các cảng khác đều bị cát làm cạn
nên thuyền lớn không vào được. Nhưng đứng xa mà trông đều thấy

1. Lê Xuân Diệm: “Quá trình hình thành châu thổ sông Cửu Long (tiếp cận
từ địa sử học và thư tịch học)”, trong Văn hóa Óc Eo và Vương quốc Phù Nam,
Sđd, tr.23-24.
2. Xem Võ Sĩ Khải: “Giai đoạn chuyển tiếp từ Phù Nam đến Chân Lạp”, trong
Một số vấn đề lịch sử vùng đất Nam Bộ đến cuối thế kỷ XIX, Sđd, tr.76.
CHƯƠNG I: HỆ THỐNG QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH... 29

mây leo, cây già, cát vàng, lau trắng, thảng thốt nhìn qua thật không dễ
phân biệt, vì thế người chèo thuyền cho việc tìm cảng là việc khó...”1.
Trong mục Núi sông, sách ấy cũng chép: “Từ chỗ vào Chân Bồ trở đi,
phần lớn là rừng thấp cây rậm. Sông dài cảng rộng, kéo dài mấy trăm
dặm cổ thụ rập rạp, mây leo um tùm, tiếng chim muông chen lẫn nhau
ở đó. Đến nửa cảng mới thấy ruộng đồng rộng rãi, tuyệt không có một
tấc cây. Nhìn ra xa chỉ thấy cây lúa rờn rờn mà thôi. Trâu rừng họp
thành từng đàn trăm ngàn con, tụ tập ở đấy. Lại có giồng đất đầy tre
dài dằng dặc mấy trăm dặm. Loại tre đó đốt có gai, măng rất đắng. Bốn
mặt đều có núi cao”2.
Cảnh sắc đó, nhiều thế kỷ sau, không mấy thay đổi. Alexandre de
Rhodes, một nhà truyền giáo phương Tây đến vùng châu thổ này vào
thế kỷ XVI cũng nhận xét đây là miền đất “quạnh hiu, hoang mạc”,
“không có vật gì thuộc về sự sống”. Lê Quý Đôn trong Phủ biên tạp
lục (thế kỷ XVIII) đã mô tả: “Phủ Gia Định, đất Đồng Nai, từ các cửa
biển Cần Giờ, Soài Lạp, Cửa Đại, Cửa Tiểu, toàn là rừng rậm hàng
mấy nghìn dặm”3.2Cho đến khi người Việt đặt chân đến, nơi đây vẫn
chỉ “dưới sông sấu lội, trên rừng cọp um”, vẫn mênh mông những
rừng lau, rừng sác...
Không chỉ có thiên nhiên trở nên hoang tàn, các cộng đồng cư dân
sinh sống trên vùng đất này, từ sau sự sụp đổ của Phù Nam cũng trải qua
nhiều biến cố. Một số nguồn tư liệu, đặc biệt là khảo cổ học đã xác nhận
về những đợt thiên di lớn gây nên những xáo trộn trong phân bố dân cư
ở vùng hạ lưu sông Cửu Long. Theo đó, sự dịch chuyển chủ yếu hướng
về “miệt cao” - từ Cát Tiên trở lên miền “Đồng Nai Thượng”. Người
Phù Nam trở về vùng lãnh thổ của tổ tiên xưa, tiếp tục với lối sống cũ
của miền rừng núi mà hậu duệ của họ nay vẫn còn sinh sống trên vùng

1, 2. Châu Đạt Quan: Chân Lạp phong thổ ký, Nxb. Thế giới, Hà Nội, 2006,
tr.22-23, 45-46.
3. Lê Quý Đôn: Phủ biên tạp lục, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1977, tr.345.
30 VÙNG ĐẤT NAM BỘ VIII THIẾT CHẾ QUẢN LÝ XÃ HỘI

đất Nam Tây Nguyên - Đông Nam Bộ, như người Mạ, Chơro, Xtiêng1...
Trong khi đó, ở “miệt thấp”, dấu vết về cuộc sống của các cộng đồng cư
dân Phù Nam cổ xưa đã rất thưa vắng. Trước sức ép dân số, cuộc sống
mưu sinh, song chủ yếu là do chạy loạn, một bộ phận cư dân Chân Lạp,
chủ yếu là người Khmer, đã di cư đến vùng châu thổ sông Cửu Long.
Tuy nhiên, họ không đủ đông và chưa đủ mạnh để có thể khai thác
miền đầm lầy hoang dã mênh mông của vùng Tây Nam Bộ. Do đó, họ
chỉ quần cư thành từng phum sóc trên những giồng đất cao ven thềm
các con sông cổ, ven biển, hoặc ở xung quanh vùng Bảy Núi. Thậm chí,
nhiều thế kỷ sau đó, cộng đồng người Khmer trên vùng đất Nam Bộ vẫn
chỉ chiếm một số lượng hạn chế.
Ruộng đồng mênh mông, trong khi dân thưa vắng, các cộng đồng
cư dân ở đây đã phải đoàn kết, gắn bó và tương trợ lẫn nhau trong lao
động sản xuất, bảo vệ xóm làng, chống thú dữ và giặc ngoại xâm. Kinh
tế chính của họ là nông nghiệp, trồng lúa nước, ngoài ra cũng có trao
đổi, buôn bán nhỏ giữa các địa phương, vùng miền. Có những khoảng
thời gian dài, họ không bị cai trị hay chịu bất cứ nghĩa vụ gì với nhà
nước, ngược lại, chính quyền Chân Lạp cũng hầu như không có vai trò
gì trong cuộc sống người dân nơi đây.
Thực tế lịch sử cho thấy rằng, dù đã xâm chiếm Phù Nam, chính
quyền Chân Lạp trong nhiều thế kỷ đã ít quan tâm, đúng hơn là không
thể thực thi quyền quản lý đối với vùng đất Nam Bộ. Không có bất cứ tư
liệu nào cho phép hình dung về bộ máy chính quyền hay các chính sách
quản lý dân cư, đất đai, tổ chức sản xuất của Nhà nước Chân Lạp trên
vùng đất này. Điều đó dường như đã khiến vùng Nam Bộ trở thành vô
chủ, “điểu thú quần hoang tuyệt vô nhân tích”. Chỉ đến khi người Việt
tới, nơi đây mới thực sự hồi sinh, xuất hiện những xóm làng trù phú,
dân cư trù mật, ruộng đồng bát ngát, phì nhiêu.

1. Xem Võ Sĩ Khải: “Giai đoạn chuyển tiếp từ Phù Nam đến Chân Lạp”, trong
Một số vấn đề lịch sử vùng đất Nam Bộ đến cuối thế kỷ XIX, Sđd, tr.77.
CHƯƠNG I: HỆ THỐNG QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH... 31

II- CÔNG CUỘC KHAI PHÁ ĐẤT ĐAI, XÁC LẬP CHỦ QUYỀN VÀ THIẾT
LẬP BỘ MÁY QUẢN LÝ TRÊN VÙNG ĐẤT NAM BỘ THẾ KỶ XVII - XVIII

1. Thời kỳ từ đầu thế kỷ XVII đến giữa thế kỷ XVIII


Người Việt đến khai phá và định cư trên vùng đất Nam Bộ muộn
nhất là vào đầu thế kỷ XVII. Đó là những nhóm di dân tiên phong, một
cách tự phát, trước tiên đã đến vùng Mô Xoài1, Đồng Nai (Biên Hòa)
khai khẩn đất hoang, lập ra những làng Việt đầu tiên trên vùng đất
mới. Họ đa số gồm những nông dân nghèo khổ, binh lính, tù nhân,...
quê gốc chủ yếu ở phía nam sông Gianh. Từ thời chúa Nguyễn Hoàng
(1558-1613) đến chúa Nguyễn Phúc Nguyên (1613-1635), để chạy loạn
và thoát khỏi cảnh sống khổ cực, họ đã tới mảnh đất Nam Bộ để dung
thân và lập nghiệp. Bằng những chiếc thuyền nhỏ, ghe bàu, bè mảng,
những gia đình người Việt đã từ bờ biển miền Trung đến miền Đông
Nam Bộ khai khẩn “ruộng núi” (tức ruộng ở miền đồi núi, rừng rậm) và
đến miền Tây Nam Bộ để làm “ruộng cỏ” (ruộng ở vùng lầy trũng). Nam Bộ
trở thành xứ sở tự do và trù phú, luôn vẫy gọi và giang tay đón nhận những
cư dân nghèo của xứ Đàng Trong.
Đến vùng đất mới để sinh cơ lập nghiệp, người Việt đã nhanh chóng
hòa nhập và đoàn kết, gắn bó với những cộng đồng cư dân khác, chủ
yếu là người Khmer và người Hoa. Họ chung sức làm ruộng rẫy, khai
thác lâm thổ sản, cùng nhau chống lại trộm cướp, thú dữ để bảo vệ con
người và cuộc sống cộng đồng. Cũng từ đầu thế kỷ XVII về sau, người
Việt chiếm vai trò chủ yếu, quyết định trong công cuộc khai phá đất đai,
phát triển kinh tế nông nghiệp lúa nước ở Nam Bộ.
Năm 1620, chúa Nguyễn Phúc Nguyên gả công chúa Ngọc Vạn
cho quốc vương Chân Lạp Chey Chettha II làm Hoàng hậu. Thông
qua quan hệ hôn nhân, chúa Nguyễn đã thiết lập tầm ảnh hưởng đối

1. Địa danh này, có sách chép là Mỗi Xuy, nay thuộc tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.
32 VÙNG ĐẤT NAM BỘ VIII THIẾT CHẾ QUẢN LÝ XÃ HỘI

với chính quyền Khmer, đồng thời mở đường cho những đợt di cư ồ
ạt của người Việt vào miền đất Nam Bộ. Sự kiện này, như G. Maspéro
đã mô tả: “Nhà vua mới lên ngôi Chey Chettha II liền xây dựng một
cung điện ở Oudong (U Đông). Nơi đây ông long trọng cử hành lễ
cưới một công chúa con vua An Nam. Bà này rất đẹp. Chẳng bao lâu,
bà có ảnh hưởng mạnh đến nhà vua”1. Dưới sự bảo trợ của bà hoàng
hậu người Việt và vương triều Chey Chettha II, cư dân Việt từ vùng
Thuận - Quảng tiến vào làm ăn, sinh sống ở lưu vực sông Đồng Nai
ngày một thêm đông. Đó cũng chính là cơ sở thuận lợi để chính quyền
Đàng Trong từng bước hợp thức hóa quyền kiểm soát đối với vùng đất
mới do người Việt khai khẩn.
Năm 1623, theo đề nghị của chúa Nguyễn và sự chấp thuận của
quốc vương Chân Lạp, hai thương điếm (đồn thu thuế) thuộc chính
quyền Đàng Trong đã được thiết lập ở Prei Nokor (Sài Gòn) và Kasbei
(Bến Nghé) để thu thuế. Sự kiện này, chính sử Khmer đã xác nhận:
“... Nhờ bà (công chúa Ngọc Vạn - TG) mà một sứ đoàn An Nam đã
xin được Chey Chettha cho phép lập thương điếm trong miền Nam
Cao Miên, ở chính nơi ngày nay là Sài Gòn”2. Đó là một bước tiến
quan trọng trên con đường chính thức hóa công cuộc khai phá của
người Việt trên miền đất phương Nam.
Song song với việc từng bước xác lập chủ quyền, chính quyền chúa
Nguyễn đã triển khai những động thái đầu tiên nhằm thực thi và bảo vệ
chủ quyền. Trong Gia Định Thành thông chí, Trịnh Hoài Đức cho biết:
“Địa đầu của Gia Định là Mô Xoài và Đồng Nai (ngày nay là trấn Biên
Hòa) đã có lưu dân của nước ta và người Cao Miên ở chung với nhau và
khai khẩn ruộng đất”3 và chúa Nguyễn từ lâu đã coi vùng đất này thuộc
quyền kiểm soát của mình. Do vậy, vào đầu năm 1658, vua Chân Lạp là

1. G. Maspéro: L’Empire Khmer, Histoire et Documents, Phnom Penh, 1904, p.61.


2. Dẫn theo G. Maspéro: L’Empire Khmer, Histoire et Documents, Sđd, p.61.
3. Trịnh Hoài Đức: Gia Định Thành thông chí, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 1999, tr.73.
CHƯƠNG I: HỆ THỐNG QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH... 33

Nặc Ông Chân đem quân đến đây, bị chúa Nguyễn Phúc Tần coi là hành
động “phạm biên cảnh”, đã sai Vũ Yến hầu (Tôn Thất Yến) đem 3.000
quân đến Mô Xoài bắt giữ. Sách Đại Nam thực lục chép sự kiện này như
sau: “Tháng 9, vua nước Chân Lạp (vốn tên là Cao Miên) là Nặc Ông
Chân xâm lấn biên thùy. Dinh Trấn Biên báo lên. Chúa sai phó tướng
Trấn Biên là Tôn Thất Yến, cai đội là Xuân Thắng, tham mưu là Minh
Lộc (hai người đều không rõ họ) đem 3.000 quân đến thành Hưng Phúc
(bấy giờ gọi là Mô Xoài, nay thuộc huyện Phúc Chính, tỉnh Biên Hòa)
đánh phá được, bắt Nặc Ông Chân đưa về. Chúa tha tội cho và sai hộ
tống về nước, khiến làm phiên thần hàng năm nộp cống”1. Sau sự kiện
này, Chân Lạp càng lệ thuộc chặt hơn vào chính quyền chúa Nguyễn,
trở thành một phiên quốc triều cống. Cũng từ đây, chính quyền chúa
Nguyễn không những đã hoàn toàn kiểm soát đất Mô Xoài, Đồng Nai,
mà khi cần thiết có thể sử dụng mọi biện pháp nhằm thực thi và bảo vệ
chủ quyền của mình.
Giữa thế kỷ XVII, cuộc nội chiến Trịnh - Nguyễn bước vào giai
đoạn ác liệt nhất. Chúa Nguyễn Phúc Tần sau trận đại thắng quân Trịnh
ở cửa sông Gianh (Quảng Bình) đã bắt được hàng vạn tù binh, nhưng
sau đó chỉ thả 60 tỳ tướng họ Trịnh về Đàng Ngoài, số còn lại phiên chế
thành các ấp (50 tù binh/ấp), cho vào khai hoang đất Gia Định. Khi
cuộc nội chiến kết thúc (năm 1672), chính quyền chúa Nguyễn càng có
điều kiện thuận lợi hơn trong việc tổ chức khẩn hoang, lập làng và di
dân ào ạt người Việt từ vùng Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú
Yên vào Nam Bộ, đặc biệt là ở miền Tây. Đến cuối thế kỷ này, cư dân
Việt mới vào đây ước có khoảng 15 vạn người2, phân bố trên toàn vùng
Nam Bộ. Các tộc người khác, như Khmer, Chơro, Mạ, Xtiêng..., do ngày
càng không thích nghi với môi trường sinh thái nông nghiệp ruộng

1. Quốc sử quán triều Nguyễn: Đại Nam thực lục, Nxb. Giáo dục, Hà Nội,
2007, t.I, tr.72.
2. Xem Đặng Thu (Chủ biên): “Di dân của người Việt từ thế kỷ X đến giữa thế
kỷ XIX”, Phụ san Nghiên cứu Lịch sử, Hà Nội, 1994, tr.101-103.
34 VÙNG ĐẤT NAM BỘ VIII THIẾT CHẾ QUẢN LÝ XÃ HỘI

nước nên đã dần rời bỏ các làng ở gần người Việt để tìm đến những
điểm cư trú mới, ở rừng núi hoặc các giồng đất ven biển1.
Thời kỳ này, chính quyền chúa Nguyễn đã thi hành nhiều chính
sách tích cực và hiệu quả trong việc tổ chức các đợt di dân người Việt
vào Nam khai phá đất đai và thành lập các xã, thôn, phường, ấp trên đất
Nam Bộ. Chính sách của chúa Nguyễn ưu tiên và tạo điều kiện thuận
lợi cho những địa chủ giàu có ở vùng Thuận Quảng đem tôi tớ và chiêu
mộ dân lưu vong vào đây khai hoang lập ấp. Chính sách này được
thực thi lâu dài và nhất quán như một phương thức khai hoang chủ
yếu ở Nam Bộ. Trong Phủ biên tạp lục, Lê Quý Đôn nhận xét: “Phủ
Gia Định, đất Đồng Nai, từ các cửa biển Cần Giờ, Soài Lạp, Cửa Đại,
Cửa Tiểu toàn là rừng rậm hàng mấy nghìn dặm. Họ Nguyễn chiêu
mộ những người dân có vật lực ở xứ Quảng Nam, các phủ Điện Bàn,
Quảng Ngãi, Quy Nhơn cho dời tới đây ở, phát chặt mở mang hết thảy
thành bằng phẳng, đất nước màu mỡ, cho dân tự chiếm trồng cau và
làm nhà cửa. Lại thu con trai, con gái người Mọi ở các đầu nguồn đem
bán làm nô tỳ, cho tự lấy nhau sinh đẻ nuôi nấng thành người, cày
ruộng làm nghề nghiệp, do đó mà thóc rất nhiều”2.
Kết quả của công cuộc khai hoang, đến những năm 60-70 của thế
kỷ XVIII, theo thống kê của Lê Quý Đôn, riêng huyện Tân Bình có
ruộng thực trưng hơn 1.454 mẫu, huyện Phước Long có ruộng thực
trưng hơn 787 mẫu, ngoài ra là ruộng núi, đất dâu, đất mía, đất vườn
trầu, đồn điền và thổ cư các loại. Ở Mỹ Tho thì hai thuộc Quy Nhân và
Quy Hóa, ruộng đất mỗi nơi đều hơn 5.000 sở; thuộc Tam Lạch ruộng
cũng hơn 5.000 sở; thuộc Ba Trại (gồm Bả Canh, Ba Lai và Rạch Kiến)
ruộng đất hơn 4.000 sở; trường Giản Thảo thuộc huyện Phước Long
ruộng hơn 6.000 sở; châu Định Viễn hơn 7.000 sở. Ngoài ra chưa kể

1. Xem Mạc Đường: “Vai trò của người Việt trong việc tổ chức và đoàn kết các
cộng đồng cư dân khai phá vùng đất Nam Bộ”, trong Một số vấn đề lịch sử vùng đất
Nam Bộ đến cuối thế kỷ XIX, Sđd, tr.164.
2. Lê Quý Đôn: Phủ biên tạp lục, Sđd, tr.345.
CHƯƠNG I: HỆ THỐNG QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH... 35

một diện tích khá lớn đã khai khẩn được ở Hà Tiên, Sóc Trăng, Sa Đéc
và Châu Đốc1.
Chính sách của Nhà nước cùng với kết quả của công cuộc khai
hoang dẫn tới xu hướng tập trung ruộng đất, hình thành nên tầng lớp
đại địa chủ ở Nam Bộ. Giữa chính quyền chúa Nguyễn với tầng lớp
này có mối liên hệ chặt chẽ với nhau, chủ yếu vì những lợi ích chung.
Chính sách của chúa Nguyễn đem lại nhiều quyền lợi cho tầng lớp địa
chủ, ngược lại, thế lực của tầng lớp địa chủ là chỗ dựa vững chắc và
trung thành của chính quyền chúa Nguyễn.
Sự kiện quan trọng xác nhận chúa Đàng Trong bắt đầu thiết lập
hệ thống chính quyền trên miền đất Nam Bộ ngày nay, theo chính sử
và địa chí triều Nguyễn, là năm 1698. Năm ấy, chúa “sai Thống suất
Chưởng cơ Lễ Thành hầu họ Nguyễn (Hữu Cảnh) sang kinh lược đất
Cao Miên, ông lấy đất Nông Nại đặt làm phủ Gia Định, lập đất Đồng
Nai làm huyện Phước Long, dựng nên dinh Trấn Biên (lị sở nay là thôn
Phước Lư), lập xứ Sài Côn làm huyện Tân Bình, lập dinh Phiên Trấn
(quận sở nay gần Tân Đồn). Mỗi dinh lập ra chức Lưu thủ, Cai bạ và Ký
lục để cai trị. Về vệ thuộc thì có hai ty Xá, Lại để làm việc, quân binh thì
có tinh binh cơ đội thuyền thủy bộ và thuộc binh để hộ vệ. Ngàn dặm
đất đai, dân hơn 4 vạn hộ, chiêu mộ lưu dân từ châu Bố Chính đến lập
nghiệp, lập ra thôn xã phường ấp, phân định địa giới, ruộng đất, lập ra
tô thuế, xây dựng đinh điền bạ tịch. Con cháu người Hoa nếu ở Trấn
Biên được quy lập thành xã Thanh Hà, còn ở Phiên Trấn thì lập thành
xã Minh Hương rồi cho phép vào hộ tịch”2.
Ghi chép trên đây trong Gia Định Thành thông chí đã cho biết
rõ, sau khi Chưởng cơ Lễ Thành hầu vào kinh lý thì miền đất trước
đó thuộc quản lý của Chân Lạp, đã thực sự trở thành những đơn vị
hành chính thuộc quyền quản lý của chúa Nguyễn. Chính quyền chúa

1. Xem Lê Quý Đôn: Phủ biên tạp lục, Sđd, tr.140-141


2. Trịnh Hoài Đức: Gia Định Thành thông chí, Sđd, tr.77.
36 VÙNG ĐẤT NAM BỘ VIII THIẾT CHẾ QUẢN LÝ XÃ HỘI

Nguyễn đã khẳng định vai trò quản lý nhà nước đối với vùng đất này
thông qua việc thiết lập ở đây một hệ thống quản lý hành chính các
cấp, từ phủ (Gia Định), dinh (Trấn Biên và Phiên Trấn), tới huyện,
tổng, thôn xã; sắp đặt quan chức cai trị; bố trí quân phòng; đặt trạm
thu thuế; phân định địa giới; chiêu mộ lưu dân lập xã thôn mới; ổn
định sản xuất và đời sống cho mọi tầng lớp cư dân, dù là người Việt
hay người Hoa... Năm 1698 chính thức đánh dấu sự xuất hiện các đơn
vị hành chính đầu tiên của chính quyền Đàng Trong ở Nam Bộ, đồng
thời là biểu hiện rõ nét nhất cho việc xác lập và thực thi chủ quyền của
chúa Nguyễn đối với vùng đất này.
Vùng đất thứ hai ở Nam Bộ gia nhập hệ thống chính quyền Đàng
Trong là miền Hà Tiên, vốn do Mạc Cửu khai phá. Khi triều Minh ở
Trung Quốc bị nhà Thanh tiêu diệt, Mạc Cửu đã không chịu quy phục
mà bỏ chạy sang phương Nam, trú tại phủ Nam Vang và làm quan cho
Chân Lạp. Sau đó, ông xin vua Chân Lạp được thầu chức thu thuế hoa chi
của những người đánh bạc ở phủ Sài Mạt, nhờ đó ngày càng trở nên giàu
có. Từ đây, ông đứng ra chiêu mộ những người dân Việt lưu tán ở các
xứ Phú Quốc, Lũng Kè, Cần Bột, Vũng Thơm, Rạch Giá và Cà Mau lập
thành 7 thôn xã đầu tiên. Năm 1708, Mạc Cửu chủ động xin dâng đất Hà
Tiên cho chính quyền Đàng Trong. Chúa Nguyễn Phúc Chú chấp thuận,
phong cho Mạc Cửu làm Tổng binh trấn Hà Tiên, tước Cửu Ngọc hầu.
Mạc Cửu từ đó xây dựng dinh ngũ, đóng binh tại Phương Thành và tổ
chức việc cai trị1. Tuy thành lập trấn Hà Tiên, chính quyền Đàng Trong
không trực tiếp tổ chức quản lý mà giao toàn quyền cho họ Mạc. Sau khi
Mạc Cửu qua đời, chúa Nguyễn phong con ông là Mạc Thiên Tứ làm Đô
đốc trấn Hà Tiên2.
Từ 7 thôn xã ban đầu, trấn Hà Tiên ngày càng được mở rộng, dân
cư quần tụ đông đúc, xuất hiện thêm nhiều đơn vị hành chính mới.

1, 2. Xem Quốc sử quán triều Nguyễn: Đại Nam thực lục, Sđd, t.1, tr.122,
145-146.
CHƯƠNG I: HỆ THỐNG QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH... 37

Năm 1757, Chân Lạp có biến, vua Nặc Ông Tôn phải chạy sang Hà Tiên
cầu cứu. Để trả ơn cứu giúp của Mạc Thiên Tứ và chúa Nguyễn, sau khi
được hộ tống về nước và đưa lên ngôi, quốc vương Chân Lạp đã đem đất
5 phủ Chơn Giùm, Sài Mạt, Linh Quỳnh, Cần Vọt và Vũng Thơm dâng
cho Đàng Trong, được chúa Nguyễn cho thuộc vào trấn Hà Tiên. Cùng
thời gian này, Mạc Thiên Tứ còn lập ra đạo Kiên Giang ở Rạch Giá, đạo
Long Xuyên ở Cà Mau, “lại đặt quan trông coi, chiêu mộ dân cư lập nên
thôn ấp, do đó mà đất đai xứ Hà Tiên mới rộng lớn ra”1. Đến đây, vùng
cực nam đã thuộc quyền cai quản của chính quyền chúa Nguyễn. Biên
giới tây nam của Việt Nam, về sau có điều chỉnh đôi chút, song về cơ bản
đã được hoạch định từ năm 1757.
Thời kỳ trước đó, những lưu dân người Việt đã tiến xuống khai phá
vùng đất phía nam phủ Gia Định, tạo cơ sở cho sự hình thành những
đơn vị hành chính mới. Cùng với việc khai khẩn và định cư ở khu vực
Phước Long, Tân Bình, Mỹ Tho, những nhóm lưu dân người Việt đã lần
tới cù lao Minh, cù lao Bảo, vùng đất phía nam sông Tiền, các giồng đất
ở khu vực Sóc Sãi, Ba Vác, Pang Tra Thom, Cái Bông (nay thuộc Bến
Tre), Long Hồ, Vũng Liêm (nay thuộc Vĩnh Long) và Cầu Ngang, Trà
Vinh (thuộc tỉnh Trà Vinh ngày nay)2. Nhận thấy địa thế của phủ Gia
Định đã mở rộng nhiều lần so với trước, đầu năm 1732, chúa Nguyễn
lấy đất ở phía nam dinh Phiên Trấn, đặt làm châu Định Viễn, lập dinh
Long Hồ quản một châu bốn tổng, trị sở đặt tại xứ Cái Bè, sau rời sang
ấp Long An ở thôn Long Hồ.
Một vùng đất khác ban đầu cũng do những quan lại và lưu dân người
Hoa khai phá dưới sự cho phép của chúa Nguyễn, về sau ra nhập vào hệ
thống quản lý của chính quyền Đàng Trong, đó là miền Mỹ Tho. Năm
1679, sau khi rút chạy khỏi Trung Quốc, một số cựu thần nhà Minh gồm

1. Trịnh Hoài Đức: Gia Định Thành thông chí, Sđd, tr.114.
2. Xem Huỳnh Lứa: Góp phần tìm hiểu vùng đất Nam Bộ các thế kỷ XVII,
XVIII, XIX, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 2000, tr.192.
38 VÙNG ĐẤT NAM BỘ VIII THIẾT CHẾ QUẢN LÝ XÃ HỘI

Dương Ngạn Địch, Trần Thượng Xuyên, Hoàng Tiến, Trần An Bình đã
dẫn theo khoảng 3.000 người, gồm binh lính và quyến thuộc, đi trên 50
chiến thuyền, chạy vào Đàng Trong xin lưu trú. Chúa Nguyễn khôn khéo
chấp thuận với toan tính rằng: “Hiện nay đất Đông Phố nước Cao Miên
đất đai màu mỡ nghìn dặm, triều đình chưa rảnh để kinh lý, chi bằng
cho họ vào đó cư trú, cậy sức của họ để mở mang đất đai, thế là làm
một việc mà được ba điều lợi”1. Được sự chấp thuận và tạo điều kiện của
chúa Nguyễn, đoàn người Hoa chia làm hai nhóm tiến đến vùng đất mới.
Nhóm thứ nhất do Trần Thượng Xuyên, Trần An Bình dẫn đầu vào cửa
biển Cần Giờ, lên định cư ở Bàn Lân, xứ Đồng Nai. Nhóm thứ hai dưới
sự dẫn dắt của Dương Ngạn Địch tiến vào cửa Lôi Lạp, theo cửa Đại, cửa
Tiểu, đến định cư ở miền Mỹ Tho. Đến miền đất mới ở lưu vực sông Tiền
và sông Hậu, nhóm lưu dân của Dương Ngạn Địch đã nhanh chóng bắt
tay vào công cuộc vỡ đất hoang làm ruộng, chia lập trang trại, thôn ấp.
Làng mạc ngày một đông đúc, kinh tế phát triển, phố xá cũng được mọc
lên. Mỹ Tho Đại Phố trở thành nơi buôn bán tấp nập, điểm đến của nhiều
thuyền bè các nước như Trung Quốc, Nhật Bản, Indonesia...
Chủ trương của chính quyền chúa Nguyễn đối với vùng Mỹ Tho
đang do người Hoa nắm giữ là trước hết tổ chức hệ thống quản lý ruộng
đất, thuế khóa và nhân đinh, sau mới tiến tới thiết lập các đơn vị hành
chính. Năm 1772, chúa Nguyễn sai quan biên thần Gia Định lập ra đạo
Trường Đồn để quản lãnh 9 khố trường biệt nạp ở xứ Mỹ Tho, đặt chức
Cai cơ và Thư ký để trông coi công việc2. Đến năm 1779, đạo thu thuế
được xóa bỏ, thay vào đó là một cấp hành chính mới mang tên dinh -
dinh Trường Đồn.
Có thể thấy, chỉ trong khoảng gần một thế kỷ, các chúa Nguyễn đã
cơ bản thiết lập hệ thống quản lý nhà nước trên toàn vùng Nam Bộ. Các
đơn vị hành chính lần lượt xuất hiện ở Trấn Biên, Phiên Trấn, Hà Tiên,

1. Phan Khoang: Việt sử xứ Đàng Trong, Nxb. Văn học, Hà Nội, 2001, tr.315.
2. Xem Quốc sử quán triều Nguyễn: Đại Nam thực lục, Sđd, t. 1, tr.177.
CHƯƠNG I: HỆ THỐNG QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH... 39

Long Hồ và Trường Đồn. Công cuộc này, các chúa Nguyễn thực hiện
bằng ba phương thức chủ yếu. Thứ nhất, từ những làng Việt được hình
thành từ trước, các chúa Nguyễn đã thiết lập lên đó cơ cấu hành chính
và hệ thống quản lý, như trường hợp các dinh Phiên Trấn, Trấn Biên và
Long Hồ. Thứ hai, sau khi tiếp nhận vùng đất mới từ tay những lưu dân
người Hoa, chúa Nguyễn không trực tiếp tổ chức việc cai trị mà quản lý
thông qua viên Đốc trấn họ Mạc (trường hợp trấn Hà Tiên). Và phương
thức thứ ba, áp dụng với vùng Mỹ Tho, trước thiết lập hệ thống quản lý
về ruộng đất, thuế khóa và dân đinh, sau sắp đặt bộ máy quản lý hành
chính. Đó là những lựa chọn khôn ngoan, linh hoạt, giúp chính quyền
chúa Nguyễn thiết lập và thực thi một cách đầy đủ quyền quản lý nhà
nước đối với toàn vùng Nam Bộ.
Về cơ bản, hệ thống quản lý hành chính ở Nam Bộ thời các chúa
Nguyễn không nằm ngoài cơ cấu chung của bộ máy chính quyền Đàng
Trong. Năm 1744, Nguyễn Phúc Khoát sau khi xưng vương đã thiết lập
ở Đàng Trong 12 dinh và 1 trấn. Cấp hành chính địa phương cao nhất
ở Nam Bộ cũng gọi là dinh, riêng Hà Tiên là trấn (do Đô đốc cai quản).
Đứng đầu mỗi dinh gồm các chức Trấn thủ, Cai bạ và Ký lục, gọi chung
là “quan công đường”. Giúp việc cho các chức này là cơ quan sở thuộc,
được gọi là các ty. Tùy theo từng dinh mà có thể có từ một, hai đến ba
ty trong hệ thống tam ty (Xá sai, Tướng thần lại và Lệnh sử), cùng một
số nhân viên thừa hành1.
Dưới dinh ở Nam Bộ là cấp huyện, do tri huyện đứng đầu với nhiệm
vụ chủ yếu là trông coi các việc từ tụng trong hạt. Giúp việc cho tri
huyện có các thuộc viên, gồm đề lại chuyên coi giữ các văn án và huyện
thông lại thừa hành tra xét việc hình ngục. Dưới huyện là các tổng, xã

1. Ví dụ: Sở thuộc của dinh Phiên Trấn có ty Tướng thần lại, gồm Câu kê 2
người, Cai hợp 3 người, Thủ hợp 7 người, Lại viên 10 người. Sở thuộc của hai dinh
Trấn Biên và Long Hồ đều có ty Xá sai, Cai hợp 1 người, Lại viên 2 người và Ty
Tướng thần lại, Câu kê 1 người, Cai hợp 2 người, Thủ hợp 2 người, Lại viên 10 người
(Xem Quốc sử quán triều Nguyễn: Đại Nam thực lục, Sđd, t.1, tr.153, 232, 235).
40 VÙNG ĐẤT NAM BỘ VIII THIẾT CHẾ QUẢN LÝ XÃ HỘI

ở vùng đồng bằng và các thuộc, thôn, phường, man, nậu ở miền núi và
vùng ven biển. Ở cấp xã, chúa Nguyễn cho đặt các chức quan đứng đầu
gồm tướng thần và xã trưởng, số lượng tùy theo quy mô của từng xã1.
Thuộc là đơn vị gồm nhiều phường, thôn, man, nậu. Xét về cấp quản lý,
thuộc tương đương tổng, nhưng quy mô có thể lớn hơn tổng. Đứng đầu
thuộc là các viên “tri”, “áp” (như Cai bạ, Đốc áp) có nhiệm vụ chủ yếu là
trưng thu thuế và tiền đại nạp2.
Các quan lại kể trên, từ cấp phủ huyện trở xuống, theo quy định
đều không được dự vào việc thu thuế (ngoại trừ các viên tri, áp ở các
thuộc). Công việc này được các chúa Nguyễn đặt một ngạch riêng,
gọi là Bản đường quan, cho trực thuộc Nội phủ, bao gồm các chức
chánh phó đề đốc, chánh phó đề lãnh, ký lục, cai phủ, cai tri, ký phủ,
thư ký, cai tổng, lục lại. Đến năm 1725, do tệ tham nhũng và xét thấy
phiền phức, chúa Nguyễn Phúc Chu hạ lệnh giảm bớt số nhân viên
của ngạch quan này3.
Bên cạnh đó, cơ cấu hành chính ở Nam Bộ thời kỳ này cũng có
một số khác biệt so với Đàng Trong. Trước hết, đó là sự tồn tại của
một hệ thống hành chính không thật thống nhất. Ngoài bốn dinh Trấn
Biên, Phiên Trấn, Long Hồ (sau đổi làm Vĩnh Trấn) và Trường Đồn
(sau là Trấn Định) được thiết lập giống như các dinh khác thuộc chính
quyền Đàng Trong, riêng Hà Tiên lại gọi là trấn, tồn tại đến thời Minh

1. Khi “định thể thức duyệt tuyển” vào năm 1707, chúa Nguyễn Phúc Chu có
lệnh: “Nhân số xã nào từ 999 người trở xuống thì cho 18 người làm tướng thần xã
trưởng, 400 người trở xuống, cho 8 người làm tướng thần xã trưởng, từ 199 người
trở xuống, cho 2 người làm tướng thần xã trưởng, từ 70 người trở xuống, cho một
người làm tướng thần xã trưởng” (Quốc sử quán triều Nguyễn: Đại Nam thực lục,
Sđd, t. 1, tr.120).
2. Năm 1726, chúa Nguyễn ban hành quy định: Những thuộc có từ 500
người trở lên đặt 1 cai thuộc, 1 ký thuộc; 450 người trở xuống đặt 1 ký thuộc;
ít hơn 100 người đặt 1 tướng thần (Xem Quốc sử quán triều Nguyễn: Đại Nam
thực lục, Sđd, t.1, tr.140-141).
3. Xem Quốc sử quán triều Nguyễn: Đại Nam thực lục, Sđd, t.1, tr.139.
CHƯƠNG I: HỆ THỐNG QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH... 41

Mệnh (1820-1840). Đứng đầu trấn Hà Tiên là một viên Tổng binh, sau
được đổi làm đô đốc (thuộc về họ Mạc), không phải các chức trấn thủ,
cai bạ và ký lục như ở các dinh. Ở đây dường như không thiết lập hệ
thống tam ty và các cấp hành chính bên dưới. Hai huyện (Long Xuyên
và Kiên Giang), cùng với 4 tổng và 51 xã, thôn, điếm, nậu, thuộc ở
Hà Tiên mãi đầu thế kỷ XIX mới được nhà Nguyễn sắp đặt. Thậm chí
đến thời điểm đó, vẫn còn 19 xã, thôn, thuộc của người Việt; 5 phố,
sở, điếm, thuộc của người Hoa và 26 sóc của người Khmer vẫn chưa
thống thuộc các phủ, huyện, tổng của nhà Nguyễn1.
Bốn dinh nêu trên ở Nam Bộ cũng được tổ chức khác so với các
dinh còn lại ở Đàng Trong. Cơ cấu chung của dinh Đàng Trong thường
gồm ít nhất một phủ, riêng Quảng Nam lãnh ba phủ, bên dưới là các
huyện, tổng, xã. Trong khi đó, cấp phủ không tồn tại ở Nam Bộ, mà mỗi
dinh thường quản một huyện hoặc một châu, dưới gồm ba đến bốn
tổng. Khi đặt hai dinh Trấn Biên và Phiên Trấn, chúa Nguyễn đồng thời
cho lập phủ Gia Định để trông coi, nhưng đó là tên gọi chung của vùng
đất Nam Bộ thời kỳ đầu, chỉ tồn tại trên danh nghĩa, không phải là một
cấp hành chính. Ý tưởng về một cấp quản lý hành chính vùng (trên cấp
hành chính địa phương) - thành Gia Định - chỉ thực sự xuất hiện vào
đầu thế kỷ XIX.
Điểm đáng lưu ý, trong hệ thống quản lý nhà nước ở Nam Bộ thời
kỳ này có sự tồn tại của các điểm tụ cư không phải đơn vị hành chính.
Chúng được gọi là các đạo, trường, trại, thuyền, thuộc, nậu, man...
Theo Gia Định Thành thông chí, vào năm Đinh Sửu (1757), chúa
Nguyễn cho “lấy xứ Sa Đéc đặt thành đạo Đông Khẩu, xứ Cù Lao Giêng
ở Tiền Giang đặt làm đạo Tân Châu, xứ Châu Đốc ở Hậu Giang làm đạo
Châu Đốc, rồi lấy binh dinh Long Hồ đến giữ gìn nơi địa đầu trọng yếu
ấy”2. Vậy có thể hiểu, đạo ở đây là một đơn vị quân quản. Cùng năm này,

1. Xem Trịnh Hoài Đức: Gia Định Thành thông chí, Sđd, tr.175-178.
2. Trịnh Hoài Đức: Gia Định Thành thông chí, Sđd, tr.114.
42 VÙNG ĐẤT NAM BỘ VIII THIẾT CHẾ QUẢN LÝ XÃ HỘI

Mạc Thiên Tứ ở Hà Tiên lấy xứ Rạch Giá đặt làm đạo Kiên Giang, Cà
Mau làm đạo Long Xuyên, rồi “đặt quan trông coi, chiêu mộ cư dân lập
nên thôn ấp”. Như thế, dưới chế độ quân quản, các đơn vị hành chính
cũng dần được thiết lập lên trên đó, hình thành nên một kiểu kết cấu
quân sự - hành chính. Bên cạnh đó, đạo ở Nam Bộ còn là một đơn vị
thu thuế1.
Trường hay khố trường cũng là đơn vị thu thuế ở Nam Bộ thời các
chúa Nguyễn. Chỉ riêng vùng Mỹ Tho, tính đến năm 1741 đã có 9 khố
trường được thành lập. Khố trường, nghĩa đen là những nơi đặt kho
chứa lương và tài vật, nhưng nó được lập trên những điểm tụ cư vốn
có của dân khai hoang. Theo quy định của chính quyền Đàng Trong
thời kỳ này, khố trường được đặt ở thôn xóm nào thì lấy theo tên thôn
xóm đó2. Sau khi lập khố trường, chính quyền vẫn cho “dân tùy tiện
lập ấp vỡ ruộng cày cấy”, đồng thời “đặt quan lại để trưng thu”3.
Thuyền là đơn vị sản xuất và chịu nộp thuế. Sách Đại Nam thực
lục chép sự kiện chúa Nguyễn cho lập các thuyền Ô Tất ở Gia Định
vào năm 1731 để thu thuế chuyên lợi là sơn đen. Theo đó, chúa sai
người mộ 500 dân đặt làm 11 thuyền, chia làm ba hạng: hạng quân,
mỗi người phải nộp 16 cân sơn/năm; hạng mới về, mới tục (vào sổ

1. Theo chính sử, vào năm 1772, chúa Nguyễn cho lập đạo Trường Đồn, đặt
chức Cai cơ và Thư ký để trông coi việc thu thuế biệt nạp. Đến năm 1789, chúa
Nguyễn Ánh cho đặt đạo Kiên Đồn ở cửa sông Tà Ôn thuộc dinh Vĩnh Trấn, sai
Tham mưu Nguyễn Ngọc Chương và Cai cơ Nguyễn Văn Thư đến coi giữ, đồng
thời “kiêm việc thu thuế ở người Đường (Hoa kiều)” ở đó (Xem Quốc sử quán
triều Nguyễn: Đại Nam thực lục, Sđd, t.1, tr.249).
2. Ví như trường Bả Canh ở Đồng Tháp vốn có tên là trại Bả Canh, là điểm tụ
cư đầu tiên của những lưu dân đến từ thôn Bả Canh, phủ Quy Nhơn, Bình Định
(Xem Nguyễn Đức Nhuệ: “Một số nét về sự hình thành các tụ điểm cư dân ở Nam
Bộ thế kỷ XVII, XVIII và đầu thế kỷ XIX”, trong Một số vấn đề lịch sử vùng đất
Nam Bộ đến cuối thế kỷ XIX, Sđd, tr.181).
3. Quốc sử quán triều Nguyễn: Đại Nam thực lục, Sđd, t.1, tr.150-151.
CHƯƠNG I: HỆ THỐNG QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH... 43

đinh) nộp 8 cân/năm; hạng lão cũng nộp 8 cân/năm. Cả ba hạng này,
lúc vô sự thì làm dân, nộp sưu thuế, lúc có chiến tranh thì làm binh,
đều được miễn trừ1.
Thuộc trước hết và chủ yếu là đơn vị thu thuế, đồng thời quản lý
dân đinh ở một vùng địa phương tương đối rộng lớn. Man, như cách
giải thích trong Gia Định Thành thông chí: “chỗ cư dân ở liền nhau gọi
là man, nghĩa giống như cỏ mọc lan ra tiếp nhau vậy”. Còn nậu “là bừa
ruộng làm cỏ, tục gọi đám đông là nậu, ý nói họp đông người lại để làm
ruộng”. Theo Trịnh Hoài Đức, đây là những đơn vị được lập ra ở nơi
“ven rừng dựa biển, vùng hẻo lánh lẻ tẻ”, “không có ai quản lý”, chủ yếu
để “tập hợp dân chúng” và “tùy vào nghề nghiệp mà thu thuế”, “cốt sao
để ruộng đồng được mở mang khai khẩn thêm rộng mà thôi”2.
Một đặc trưng hết sức tiêu biểu trong hệ thống quản lý ở Nam Bộ
thời kỳ này là sự kết hợp chặt chẽ giữa các yếu tố hành chính, dân sự và
quân đội.
Dinh - cấp hành chính địa phương cao nhất ở Đàng Trong và Nam
Bộ - tồn tại suốt thời các chúa Nguyễn, thậm chí đến đầu triều Nguyễn,
vốn dùng để chỉ một đạo quân. Người đứng đầu cấp dinh được gọi là
chưởng dinh hay trấn thủ, luôn là một võ quan, cũng tức là người chỉ huy
cao nhất của lực lượng quân đội đóng tại địa phương đó. Riêng xứ Hà
Tiên được lập thành trấn, cũng chỉ một đơn vị quân đội, đặt dưới quyền
quản lĩnh của tổng binh, sau đổi làm đô đốc - một chức vụ cao cấp trong
quân đội Đàng Trong.
Chính sách duyệt tuyển, chọn lính được chính quyền thực hiện dựa
trên các đơn vị hành chính, trực tiếp là cấp xã thôn. Trong Phủ biên tạp
lục, Lê Quý Đôn cho biết về phép tuyển binh của Đàng Trong thời kỳ
này, đại khái như sau:

1. Xem Quốc sử quán triều Nguyễn: Đại Nam thực lục, Sđd, t.1, tr.142; Lê Quý
Đôn: Phủ biên tạp lục, Sđd, tr.230.
2. Trịnh Hoài Đức: Gia Định Thành thông chí, Sđd, tr.142.
44 VÙNG ĐẤT NAM BỘ VIII THIẾT CHẾ QUẢN LÝ XÃ HỘI

1- Khi định xã binh, căn cứ theo họ tên, quê quán đã chép trong sổ
mà tính số lượng, hàng xã theo đó mà cung ứng đủ. Nếu đơn vị nào có
lính đào ngũ hay bị thải, triều đình gửi thông báo về địa phương, các
tướng thần, xã trưởng của xã đó phải tìm người để thay thế, lấy tháng 8
hằng năm làm kỳ hạn.
2- Khi sai nhân về địa phương nã lính trốn, xã có trách nhiệm thu
tiền phạt của gia đình có lính đào ngũ để giao nộp, gọi là tiền hành lý.
Hằng năm cứ đến tháng 4, Ty quan sẽ tra xét số lính trốn mà biên vào
sổ, rồi thông báo về địa phương.
3- Thời hạn cho các xã truy bắt lính bỏ trốn là ba tháng, quá hạn
không được thì phải cấp người khác thay thế. Người lính trốn nếu bị bắt
sẽ phải giải đến quan công đường và bị xử rất nặng.
4- Chính quyền nghiêm cấm việc ẩn lậu dân binh. Tất cả những
thanh niên đến 18 tuổi đều phải biên tên vào sổ binh của xã; gia đình
nào có con mà ẩn lậu, xét ra có thực thì bị sung làm lính chăn voi.
5- Quy định cấp lính: những người từ 50 tuổi trở lên và ai thấp bé
hay cô độc đều được thôi miễn. Gia đình nào có hai con trai, một người
được ở lại giữ nhà. Cha mẹ già mà không có con gái, chỉ có con trai thì
đều được miễn.
6- Để “khoan sức dân”, hễ là người mới nhập cư hay dân các làng xã
mới lập thì cho chước miễn ba năm để yên nghiệp làm ăn, hết hạn xã
quan mới được tuyển gọi1.
Quy định là vậy, nhưng trong thực tế, chế độ tuyển lính của chính
quyền chúa Nguyễn gắt gao hơn nhiều. Thích Đại Sán, một nhà sư
Trung Hoa đến Đàng Trong vào năm 1694 đã cho biết: “Mỗi năm vào
khoảng tháng ba, tháng tư, quân nhân đi ra các làng, bắt dân từ 16 tuổi
trở lên, những người thân thể cường tráng, đóng gông lại bằng một cái
gông tre hình như cái thang nhưng hẹp hơn, để giải về phủ sung quân;

1. Xem Lê Quý Đôn: Phủ biên tạp lục, Sđd, tr.183-184.


CHƯƠNG I: HỆ THỐNG QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH... 45

vào quân đội rồi, mỗi người bắt chuyên học một nghề, kế phân phái đi
theo các chiến thuyền để luyện tập; có chiến tranh đem ra đánh giặc, lúc
vô sự ở theo Vương phủ làm xâu; tuổi chưa đến 60, chẳng được về làng
cùng cha mẹ vợ con đoàn tụ; hàng năm thân thích đem áo quần vật thực
đến thăm mà thôi. Vì cớ ấy, những người dân còn lại ở nhà, toàn gầy yếu
tàn tật, chẳng có mấy người mạnh mẽ”1.
Quân đội Đàng Trong gồm hai lực lượng chủ yếu là chính binh (còn
gọi là tinh binh) và thuộc binh (tạm binh hay thổ binh). Chính quyền chủ
trương chỉ duy trì chính binh với một số lượng nhất định, trong khi chú
trọng hơn vào việc phát triển lực lượng thổ binh, vì thổ binh nhà nước
không phải trả lương. Khác với quân chính quy phải tham chiến và di
chuyển nhiều, lực lượng thổ binh chủ yếu đóng ngay tại các địa phương.
Nhiệm vụ chủ yếu của họ là giữ gìn an ninh trật tự, dẹp yên những vụ
gây rối, chống đối hoặc trộm cướp trên địa bàn. Mặt khác, khi tổ chức
những lực lượng này, chính quyền mong muốn có thể giảm thiểu những
kẻ chống đối, vì phần đông thanh niên đã được đoàn ngũ hóa2.
Như vậy, từ đầu thế kỷ XVII, các chúa Nguyễn đã tận dụng triệt
để những mâu thuẫn và suy yếu của chính quyền Chân Lạp nhằm
đẩy mạnh chính sách di dân, khẩn hoang, hợp thức hóa và từng bước
xác lập chủ quyền đối với vùng đất Nam Bộ. “Khẩn hoang và xác lập
chủ quyền là hai quá trình song song đồng thời, trong đó xác lập chủ
quyền là bảo vệ tính hợp pháp của công cuộc khẩn hoang và thành
quả của công cuộc khẩn hoang chính là cơ sở để xác lập chủ quyền
một cách thực sự”3. Trong công cuộc gian nan đó, chính sách của
chính quyền đóng vai trò quan trọng, song công lao to lớn thuộc về

1. Thích Đại Sán: Hải ngoại kỷ sự, bản dịch, Viện Đại học Huế, 1963, tr.43.
2. Xem Li Tana: Xứ Đàng Trong: Lịch sử kinh tế - xã hội Việt Nam thế kỷ
17-18, Nxb. Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh, 1999, tr.75.
3. Nguyễn Quang Ngọc: “Mấy nét về quá trình tổ chức khai phá đất đai, xác
lập và thực thi chủ quyền trên đất Nam Bộ của chúa Nguyễn từ đầu thế kỷ XVII
đến giữa thế kỷ XVIII”, trong Văn hóa Óc Eo và Vương quốc Phù Nam, Sđd, tr.377.
46 VÙNG ĐẤT NAM BỘ VIII THIẾT CHẾ QUẢN LÝ XÃ HỘI

lớp lớp các thế hệ lưu dân người Việt và những cộng đồng cư dân
khác. Bằng mồ hôi, nước mắt và biết bao công sức, họ đã khai phá,
làm chủ và thực sự mang tới sự hồi sinh cho miền đất dường như đã bị
lãng quên trong suốt một thời gian dài. Đến giữa thế kỷ XVIII, vùng
đất Nam Bộ đã hoàn toàn thuộc quyền quản lý của chúa Nguyễn, trở
thành một bộ phận không thể tách rời của xứ Đàng Trong và của lãnh
thổ Việt Nam.

2. Thời kỳ nửa cuối thế kỷ XVIII


Nửa cuối thế kỷ XVIII là thời kỳ khủng hoảng trầm trọng của chế
độ phong kiến Việt Nam. Hệ quả tất yếu của những mâu thuẫn xã hội
làm bùng nổ phong trào khởi nghĩa nông dân trên khắp hai Đàng, mà
lớn nhất, tiêu biểu nhất là khởi nghĩa Tây Sơn.
Khởi nghĩa Tây Sơn bắt đầu diễn ra từ năm 1771. Hai năm sau (năm
1773) nghĩa quân đã đánh chiếm phủ thành Quy Nhơn (Bình Định) và
Quảng Ngãi, trực tiếp uy hiếp kinh đô Phú Xuân. Trong điều kiện đó,
chúa Đàng Ngoài là Trịnh Sâm quyết định mở cuộc tấn công quy mô
lớn nhằm thôn tính Đàng Trong. Cuối năm 1774, tướng Trịnh là Hoàng
Ngũ Phúc thống lĩnh đại quân vượt sông Gianh vào Nam. Trước sự uy
hiếp từ cả hai phía, chúa Nguyễn Phúc Thuần đã bỏ Phú Xuân, dẫn theo
toàn bộ triều đình và gia quyến rút chạy vào Gia Định.
Nghĩa quân Tây Sơn sau khi hòa hoãn với quân Trịnh, đã dồn
toàn bộ lực lượng tấn công quân Nguyễn ở Gia Định. Vùng đất
Nam Bộ trong hàng chục năm liên tục trở thành chiến trường, nơi
thường xuyên diễn ra những cuộc chiến ác liệt giữa quân Tây Sơn
và quân Nguyễn.
Đầu năm 1776, Nguyễn Lữ được lệnh đem thủy binh vào đánh
Gia Định. Quân Tây Sơn chiếm được thành Sài Gòn và các dinh
Trấn Biên, Phiên Trấn, Long Hồ. Nhưng sau đó quân của Tống Phúc
Hiệp từ Bình Khang kéo về cứu viện, chiếm lại Trấn Biên. Ở Mỹ Tho,
CHƯƠNG I: HỆ THỐNG QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH... 47

Đỗ Thanh Nhơn cũng mộ binh, lập ra đạo quân Đông Sơn (có nghĩa
đối chọi với Tây Sơn) tiến đánh Sài Gòn. Trước tình thế ấy, Nguyễn Lữ
thu lấy lương thực, của cải rồi rút về Quy Nhơn. Quân Nguyễn chiếm
lại Gia Định.
Năm 1777, Nguyễn Lữ và Nguyễn Huệ lại chỉ huy thủy binh
đánh vào Gia Định lần thứ hai. Quân Lý Tài bị đánh bại, Nguyễn
Phúc Thuần và Nguyễn Phúc Dương chạy trốn nhưng đều bị quân
Tây Sơn đuổi theo giết chết, chỉ có Nguyễn Ánh trốn thoát. Sau khi
đã chiếm được Gia Định, Nguyễn Huệ cử tướng ở lại trấn thủ, rồi lại
rút quân về Quy Nhơn. Cuối năm ấy, Nguyễn Ánh được sự ủng hộ
của các đại địa chủ Gia Định đã khởi binh ở Long Xuyên và chiếm
lại thành Gia Định.
Không lâu sau, Nguyễn Nhạc sai thủy quân vào đánh phá vùng
Trấn Biên và Phiên Trấn, nhưng đạo quân này bị thất bại phải rút
lui. Nguyễn Ánh nhân đà thắng lợi tiến ra chiếm lấy Bình Thuận, uy
hiếp Diên Khánh, đồng thời nhanh chóng phát triển lực lượng. Năm
1778, Nguyễn Ánh được suy tôn làm Đại nguyên soái nhiếp quốc
chính và năm sau tự xưng vương. Đến năm 1782, nhân khi lực lượng
Nguyễn Ánh xảy ra mâu thuẫn, quân Tây Sơn tấn công Gia Định lần
thứ ba. Quân Nguyễn nhanh chóng tan vỡ, Nguyễn Ánh phải trốn
chạy ra đảo Phú Quốc. Tuy nhiên, sau khi chiếm được Gia Định,
quân Tây Sơn lại rút về Quy Nhơn, chỉ để lại một lực lượng nhỏ đồn
trú. Vì vậy, đến mùa thu năm đó, một tướng của họ Nguyễn là Chu
Văn Tiếp kéo quân về đánh bại lực lượng đồn trú của Tây Sơn, chiếm
lại thành Gia Định.
Năm 1783, quân Tây Sơn tiến đánh Gia Định lần thứ tư. Quân Chu
Văn Tiếp đại bại, Nguyễn Ánh phải chạy ra đảo Côn Lôn rồi trốn sang
đảo Phú Quốc. Quân Tây Sơn chiếm thành Gia Định, nhưng giống như
những lần trước, họ chỉ để lại một lực lượng nhỏ trấn giữ... Về sau, quân
Nguyễn chiếm lại Gia Định.
48 VÙNG ĐẤT NAM BỘ VIII THIẾT CHẾ QUẢN LÝ XÃ HỘI

Dù liên tiếp xảy ra chiến sự, nhưng suốt khoảng cuối thế kỷ XVIII,
công cuộc khai phá đất đai và khẳng định chủ quyền của người Việt
trên vùng đất Nam Bộ vẫn tiếp tục được thực hiện. Xét ở một khía
cạnh nào đó, chính hoàn cảnh chiến tranh cùng sự quản lý thiếu chặt
chẽ của chính quyền lại là điều kiện thuận lợi đẩy mạnh công cuộc
khai hoang, là cơ sở cho việc phát triển các đơn vị hành chính về sau.
Theo Lê Quý Đôn, vào năm 1776, ở Nam Bộ gồm có 3 dinh, 3
huyện/châu, 11 tổng và 1.320 xã thôn1. Khoảng hai, ba thập niên cuối
thế kỷ XVIII, số xã, thôn ở đây tiếp tục tăng lên. Khi triều Nguyễn
thành lập, rất nhiều điểm tụ cư vốn do quân đội quản lý, là nơi thu
thuế hoặc lao động nộp thuế đã trở thành các đơn vị hành chính mới,
tăng lên thành 1.540 xã thôn vào năm 18082.

Bảng 1: Số lượng đơn vị hành chính ở Nam Bộ


năm 1776

TT Dinh/trấn Huyện/châu Tổng Đơn vị cơ sở


1 Phiên Trấn 1 4 650
2 Trấn Biên 1 4 320
3 Long Hồ 1 3 350
Cộng 3 11 1.320

Sự gia tăng số lượng các đơn vị hành chính cơ sở chủ yếu là do


công cuộc khai hoang được đẩy mạnh hơn trước. Để thành lập những
xã thôn mới, chúa Nguyễn cho phép và tạo điều kiện để những người
có điều kiện đứng ra chiêu mộ dân khai hoang. Theo quy định, phải là
những người giàu có (bá hộ) mới được đứng ra đầu đơn, vì muốn mộ
dân phải có nhiều tiền để cho dân vay trong những vụ đầu. Người mộ
dân, do đó, trở thành những điền chủ, chủ nợ ở thôn ấp mới. Cũng theo
quy định: nơi nào quy tập được 40 dân đinh trở lên thì được thiết lập

1. Xem Lê Quý Đôn: Phủ biên tạp lục, Sđd, tr.196-197.


2. Xem Trịnh Hoài Đức: Gia Định Thành thông chí, Sđd, tr.121-132.
CHƯƠNG I: HỆ THỐNG QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH... 49

thôn xã, có mộc triện và ban hương chức đầy đủ. Nơi nào không đủ số
ấy cũng thiết lập thôn xã, có ban hương chức nhưng không được cấp
mộc triện. Nơi nào hợp được 10 nhà thì lập thành một ấp nhỏ; 50 nhà
lập một ấp lớn, có tri ấp cai quản1. Khi ruộng đất thành thuộc, dân cư
đông đúc thì thôn ấp được nâng lên thành xã, tổng.
Việc cai quản thôn xã vào cuối thế kỷ XVIII, theo Minh điều hương
ước, do một ban hương chức đảm trách, gồm:
- Trùm cả: người đứng đầu thôn xã.
- Trùm chủ: người đứng thứ nhì trong thôn xã.
- Trùm nghị: người tham gia đóng góp ý kiến cho thôn xã.
- Xã trưởng: người giữ con dấu và thu thuế.
- Thủ khoán: người giữ quỹ và tài sản của thôn xã.
- Câu đương: người hòa giải các vụ xích mích, thưa kiện nhỏ
trong làng.
- Tri thâu: người phụ trách việc thu thuế2.
Cũng từ cuối thế kỷ XVIII về sau, ở Nam Bộ xuất hiện một loại làng
mới, được hình thành trên cơ sở các đồn điền cũ. Thời kỳ trước, chính
quyền chúa Nguyễn khuyến khích lập đồn điền, cũng giống như việc
mộ dân lập ấp, chủ yếu là nhằm đẩy mạnh công cuộc khai hoang. Ở các
đồn điền tồn tại một kiểu quản lý bán quân sự, thiết lập đối với những
người dân làm ruộng nhưng với tư cách lính đồn điền. Theo quy định,
cứ 50 người được tổ chức thành một đội, ai đứng ra chiêu mộ thì được
làm suất đội. Về sau, khi ruộng đồng được mở rộng, dân cư đông đúc
thì đội cải ra thành ấp, viên suất đội trở thành ấp trưởng - đại diện cho
chính quyền dân sự3.

1. Xem Quốc sử quán triều Nguyễn: Đại Nam thực lục, Sđd, t.1, tr.124.
2. Xem Trương Ngọc Tường: “Làng xã cổ truyền ở Nam Bộ qua Minh điều
hương ước”, Tạp chí Xưa và Nay, số 58B, 1998, tr.26.
3. Xem Huỳnh Lứa: Góp phần tìm hiểu vùng đất Nam Bộ các thế kỷ XVII,
XVIII, XIX, Sđd, tr.33.
50 VÙNG ĐẤT NAM BỘ VIII THIẾT CHẾ QUẢN LÝ XÃ HỘI

Trước tình hình số lượng các đơn vị hành chính ở Nam Bộ tăng
lên nhanh chóng, các chúa Nguyễn sau khi vào Gia Định xây dựng
thành căn cứ chống Tây Sơn, đã nhanh chóng sắp xếp lại, đồng thời
tăng cường hệ thống quản lý. Năm 1779, Nguyễn Ánh lệnh cho vẽ địa
đồ, đặt công đường và phân chia lại địa giới ba dinh Trấn Biên, Phiên
Trấn và Long Hồ. Theo đó, dinh Trấn Biên lãnh 1 huyện (Phúc Long),
có 4 tổng (Tân Chính, Bình An, Long Thành và Phúc An); dinh Phiên
Trấn lãnh 1 huyện (Tân Binh), có 4 tổng (Bình Dương, Tân Long, Phúc
Lộc và Bình Thuận); dinh Long Hồ đổi làm dinh Hoằng Trấn, lãnh 1
châu (Định Viễn), có 3 tổng (Bình An, Bình Dương và Tân An). Năm
sau (năm 1780), dinh Hoằng Trấn lại đổi thành dinh Vĩnh Trấn, lỵ sở
chuyển về địa điểm cũ. Đến năm 1788, chúa Nguyễn cho cắt hai đạo
Long Xuyên và Kiên Giang (từ năm 1757 thuộc trấn Hà Tiên) nhập vào
dinh Vĩnh Trấn1.
Cùng năm 1779, Nguyễn Ánh cho bãi bỏ 9 khố trường biệt nạp, lập
thành dinh Trường Đồn, quản lãnh 1 huyện (Kiến Khang), có 3 tổng
(Kiến Đăng, Kiến Hưng và Kiến Hòa). Đặt các chức Lưu thủ, Cai bạ
và Ký lục để cai trị. “Lại thấy, trước đây đất Gia Định còn là nơi nhiều
rừng rú và đầm lầy, mộ dân tới ở, cho tùy tiện lập ấp vỡ hoang,... đặt
chín khố trường biệt nạp riêng (các kho Quy An, An Hóa, Cảnh Dương,
Thiên Mụ, Giản Thảo, Hoàng Lạp, Tam Trạch, Bà Canh, Tân Thịnh) để
thu thuế. Số thuế nhiều ít không đều nhau. Đến đây vạch định cương
giới, bỏ chín khố trường, sai các dinh châm trước lệ cũ thuế điền thổ
mà chữa lại cho cân bằng”2. Đến năm 1781, dinh Trường Đồn được đổi
thành dinh Trấn Định, lỵ sở cũng chuyển từ giồng Kiến Định về chợ Mỹ
Tho ở thôn Mỹ Chánh3.

1, 3. Xem Trịnh Hoài Đức: Gia Định Thành thông chí, Sđd, tr.150, 104.
2. Quốc sử quán triều Nguyễn: Đại Nam thực lục, Sđd, t.1, tr.208.
CHƯƠNG I: HỆ THỐNG QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH... 51

Đến đây, hệ thống quản lý hành chính ở Nam Bộ đã được củng cố


thêm một bước. Như tác giả sách Gia Định Thành thông chí từng nêu
nhận xét: “Đất Nông Nại xưa vốn nhiều đầm ao rừng rú, buổi đầu mới
lập ra ba dinh, mộ dân đến lập nghiệp, phép tắc hãy còn khoan dung
giản dị. Có khi đất ở hạt Phiên Trấn mà lập thuế ở hạt Trấn Biên, và
ngược lại đất ở hạt Trấn Biên mà trưng thuế ở Phiên Trấn ấy là tùy theo
lòng dân, không hề ràng buộc, cốt sao khiến dân khai hoang mở đất
cho thành ruộng, lập nên thôn xã mà thôi. Nhiều nơi là đất bùn cỏ mà
trưng làm ruộng đóng thuế, hoặc ruộng núi nơi đất gò đống mà trưng
làm ruộng cỏ, chuyện đó có thường thôi. Đến như sào, mẫu, khoảng
(khoảnh), sở, cũng chỉ dựa vào lời khai mà biên vào sổ chứ không đặt
thước xuống đo và phân biệt tốt xấu, còn thuế nhiều hay ít, đấu hộc
to hay nhỏ cũng tùy vào lệ cũ từng nơi để phỏng theo mà làm không
giống nhau. Đến lúc này mới châm trước để làm cho đúng”1.
Thời kỳ này, do điều kiện lịch sử, tính chất quân sự trong tổ chức
bộ máy quản lý ở Nam Bộ càng trở nên đậm nét. Lê Quý Đôn trong Phủ
biên tạp lục đã cung cấp những thông tin chi tiết về các đơn vị quân đội
của chúa Nguyễn đóng tại các dinh, trấn ở Gia Định như sau:
- Dinh Trấn Biên có Trung cơ, thuộc về đấy gồm 7 thuyền: Kiên
Bính, Kiên Súng, Tả Nhưng Súng, Hữu Nhưng Súng, Hữu Thắng Súng,
Xung Đao Tam, Tráng Thuận Tứ. Có đội Bình Bộ, thuộc về đấy là 3
thuyền: Kiên Đao, Xung Đao Nhất, Tả Thắng Súng. Có đội Súng Bộ,
thuộc về đấy là các thuyền Tả Kiên Súng, Hữu Kiên Súng, Xung Đao
Nhị. Có đội Kiên Thủy, thuộc về đấy là các thuyền Tráng Nhất, Tráng
Nhị, Tráng Tam, Hữu Hùng. Có đội Tân Tiệp, thuộc về đấy là các thuyền
Phấn Nhất, Phấn Nhị, Phấn Tam (để giữ dân Hà Bạc và giữ cù lao Côn
Lôn). Có đội Hùng Ngự, thuộc về đấy là các thuyền Nhuệ Nhất, Nhuệ
Nhị, Nhuệ Tam (để giữ trường voi). Có đội Tráng Ngự, thuộc về đấy là

1. Trịnh Hoài Đức: Gia Định Thành thông chí, Sđd, tr.115.
52 VÙNG ĐẤT NAM BỘ VIII THIẾT CHẾ QUẢN LÝ XÃ HỘI

các thuyền Định Nhất, Định Nhị, Định Tam (để giữ ngã ba Long Cốt
(Xương Rồng)). Ba đội 9 thuyền ấy mỗi thuyền 50 người, đều lấy thổ
dân, được miễn tiền gạo; cai đội và chánh thứ đội trưởng đều cho tiện
nghi sung bổ, miễn cho tiền gạo.
- Dinh Phiên Trấn có Trung cơ, thuộc về đấy là các thuyền Nhưng
Bính, Thắng Súng, Hậu Súng, Tiểu Bính, Tiểu Súng, Tiền Súng, Nội
Súng, cộng 7 thuyền, cùng mã đội (giám quân, cai đội quản 4 thuyền,
ký lục, cai án, cai bạ mỗi viên quản 1 thuyền). Có đội Tân Nhưng, thuộc
về đấy là các thuyền Tân Nhất, Tân Nhị, Tân Tam. Có đội Thắng Thủy,
thuộc về đấy là các thuyền Tiệp Nhất, Tiệp Nhị, Tiệp Tam. Có đội Tả
Long, thuộc về đấy là các thuyền Thanh Nhất, Thanh Nhị, Thanh Tam.
Có đội Tả Tiệp, thuộc về đấy là các thuyền Tráng Nhất, Tráng Nhị, Tráng
Tam. Có đội Hữu Tiệp, thuộc về đấy là các thuyền Cường Nhất, Cường
Nhị, Cường Tam (cùng giữ xứ Đồng Tranh). Có đội Tiền Tiệp, thuộc về
đấy là các thuyền Hùng Nhất, Hùng Nhị, Hùng Tam. Có đội Hậu Tiệp,
thuộc về đấy là các thuyền Kiên Nhất, Kiên Nhị, Kiên Tam (cùng giữ xứ
Cần Thơ ở sông Ba Xắc). Bốn đội 12 thuyền này, mỗi thuyền 50 người,
đều lấy thổ dân, được miễn tiền gạo; chánh thứ đội trưởng đều cho tiện
nghi sung bổ, được miễn tiền gạo.
- Dinh Long Hồ châu Định Viễn, có đội Hùng Nhuệ, thuộc về đấy
là các thuyền Tiệp Nhất, Tiệp Nhị, Tiệp Tam. Có đội An Bộ, thuộc về
đấy là các thuyền An Nhất, An Nhị, An Tam, An Tứ, An Ngũ. Có đội
Cường Bộ, thuộc về đấy là các thuyền Cường Nhất, Cường Nhị, Cường
Tam. Có đội Minh Bộ, thuộc về đấy có các thuyền Minh Nhất, Minh
Nhị, Minh Tam. Có đội Tân Thắng, thuộc về đấy có các thuyền Bình
Nhất, Bình Nhị, Bình Tam, mỗi thuyền 50 người, được miễn tiền gạo.
- Trấn Hà Tiên, có 8 thuyền (độc lập): Kiên Nhất, Kiên Nhị, Kiên
Đao, Kiên Nhưng, Nghĩa Thắng, Kiên Phong, Long Kỳ, Tráng Súng
(tổng binh quản 6 thuyền, cai bạ, tri bạ mỗi viên quản 1 thuyền). Có đội
CHƯƠNG I: HỆ THỐNG QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH... 53

Thủy Thắng, thuộc về đấy 3 thuyền. Có đội Hùng Bộ, gồm 3 thuyền và
các đội Tả Thủy, Hữu Thủy1.
Tổng hợp danh sách, nếu tính trung bình mỗi đơn vị thuyền gồm
50 người như ghi chép trên, thì tổng số quân đồn trú của chúa Nguyễn
tại Nam Bộ sẽ có khoảng 4.600 người2:

Bảng 2: Các đơn vị chính binh tại Nam Bộ cuối thế kỷ XVIII

TT Dinh/trấn Cơ Đội Thuyền Quân số


1 Trấn Biên 1 6 27 1.350
2 Phiên Trấn 1 7 28 1.400
3 Long Hồ - 5 17 850
4 Hà Tiên - 4 20 1.000
Cộng 2 22 92 4.600

Quân số trên, chắc chắn mới chỉ là lực lượng chính quy, không
bao gồm các loại quân khác. Điều này được xác nhận khi vào năm
Bính Thân (1776), viên Cai bạ dinh Long Hồ là Hiến Đức hầu Nguyễn
Khoa Thuyên sau 16 năm làm quan cho họ Nguyễn, đã vượt biển đến
hàng quân Trịnh và cung cấp những số liệu hết sức chi tiết. Theo
Nguyễn Khoa Thuyên: “Binh thuộc phủ ấy (tức phủ Gia Định, gồm
hai dinh Phiên Trấn và Trấn Biên - TG) thổ binh kể có mấy vạn là bởi
họ Nguyễn từ trước đến giờ dốc lòng mở mang miền Nam, chiếm lấy
đất màu mỡ, mộ dân gọi quân, chia ruộng chứa thóc, để trấn áp các
nước phiên Chiêm Thành, Cao Miên, chế ngự nước Xiêm La, cho nên

1. Xem Lê Quý Đôn: Phủ biên tạp lục, Sđd, tr.194-195.


2. Theo phiên chế của chính quyền Đàng Trong, lực lượng quân đội được
chia thành các dinh, cơ, đội, thuyền. Trong đó, dinh là đơn vị cao nhất đóng tại địa
phương. Cơ gồm nhiều đội, nhưng cũng nhiều khi quản các thuyền độc lập, với số
lượng không nhất định, số binh mỗi cơ từ khoảng 260 đến 500 lính. Đội là đơn vị
nhỏ hơn cơ, nhưng nhiều khi không do cơ nào quản lý, thường gồm 3 đến 5 thuyền,
với 220 đến 500 lính. Còn thuyền, một phần tử của cơ hoặc đội, thường gồm 30, 40,
50 hoặc có khi đến 100 lính (Xem Phan Khoang: Việt sử xứ Đàng Trong, Sđd, tr.364).
54 VÙNG ĐẤT NAM BỘ VIII THIẾT CHẾ QUẢN LÝ XÃ HỘI

đóng quân ở xứ ấy, xếp đặt rất kỹ, mà khi bôn ba sở dĩ có thể dừng
chân giữ yên được là cũng bởi thế”1.
Theo những thông tin được cung cấp bởi viên quan này, lực lượng
quân sự ở Nam Bộ lớn gấp nhiều lần so với số mà Lê Quý Đôn đã nêu.

Bảng 3: Lực lượng quân đội ở Nam Bộ năm 1776

Quân số Tổng số
TT Dinh/trấn
Tinh binh Thuộc binh dân đinh
1 Trấn Biên 1.000 9.320 9.500
2 Phiên Trấn 1.000 7.880 26.000
3 Long Hồ 1.000 24.720 7.000
Cộng 3.000 41.920 42.500

Cụ thể:
- Quân dinh Trấn Biên, tinh binh 20 thuyền, mỗi thuyền 50
người, cộng 1.000 người, ghe bầu hải sư 18 chiếc; thuyền Mã hậu lệ
không có ghe bầu. Các thuyền thuộc binh được miễn tiền gạo, cộng
20 thuyền, mỗi thuyền 50 người, cộng 1.000 người, chiến thuyền 20
chiếc. Tạm binh được miễn sưu chừng 100 thuyền, mỗi thuyền 40
người, cộng 4.000 người, chiến thuyền chừng 100 chiếc... Thủ cửa
Tắc Khải, quân 3 đội, mỗi đội 3 thuyền, mỗi thuyền 40 người, cộng
360 người. Thủ cửa Cần Giờ, thủ nguồn Đồng Môn, thủ Nước Sông,
đều như thế. Thủ Quảng Hóa 5 đội, mỗi đội 3 thuyền, mỗi thuyền
48 người, cộng 720 người; thủ Tuyên Uy, thủ Bà Rịa, thủ Mỗi Xoài,
đều như thế.
- Quân dinh Phiên Trấn, tinh binh 20 thuyền, mỗi thuyền 50
người, cộng 1.000 người, ghe bầu hải sư 18 chiếc; thuyền Mã hậu
lệ không có ghe bầu. Các thuyền thuộc binh được miễn tiền gạo,
chừng 20 thuyền, mỗi thuyền 50 người, cộng 1.000 người, chiến thuyền
20 chiếc. Tạm binh được miễn sưu chừng 100 thuyền, mỗi thuyền

1. Lê Quý Đôn: Phủ biên tạp lục, Sđd, tr.196.


CHƯƠNG I: HỆ THỐNG QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH... 55

40 người, cộng 4.000 người, chiến thuyền 100 chiếc... Thủ cửa Soài
Rạp, quân 3 đội, mỗi đội 3 thuyền, mỗi thuyền 40 người, cộng 360
người. Thủ cửa Đồng Tranh, thủ cửa Đại và cửa Tiểu, thủ cửa Bà Lai,
cũng như thế. Thủ Trường Đồn ở Mỹ Tho 5 đội, mỗi đội 3 thuyền,
mỗi thuyền 48 người, cộng 720 người. Thủ Đường Sử nguồn Ba Can,
cũng như thế.
- Dinh Long Hồ, bản trấn tinh binh 20 thuyền, mỗi thuyền 50
người, cộng 1.000 người, ghe bầu hải sư 18 chiếc và thuyền Mã đội.
Tạm binh hơn 300 thuyền, quân số chừng 12.000 người... Các thủ
ngự miền Thượng Nguyên, gồm thủ Phiếm Bái quân 3 đội, mỗi đội 3
thuyền, mỗi thuyền 40 người, cộng 360 người, chiến thuyền 9 chiếc;
thủ cù lao Dao Chiêu, rạch Ông Chưởng, thủ Tân Châu, thủ Chiến
Sai, thủ Hùng Thắng, cũng như thế. Các thủ ngự miền Tiền Giang,
thủ đạo Đông Khẩu, quân 5 đội, mỗi đội 3 thuyền, mỗi thuyền 48
người, cộng 720 người, chiến thuyền 15 chiếc; thủ đạo Tân Thắng
cũng như thế; thủ trường Giao Dịch, quân 3 đội, mỗi đội 3 thuyền,
mỗi thuyền 40 người, cộng 360 người, chiến thuyền 9 chiếc; thủ
Mộc Hãn, thủ Vũng Liêm, thủ Lãng Thi, thủ Bến Tranh, cũng như
thế. Thủ Quang Phục 5 đội, mỗi đội 3 thuyền, mỗi thuyền 40 người,
chiến thuyền 15 chiếc. Thủ ngự các cửa biển, thủ cửa Bãi Ngao, quân
3 đội, mỗi đội 3 thuyền, mỗi thuyền 40 người, cộng 360 người, chiến
thuyền 9 chiếc; thủ cửa Tiểu Hỗn, thủ cửa Cỏ Chiện, thủ cửa Trà
Vinh, thủ cửa Cái Lóc, thủ Thanh Hải, cũng như thế. Thủ cửa Thu
Tu, quân 1 đội 3 thuyền, mỗi thuyền 40 người, cộng 120 người; thủ
cửa Rạch Giá, cũng như thế; hai thủ này chiến thuyền 3 chiếc. Các
thủ ngự ở Hậu Giang, thủ Cường Uy, quân 5 đội, mỗi đội 3 thuyền,
mỗi thuyền 40 người, cộng 720 người, chiến thuyền 15 chiếc; thủ Tà
Ôn, thủ Cần Chung, thủ bãi Bà Lúa, thủ Thâm Trừng, thủ Chất Tiền,
cũng như thế.
56 VÙNG ĐẤT NAM BỘ VIII THIẾT CHẾ QUẢN LÝ XÃ HỘI

Nếu số liệu trên đây là chính xác, lực lượng quân Nguyễn ở Nam
Bộ có số lượng rất lớn. Mặt khác, tỷ lệ tuyển binh ở đây rất cao, đến
mức hầu như tất cả dân đinh đều phải tòng quân1. Trong khi đó, số
không phải tham gia quân ngũ gồm người già, phụ nữ, trẻ em, người
khuyết tật..., cũng tức là lực lượng lao động chính, chỉ chiếm không
tới một nửa dân số. Lê Quý Đôn có ghi chép về số người đóng thuế và
mức trưng nộp của phủ Gia Định vào thời điểm này như sau: Huyện
Tân Bình (dinh Phiên Trấn) và các thuộc, gồm 10.506 người, thu các
tiền là 27.068 quan 6 tiền 24 đồng và 707 bao gạo. Huyện Phước Long
(dinh Trấn Biên) và các thuộc, số còn nộp thuế gồm 4.820 người, thu
các tiền 10.233 quan 2 tiền 52 đồng, gạo 113 bao 22 thưng 5 cáp 3
thược. Châu Định Viễn (dinh Long Hồ) và các thuộc, số nộp thuế gồm
2.824 người, thu các tiền 5.974 quan. Khách hộ mới và cũ 135 người,
thu tiền 183 quan 2 tiền 30 đồng. Thuyền Ô Tất (lấy sơn đen) còn 425
người, thu 6.528 cân2. Như thế, lực lượng lao động ở Nam Bộ thường
xuyên phải nộp thuế cho nhà nước vào những năm 1770 là xấp xỉ
19.000 người. Tính trung bình, mỗi người dân phải nuôi 2 lính. Đó là
thực tế, bởi khi ấy chúa Nguyễn Ánh đang gấp rút chuẩn bị lực lượng
chống quân Tây Sơn.
Sau những thất bại liên tiếp và nặng nề, Nguyễn Ánh đã cầu cứu và
dẫn đường cho quân Xiêm xâm chiếm đất Nam Bộ. Tháng 4-1784, quân
Xiêm gồm 2 vạn quân thủy và 3 vạn quân bộ tiến sang đánh chiếm Gia
Định. Quân Tây Sơn ở Gia Định khi ấy do Phò mã Trương Văn Đa chỉ
huy, vẻn vẹn có mấy nghìn người, đã tạm thời rút lui để bảo toàn lực
lượng. Quân Xiêm sau khi dễ dàng chiếm được nửa phía tây Gia Định
đã sinh lòng kiêu căng. Chúng ra sức cướp bóc của cải, giết hại dân

1. So sánh với địa phương khác, ví như dinh Quảng Nam vào năm 1752 có
152.370 dân (đinh), chúa Nguyễn lấy 91.296 người vào lính, tức chiếm 59,91%
(Xem Huỳnh Lứa: Góp phần tìm hiểu vùng đất Nam Bộ các thế kỷ XVII, XVIII,
XIX, Sđd, tr.17).
2. Xem Lê Quý Đôn: Phủ biên tạp lục, Sđd, tr.182.
CHƯƠNG I: HỆ THỐNG QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH... 57

chúng, tàn phá làng mạc. Theo lời vua Xiêm về sau, bọn Chiêu Sương và
Chiêu Tăng đã dùng chiến thuyền chở về nước rất nhiều con gái, vàng
bạc và của cải cướp được1.
Từ Quy Nhơn, nghĩa quân Tây Sơn tổ chức phản công, chiếm lại
Gia Định. Bằng lòng yêu nước, tinh thần chiến đấu anh dũng, sự ủng
hộ nhiệt thành của đồng bào Nam Bộ cùng với tài năng kiệt suất của
người anh hùng Nguyễn Huệ, quân Tây Sơn đã đánh bại hoàn toàn 5
vạn quân Xiêm trong trận quyết chiến chiến lược Rạch Gầm - Xoài Mút
ngày 19-1-1785. Đây là chiến công hiển hách, một trong những trang sử
chống ngoại xâm oai hùng nhất của dân tộc Việt Nam. Thắng lợi đó đã
quét sạch quân Xiêm ra khỏi đất Nam Bộ, bảo vệ vững chắc nền độc lập,
chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, đánh dấu bước phát triển
vượt bậc của phong trào nông dân Tây Sơn. Thắng lợi đó đã đưa phong
trào Tây Sơn từ một cuộc khởi nghĩa nông dân vươn lên mạnh mẽ trở
thành một phong trào quật khởi của toàn dân tộc, là sự khẳng định sâu
sắc ý thức về chủ quyền của người Việt Nam đối với vùng đất Nam Bộ2.
Bị đại bại, Nguyễn Ánh đã trốn chạy sang đất Xiêm nương náu để
chờ thời cơ. Đến tháng 8-1787, lợi dụng những mâu thuẫn không thể
hàn gắn giữa anh em nhà Tây Sơn, Nguyễn Ánh kéo quân lưu vong từ
Xiêm về đánh chiếm Gia Định. Quân Nguyễn đổ bộ chiếm lấy Long
Xuyên rồi tiến vào cửa Cần Giờ. Thế lực chống Tây Sơn ở Gia Định
đang lẩn trốn khắp nơi, nay nổi dậy hưởng ứng. Nhiều tướng lĩnh và
quân sĩ của Tây Sơn hoảng sợ, đầu hàng quân Nguyễn. Đông Định
vương Nguyễn Lữ bỏ thành Sài Gòn trốn về Quy Nhơn rồi ốm chết.
Từ đó đất Gia Định lại thuộc về Nguyễn Ánh, trừ miền Ba Thắc vẫn do
quân Phạm Văn Tham chiếm giữ và tiếp tục chiến đấu cho đến đầu năm
1789 mới chịu hạ khí giới.

1. Xem Chương trình Nghiên cứu gia phả Việt Nam 6: Hà Tiên trấn Hiệp trấn
Mạc thị gia phả (Hà Tiên - Kiên Giang), Nxb. Thế giới, Hà Nội, 2006.
2. Xem Vũ Văn Quân: “Cuộc kháng chiến chống Xiêm cuối thế kỷ XVIII - sự
thể hiện sâu sắc ý thức về chủ quyền của người Việt Nam trên vùng đất Nam Bộ”,
trong Một số vấn đề lịch sử vùng đất Nam Bộ đến cuối thế kỷ XIX, Sđd, tr.332.
58 VÙNG ĐẤT NAM BỘ VIII THIẾT CHẾ QUẢN LÝ XÃ HỘI

Chiếm lại Gia Định, Nguyễn Ánh gấp rút xây dựng nơi đây thành
một căn cứ chống Tây Sơn, cơ sở để khôi phục vương quyền. Trước hết,
Nguyễn Ánh tăng cường và củng cố lực lượng quân đội. Tháng 6-1788,
Nguyễn Ánh sai chọn những binh sĩ gan dạ lập ra đội “chiến tâm”, là lực
lượng tinh nhuệ nhất. Quân thường trực được chia làm 5 doanh, gồm:
Trung, Tả, Tiền, Hậu và Tiên phong. Ngoài quân thường trực, chúa
Nguyễn còn tổ chức các nhóm hương binh đi theo ứng chiến và đặt ra
phu binh ở các địa phương. Chúa Nguyễn cũng cho lập những xưởng
đóng chiến thuyền, đúc đại bác và cử người sang các nước mua thêm vũ
khí. Theo quy định thời kỳ này, các nguyên liệu như sắt, gang, chì, lưu
hoàng, diêm sinh... khi nhập cảng Gia Định đều phải bán cho nhà nước
và được miễn thuế. Có những thời điểm, chúa Nguyễn sai trưng mua
lúa gạo và mía đường của dân để đổi lấy binh khí. Bên cạnh đó, Nguyễn
Ánh còn cho xây dựng thêm nhiều thành lũy, đồn ải quân sự. Tháng
3-1790, thành Gia Định được xây dựng theo kiểu Vauban, phía ngoài có
hào sâu và đổi tên là kinh Gia Định.
Về mặt kinh tế, chính quyền chúa Nguyễn thi hành nhiều biện pháp
tích cực nhằm ổn định sản xuất và phát triển nông nghiệp, mở rộng
diện tích khai hoang. Những người dân xiêu tán từ khắp nơi đã được
chính quyền khuyến dụ trở về quê làm ruộng, được cấp lương, miễn
thuế, chia ruộng. Ngay cả những “dân phiên” từ Chân Lạp hay người
Hoa mới đến xin nội thuộc, cung nộp phú thuế cũng được chính quyền
đón nhận, thậm chí lấy gạo nhà nước cho vay, khiến họ nhanh chóng
an cư, lạc nghiệp1. Năm 1789, chúa Nguyễn đặt chức quan Điền tuấn,
cử 20 người về các dinh trấn khuyến khích việc làm ruộng. Năm sau
(năm 1790), chúa Nguyễn cho áp dụng chế độ đồn điền ở Gia Định
với mục đích chính là sử dụng quân đội vào việc khẩn hoang, vừa tăng
cường hậu cần lại vừa giữ đất lâu dài. Theo đó, quân lính được lệnh lập
ra các trại đồn điền, được cấp trâu bò, nông cụ và lúa giống để cày cấy
nộp thóc lúa vào kho. Các địa chủ được phép mộ người lập ra các đội

1. Xem Quốc sử quán triều Nguyễn: Đại Nam thực lục, Sđd, t.1, tr.208, 249.
CHƯƠNG I: HỆ THỐNG QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH... 59

hay nậu đồn điền, mộ được 10 người trở lên thì cho làm cai trại và được
miễn lao dịch... Với những biện pháp đó, chính quyền chúa Nguyễn đã
nhanh chóng xây dựng được một tiềm lực kinh tế mạnh ở Nam Bộ, làm
hậu thuẫn cho cuộc chiến chống Tây Sơn.
So với Tây Sơn, Nguyễn Ánh và chính quyền chúa Nguyễn rõ ràng
có ảnh hưởng lớn và tạo lập được cơ sở vững chắc hơn trên vùng đất
Nam Bộ. Điều này lý giải, quân Nguyễn sau nhiều lần thảm bại trên
vùng đất này, vẫn luôn nhận được sự hậu thuẫn của nhiều lực lượng nơi
đây, nhất là các đại điền chủ. Để rồi, chính nhờ hậu thuẫn và những lực
lượng ấy, họ Nguyễn đã đánh bại Tây Sơn, khôi phục vương quyền vào
năm 1802.

III- CƠ CẤU HÀNH CHÍNH VÀ TỔ CHỨC BỘ MÁY QUẢN LÝ VÙNG ĐẤT


NAM BỘ NỬA ĐẦU THẾ KỶ XIX

1. Thời kỳ trước cải cách hành chính Minh Mạng (trước năm 1832)
a) Quy hoạch hành chính
Triều Nguyễn được thiết lập trong bối cảnh đất nước vừa trải qua
thời kỳ dài bất ổn. Xung đột giữa các tập đoàn phong kiến thống trị, đất
nước bị chia cắt, hệ luỵ từ các cuộc nội chiến..., là những nguyên nhân
chính khiến đời sống kinh tế - xã hội luôn xáo động và bị tổn thương
nghiêm trọng... Nhưng mặt khác, đây cũng là thời kỳ - do nhiều nguyên
nhân, trong đó gồm cả những yêu cầu về củng cố thế lực, khẩn hoang
phát triển kinh tế, giải tỏa áp lực gia tăng dân số.., quá trình lãnh thổ
của người Việt không ngừng được mở rộng. Hơn một thế kỷ - tính từ
thời điểm Chưởng cơ Lễ Thành hầu Nguyễn Hữu Cảnh được chính
quyền Đàng Trong cử vào kinh dinh vùng đất Nam Bộ (năm 1698) đến
khi triều Nguyễn thành lập (năm 1802) - công cuộc khai phá và thực thi
chủ quyền của người Việt đối với vùng đất phương Nam đã được xác
lập vững vàng.
Bước sang thế kỷ XIX, từ những tiền đề do phong trào Tây Sơn tạo
dựng, quá trình thống nhất lãnh thổ và quyền lực được nhà Nguyễn kế
60 VÙNG ĐẤT NAM BỘ VIII THIẾT CHẾ QUẢN LÝ XÃ HỘI

thừa, tiến tới xác lập trọn vẹn. Với triều Nguyễn, đây là yếu tố nền tảng,
trở thành điều kiện và mở ra cơ hội phát triển đất nước. Song, chính yêu
cầu của việc quản lý một lãnh thổ rộng lớn hơn bất cứ thời kỳ nào trước
đó cũng là thách thức to lớn đặt ra cho vương triều mới.
Năm 1802, sau khi lên ngôi và đặt Phú Xuân làm kinh đô, vua Gia
Long chia cả nước thành 27 trấn (Đàng Ngoài cũ) và doanh (Đàng Trong
cũ). Đàng Ngoài cũ gồm 13 trấn và phủ Phụng Thiên (năm 1805 đổi làm
phủ Hoài Đức), Đàng Trong cũ gồm 14 doanh (trừ doanh Quảng Đức
sau đổi thành phủ Thừa Thiên, từ năm 1808 các doanh còn lại đều lần
lượt đổi thành trấn). Tuy nhiên, triều đình chỉ trực tiếp quản lý 4 “trực
doanh” (gồm “tứ Quảng”: Quảng Bình, Quảng Trị, Quảng Đức - Thừa
Thiên, Quảng Nam) cùng 7 “cơ trấn” (Nghệ An, Thanh Hóa, Quảng
Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Bình Khương và Bình Thuận).
Đối với những doanh, trấn còn lại, ở Đàng Ngoài cũ, ngay trong
năm 1802, vua Gia Long lập ra Bắc Thành, phạm vi bao gồm 5 nội trấn
(Sơn Nam Thượng, Sơn Nam Hạ, Kinh Bắc, Sơn Tây và Hải Dương)
và 6 ngoại trấn (Thái Nguyên, Lạng Sơn, Tuyên Quang, Cao Bằng, Yên
Quảng và Hưng Hóa). Đứng đầu Bắc Thành là viên tổng trấn, triều
đình giao cho “trọng thần trấn giữ”. Tổng trấn có quyền lực rất lớn:
“Phàm những việc cất bãi quan lại, xử quyết kiện tụng, đều được tùy
mà làm rồi sau mới tâu”. Các cơ quan giúp việc Tổng trấn ở Bắc thành
gồm ba tào Hộ, Binh, Hình, có nhiệm vụ “theo quan Tổng trấn để xét
biện công việc”1.
Dưới Bắc Thành, các cấp hành chính có trấn (gồm nội và ngoại
trấn), phủ, huyện, tổng và đơn vị hành chính cơ sở là thôn/xã/phường...
Theo quy định, mỗi trấn đặt hai ty Tả thừa, Hữu thừa. Mỗi ty ở nội trấn
đặt 1 câu kê, 1 cai hợp, 1 thủ hợp và 22 người thuộc ty. Cấp phủ, huyện,
mỗi phủ đặt 2 đề lại, 10 thông lại; huyện đặt 2 đề lại, 8 thông lại; mỗi phủ
huyện đều có 50 lính lệ; cấp tổng đặt 1 tổng trưởng, 1 phó tổng. Riêng

1. Quốc sử quán triều Nguyễn: Đại Nam thực lục, Sđd, t.1, tr.528.
CHƯƠNG I: HỆ THỐNG QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH... 61

đối với các ty Tả thừa, Hữu thừa thuộc 6 ngoại trấn chỉ đặt 1 cai hợp, 1
thủ hợp và 13 người thuộc ty1.
Với vùng đất Nam Bộ, ngay từ năm 1800, Nguyễn Ánh đã đổi phủ
Gia Định thành trấn Gia Định2, đứng đầu là Lưu trấn. Đơn vị hành
chính doanh lúc này cơ bản giống như thời kỳ Đàng Trong3. Đứng đầu
mỗi doanh là lưu thủ, giúp việc có cai bạ, ký lục. Năm 1804, Gia Long
thay thế hai ty Tướng thần và Xá sai bằng ty Tả thừa và Hữu thừa, mỗi
ty 100 người, chia làm bốn phòng Hộ, Binh, Hình, Công. Sai Lưu trấn
chọn các ty của chính doanh thuộc trấn để sung bổ4.
Tuy nhiên, phải đến năm 1808, những thay đổi căn bản về hành
chính ở Nam Bộ mới bắt đầu. Vua Gia Long “thấy địa thế Gia Định
rộng lớn”, sau khi “sai đình thần bàn kỹ việc kinh lý để giữ gìn bờ cõi cho
vững mạnh” quyết định thiết lập ở Nam Bộ một khu vực hành chính với
tên gọi Gia Định Thành5.
Gia Định Thành khi mới thiết lập gồm địa giới của 4 trấn (vốn là các
doanh/dinh): trấn Phiên An (do doanh Phiên Trấn đổi thành), trấn Biên
Hòa (vốn là doanh Trấn Biên), trấn Vĩnh Thanh (trước là doanh Vĩnh
Trấn) và trấn Định Tường (chuyển từ doanh Trấn Định) cùng hai huyện
(vốn là hai đạo) Long Xuyên, Kiên Giang6.56.

1. Xem Quốc sử quán triều Nguyễn: Đại Nam thực lục, Sđd, t.1, tr.523.
2. Theo Trịnh Hoài Đức: Gia Định Thành thông chí, Sđd, tr.115. Tuy nhiên, theo
Đại Nam thực lục (Sđd, t.1, tr.487), việc này bắt đầu vào năm 1802.
3. Theo Gia Định Thành thông chí, năm 1805, khi Gia Long lệnh cho 5 doanh,
trấn của Gia Định: “kê khảo đầy đủ về sự tích, cương vực, thổ sản trong địa hạt,
cùng với đường sá xa gần, núi sông chỗ nào bình thường, chỗ nào hiểm yếu, vẽ
thành bản đồ, chép thành biên bản, ghi chú rõ ràng để làm thành trình lục”, 5
doanh, trấn lúc này vẫn là Trấn Biên, Phiên Trấn, Vĩnh Trấn, Trấn Định và Hà
Tiên (Gia Định Thành thông chí, Sđd, tr.115).
4, 5. Xem Quốc sử quán triều Nguyễn: Đại Nam thực lục, Sđd, t.1, tr.617,
716.
6. Trấn Hà Tiên được đặt năm 1810. Vì vậy, trong danh sách đơn vị hành
chính năm 1808 chưa có trấn này.
62 VÙNG ĐẤT NAM BỘ VIII THIẾT CHẾ QUẢN LÝ XÃ HỘI

Trấn Phiên An thống thuộc phủ Tân Bình, gồm bốn huyện: Bình
Dương, Tân Long, Phúc Lộc, Thuận An. Trấn Biên Hòa có phủ Phúc Long
gồm bốn huyện: Phúc Chính, Bình An, Long Thành, Phúc An. Trấn Vĩnh
Thanh có phủ Định Viễn gồm ba huyện: Vĩnh An, Vĩnh Bình, Tân An.
Trấn Định Tường có phủ Kiến An gồm ba huyện: Kiến Đăng, Kiến Hưng
và Kiến Hòa. Hai đạo Long Xuyên, Kiên Giang đổi thành hai huyện, mỗi
huyện đặt hai tổng.

Bảng 4: Tổ chức hành chính tại Gia Định trấn (năm 1802) và
Gia Định Thành (năm 1808)1

TT Gia Định trấn (năm 1802) Gia Định Thành (năm 1808)
Doanh Phiên Trấn Trấn Phiên An
Huyện Tân Bình Phủ Tân Bình
Tổng Bình Dương Huyện Bình Dương
1
Tổng Tân Long Huyện Tân Long
Tổng Phúc Lộc Huyện Phúc Lộc
Tổng Bình Thuận Huyện Thuận An
Doanh Trấn Biên Trấn Biên Hòa
Huyện Phúc Long Phủ Phúc Long
Tổng Tân Chính Huyện Phúc Chính
2
Tổng Bình An Huyện Bình An
Tổng Long Thành Huyện Long Thành
Tổng Phúc An Huyện Phúc An

1. Cho đến trước cải cách của Minh Mạng năm 1832, ở Gia Định tiếp tục có
một số điều chỉnh về hành chính, chẳng hạn năm 1823: “Thăng huyện Tân An ở trấn
Vĩnh Thanh làm phủ Hoằng An, tổng Tân Minh (huyện Tân An) làm huyện Tân
Minh, tổng An Bảo (huyện Tân An) làm huyện Bảo An” (Đại Nam thực lục, Sđd, t.2,
tr.288); năm 1825: “Bắt đầu đặt huyện Hà Tiên lĩnh hai tổng Hà Thanh và Hà Nhuận.
Trấn lỵ Hà Tiên và các xã thôn phố sách phụ cận năm trước đã đăng sổ mà chưa
đặt huyện tổng, thành thần Gia Định tâu xin nên đặt” (Đại Nam thực lục, Sđd, t.2,
tr.462); năm 1826: đặt phủ An Biên ở Hà Tiên lấy ba huyện Hà Tiên, Long Xuyên,
Kiên Giang lệ vào (Đại Nam thực lục, Sđd, t.2, tr.532); năm 1832: “đổi trấn Vĩnh
Thanh làm trấn Vĩnh Long, vì tránh tên lăng” (Đại Nam thực lục, Sđd, t.3, tr.287).
CHƯƠNG I: HỆ THỐNG QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH... 63

TT Gia Định trấn (năm 1802) Gia Định Thành (năm 1808)
Doanh Vĩnh Trấn Trấn Vĩnh Thanh
Châu Định Viễn Phủ Định Viễn
3 Tổng Bình An Huyện Vĩnh An
Tổng Bình Dương Huyện Vĩnh Bình
Tổng Tân An Huyện Tân An
Doanh Trấn Định Trấn Định Tường
Huyện Kiến An Phủ Kiến An
4 Tổng Kiến Đăng Huyện Kiến Đăng
Tổng Kiến Hưng Huyện Kiến Hưng
Tổng Kiến Hòa Huyện Kiến Hòa
Huyện Long Xuyên
5 Đạo Long Xuyên Tổng Long Thủy
Tổng Quảng Xuyên
Huyện Kiên Giang
6 Đạo Kiên Giang Tổng Kiên Định
Tổng Thanh Giang

Sách Gia Định Thành thông chí chép: “Thành Gia Định từ Đông
sang Tây cách nhau 252 dặm rưỡi, đi hết 5 ngày đường, từ Nam đến
Bắc cách 742 dặm rưỡi, đi hết 10 ngày đường. Từ thành lớn Gia Định
đến kinh đô cách 2.340 dặm rưỡi, hết 30 ngày đường, đến biên giới Cao
Miên cách 447 dặm, hết 7 ngày đường. Thành có nhiệm vụ trông coi
các việc binh dân, thuế dịch và hình án của 5 trấn: Phiên An, Biên Hoà,
Vĩnh Thanh, Định Tường và Hà Tiên, đồng thời còn kiêm lãnh đạo từ
xa thêm trấn Bình Thuận ở phía Bắc. Phàm việc binh thì do thành chỉ
huy, còn các việc thuế má, hình án thì trấn tự sắp đặt”1.
Dưới trấn, trước và sau thời kỳ thiết lập Gia Định Thành, quá trình
sắp đặt, diên cách đơn vị hành chính đưa đến sự biến đổi mạnh về quy
mô, số lượng các phủ, huyện, tổng, thôn/xã/nậu/thuộc... Cấp phủ trước
năm 1808 chưa đặt, khi lập Gia Định Thành, rất nhiều huyện được nâng
thành phủ, tổng trở thành huyện mới. Như trường hợp trấn Phiên An,

1. Trịnh Hoài Đức: Gia Định Thành thông chí, Sđd, tr.120.
64 VÙNG ĐẤT NAM BỘ VIII THIẾT CHẾ QUẢN LÝ XÃ HỘI

theo Gia Định Thành thông chí, gồm 1 phủ, 4 huyện, 8 tổng, 460 xã,
thôn, phường, ấp, điếm. Trong đó phủ Tân Bình trước là huyện, năm
1808 cải đôn lên làm phủ, gồm 4 huyện:
- Huyện Bình Dương trước là tổng, đổi làm huyện; lãnh 2 tổng Bình
Trị, Dương Hòa mới được đặt.
- Huyện Tân Long trước là tổng đổi thành huyện; lãnh 2 tổng Tân
Phong, Long Hưng mới được đặt.
- Huyện Phước Lộc, nguyên là tổng đổi thành huyện; lãnh 2 tổng
Phước Điền, Lộc Thành mới được đặt.
- Huyện Thuận An, trước là tổng Bình Thuận, cải thành huyện;
lãnh 2 tổng Bình Cách, Thuận Đạo mới được đặt1.
Các trấn Biên Hòa, Định Tường, Vĩnh Thanh và Hà Tiên đều có
tình trạng tương tự2.
Sách Đại Nam thực lục thống kê các thay đổi về diên cách, tên
gọi, quy mô các phủ, huyện tại các trấn thuộc Gia Định Thành năm
1808 gồm3:
Trấn Phiên An thống thuộc phủ Tân Bình (đổi từ huyện Tân Bình),
huyện Bình Dương (đổi từ tổng Bình Dương), huyện Tân Long (đổi từ
tổng Tân Long), huyện Phúc Lộc (đổi từ tổng Phúc Lộc), huyện Thuận
An (đổi từ tổng Bình Thuận).

1. Xem Trịnh Hoài Đức: Gia Định Thành thông chí, Sđd, tr. 121-132.
2. Chẳng hạn trấn Biên Hòa, buổi đầu mới đặt trấn gọi là dinh Trấn Biên, trông
coi 1 huyện, 4 tổng. Năm 1808, sau khi dinh Trấn Biên đổi thành trấn Biên Hòa thì
nâng huyện thành phủ, nâng tổng thành huyện; gồm 1 phủ Phước Long, lãnh 4 huyện:
- Huyện Phước Chánh, gồm 2 tổng Phước Vinh và Chãnh Mỹ mới được đặt.
- Huyện Bình An, trước là tổng, nay đổi thành huyện; gồm 2 tổng Bình Chánh và
An Thủy mới được đặt.
- Huyện Long Thành trước là tổng, nay cải thành huyện, gồm 2 tổng là Long Vĩnh
và Thành Tuy mới được đặt.
- Huyện Phước An cũng từ tổng đổi lên thành huyện, gồm 2 tổng là An Phú và
Phước Hưng mới được đặt.
3. Xem Đại Nam thực lục, Sđd, t.1, tr.717.
CHƯƠNG I: HỆ THỐNG QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH... 65

Trấn Biên Hòa bao gồm: phủ Phúc Long (đổi từ huyện Phúc Long),
huyện Phúc Chính (đổi từ tổng Tân Chính), huyện Bình An (đổi từ tổng
Bình An), huyện Long Thành (đổi từ tổng Long Thành), huyện Phúc
An (đổi từ tổng Phúc An).
Trấn Vĩnh Thanh gồm: phủ Định Viễn (đổi từ châu Định Viễn),
huyện Vĩnh An (đổi từ tổng Bình An), huyện Vĩnh Bình (đổi từ tổng
Bình Dương), huyện Tân An (đổi từ tổng Tân An).
Trấn Định Tường gồm: phủ Kiến An (đổi từ huyện Kiến An), huyện
Kiến Đăng (đổi từ tổng Kiến Đăng), huyện Kiến Hưng (đổi từ tổng Kiến
Hưng), huyện Kiến Hòa (đổi từ tổng Kiến Hòa).
Hai đạo Long Xuyên và Kiên Giang đặt làm hai huyện Long Xuyên
và Kiên Giang.
Theo Gia Định Thành thông chí, cơ cấu, số lượng đơn vị hành chính
các cấp ở Gia Định Thành từ năm 1808 như sau1:

Bảng 5: Số lượng đơn vị hành chính ở Gia Định Thành


từ năm 1808

Trấn Phủ Huyện Tổng Thôn/xã/ấp...


Phiên An 1 4 8 460
Biên Hòa 1 4 8 310
Định Tường 1 3 6 314
Vĩnh Thanh 1 4 6 353
Hà Tiên 2 4 103
Cộng 4 17 32 1.540

So sánh số liệu trên với thống kê năm 1776 của Lê Quý Đôn sẽ thấy
đơn vị hành chính các cấp thuộc Gia Định Thành đều có sự biến động,
tăng từ 1.320 lên 1.540 đơn vị cơ sở (xem Bảng 1).
Riêng đối với cấp quản lý hành chính cơ sở, một đặc điểm mà các
nhà nghiên cứu quan tâm, đó là việc các vua đầu thời Nguyễn cũng như

1. Xem Trịnh Hoài Đức: Gia Định Thành thông chí, Sđd, tr.121-178.
66 VÙNG ĐẤT NAM BỘ VIII THIẾT CHẾ QUẢN LÝ XÃ HỘI

các chúa Nguyễn thời kỳ Đàng Trong trước đó dường như có xu hướng
đề cao cấp thôn, áp dụng đồng loạt chủ trương tổ chức cấp thôn trên
vùng đất Gia Định1.
Thống kê 1.525 đơn vị hành chính cấp cơ sở của 5 trấn Phiên An,
Biên Hòa, Vĩnh Thanh, Định Tường và Hà Tiên của Nguyễn Quang Ngọc
từ Gia Định Thành thông chí cho thấy tuyệt đại đa số các đơn vị hành
chính cấp cơ sở là thôn (1.375/1.525 = 90,16%), trong khi đó cấp xã tuy có
được thường xuyên nhắc đến trong các tài liệu, chính sách, nhưng thực
tế chỉ chiếm một tỷ lệ rất nhỏ (29/1.525 = 1,90%). Thậm chí có các trấn
lớn như Định Tường, Vĩnh Thanh tuyệt nhiên không có cấp xã. Cụ thể2:

Bảng 6: Các đơn vị hành chính cấp cơ sở ở Gia Định Thành


đầu thế kỷ XIX

Số Tỷ lệ
TT Đơn vị hành chính cơ sở Ghi chú
lượng (%)
1 Thôn 1.375 90,16
2 Phường 34 2,23
3 Xã 29 1,90
4 Lân 27 1,77 ở tổng Bình Trị
5 Súc (Sóc của người Khmer) 26 1,70 ở trấn Hà Tiên
6 Ấp 13 0,85
7 Xóm 10 0,66
8 Phố (của người Hoa) 4 0,26 ở trấn Hà Tiên
9 Nậu 2 0,13 ở Long Xuyên, Hà Tiên
10 Thuộc 2 0,13 ở trấn Hà Tiên
11 Trại 1 0,07 ở trấn Vĩnh Thanh

1. Xem Nguyễn Quang Ngọc: “Cấp thôn ở Nam Bộ thế kỷ XVII - XVIII - XIX
(Một cái nhìn tổng quan)”, trong Một số vấn đề lịch sử vùng đất Nam Bộ đến cuối
thế kỷ XIX, Sđd, tr.200; Nguyễn Đình Đầu: Tổng kết nghiên cứu địa bạ Nam Kỳ lục
tỉnh, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, 1994.
2. Xem Nguyễn Quang Ngọc: “Cấp thôn ở Nam Bộ thế kỷ XVII - XVIII - XIX
(Một cái nhìn tổng quan)”, trong Một số vấn đề lịch sử vùng đất Nam Bộ đến cuối
thế kỷ XIX, Sđd, tr.197-198.
CHƯƠNG I: HỆ THỐNG QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH... 67

Số Tỷ lệ
TT Đơn vị hành chính cơ sở Ghi chú
lượng (%)
12 Sở (của người Hoa) 1 0,07 ở trấn Hà Tiên
13 Đội (của người Chà Và) 1 0,07 ở trấn Hà Tiên
Cộng 1.525 100,00

b) Tổ chức bộ máy quản lý


- Cấp thành
Trên phương diện quản lý, Gia Định Thành đặt dưới quyền cai quản
của một viên tổng trấn, bên cạnh có hiệp tổng trấn (sau đổi là phó tổng
trấn). Đại Nam thực lục cho biết năm Gia Long thứ 7 (năm 1808): “Bắt
đầu đặt chức Tổng trấn thành Gia Định... lấy Nguyễn Văn Nhân làm
Tổng trấn, Trịnh Hoài Đức làm Hiệp tổng trấn. Ban ấn tổng trấn thành
Gia Định (ấn bạc núm hình sư tử)”1. Quyền hạn của tổng trấn rất lớn:
“phàm truất thăng quan lại, hưng lợi trừ hại, tất cả việc thành và việc
biên cương đều cho tùy nghi mà làm”2.
Từ năm 1808 cho đến khi Gia Định Thành bị giải thể (năm 1832),
lần lượt có 4 người giữ chức tổng trấn, trong đó 2 người triều đình tái cử.

Bảng 7: Các Tổng trấn Gia Định Thành


từ năm 1808 đến năm 1832

TT Tổng trấn Thời gian trị nhậm


1808 - 1812
1 Nguyễn Văn Nhân
1819 - 1820
1812 - 1815
2 Lê Văn Duyệt
1820 - 1832
3 Trương Tấn Bảo 1816
4 Nguyễn Hoàng Đức 1816 - 1819

Khi mới thành lập, các việc về hành chính, tư pháp, quân sự... ở Gia
Định Thành được giải quyết thông qua hai ty Tả thừa, Hữu thừa, mỗi ty

1. Quốc sử quán triều Nguyễn: Đại Nam thực lục, Sđd, t.1, tr.739.
2. Quốc sử quán triều Nguyễn: Đại Nam thực lục, Sđd, t.2, tr.62.
68 VÙNG ĐẤT NAM BỘ VIII THIẾT CHẾ QUẢN LÝ XÃ HỘI

có 3 phòng. Ty Tả thừa gồm các phòng Lại, Binh và Hình; ty Hữu thừa
gồm các phòng Hộ, Lễ và Công. Theo Khâm định Đại Nam hội điển sự
lệ, năm 1808, số nhân viên thuộc hai ty Tả thừa, Hữu thừa của Gia Định
Thành được quy định như sau1:

Bảng 8: Số nhân viên thuộc hai ty Tả thừa và Hữu thừa


ở Gia Định Thành năm 1808

Chức vụ
Ty/phòng Cộng
Câu kê Cai hợp Thủ hợp Bản ty
Ty Tả thừa:
Phòng Lại 2 10
69
Phòng Binh 2 20
Phòng Hình 1 2 2 30
Ty Hữu thừa
Phòng Hộ 2 30
69
Phòng Lễ 2 10
Phòng Công 1 2 2 20
Cộng 2 4 12 120 138

1. Xem Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, Nxb. Thuận Hóa, Huế, 1993, t.2,
tr.257.
Trong khi đó, cũng theo quy định năm 1808, số lại viên ở các cơ quan tương
ứng tại Bắc Thành là:
Chức vụ
Ty/phòng Cộng
Câu kê Cai hợp Thủ hợp Bản ty
Ty Tả thừa:
Phòng Lại 1 1 2 40
220
Phòng Binh 2 2 4 80
Phòng Hình 2 2 4 80
Ty Hữu thừa
Phòng Hộ 2 4 80
214
Phòng Lễ 1 1 2 50
Phòng Công 1 1 2 70
Cộng 7 9 18 400 434
CHƯƠNG I: HỆ THỐNG QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH... 69

Năm 1821, Minh Mạng cho đổi chức cai hợp các dinh trấn làm thư
lại chánh bát phẩm, thủ hợp làm thư lại chánh cửu phẩm1. Sau một năm,
lại tiếp tục “đổi định lại số viên chức ở hai thừa ty và các thành dinh trấn”,
số nhân sự tại các phòng được tăng thêm 22 người, cụ thể: “ba phòng Lại,
Binh Hình thuộc Tả thừa ty và ba phòng Hộ, Lễ, Công thuộc Hữu thừa ty,
mỗi phòng 1 người Câu kê. Phòng Lại, bát cửu phẩm thư lại đều 1 viên,
vị nhập lưu 15 người. Phòng Binh, bát phẩm 1, cửu phẩm 2, vị nhập lưu
25. Phòng Hình, bát phẩm 1, cửu phẩm 3, vị nhập lưu 30. Phòng Hộ, bát
phẩm 1, cửu phẩm 5, vị nhập lưu 35. Phòng Lễ, bát cửu phẩm đều 1, vị
nhập lưu 10. Phòng Công, bát cửu phẩm đều 2, vị nhập lưu 25”2.
Phẩm hàm chức danh tại các ty được quy định:
- Câu kê: Tản giai tòng thất phẩm
- Cai hợp: Tản giai tòng thất phẩm
- Thủ hợp: Tản giai tòng bát phẩm
- Bản ty (vị nhập lưu thư lại): Tản giai tòng cửu phẩm
- Huấn khoa ở ty Lương y: Tản giai tòng cửu phẩm.
Thư lại giúp việc trong mỗi phòng cũng được quy định cụ thể3.2

Bảng 9: Số lượng và phẩm hàm các lại viên ở Gia Định Thành
năm 1821

Thư lại
Phòng Cộng
Chánh bát phẩm Chánh cửu phẩm Vị nhập lưu
Lại 1 1 15 17
Hộ 1 3 35 39
Lễ 1 1 10 12
Binh 1 2 25 28
Hình 1 3 30 34
Công 1 2 25 28
Cộng 6 12 140 158

1, 2. Xem Quốc sử quán triều Nguyễn: Đại Nam thực lục, Sđd, t.2, tr.149,
227-228.
3. Xem Quốc sử quán triều Nguyễn: Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, Sđd,
t.2, tr.258-259.
70 VÙNG ĐẤT NAM BỘ VIII THIẾT CHẾ QUẢN LÝ XÃ HỘI

Từ năm 1813, để giúp việc cho tổng trấn, vua Gia Long đặt bốn tào
Hộ, Binh, Hình, Công. Việc bổ nhiệm người đứng đầu mỗi tào sẽ do
triều đình lựa chọn từ chức tham tri, thiêm sự ở các bộ biệt phái xuống1.
Bên cạnh đó, lại chuẩn định ở thành Gia Định: đặt thêm ty Chiêm
hậu gồm 1 câu kê, 1 cai hợp, 2 thủ hợp, 40 bản ty và tăng số nhân viên ở
ty Lương y lên 2 huấn khoa, 30 bản ty.
Tùy từng giai đoạn và yêu cầu công việc cụ thể, số viên lại ở các tào
thay đổi khác nhau. Năm Minh Mạng thứ 2 (1821), triều đình chuẩn
định ba tào Hộ, Binh, Hình ở Gia Định Thành mỗi tào 2 thiêm sự; Công
tào 1 thiêm sự; phái từ mỗi bộ Hộ, Binh, Hình 1 viên thiêm sự đưa đến
Gia Định Thành làm các công việc của 3 tào Hộ, Binh, Hình. Năm 1824,
Minh Mạng lại cho Hộ tào được bổ thêm 1 viên thiêm sự; Binh tào thì
lang trung, chủ sự mỗi chức 1 viên; Hình tào mỗi chức thiêm sự, lang
trung, chủ sự mỗi chức 1 viên2.
Năm 1829, trong chủ đích cắt giảm dần quyền lực và tái cơ cấu bộ
máy quản lý ở cả hai thành, nhân việc Bộ Lại: “tâu xin xem công việc
phiền hay giản mà định số nhân viên nhiều hay ít, cho được thích đáng”,
vua Minh Mạng ban hành hàng loạt các quy định thay đổi, cho: “định
ngạch nhân viên ở các tào, phòng, cục thuộc Bắc Thành và Gia Định...
Gia Định thì Hình tào kiêm quản Lễ phòng, Từ chương kiêm quản Lại
phòng, mà Bắc Thành thì Binh tào kiêm quản Lễ phòng, Hình tào kiêm
quản Lại phòng”3, cụ thể như sau4:

1. Quốc sử quán triều Nguyễn: Đại Nam thực lục, Sđd, t.1, tr.873.
2, 4. Xem Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, Sđd, t.2, tr.259, 260-261.
3. Quốc sử quán triều Nguyễn: Đại Nam thực lục, Sđd, t.2, tr.918.
CHƯƠNG I: HỆ THỐNG QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH... 71

Bảng 10: Số lượng nhân viên các tào, phòng, cục


ở Gia Định Thành năm 1829

Viên Chánh bát


Lang Vị nhập
Hộ, tào ngoại Chủ sự Tư vụ cửu phẩm Cộng
trung lưu
lang thư lại
Tào Hộ kiêm
phòng Công 2 2 2 7 50 64
và cục Tạo tác 1 2 2 3 7 40 54
Tào Binh
kiêm phòng 2 2 2 9 50 66
Lại 1 1 1 1 5 20 28
Tào Hình 1 2 2 2 7 40 54
kiêm phòng Lễ 1 1 4 15 21
Phòng Ấn 1 5 6
Cộng 3 10 10 11 44 215 293

Ấn phòng (phòng giữ ấn) đặt năm 1829: “làm một phòng riêng,
nhưng thuộc thành ấy chuyên giữ. Các công việc phòng ấn, không phải
lệ thuộc tào nào trông coi”1. Cơ chế điều hành, quản lý các tào cũng
được điều chỉnh: “hiện đặt chức tả hữu Thông phán mỗi chức 1 viên, tả
hữu Kinh lịch mỗi chức 1 viên, đều tạm chi chức hàm Chủ sự, Tư vụ ty
Hộ, Binh, Hình, chia giữ công việc của ba phòng Lại, Lễ, Công thành ấy.
Còn chức Thông phán, Kinh lịch không phải đặt nữa”2.
Như vậy, từ năm Minh Mạng thứ 10 (1829), bộ máy quản lý hành
chính Gia Định Thành đã có sự thay đổi đáng kể theo hướng gọn nhẹ
về cơ cấu và tinh giản về nhân sự. Tả, Hữu thừa ty ở Gia Định Thành bị
xóa bỏ, 6 phòng do các tào kiêm nhiệm quản lý. Bên cạnh đó, từ 4 tào
Hộ, Binh, Hình, Công chỉ còn lại 3 tào Hộ, Binh, Hình... Đây được xem
là bước chuẩn bị cho công cuộc cải cách hành chính của Minh Mạng ở
Nam Bộ về sau.

1, 2. Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, Sđd, t.2, tr.261.
72 VÙNG ĐẤT NAM BỘ VIII THIẾT CHẾ QUẢN LÝ XÃ HỘI

Sơ đồ 1: Cơ cấu tổ chức Gia Định Thành giai đoạn 1829 - 1832

THÀNH
(Tổng trấn - Hiệp trấn - Tham hiệp)

Tào Hộ Tào Binh Tào Hình


(Kiêm phòng Công, cục Tạo tác) (Kiêm phòng Lại) (Kiêm phòng Lễ)

Có thể thấy, cơ cấu bộ máy chính quyền ở Gia Định Thành thời kỳ
này chưa thật quy củ, ổn định và ở một số lĩnh vực được tổ chức khá
đơn giản. Bốn tào, sáu phòng thuộc hai ty là những cơ quan thừa hành
ở các lĩnh vực khác nhau, dù được cắt đặt, bố trí theo cách dễ liên hệ
nó với hình ảnh một “tiểu triều đình”, nhưng giữa tào, ty, phòng, cơ chế
phối hợp, các quy định về thanh tra, giám sát hoạt động chưa có, hoặc
nếu có thì vai trò cũng rất mờ nhạt. Bên cạnh đó, nguyên tắc quan lại
các trấn đều đặt dưới sự điều khiển trực tiếp, nhận chỉ thị từ quan tổng
trấn, không được liên hệ thẳng với các bộ ở trung ương cũng như tấu
trình vượt cấp lên Hoàng đế; ngược lại, triều đình cũng chỉ làm việc với
địa phương thông qua tổng trấn. Vì thế, sự liên hệ giữa lục bộ ở triều
đình với những cơ quan thừa hành 6 phòng tại Gia Định Thành, nhất là
với cấp trấn rất hạn chế.
Quy trình tuyển chọn, bố trí nhân sự, cách thức biệt phái quan lại trị
nhậm tại Gia Định cũng có không ít những bất cập. Ngay từ năm 1813,
khi lập ra bốn tào thuộc Gia Định Thành, tham tri hoặc thiêm sự được
điều phái từ lục bộ có thể đồng thời nắm giữ một hoặc hai tào. Nhiều
tham tri, thiêm sự được giao quản lĩnh các tào không đúng với bộ của
viên quan đó. Chẳng hạn, năm 1813, Tả Tham tri Bộ Công Nguyễn Khắc
Thiệu lãnh Công tào kiêm lý Hộ tào; Hữu Tham tri Bộ Hình Lê Bá Phẩm
lãnh Hình tào kiêm lý Binh tào; Hàn lâm Thị thư Nguyễn Công Định
CHƯƠNG I: HỆ THỐNG QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH... 73

làm Thiêm sự Bộ Hộ; Hàn lâm viện Lê Hy làm Thiêm sự Bộ Binh, sung
làm công việc hai tào Hộ, Binh1. Năm 1820, lấy Hữu Tham tri Bộ Binh
Nguyễn Xuân Thục lĩnh Công tào, Hộ tào Gia Định; Thiêm sự Bộ Hình
Trần Hữu Châu làm biện lý Hình tào, Công tào; Thiêm sự Bộ Hộ Ngô
Quang Đức biện lý Hộ tào kiêm biện Binh tào2. Năm 1821, lấy Hữu
Tham tri Bộ Lại Trần Văn Tuân lĩnh hai tào Binh, Công; Hữu Tham tri
Bộ Hộ Nguyễn Xuân Thục lĩnh Hộ tào3...
Cách thức bổ dụng, bố trí nhân sự này khiến cho quan hệ giữa các
ty, phòng, tào, cũng như giữa quan lại Gia Định Thành phức tạp hơn.
Trở lại với danh sách nhân sự bổ nhiệm trong hai năm 1820, 1821 trên
đây, sẽ thấy một loạt những quan hệ kép. Trần Hữu Châu là thuộc cấp
của Nguyễn Xuân Thục ở Công tào, đồng thời vẫn chịu sự điều hành
của viên quan đứng đầu Hình tào Gia Định Thành khi đó. Thiêm sự Bộ
Hộ Ngô Quang Đức giúp việc cho Nguyễn Xuân Thục ở Hộ tào, song
vẫn phải thực thi các nhiệm vụ tại Binh tào do Tham tri Trần Văn Tuân
phụ trách.
Trên phương diện quản lý, cách thức bố trí “liên thông” giữa các
tào tại Gia Định Thành như vậy dường như là để tiết giảm, song thực
ra lại cho thấy tính chưa quy củ, ổn định của tổ chức bộ máy, nhân
sự. Tham tri, thiêm sự cũng như nhiều quan viên lục bộ khác có thể
được điều chuyển, nhậm lĩnh bất kỳ một hoặc hai tào không thuộc bộ
viên quan này. Cũng vì thế, trong việc điều hành, xử lý công việc nha
môn của các tào, phòng, nhiều trường hợp do kiêm nhiệm, quản lĩnh
nên khó có thể tìm thấy sự phân định chức năng, quy trách nhiệm
một cách rành rọt.
Ở khía cạnh khác, dấu ấn, ảnh hưởng từ mô hình tổ chức chính
quyền quân sự là một đặc điểm dễ nhận thấy trong bộ máy quản
lý hành chính Gia Định. Suốt thời kỳ Gia Định Thành, từ tổng trấn -

1. Xem Quốc sử quán triều Nguyễn: Đại Nam thực lục, Sđd, t.1, tr.873.
2, 3. Xem Quốc sử quán triều Nguyễn: Đại Nam thực lục, Sđd, t.2, tr.60, 115.
74 VÙNG ĐẤT NAM BỘ VIII THIẾT CHẾ QUẢN LÝ XÃ HỘI

người nắm giữ quyền lực cao nhất cho đến phó tổng trấn, hiệp tổng
trấn, trấn thủ... phần nhiều xuất thân từ võ quan, từng là tướng
lĩnh trận mạc. Bốn Tổng trấn Gia Định thì Lê Văn Duyệt là Chưởng
Tả quân, Trương Tấn Bảo từng giữ chức Đề đốc Tả biên Bộ Binh,
Nguyễn Văn Nhân, Nguyễn Hoàng Đức đều là “công thần trung
hưng” triều Nguyễn.
Những quy định “hồi tị” nghiêm ngặt của triều Nguyễn dường
như cũng bị bỏ qua. Cả bốn viên tổng trấn đều quê ở Nam Bộ: Nguyễn
Văn Nhân - Tổng trấn đầu tiên (trước đó từng giữ chức Lưu trấn Gia
Định) người An Giang; Lê Văn Duyệt, Nguyễn Hoàng Đức người
Định Tường, Trương Tấn Bảo người Vĩnh Long. Đó là chưa kể đến
các hiệp trấn như Trịnh Hoài Đức người Minh hương Trấn Biên, Ngô
Nhân Tĩnh ở Phiên An1...
Chính vì nắm giữ những vị trí quan trọng trong hệ thống chính
quyền, võ quan trở thành thế lực có vai trò, ảnh hưởng rất lớn. Lê Văn
Duyệt - người giữ chức Tổng trấn Gia Định Thành hai lần là trường hợp
điển hình.
Tổng trấn Gia Định Thành là người nắm trong tay cơ chế quản lý
và thực thi quyền lực rất rộng, gồm các khâu từ cất nhắc, bổ dụng, bãi
miễn quan lại thuộc cấp, chỉ huy điều động quân đội, giải quyết các
công việc thường ngày... Thế lực, ảnh hưởng của viên tổng trấn vì thế
không quá khó để có thể vượt ra khỏi tầm kiểm soát của triều đình.
Mặt khác, quyền hạn to lớn đó cũng dễ trở thành mảnh đất thuận lợi
để dung dưỡng ý đồ gây dựng thanh thế, cát cứ quyền lực của những
quan lại trị nhậm “thênh thang một cõi” xa cách triều đình. Đơn cử

1. Điểm này khác hẳn với Bắc Thành, bốn người lần lượt nắm giữ chức Tổng trấn
Bắc Thành đều quê ở miền Nam, hoặc miền Trung: Nguyễn Văn Thành (người trấn
Phiên An), Nguyễn Hoàng Đức (quê trấn Định Tường), Lê Chấn (quê Bình Định) và
Trương Văn Minh (quê Thanh Hóa).
CHƯƠNG I: HỆ THỐNG QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH... 75

một ví dụ, năm 1821, trong một lần, Tổng trấn Lê Văn Duyệt thâu nạp
219 người tuyển chọn trong số con em quan lại ở Gia Định, bổ vào
các chức vụ hành chính địa phương1. Việc chọn lựa này rất dễ bị chi
phối bởi quan hệ cá nhân giữa người tham gia tuyển chọn với tổng
trấn. Kết quả tuyển lựa không tránh khỏi việc người nắm giữ quyền
lực địa phương chủ yếu được chọn từ những nhân vật có quan hệ mật
thiết với tổng trấn hơn là với chính quyền trung ương. Ràng buộc
giữa quan lại Gia Định với tổng trấn sẽ ngày càng rõ rệt, sâu sắc hơn
là với triều đình.
- Cấp trấn
Đứng đầu trấn là trấn thủ2 (võ quan), giúp việc có các chức hiệp
trấn, tham hiệp (văn quan)3.
Ở mỗi trấn, tương tự cấp thành, giúp việc cho trấn thủ quản lý
công việc hành chính, tư pháp, xây dựng, quân đội... bộ máy quan lại
được bố trí thành hai tào (gồm 6 phòng). Đứng đầu ty là chức thông
phán, kinh lịch, thuộc viên có câu kê, cai hợp, thư lại. Theo quy định
năm 1808: “Tả thừa, Hữu thừa ở các trấn, doanh và các ty thuộc lại
các đạo, phân định số nhân viên phẩm trật có khác nhau, hai thừa

1. Xem Mục lục châu bản triều Nguyễn, Ủy ban phiên dịch sử liệu, Viện Đại
học Huế, 1962, t.2, tr.28.
2. Năm 1808, sau khi đặt Gia Định Thành, chức quan đứng đầu trấn lúc này
không thấy chép trong chính sử, có lẽ cho đến trước năm 1810 vẫn là các chức lưu
thủ, cai bạ, ký lục. Năm Gia Long thứ 9 (1810), triều đình khi đó mới ban chỉ dụ:
“Đổi chức lưu thủ các trấn từ Quảng Ngãi về Nam làm trấn thủ” (Xem Quốc sử
quán triều Nguyễn: Đại Nam thực lục, Sđd, t.1, tr.803).
3. Năm 1827, vua Minh Mạng “chỉ dụ quan trấn tam tứ phẩm từ tỉnh Quảng
Nam trở vào Nam, chuẩn theo như quan trấn từ Nghệ An trở ra đổi làm Hiệp
trấn, Tham hiệp, không phải giữ những chức danh Cai bạ, Ký lục và Hiệp lý như
trước” (Xem Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, Sđd, t.2, tr.137-138). Riêng trấn
Hà Tiên ngay từ năm Gia Long thứ 10 (1811) đã cho đặt chức hiệp trấn. Đến
đây, cấp trấn cùng các chức vụ đứng đầu trấn ở Bắc Thành và Gia Định Thành
đã được thống nhất, chỉ còn ở miền Trung vẫn tồn tại bốn dinh dưới sự quản lý
trực tiếp của triều đình.
76 VÙNG ĐẤT NAM BỘ VIII THIẾT CHẾ QUẢN LÝ XÃ HỘI

ty chia làm 6 phòng”1. “Lại phòng coi phòng việc văn từ thư trát; Hộ
phòng giữ việc sổ sách, tiền lương, thuế lệ, thu phát, vận tải; Lễ phòng
giữ việc tế lễ, tán xướng, nghi chế, tân khách, xem thời tiết, ghi chép
mưa gió hàng ngày; Binh phòng giữ việc sổ sách, kiểm điểm binh số,
đốc thúc công việc, kén chọn cấp phát binh lính, kiểm xét bến đò cửa
ải, chạm trạm dịch; Hình phòng giữ việc kiện tụng tra khám; Công
phòng giữ việc gỗ lạt, thợ thuyền, xây dựng cầu cống, đường sá, sông
ngòi đê điều”2. Cụ thể, số nhân viên các trấn Phiên An, Biên Hoà,
Vĩnh Thanh, Định Tường gồm3:

Bảng 11: Số nhân viên một trấn ở Gia Định năm 1808

Chức vụ
Ty/phòng Câu kê Cai hợp Thủ hợp Bản ty Cộng
Ty Hữu thừa:
Phòng Công 2 15
Phòng Binh 1 2 15
Phòng Hình 2 2 25 64
Ty Tả thừa:
Phòng Hộ 2 25
Phòng Lễ 2 10
Phòng Lại 1 2 2 10 54
Cộng 2 4 12 100 118

Riêng đối với trấn Hà Tiên, năm Gia Long 13 (1814), hai ty cùng
số nhân sự mới thiết lập, gồm 46 người, cơ cấu đơn giản hơn nhiều so
với bốn trấn còn lại. Cụ thể, Ty Tả thừa câu kê, cai hợp, thủ hợp đều 1
người, 20 bản ty. Ty Hữu thừa câu kê, cai hợp, thủ hợp đều 1 người, 20
bản ty. Đạo Long Xuyên và đạo Kiên Giang từ năm 1808 ty thuộc lại đều

1. Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, Sđd, t.2, tr.160.
2. Quốc sử quán triều Nguyễn: Đại Nam thực lục, Sđd, t.1, tr.873.
3. Xem Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, Sđd, t.2, tr.161-162.
CHƯƠNG I: HỆ THỐNG QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH... 77

có 1 thủ hợp, 10 bản ty. Tuy nhiên, năm 1814, khi hai đạo này cho lệ vào
trấn Hà Tiên, được chuẩn định đặt Ty Thuộc lại cai hợp, thủ hợp đều 1
người, 20 bản ty1.
Trên phương diện quản lý giáo dục, năm Minh Mạng thứ 3 (1822),
triều đình cho “Định Tường, Hà Tiên... đều cho đặt thêm chức Đốc
học”2. Đến năm Minh Mạng thứ 4 (1823), tiếp tục đặt chức đốc học tại
các trấn Vĩnh Thanh, Định Tường.
Năm 1822, khi tiến hành tinh giản số lượng nhân sự trong bộ máy
quan lại Gia Định Thành, triều đình không chỉ giảm nhân sự ở hai thừa
ty cấp thành mà còn thay đổi số viên chức thừa ty thuộc cấp trấn:
Trấn Phiên An, Định Tường trước có 118 viên chức, nay giảm
xuống còn 108:
Ty Tả thừa: 1 câu kê.
- Phòng Lại: 2 chánh cửu phẩm thư lại (chức thủ hợp trước đây),
9 vị nhập lưu thư lại.
- Phòng Binh: 1 chánh bát phẩm thư lại (chức cai hợp trước đây),
2 chánh cửu phẩm thư lại, 13 vị nhập lưu thư lại.
- Phòng Hình: 1 chánh bát phẩm thư lại, 2 chánh cửu phẩm thư lại,
23 vị nhập lưu thư lại.
Ty Hữu thừa: 1 câu kê
- Phòng Hộ: chánh bát cửu phẩm thư lại mỗi chức 2 người, 23 vị
nhập lưu thư lại.
- Phòng Lễ: 2 chánh cửu phẩm thư lại, 8 vị nhập lưu thư lại.
- Phòng Công: 2 chánh cửu phẩm thư lại, 14 vị nhập lưu thư lại.
Trấn Vĩnh Thanh và Hà Tiên, số lượng viên chức ở hai ty vẫn giữ
như cũ. Trấn Vĩnh Thanh 118 người, trấn Hà Tiên 46 người3.

1. Xem Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, Sđd, t.2, tr.164-165.
2. Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, Sđd, t.2, tr. 144.
3. Xem Quốc sử quán triều Nguyễn: Đại Nam thực lục, Sđd, t.2, tr.228.
78 VÙNG ĐẤT NAM BỘ VIII THIẾT CHẾ QUẢN LÝ XÃ HỘI

- Cấp phủ, huyện


Năm 1808, sau khi triều đình đặt Gia Định Thành, nhiều phủ,
huyện mới được thiết lập, phần lớn trong đó do các châu đổi thành
phủ và tổng cũ nâng lên thành huyện. Đây là một lý do để ngay trong
năm 1808, triều đình chuẩn theo lời tâu của Thành thần Gia Định:
“Danh hiệu phủ huyện ở các trấn đã thay đổi, xin đặt mỗi huyện một
Tri huyện để làm việc huyện”, đồng thời cho “xem xét các địa thế để
lập các huyện nha”1.
Tuy nhiên, dường như do phạm vi quản lý và mức độ công việc
nên dưới triều Gia Long, các quy định về tổ chức, sắp xếp quan lại
thừa hành cấp huyện còn khá đơn giản, chưa ổn định và không thống
nhất. Năm 1808, dù đã chuẩn lời tâu của Thành thần xong triều đình
“thấy buổi đầu mới chia đất, công việc nên theo đơn giản, sắc rằng các
đạo Long Xuyên, Kiên Giang, Đông Khẩu, Đồng Môn, Hưng Phúc,
Trấn Giang thuộc về địa giới huyện nào thì không phải đặt huyện nha
nữa. Vẫn cho Quản đạo kiêm lý công việc của huyện”2. Năm Gia Long
thứ 9 (1810), khi đổi hai đạo Long Xuyên, Kiên Giang thành huyện,
thuộc về trấn Hà Tiên, ban đầu triều đình cũng chỉ đặt 1 quản đạo, 1
hiệp thủ3.2.
Thời Minh Mạng, cơ cấu tổ chức của chính quyền cấp phủ, huyện
dần hoàn thiện hơn. Cấp phủ lúc này được phân cấp rõ ràng hơn. Thực
tế, phủ là cấp trung gian giúp trấn quản lý các huyện trong hạt. Năm
1822, Minh Mạng cho đặt chức tri phủ các phủ ở thành Gia Định4, bắt
đầu đặt tri phủ ở 4 phủ Tân Bình, Định Viễn, Phúc Long, Kiến An thuộc
Gia Định. “Lấy Hàn lâm Biên tu là Hà Quyền, Phan Hữu Tỉnh, Vũ Đức
Khuê, Phan Bá Đạt thăng bổ. Bọn Quyền vào bệ từ. Vua cho lên điện,
dụ rằng: “Dân Gia Định thích việc nghĩa, dễ dạy bảo. Nay bắt đầu đặt

1, 2. Quốc sử quán triều Nguyễn: Đại Nam thực lục, Sđd, t.1, tr.738.
3, 4. Xem Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, Sđd, t.2, tr.197.
CHƯƠNG I: HỆ THỐNG QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH... 79

phủ trị, cho bọn ngươi thử việc hành chính, phải lo tuyên dương đức
hóa khuyên bảo thói hay”1.
Cũng trong năm này, từ Quảng Bình vào Nam, triều đình đã bỏ bớt
viên chức thừa ở các phủ. Trước dưới triều Gia Long, mỗi huyện ngoài
chức tri huyện còn đặt các viên cai huyện và ký huyện. Tri huyện phụ
trách việc giấy tờ kiện tụng, còn việc tiền thóc, binh lương thì giao tất
cho cai huyện, ký huyện. Đến đây Minh Mạng cho rằng: “Tri châu, Tri
huyện là những chức như thú lệnh đời xưa, giữ quyền cai trị hàng trăm
dặm, các việc dân chính đều là công việc chức phận. Gần đây, những
viên châu, huyện từ Quảng Bình về Nam chỉ chuyên việc xét xử kiện
tụng; còn các việc lương tiền tổ chức và nhất thiết các việc sai dịch thì lệ
vào các phân ty của bản phủ, như thế thì lệnh ra lắm cửa, không phân
biệt kẻ trên người dưới, làm cho dân không biết mà theo... xuống dụ
sai các viên châu huyện phải đôn đốc việc tiền lương, trông coi việc sai
dịch, để cho công việc nuôi dân đốc thuế thu về một nơi. Vậy các chức
Bản phủ, Cai huyện, Ký huyện, Cai thuộc, Ký thuộc... đều bãi hết”2.
Năm 1823, triều đình định lại chức trật phủ, huyện: “trước theo
lệ phủ đặt 2 viên Tri phủ, trật chánh lục phẩm, huyện đặt 2 viên Tri
huyện, chật chánh thất phẩm; đến nay đều bớt một. Phủ huyện nào
trọng yếu thì thì đặt thêm Phủ Đồng tri và Huyện thừa đều 1 người. Tri
phủ trật đổi lên tòng ngũ phẩm; Phủ Đồng tri đổi lên chánh lục phẩm;
Tri huyện trật đổi lên tòng lục phẩm, Huyện thừa chánh thất phẩm... 10
huyện thành Gia Định (Tân Long, Vĩnh Bình, Kiến Hưng, Bình Dương,
Phúc Lộc, Thuận An, Bình An, Vĩnh An, Kiến Đăng, Kiến Hòa) đều đặt
Huyện thừa”3.
Năm Minh Mạng thứ 8 (1827), tiếp tục điều chỉnh lại cơ cấu quản
lý hành chính cấp phủ, trên cơ sở “đinh” và “điền”, triều đình quy
định: ở những phủ, huyện mà việc xử lý các công việc kiện tụng, tô
thuế, binh lính ít, trong đó phủ số đinh chưa đến 20.000 suất, ruộng

1, 2, 3. Quốc sử quán triều Nguyễn: Đại Nam thực lục, Sđd, t.2, tr.250, 200,
318-319.
80 VÙNG ĐẤT NAM BỘ VIII THIẾT CHẾ QUẢN LÝ XÃ HỘI

chưa đến 40.000 mẫu chỉ đặt 1 viên tri phủ; ở những huyện số đinh
chưa đến 5.000 suất, số ruộng chưa đến 2.000 mẫu đặt 1 viên tri
huyện. Phủ nào số đinh tuy chưa đến 10.000 suất nhưng số ruộng
nhiều đến trên 70.000 mẫu, huyện nào số đinh chưa đến 3.000 suất
mà số ruộng trên 20.000 mẫu, mà nhiều việc kiện tụng, tô thuế, binh
lính thì đặt thêm 1 viên quan cùng cai trị1 (đối với cấp phủ, dưới tri
phủ thêm 1 viên đồng tri phủ; cấp huyện, bên cạnh tri huyện có thêm
huyện thừa).
Cũng trong năm này, để phân loại các phủ, huyện trong cả nước,
triều đình đã ban hành các điều khoản căn cứ sau:
I. Nơi xung yếu:
1. Các nơi gần kinh thành, trấn, đạo, việc sai phái luôn.
2. Thuyền xe tụ họp ở nơi đô hội, người người ồn ào, phức tạp, dễ
sinh cạnh tranh và trộm cắp.
3. Ven biển, ven rừng, có chỗ hiểm có thể giữ, trộm giật thường
nhiều, khi hiện khi ẩn, cướp bóc dân ở đấy.
4. Địa giới tiếp giáp trấn khác và bộ lạc các Man (dân tộc thiểu số),
nhiều khi có trộm giặc bất kỳ đến tận nơi quấy rối.
5. Địa phận ở ngay đường quan có nhiều cầu cống và giấy tờ việc
quan, hàng hóa của công vận chuyển qua, phàm chỗ đi quan yếu, phải
canh giữ nhiều.
6. Địa phận có đê công, quan hệ lợi hại của việc làm ruộng, gặp khi
lụt lội, phải canh giữ nhiều.
II. Bận rộn nhiều:
1. Đất rộng người nhiều, số binh lương gấp bội, phiền về thúc giục.
2. Kiện cáo phức tạp, giấy tờ việc án nã tróc nhiều, phiền về tra
khám.
III. Nặng nhọc:
1. Đất phần nhiều rắn xấu và chua mặn, hằng năm cấy nhiều gặt ít,
hoa lợi cũng ít.

1. Xem Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, Sđd, t.2, tr.198-199.
CHƯƠNG I: HỆ THỐNG QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH... 81

2. Đất phần nhiều khô ráo, hoặc thấp ướt, chợt có hạn lụt nhỏ, dễ
thiệt hại.
3. Dân xã phần nhiều xiêu tán, số hộ khẩu hao kém, thuế khoá, lao
dịch vì thế không đủ.
IV. Khó khăn:
1. Có nhiều bọn du thủ, du thực, không chăm lo làm ăn, mà hay
chứa chấp côn đồ, làm liều ăn cướp, để cho trộm cướp nhiều.
2. Dân phần nhiều điêu toa, gian xảo, nha lại phần nhiều dối trá,
làm đơn xúi bậy dân thường và lập ra bè đảng, giết hại lẫn nhau, đến nỗi
có nhiều án mạng.
3. Có nhiều bọn cường hào, mượn cớ chia nhau mối lợi, khéo phòng
lọt lưới, đến nỗi binh trốn, thuế thiếu, thu thuế khó đầy đủ1.
Dựa trên những tiêu chí đó, các phủ, huyện được phân làm 4 loại:
- Tối yếu khuyết (rất nhiều việc): phủ, huyện có cả 4 khoản trên.
- Yếu khuyết (nhiều việc): phủ, huyện có 3 khoản.
- Trung khuyết (việc vừa): phủ, huyện gồm 2 khoản.
- Giản khuyết (ít việc): phủ, huyện có 1 khoản hoặc không có
khoản nào.
Như vậy là ngoài nội dung “đinh”, “điền”, Minh Mạng còn có thêm
các điều kiện chính trị để phân loại. Tuy đề ra tiêu chuẩn phân loại từ
năm 1827 nhưng đến năm 1831, triều đình mới sắp đặt các phủ, huyện
trong cả nước theo những tiêu chuẩn này. Theo đó, các phủ, huyện
thuộc Gia Định Thành được phân thành các loại:
- Yếu khuyết: huyện Bình Dương thuộc phủ Tân Bình, trấn Phiên An.
- Trung khuyết: gồm phủ Tân Bình (trấn Phiên An), phủ Định Viễn
(Vĩnh Long), phủ An Biên (Hà Tiên); huyện Hà Châu, Long Xuyên,
Kiên Giang (Hà Tiên).

1. Xem Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, Sđd, t.2, tr.199-200.
82 VÙNG ĐẤT NAM BỘ VIII THIẾT CHẾ QUẢN LÝ XÃ HỘI

- Giản khuyết: phủ Kiến An (Định Tường), phủ Phúc Long (Biên
Hòa); huyện Bình An (phủ Phước Long, Biên Hòa), huyện Long Thành
(phủ Phước Tuy, Biên Hòa), huyện Vĩnh Định (phủ Ba Xuyên, An
Giang), huyện Bảo An (phủ Hoằng Trị, Vĩnh Long), huyện Tuân Nghĩa,
huyện Trà Vinh (phủ Lạc Hóa, Vĩnh Long), huyện Kiến Đăng (phủ Kiến
Tường, Định Tường).
Như vậy, ở Gia Định không có phủ, huyện nào tối yếu khuyết, các phủ
huyện yếu khuyết và trung khuyết ít; phần nhiều là giản khuyết, tức là nơi ít
việc. So với các khu vực khác trong cả nước thì các phủ, huyện ở Gia Định
Thành được đặt muộn hơn, có lẽ vì thế mà công việc ở đây chưa nhiều,
chưa nảy sinh các vấn đề phức tạp.
Riêng đối với chức vụ quản lý các công việc giáo dục, năm Minh
Mạng thứ 4 (1823), triều đình theo lời tâu của Bộ Lễ “từ Quảng Bình
trở vào Nam, hạt nào có một phủ đã đặt Đốc học thì xin thôi chức Giáo
thụ... Giáo thụ thì cấp cho 4 người thuộc lệ ở phủ, Huấn đạo thì cấp cho
3 người thuộc lệ ở huyện”1. Đến năm 1827, chuẩn định giáo thụ các phủ
bậc chánh thất phẩm, huấn đạo các huyện bậc chánh bát phẩm, bớt đi
chức phó đốc học2.
- Cấp tổng, xã
Tổng giữ vai trò là cấp quản lý trung gian giữa huyện và các thôn,
xã, ấp... Đứng đầu tổng là chức cai tổng. Năm 1822, Minh Mạng:
“Chuẩn dịch từ Quảng Bình trở vào Nam, mỗi tổng mỗi chức ở các
trấn, doanh chỉ đặt một Cai tổng, theo viên Tri châu, Tri huyện phái
làm việc quan, cứ thế thành lệ lâu dài. Nếu trấn nào chưa từng đặt
quan huyện thì Cai tổng phải theo quan ở trấn sai phái. Nếu có tổng
nào vẫn chưa có Cai tổng thực thụ thì cho quan ở doanh, trấn ấy theo

1. Quốc sử quán triều Nguyễn: Đại Nam thực lục, Sđd, t.2, tr.282.
2. Xem Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, Sđd, t.2, tr.146.
CHƯƠNG I: HỆ THỐNG QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH... 83

phép công lưu tâm sát hạt trong số Cai huyện, Ký huyện, Cai thuộc, Ký
thuộc, Phó tổng đã thực thụ chọn lấy người nào là người tốt, làm được
việc, phải biện tên tâu lên xin cho đổi sang bổ điền vào chức khuyết;
thừa ra bao nhiêu và không điền vào chỗ khuyết được là bao nhiêu,
đều bắt phải nộp trả văn bằng, bãi dịch về quê. Trong đó, doanh trấn
ấy có thể biết đích người nào chăm chỉ, làm được việc, sẽ cho làm danh
sách tư bộ để xét, rồi cho viên ấy ở lại, theo doanh, trấn ấy sai phái
các việc, đợi khi cai tổng có khuyết sẽ đem viên ấy tâu lên xin bổ vào
chức khuyết, do bộ sát hạch tâu cho thi hành. Nếu trong loại thải bớt
ở doanh trấn ấy đều là người bình thường, gặp khi Cai tổng có khuyết
thì cho quan ở doanh, trấn ấy và viên phủ, châu, huyện ấy theo đúng
lễ công mà kén chọn, đều thuộc quan ở doanh trấn ấy đề rõ cho bộ tâu
lên chuẩn cho lệ cấp bằng thí sai; khi làm việc được đủ 3 năm, quan ở
doanh trấn ấy xét rõ đều không có tình tệ gian tham, nhũng nhiễu mà
biết liêm khiết, chăm chỉ thành thạo mới được tâu lên xin cho thức
thụ. Đây là ý cần thiết về việc bỏ bớt quan viên nhàn rỗi, cho dân lành
được yên, phải theo dụ thi hành ngay và sao ra truyền đạt cho mọi
người đều biết”1.
Tại nhiều tổng, nhằm giúp việc cho cai tổng, triều đình còn cho đặt
chức phó cai tổng. Năm 1823, nhân việc triều đình thăng huyện Tân An,
trấn Vĩnh Thanh làm phủ Hoằng An; tổng Tân Minh làm huyện Tân
Minh, tổng Bảo An làm huyện Bảo An, Minh Mạng cũng chuẩn theo lời
tâu của Thành thần Gia Định: “các trấn thuộc thành phần nhiều là ngả
sông và đất rừng mà ở tổng chỉ có 1 người Cai tổng, thế khó trông coi cả
được”, cho phép “đặt thêm 1 Phó tổng ngoại ủy”2. Tuy nhiên, đây có lẽ là
những trường hợp ngoại lệ, căn cứ vào tình hình cụ thể, vì ngay trước

1. Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, Sđd, t.2, tr.254.
2. Quốc sử quán triều Nguyễn: Đại Nam thực lục, Sđd, t.2, tr.288.
84 VÙNG ĐẤT NAM BỘ VIII THIẾT CHẾ QUẢN LÝ XÃ HỘI

đó, trong một chỉ dụ năm 1822, cùng với các chức bản phủ cai huyện,
ký huyện, cai thuộc, ký thuộc thì “phó tổng đều bài hết, các tổng thuộc
mỗi tổng chỉ đặt 1 viên Cai tổng để theo châu, huyện sai phái. Làm lệ
mãi mãi”1.
Tương tự như việc phân loại phủ, huyện, căn cứ theo số lượng
“đinh”, “điền”, triều đình tiếp tục quy định: “Tổng nào số đinh từ 5.000
trở lên, mà công việc bận nhiều và tổng nào đường đi 2, 3 ngày hoặc 4,
5 ngày, thì mỗi tổng đặt một Cai tổng, một Phó tổng, còn thì chỉ đặt 1
Cai tổng”2.
Năm Minh Mạng thứ 9 (1828), triều đình quy định, cai tổng, phó
tổng đều chọn từ các lý trưởng, người nào giỏi việc, nhanh nhẹn thì
cho làm. Triều đình đặt lệ 3 năm khảo xét cai tổng, phó tổng, trong
hạn mà việc thuế khóa xong, địa phương yên ổn, dân không điêu hao
và không có mối tệ gì khác thì cho hạng ưu và theo thứ tự cất nhắc:
- Cai tổng thí sai (làm thử) cho làm thực thụ.
- Cai tổng thực thụ thăng tòng bát phẩm bá hộ, theo trấn sai phái
- Phó tổng ngoại ủy thì cho làm cai tổng thí sai.
Trước năm 1824, việc thăng bổ cai tổng thuộc về Bộ Binh, sau triều
đình cho rằng: “thực thì theo làm việc quan ở các phủ, huyện, không
liên quan đến việc quân. Từ nay trở đi dinh, trấn, các thành tâu xin bổ
Cai tổng thí sai hoặc thực thụ thì chuẩn do bộ Lại xét định”3.
Dưới tổng, đơn vị hành chính cơ sở tại Gia Định Thành gồm thôn,
xã, ấp, nậu, sở... Tuy nhiên, thôn là đơn vị hành chính cấp cơ sở chiếm
số lượng nhiều nhất, vì thế chức danh thôn trưởng cũng chiếm số lượng
lớn nhất. Thôn trưởng là người đứng đầu bộ máy của thôn phụ trách
công việc quản lý hành chính, đại diện chung cho thôn trong mối quan

1. Quốc sử quán triều Nguyễn: Đại Nam thực lục, Sđd, t.2, tr.200.
2, 3. Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, Sđd, t.2, tr. 236, 255.
CHƯƠNG I: HỆ THỐNG QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH... 85

hệ với nhà nước. Vai trò, chức năng, nhiệm vụ của thôn trưởng cũng
tương tự như chức danh xã trưởng và từ năm 1828 - theo quy định của
Vua Minh Mạng - thống nhất đổi thành lý trưởng1.
Như vậy, trong 30 năm đầu triều Nguyễn, cấp trấn ở vùng Nam Bộ
ra đời cùng với sự thành lập Gia Định Thành năm 1808 và dần được
hoàn thiện. So với các trấn ở Bắc Thành thì các trấn ở Gia Định Thành
xuất hiện muộn hơn và trước khi được đổi thành trấn, đó là các dinh.
Phải đến thời Minh Mạng, các chức vụ quản lý cấp trấn ở Gia Định
Thành mới có sự thống nhất với Bắc Thành. Cấp trấn với 2 ty Tả thừa
và Hữu thừa gồm 6 phòng tương ứng với 6 bộ. Với tổ chức này, cấp trấn
có đầy đủ bộ phận theo một hệ thống dọc gắn với tổ chức lục bộ, quy
mô nhỏ hơn thành. Cũng đến thời Minh Mạng, cơ cấu tổ chức cấp trấn
dần được hoàn thiện theo hướng gọn nhẹ hơn.

2. Thời kỳ sau cải cách hành chính của Minh Mạng (sau năm
1832)
a) Quy hoạch hành chính
Thừa hưởng những thành quả mà Gia Long nỗ lực tạo dựng, song
di sản mà Minh Mạng tiếp nhận vẫn còn rất nhiều khó khăn, thách thức.
Trong đó, khắc phục những hạn chế đang tồn tại trong hệ thống chính
quyền triều Nguyễn, nhằm thâu tóm, nhất thống quyền lực được Minh
Mạng đặc biệt chú ý. Lúc này, bài toán Bắc Thành, Gia Định Thành trở
thành một trong những ưu tiên chiến lược của vị hoàng đế trẻ tuổi.
Đối với Bắc Thành, vấn đề có phần đơn giản hơn. Nguyễn Văn
Thành - Tổng trấn Bắc Thành quyền lực nổi tiếng qua đời năm 1816,
người kế nhiệm là Lê Chất (quê Bình Định) qua đời sau khi từ chức

1. Tuy nhiên đến các năm 1836 - 1837, địa bạ ở của nhiều đơn vị hành chính
cơ sở là xã ở Nam Bộ đều thấy chữ ký và dấu của xã trưởng, chứng tỏ chức danh
xã trưởng vẫn tiếp tục được duy trì (Xem Nguyễn Quang Ngọc, “Cấp thôn ở Nam
Bộ thế kỷ XVII - XVIII - XIX (Một cái nhìn tổng quan)”, trong Một số vấn đề lịch
sử vùng đất Nam Bộ đến cuối thế kỷ XIX, Sđd, tr.201).
86 VÙNG ĐẤT NAM BỘ VIII THIẾT CHẾ QUẢN LÝ XÃ HỘI

năm 1826 ít lâu. Trương Văn Minh - viên Tổng trấn tiếp theo cũng
từ chức sau hai năm tại nhiệm. Chức vụ Tổng trấn Bắc Thành bị bỏ
trống nhiều năm. Cuối cùng, năm 1831, triều đình bổ nhiệm Lê Đại
Cương - vốn xuất thân văn quan - vào chức Phó Tổng trấn. Đây cũng
là người mà sau Minh Mạng giao nhiệm vụ giải thể, chia Bắc Thành
thành các tỉnh. Cuối năm 1831, cuộc cải cách hành chính ở Bắc Thành
cơ bản hoàn thành.
Nhưng ở Gia Định Thành, tình hình không suôn sẻ. Gia Định
là đất hưng nghiệp của triều Nguyễn. Trong quan hệ với Chân Lạp,
Xiêm La cùng các quốc gia phía nam khác, Gia Định có vị thế chiến
lược đặc biệt. Đặc điểm dân cư Gia Định lại không thuần nhất (Hoa
kiều, người Công giáo, đại địa chủ, thương nhân...) có nguồn gốc, vai
trò và thái độ chính trị khác nhau. Quá trình xác lập nền hành chính
của chúa Nguyễn cũng như triều Nguyễn sau này chưa có lịch sử lâu
dài, ổn định như các vùng miền khác của đất nước. Vì thế, việc lựa
chọn, giao phó quyền lực tổng trấn cho nhân vật nào sẽ có tác động
to lớn, trực tiếp đến cục diện và sự ổn định của vương triều. Thực tế,
những nhân vật từng nắm giữ chức vụ này, đều là kết quả của mọi cân
nhắc, tính toán kỹ càng từ phía triều đình Huế.
Những diễn biến và quan hệ quyền lực giữa triều đình Huế và Gia
Định Thành trong suốt thời gian tồn tại, một mặt, đã phản ánh tình
hình, thực lực của chính quyền triều Nguyễn khi đó. Mặt khác, là biểu
hiện của sự dung hoà, “chia sẻ” quyền lực, trong điều kiện năng lực
so với mong muốn của chính quyền trung ương còn có khoảng cách
chưa thể khắc phục một sớm một chiều. Song, nếu tình trạng này tồn
tại không có sự kiểm soát hoặc kiểm soát kém hiệu quả, nó không chỉ
còn là nguy cơ tiềm tàng, mà sẽ trực tiếp đe doạ, phương hại đến quyền
lực triều đình. Vì thế, Vua Minh Mạng đã chủ động “ra tay”, khôn khéo
nhưng cũng không kém phần quyết liệt, từ thuyên chuyển, thay thế dần
nhân sự, cắt giảm số quan lại... Đó là những chỉ dấu báo hiệu cho cuộc
thay đổi lớn lao đang bắt đầu.
CHƯƠNG I: HỆ THỐNG QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH... 87

Với triều Nguyễn, Bắc Thành và Gia Định Thành là những trở lực lớn
nhất trên con đường củng cố, tăng cường quyền lực, thiết lập nền hành
chính thống nhất. Cải cách hành chính do Minh Mạng chủ xướng chính
là để khắc phục hạn chế đó. Mục tiêu quan trọng của cải cách Minh Mạng
là xóa bỏ tình trạng phân quyền, thiếu thống nhất về cơ cấu đơn vị quản
lý hành chính, tổ chức bộ máy quan lại giữa các địa phương. Mục tiêu này
không thể hoàn thành nếu hai đầu đất nước vẫn tiếp tục duy trì hai khu vực
hành chính đặc biệt. Do đó, đối tượng trung tâm mà cải cách Minh Mạng
nhắm tới chính là tổ chức hành chính và bộ máy chính quyền địa phương.
Trong đó, việc giải quyết vấn đề Bắc Thành, Gia Định Thành giữ vai trò
quyết định cho kết quả của cuộc cải cách này.
Bắt đầu với Bắc Thành, năm 1831, sau mấy chục năm tồn tại, Bắc
Thành bị triều đình Huế giải thể, chia đặt làm các tỉnh. Tuy nhiên, phải
một năm sau, đến khi Lê Văn Duyệt qua đời, triều đình mới tiến hành
với Gia Định Thành. Tại sao vậy, có phải vì Minh Mạng còn e ngại Lê
Văn Duyệt, hay có lý do nào khác?. Nhìn lại bối cảnh lúc đó, cũng như
diễn biến suốt mấy chục năm đầu triều Nguyễn, có thể thấy:
Thứ nhất, cải cách hành chính do Minh Mạng khởi xướng được
tiến hành trên quy mô toàn quốc, đụng chạm đến nhiều vấn đề phức
tạp, từ tái cơ cấu các đơn vị hành chính đến chọn lựa, sắp đặt lại bộ máy
quan lại thừa hành. Hẳn vì thế, Minh Mạng không muốn lập tức có sự
xáo trộn lớn, đồng thời ở cả hai khu vực chiến lược, nhạy cảm về chính
trị. Do đó, như thể lặp lại quá trình thiết lập cấp Thành trước đây, năm
1831, Bắc Thành một lần nữa trở thành bước “thử nghiệm”, cũng là để
thăm dò phản ứng từ địa phương của triều đình Huế.
Thứ hai, ngoài sự chờ đợi kết quả “thử nghiệm” ở Bắc Thành, Minh
Mạng cũng muốn thăm dò chính phản ứng từ phía Gia Định Thành. Trong
cái “nghe ngóng” đó, có cả sự e dè với Lê Văn Duyệt. Chắc chắn có, song
đấy không phải là lý do duy nhất. Cuộc cải cách trên quy mô sâu rộng,
phức tạp buộc Minh Mạng - như những gì đã trình bày ở trên - phải tiến
hành qua cả một quá trình, với những bước đi thích hợp cho mỗi giai
88 VÙNG ĐẤT NAM BỘ VIII THIẾT CHẾ QUẢN LÝ XÃ HỘI

đoạn. Năm 1832, cái chết của Lê Văn Duyệt tạo ra “khoảng trống quyền
lực” tạm thời ở Nam Bộ, đó chính là thời điểm rất thuận lợi để hoàn
thành một việc mà mọi thời cơ và sự chuẩn bị đã “chín muồi”, nhằm giải
quyết dứt điểm cho vấn đề Gia Định Thành.
Với “lộ trình” như thế, một lần nữa cho thấy sự đánh giá cao vị trí,
vai trò - thể hiện qua các đối sách - của triều đình Nguyễn đối với Nam
Bộ. Trong cuộc cải cách này, Gia Định Thành là đối tượng rất quan
trọng mà triều đình nhắm tới. Nhưng Gia Định Thành lại là nơi chọn để
thực thi cuối cùng. Tuy là bước cuối cùng nhưng lại đóng vai trò chiến
lược, quyết định thành công hay thất bại của cuộc cải cách do Minh
Mạng chủ xướng.
Có thể thấy - từ tất cả những tính toán và dự liệu trên - đã lý giải
cho quyết định của triều đình Huế về quá trình và thời điểm kết thúc
của Gia Định Thành: “Việc chia hạt đặt quan ở Bắc Kỳ, hiện đã quy định
xếp đặt rồi, vậy Nam Kỳ từ Quảng Nam đến Gia Định cũng nên theo các
tỉnh từ Quảng Trị trở ra Bắc... để tỏ ra có sự thống nhất”... Năm trước
chia đặt các tỉnh Bắc Kỳ, những việc mưu ích lợi, trừ tệ hại, thực có công
hiệu sờ sờ ra rồi. Các trấn Nam Kỳ, địa thế dẫu có lớn nhỏ, xa gần khác
nhau, nhưng mọi việc như quân, dân, tài chính, thuế khoá, hình án đều
không khác gì Bắc Kỳ... Một hạt Gia Định là nơi có nhiều công việc quan
trọng, như vỗ về thuộc quốc, phòng giữ nước ngoài. Vậy ra lệnh cho
đình thần bàn tâu đợi chỉ thi hành. Đến bấy giờ đình thần họp bàn cho
rằng chia đất, đặt quan làm phên giậu che đỡ, thực là mưu kế rất hay về
việc trị dân, giữ nước”1.
Từ những “bàn tâu” và “mưu kế” đó, một năm sau khi xóa bỏ Bắc
Thành, ba tháng sau cái chết của Lê Văn Duyệt, vào tháng 10-1832, triều
đình Huế cho giải thể Gia Định Thành, bãi bỏ chức tổng trấn. Gia Định
được tổ chức lại thành 6 tỉnh2, gồm:

1. Quốc sử quán triều Nguyễn: Đại Nam thực lục, Sđd, t.3, tr.392-393.
2. “Lục tỉnh” (6 tỉnh) hay “Nam Kỳ lục tỉnh” chỉ chung toàn bộ khu vực Nam Bộ thời
Nguyễn là cách gọi xuất hiện từ sau việc thiết lập 6 tỉnh năm 1832.
CHƯƠNG I: HỆ THỐNG QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH... 89

- Tỉnh Phiên An1 (đổi từ trấn Phiên An), thống trị 2 phủ (Tân
Bình, Tân An), 5 huyện: Bình Dương, Tân Long, Phúc Lộc, Thuận An,
Tân Hoà2.
- Tỉnh Biên Hòa (đổi từ trấn Biên Hòa), thống trị phủ Phúc Long, 4
huyện Phúc Chính, Phúc An, Bình An, Long Thành.
- Tỉnh Vĩnh Long (đổi từ trấn Vĩnh Thanh), thống trị 3 phủ (Định
Viễn, Hoằng An, Lạc Hóa), gồm 6 huyện Vĩnh Bình, Vĩnh Trị, Tân
Minh, Bảo An, Tuân Nghĩa, Trà Vinh3.
- Tỉnh Định Tường (đổi từ trấn Định Tường), thống trị phủ Kiến
An, gồm 3 huyện Kiến Hưng, Kiến Đăng, Kiến Hòa.
- Tỉnh An Giang thống trị 2 phủ Tân Thành, Tuy Biên và gồm 4
huyện Vĩnh An, Vĩnh Định, Đông Xuyên, Tây Xuyên4.
- Tỉnh Hà Tiên (đổi từ trấn Hà Tiên), thống trị phủ Khai Biên, gồm
3 huyện Hà Châu, Long Xuyên, Kiên Giang5.

1. Năm 1833, sau khi đàn áp cuộc nổi dậy của Lê Văn Khôi, Minh Mạng đổi
tên tỉnh Phiên An thành tỉnh Gia Định.
2. Nguyên bốn tổng: Thịnh Hội, Thịnh Mục, Hòa Lạc, Hòa Đồng ở huyện
Kiến Hòa thuộc Định Tường được trích ra đặt làm huyện Tân Hòa, đổi thuộc
Phiên An. Ba huyện Phúc Lộc, Thuận An, Tân Hòa đặt làm phủ Tân An; hai huyện
Bình Dương, Tân Long vẫn là phủ Tân Bình.
3. Phủ Lạc Hóa nguyên thuộc thành Gia Định, đến đây đổi thuộc Vĩnh
Long. Huyện Vĩnh Bình đến đây chia làm hai huyện Vĩnh Bình và Vĩnh Trị.
4. Nguyên đây là đất Châu Đốc và lấy hai huyện Vĩnh An, Vĩnh Định ở phủ
Định Viễn thuộc Vĩnh Long đổi làm tỉnh An Giang. Phía đông sông Hậu Giang
đặt huyện Đông Xuyên, lấy những thôn ấp mới lập đặt làm một tổng, lấy hai tổng
thuộc huyện Vĩnh Định cho lệ thuộc vào. Phía tây sông Hậu Giang đặt huyện
Tây Xuyên, trích bốn tổng huyện Vĩnh An cho lệ thuộc vào. Lấy hai huyện Đông
Xuyên, Tây Xuyên đặt làm phủ Tuy Biên; hai huyện Vĩnh An, Vĩnh Định đặt làm
phủ Tân Thành.
5. Phủ Khai Biên nguyên là phủ An Biên đổi ra; huyện Hà Châu vốn là huyện
Hà Tiên đổi thành.
90 VÙNG ĐẤT NAM BỘ VIII THIẾT CHẾ QUẢN LÝ XÃ HỘI

Cho đến hết thời kỳ trị vì của vua Minh Mạng, Thiệu Trị, đầu
triều Tự Đức, trước khi người Pháp xâm lược, ngoài những điều
chỉnh thêm bớt số lượng các phủ, huyện, tổng1, quy hoạch các cấp

1. Một số điều chỉnh khác diễn ra dưới thời Minh Mạng sau năm 1832:
- Năm 1835, đổi phủ Ba Thắc làm phủ Ba Xuyên, đưa về thuộc tỉnh An Giang
(trước thuộc tỉnh Vĩnh Long) (Xem Quốc sử quán triều Nguyễn: Đại Nam thực lục,
Sđd, t.4, tr.711).
- Năm 1836, đổi đạo Quang Hóa thuộc tỉnh Gia Định làm huyện Quang Hóa
(trước kia, đây là trại của người thiểu số thuộc thành Gia Định), đồng thời trích
dân người Kinh ở huyện Thuận An và dân thiểu số trước kia lập làm hai tổng lệ
thuộc vào, lấy một phần đất và dân đạo Quang Hóa lập thêm huyện Tân Ninh, đặt
phủ Tây Ninh, kiêm chức năng một huyện, đem huyện Quang Hóa lệ thuộc vào
phủ (Xem Quốc sử quán triều Nguyễn: Đại Nam thực lục, Sđd, t.4, tr.989-990).
- Năm 1837, đặt phủ Hoằng Đạo tỉnh Vĩnh Long, “Hạt tỉnh ấy 2 huyện Tân Minh,
Bảo An thuộc phủ Hoằng An, địa thế rộng rãi, số đinh điền nhiều (huyện Tân Minh
số đinh hơn 9.390 người, điền thổ hơn 35.700 mẫu; huyện Bảo An số đinh hơn 8.870
người, điền thổ hơn 42.070 mẫu), cho chiểu theo địa thế nối liền, Tân Minh ở phía
nam sông lớn, chia làm hai huyện Tân Minh và Duy Minh, vẫn thuộc phủ Hoằng An,
kiêm lý huyện Tân Minh, thống hạt huyện Duy Minh; huyện Bảo An ở phía bắc sông
lớn, chia làm hai huyện Bảo An và Bảo Hựu, lập riêng làm phủ Hoằng Đạo, kiêm lý
huyện Bảo Hựu, thống hạt huyện Bảo An” (Xem Quốc sử quán triều Nguyễn: Đại
Nam thực lục, Sđd, t.5, tr.67); tháng 7, đặt thêm phủ Kiến Xương thuộc Định Tường:
“Tỉnh Định Tường cai quản 1 phủ (Kiến An) và 3 huyện (Kiến Hưng, Kiến Đăng, Kiến
Hòa) năm trước, quan tỉnh thấy địa thế Kiến Đăng dài rộng, số đinh điền gấp đôi, tâu
xin chuẩn cho đặt riêng phân huyện để chia ra làm việc, đến nay ở phân huyện đổi làm
huyện Kiến Phong và đặt làm phủ Kiến Tường, kiêm lý huyện Kiến Phong, thống hạt
huyện Kiến Đăng; còn phủ Kiến An vẫn kiêm lý huyện Kiến Hưng, thống hạt huyện
Kiến Hòa” (Xem Quốc sử quán triều Nguyễn: Đại Nam thực lục, Sđd, t.5, tr.128); tháng
10, chia đặt huyện Bình An tỉnh Biên Hoà làm hai huyện Bình An, Nghĩa An: “Huyện
Bình An đất rộng người nhiều (số đinh hơn 4.900 người, ruộng đất hơn 6.600 mẫu),
thế khó trông coi khắp được, chuẩn y lời xin của quan tỉnh lấy 5 tổng (Bình Chính,
Bình Điền, Bình Thổ, Cửu An, Quang Lợi) vẫn để làm huyện Bình An, 5 tổng (Bình
Thiện, An Thủy, An Bình, An Điền, An Thổ) đặt thêm làm huyện Nghĩa An (đặt thêm
1 tri huyện; huyện lỵ đặt ở thôn Linh Chiểu Tây)” (Xem Quốc sử quán triều Nguyễn:
Đại Nam thực lục, Sđd, t.5, tr.183). Cũng trong năm này đặt thêm huyện Long Khánh
CHƯƠNG I: HỆ THỐNG QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH... 91

hành chính tỉnh - phủ - huyện của lục tỉnh Nam Kỳ trên đây không
thay đổi.1

thuộc tỉnh Biên Hòa, do “tù trưởng trại Man ở hai đồn Long An, Phúc Khánh thuộc
hạt Biên Hoà, tình nguyện đặt ấp thành làng. Vua cho quan tỉnh xét địa thế nối liền
nhau, đặt làm 5 tổng 36 xã thôn hợp làm 1 huyện, gọi là huyện Long Khánh” (Xem
Quốc sử quán triều Nguyễn: Đại Nam thực lục, Sđd, t.5, tr.198), tỉnh Gia Định đổi
huyện Thuận An thành Cửu An.
- Năm 1838, tháng 9 đặt thêm huyện Phúc Bình tỉnh Biên Hòa: “Dân Man
3 đồn Bình Lợi, Định Quan, Phúc Vĩnh thuộc tỉnh hạt ấy, tình nguyện chia lập
thành tổng, làng lệ thuộc biên vào sổ hộ khẩu, quan tỉnh đem việc ấy tâu lên,
vua chuẩn cho đặt làm 1 huyện để thống trị. Lại cho dân Kinh 1 tổng ở gần
huyện Phúc Chính lệ thuộc vào gọi là huyện Phúc Bình” (Xem Quốc sử quán
triều Nguyễn: Đại Nam thực lục, Sđd, t.5, tr.378). Cũng trong thời gian này, tiếp
tục chia đặt phủ Phúc Long, tỉnh Biên Hòa làm hai phủ Phúc Long và Phúc
Tuy: “Tỉnh Biên Hoà trước có 1 thống phủ (Phúc Long), 4 huyện (Phúc Chính,
Phúc Yên, Long Thành, Bình An). Gần đây đất cát ngày mở mang, hộ khẩu thêm
nhiều, đặt thêm 3 huyện (Nghĩa An, Long Khánh, Phúc Bình), địa hạt rộng mà
công việc nhiều, 1 phủ thế không thể trông khắp, bàn chuẩn cho bộ Lại bàn
chiểu theo địa thế gần nhau, lấy 4 huyện thuộc phủ Phúc Long, kiêm lý Phúc
Chính, thống hạt Bình An, Nghĩa An, Phúc Bình, còn ba huyện đặt làm phủ
Phúc Tuy, kiêm lý Phúc An, thống hạt Long Thành, Long Khánh” (Xem Quốc sử
quán triều Nguyễn: Đại Nam thực lục, Sđd, t.5, tr.386).
- Năm 1839, “đổi đặt các phủ huyện ở An Giang, Hà Tiên”. Phủ Tuy Biên
trích lấy huyện Ngọc Luật (huyện thổ cũ) hợp với huyện Tây Xuyên làm một
huyện. Cho huyện Ô Môn (huyện thổ cũ) đổi tên là Phong Phú thuộc vào phủ ấy.
Phủ Tân Thành trích lấy ba tổng của huyện Vĩnh An đặt làm huyện An Xuyên.
Lại lấy huyện Đông Xuyên (trước thuộc phủ Tuy Biên) lệ thuộc vào phủ ấy. Phủ
Ba Xuyên đặt thêm huyện Phong Nhiêu (đem 45 thôn ở phủ Ba Xuyên, 4 thôn ở
huyện Vĩnh Định lập thành 4 tổng để đặt thêm), lại đặt huyện Vĩnh Định (gồm
40 thôn ở phủ Ba Xuyên, 5 thôn ở huyện Vĩnh Định cũ lập thành), đặt thêm
huyện Phong Thạch (gồm 26 thôn ở phủ Ba Xuyên, 4 thôn ở huyện Vĩnh Định).
Tất cả các huyện đều cho thuộc phủ Ba Xuyên (Xem Quốc sử quán triều Nguyễn:
Đại Nam thực lục, Sđd, t.5, tr.617).
- Năm 1840, tỉnh Gia Định đặt thêm huyện Bình Long (trích dân 3 huyện
Bình Dương, Tân Long, Cửu An) thuộc về phủ Tân Bình.
92 VÙNG ĐẤT NAM BỘ VIII THIẾT CHẾ QUẢN LÝ XÃ HỘI

Những năm cuối triều Minh Mạng, số lượng, tên gọi các phủ, huyện
thuộc Nam Kỳ 6 tỉnh gồm:

Bảng 12: Số lượng, tên gọi các phủ, huyện ở Nam Kỳ lục tỉnh
cuối triều Minh Mạng

Tỉnh Phủ, huyện


Phủ Tân Bình: 4 huyện Bình Dương, Tân Long, Bình Long,

Gia Định Cửu An


Phủ Tân An: 2 huyện Cửu An, Phúc Lộc
(4 phủ, 10 huyện)
Phủ Tây Ninh: 2 huyện Tân Minh, Quang Hóa
Phủ Thịnh Hòa: 2 huyện Tân Hòa, Tân Định
Phủ Phúc Long: 4 huyện Phúc Chính, Bình An, Phúc An,

Biên Hòa Nghĩa Bình

(2 phủ, 7 huyện) Phủ Phúc Tuy: 3 huyện Phúc An, Long Thành, Long

Chánh
Phủ Đĩnh Viễn: 2 huyện Vĩnh Bình, Vĩnh Trị
Vĩnh Long Phủ Hoằng An: 2 huyện Tân Minh, Duy Minh

(4 phủ, 8 huyện) Phủ Hoằng Trị: 2 huyện Bảo Hựu, Bảo Am


Phủ Lạc Hoá: 2 huyện Tân Nghĩa, Trà Vinh
Định Tường Phủ Kiến An: 2 huyện Kiến Hưng, Kiến Hòa

(2 phủ, 4 huyện) Phủ Kiến Tường: 2 huyện Kiến Phong, Kiến Đăng
Phủ Tuy Biên: 2 huyện Tây Xuyên, Phong Phú
Phủ Tân Thành: 3 huyện Vĩnh An, Đông Xuyên, An Xuyên
An Giang
Phủ Ba Xuyên: 3 huyện Phong Nhiêu, Phong Thạnh, Vĩnh
(4 phủ, 10 huyện)
Định
Phủ Tĩnh Biên: 2 huyện Hà Âm, Hà Dương
Hà Tiên

(1 phủ, 3 huyện) Phủ An Biên: 3 huyện Hà Châu, Long Xuyên, Kiến Giang

So với thời điểm thiết lập 6 tỉnh năm 1832, số lượng phủ, huyện ở
nhiều tỉnh tiếp tục thay đổi. Đến thời Thiệu Trị và những năm đầu thời
Tự Đức, tuy không có những thay đổi lớn nhưng cơ cấu hành chính 6
CHƯƠNG I: HỆ THỐNG QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH... 93

tỉnh Nam Kỳ vẫn tiếp tục có những điều chỉnh1. Tính từ sau năm 1832,
8 năm còn lại dưới triều Minh Mạng có 13 quyết định liên quan đến việc
điều chỉnh địa giới hành chính ở từ cấp tổng đến cấp tỉnh Nam Kỳ, cụ
thể: 2 lần đổi tên (tỉnh Phiên An thành tỉnh Gia Định; huyện Thuận An
thuộc tỉnh Gia Định thành huyện Cửu An), 4 lần đặt phủ, huyện mới
(phủ Hoằng Đạo tỉnh Vĩnh Long, phủ Kiến Xương tỉnh Định Tường,
huyện Long Khánh, Phúc Bình tỉnh Biên Hòa), còn lại là chia đặt, phân
định lại hệ thống phủ, huyện. 7 năm triều Thiệu Trị và 11 năm đầu triều
Tự Đức có 5 quyết định liên quan đến địa giới hành chính (gồm 1 quyết
định liên quan đến lập phủ huyện, 2 quyết định dồn phủ, huyện, còn lại
là chia tách).
Dưới tỉnh, cơ cấu đơn vị hành chính các cấp vẫn gồm phủ, huyện,
tổng và thôn/xã/ấp... Ngoài việc năm 1828, Minh Mạng đổi chức xã
trưởng thành lý trưởng, quy định mỗi xã đặt một lý trưởng thay vì có
thể một hoặc nhiều xã trưởng như trước đây. Còn lại, cơ cấu đơn vị
hành chính, tổ chức bộ máy quản lý hành chính dưới cấp tỉnh ở Nam
Bộ cơ bản không thay đổi so với trước năm 1832. Sự biến động sau năm
1832 chủ yếu chỉ diễn ra ở quy mô, số lượng các đơn vị do quá trình
diên cách.

1. Năm 1841, “đặt thêm một phủ Hòa Thịnh và hai huyện Tân Thịnh và Bình
Long ở tỉnh Gia Định” (Xem Quốc sử quán triều Nguyễn: Đại Nam thực lục, Sđd,
t.6, tr.68), tuy nhiên, đến năm Tự Đức thứ 5 lại bỏ phủ Hoà Thịnh.
Năm 1844, “đổi huyện Hà Âm tỉnh Hà Tiên cho lệ thuộc phủ Tĩnh Biên tỉnh
An Giang” (trước đó huyện Hà Dương cũng đã cho lệ thuộc vào tỉnh An Giang)
(Xem Quốc sử quán triều Nguyễn: Đại Nam thực lục, Sđd, t.6, tr.634).
Năm 1846, theo lời xin của tuần phủ Hà Thúc Lương, chia tổng Bình Thổ,
huyện Bình An, tỉnh Biên Hòa làm hai huyện Bình Lâm và Bình Thổ (Xem Đại
Nam thực lục, Sđd, t.6, tr.902).
Năm 1850, “dồn huyện Phong Thịnh, Vĩnh Định (hai huyện ở tỉnh An Giang)
đến phủ Ba Xuyên” (Đại Nam thực lục, Sđd, t.7, tr.180). Cũng năm này, gộp vào và
rút bớt các phủ, huyện thuộc tỉnh Vĩnh Long; bỏ bớt phủ Hoằng An, giao huyện
Duy Minh, Tân Minh thuộc phủ này cho phủ Hoằng Trị quản lý (Xem Quốc sử
quán triều Nguyễn: Đại Nam thực lục, Sđd, t.7, tr.230).
94 VÙNG ĐẤT NAM BỘ VIII THIẾT CHẾ QUẢN LÝ XÃ HỘI

Năm 1836, theo thống kê, toàn bộ 6 tỉnh Nam Kỳ có 1.934 đơn vị
hành chính cơ sở mang các tên như thôn, xã, phường, ấp, thuyền, trại,
hộ; trong đó riêng thôn chiếm 1.741 đơn vị (= 90,02%); xã chỉ có 121
đơn vị (= 7,40%), có tỉnh (như Định Tường), hoàn toàn chỉ có thôn:
(219 thôn) mà không có một xã nào; có tỉnh (như An Giang) có 146
đơn vị thì thôn chiếm tới 145 và chỉ còn lại 1 xã1. Như vậy cấp thôn
(chứ không phải cấp xã) lại là đơn vị hành chính chủ yếu và bao trùm
ở Nam Bộ.
Về quy mô, thôn ở Nam Bộ thời Nguyễn được quy định: từ 50 đến
100 dân đinh và tương ứng với số ruộng đất khai khẩn được từ 50 đến
100 mẫu ruộng. Số có quy mô nhỏ hơn 50 đinh và 50 mẫu ruộng thì chỉ
được lập ấp, trái lại số có quy mô trên 200 đinh và trên 200 mẫu ruộng
thì buộc phải lập xã. Tuy nhiên, trong thực tế có khi với số dân/ruộng
rất ít, hay số dân/ruộng rất nhiều so với quy định về quy mô thôn mà
người ta vẫn nhất loạt đề nghị lập thôn và các đề nghị này cũng được
nhà nước chấp nhận. Lý giải cho việc này, có ý kiến cho rằng: “mô hình
“thôn” là mô hình dễ quản lý nhất vì đơn giản, vẫn giữ được đặc điểm
“tự trị, tự quản” của làng Việt Nam”2.

b) Tổ chức bộ máy quản lý

- Cấp tỉnh
Cùng với việc thiết lập các đơn vị hành chính mới, tổ chức bộ
máy quản lý ở Nam Kỳ, nhất là cấp tỉnh cũng có nhiều thay đổi. Trong
đạo dụ năm 1832, sau khi đánh giá kết quả cũng như kinh nghiệm
của việc bãi bỏ Bắc Thành đối với Gia Định Thành, vua Minh Mạng

1. Xem Nguyễn Đình Đầu: Tổng kết nghiên cứu địa bạ Nam Kỳ lục tỉnh, Sđd, tr.83.
2. Trương Ngọc Tường: “Làng xã ở tỉnh Tiền Giang trong thế kỷ XIX”, trong
Nam Bộ và Nam Trung Bộ - Những vấn đề lịch sử thế kỷ XVII - XVIII, Trường Đại
học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh, 2002, tr.82.
CHƯƠNG I: HỆ THỐNG QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH... 95

cho rằng: “Nay (Gia Định Thành - TG) chia đặt tỉnh hạt, thiết lập
quan chức, có hai ty Bố chính, Án sát, chia giữ các việc tài chính, thuế
khoá và hình luật; có lãnh binh quan cai quản, quan võ và binh lính
tất cả đều thuộc quyền tổng đốc, tuần phủ. Như vậy thì chức vụ đều
có chuyên trách, mọi việc mới mong sắp xếp được hẳn hoi. Còn Gia
Định Thành Tổng trấn và các chức trấn thủ, hiệp trấn, tham hiệp ở
các trấn đều nên bỏ đi”1.
Theo đó, tại Nam Kỳ, triều đình bãi bỏ các chức tổng trấn, trấn thủ,
đặt tổng đốc, tuần phủ đứng đầu tỉnh. Theo cơ cấu hành chính mới,
tổng đốc vừa là chức quan cao nhất tại địa phương, vừa do triều đình
phái cử về cai quản. Chức tuần phủ theo quy định đứng đầu một tỉnh,
viên quan này chịu trách nhiệm trong tỉnh và chịu sự quản lý của viên
tổng đốc kiêm hạt. Tổng đốc thống hạt hai tỉnh2, trong đó một tỉnh
chuyên hạt (chuyên chủ công việc trong hạt của mình), một tỉnh kiêm
hạt (kiêm lý công việc ngoài hạt mình thống trị).
Các tỉnh ghép tại Nam Kỳ được triều đình đặt chức tổng đốc có:
An - Biên (Phiên An - Biên Hòa); Long - Tường (Vĩnh Long - Định
Tường); An - Hà (An Giang - Hà Tiên). Thông thường tổng đốc đóng
trị sở tại tỉnh nào thì kiêm luôn tuần phủ tỉnh đó: “các tỉnh An - Biên,
Long - Tường, An - Hà, Tổng đốc kiêm làm việc của Tuần phủ”3.
Dưới quyền tổng đốc, tuần phủ có các chức bố chính (đứng đầu
phiên ty); án sát (đứng đầu niết ty). Tại tỉnh lớn, bố chính là chức quan
trông coi việc thuế khoá, ruộng đất; ở tỉnh nhỏ, tuần phủ kiêm quản
công việc này.
Thuộc quan ở hai ty Bố Chính, Án sát có thông phán, kinh lịch, thư
lại (số bát, cửu phẩm thư lại, vị nhập lưu tùy tỉnh to hay nhỏ mà nhiều,

1, 3. Quốc sử quán triều Nguyễn: Đại Nam thực lục, Sđd, t.3, tr.393, 394.
2. Có hai trường hợp ngoại lệ, đó là trường hợp tổng đốc cai quản 3 tỉnh (Sơn -
Hưng - Tuyên, tức Sơn Tây, Hưng Hóa, Tuyên Quang) và trường hợp tổng đốc chỉ
đứng đầu 1 tỉnh (Thanh Hóa - “quý hương” của triều Nguyễn).
96 VÙNG ĐẤT NAM BỘ VIII THIẾT CHẾ QUẢN LÝ XÃ HỘI

ít khác nhau). Công việc về quân sự do đề đốc, phó đề đốc, lãnh binh
(tỉnh lớn), lãnh binh, phó lãnh binh (tỉnh nhỏ) phụ trách, dưới quyền
có các chưởng cơ, vệ úy phụ tá.
Các tỉnh Biên Hoà, Định Tường, Hà Tiên, mỗi tỉnh đặt một viên
lãnh binh, dùng quan hàm tòng tam phẩm. Còn các tỉnh Phiên An,
Vĩnh Long, An Giang, mỗi tỉnh đặt một quan lãnh binh, dùng quan
chánh tam phẩm và một phó lãnh binh hàm tòng tam phẩm.
Để quản lý các công việc giáo dục, triều đình còn cho đặt ở các
tỉnh Phiên An (năm 1834 đổi là Gia Định), Biên Hoà, Vĩnh Long, Định
Tường, mỗi tỉnh một viên đốc học. Riêng Hà Tiên do ít học trò nên
chức quan được đặt khá muộn, và có thời gian gián đoạn. Năm Thiệu
Trị thứ 7 (1847), tỉnh Hà Tiên vì “sĩ số còn ít... vẫn giữ nguyên như
trước, không phải đặt thêm Đốc học nữa. sau này sĩ số có thêm nhiều
lại đặt Đốc học”1.
Theo Minh Mệnh chính yếu, nhiệm vụ của các quan đầu tỉnh được
quy định gồm:
- Tổng đốc giữ việc cai trị quân dân, trông coi cả quan văn, quan võ,
khảo hạch các quan lại và sửa sang chốn biên cương.
- Tuần phủ giữ việc tuyên bố ơn đức nhà vua, phủ dụ yên dân, trông
coi hành chính, giáo dục, chấn hưng việc có lợi và trừ bỏ tục lệ.
- Bố chính coi việc thuế, tiền của trong toàn hạt, triều đình có ban
ơn huệ hoặc lệnh cấm thì tuyên đạt cho các chức việc biết.
- Án sát giữ việc hình phạt, phát dương kỷ cương, phong tục, xem
xét việc quan lại trị dân, kiêm lý việc bưu chính truyền đi trong hạt.
- Lãnh binh cai quản binh lính, đều theo quan tổng đốc mà thi
hành2.
Có thể hình dung cơ cấu tổ chức bộ máy chính quyền cấp tỉnh ở
Nam Bộ từ năm 1832 như sau:

1. Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, Sđd, t.2, tr.151.
2. Xem Minh Mệnh chính yếu, Nxb. Thuận Hóa, Huế, 1994, t.1, tr.205-206.
CHƯƠNG I: HỆ THỐNG QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH... 97

Sơ đồ 2: Cơ cấu chính quyền cấp tỉnh ở Nam Bộ từ năm 1832

Tổng đốc, tuần phủ, thự lý tuần phủ công việc như nhau. Tâu trình
công việc trong hạt, việc lớn thì tổng đốc, tuần phủ cùng ký vào một
bản; nếu ý kiến khác nhau thì cho làm tờ tâu riêng. Nếu là việc biên
cương hay quân cơ khẩn yếu thì tuần phủ điều khiển rồi tâu thẳng lên,
báo lên tổng đốc biết.
Hai ty Bố chính, Án sát có công việc tâu, tư đều phải báo lên tổng
đốc hay tuần phủ để phân biệt liệu làm. Duy việc quan hệ đến lợi hại đời
sống của nhân dân mà ý kiến khác nhau hoặc bị quan trên (tổng đốc,
tuần phủ) chèn ép thì cho đệ sớ niêm phong tâu thẳng về triều.
Về quân đội, các hạng biền binh (quân địa phương), cơ thủy
binh, tượng cơ theo mệnh lệnh của quan địa phương và lãnh binh.
Bộ binh (quân chính quy) vẫn lệ thuộc chưởng, lãnh ở kinh, nhưng
cùng với biền binh, thủy binh, tượng binh đặt dưới quyền tổng đốc,
tuần phủ sở tại điều khiển, liều lượng phân phái đi đóng giữ các nơi
hiểm yếu.
Có thể thấy, cơ cấu hành chính cấp tỉnh ở Nam Bộ từ sau cải cách
Minh Mạng tuân thủ tối đa theo mô hình thống nhất, áp dụng trên quy
mô cả nước. Tuy nhiên, bộ máy quan lại ở Nam Bộ, do tình hình, đặc
điểm cụ thể, vẫn có những điều chỉnh nhất định, ngay giữa các tỉnh
98 VÙNG ĐẤT NAM BỘ VIII THIẾT CHẾ QUẢN LÝ XÃ HỘI

cũng không hoàn toàn như nhau. Khác biệt về số nhân sự hai ty của 6
tỉnh Nam Kỳ thống kê dưới đây là một ví dụ1.

Bảng 13: Số lượng quan lại thuộc hai ty Bố chính


và Án sát ở Nam Kỳ sau năm 1832

Thư lại
Thông Kinh Chánh bát Chánh Vị nhập
Tỉnh Ty Cộng
phán lịch phẩm cửu phẩm lưu
Phiên An Bố chính 1 1 3 6 60
Án sát 1 1 2 4 40 119
Định Tường Bố chính 1 1 2 5 40
Án sát 1 1 1 3 20 75
Biên Hoà Bố chính 1 1 2 5 40
Án sát 1 1 1 3 20 75
Vĩnh Long Bố chính 1 1 3 6 60
Án sát 1 1 2 4 40 119
An Giang Bố chính 1 1 2 5 40
Án sát 1 1 1 3 20 75
Hà Tiên Bố chính 1 1 1 2 20
Án sát 1 1 1 1 10 39

Tổng cộng 12 12 21 47 410 502

Một số trường hợp, khi cắt đặt, bổ nhiệm, sự điều chỉnh ở những
mức độ khác nhau cũng được áp dụng. Chẳng hạn, theo cơ cấu do
triều đình quy định, bố chính thường do tuần phủ kiêm chức. Sách Hội
điển cho biết các tỉnh Nam Bộ: “phàm lệ đặt Tuần phủ Biên Hoà, Định
Tường, Hà Tiên thì ấn triện của Bố chính do viên Tuần phủ kiêm lĩnh,
nếu chỉ đặt Bố chính thì ấn triện Tuần phủ do Bố chính, Án sát hội đồng
hộ lý”2. Đại Nam thực lục chép Tuần phủ 3 tỉnh Biên Hòa, Định Tường,

1. Xem Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, Sđd, t.2, tr.171-172.
2. Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, Sđd, t.2, tr.137.
CHƯƠNG I: HỆ THỐNG QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH... 99

Hà Tiên: “dùng chức Bố chính giữ quyền ấn và làm việc Tuần phủ”1.
Như vậy, có thể thấy, do tổng đốc kiêm nhiếp 3 tỉnh nên 6 tỉnh Nam Kỳ
chỉ có 3 tỉnh đặt tuần phủ là Biên Hòa, Định Tường, Hà Tiên. Nhưng 3
tỉnh trên, ít nhất trong giai đoạn đầu, khi mới lập tỉnh đều chưa có chức
tuần phủ. Những tỉnh không có tuần phủ này, quyền lực được giao cho
viên bố chính. Ngay cả tỉnh đặt trị sở tổng đốc, bố chính vẫn là người
đóng vai trò khá quan trọng. Trường hợp năm 1832 tại tỉnh Phiên An
là một ví dụ, khi bàn bạc với triều đình về cách thức xử trí Lê Văn Khôi,
đề nghị “tâu xin bắt Khôi (tức Lê Văn Khôi) nghiêm xét” do cả Tổng đốc
An - Biên Nguyễn Văn Quế và Bố chính Bạch Xuân Nguyên cùng tâu
lên triều đình2.
Cơ chế quan lại “kiêm lĩnh”, trao quyền cấp trên cho cấp dưới thừa
hành - vì thế, có thể dẫn đến hiện tượng cậy quyền, lạm quyền. Cho
nên, dù đã có những quy định về quyền hạn, chức trách của từng viên
quan đầu tỉnh. Song, để minh định rõ ràng hơn chức năng, phận sự,
ngăn chặn việc lạm quyền, trong một đạo dụ năm 1834, Minh Mạng đã
lưu ý: “Tổng đốc, Tuần phủ là quan to đầu hạt, không việc gì là không
thống nhiếp thì Bố chính, Án sát và Lãnh binh trở xuống phải bảo nhau
mà nghe theo. Nếu tỉnh nào chỉ có các viên Bố chính, Án sát, Lãnh
binh thì chức quan không cách xa nhau lắm, kiến thức cũng không ai
hơn ai kém, phải nên tuỳ việc châm chước mà làm mới mong cho xong
xuôi được. Chuẩn định trừ các tỉnh Gia Định, Vĩnh Long, An Giang...
nguyên có Đốc, Phủ đại viên kiêm quản, không phải bàn lại. Còn như
các tỉnh Biên Hoà, Định Tường, Hà Tiên... như chi phát tiền lương, tra
biện việc án, chọn cử những văn chức phủ huyện, cùng các việc thừa
biện tầm thường nên do Bố, Án đều căn cứ chức trách mà làm, viên

1. Quốc sử quán triều Nguyễn: Đại Nam thực lục, Sđd, t.3, tr.395.
2. Xem Quốc sử quán triều Nguyễn: Đại Nam liệt truyện, Nxb. Thuận Hóa,
Huế, t.4, tr.475-476.
100 VÙNG ĐẤT NAM BỘ VIII THIẾT CHẾ QUẢN LÝ XÃ HỘI

Lãnh binh không phải dự đến, để chuyên trách việc thành. Còn như
chọn cử vũ chức, sai phái biền binh, phân phái đồn trát, cấm phòng mặt
đất, phàm việc có quan hệ việc quân, chuẩn cho Lãnh binh hoặc Phó
lãnh binh quan tỉnh ấy hội đồng với Bố, Án cùng bàn; một lòng làm
việc, có nêu tấu thì chuẩn đến nhất luật liên danh, để cho phối hợp trí
tuệ mà làm việc, văn vũ cùng giúp lẫn nhau”1.
- Cấp phủ, huyện
Dưới tỉnh, phủ tiếp tục được duy trì, với chức năng là cấp hành
chính trung gian thống hạt 1 huyện và kiêm quản 1-2 huyện tùy yêu
cầu cụ thể, đứng đầu đơn vị hành chính cấp phủ, huyện vẫn là tri phủ,
tri huyện.
Việc phân loại phủ, huyện thành bốn loại (tối yếu khuyết, yếu
khuyết, trung khuyết, giản khuyết) áp dụng trên quy mô cả nước từ năm
1827 tiếp tục là cơ sở để triều đình quyết định việc bổ nhiệm số lượng
quan lại cai trị các phủ, huyện cụ thể. Theo đó, năm 1832, Vua Minh
Mạng ban hành nghị chuẩn2:
1. Phủ việc vừa (trung khuyết), thuộc hạt có 2 huyện: đặt 1 viên tri
phủ, huyện thuộc hạt đặt 1 viên tri huyện33.
2. Phủ rất nhiều việc (tối yếu khuyết), nhiều việc (yếu khuyết), có
3 huyện thuộc hạt: đặt 1 viên tri phủ, huyện sở tại kiêm làm việc đặt 1
huyện thừa, huyện thuộc hạt đặt 1 tri huyện4.
3. Phủ rất nhiều việc, hoặc có 4 huyện thuộc hạt: đặt 1 tri phủ, 1 viên
đồng tri phủ, các huyện thuộc hạt vẫn đặt mỗi huyện 1 tri huyện5.
4. Phủ rất nhiều việc mà có 5 huyện thuộc hạt: đặt 1 tri phủ, 1 viên
đồng tri phủ. Huyện do tri phủ kiêm quản đặt 1 huyện thừa, huyện do
đồng tri phủ không đặt huyện thừa, các huyện thuộc hạt mỗi huyện vẫn
đặt 1 tri huyện6.

1. Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, Sđd, t.2, tr.140.
2. Xem Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, Sđd, t.2, tr.204-206.
3, 4, 5, 6. Các phủ, huyện ở 6 tỉnh Nam Kỳ không có địa phương nào thuộc loại này.
CHƯƠNG I: HỆ THỐNG QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH... 101

5. Phủ rất nhiều việc, nhiều việc mà có 6,7 huyện thuộc hạt: đặt 1 tri
phủ, 1 viên đồng tri phủ, các huyện kiêm quản đặt huyện thừa, huyện
thuộc hạt đặt tri huyện.
6. Phủ công việc vừa và ít việc (giản khuyết): đặt 1 tri phủ kiêm quản
1 huyện, các huyện thuộc hạt không đặt huyện thừa, vẫn đặt mỗi huyện
1 tri huyện1.
Như vậy, theo cách sắp xếp thống nhất trên quy mô cả nước này, các
phủ, huyện ở Nam Bộ thuộc loại ít việc (giản khuyết), vì thế, về mặt số
lượng quan lại trong bộ máy quản lý cấp phủ, huyện cũng ít hơn so với
khu vực khác của cả nước.
Tuy nhiên, dù phần lớn các phủ, huyện được xếp vào loại ít việc, thì
số lượng quan lại đứng đầu tại các phủ, huyện này dường như vẫn cần
tiếp tục giảm bớt theo hướng kiêm quản, thống hạt. Chẳng hạn:
- Các huyện do tri phủ hay đồng tri phủ kiêm quản, gồm: Vĩnh An
(phủ Tân Thành, An Giang), Tây Xuyên (phủ Tuy Biên, An Giang) trước
đặt tri huyện, huyện thừa thì đều bỏ bớt.
- Các huyện nguyên là thuộc hạt và các huyện do phủ việc vừa hay
ít kiêm quản: các huyện Tân Long, Bình Dương (phủ Tân Bình, Gia
Định), Tân Minh (phủ Tây Ninh, Gia Định), Vĩnh Bình (phủ Phước
Tuy, Biên Hòa), Kiến Hưng (phủ Kiến An, Định Tường), Bình An

1. Các phủ, huyện ở 6 tỉnh Nam Kỳ thuộc loại này có: phủ Tân Bình (Phiên An)
kiêm quản huyện Tân Long, huyện Bình Dương thuộc hạt. Phủ Phước Long (Biên
Hòa) kiêm quản huyện Phước Chính, 3 huyện Bình An, Phước An, Long Thành thuộc
cả hạt ấy. Phủ Định Viễn (Vĩnh Long) kiêm quản huyện Vĩnh Bình, huyện Vĩnh Trị
thuộc cả hạt ấy. Phủ Hoằng An (Vĩnh Long) kiêm quản huyện Tân Minh, huyện Bảo
An thuộc cả hạt ấy. Phủ Lạc Hoá (Vĩnh Long) kiêm quản huyện Tuân Nghĩa, huyện
Trà Vinh thuộc cả hạt ấy. Phủ Kiến An (Định Tường) kiêm cai trị huyện Kiến Hưng,
2 huyện Kiến Đăng, Kiến Hòa thuộc cả hạt ấy. Phủ Tân An (Phiên An) kiêm quản
huyện Thuận An, 2 huyện Phúc Lộc, Tân Hoà thuộc cả hạt ấy. Phủ Tân Thành (An
Giang) kiêm quản huyện Vĩnh An, huyện Vĩnh Định thuộc cả hạt ấy. Phủ Tuy Biên
(An Giang) kiêm quản huyện Tây Xuyên, huyện Đông Xuyên thuộc cả hạt ấy.
102 VÙNG ĐẤT NAM BỘ VIII THIẾT CHẾ QUẢN LÝ XÃ HỘI

(phủ Phước Long, Biên Hòa), Bảo An (phủ Hoằng Trị, Vĩnh Long),
Kiến Đăng (phủ Kiến Tường, Định Tường), Kiến Hòa (phủ Kiến An,
Định Tường), Vĩnh Định (phủ Ba Xuyên, An Giang), Long Xuyên,
Kiên Giang (phủ An Biên, Hà Tiên) trước đặt huyện, nay đều cho bỏ
bớt. Các phủ chưa đặt quan cai trị thì các huyện thuộc hạt đặt mỗi
huyện 1 viên tri huyện.
Ở phủ nha, chức lại mục đều 1 viên; còn chức thông lại thì các phủ
Tân Bình, Định Viễn, Kiến Tường, Tân Thành, Ba Xuyên mỗi phủ 6
viên; các phủ Tân An, Hòa Thịnh, Phước Long, Phước Tuy, Hoằng Trị,
Lạc Hóa, Kiến An, Tĩnh Biên, An Biên thì mỗi phủ 5 viên thông lại.
Ở huyện nha, chức lại mục đều 1 viên; thông lại thì ở các huyện
Bình Long, Tân Long, Phúc Lộc, Tân Thịnh, Quang Hóa, Bình An, Long
Thành, Vĩnh Trị, Trà Vinh, Kiến Hòa, Kiến Đăng, Đông Xuyên, An
Xuyên, Phong Phú mỗi huyện 5 viên.
Năm Tự Đức 3 (1850), theo lời tâu, triều đình chuẩn cho 2 huyện
Phong Thịnh, Vĩnh Định (phủ Ba Xuyên, An Giang) giao cả cho các
viên phủ kiêm quản, còn Lại mục, Thông lại đều cho bỏ bớt.
Năm 1851, tiếp tục cho 3 huyện Long Khánh, Phúc Bình, Nghĩa
An thuộc tỉnh Biên Hòa; 2 huyện Bảo An, Duy Minh và phủ Hoằng An
thuộc tỉnh Vĩnh Long, về các viên phủ huyện nên giao cho kiêm làm
việc và quyền nhiếp ở các huyện; lại mục và thông lại được bỏ bớt1.
Đối với việc quản lý giáo dục, chức giáo thụ ở phủ và huấn đạo ở
huyện tiếp tục được duy trì. Ngay trong năm 1832, khi thiết lập các
tỉnh ở Nam Kỳ, triều đình đã nghị chuẩn cho các phủ Tân An (trấn Phiên
An), Tân Thành, Tuy Biên (An Giang); các huyện Tân Hòa (Phiên An),
Vĩnh Trị (Vĩnh Long), Đông Xuyên, Tây Xuyên (An Giang) mới đặt ra
(cùng các hạt từ trấn Quảng Nam trở vào Nam), phủ huyện nào chưa
đặt giáo chức thì mỗi phủ đặt 1 giáo thụ, mỗi huyện đặt 1 huấn đạo.
Năm 1835, lại tấu chuẩn đặt thêm ở các huyện Tân Long, Thuận An,

1. Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, Sđd, t.2, tr.236, 147-148, .
CHƯƠNG I: HỆ THỐNG QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH... 103

Phúc Lộc, Phúc An, Bảo An, Vĩnh An, Vĩnh Định ở tỉnh Gia Định mỗi
huyện 1 huấn đạo1.
Riêng đối với Hà Tiên, tương tự như cấp tỉnh, đến năm 1836, triều
đình cho rằng 3 huyện Hà Châu, Long Xuyên, Kiên Giang thuộc Hà
Tiên, ít học trò, những chức huấn đạo nguyên đặt ra từ trước, nay cho
bớt đi. Còn đồ ký huấn đạo và các viên giáo tập giao các viên huyện ấy
kiêm lĩnh2.
- Cấp tổng, xã
Dưới huyện, tổng vẫn giữ vai trò là cấp quản lý trung gian. Từ năm
1828, theo quy định của Vua Minh Mạng, toàn bộ chức danh xã trưởng
trong cả nước được thống nhất đổi gọi là lý trưởng. Tuy nhiên, đến các
năm 1836 - 1837, trên những địa bạ ở những đơn vị hành chính cơ sở là
xã ở Nam Bộ đều thấy chữ ký và dấu của xã trưởng, chứng tỏ chức danh
xã trưởng vẫn tiếp tục được duy trì ở Nam Bộ3.2.
Sau cải cách hành chính năm 1832, dù có những điều chỉnh và đôi
chỗ khác biệt trong cơ cấu tổ chức bộ máy quan lại địa phương ở Nam
Bộ so với những quy định chung được xác lập và thực thi trên quy mô cả
nước từ sau cải cách Minh Mạng, nhưng đó chỉ là những bổ sung, điều
chỉnh nhằm phù hợp với tình hình, hoàn cảnh, theo yêu cầu cụ thể địa
phương. Trên nguyên tắc cao nhất, tổ chức các đơn vị hành chính và bộ
máy quản lý hành chính Nam Kỳ lục tỉnh tuân thủ một cách triệt để các
quy định thống nhất về hành chính của triều đình.
Trong bối cảnh chung cả nước, cũng như diễn biến quanh câu
chuyện quản lý hành chính Nam Bộ suốt mấy chục năm đầu triều
Nguyễn, ý nghĩa của việc thiết lập Nam Kỳ lục tỉnh không đơn thuần chỉ
là tách nhập diên cách thông thường. Cả với Nam Bộ cùng triều đình
nhà Nguyễn, sự kiện này đều mang tầm vóc đặc biệt.

1, 2. Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, Sđd, t.2, tr. 147-148, tr.149.
3. Xem Nguyễn Quang Ngọc: “Cấp thôn ở Nam Bộ thế kỷ XVII - XVIII - XIX
(Một cái nhìn tổng quan)”, trong Một số vấn đề lịch sử vùng đất Nam Bộ đến cuối
thế kỷ XIX, Sđd, tr.201.
104 VÙNG ĐẤT NAM BỘ VIII THIẾT CHẾ QUẢN LÝ XÃ HỘI

Lần đầu tiên, sau cải cách Minh Mạng, với Nam Kỳ lục tỉnh, cấp
tỉnh - đơn vị hành chính địa phương cao nhất - được thiết lập trên toàn
Nam Bộ, kèm với đó là cơ cấu quản lý hành chính thống nhất. Với sự
kiện này, vùng đất Nam Bộ đã hội nhập một cách đầy đủ về phương diện
tổ chức hành chính cùng cả nước.
Với triều Nguyễn, Nam Kỳ lục tỉnh không chỉ là thành công của
chính quyền trung ương trong việc xóa bỏ cơ cấu đơn vị hành chính cũ,
thiết lập các đơn vị mới tại Nam Bộ, mà còn là thành quả, đánh dấu việc
hoàn thành quá trình cải cách, xác lập hệ thống tổ chức đơn vị hành
chính thống nhất trên quy mô cả nước.
105

Chương II

HỆ THỐNG QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH


CỦA CHÍNH QUYỀN THỰC DÂN PHÁP
Ở NAM BỘ (1858 - 1945)

I- NAM KỲ TRONG QUÁ TRÌNH THUỘC ĐỊA HÓA


1. Thực dân Pháp xâm lược Nam Kỳ
Ngày 1-9-1858, với hạm đội gồm 14 tàu chiến và 2.350 quân, sau
được tăng viện hơn 1.000 quân, liên quân viễn chinh Pháp - Tây Ban Nha,
dưới sự chỉ huy của Đô đốc Rigault de Genouilly và Đại tá Palanca, đã nổ
súng tấn công Đà Nẵng, chính thức mở màn cuộc xâm lược Việt Nam.
Cuộc chiến đấu dũng cảm của quân đội triều Nguyễn cùng nhân dân địa
phương dưới sự chỉ huy của tướng Nguyễn Tri Phương đã chặn được
bước tiến của quân Pháp, giam chân địch trên bán đảo Sơn Trà, làm thất
bại kế hoạch “đánh nhanh thắng nhanh” của thực dân Pháp.
Ngày 2-2-1859, sau 5 tháng sa lầy mệt mỏi và vô vọng ở Đà Nẵng,
tướng Rigault de Genouilly đã quyết định chuyển hướng tấn công xuống
phía Nam Việt Nam1 với 9 tàu chiến Pháp, 1 tàu chiến Tây Ban Nha,

1. Theo ghi chép của Harmand lúc đó là bác sĩ của hạm đội thực dân Pháp:
“Đô đốc Rigault de Genouilly, sau khi đã đánh nhau vô ích trong một cửa biển bế
tắc, thấy quân lính mình bị dịch tả tàn sát, ở trong một tình trạng rất bối rối. Hoàn
toàn do một sự tình cờ, căn cứ vào báo cáo của các giáo sĩ và vài sĩ quan của ông
ca ngợi Sài Gòn, ông cho quân xuống tàu, đi đến cửa sông Mékong...”. Dẫn theo
Ch. Gosselin: L’ empire d’Annam Đế quốc An Nam, Paris, 1904, bản dịch tiếng Việt
của Nguyễn Cừ, tư liệu Khoa Lịch sử, Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân
văn - Đại học Quốc gia Hà Nội.
106 VÙNG ĐẤT NAM BỘ VIII THIẾT CHẾ QUẢN LÝ XÃ HỘI

4 chiếc thương thuyền, cùng quân số 2.176 người, chỉ để một bộ phận
nhỏ cùng vài chiếc tàu chiến ở lại mặt trận Đà Nẵng. Theo viên Đô đốc
này, việc đánh chiếm phía Nam có hy vọng hơn vì địa thế sông Sài Gòn
thuận lợi cho tàu lớn, gió mùa ổn định; Sài Gòn nằm ở xa kinh đô Huế
và cả Trung Quốc, việc tiếp viện sẽ khó khăn và nhất là khi quân triều
đình còn phải đối phó với số quân Pháp lưu lại ở Đà Nẵng; vùng Nam
Kỳ là vựa lúa của Việt Nam, nếu chiếm được sẽ cắt đứt nguồn tiếp tế
lương thực quan trọng đối với Trung Kỳ và Bắc Kỳ, dễ bề tạo sức ép đàm
phán với triều Nguyễn...
Đúng như dự tính, quân Pháp nhanh chóng chiếm cứ được loạt
thành nằm dọc theo sông Đồng Nai tiến vào thành Gia Định. Sáng ngày
17-2-1859, quân viễn chinh Pháp - Tây Ban Nha đã chiếm được thành
Gia Định - thủ phủ của vùng Nam Kỳ.
Ngay lập tức, sự thất thủ của thành Gia Định đã dấy lên một làn
sóng phản ứng mạnh mẽ từ triều đình Nguyễn cho đến nhân dân lục
tỉnh nói riêng và cả nước nói chung. Quân đội triều đình từ Vĩnh Long,
Định Tường, Bình Định và Quảng Ngãi làm nhiệm vụ tiếp ứng nhưng
không đến kịp, đã hội quân trấn giữ Biên Hòa. Cuối tháng giêng năm
Kỷ Mùi (tháng 2-1859), Vua Tự Đức xuống dụ cho toàn thể sĩ dân Nam
Kỳ được tự động tập hợp làm dân phu hay vào quân đội để đánh giặc,
cho phép nhân dân Nam Kỳ chế tạo, rèn đúc binh khí và những người
lập được chiến công có khen thưởng. Những đội nghĩa dũng như của
Trần Thiện Chính (một tri huyện bị cách chức), Lê Huy (một võ quan
bị thải hồi) tập hợp gần 6.000 nghĩa binh đã chiến đấu rất hiệu quả, làm
tiêu hao sinh lực của thực dân Pháp.
Do lực lượng có hạn, Genouilly mặc dù đã nhanh chóng chiếm
được thành Gia Định, nhưng không thể đánh rộng ra ngay được. Hơn
nữa, trong tình cảnh bị vây hãm chặt chẽ, tiếp tế khó khăn, biết khó có
thể giữ thành Gia Định lâu, Genouilly liền quyết định dùng thuốc nổ
CHƯƠNG II: HỆ THỐNG QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH... 107

phá thành, đốt trụi mọi kho tàng, đưa quân xuống đóng dưới tàu chiến
đậu trên sông để tránh thiệt hại.
Những khó khăn về lương thực, khí hậu, bệnh dịch và đặc biệt trước
kháng cự quyết liệt của nhân dân và quân triều đình Huế trên cả chiến
trường Gia Định và Đà Nẵng1 khiến thực dân Pháp nao núng, đã có lúc
Genouilly tính đến việc xin đình chiến (hai lần) với triều Nguyễn nhằm
chờ viện binh và xin chính quyền Pháp phái người đến thay thế vì lý do
sức khỏe giữa năm 1859.
Người được bổ nhiệm thay thế Genouilly là Thiếu tướng hải quân
Page, chính thức nhận chức ngày 1-11-1859. Ngay lập tức, tướng Page
đã tập trung lực lượng thử vượt đèo Hải Vân nhưng không thành
công. Page tới Sài Gòn ngày 2-12-1859, củng cố và xác lập những vị
trí chiếm đóng vững chắc mà quân Pháp đang có được. Tháng 3-1860,
Page quyết định rút toàn bộ lực lượng vào Gia Định. Giữa lúc đó dư
luận Pháp, kể cả Nghị viện Pháp lo ngại và bất bình về cuộc chiến
tranh phiêu lưu ở Việt Nam. Tướng Page cử phái viên đến quân thứ
Gia Định đưa bản dự thảo hòa ước gồm 11 điều khoản, với nội dung
chính: Pháp - Nam giao hảo lâu dài; Khoan xá kẻ đã cộng tác với Pháp;
Không truy nã kẻ theo đạo, thả hết giáo sĩ bị bắt; Tự do thông thương,
tự do giảng đạo, lập lãnh sự, mở cửa hàng ở các bến cảng; Ký hòa ước;
Pháp lập tức rút chiến thuyền khỏi Gia Định... Chỉ huy quân thứ Gia
Định là Tôn Thất Cáp bác bỏ 3 điều cuối (trao hòa ước với cả Tây Ban
Nha, đạo trưởng Tây Dương được đi lại giảng đạo, lập phố buôn bán)

1. Sau 18 tháng tiến hành đánh phá mặt trận Đà Nẵng (từ tháng 9-1858 đến
ngày 23-3-1860), quân Pháp phải triệt thoái, kéo vào Nam, chấp nhận chuyển sang
kế hoạch đánh lâu dài với chiến lược “chinh phục bằng những gói nhỏ” (Conquêté
en petits paquets). Xem Đỗ Bang, Nguyễn Quang Trung Tiến: “Về nguyên nhân
thắng lợi của triều đình Huế ở mặt trận Đà Nẵng”, tạp chí Thông tin Khoa học và
Công nghệ, số 3-1998.
108 VÙNG ĐẤT NAM BỘ VIII THIẾT CHẾ QUẢN LÝ XÃ HỘI

và tạm thời chấp thuận 8 điều khoản còn lại. Ngày 8-1-1860, một bản
thỏa thuận ngừng bắn đã được ký kết.
Đầu tháng 7-1860 vua Tự Đức quyết định cử Nguyễn Tri Phương
làm tổng chỉ huy quân thứ Gia Định, thay thế Tôn Thất Cáp. Khi vào
tới Gia Định, Nguyễn Tri Phương đã tập trung sức lực để củng cố, xây
dựng đại đồn Kỳ Hòa, còn gọi là Chí Hòa1, công trình phòng thủ bề thế
và quan trọng nhất của triều Nguyễn lúc đó.
Đối diện với đại quân của triều Nguyễn trên chiến trường Nam Kỳ,
thực dân Pháp ở thời điểm này chỉ có khoảng 1.000 lính, lại rải trên một
tuyến 10 km kiểm soát những vị trí đã chiếm đóng. Cơ hội để hất quân
địch khỏi Gia Định là rất lớn, nhưng đại quân triều đình vẫn thủ thế im
lìm trong phòng tuyến mới dựng lên.
Về phía quân Pháp, tính tới tháng 2-1861, vẫn kiểm soát được
sông Nhà Bè từ Sài Gòn ra biển, rạch Thị Nghè (một đoạn), sông Sài
Gòn (đoạn ra gần Gò Vấp). Vì vậy, tàu chiến Pháp có thể đi thám sát
tới gần Biên Hòa, Mỹ Tho. Ở mặt trận Trung Hoa - nơi quân Pháp
đang tập trung lực lượng chính ở khu vực Viễn Đông - đã tạm thời
khép lại với Điều ước Bắc Kinh ngày 25-10-1860. Tháng 2-1861, Phó
Thủy sư Đề đốc Charner được cử làm Tư lệnh đặc mệnh toàn quyền

1. Đại đồn Chí Hòa là đồn lớn nhất nước ta, dài 3.000m, rộng 1.000m. Vách
thành xây bằng đá ong và đất sét dày 2m, cao 3,5m, có lỗ châu mai. Trong thành
chia làm 5 khu có tường ngăn, có cửa thông để có thể tác chiến từng nơi. Vách
thành trồng cây có gai góc chằng chịt, ngoài vách thành có hào ngăn, có nhiều
hố hình chữ phẩm và rào tre, cắm chông, cạm bẫy... Trong đồn có 150 khẩu đại
bác các cỡ. Theo sự đánh giá của địch thì đồn Chí Hòa có khoảng 20.000 quân
thường trực, 10.000 quân dân dũng. Từ đại đồn tỏa ra hai phía bên là hai tuyến
chiến hào, một đầu là phía trước chùa Mai Sơn, đầu kia là phía trước đồn Bình
Hòa, như hai cánh tay vây khu trung tâm Gia Định - Chợ Lớn, ngăn chặn quân
địch từ phía sông lên. Phía sau đại đồn có đồn Thuận Kiều, kho chứa quân
lương, quân khí, chặn con đường đi Hóc Môn, Tây Ninh.
CHƯƠNG II: HỆ THỐNG QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH... 109

tại Nam Kỳ, quyết định tăng viện kịp thời cho mặt trận đang nguy
khốn với một lực lượng hùng hậu: 68 tàu chiến (55 tàu hơi nước,
13 tàu buồm), mang 474 khẩu đại bác, 80 tàu buôn, một binh đoàn
thủy quân lục chiến gồm 3.500 quân, 12 đại đội thủy thủ, 1,5 đại đội
pháo thủ, nhiều tàu công binh, một số lính Phi châu, 600 phu Quảng
Đông. Theo chỉ thị của Bộ trưởng Hải quân Pháp là Chasseloup
Laubat (kế nhiệm Hamelin), Charner có mục đích củng cố sự thống
trị của Pháp ở Sài Gòn, phá vỡ vòng vây của quân Việt Nam, “đưa lại
cho nước Pháp một thuộc địa tốt đẹp”.
Trận Chí Hòa là một cuộc đương đầu lớn nhất với cả quan quân
nhà Nguyễn và thực dân Pháp trong những năm đầu xâm lược Việt
Nam. Sáng sớm ngày 24-2-1861, Charner sau khi tìm hiểu kỹ tình
hình đã quyết định tấn công thẳng vào đại đồn Chí Hòa. Trận đánh
kéo dài liên tục trong gần một tuần, quân đội nhà Nguyễn đã không
trụ vững tại trận địa, Chí Hòa thất thủ. Quân nhà Nguyễn có số
thương vong lên đến trên 1.000 người, Nguyễn Tri Phương bị trọng
thương ở bụng, số vũ khí tích lũy được bị quân Pháp chiếm hết,
gồm 150 đại bác, 2.000 khẩu súng tay. Phía Pháp cũng chịu tổn thất
nặng, trên 300 lính chết và bị thương, trong đó Đại tá Testard tử
trận. Ngày 29-2, Pháp đem quân tràn lên chiếm đóng Thuận Kiều -
nơi quan quân thất trận nhà Nguyễn vừa rút về cố thủ. Sau đó, quân
thực dân tiến chiếm Trảng Bàng, ngược sông Vàm Cỏ Đông chiếm
đóng Tây Ninh. Không những thế, Charner phái viên Đại úy Lespes
sang Campuchia thông báo quyết tâm chiếm đóng Nam Kỳ và đặt
quan hệ ngoại giao với triều đình Campuchia. Ngày 15-4-1861, vua
Norodom I sai sứ thần đến Nam Kỳ để bàn việc câu kết với thực dân
Pháp nhằm chống đánh Việt Nam.
Ngày 17-3-1861, quân Pháp bắt đầu đánh phá tỉnh Định Tường.
Ngày 15-4-1861, quân Pháp chiếm Mỹ Tho trong vòng 26 ngày đêm.
110 VÙNG ĐẤT NAM BỘ VIII THIẾT CHẾ QUẢN LÝ XÃ HỘI

Đây là một trận chiến ác liệt, dù quan quân nhà Nguyễn không giữ
được Mỹ Tho và bị thiệt hại nặng nề nhưng phía thực dân Pháp cũng
bị tổn thất nghiêm trọng, một sĩ quan chỉ huy quân địch cùng nhiều
quân lính phải bỏ mạng. Thành Mỹ Tho rơi vào tay giặc với nhiều của
cải và một xưởng đóng tàu lớn.
Sau khi mất liên tiếp Gia Định, Định Tường, vấn đề “lục tỉnh”
càng trở nên khẩn cấp và hệ trọng đối với triều đình Huế. Tự Đức
xuống dụ yêu cầu các quan lại tâu bày kế sách đối phó, “nhưng chỉ
thấy những lời phấn dõng, còn mưu sách dùng được rất ít”1. Khâm
sai Nguyễn Bá Nghi vào Biên Hòa thám xét tình thế, biết khó có thể
chặn đứng được bước chân xâm lược của kẻ địch, trở về Huế tâu bày
ý định giảng hòa lên Tự Đức, sau được phái đi thương thuyết với
thực dân Pháp nhưng không đạt được kết quả gì. Triều đình Huế lúc
này vẫn quyết tâm đánh giặc, huy động dân binh, nghĩa dũng cùng
những người có ý chí vào công cuộc phòng thủ và đánh đuổi kẻ thù.
Tháng 3-1861, triều Nguyễn còn ban hành mức thưởng những người
mộ nghĩa quân, hoặc đem người thân thuộc trong gia đình mình gia
nhập quân tỉnh hoặc quân thứ ở 5 tỉnh còn lại ở Nam Kỳ, kể cả ở 6
tỉnh Nam - Ngãi, Bình - Phú, Thuận - Khánh để chống giặc Pháp.
Tháng 5-1861, Charner đã đệ đơn xin về Pháp vì quá mệt mỏi. Đô
đốc Bonard được bổ nhiệm thay thế Charner làm Thống đốc; ngày 29-
11-1861, nhậm chức tại Sài Gòn. Bonard được sự ủng hộ và tán đồng
của thượng cấp, chủ trương mở rộng quy mô xâm lược.
Cuối năm 1861, Bonard quyết định mở cuộc tấn công Biên Hòa
bằng cả đường thủy và đường bộ. Ngày 13-12-1861, địch hội quân ở
Sài Gòn và gửi tối hậu thư cho Nguyễn Bá Nghi. Ngày 14-12-1861, hai
đạo bộ binh địch đánh vào hai điểm: Gò Công và đồn Mỹ Hòa. Chỉ

1. Lời của Tự Đức, dẫn theo Phan Khoang: Việt Nam Pháp thuộc sử, Khai Trí,
Sài Gòn, 1961, tr. 154.
CHƯƠNG II: HỆ THỐNG QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH... 111

trong hai ngày giao chiến, thành Biên Hòa thất thủ. Ngày 7-1-1862,
quân địch chiếm nốt thành Bà Rịa. Ngoài ra, chúng còn cho tàu chiến
đi dọc ven biển đánh đắm trên 100 thuyền của triều đình và của dân
chài, chủ yếu ở vùng biển Phan Rí.
Biên Hòa bị thất thủ, triều đình Huế vội ra lệnh cho các nơi phải
tích cực chiêu mộ binh dõng, quân lương hăng hái đánh giặc. Lại định
ra lệ thưởng rất hậu: ai đánh lấy được một phủ hay một huyện mà giữ
được thì thưởng cho chức cai quản phủ, huyện ấy. Nếu đánh lui được
địch, thu phục được tỉnh, thành thì được vinh dự chia đất, phong tước
đời đời kế tập, binh dõng nào có công cũng được thưởng chức hàm,
binh dõng không có công cũng được tha lao dịch trọn đời... Tự Đức
thực sự lo lắng, xuống dụ khẩn cấp đối phó tình hình, khôi phục cho
Nguyễn Tri Phương hàm Binh bộ Thượng thư, sung Đổng nhung Biên
Hòa quân vụ, Tôn Thất Cáp làm Binh bộ Thị lang, sung Phụ tế Biên Hòa
quân vụ, Nguyễn Công Nhàn có tội bỏ thành chạy, nay cũng khôi phục
làm quản cơ, sung Đốc binh.
Tình thế Nam Kỳ cực kỳ căng thẳng, bởi Biên Hòa là địa đầu của
Nam Kỳ, vua Tự Đức lệnh cho Tổng đốc Nam - Ngãi là Đào Trí sung
chức Kinh lược đại thần, lo đốc xuất binh lương, khí giới phòng bị dọc
tuyến từ Bình Thuận trở ra Quảng Nam.
Trong khi quân triều đình án binh bất động thì thực dân Pháp càng
đẩy mạnh việc xâm lược và bình định. Chúng cho thuyền máy theo
sông Vĩnh Long do thám tình hình. Ngày 20-3-1862, địch tổ chức đánh
chiếm Vĩnh Long, theo cách hành binh quen thuộc là kết hợp nhiều mũi
bộ binh, thủy binh, nhất là có mũi đánh vào phía sau lưng chặn đường
rút. Sau hai ngày chiến đấu ác liệt, Tổng đốc Vĩnh Long Trương Văn
Uyển, trong đêm cuối cùng, hạ lệnh đốt các dinh thự, kho tàng trong
thành rồi rút ra. Địch thu được 68 khẩu đại bác của ta.
Trong lúc quân sĩ triều đình thua hết trận này đến trận khác thì
những đội “nghĩa dõng” Nam Kỳ lại hoạt động rất mạnh, liên tiếp
112 VÙNG ĐẤT NAM BỘ VIII THIẾT CHẾ QUẢN LÝ XÃ HỘI

quấy phá và gây cho địch nhiều tổn thất, khiến địch phải thừa nhận:
“Người Pháp đã bắt đầu thấy cần phải chinh phục lại những tỉnh
đã chinh phục”1. Dư luận Pháp khi đó thấy vấn đề Nam Kỳ quá tốn
kém và xa xôi, hướng ưu tiên của Pháp là Mexico hoặc một nơi gần
gũi hơn như Madagascar. Quân địch ở phía Nam vô cùng lúng túng,
tháng 4-1862, Bonard sai Trung tá Simon đến Huế đưa thư giảng hòa
và đòi 3 điều kiện: xin sai một vị quan có toàn quyền vào nghị định;
bồi thường quân phí và đề nghị đưa trước số tiền 10 vạn để tỏ lòng
tin. Phía triều Huế cũng chịu nhiều sức ép, phía Bắc là vụ Tạ Văn
Phụng (có sự giúp sức của lính Pháp), phía Nam mất quyền kiểm soát
về tay thực dân Pháp. Đúng lúc đó Tự Đức quyết định nghị hòa, tin
rằng bằng con đường thương thuyết sẽ lấy lại được mấy tỉnh Nam Kỳ.
Ngày 24-4-1862, Phan Thanh Giản và Lâm Duy Hiệp đại diện triều
đình lên tàu vào Gia Định bàn việc giảng hòa với thực dân Pháp.
Sau nhiều ngày thương thảo, bàn nghị, ngày 5-6-1862, bản Hòa
ước 12 khoản (Hòa ước Nhâm Tuất) được ký kết, trong đó có những
điều khoản quan trọng như: người Pháp và người Tây Ban Nha được
tự do giảng đạo Thiên Chúa, người dân được tự do theo đạo và không
theo đạo; giao 3 tỉnh Biên Hòa, Định Tường và Gia Định cùng đảo
Côn Lôn cho nước Pháp quản hạt; sau khi Pháp - Nam đã nghị hòa,
nếu có nước nào muốn sinh sự với nước Nam thì phải cho Pháp biết
để tùy nghi giúp đỡ, còn nếu có cắt đất giảng hòa thì phải có nước
Pháp chấp thuận mới được; thương nhân Pháp, Tây Ban Nha được ra
vào buôn bán tự do ở các cửa biển Đà Nẵng, Ba Lạt, Quảng Yên, nạp
thuế như lệ định; triều đình Huế phải bồi thường chiến phí 4 triệu
đồng bạc trong 10 năm; Pháp sẽ trao trả thành Vĩnh Long cho triều
đình Huế khi nào triều đình Huế làm cho nhân dân 3 tỉnh không
chống Pháp nữa...

1. Trần Văn Giàu, Đinh Xuân Lâm, Nguyễn Văn Sự: Lịch sử cận đại Việt Nam,
Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 1960, t.1, tr.102.
CHƯƠNG II: HỆ THỐNG QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH... 113

Một tuần sau, Phan Thanh Giản và Lâm Duy Hiệp xuống tàu về
Huế; ngày 14-6 dâng tấu kết quả lên. Vua Tự Đức than rằng: “Ôi! Con
dân mấy triệu, tội gì đến thế! Đau lòng thay! Hai người không chỉ là
tội nhân của triều mà còn là tội nhân của muôn đời nữa!”1. Hòa ước
đã không được triều thần ưng thuận ở nhiều điểm. Vua truyền Phan
Thanh Giản giữ chức Tổng đốc Vĩnh Long, Lâm Duy Hiệp chức Tuần
vũ Thuận - Khánh để tiện việc thương thuyết với Bonard nhằm điều
chỉnh nội dung Hòa ước và để chuộc tội. Tới Nam Kỳ nhậm chức, hai
ông có gặp Bonard để bàn việc xin trả lại 3 tỉnh nhưng không thành.
Không đến hẹn một năm chờ triều đình Huế phê chuẩn, tháng
2-1863, Thiếu tướng Bonard và Đại tá Palanca đích thân tới Huế dâng
Quốc thư và Hòa ước đã được vua Pháp và Tây Ban Nha phê chuẩn.
Phía Tây Ban Nha chỉ nhận binh phí và quyền tự do giảng đạo, còn các
quyền lợi khác đều thuộc về nước Pháp. Do thương thuyết không thành,
Phan Thanh Giản bị xử cách lưu, Trung quân Đoàn Thọ và Thượng thư
Bộ Binh Trần Tiễn Thành bị giáng chức vì liên đới trách nhiệm, Lâm
Duy Hiệp khi ấy đã mất cũng bị truy đoạt phẩm hàm.
Tháng 5-1863, triều đình Huế lựa cử Hiệp biện đại học sĩ Phan
Thanh Giản lãnh chức Chánh sứ, Lại bộ Tả Tham tri Phạm Phú Thứ
chức Phó sứ, Án sát Quảng Nam Ngụy Khắc Đản chức Bồi sứ, lên đường
sang Pháp, trực tiếp tâu bày với Hoàng đế Pháp về việc chuộc đất và sửa
đổi Hòa ước. Trước khi đi, vua dặn: “Phải nói thế nào cho được. Nếu họ
không nghe thì lưu lại mà nói, cốt cho chuyển động lòng họ... Hãy đem
hai, ba việc quan trọng mà bàn, còn thì chỉ là sửa định lại mà thôi”2. Về
biện pháp, triều đình Huế bàn phải mang nhiều quà cáp, vàng bạc để
“tiện việc thông hiếu”. Sứ bộ hơn 60 người, rời Huế giữa tháng 6 năm
ấy vào Gia Định lên tàu Pháp, đến tháng 8 cập cảng Toulon. Hoàng đế

1. Phan Khoang: Việt Nam Pháp thuộc sử, Sđd, tr.170.


2. Quốc sử quán triều Nguyễn: Đại Nam thực lục chính biên, Sđd, t.30,
tr.21-22.
114 VÙNG ĐẤT NAM BỘ VIII THIẾT CHẾ QUẢN LÝ XÃ HỘI

Pháp Napoléon III không có mặt ở kinh đô, sứ bộ Nam triều cùng các
quan chức Pháp thương thảo, bàn bạc trước các điều khoản thỏa thuận,
chủ yếu xoay quanh số tiền chuộc đất mà Nam triều quyết tâm “lo liệu
chu thỏa” như trong Quốc thư dâng lên.
Một sử gia Pháp viết: “Ở Paris, Phan Thanh Giản gặp một không
khí thuận lợi. Trên toàn nước Pháp, các cuộc viễn chinh đều bị thực sự
chê trách... Phan Thanh Giản khôn khéo lợi dụng hoàn cảnh đó. Với
sự trợ giúp của Aubaret (Hà Bá Lý), Phan đã phác thảo một hiệp định
nhằm thay thế hiệp định đã ký ở Sài Gòn. Theo các thoả ước mới này,
nước Pháp từ bỏ ý định thiết lập ở Nam Kỳ một thuộc địa mà đồng ý
lập ở đấy một thương điếm, trả lại ba tỉnh miền Đông, trừ những vùng
đất nhỏ... xung quanh Sài Gòn, Mỹ Tho và Vũng Tàu. Bù lại cho việc
nhượng quyền này, nước Pháp giành quyền sẽ thiết lập một chế độ bảo
hộ trên toàn thể sáu tỉnh, một chế độ bảo hộ không xác định, thể hiện
chủ yếu bằng việc trả một khoản cống nạp vĩnh viễn cho nước Pháp”1.
Nhiều quan chức Pháp ủng hộ giải pháp của Phan Thanh Giản và
Aubaret. Nhưng cũng có nhiều tiếng nói quan trọng vẫn muốn chiếm
đóng Nam Kỳ như: Chasseloup Laubat, Bonard, Genouilly... Sau khi bàn
bạc, Chính phủ Pháp đã đồng ý giải pháp Phan - Aubaret, chỉ thêm vài
điều như: Pháp vẫn giữ lại Mỹ Tho và hành lang từ Mỹ Tho ra biển bằng
Cửa Tiểu. Napoléon III đã tuyên bố trước quốc hội về khả năng buôn
bán tự do ở Nam Kỳ, chứ không coi đây là đất chiếm đóng, và ngân sách
Pháp năm 1864 đã không có khoản dự chi cho ba tỉnh Nam Kỳ nữa. Với
sự giúp đỡ của Aubaret, Phan Thanh Giản đã đạt được hy vọng ban đầu
về việc chuộc lại ba tỉnh miền Đông.
Sứ bộ Nam triều sau khi đã đạt được thuận lợi ở Pháp, lên đường
sang Tây Ban Nha yết kiến Nữ hoàng Isabelle dâng Quốc thư rồi đáp
tàu về nước; tháng 2-1864, cập bến Gia Định, cơ bản hoàn thành trọng

1. Taboulet: La Geste Française en Indochine, Maisonneuve, Paris, 1955, t.1,


tr.407.
CHƯƠNG II: HỆ THỐNG QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH... 115

trách được giao1. Sứ bộ dâng lên triều đình Quốc thư của hai nước Pháp
và Tây Ban Nha, mỗi tờ 21 khoản, trong đó có 5 điều khoản quan trọng:
Nước Nam muốn chuộc lại 3 tỉnh Nam Kỳ thì cũng thuận cho, nhưng
phải cắt giao nơi nào đó cho họ quản trị; Trong ba năm, mỗi năm trả
số tiền chuộc 50 vạn đồng, rồi về sau cứ mỗi năm trả 333.333 đồng; Ở
kinh đô Huế, Đà Nẵng, Ba Lạt, Quảng Yên đều để họ đặt lãnh sự; Giáo
sĩ được tự do lập giáo đường tuyên giảng, không được ngăn cản; Người
hai nước trên đến buôn bán ở ba cửa biển nói trên được tùy ý mua
ruộng đất, về sau có được đến ở cửa biển nào nữa cũng theo lệ ấy, và tại
mỗi cửa ấy họ được lập riêng một nơi để ở2.
Trung tá hải quân Aubaret được nước Pháp cử làm lãnh sự tại Huế
và Vọng Các (Thái Lan); tháng 6-1864, tới Huế cùng Nam triều tiếp tục
thương thuyết việc chuộc đất Nam Kỳ. Khi đó vua Tự Đức mới triệu tập
đình thần họp bàn đối phó. Đình thần và Viện Cơ mật đều cho rằng
điều khoản tiền chuộc là quá nặng không chịu được, khoản nhượng
những đất đai xã thôn thì cố mà thương lượng cho bớt đi. Phan Thanh
Giản tiếp tục nhận lãnh chức Toàn quyền Chánh sứ, cùng Aubaret bàn
thảo. Sau một tháng gặp gỡ thương thuyết, một bản hiệp ước mới được
lập lên vào ngày 15-7-1864 với mấy điều khoản chính: Pháp trả lại 3
tỉnh đã chiếm nhưng bù lại sẽ nhận quyền bảo hộ cả 6 tỉnh Nam Kỳ;
Pháp được chiếm 3 nơi ở Sài Gòn, Mỹ Tho và Cáp Xanh Giắc (Cap
saint Jacques) để ở, buôn bán; người Pháp được trú ở Đà Nẵng, Ba Lạt,
Quảng Yên và được nhượng cho 9 km đất xung quanh các hải cảng làm
chỗ buôn bán; phía Nam triều phải bồi thường chiến phí là 80 triệu
phơrăng, trả trong 40 năm (không còn vĩnh viễn theo kết quả chuyến
đi Pháp); người Pháp nếu vào đất nước Nam có việc gì thì phải xin giấy

1. Nhờ kết quả khả quan của chuyến đi, sứ bộ đã được vua Tự Đức thăng
thưởng rất hậu: Phan Thanh Giản lãnh Thượng thư Bộ Lại, Phạm Phú Thứ làm Tả
Tham tri Bộ Lại, Ngụy Khắc Đản nhận Quang lộc tự khanh làm Biện lý Bộ Binh,
Đỗ Quang làm Tả Tham tri Bộ Hộ...
2. Theo Phan Khoang: Việt Nam Pháp thuộc sử, Sđd, tr.176-177.
116 VÙNG ĐẤT NAM BỘ VIII THIẾT CHẾ QUẢN LÝ XÃ HỘI

thông hành, việc xong phải về ngay các hải cảng nhượng địa trên; các
giáo sĩ được tự do truyền giáo...1.
Những điều khoản thỏa thuận của hòa ước mới còn đang được
thương thảo tại Huế thì ở Pháp, phe tán thành Hòa ước Nhâm Tuất
1862 của Bonard hoạt động rất tích cực. Trong số đó, phải kể đến những
sĩ quan hải quân như Thiếu tướng R. de Genouilly, Thiếu tướng Bonard
và đặc biệt Bộ trưởng Bộ Hải quân và Thuộc địa Pháp Chasseloup
Laubat... Một quyển sách nhan đề Vấn đề Nam Kỳ xét về quyền lợi Pháp
được dâng lên Hoàng đế Pháp và gửi cho tất cả các quan chức chóp bu
với nội dung hết sức tán thành việc chiếm 3 tỉnh Nam Kỳ. Dư luận Pháp
dấy lên làn sóng công kích việc trả lại 3 tỉnh Nam Kỳ. Napoléon III bèn
xuống lệnh đình lại việc thương thuyết với Nam triều, bác bỏ những yêu
cầu của phía vua quan nhà Nguyễn, giữ nguyên những điều khoản của
Hòa ước 1862. Lệnh tới Sài Gòn và được chuyển thẳng ra Huế chỉ sau
6 ngày hòa ước mới được lập lên. Việc chuộc 3 tỉnh Nam Kỳ của triều
Huế đã thất bại.
Từ sau ngày 5-6-1862 cho đến cuối năm 1864, tuy triều đình Huế
chưa chính thức phê chuẩn hiệp ước đã ký, kể cả điều ước Aubaret,
nhưng trên thực tế, một số điều khoản trong Hòa ước 1862 đã được
triều Nguyễn chấp thuận thực hiện: cho phép dễ dàng hơn việc truyền
đạo, bề ngoài ngăn cản các cuộc chiến đấu chống Pháp của nhân dân,
bồi trả chiến phí thường niên...
Miền Tây bị cô lập, Tự Đức từng có suy nghĩ đổi 3 tỉnh miền Tây
lấy 3 tỉnh miền Đông từ tay Pháp nhưng đình thần khuyên can vì đó
là vựa lúa quan trọng của cả nước. Triều Nguyễn khi ấy đứng trước
một kẻ thù xâm lược có sức mạnh quân sự cùng dã tâm thực dân to
lớn càng trở nên bạc nhược, đớn hèn và núng thế. Những thất bại
quân sự liên tiếp trước thực dân Pháp cũng những rối ren nội trị đã

1. Xem Quốc sử quán triều Nguyễn: Đại Nam thực lục chính biên, Sđd, t.30,
tr. 90-91; Phan Khoang: Việt Nam Pháp thuộc sử, Sđd, tr.178.
CHƯƠNG II: HỆ THỐNG QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH... 117

đẩy vua tôi Tự Đức vào một tình thế nan giải và lúng túng chưa từng
có. Khi phía triều đình trượt dài trên con đường thỏa hiệp, đầu hàng
kẻ địch thì đông đảo nhân dân lục tỉnh lại vùng lên chiến đấu, tập
hợp trong những đội “nghĩa dõng” gây cho địch không ít khó khăn,
tổn thất. Tổng đốc Vĩnh Long là Trương Văn Uyển thấy tình hình
như vậy, dâng tấu lên triều đình. Vua Tự Đức cử phái Phan Thanh
Giản chức Kinh lược ba tỉnh Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên, hy vọng
sẽ yên ổn được ba tỉnh miền Tây. Trước khi đi, Phan tâu rằng đường
lối ông sẽ theo là tuân thủ đúng Hòa ước đã ký. Tự Đức cũng đoán
định được tình hình khi đó không thể khác, nhưng khuyên các đình
thần không nên vì thế mà khuất phục một cách thụ động. Vua phán:
“Không biết từ đây đến trăm năm nữa, sự thể sẽ thế nào chứ từ đây
đến 10 năm, không thể không như thế được. Các người là những bậc
lão thành có kinh nghiệm, có thể xét biết khi nào nên dùng phương
pháp thường, khi nào nên dùng phương pháp bất thường, sao lại cứ
đối với việc gì cũng chịu bề thất bại như thế? Phải nghĩ đến cách làm
thế nào để phục hưng...”1.
Trong khi triều đình Huế đang phải lúng túng đối phó với mọi
tình hình rối ren trong nước, lại thêm phải chạy vạy đòi chuộc ba tỉnh
miền Đông đã chót ký kết, thì Bonard lên viếng thăm vua Norodom
của Campuchia tại Udong. Kế nhiệm Bonard, Grandière đã cử người
tới Campuchia do thám. Ngày 11-8-1863, một quy ước giữa Pháp và
Campuchia đã được ký kết đem lại ưu thế cho Pháp tại Campuchia.
Ngay sau đó, Vua Norodom hiểu ra âm mưu xâm lược của Pháp, liền ký
kết với Xiêm một hiệp ước vào tháng 12-1863, nhằm thủ tiêu Hiệp định
Pháp - Campuchia ngày 11-8-1863. Nhưng nhân khi vua Norodom sang
Bangkok nhận phong vương, thì Pháp lập tức đem quân xâm chiếm
Hoàng thành Campuchia và thực hiện được bước đầu mưu đồ xâm lược
và thống trị Campuchia.

1. Dẫn theo Phan Khoang: Việt Nam Pháp thuộc sử, Sđd, tr.182.
118 VÙNG ĐẤT NAM BỘ VIII THIẾT CHẾ QUẢN LÝ XÃ HỘI

Chiếm được Campuchia là một lợi thế rất lớn của thực dân Pháp so
với triều đình Huế, nhất là ở chiến trường miền Nam. Vì vậy, một mặt
đàn áp các cuộc kháng chiến của nhân dân; mặt khác, thực dân Pháp
tìm cớ để chiếm nốt ba tỉnh miền Tây. Tháng 11-1865, chủ súy Pháp đưa
thư cho Đốc thần tỉnh Vĩnh Long yêu cầu: nếu muốn Hòa phải nã bắt
tên Ong Bướm (có tên là A Soa) giao để xử trị.
Đến tháng 4-1866, chủ súy nước Pháp phái thuyền đến cửa biển
Thuận An, đưa thư nói: “3 tỉnh: Vĩnh Long, An Giang và Hà Tiên, địa
thế xa cách, không tiện cho ta, mà quân gian đi lại, không tiện cho họ,
xin cho cai quản cả các nơi ấy”1. Bù lại, triều đình sẽ không phải trả bạc
bồi thường nữa. Tháng 9 năm đó, quan Pháp là Vial cùng cố đạo Dương
lại từ Gia Định tới Kinh đô Huế đòi cai quản ba tỉnh và hăm dọa sẽ dùng
tới sức mạnh quân sự. Vua hỏi ý kiến thì đình thần tâu xin đổi ba tỉnh
phía Tây mà lấy lại hai tỉnh Biên Hòa, Định Tường, đồng thời người
Pháp không được đặt lãnh sự tại Đà Nẵng, Ba Lạt, Quảng Yên và miễn
hết số binh phí còn nợ. Viện Cơ mật thì cho rằng nếu Pháp dùng vũ lực
chiếm 3 tỉnh, khi ấy chắc hẳn sĩ dân sáu tỉnh sẽ nổi dậy, triều đình sẽ
tùy cơ đối phó...
Ngày 14-2-1867, thực dân Pháp trắng trợn cử Trung tướng hải quân
Monet de la Marck đi tàu ra kinh đô Huế đòi tiền chiến phí trả chậm và
nhắc lại yêu cầu nhượng ba tỉnh miền Tây, đáp lại là thái độ lạnh nhạt
của triều đình Huế. Tại Vĩnh Long, Phan Thanh Giản theo đúng đường
lối ông đã tâu bày với nhà vua, cố gắng tuân thủ Hòa ước và nhiều lần đề
nghị chuộc lại 3 tỉnh miền Đông. Cũng năm này, tại Paris, Trung tướng
Rigault de Genouilly được bổ nhiệm chức Bộ trưởng Bộ Hải quân và
Thuộc địa, đã ủng hộ và giúp đỡ hết sức cho La Grandière chiếm nốt
đất Nam Kỳ.
Được hậu thuẫn từ phía chính quốc, Grandière quyết định tiến
chiếm 3 tỉnh miền Tây. Ngày 19-6-1867, địch kéo khoảng 1.600 lính từ

1. Quốc sử quán triều Nguyễn: Đại Nam thực lục chính biên, Sđd, t.30, tr.226.
CHƯƠNG II: HỆ THỐNG QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH... 119

Mỹ Tho lên Vĩnh Long, đưa thư mời Phan Thanh Giản đến nói chuyện,
nhắc lại yêu cầu trước đây và đề nghị nhượng giao ngay lập tức, nếu
không sẽ dùng vũ lực. Phan Thanh Giản dù có biện thuyết thế nào,
người Pháp cũng không chịu, đành xin đừng nhiễu hại nhân dân, quan
Pháp thuận cho và kéo quân chiếm cứ thành Vĩnh Long không tốn một
viên đạn.
Ngay sau đó, địch chia binh thuyền, phái Trung tá Galey hành quân
tới An Giang. Đêm ngày 21-6-1867, thực dân Pháp dàn quân trước
thành Châu Đốc, các quan tỉnh theo lời Kinh lược sứ Phan Thanh Giản
giao nộp thành cho giặc. Chỉ ba ngày sau, Hà Tiên cũng nằm trong
tay Grandière. Địch nhanh chóng chiếm trọn 3 tỉnh miền Tây Nam Kỳ
không tốn một mũi tên, hòn đạn.
Sau khi để mất 3 tỉnh miền Tây, Phan Thanh Giản viết sớ kèm theo
tất cả triều phục, ấn triện, 23 đạo sắc phong, gửi dâng về Kinh, tự nhận
hết mọi tội lỗi trước nhà vua. Sau nửa tháng tuyệt thực, ông uống thuốc
độc tự vẫn.
Lấy xong 3 tỉnh, Grandière sai giáo sĩ Le Grand de la Liraye ra Huế
báo tin. Vua tôi triều Nguyễn đã rất tức giận, viết thư xin giao trả binh
khí còn trong 3 tỉnh và xin nhượng lại tỉnh Biên Hòa và một phần Sài
Gòn nhưng không được. Tháng 1-1868, vua Tự Đức phái Trần Tiễn
Thành vào Gia Định thương thuyết với quân xâm lược, xin để cho quan
Nam cai trị nhân dân lục tỉnh, thu thuế theo ngạch thuế người Pháp
định ra rồi nộp lại, xin giao trả tỉnh Biên Hòa. Phía Pháp không thuận,
chỉ hứa sẽ miễn cho triều đình Huế một phần lớn số binh phí còn thiếu.
Ngày 25-6-1868, Grandière ra bản tuyên bố: 6 tỉnh Nam Kỳ là lãnh
địa của Pháp, kể từ nay triều đình Huế không còn quyền lực gì đối với
Nam Kỳ lục tỉnh. Toàn bộ Nam Kỳ trở thành thuộc địa của Pháp.

2. Những thử nghiệm cai trị đầu tiên của Pháp tại Nam Kỳ
Bản thân người Pháp khi tiến hành tấn công Việt Nam chỉ mong
muốn có một hiệp định có lợi về những đặc quyền thương mại và truyền
120 VÙNG ĐẤT NAM BỘ VIII THIẾT CHẾ QUẢN LÝ XÃ HỘI

giáo như họ đã đạt được ở Hiệp ước Hoàng Phố với Trung Quốc (năm
1844) và một “vùng nhượng địa” để cạnh tranh với các thế lực thực dân
khác ở Đông Nam Á. Chỉ sau khi chiếm đóng 3 tỉnh miền Đông (bằng
Hòa ước Nhâm Tuất 1862), ý niệm về một thuộc địa đối với vùng đất
này mới thực sự rõ nét, bởi khi đó, công cuộc bình định của thực dân
Pháp không chỉ còn là yêu cầu về mặt quân sự mà còn là thách đố về mặt
“quản lý” vùng đất mới.
Chính những “thử nghiệm cai trị” đầu tiên tại Nam Kỳ đã đặt nền
móng đầu tiên hết sức quan trọng trong quá trình “thuộc địa hóa” vùng
đất này và sau đó là cả Đông Dương.
Ngay khi liên quân Pháp - Tây Ban Nha chiếm được thành Gia
Định, hầu hết bộ máy chính quyền cai trị của triều Nguyễn ở đây đều
sụp đổ, để lại một khoảng trống “lạnh lẽo” và “lạ lẫm” đối với kẻ xâm
lược. De Grammont, một sĩ quan Pháp đã từng phục vụ trong nền hành
chính buổi đầu của Pháp ở Nam Kỳ, đã miêu tả như sau: Hầu hết các
viên chức quan lại cũ, các dân bản xứ, các chức dịch, các nho sĩ đều lẩn
tránh hay mất tích; tất cả các binh sĩ chính quy đều đào ngũ; tất cả các
lực lượng dân quân đều bị phân tán; tổ chức xã thôn hoàn toàn tan rã;
tất cả các đồn điền đều bị phá bỏ; tất cả các sổ sách, các giấy phép lưu
hành thuyền bè, lưu trú đều bị thất lạc; tất cả các tòa án đều không còn
nữa; ruộng đất bị bỏ hoang; nạn trộm cướp trở nên trầm trọng hơn1. Về
cơ bản, liên quân thực dân chỉ làm chủ được Gia Định về phương diện
quân sự. Kéo theo đó là những rắc rối, mất trật tự và lộn xộn về mặt xã
hội đã khiến cho quân đội thực dân trở nên lúng túng. Bao quanh nơi
họ chiếm đóng là những “vành đai trắng”, dân chúng bản xứ không hợp
tác, không tiếp xúc và đều lẩn tránh. Thêm vào đó, hiểu biết về xứ Nam
Kỳ lúc này của thực dân Pháp rất mơ hồ, nghèo nàn và lệch lạc. Các đô

1. Xem De Grammont: Onze mois de sous préfectue en Basse-Cochinchine,


Paris, 1863. Dẫn theo Phạm Cao Dương: “Một vài khía cạnh đáng chú ý trong
đường lối cai trị của người Pháp ở Nam Kỳ từ 1861-1867”, trong Kỷ niệm 100 năm
ngày Pháp chiếm Nam Kỳ, Trình Bầy, Sài Gòn, 1967, tr.77.
CHƯƠNG II: HỆ THỐNG QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH... 121

đốc quen chinh chiến thì hầu như biết rất ít về xứ họ phải cai trị. Phong
tục, tập quán và luật pháp cai trị của người Việt đều hoàn toàn xa lạ với
họ. Những giáo sĩ thừa sai cũng không mấy để tâm khảo cứu về tình
hình chính trị, tổ chức chính quyền ngoài vùng rao giảng đạo Chúa của
mình. Những thông ngôn (chủ yếu là giáo dân) thì chủ yếu được đào
tạo tại trường dòng nhằm mục đích tôn giáo chứ không nhằm phục vụ
nền hành chính thuộc địa.
Sau mỗi kết quả lớn đạt được trên chiến trường, thực dân Pháp
đều cố gắng “hợp thức hóa” việc cai trị của mình về mặt pháp lý bằng
những văn bản ngoại giao với triều đình Huế. Để có được một bộ máy
cai trị tương đối ổn định và phù hợp sau ngày thiết lập Liên bang Đông
Dương (ngày 17-10-1887), người Pháp đã phải trải qua nhiều cuộc “thử
nghiệm” tại xứ Nam Kỳ theo mỗi bước tiến của hoạt động quân sự và
ngoại giao.
Ngay từ đầu, thực dân Pháp đã phải sớm loại bỏ ý định cai trị “gián
tiếp” thông qua một bộ máy chức dịch bản xứ dưới quyền mình. Mô
hình quân sự hành chính đầu tiên của Đô đốc Charner (từ ngày 15-5-
1860 đến ngày 29-11-1861) trong những cố gắng bù lấp “khoảng trống”
bằng chính sĩ quan quân đội Pháp tại vùng Gia Định. Hạt nhân của nó
là các Nha bản xứ vụ1, ngoài việc cai trị đồng thời phải tiến hành khảo
cứu sâu rộng các phong tục, tập quán cũng như luật lệ và nền hành
chính cũ của người Việt để tìm ra những gì có ích nhất nhằm tạo ra
một bộ máy cai trị phù hợp và hiệu quả thực hiện các mục tiêu thực
dân. Tuy nhiên, mô hình này đã gặp phải những trở lực rất lớn về mặt
ngân sách tài chính, rào cản ngôn ngữ và quan trọng hơn là khó bù lấp
được khoảng cách tiếp xúc giữa các sĩ quan Pháp và giới quan lại cũ của
triều Nguyễn - những người có thể giúp Pháp hiểu đúng được nền hành

1. Xem Phạm Cao Dương: “Một vài khía cạnh đáng chú ý trong đường lối cai
trị của người Pháp ở Nam Kỳ từ 1861-1867”, trong Kỷ niệm 100 năm ngày Pháp
chiếm Nam Kỳ, Sđd, tr.84-88.
122 VÙNG ĐẤT NAM BỘ VIII THIẾT CHẾ QUẢN LÝ XÃ HỘI

chính cũ của người Việt. Bên cạnh đó, công cuộc bình định và mở rộng
xâm lược vẫn đang tiếp diễn và chiếm nhiều thời gian của viên Tổng
tư lệnh... Di sản của Charner vẫn còn rất ngổn ngang và bộn bề đối với
người kế nhiệm.
Ngày 29-11-1861, Đô đốc Bonard sang thay thế cho Charner với
trọng trách Thống đốc Bonard tỏ ra là người giàu kinh nghiệm và
phương pháp cai trị1. Trước khi tới Sài Gòn, ông đã dò hỏi và tìm hiểu
kỹ lưỡng về tình hình ở Trung Hoa, ở các thuộc địa của các đế quốc
châu Âu khác (quan trọng nhất là Batavia, Ấn Độ, Manila và cả Algérie).
Ngay khi đặt chân tới Nam Kỳ, ông đã vạch ra một kế hoạch cải tổ
lại bộ máy cai trị của thực dân Pháp theo lối “gián tiếp”, tức là giao phó
cho các quan lại bản xứ việc cai quản trực tiếp dân chúng, còn nhà cai
trị Pháp nhờ dứt ra được các nhiệm vụ hành chính bên dưới sẽ có thì
giờ hơn với việc mở mang thương mại và mục đích khai thác thuộc địa.
Nếu có nổi loạn mà quan lại bản xứ không giải quyết được thì sẽ can
thiệp bằng quân sự.
Chương trình trên được áp dụng tại Biên Hòa với Sắc lệnh ngày 20-
1-1862 khi Pháp chiếm được khu vực này. Năm người Việt được chọn
để cai quản năm huyện như một đại diện thượng cấp của người Pháp
trước dân chúng bản xứ, trông coi việc giám sát trị an, hành chính và
phân phối thuế má trong địa bàn của mình. Họ được tổ chức một bộ
máy giúp việc gồm 1 đề lại, 1 thông lại, 3 đội trưởng, 50 lính mã tà, 100
dân quân để giúp sức. Các quan huyện này đặt dưới quyền của một tư
lệnh tỉnh người Pháp (có quyền hạn như tổng đốc và lãnh binh xưa).
Bonard còn đặt thêm hai chức thanh tra bản xứ vụ người Pháp để giúp
đỡ viên tư lệnh tỉnh, họ có nhiệm vụ giám sát công việc của các quan

1. Ông vốn được đào tạo tại Trường Bách khoa (Pháp), từng giữ chức vụ
Ủy viên chính phủ ở Tahiti năm 1849, Thống đốc Guyane vào năm 1853. Xem
Phạm Cao Dương: “Một vài khía cạnh đáng chú ý trong đường lối cai trị của
người Pháp ở Nam Kỳ từ 1861-1867”, trong Kỷ niệm 100 năm ngày Pháp chiếm
Nam Kỳ, Sđd, tr.88.
CHƯƠNG II: HỆ THỐNG QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH... 123

huyện, hằng tháng gửi phúc trình lên cho thượng cấp, xử án, thu thuế,
tuyển mộ dân quân... Chế độ này từ cuối tháng 2-1862 dần được áp
dụng ở Gia Định thay thế cho các Nha bản xứ vụ mà Charner đã cố
công xây dựng1.
Thêm vào đó, Thống đốc Bonard còn thành lập một số cơ quan
chuyên môn để giúp sức cho hệ thống cai trị như Văn phòng trung ương
An Nam lo các việc liên quan tới người bản xứ do Legrand de la Liraye
phụ trách, Ủy ban Tư vấn về bản xứ vụ, Nha Thanh tra bản xứ vụ, Nha
dân sự vụ lo các vấn đề về người Âu dân sự, Tổng cục Cảnh sát, lập đội
bảo an...
Tuy nhiên, ngay lập tức Bonard phải đối mặt với một thách đố cốt
lõi trong mô hình chính quyền trên, đó là vấn đề nhân sự. Ông ta không
sao kiếm được một người bản xứ có đủ tài năng và uy tín để đảm trách
những nhiệm vụ giao phó. Những nho sĩ quan lại cũ thì lánh ra vùng mà
triều Nguyễn vẫn kiểm soát, tỏ thái độ bất hợp tác rõ rệt với thực dân
Pháp. Ở những đồn bốt chiếm được bằng quân sự, Pháp bổ nhiệm viên
chức bản xứ để cai quản nhưng ngay khi quân Pháp rời đi đã lập tức bị
đánh bật, hoặc những người được dân chúng chấp thuận lại thường hoạt
động hai mặt và sẵn sàng chống lại người Pháp2. Bonard gần như chỉ có
sự lựa chọn nơi những tín đồ Công giáo hoặc những phần tử vụ lợi mà
thôi. Do vậy, sự vận hành của bộ máy chính quyền thực dân mà ông xây
dựng rất khó khăn và nhiều tổn thất do sự chống đối mạnh hơn từ dân
bản xứ và cả một bộ phận giáo sĩ người Pháp tại giáo đoàn Nam Kỳ.
Sau hơn một năm, Bonard đã phải giao lại trọng trách cho La
Grandière. Dưới tài năng của mình, La Grandière cùng các cộng sự đã

1. Xem Phạm Cao Dương: “Một vài khía cạnh đáng chú ý trong đường lối cai
trị của người Pháp ở Nam Kỳ từ 1861-1867”, trong Kỷ niệm 100 năm ngày Pháp
chiếm Nam Kỳ, Sđd, tr.89.
2. Xem Luvê: Xứ Nam kỳ mộ đạo (La Cochinchine religieuse), bản dịch tiếng
Việt của Hoàng Vân, Minh Thu, tư liệu Khoa Lịch sử, Trường Đại học Khoa học
xã hội và Nhân văn - Đại học Quốc gia Hà Nội, t.2, tr.245.
124 VÙNG ĐẤT NAM BỘ VIII THIẾT CHẾ QUẢN LÝ XÃ HỘI

phác ra một mô hình cai trị có đường nét, hoạt động tương đối hiệu quả
tại Nam Kỳ.

II- CƠ CẤU HÀNH CHÍNH VÀ TỔ CHỨC BỘ MÁY QUẢN LÝ Ở NAM KỲ


ĐẾN TRƯỚC NĂM 1887

1. Cơ cấu hành chính

Nam Kỳ giữa thế kỷ XIX về mặt hành chính bao gồm sáu tỉnh: Gia
Định, Biên Hòa, Định Tường, Vĩnh Long, An Giang và Hà Tiên. Từ khi
thực dân Pháp đặt chân đến Gia Định, cùng với quá trình xâm lược và
bình định cho đến trước Liên bang Đông Dương được thành lập, sáu
tỉnh Nam Kỳ đã bị xáo trộn, xé lẻ ra thành trên 20 hạt theo cách phân
chia của người Pháp.
Thoạt đầu, quân Pháp chia Nam Kỳ thành nhiều “khu thanh tra”
(inspection) có viên tham biện người Pháp đứng đầu. Năm 1864, Đô
đốc Grandière chia 3 tỉnh miền Đông thành 9 khu vực chỉ huy: Bà Rịa,
Biên Hòa, Cần Giuộc, Mỹ Tho, Sài Gòn, Chợ Lớn, Tân An, Gò Công và
Tây Ninh1. Sau khi chiếm trọn 6 tỉnh (năm 1867), Chính phủ Pháp tổ
chức cuộc cai trị trên toàn cõi thuộc địa Nam Kỳ.
Về mặt hành chính địa phương, thực dân Pháp xóa bỏ cơ cấu hành
chính cấp trung gian tỉnh, phủ, huyện của nhà Nguyễn trước đây. Danh
xưng département thay cho phủ, sau được thay bằng circonscription
administrative (khu vực hành chính); arrondissement (địa hạt hay tiểu
khu) thay cho huyện. Dưới cấp hạt là cấp tổng (canton), dưới tổng là cấp
cơ sở làng xã.
Số hạt ở Nam Kỳ thay đổi liên tục. Năm 1871, có 18 hạt. Ngày
5-1-18762, Đô đốc Duperré, Tổng chỉ huy lực lượng viễn chinh Pháp

1. Xem Huỳnh Minh: Gia Định xưa và nay, Sài Gòn, 1973, tr.20.
2. Xem Dương Kinh Quốc: Việt Nam những sự kiện lịch sử 1858-1918, Nxb.
Giáo dục, Hà Nội, 1999, tr.106.
CHƯƠNG II: HỆ THỐNG QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH... 125

tại Nam Kỳ, ra Nghị định phân chia toàn bộ Nam Kỳ thành 4 khu vực
hành chính lớn là: Sài Gòn, Mỹ Tho, Vĩnh Long, Bát Xắc. Mỗi khu vực
hành chính lớn đó lại được chia nhỏ thành nhiều tiểu khu hành chính
(19 hạt).
1. Khu vực Sài Gòn gồm 5 tiểu khu: Tây Ninh, Thủ Dầu Một, Biên
Hòa, Bà Rịa, Gia Định (ngoại vi Sài Gòn);
2. Khu vực Mỹ Tho gồm 4 tiểu khu: Mỹ Tho, Gò Công, Tân An,
Chợ Lớn;
3. Khu vực Vĩnh Long gồm 4 tiểu khu: Vĩnh Long, Bến Tre, Trà
Vinh, Sa Đéc;
4. Khu vực Bát Xắc gồm 6 tiểu khu: Châu Đốc, Hà Tiên, Long
Xuyên, Rạch Giá, Cần Thơ, Sóc Trăng.
Theo cách phân chia này, 3 tỉnh miền Đông Nam Kỳ trước đó (Biên
Hòa, Gia Định, Định Tường) đã bị chia thành 9 tiểu khu: tỉnh Biên Hòa
cũ thành 3 tiểu khu là Thủ Dầu Một, Biên Hòa, Bà Rịa; tỉnh Gia Định
cũ thành 4 tiểu khu là Sài Gòn, Tây Ninh, Tân An, Chợ Lớn; tỉnh Định
Tường cũ thành 2 tiểu khu là Mỹ Tho và Gò Công. Còn 3 tỉnh miền
Tây Nam Kỳ trước đó (Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên) đã bị chia thành
10 tiểu khu: tỉnh Vĩnh Long thành 3 tiểu khu: Vĩnh Long, Bến Tre, Trà
Vinh; tỉnh An Giang thành 5 tiểu khu: Châu Đốc, Long Xuyên, Cần Thơ,
Sóc Trăng, Sa Đéc; tỉnh Hà Tiên thành 2 tiểu khu: Hà Tiên và Rạch Giá.
Năm 1880, hạt 20 được thành lập, gồm 2 tổng Bình Chánh Thượng
và Dương Minh. Tổng Bình Chánh Thượng khi đó bao gồm địa bàn
vùng Tân Định, Chợ Đũi, Đa Kao, Hòa Hưng và một phần Quận 3
Thành phố Hồ Chí Minh ngày nay; còn tổng Dương Minh gồm các làng
xã thuộc khu vực Cầu Kho, Chợ Quán, Chợ Đũi, Đa Kao, Khánh Hội,
Bàu Đồn, Hòa Hưng...1.

1. Xem Nguyễn Phan Quang: Tổ chức hành chính Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia
Định”, tạp chí Xưa và Nay, số 55 B, 1998, tr.7.
126 VÙNG ĐẤT NAM BỘ VIII THIẾT CHẾ QUẢN LÝ XÃ HỘI

Vào những năm 1880-1881, Nam Kỳ gồm có 4 khu vực hành chính
kể trên chia thành 20 hạt (năm 1881 bỏ “hạt trung tâm” lập năm 1880,
còn 19 hạt), phân thành 211 tổng. Cấp cơ sở có 2.430 làng, số lượng làng
cũng thay đổi do việc cắt nhập địa giới; năm 1881, còn lại 2.420 làng1.
Ngày 18-12-1882, Thống đốc Nam Kỳ ra nghị định tách hai tổng
của tiểu khu Sóc Trăng, và ba tổng của tiểu khu Rạch Giá để thành lập
một tiểu khu mới nữa là tiểu khu Bạc Liêu và cho trực thuộc khu vực
Bát Xắc. Như vậy, Bạc Liêu bao gồm một phần địa bàn tỉnh An Giang
cũ và một phần Hà Tiên cũ; tới ngày 18-12-1882, toàn Nam Kỳ có 20
tiểu khu.

2. Tổ chức bộ máy cai trị


Trải qua các cuộc “thử nghiệm” bộ máy cai trị từ “trực trị” của
Charner qua “cai trị gián tiếp” của Bonard, sự lúng túng của thực dân
Pháp trong việc “làm chủ” thuộc địa Nam Kỳ đã lộ rõ.
Đô đốc Grandière - người kế nhiệm Bonard đến Sài Gòn vào tháng
5-1863. Dưới tài năng cai trị của Grandière và những người kế nhiệm,
các tổ chức trong bộ máy đó trở nên quy củ và ổn định hơn. Cùng với
đó, Grandière còn ghi dấu ấn thực dân của mình bằng việc hoàn thành
cuộc bình định lục tỉnh và năm 1867. Từ đây, mô hình “trực trị” được
mở rộng ra toàn cõi Nam Kỳ, trở nên chắc chắn hơn trong suốt thời kỳ
cận đại.

a) Cấp “trung ương”


Ở cấp cao nhất của xứ thuộc địa Nam Kỳ, thực dân Pháp xây
dựng một bộ máy hành chính rập khuôn theo những gì đã xây dựng

1. “Division territoriale administrative de la Cochinchine”, trong Rapport au


Conseil Colonial, 1880-1881, Sài Gòn, 1881. Dẫn theo Tôn Nữ Quỳnh Trân: “Mô
hình tổ chức chính quyền và phương thức quản lý đô thị ở Nam Kỳ dưới thời Pháp
thuộc”, trong Một số vấn đề lịch sử vùng đất Nam Bộ thời kỳ cận đại, Nxb. Thế giới,
Hà Nội, 2009, tr.52.
CHƯƠNG II: HỆ THỐNG QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH... 127

và đạt được ở quần đảo Antilles và đảo Réunion - những thuộc địa
“cũ” của Pháp.
Đứng đầu xứ thuộc địa là chức danh thống đốc, do Bộ Hải quân và
Thuộc địa Pháp cử ra. Chế độ thống đốc quân sự được duy trì cho đến
năm 1879, viên thống đốc nắm toàn quyền về cả mặt quân sự và dân sự.
Dưới thống đốc có ba chức danh cao cấp, là: tổng biện lý (procureur
général) chịu trách nhiệm về mặt pháp chế; giám đốc Nha nội chính
(Directeur de l’intérieur) chịu trách nhiệm về những công việc có liên
quan đến xứ thuộc địa; Chánh chủ trì (Ordonnateur) chịu trách nhiệm
về những công việc có liên quan đến vấn đề tài chính và chính quốc.
Bốn viên chức thực dân cao cấp này họp lại thành Hội đồng Tư mật
(Conseil Privé), đặt dưới sự chủ trì của thống đốc. Hội đồng Tư mật được
thành lập theo Sắc lệnh ngày 21-1-1869. Chức năng của Hội đồng là bàn
bạc và quyết định mọi vấn đề có liên quan đến lĩnh vực chuyên môn của
các viên chức cao cấp này, như về pháp chế, nội trị, tài chính, và các vấn
đề liên quan đến chính quốc, v.v.. Nhân viên các cấp dưới quyền của ba
ủy viên này không được trực tiếp liên hệ thẳng với thống đốc, mà phải
thông qua viên chánh quan theo ngành dọc của mình.
Nhưng, sau khi bãi bỏ chức chánh chủ trì (Nghị định ngày 3-10-
1882), rồi thiết lập chế độ Toàn quyền Đông Dương (Sắc lệnh ngày 17-
10-1887), và bãi bỏ chức giám đốc Nha Nội chính (Sắc lệnh ngày 29-10-
1887), thì Hội đồng Tư mật Nam Kỳ được cải tổ lại như sau: Chủ tịch
Hội đồng vẫn là Thống đốc Nam Kỳ; các ủy viên Hội đồng gồm: Tổng
chỉ huy các lực lượng quân đội viễn chinh Pháp đóng tại Nam Kỳ; tổng
biện lý; hai cố vấn người Pháp và hai cố vấn người Việt, do thống đốc
giới thiệu và Toàn quyền Đông Dương bổ nhiệm. Chức năng của Hội
đồng Tư mật, do đó, cũng được quy định lại: góp ý kiến về việc lập các
ngân sách và các khoản chi phí hành chính; góp ý về vấn đề thuế khóa;
quy định các khu vực hành chính, v.v. tức là thông qua những ý kiến
đóng góp của Hội đồng Thuộc địa Nam Kỳ (Conseil Colonial) và Hội
đồng hàng tỉnh Nam Kỳ (Conseil Provincial).
128 VÙNG ĐẤT NAM BỘ VIII THIẾT CHẾ QUẢN LÝ XÃ HỘI

Hệ thống giúp việc cho thống đốc còn bao gồm một số tổ chức cấp
cao của xứ thuộc địa như: Nha Nội chính (Direction de l’Intérieur), Hội
đồng Thuộc địa Nam Kỳ...
Nha Nội chính được thành lập theo Nghị định ngày 9-11-1864 của
Thống đốc Nam Kỳ Grandière. Đây là một tổ chức chuyên nghiên cứu,
theo dõi và giải quyết tất cả các công việc có liên quan đến xứ thuộc địa.
Nha Nội chính gồm có ba ban: Ban Tổng Thư ký chịu trách nhiệm liên
hệ với các viên “thanh tra công việc bản xứ”, và phụ trách công tác mật
vụ, cảnh sát, giáo dục, tôn giáo; Ban Hành chính, phụ trách việc lập ngân
sách, công chính, tài chính và nhân sự; Ban Canh nông - Thương mại - Kỹ
nghệ phụ trách các công việc có liên quan đến các ngành chuyên môn
đó, đồng thời kiêm luôn cả việc xét xử người bản xứ. Đứng đầu Nha Nội
chính là một viên giám đốc (directeur) Paulin Vial - một trong những
viên “Thanh tra công việc bản xứ” đầu tiên dưới thời Bonard (1862) -
được cử làm Giám đốc đầu tiên của Nha Nội chính, và chính thức nhậm
chức ngày 1-12-1864. Ngày 29-10-1887, Tổng thống Pháp ra sắc lệnh bãi
bỏ chức giám đốc của Nha Nội chính và chuyển giao quyền hành của
giám đốc sang tay Thống đốc Nam Kỳ.
Hội đồng Thuộc địa Nam Kỳ được thành lập theo Sắc lệnh ngày
8-2-1880 của Tổng thống Pháp. Ủy viên của Hội đồng gồm cả người
Pháp và người Việt. Những viên chức đang tại chức không được tham
dự vào Hội đồng. Ủy viên Hội đồng được lựa chọn thông qua bầu cử.
Ủy viên người Pháp bầu riêng. Ủy viên người Việt bầu riêng, và phải
do các kỳ hào (notables) của từng khu vực hành chính (circonscription
administrative) lựa chọn bầu ra. Chức năng của Hội đồng là tư vấn cho
chính quyền. Hội đồng có thể bàn mọi vấn đề như về thuế má, thu - chi
của các ngân sách, phân chia khu vực hành chính, v.v. tức là những vấn
đề gì có liên quan đến quyền lợi kinh tế và tài chính của cả người Pháp
và người Việt ở Nam Kỳ. Tất nhiên, Hội đồng phải ưu tiên cho những
quyền lợi kinh tế và tài chính của những người có chân trong Hội đồng.
Tuyệt đối Hội đồng không được đề cập tới các vấn đề chính trị.
CHƯƠNG II: HỆ THỐNG QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH... 129

Hội đồng Thuộc địa mỗi năm họp một kỳ, trong vòng tối đa 20 ngày,
do Thống đốc Nam Kỳ triệu tập. Nhưng Thống đốc cũng có quyền triệu
tập phiên họp bất thường của Hội đồng, có quyền kéo dài kì họp bất
thường của Hội đồng, có quyền kéo dài kỳ họp, và có quyền giải tán
toàn thể Hội đồng để lập Hội đồng mới khi cần thiết. Mỗi kỳ họp, Hội
đồng sẽ bỏ phiếu kín để bầu ra Chủ tịch, Phó Chủ tịch, và Ban Thư ký
của kỳ họp. Khi họp phải dùng tiếng Pháp, có phiên dịch. Những vấn
đề đưa ra họp bàn, đều phải lấy biểu quyết; ý kiến nào được tuyệt đối
tán thành mới được coi là có giá trị. Cuộc họp phải lập biên bản để sau
đó còn phải nộp cho Thống đốc, và sẽ được đưa ra thông qua trước Hội
đồng Tư mật, Thống đốc có quyền tham dự mọi phiên họp của Hội
đồng Thuộc địa.
Sau ngày thành lập Liên bang Đông Dương, Toàn quyền Đông
Dương ra Nghị định ngày 30-1-1892 quy định thêm: Chỉ những người
Việt nói được tiếng Pháp mới được lựa chọn để bầu vào Hội đồng Thuộc
địa; tổng số ủy viên được quy định là 12 người, chủ yếu là người Pháp
và người Việt đã nhập quốc tịch Pháp; số ủy viên này vừa do bầu cử,
vừa do chỉ định. Bên cạnh Hội đồng Thuộc địa còn có Ủy ban thường
trực Hội đồng Thuộc địa (Commission Permanente de Conseil Colonial)
được thành lập theo Sắc lệnh ngày 3-11-1910 của Tổng thống Pháp.
Số ủy viên của Ủy ban này có từ 3 đến 5 người, trong đó chỉ có 1 ủy
viên người Việt. Sau mỗi khóa họp thường kỳ hằng năm của Hội đồng
Thuộc địa, các ủy viên của Hội đồng sẽ bầu ra Ủy ban thường trực này.
Chủ tịch Ủy ban thường trực phải là người Pháp và là người cao tuổi
nhất. Ủy ban thường trực Hội đồng Thuộc địa có trách nhiệm họp bàn
và giải quyết những vấn đề đã được toàn thể Hội đồng Thuộc địa ra
quyết định sau khóa họp thường niên của nó. Các cuộc họp của Ủy ban
thường trực Hội đồng Thuộc địa đều do Thống đốc triệu tập. Thống
đốc, hoặc đại diện của Thống đốc, có quyền tham dự mọi cuộc họp của
Ủy ban Thường trực. Thư ký các cuộc họp của Ủy ban thường trực sẽ
do Ủy ban thường trực bầu. Nhưng, những nhân viên làm công việc
130 VÙNG ĐẤT NAM BỘ VIII THIẾT CHẾ QUẢN LÝ XÃ HỘI

thư ký biên tập các văn bản của cuộc họp nếu có vấn đề gì mà giữa Ủy
ban thường trực và Chính quyền (Thống đốc, hoặc người đại diện của
Thống đốc) không được nhất trí, thì vấn đề đó sẽ gác lại để đưa ra bàn
tại hội nghị toàn thể Hội đồng Thuộc địa khóa họp năm sau; nhưng,
trong trường hợp khẩn cấp, Thống đốc sẽ triệu tập Hội đồng Thuộc địa
phiên họp bất thường ngay lập tức. Ủy ban thường trực báo cáo trước
Hội đồng Thuộc địa những việc mà Ủy ban đã làm trong năm qua, tại
mỗi khóa họp thường niên của Hội đồng Thuộc địa Nam Kỳ.

b) Cấp khu (circonscription)


Theo tinh thần của Sắc lệnh ngày 10-2-1873 của Tổng thống Pháp
thì mỗi khu vực hành chính lớn đó phải do ba viên chức cùng phối hợp
điều hành. Viên chức hạng nhất phụ trách tư pháp và trực thuộc viên
tổng biện lý. Viên chức hạng nhì phụ trách hành chính và trực thuộc giám
đốc Nội chính. Viên chức hạng ba phụ trách thuế khóa và trực thuộc viên
chánh chủ trì. Viên chức hạng ba phải là những học viên đã tốt nghiệp
Trường Tập sự (Collège des Stagiaires) do thực dân Pháp mở tại Sài Gòn
từ năm 1873 và giao cho Trương Vĩnh Ký điều hành. Trường này sau đổi
thành Trường Thông ngôn (Collège des Interprètes). Luro - một trong số
“Thanh tra công việc bản xứ” đầu tiên ở Nam Kỳ dưới thời Bonard - là một
người sáng lập ra cái “lò đào tạo quan cai trị thực dân” này, và là người đã
soạn Giáo trình về tổ chức cai trị hành chính của người Việt Nam (Cours
d’Administration Annamile) để đưa vào giảng dạy ở trường này, từ năm
1874. Học viên ra trường tối thiểu phải làm việc 2 năm ở hạng ba (hạng
thấp nhất) rồi sau đó mới được dự kỳ thi chuyển lên hạng nhất. Một số
viên chức hạng nhất sẽ được lựa chọn cho giữ chức “Thanh tra công việc
bản xứ” và được làm việc tại Sài Gòn. Đến khi bãi bỏ chức chánh chủ trì
(từ ngày 3-10-1882) và chức Giám đốc Nội chính (từ ngày 29-10-1887)
thì các viên chức hạng nhì và hạng ba đều trực thuộc Thống đốc Nam Kỳ.
Thực dân Pháp cho rằng đây là một khuynh hướng “tiến bộ”, khuynh
hướng muốn chính quy hóa tổ chức tư pháp theo như “chính quốc”,
CHƯƠNG II: HỆ THỐNG QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH... 131

tức là phân chia ranh giới giữa hai chức năng hành chính và tư pháp,
không tập trung hai chức năng đó vào tay một người. Thực ra, như
chúng ta đã biết, nền hành chính của Việt Nam lúc bấy giờ đã có khuynh
hướng này rồi, và đã được thể hiện thông qua các chức danh: tổng đốc
(hoặc tuần phủ) phụ trách chung; án sát phụ trách tư pháp; bố chánh phụ
trách thuế khóa - trên một đơn vị hành chính cấp tỉnh loại lớn.

c) Cấp tiểu khu (arrondissement)


Mỗi tiểu khu (từ ngày 1-1-1900 đổi gọi là tỉnh) có thể được chia thành
một số đơn vị gọi là “trung tâm hành chính” (Centres administratif). Đứng
đầu mỗi tiểu khu là một viên quan cai trị người Pháp (administrateur).
Đứng đầu mỗi trung tâm hành chính là một viên chức người Việt.
Trung tâm hành chính loại lớn do chức đốc phủ sứ nắm; loại vừa do một
chức tri phủ nắm; loại nhỏ do một chức tri huyện nắm. Điều cần chú ý
là Nam Kỳ lúc đó không chia thành cấp phủ và cấp huyện. Do đó chức
tri phủ, tri huyện ở đây chỉ là chức vị tương đương với tri phủ, tri huyện
thời phong kiến; còn chức đốc phủ sứ tương đương với chức Tuần phủ
thời trước. Song, cũng có những trung tâm hành chính do một viên
chức người Pháp nắm giữ. Nhưng, dù là người Pháp hay người Việt, tất
cả các viên chức đứng đầu các trung tâm hành chính đó đều trực thuộc
viên quan cai trị người Pháp đứng đầu cấp tiểu khu.
Để bộ máy cai trị cấp tiểu khu được vận hành tốt hơn, Hội đồng tiểu
khu (Conseil d’arrondissement) được thành lập theo Nghị định ngày 15-
5-1882 của Thống đốc Nam Kỳ (từ ngày 1-1-1900 được đổi gọi là Hội
đồng hàng tỉnh). Ủy viên Hội đồng tiểu khu gồm đại diện kỳ hào hiện
dịch ở cấp tổng. Mỗi tổng bầu một đại biểu vào Hội đồng. Ai không phải
là kỳ hào hiện dịch hàng tổng mà muốn được bầu vào Hội đồng thì phải
đạt đủ những tiêu chuẩn sau: tuổi từ 30 tuổi trở lên; chưa bao giờ can
án; đã có 2 năm làm “việc làng” hoặc “việc nước”; hiện tại không phải
là viên chức đang được hưởng lương của bất kỳ một loại ngân sách nào.
Ngoài ra, tất cả các viên đốc Phủ sứ, tri phủ, tri huyện thuộc tiểu khu
132 VÙNG ĐẤT NAM BỘ VIII THIẾT CHẾ QUẢN LÝ XÃ HỘI

nào thì đều mặc nhiên là những ủy viên của Hội đồng tiểu khu đó. Chủ
tịch Hội đồng là viên quan cai trị đứng đầu tiểu khu (sau là quan cai trị
chủ tỉnh). Hội đồng có chức năng tư vấn cho chính quyền. Cụ thể là:
thảo luận và quyết nghị mọi vấn đề về kinh tế, tài chính, hành chính, v.v.
“có liên quan đến địa phương, như lập ngân sách thu - chi hằng năm;
phân loại ruộng để định mức thuế; đề xuất cách thức thu thuế; phân
chia lại các khu vực trong địa phương, từ cấp xã trở lên; thiết lập đường
sá, v.v. nhưng tuyệt đối không được bàn đến chính trị1. Các quyết nghị
của Hội đồng phải được Thống đốc Nam Kỳ chuẩn y trước Hội đồng
Tư mật Nam Kỳ mới được đưa ra thi hành. Trong trường hợp cần thiết,
theo đề nghị của quan cai trị đứng đầu tiểu khu (sau là tỉnh), Thống đốc
có quyền ra nghị định giải tán Hội đồng.

d) Cấp tổng
Mỗi tiểu khu được chia thành nhiều tổng (canton). Đứng đầu mỗi
tổng là chánh tổng, phó tổng người Việt. Ở Nam Kỳ, chánh tổng, phó
tổng thực sự được xếp trong ngạch nhân viên hành chính, có hưởng
lương và có xếp hạng. Chánh tổng gồm ba hạng. Phó tổng gồm hai
hạng. Phải ở hạng thấp một thời gian (từ 2 năm trở lên) mới được xét
tuyển lên hạng sát trên. Trong thời kỳ này, chánh tổng, phó tổng do các
viên thanh tra chỉ định.

e) Cấp xã
Thời kỳ này thực dân Pháp chưa trực tiếp can thiệp vào tổ chức
hành chính cấp xã. Mỗi tổng được chia thành nhiều xã. Xã trưởng và
phó lý là những người thay mặt xã dân làm trung gian giao tiếp giữa cấp
xã với tổ chức hành chính cấp trên.

1. Xem J. De Galambert: Les Administrations et les services publics indochinois,


Hà Nội, 1931; dẫn theo Nguyễn Khánh Toàn (Chủ biên): Lịch sử Việt Nam, tập 2:
(1858-1945), Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 2004, tr.102.
CHƯƠNG II: HỆ THỐNG QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH... 133

Tuy vậy, trên con đường hoàn thiện bộ máy cai trị của mình, thực
dân Pháp từng bước với tay xuống làng xã thông qua các nghị định, sắc
lệnh trước khi tiến hành mạnh mẽ cuộc “cải lương hương chính” trên
khắp ba kỳ.
Ngày 15-11-1880, Thống đốc Nam Kỳ ra Nghị định quy định cách
thức đánh thuế ruộng và thuế thân ở Nam Kỳ. Chế độ đánh thuế thân
theo kiểu phân bổ cho từng làng của nhà Nguyễn trước kia bị thay thế
bởi quy định mức thuế thân cụ thể cho mỗi nội đinh.
Ngày 5-10-1882, Tổng thống Pháp ban hành Sắc lệnh cho phép
Thống đốc Nam Kỳ được thông qua Hội đồng Tư mật bắt các làng xã
đóng các khoản phí nhằm hỗ trợ chính quyền địa phương phòng ngừa,
đàn áp các cuộc đấu tranh chống lại thực dân Pháp trong phạm vi làng
xã mình.
Ngày 3-10-1883, Thực dân Pháp ra Sắc lệnh bắt làng xã ở Nam
Kỳ phải nộp sổ khai sinh, khai tử, khai giá thú. Sắc lệnh này được
chính thức công bố ngày 26-3-1884. Theo đó, bất cứ việc sinh nở
nào xảy ra trong làng đều phải khai báo trong vòng 8 ngày, việc tang
phải báo trong vòng 3 ngày, khai báo xong mới được tiến hành chôn
cất. Ai không thực hiện sẽ bị phạt từ 5 đến 50 phơrăng. Ai cố tình vi
phạm việc làm hộ tịch sẽ bị phạt từ 500 đến 1.000 phơrăng và bị tù
từ 6 tháng đến 2 năm1.
Trước ngày thành lập Liên bang Đông Dương, thực dân Pháp đã
cho tiến hành trên quy mô lớn việc đo đạc, cắm mốc toàn diện ruộng
đất để nắm được những số liệu cụ thể về số lượng cũng như từng loại
quyền sở hữu ruộng đất trong toàn xứ đến tận cấp xã theo chỉ thị của
Giám đốc Nha Nội chính ngày 5-8-1887.

1. Ernest Outrey: Nouveau recueil de législation cqnisale et communale


annamite de Cochinchine, Imprimerie J. Việt, Sài Gòn, 1928, tr.165. Dẫn theo Ngô
Văn Hòa: “Tổ chức quản lý xã thôn và cộng đồng làng xã ở Nam Kỳ thời Pháp
thuộc”, tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, số 5-1983, tr.53.
134 VÙNG ĐẤT NAM BỘ VIII THIẾT CHẾ QUẢN LÝ XÃ HỘI

Trong quá trình bình định Nam Kỳ, thực dân Pháp vẫn giữ nguyên
cơ cấu tổ chức làng xã cũ, có lợi cho chúng trong việc đảm bảo trị an,
thu thế, thi hành pháp luật và mệnh lệnh cấp trên. Điều này vừa tránh
những xáo trộn không cần thiết có thể gây bất lợi cho việc cai trị của
Pháp, đồng thời cũng làm giảm bớt độ cồng kềnh của bộ máy chính
quyền thực dân đang trên đường hoàn thiện.

g) Cấp thành phố

Trong thời kỳ này, thực dân Pháp đã thành lập hai thành phố lớn
ở Nam Kỳ là Sài Gòn và Chợ Lớn, đây là loại hình đô thị quản lý kiểu
phương Tây đầu tiên ở nước ta, do người Pháp trực tiếp quy hoạch và
cai quản.
Ngày 8-1-1877, Tổng thống Pháp ký Sắc lệnh chính thức thành lập
thành phố Sài Gòn. Thành phố Sài Gòn được xếp vào loại “thành phố lớn”
(grande municipalité), hay còn gọi là “thành phố cấp I” (municipalité de
première classe), và do đó phải được thành lập bằng sắc lệnh. Đứng đầu
thành phố Sài Gòn là một viên đốc lý (maire) và có thể có thêm hai phó
đốc lý (maire- adjoint) phụ tá. Đốc lý phải được lựa chọn thông qua bầu
cử. Đốc lý có mọi quyền hành như viên quan cai trị đứng đầu tiểu khu
(sau gọi là quan chủ tỉnh). Ngoài ra đốc lý còn có quyền ra nghị định,
gọi là “nghị định thành phố” (arrêté municipal), về những vấn đề có
liên quan đến thành phố mình cai quản. Phụ tá cho đốc lý còn có Hội
đồng thành phố (Conseil municipal). Ủy viên của Hội đồng thành phố
cũng phải được lựa chọn thông qua bầu cử. Đốc lý là Chủ tịch Hội đồng
Thành phố.
Hội đồng thành phố có ba chức năng rõ rệt: Thứ nhất, bàn bạc, lấy
biểu quyết rồi ra quyết định đối với những vấn đề thuộc riêng thành phố;
song, những quyết định đó chỉ được thực hiện sau khi đã được Thống
đốc Nam Kỳ duyệt thông qua (và khi có chế độ Toàn quyền Đông Dương
CHƯƠNG II: HỆ THỐNG QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH... 135

thì những quyết định quan trọng phải được Toàn quyền Đông Dương
chuẩn y); Thứ hai, góp ý kiến về những vấn đề mà cấp trên yêu cầu;
Thứ ba, đề đạt mọi nguyện vọng có liên quan đến lợi ích của thành phố
lên cấp trên; song, tuyệt đối không được đề cập tới vấn đề chính trị hoặc
những vấn đề có liên quan đến công việc cai trị chung. Thống đốc Nam
Kỳ có quyền giải tán Hội đồng thành phố. Đây là tổ chức cai trị thành
phố cấp I đầu tiên của thực dân Pháp ở Việt Nam.
Ngày 20-10-1879, Thống đốc Nam Kỳ Charles Le Myre de Vilers
ra nghị định thành lập thành phố Chợ Lớn (Municipalité de Chợ Lớn).
Thành phố này được xếp vào loại “thành phố cấp II” (municipalité de
deuxième classe), và do đó, chỉ được thành lập bằng nghị định. Đứng
đầu thành phố cấp II đầu tiên này cũng là một viên đốc lý, quyền hành
cũng như quyền hành của đốc lý thành phố cấp I Sài Gòn kể trên.
Nhưng, tổ chức phụ tá cho đốc lý thành phố cấp II chỉ được gọi là Ủy
ban thành phố (Commission municipale). Chủ tịch của Ủy ban thành
phố là đốc lý; các ủy viên phần lớn do thống đốc lựa chọn và chỉ định,
và số còn lại mới phải thông qua bầu cử. Chức năng của nó cũng như
chức năng của Hội đồng thành phố cấp I. Khi cần thiết Thống đốc Nam
Kỳ có thể ra nghị định giải tán Ủy ban thành phố.

III- CƠ CẤU HÀNH CHÍNH VÀ TỔ CHỨC BỘ MÁY QUẢN LÝ Ở NAM KỲ


TỪ NĂM 1887 ĐẾN NĂM 1945

1. Nam Kỳ trong cơ cấu Liên bang Đông Dương

a) Sự thành lập Liên bang Đông Dương và bộ máy chính phủ


thuộc địa

Sau khi Hiệp ước Patenôtre được ký kết năm 1884, cho đến năm
1887, có hai chính quyền Pháp khác nhau cùng cai trị xứ Đông Dương:
chính quyền của Thống đốc Nam Kỳ trực thuộc Bộ Thuộc địa, có quyền
136 VÙNG ĐẤT NAM BỘ VIII THIẾT CHẾ QUẢN LÝ XÃ HỘI

điều khiển Tổng Công sứ ở Campuchia; chính quyền của Tổng Công sứ
Trung Kỳ - Bắc Kỳ trực thuộc Bộ Ngoại giao và đều có ngân sách riêng.
Sự đối lập giữa các nhà chức trách quân sự và dân sự, sự xung khắc
giữa các bộ chức năng ở Paris ngày càng trầm trọng. Bộ Thuộc địa muốn
tranh giành sự đỡ đầu nền bảo hộ Trung - Bắc Kỳ với Bộ Ngoại giao; các
nhà buôn ở Đông Dương bất mãn với những nhà công nghiệp ở Pháp
về chuyện thuế hải quan, các Hội truyền giáo yêu sách đòi được đối xử
ưu đãi... cùng với việc làm chủ một cách khó khăn xã hội Việt Nam cũng
làm sâu sắc thêm những mâu thuẫn quyền lợi có nguy cơ xé nát công
cuộc thực dân ở đây1.
Mô hình liên bang đã dung hòa và hóa giải những đối lập trong
quan điểm về hình thức tổ chức cai trị Đông Dương giữa các cánh thực
dân. Thể chế này đảm bảo quyền chỉ đạo thống nhất trong xâm lược và
thống trị của Chính phủ Pháp. Sắc lệnh ngày 17 và ngày 20-10-1887 của
Tổng thống Pháp đánh dấu sự ra đời của Liên bang Đông Dương, khi
đó bao gồm Việt Nam và Campuchia (lúc đó quen gọi là xứ Cao Miên).
Trong đó, Việt Nam bị chia ra làm ba xứ2: Bắc Kỳ là đất bán bảo hộ,
Trung Kỳ là đất bảo hộ và Nam Kỳ là xứ thuộc địa. Năm 1899, nước Lào
(lúc đó quen gọi là xứ Ai Lao) bị thực dân Pháp sáp nhập vào Liên bang
Đông Dương3. Đến năm 1900, còn có thêm Quảng Châu Loan-phần đất
Pháp “thuê có thời hạn” (territoire à bail) của Trung Quốc cũng thuộc
Liên bang Đông Dương. Như vậy, về thể chế chính trị Liên bang Đông
Dương gồm ba loại hình: thuộc địa (Nam Kỳ), bảo hộ (Bắc Kỳ, Trung
Kỳ, Campuchia, Lào) và lãnh địa thuê (Quảng Châu Loan), song toàn bộ
Liên bang Đông Dương được đặt trong phạm trù thuộc địa, trực thuộc

1. Xem Pièrre Brocheux và Daniel Hémery: Đông Dương nền thực dân nước
đôi, bản dịch của Phạm Văn Trọng, Nguyễn Trí Chỉ, Nguyễn Văn Khánh, Hà Nội,
2005, tr. 89.
2. Nền bảo hộ Trung Kỳ - Bắc Kỳ được tách ra riêng rẽ ngày 9-5-1899.
3. Xem Dương Kinh Quốc: Chính quyền thuộc địa ở Việt Nam trước Cách
mạng Tháng Tám năm 1945, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1988, tr.99-100.
CHƯƠNG II: HỆ THỐNG QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH... 137

Bộ Hải quân và Thuộc địa; đến năm 1891 trực thuộc Bộ Thuộc địa khi
bộ này được thành lập. Tên nước Việt Nam bị xóa trên bản đồ chính
trị thế giới1. Với Sắc lệnh ngày 21-4-1891, Liên bang Đông Dương trực
thuộc hoàn toàn Bộ Thuộc địa.
Cùng với việc hoàn chỉnh và củng cố bộ máy cai quản thuộc địa ở
chính quốc (Bộ Thuộc địa, Hội đồng Thuộc địa cấp cao, Tổng đại diện
các thuộc địa tại chính quốc...), bộ máy cai trị trực tiếp tại các thuộc địa
cũng được Chính phủ Pháp quan tâm. Xu hướng tăng cường sức mạnh
cho các bộ máy cai trị thuộc địa “địa phương” được chú trọng, nhiều sắc
lệnh của Tổng thống Pháp về việc mở rộng quyền hạn của người đứng
đầu các thuộc địa được ban hành.
Đứng đầu Liên bang Đông Dương là một viên Toàn quyền Pháp,
có trụ sở là Phủ Toàn quyền (ban đầu đặt tại Sài Gòn, sau đó chuyển
ra Hà Nội). Toàn quyền là người chịu trách nhiệm trước Bộ Thuộc địa
Pháp về mọi mặt của Đông Dương như chính trị, hành chính, quản lý
ngân sách chung... Khi mới thành lập Liên bang, thẩm quyền và trách
nhiệm của Toàn quyền Đông Dương nặng về mặt hành pháp. Đến
năm 1891, Toàn quyền được ủy nhiệm thi hành những quyền lực của
Cộng hòa Pháp tại Đông Dương.
Mức độ phụ thuộc của bộ máy thuộc địa Đông Dương đối với cơ
quan phụ trách chung tại Pháp ngày càng được giảm bớt. Với Sắc lệnh
ngày 20-10-1911 của Tổng thống Pháp, những nghị định do Toàn quyền
ban hành không cần phải có sự chuẩn y trước của Bộ Thuộc địa. Đến
Sắc lệnh ngày 11-9-1920, thủ tục chuẩn y trước của Bộ Thuộc địa đã bị

1. Từ năm 1887 đến năm 1945 đã có tất cả 33 Toàn quyền và Quyền Toàn
quyền nối tiếp nhau cai trị Đông Dương. Viên Toàn quyền đầu tiên là Constans
được phong làm Toàn quyền lâm thời Đông Dương ngày 3-1-1887, chính thức
nhậm chức ngày 16-11-1887, ngày 4-9-1888 từ chức. Viên Toàn quyền cuối cùng
là Decoux, Phó Thủy sư Đô đốc (Vice-Amiral d’ Escadre), được phong làm Toàn
quyền ngày 26-5-1940, chính thức nhậm chức ngày 19-7-1940, ngày 19-12-1941
được phong làm Tổng cao ủy Pháp tại Thái Bình Dương.
138 VÙNG ĐẤT NAM BỘ VIII THIẾT CHẾ QUẢN LÝ XÃ HỘI

hủy bỏ, Toàn quyền Đông Dương được rộng quyền hơn trong việc ban
bố các nghị định và quyết định vấn đề nhân sự ở địa phương. Sắc luật
ngày 27-11-1922 cho phép Toàn quyền được hưởng những đặc quyền
riêng: Khi đang thi hành công vụ được miễn truy cứu về hình sự; mọi
kiện tụng trước tòa án tại thuộc địa về dân sự không có hiệu lực, bắt
buộc phải đem về tòa án chính quốc.
Về tư pháp, Toàn quyền Đông Dương cũng có nhiều quyền hạn. Sắc
lệnh ngày 19-5-1919 cho phép Toàn quyền thay đổi hệ thống tư pháp
của Trung Kỳ và Lào. Với Sắc lệnh ngày 16-3-1921, Toàn quyền được
phép thiết lập các Tòa hòa giải ở Nam Kỳ và bổ nhiệm một số thẩm phán
người Việt vào hệ thống tư pháp Nam Kỳ để có thể xét xử tội phạm theo
luật nước Pháp bằng tiếng bản xứ. Toàn quyền có quyền trưng tập các sĩ
quan cảnh sát tư pháp để giải quyết những công việc cần thiết (theo Sắc
lệnh ngày 5-3-1927) khi có vấn đề. Chỉ Toàn quyền có quyền hạn cho
phép trả tự do những can phạm có đủ điều kiện cần thiết và tuyên bố
ân xá, giảm án sau khi tham khảo ý kiến của các tòa án bản xứ và chính
quyền địa phương. Với những tội phạm được xử tại các tòa án Pháp,
Toàn quyền chỉ có quyền nhận đơn xin ân xá và gửi về Tổng thống Pháp.
Riêng tội phạm về chính trị, Toàn quyền có quyền hạn rất lớn.
Viên chức đứng đầu Đông Dương này lập tại Bắc Kỳ các Hội đồng đề
hình để xét xử loại tội phạm này. Với Đạo luật ngày 10-3-1927 được
ban bố, Toàn quyền có quyền trục xuất người nước ngoài, cấm lưu
hành tại Đông Dương một số sách báo, tạp chí nước ngoài. Đồng thời,
ông ta cũng có quyền cho phép xuất bản tại Đông Dương những ấn
phẩm cần thiết không phải bằng tiếng Pháp.
Về quân sự (theo Sắc luật ngày 24-8-1929 và ngày 2-9-1929), Toàn
quyền là người chịu trách nhiệm cao nhất về quốc phòng trong và ngoài
Đông Dương, có quyền tự ý xếp đặt, sử dụng các lực lượng lục quân và
hải quân đóng tại đây trong những trường hợp quan trọng bằng các quy
chế. Toàn quyền có quyền ban bố và đình chỉ lệnh giới nghiêm, có tham
khảo ý kiến của Hội đồng Quốc phòng nhưng không nhất thiết phải
CHƯƠNG II: HỆ THỐNG QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH... 139

nghe theo Hội đồng này. Bản thân Toàn quyền cũng là Chủ tịch Hội
đồng Quốc phòng, do đó, quyền hạn đối với quân đội là rất lớn và chủ
động hơn trong việc trấn áp các lực lượng đối lập, phong trào đấu tranh
của nhân dân thuộc địa.
Giúp việc cho Toàn quyền là Hội đồng Tối cao Đông Dương, đến
năm 1911 đổi thành Hội đồng Chính phủ Đông Dương. Hội đồng này
gồm Tổng Thư ký Phủ Toàn quyền (thường gọi là Phó Toàn quyền),
Tổng Tư lệnh quân đội viễn chinh Pháp ở Đông Dương, Tổng Tư lệnh
lực lượng hải quân Pháp ở Viễn Đông, các viên quan cai trị đứng đầu
năm xứ: Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ, Cao Miên và Ai Lao, Chủ tịch các
Phòng Thương mại và Canh nông. Ngoài ra, còn có một số giám đốc cơ
quan chuyên môn.
Các cơ quan giúp việc Toàn quyền trực thuộc Phủ Toàn quyền
(chính phủ thuộc địa) ngày càng được hoàn bị như Văn phòng Chính
phủ (do viên chức Pháp đứng đầu, có sự hỗ trợ của các nhân viên
bản xứ) bao gồm một số cơ quan chức năng khác như Phòng Báo chí
(Nghị định thành lập ngày 14-8-1923), Ban Nhân sự...
Nhiều cơ quan chức năng khác được thiết lập để giúp việc cai trị của
Toàn quyền như: Ban Chỉ đạo tài chính (năm 1906), Sở Chỉ đạo các vấn
đề chính trị (năm 1921), Sở Pháp chế và Hành chính chung (năm 1921),
Cơ quan Hòa giải và Kiểm tra hành chính (năm 1921), Tổng Thanh
tra nông - lâm - súc (năm 1924), Tổng Thanh tra lao động (1927), Sở
Thương mại hàng hải (năm 1927), Cục Du lịch và Tuyền truyền Đông
Dương (năm 1928), Cơ quan nghiên cứu các vấn đề kinh tế (năm 1928),
Tổng Thanh tra mỏ và công nghiệp (năm 1929)... Nhiều hội đồng kỹ
thuật với nhiệm vụ cố vấn cho chính phủ được thành lập: Ban Hối đoái
(năm 1920), Ban Kiểm duyệt phim ảnh (năm 1921), Hội đồng Tư vấn
học chính (năm 1924), Hội đồng Cấp cao về vệ sinh (1928), Hội đồng
Khai thác thuộc địa trung ương (năm 1928)...
Dưới Phủ Toàn quyền là các cơ quan cai trị các xứ mà cách thức tổ
chức bộ máy hành chính ở từng nơi có điểm khác biệt.
140 VÙNG ĐẤT NAM BỘ VIII THIẾT CHẾ QUẢN LÝ XÃ HỘI

b) Nam Kỳ - xứ thuộc địa trong Liên bang Đông Dương


Theo ý kiến của một số học giả phương Tây, cấu trúc “Liên bang
Đông Dương” năm 1887 chỉ biểu thị một thỏa hiệp lai tạp dẫn đến một
sự đoàn kết tài chính tương đối giữa những lãnh thổ khác nhau của Liên
bang1. Trong cơ cấu Liên bang Đông Dương, thuộc địa Nam Kỳ có vị trí
quan trọng bậc nhất.
Đây là một xứ thuộc địa giàu có, người Pháp bước đầu đã có thành
tựu sau hơn hai thập kỷ tiến hành công cuộc cai trị, như lạc quan của
một số người đương thời: “Nam Kỳ là một mảnh đất đã tách rời lãnh
thổ của một ông vua chuyên chế Đông Dương có thể trong 25 năm đã
trở thành một mảnh đất Pháp trong trái tim, trong tư tưởng và trong
khát vọng. Nam Kỳ sẽ chia thành những hạt có toà án quận và do đó trở
thành một mảnh đất Pháp được trang bị đầy đủ tất cả những thể chế của
mẫu quốc bên bờ Thái Bình Dương”2.
Nguồn lợi mà Nam Kỳ thu được chính là mấu chốt quan trọng mà
bộ phận thực dân nơi đây đấu tranh với chính phủ để duy trì sự độc
lập đối với quyền hành chính phủ. Nguyên nhân sự phân rẽ và động cơ
chính của ý đồ tự trị là gì? Bởi vì Nam Kỳ không những có thể tự túc
được mà còn đóng góp phần chi phí chính để nuôi sống bộ máy thuộc
địa Đông Dương. Tính độc lập này còn được giữ cho đến trước năm
1897 khi chương trình cải cách của Paul Doumer được thực hiện nhằm
xây dựng một “nhà nước thuộc địa” chứ không chỉ là một “liên hiệp”
như trước đây. Bộ máy cai trị xứ Nam Kỳ, vì thế, có vai trò rất lớn trong
cơ cấu Liên bang Đông Dương suốt thời cận đại.
Vùng đất Nam Kỳ được coi như “một hạt” của nước Pháp ở Viễn
Đông, vì vậy mà dân chúng xứ Nam Kỳ cũng được hưởng một phần

1. Xem P. Isoart: La crétion de l’Union Indochinoise, Approches Asie, số 11-


1992, tr.45-57. Dẫn theo Pièrre Brocheux và Daniel Hémery: Đông Dương nền
thực dân nước đôi, Sđd, tr.90.
2. Báo Le Saigonais, số 93, ngày 17-2-1884.
CHƯƠNG II: HỆ THỐNG QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH... 141

những “quyền lợi công dân” Pháp. Sự tự do báo chí, ngôn luận được nới
lỏng hơn các địa phương khác, cánh cửa bộ máy hành chính ở đây cũng
rộng mở hơn với người bản xứ...
Sự tham gia của người Việt trong hệ thống hành chính Nam Kỳ đã
mở đường cho những xu hướng tranh đấu mới của quần chúng yêu
nước. Tiêu biểu là sự kiện ngày 30-4-1933, nhóm ứng viên của “Sổ
Lao động” (liên danh sách các ứng cử viên đại biểu cho công nhân và
một số trí thức cấp tiến) ra ứng cử Hội đồng thành phố Sài Gòn. Hai
trong số tám ứng cử viên của Sổ Lao động, đứng đầu là Nguyễn Văn
Tạo, một đảng viên cộng sản từ Pháp về, đã trúng cử. Trên các diễn
đàn nghị trường, các đại biểu của Sổ Lao động tiếp tục lên tiếng đòi ân
xá chính trị phạm, chống thuế thân, giải quyết nạn thất nghiệp... Lo sợ
trước ảnh hưởng ngày càng lớn của các đại biểu lao động, ngày 7-6-
1933, toà án thực dân đã đưa ra những lý do giả tạo (như tuổi tác, mức
thuế của ứng cử viên...) để hủy bỏ kết quả thắng cử của các đại biểu Sổ
Lao động. Sự kiện này đã mở đầu cho hoạt động của những lực lượng
tiến bộ trên lĩnh vực đấu tranh công khai trong các cuộc vận động
bầu cử vào các cơ quan như Hội đồng quản hạt Nam Kỳ, Hội đồng
thành phố Sài Gòn1... Tiếp đến là cuộc bầu cử năm 1935, trong số sáu
người trúng cử thì đại biểu Sổ Lao động giành được bốn, trong đó có
Nguyễn Văn Tạo. Đánh giá về sự kiện này, báo cáo của đại biểu Đông
Dương Lê Hồng Phong tại Đại Hội VII Quốc tế Cộng sản nêu rõ: “...
ảnh hưởng của Đảng Cộng sản đã tăng lên trong đám quần chúng chịu
ảnh hưởng của phái Quốc gia cải lương như người ta thấy trong cuộc
bầu cử Hội đồng thành phố Sài Gòn... Đây là lần đầu tiên công nhân
và nông dân thắng lợi trong việc đưa đại biểu của họ vào Hội đồng”2.

1. Xem Dương Trung Quốc: Việt Nam những sự kiện lịch sử (1919-1945), Nxb.
Giáo dục, Hà Nội, 2003, tr.224-225.
2. Dương Trung Quốc: Việt Nam những sự kiện lịch sử (1919-1945), Sđd,
tr.242-243, 264-265.
142 VÙNG ĐẤT NAM BỘ VIII THIẾT CHẾ QUẢN LÝ XÃ HỘI

2. Cơ cấu hành chính


Ngày 20-12-1899, Toàn quyền Đông Dương ra Nghị định đổi gọi
tiểu khu - đơn vị hành chính Nam Kỳ lúc bấy giờ - thành “tỉnh” và phân
chia thành ba miền (gồm 20 tỉnh) như sau, kể từ 1-1-1900:
- Miền Đông, gồm bốn tỉnh: Bà Rịa, Biên Hòa, Tây Ninh, Thủ
Dầu Một.
- Miền Trung, gồm chín tỉnh: Gia Định, Bến Tre, Chợ Lớn, Gò
Công, Mỹ Tho, Sa Đéc, Tân An, Trà Vinh, Vĩnh Long.
- Miền Tây, gồm bảy tỉnh: Bạc Liêu, Cần Thơ, Châu Đốc, Hà Tiên,
Long Xuyên, Rạch Giá, Sóc Trăng.
Đơn vị hành chính cấp tỉnh, thành phố ở Nam Kỳ liên tục thay đổi
trong suốt thời kỳ này. Ngày 9-2-1913, Toàn quyền Đông Dương ra
Nghị định sáp nhập tỉnh Gò Công vào tỉnh Mỹ Tho; Sa Đéc vào tỉnh
Vĩnh Long; Hà Tiên vào tỉnh Châu Đốc. Do đó, Nam Kỳ chỉ còn 17
tỉnh. Ngày 9-2-1924, Toàn quyền Đông Dương ra Nghị định thành lập
lại các tỉnh Gò Công, Sa Đéc, Hà Tiên như cũ. Từ đó, toàn Nam Kỳ lại
có 20 tỉnh1.
Ngày 18-12-1928, Toàn quyền Đông Dương ra Nghị định thành
lập các thành phố Bạc Liêu, Cần Thơ, Rạch Giá và Mỹ Tho. Ngày 31-
1-1935, Toàn quyền Đông Dương ra Nghị định thành lập thành phố
Long Xuyên2.
Thành phố Cap Xanh Giắc (Bà Rịa - Vũng Tàu) là một ví dụ. Ngày
1-5-1895, Thống đốc Nam Kỳ ra Nghị định tách thị xã “Cap Xanh Giắc”

1. Xem Dương Trung Quốc: Việt Nam những sự kiện lịch sử (1919-1945), Sđd,
tr. 264-265.
2. Văn bản này được Nghị định ngày 4-4-1935 của Thống đốc Nam Kỳ quy
định cụ thể việc chuyển tỉnh lỵ Long Xuyên từ cấp thị xã thành một thành phố
cấp III do viên chủ tỉnh kiêm chức đốc lý, có Hội đồng thành phố và ngân sách
riêng. (Xem Dương Trung Quốc: Việt Nam những sự kiện lịch sử (1919-1945), Sđd,
tr.152-153).
CHƯƠNG II: HỆ THỐNG QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH... 143

ra khỏi tiểu khu Bà Rịa để thành lập thành phố tự trị Cap Xanh Giắc.
Ngày 29-1-1898, có Nghị định hợp nhất thành phố Cap Xanh Giắc với
tiểu khu Bà Rịa làm một và gọi chung là khu Cap Xanh Giắc. Đến ngày
11-1-1899, Thống đốc Nam Kỳ lại ra Nghị định tách khu Cap Xanh Giắc
ra làm hai như cũ. Ngày 1-4-1905, Toàn quyền Đông Dương ra Nghị
định xóa bỏ thành phố Cap Xanh Giắc. Địa bàn của thành phố này sáp
nhập vào tỉnh Bà Rịa và mang tên là đại lý hành chính Cap Xanh Giắc
thuộc tỉnh Bà Rịa. Đến ngày 30-4-1929, Toàn quyền Đông Dương ra
Nghị định bãi bỏ đại lý hành chính Cap Xanh Giắc, địa bàn đại lý này là
tổng Vũng Tàu được tách ra khỏi Bà Rịa để thành lập một tỉnh riêng gọi
là tỉnh Cap Xanh Giắc. Ngày 28-12-1934, Toàn quyền Đông Dương ra
Nghị định chuyển gọi tỉnh Cap Xanh Giắc thành thành phố Cap Xanh
Giắc; tổng Vũng Tàu đổi thành xã Vũng Tàu; ba xã Thắng Nhất, Thắng
Nhị, Thắng Tam được đổi gọi thành khu phố1.
Ngày 11-5-1944. Toàn quyền Đông Dương ra Nghị định thành lập
một tỉnh mới ở Nam Kỳ là tỉnh Tân Bình, đặt dưới sự cai quản của chính
quyền Sài Gòn-Chợ Lớn2.
Toàn Nam Kỳ được chia thành 20 tỉnh (kể từ ngày 1-1-1900); 2
thành phố lớn là thành phố cấp I Sài Gòn (thành lập ngày 8-1-1877),
thành phố cấp II Chợ Lớn (thành lập ngày 20-10-1879) và một số thành
phố cấp III (communes) như: Bạc Liêu, Cần Thơ, Rạch Giá (thành lập
theo Nghị định của Toàn quyền Đông Dương ngày 18-12-1928), Long
Xuyên (thành lập theo Nghị định của Toàn quyền Đông Dương ngày 31-
1-1935), Mỹ Tho (thành lập theo Nghị định Toàn quyền Đông Dương
ngày 16-12-1938)...
Từ sau ngày thành lập Liên bang Đông Dương, đặc biệt là với việc
bãi bỏ chức Chánh Chủ trì (ngày 3-10-1882), và bãi bỏ chức Giám

1, 2. Xem Dương Trung Quốc: Việt Nam những sự kiện lịch sử (1919-1945),
Sđd, tr.226-227, 376.
144 VÙNG ĐẤT NAM BỘ VIII THIẾT CHẾ QUẢN LÝ XÃ HỘI

đốc Nội chính (ngày 29-10-1887), chuyển giao toàn bộ chức năng của
hai viên chức đó vào tay Thống đốc Nam Kỳ, đồng thời chuyển chức
Chánh quan Thống đốc Nam Kỳ, chức Chánh quan Tư pháp sang trực
thuộc Toàn quyền Đông Dương (năm 1887), khi cấp “khu vực hành
chính lớn” dường như đã bị xóa bỏ (khu Sài Gòn - Chợ Lớn được tái
lập năm 1931).
Về cơ cấu hành chính, Nam Kỳ trở thành xứ thuộc địa, được phân
chia thành các tiểu khu (vẫn duy trì từ trước ngày thành lập Liên bang
Đông Dương cho đến năm 1900 đổi thành cấp tỉnh) và khu vực hành
chính Sài Gòn - Chợ Lớn. Dưới cấp tiểu khu - tỉnh là đơn vị tổng và cấp
cơ sở là cấp xã.

3. Tổ chức bộ máy quản lý


a) Cấp Kỳ
Sau khi thành lập Liên bang Đông Dương, Nam Kỳ vẫn đặt dưới
quyền cai trị của một viên thống đốc (lieutenant- gouverneur) người
Pháp, chịu sự chỉ đạo trực tiếp của Toàn quyền Đông Dương, đồng đẳng
với Thống sứ Bắc Kỳ và Khâm sứ Trung Kỳ. Chức năng, nhiệm vụ và
quyền hạn của ba viên cai trị cao cấp này được quy định thống nhất
trong hai văn bản chính là Nghị định của Toàn quyền Đông Dương
ngày 13-2-1899 và Sắc lệnh của Tổng thống Pháp ngày 20-12-1911.
Thống đốc là người thay mặt cho Toàn quyền Đông Dương trực tiếp
nắm quyền cai trị Nam Kỳ và chịu trách nhiệm trước Toàn quyền Đông
Dương về mọi mặt chính trị, kinh tế, tài chính, quân sự, dân sự, văn
hóa, giáo dục... của địa bàn Nam Kỳ. Thống đốc có quyền lập quy, quyền
hành pháp, và quyền tư pháp ở Nam Kỳ. Thông qua mạng lưới các viên
quan cai trị thực dân đầu tỉnh Nam Kỳ, Thống đốc nắm mọi hoạt động
từ cấp tỉnh trở xuống. Đối với bộ máy thống trị toàn Đông Dương,
Thống đốc Nam Kỳ là Ủy viên của Hội đồng Tối cao Đông Dương, tức
Hội đồng Chính phủ Đông Dương.
CHƯƠNG II: HỆ THỐNG QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH... 145

Giúp việc cho Thống đốc Nam Kỳ là các tổ chức phụ tá cố vấn
cấp cao. Một số tổ chức này đã được thành lập từ trước năm 1887
như Hội đồng Tư mật1 (thành lập ngày 21-4-1869); Hội đồng Thuộc
địa Nam Kỳ2 (thành lập ngày 8-2-1880) và tổ chức phụ tá như Phòng
Thương mại Nam Kỳ (thành lập ngày 30-9-1868)... Cùng với quá
trình tiến hành khai thác thuộc địa và nô dịch nước ta, thực dân
Pháp đã thiết lập thêm nhiều những tổ chức phụ tá chuyên biệt trên
toàn cõi Đông Dương. Tại Nam Kỳ là những Phòng Canh Nông Nam
Kỳ (thành lập ngày 30-4-1897); Hội đồng Học chánh Nam Kỳ (thành
lập ngày 18-9-1923); Ủy ban Khai thác thuộc địa Nam Kỳ (thành lập
ngày 28-12-1937)...
Một cơ quan vừa có tính chất chỉ đạo trực tiếp, vừa có tính chất tổng
hợp cấp cao về mọi mặt hoạt động của chính quyền thực dân ở Nam
Kỳ và đặt dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Thống đốc Nam Kỳ là “Soái phủ
Nam Kỳ”. Cơ quan này được thiết lập năm 1868, ngay sau khi thực dân
Pháp chiếm đóng toàn bộ Nam Kỳ lục tỉnh. Khi những viên chức ngạch
văn quan thay thế võ quan để thống trị Nam Kỳ (năm 1879), và nhất là
từ sau khi thành lập Liên bang Đông Dương (năm 1887), Soái phủ Nam
Kỳ được chuyển gọi thành Tòa Thống đốc Nam Kỳ. Nó tương ứng với
Phủ Thống sứ Bắc Kỳ và Tòa Khâm sứ Trung Kỳ.
Tòa Thống đốc Nam Kỳ, nhìn chung, được chia làm hai bộ phận lớn:
bộ phận cố định và bộ phận lưu động. Mỗi bộ phận bao gồm một số
phòng, ban.
- Bộ phận cố định phụ trách ba khối công việc lớn:
+ Nhân sự (cả người Việt lẫn người Âu): bổ dụng, thăng giáng, khen
thưởng, kỷ luật ;

1. Tương ứng với Hội đồng Bảo hộ Bắc Kỳ và Hội đồng Bảo hộ Trung Kỳ.
2. Tương ứng với hai Hội đồng Lý - Tài của người Pháp ở Bắc Kỳ và ở Trung Kỳ,
đồng thời cũng tương ứng với hai Viện Dân biểu Bắc Kỳ và Trung Kỳ.
146 VÙNG ĐẤT NAM BỘ VIII THIẾT CHẾ QUẢN LÝ XÃ HỘI

+ Công việc chính trị và bản xứ: báo cáo chính trị định kỳ: theo dõi
tình hình chính trị của người bản xứ; phụ trách việc xuất bản sách, báo
bằng các thứ tiếng; phụ trách việc lập hội của người bản xứ; việc quy
định thành phần dân tộc và xin nhập quốc tịch; việc cho phép người
ngoại quốc cư trú, hay trục xuất người ngoại quốc; liên hệ với các cơ
quan theo dõi các công việc chính trị và bản xứ thuộc cấp tương đương
như của Toà Khâm sứ Trung Kỳ, Phủ Thống sứ Bắc Kỳ, và với cấp trên
là Chính phủ Đông Dương.
+ Công việc thuần túy hành chính sự nghiệp như: công văn đi - đến
và theo dõi công việc của Ban Thư ký Hội đồng Tư mật (Secrétariat du
Conseil Privé).
- Bộ phận lưu động phụ trách ba khối công việc lớn:
+ Những hoạt động cụ thể của người Pháp; theo dõi công việc của
Hội đồng Thuộc địa, Phòng Thương mại, Phòng Canh nông; các thành
phố; việc thành lập các công ty kinh doanh; việc nghiên cứu và chuẩn bị
các bản dự thảo quy chế và tổ chức chung cho toàn Nam Kỳ,...
+ Những hoạt động cụ thể của người Việt; theo dõi các công việc
của Hội đồng hàng tỉnh, theo dõi việc quan trị cấp xã; phụ trách việc
tuyển bắt lính; việc nghiên cứu các vấn đề có liên quan đến các loại thuế
trực thu, gián thu...
+ Theo dõi các loại ngân sách.
Cơ quan tổng hợp mọi hoạt động của cả hai bộ phận này là Ban Thư
ký Tòa Thống đốc Nam Kỳ, thành lập năm 1887, do một viên tổng thư
ký điều hành và đặt dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Thống đốc Nam Kỳ.

b) Cấp tỉnh, thành phố


- Cấp khu Sài Gòn - Chợ Lớn
Ngày 13-12-1880, Thống đốc Nam Kỳ Vile ra Nghị định thành lập
“Khu Sài Gòn - Chợ Lớn” và cho đặt dưới quyền cai trị của Nha Nội
chính. Khu Sài Gòn - Chợ Lớn bao gồm: thành phố Sài Gòn, thành phố
Chợ Lớn và vùng phụ cận của hai thành phố đó.
CHƯƠNG II: HỆ THỐNG QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH... 147

Ngày 12-1-1888, Toàn quyền Đông Dương ra Nghị định xóa bỏ khu
Sài Gòn-Chợ Lớn. Thành phố Sài Gòn và thành phố Chợ Lớn lại được
tổ chức riêng biệt như trước kia.
Tiếp đến, theo Sắc lệnh ngày 27-4-1931 của Tổng thống Pháp, khu
Sài Gòn - Chợ Lớn được tái lập. Địa bàn gồm: thành phố Sài Gòn, thành
phố Chợ Lớn và vùng ngoại ô hai thành phố đó. Đứng đầu khu Sài Gòn
- Chợ Lớn là một viên trưởng khu, do Toàn quyền bổ nhiệm. Một số
quyền hạn của Đốc lý thành phố Sài Gòn và của Đốc lý thành phố Chợ
Lớn được chuyển vào tay trưởng khu. Trưởng khu là Chủ tịch Hội đồng
quản trị khu Sài Gòn - Chợ Lớn. Một số quyền hạn của Hội đồng thành
phố Sài Gòn và Ủy ban thành phố Chợ Lớn cũng được chuyển sang Hội
đồng Quản trị khu Sài Gòn - Chợ Lớn.
Ngày 19-12-1941, Tổng thống Pháp ra Sắc lệnh bãi bỏ chức Đốc
lý thành phố Sài Gòn và chức Đốc lý thành phố Chợ Lớn, mọi quyền
hành của hai viên chức đó đều chuyển sang tập trung vào tay Trưởng
khu Sài Gòn - Chợ Lớn; bãi bỏ Hội đồng thành phố Sài Gòn và Ủy ban
thành phố Chợ Lớn, mọi quyền hạn của hai tổ chức này đều chuyển
sang Hội đồng Quản trị khu Sài Gòn - Chợ Lớn1.
- Cấp tỉnh
Tại Nam Kỳ, người Pháp trực tiếp quản lý bộ máy hành chính cấp
tỉnh. Đứng đầu tỉnh là một viên quan cai trị người Pháp. Tỉnh nào lớn,
hoặc trọng yếu, có thêm một viên phó. Do đó, tại Nam Kỳ không có
“chính quyền bản xứ” theo đúng nghĩa như ở các kỳ khác trong cơ cấu
liên bang. Tất cả những người bản xứ tham dự vào chính quyền thuộc
địa đều do Pháp điều khiển, theo quy chế Pháp. Quan chủ tỉnh Nam
Kỳ thực chất là một viên cai trị (administrateur), có quyền hạn rộng
rãi hơn, trực tiếp hơn trong việc quản lý bộ máy hành chính cấp tỉnh.
Với Nghị định ngày 6-3-1891 và ngày 18-2-1921, bổ sung thêm Nghị

1. Xem Dương Trung Quốc: Việt Nam những sự kiện lịch sử (1919-1945), Sđd,
tr.114-115.
148 VÙNG ĐẤT NAM BỘ VIII THIẾT CHẾ QUẢN LÝ XÃ HỘI

định ngày 23-6-1923, các chủ tỉnh Nam Kỳ được giao nhiệm vụ quản
thủ quyền sở hữu ruộng đất. Các chủ tỉnh còn có trách nhiệm về việc
tuyển mộ “lính bản xứ” tăng cường lực lượng cho bộ máy quân sự.
Chủ tỉnh có trách nhiệm lập sổ thuế và cấp phát thẻ thuế, thuế môn
bài và những giấy tờ liên quan đến việc nộp thuế. Sắc lệnh ngày 21-8-
1917 trao cho chủ tỉnh quyền hạn của một sĩ quan cảnh sát, giúp việc
cho biện lý về mặt tư pháp, có quyền bắt giam, phạt tù đến 5 ngày và
phát tiền đến 15 phơrăng, đồng thời cũng có chức năng của một chánh
án tòa án cấp tỉnh.
Ngày 5-3-1889, Tổng thống Pháp ra Sắc lệnh thành lập Ngân sách
tiểu khu ở Nam Kỳ, sau được đổi gọi thành “Ngân sách hàng tỉnh Nam
Kỳ” (từ ngày 20-12-1899). Ngân sách do quan cai trị đứng đầu tiểu khu
thành lập, sau đó phải đưa ra Hội đồng tiểu khu thông qua, và cuối cùng
phải được Thống đốc ra nghị định cho thi hành, sau khi thông qua Hội
đồng tư mật Nam Kỳ. Các khoản thu của ngân sách gồm: thuế ruộng đất
mà người chịu thuế phải nộp thêm cho cấp tiểu khu (mức thu này do
Thống đốc ấn định hàng năm, thường là 8% số thuế ruộng đất đã nộp
cho ngân sách hàng xứ Nam Kỳ); tiền chuộc những ngày lẽ ra phải đi lao
dịch không công; tiền nộp phạt cho cảnh sát; tiền sổ lao động của những
người đi ở thuê làm mướn cho tư gia; tiền thuê tiền đò vận chuyển trên
các sông, rạch thuộc địa phận của mỗi tiểu khu;... Theo Sắc lệnh này, các
khoản chi của ngân sách gồm: thiết lập và bảo quản những tuyến đường
thuỷ, các tuyến đường bộ, và trả lương cho các nhân viên phục vụ việc
này; xây dựng và bảo quản các trường hàng tổng và trả lương cho những
người làm trong ngạch học chính của địa phương1.
Phụ tá cho viên chức này có Sở Tham biện (Inspection), tương
đương như Tòa Công sứ các tỉnh Bắc Kỳ và Trung Kỳ và Hội đồng
hàng tỉnh.

1. Xem Dương Kinh Quốc: Việt Nam những sự kiện lịch sử (1858-1918), Nxb.
Giáo dục, Hà Nội, 1999, tr.199.
CHƯƠNG II: HỆ THỐNG QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH... 149

Hội đồng hàng tỉnh ở Nam Kỳ được thành lập từ ngày 5-3-1889,
được quy chế hóa bằng các Sắc lệnh ngày 22-10-1898, 12-11-1903, 11-
6-1915, 14-5-1929 và ngày 19-8-1930. Hội đồng hàng tỉnh gồm viên chủ
tỉnh và các ủy viên hội đồng được bầu dưới hình thức đầu phiếu hạn
chế trong các thân hào đương chức cấp xã. Đối với những người bản
xứ được bầu phải có tên trong danh sách những người nộp thuế ít nhất
một năm, chưa từng chịu án, trên 30 tuổi. Hội đồng hàng tỉnh có nhiệm
kỳ bốn năm, cố vấn cho chủ tỉnh trên tất cả các lĩnh vực trừ những vấn
đề chính trị.
Tỉnh ở Nam Kỳ không phân chia thành các đơn vị phủ hoặc huyện
như ở Bắc Kỳ và Trung Kỳ. Tuy nhiên, để nắm cấp tỉnh cho được chặt,
thực dân Pháp đã cho thiết lập trên địa bàn tỉnh một số Trung tâm
hành chính hoặc một số Sở Đại lý (Délégation). Thí dụ như vào thời
kỳ cuối năm 1919 đầu năm 1920, số lượng các Trung tâm hành chính
và Sở Đại lý ở các tỉnh Nam Kỳ gồm có: Bạc Liêu: 4; Bà Rịa: 1; Bến Tre:
4; Biên Hòa: 2; Cần Thơ: 4; Châu Đốc: 3; Chợ Lớn: 4; Gia Định: 4; khu
Hà Tiên (thuộc tỉnh Châu Đốc ): 3; Long Xuyên: 3; Mỹ Tho: 6; Rạch
Giá: 3; khu Sa Đéc (thuộc tỉnh Vĩnh Long): 3; Sóc Trăng: 4; Tân An:
2; Tây Ninh: 2; Thủ Dầu Một: 3; Trà Vinh: 5; Vĩnh Long: 4. Tổng cộng
có 64 Trung tâm hành chính và Sở Đại lý trên toàn địa bàn Nam Kỳ.
Tại những cơ quan hành chính ở cấp này, phần lớn thực dân Pháp
cho đặt người Việt đứng đầu, với các chức danh: đốc phủ sứ, hoặc tri
phủ, hay tri huyện. Và mỗi trung tâm hành chính đó cũng phụ trách một
địa bàn bao gồm một số tổng nhất định. Thí dụ như tỉnh Cần Thơ cuối
năm 1919 đầu năm 1920 có 4 Trung tâm hành chính là:
- Ô Môn, gồm 2 tổng, do một đốc phủ sứ cai quản ;
- Phụng Hiệp, gồm 3 tổng, do một tri phủ hạng nhất cai quản;
- Cầu Kê, gồm 3 tổng, do một tri huyện hạng nhất cai quản;
- Tỉnh lỵ, gồm 2 tổng, do một tri huyện hạng nhì cai quản.
Việc tuyển lựa người Việt vào bộ máy cai trị cấp tỉnh cũng dần dần
được chúng chính quy hóa. Ngày 14-12-1905, Toàn quyền Đông Dương
150 VÙNG ĐẤT NAM BỘ VIII THIẾT CHẾ QUẢN LÝ XÃ HỘI

ra Nghị định về việc tuyển tri huyện, tri phủ và đốc phủ sứ ở các tỉnh
Nam Kỳ, và cho áp dụng từ ngày 1-1-1906. Nội dung của bản Nghị định
đó như sau: tri huyện có hai hạng; tri phủ có hai hạng; đốc phủ sứ có
một hạng duy nhất.
- Tri huyện hạng nhì là cấp thấp nhất trong số những viên chức
đứng đầu các Trung tâm hành chính này. Tri huyện hạng nhất chỉ được
tuyển trong số tri huyện hạng nhì đã có ít nhất hai năm thâm niên.
- Tri phủ hạng nhì chỉ được tuyển trong số tri huyện hạng nhất có
thâm niên ít nhất hai năm. Tri phủ hạng nhất chỉ được tuyển trong số
tri phủ hạng nhì có thâm niên ít nhất hai năm.
- Đốc phủ sứ chỉ được tuyển trong số tri phủ hạng nhất có thâm
niên ít nhất ba năm.
Do đó, muốn giữ chức tri phủ hạng nhì, phải qua một kỳ thi tuyển,
chương trình thi do thống đốc quy định. Nội dung chương trình chủ
yếu là nhằm kiểm tra khả năng Pháp văn và tri thức về hai hệ thống tổ
chức hành chính Pháp - Nam. Hằng năm, kỳ thi được tổ chức vào quý I.
Tiêu chuẩn để được dự thi này là những người sau đây:
- Một số thư ký (secrétaire) văn phòng các dinh quan cai trị cấp
tỉnh và Tòa Thống đốc có mức lương năm loại 660 hoặc 720 đồng Đông
Dương. Trong số này thì thư ký văn phòng cấp tỉnh phải có thêm một
tiêu chuẩn nữa là: tối thiểu đã có năm năm làm việc ở cấp tỉnh. Còn, đã
là Thư ký Tòa Thống đốc thì được coi như đã kinh qua cấp tỉnh rồi, bởi
vì đây là nơi tập trung, nơi tổng hợp các công việc của cấp tỉnh.
- Chánh tổng hạng nhất có mức phụ cấp lương năm 300 đồng Đông
Dương, song phải có thâm niên mười năm công tác, trong đó đã có năm
năm kinh nghiệm qua chức chánh tổng hạng nhất. Người nào có bằng
cấp chữ nho, sẽ được cộng thêm điểm.
Do ngạch thư ký cũng là nguồn cung cấp các viên chức phụ trách
cai quản một Trung tâm hành chính nằm trong cấp tỉnh, nên Nghị định
CHƯƠNG II: HỆ THỐNG QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH... 151

ngày 14-12-1905 này cũng quy định ngạch bậc và cách tuyển chọn các
loại thư ký.
Ngạch thư ký chia làm 5 loại như sau, từ thấp lên cao:
- Thư ký tập sự (élève- secrétaire)
- Trợ lý thư ký (secrétaire auxiliaire)
- Thư ký thực thụ (secrétaire titulaire)
- Chánh thư ký (secrétaire principal)
- Thư ký kế toán (secrétaire comptable)
Điều kiện để được chấp nhận là thư ký tập sự (thấp nhất trong ngạch
thư ký) là: tối thiểu 18 tuổi, tối đa 30 tuổi; biết tiếng Pháp; phải đỗ kỳ thi
tuyển tổ chức vào quý I hằng năm. Chương trình thi do thống đốc quy
định. Sau khi trúng tuyển, phải qua một năm tập sự, sau đó mới được
xét chuyển lên cấp sát trên, tức trợ lý thư ký hạng ba. Ở mỗi hạng, phải
có một thâm niên ít nhất hai năm mới được xét tăng một cấp. Riêng
chức chánh thư ký hạng nhất thì chỉ có thể lên chức thư ký kế toán hạng
nhì sau tối thiểu hai năm thâm niên và phải đạt kết quả trong một kỳ thi
kiểm tra nghiệp vụ nữa mà chương trình cũng do thống đốc quy định.
So sánh mức lương giữa các chức danh nêu trên:
- Tri phủ hạng nhất tương đương với thư ký kế toán hạng nhất;
- Tri huyện hạng nhất tương đương với chánh thư ký hạng nhất;
- Tri huyện hạng nhì tương đương với chánh thư ký hạng ba;
- Chánh thư ký hạng ba Tòa Thống đốc và thư ký thực thụ hạng
nhất Tòa Thống đốc là những người đủ tiêu chuẩn để dự kỳ thi tuyển
tri huyện hạng nhì.
- Cấp thành phố
Đối với cấp thành phố, về cơ bản bộ máy cai trị vẫn giữ nguyên hình
thức so với giai đoạn trước. Đứng đầu thành phố cấp I và cấp II có đốc
lý và phó đốc lý. Phụ tá cho viên chức này có Tòa Đốc lý tương đương
với Sở Tham biện, và Hội đồng thành phố (cấp I), hoặc Ủy ban thành
phố (cấp II).
152 VÙNG ĐẤT NAM BỘ VIII THIẾT CHẾ QUẢN LÝ XÃ HỘI

Còn loại thành phố cấp III sẽ do quan chủ tỉnh người Pháp kiêm
nhiệm, như cơ cấu tổ chức các loại thành phố cấp III ở Bắc Kỳ và
Trung Kỳ.

c) Cấp tổng
Sau cấp tỉnh trong bộ máy hành chính của thực dân Pháp là cấp
tổng. Về cơ bản, cấp tổng trong bộ máy hành chính của thực dân Pháp
ở Nam Kỳ tương đương với cấp tổng trong bộ máy hành chính nhà
Nguyễn trước đó. Đứng đầu mỗi tổng trong bộ máy cai trị của thực
dân Pháp hay như triều đình Huế là chánh, phó tổng người Việt; có tổ
chức và quyền hành như nhau. Thậm chí trong những năm đầu chiếm
đóng Nam Kỳ, thực dân Pháp còn biến chính lực lượng chánh, phó tổng
của bộ máy cai trị cũ thành những viên chức cai trị trong bộ máy hành
chính của chúng.
Nam Kỳ không có cấp trung gian giữa tỉnh và tổng. Chính quyền
tỉnh trực tiếp quản lý cấp tổng trong hệ thống hành chính của xứ thuộc
địa. Đứng đầu mỗi tổng là chánh, phó tổng người Việt. Trong bộ máy
cai trị của Pháp ở Nam Kỳ, chức chánh, phó tổng thực sự được xếp trong
ngạch nhân viên hành chính, có hưởng lương và xếp hạng.
Cho đến trước ngày 28-8-1915, những người đứng đầu tổng do các
viên thanh tra chỉ định. Ngày 28-8-1915, Toàn quyền Đông Dương ra
Nghị định về việc thi tuyển chánh, phó tổng ở Nam Kỳ. Theo đó, đề thi
do Thống đốc Nam Kỳ ra, địa điểm thi tập trung tại Sài Gòn nhằm tránh
việc gian lận trong thi tuyển. Ban giám khảo gồm bốn người Pháp, trong
đó, có ít nhất ba người biết tiếng Việt. Bài thi chính bằng tiếng Việt, và
một bài thi bằng tiếng Pháp để cộng thêm điểm.
Tuy nhiên, hình thức thi tuyển chánh, phó tổng đến năm 1918 thì bị
xóa bỏ và thay thế bởi hình thức tuyển chọn. Hình thức này được Toàn
quyền Đông Dương quy định trong Nghị định ngày 6-9-1918. Theo đó:
Đối tượng dự tuyển là: ủy viên hiện dịch hoặc cựu ủy viên Hội đồng
kỳ mục xã suốt sáu năm (trong đó có hai năm giữ chức lý trưởng); ủy viên
CHƯƠNG II: HỆ THỐNG QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH... 153

hiện dịch hoặc cựu ủy viên Hội đồng hàng tỉnh suốt hai năm; viên chức
hiện dịch hoặc cựu viên chức các công sở ở Đông Dương, có tối thiểu 12
năm công tác; tất cả phải là người hiện trong tổng, tổng nào ứng cử tổng
đó; dưới 35 tuổi, không can án.
Tiêu chuẩn cử tri, chỉ có những người thuộc các diện sau mới có
tư cách cử tri, tham gia bầu chánh, phó tổng: toàn bộ uỷ viên hiện dịch
hoặc cựu ủy viên Hội đồng kỳ mục của các xã trong tổng hữu quan; toàn
bộ những người trong tổng trên 25 tuổi, có mức thuế nghề nghiệp tối
thiểu ước tính phải đóng là 100 đồng; những người có bằng cao đẳng
hoặc tú tài, hoặc bằng chuyên nghiệp cấp 2; trên 25 tuổi và sống ít nhất
một năm trong tổng hữu quan; tất cả những người có đủ tiêu chuẩn ứng
cử chánh, phó tổng.
Hình thức tuyển chánh, phó tổng là bỏ phiếu kín, bầu ba người.
Danh sách ba người trúng tuyển sẽ được gửi lên Thống đốc. Theo đề
nghị của quan chủ tỉnh, thống đốc sẽ chọn một trong ba người làm
phó tổng hạng nhì. Qua hai năm làm việc, phó tổng hạng nhì sẽ được
xem xét đưa lên phó tổng hạng nhất. Khi khuyết chân chánh tổng, theo
nguyên tắc, phó tổng hiện dịch sẽ lên thay. Riêng vùng dân tộc thiểu số;
chánh, phó tổng do thống đốc lựa chọn dựa trên đề nghị của quan chủ
tỉnh sau khi đã tham khảo ý kiến Kỳ mục các xã trong tổng đó.

d) Cấp xã
Ngày 6-3-1891, thực dân Pháp tiến hành cuộc điều tra đo đạc và
phân loại lại ruộng đất Nam Kỳ. Chúng thu hồi toàn bộ hồ sơ gốc và
phát cho mỗi làng một tờ kê khai mới. Quan cai trị cấp tiểu khu (tức là
cấp tỉnh sau này) chịu trách nhiệm thực hiện.
Các chính sách trên, một mặt tăng cường sự can thiệp của chính
quyền thực dân mà trực tiếp là cấp tỉnh vào cuộc sống làng xã, một mặt
tạo điều kiện nuôi dưỡng và phát triển giai cấp địa chủ, nhằm biến lực
lượng này thành điểm tựa xã hội cho nền thống trị của Pháp ở các làng
xã. Qua đó, thực dân Pháp từng bước vươn bàn tay quyền lực xuống
154 VÙNG ĐẤT NAM BỘ VIII THIẾT CHẾ QUẢN LÝ XÃ HỘI

làng xã. Quá trình can thiệp trực tiếp vào bộ máy hành chính của thực
dân Pháp được gọi là quá trình “cải lương hương chính”.
Nghị định của Toàn quyền ngày 20-12-1902 quy định trách nhiệm
cá nhân của các hương chức, nếu phát hiện ra ở làng nào có việc buôn
và làm rượu lậu, hương chức phải trả tiền phạt nếu kẻ vi phạm không
chịu trả hoặc không trả được. Điều này đã gặp phải rất nhiều lời phàn
nàn, kêu ca của các hương chức làng xã.
Ngày 6-1-1903, Toàn quyền Đông Dương ra Nghị định bãi bỏ chế
độ “tư cách bản xứ” ở Nam Kỳ, trong khi đó về cơ bản chế độ này vẫn
được tiếp tục duy trì ở Bắc Kỳ và Trung Kỳ. Theo tinh thần của Nghị
định này, ngày 24-2-1903 Toàn quyền ra Nghị định quy định một số luật
vi cảnh áp dụng ở Nam Kỳ. Từ nay, quyền xét xử những vi phạm quy
định ở hai nghị định trên không còn thuộc chức trách của các hương
dịch làng xã mà được chuyển lên cấp chính quyền hoặc tòa án cao hơn
để giải quyết.
Sau khi đã hoàn thành quá trình bình định trên toàn cõi Việt Nam,
cùng với hàng loạt các biện pháp chuẩn bị như đăng ký hộ tịch, đo đạc
ruộng đất, bãi bỏ chế độ tư cách bản xứ, đến đầu thế kỷ XX thực dân
Pháp muốn can thiệp sâu hơn nữa vào tổ chức làng xã, quy định rõ ràng
chức danh, chức năng của từng thành viên Hội đồng hương chức để
nhằm kiểm soát hoạt động của các thành viên này, từ đó thiết lập và chi
tiêu ngân sách làng cho phù hợp. Theo đề nghị của Hội đồng quản hạt,
ý kiến của các chủ tỉnh, ngày 16-8-1903, Thống đốc Nam Kỳ ra Nghị
định thành lập Ban nghiên cứu cải tổ lại bộ máy quản lý làng xã. Chính
những kết quả nghiên cứu của tổ chức này là cơ sở cho Toàn quyền
Đông Dương ban hành Nghị định ngày 27-8-1904, mở đầu cho “cải
lương hương chính” ở Nam Kỳ.
Nghị định ngày 27-8-1904 có một số điểm chính như sau:
Việc quản trị mỗi làng xã ở Nam Kỳ do một tổ chức có tên là “Hội
đồng đại kỳ mục” đảm nhiệm, được các kỳ mục trong xã bầu ra. Hội
đồng gồm 11 thành viên, được sắp xếp theo thứ tự như sau: hương cả
CHƯƠNG II: HỆ THỐNG QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH... 155

(Chủ tịch Hội đồng), hương chủ (Phó Chủ tịch Hội đồng) và các ủy
viên: hương sư, hương trưởng, hương chánh, hương giáo, hương quản,
thủ bộ, hương thôn, xã trưởng, hương hào. Chức năng của từng người
được quy định rõ ràng:
- Hương cả là Chủ tịch Hội đồng.
- Hương cả, hương chủ, hương sư và hương trưởng là những người
lãnh đạo tối cao của Hội đồng, giám sát công việc của những hương
dịch và dịch mục khác, quản lý tài sản của xã, lập ngân sách xã, giám sát
việc thu chi của ngân sách cấp xã.
- Hương chánh giữ nhiệm vụ cố vấn cho ba hương chức thừa hành
là xã trưởng, hương thôn, hương bào, đồng thời chịu trách nhiệm trực
tiếp theo dõi công việc của họ. Hương chánh cũng lãnh trách nhiệm
giải quyết, dàn xếp, hòa giải những vụ xích mích xảy ra trong dân làng.
- Hương giáo phụ trách việc giáo huấn các dịch mục trẻ, dạy cho số
này hiểu rõ nhiệm vụ của họ đối với xã.
- Hương quản phụ trách việc bảo vệ trị an trong xã và là nhân viên
phụ tá chính của biện lý trong xã, chịu trách nhiệm điều tra những vụ án
trong làng xã. Viên chức này còn phải trông coi những công trình công
cộng trên địa bàn xã như đường bộ, đường thủy, đường sắt, cầu cống,
đường điện tín... Hỗ trợ cho hương quản có hương thôn, xã trưởng và
hương hào. Hương quản trực tiếp chỉ đạo hương thôn, cai tuần, cai thị,
cai thôn, những trùm và trưởng.
- Thủ bộ (hay hương bộ) phụ trách sổ đinh, sổ địa bộ và các hồ sở
sổ sách thu chi của xã.
- Hương thôn, xã trưởng và hương hào là ba hương chức thừa
hành của Hội đồng, chịu trách nhiệm thi hành những quyết nghị của
Hội đồng, đặt dưới quyền kiểm soát và giám sát trực tiếp của hương
chánh và hương quản. Hương thôn đứng đầu trong số ba người này.
Xã trưởng được giao giữ triện của xã và là người trung gian trực tiếp
giữa cấp xã và chính quyền cấp trên, chịu trách nhiệm thu và nộp
thuế. Hương hào đặc trách việc trị an trong xã, giữ nhiệm vụ tống đạt
156 VÙNG ĐẤT NAM BỘ VIII THIẾT CHẾ QUẢN LÝ XÃ HỘI

lại (huissier) trong việc đảm bảo chuyển những thông báo của tòa án
đến tay các đương sự. Bộ ba thừa hành này chịu trách nhiệm tập thể:
lập danh sách những người đóng thuế, phải đi phu, thu thuế và nộp
thuế, giữ trật tự trị an, giao thiệp giữa cấp xã và chính quyền cấp trên,
thi hành luật pháp, mệnh lệnh của chính quyền và án lệnh của tòa án.
- Chánh lục bộ chịu trách nhiệm giữ gìn những sổ sách cũng như
việc đăng ký hộ khẩu của xã, có phó lục bộ giúp sức1.
Tuy nhiên, chỉ trong một thời gian ngắn, Nghị định ngày 27-8-1904
đã bị phê phán vì không mang lại kết quả như những mục tiêu lúc đầu
đặt ra của thực dân Pháp. Các hương chức vẫn chểnh mảng trong việc
thi hành mệnh lệnh của các cấp chính quyền và tư pháp. Hơn 20 năm
sau, ngày 18-6-1925, Thống đốc Nam Kỳ ra Qyết định thành lập Ban
xem xét lại Nghị định ngày 27-8-1904.
Ngày 30-10-1927, Toàn quyền Đông Dương ra Nghị định về “cải
lương hương chính” lần hai ở Nam Kỳ. So với Nghị định ngày 27-8-
1904, Nghị định này có thêm một số điều bổ sung liên quan đến: thành
phần tham gia vào hàng ngũ kỳ mục; tăng cường những thành phần xã
hội có quan hệ quyền lợi chặt chẽ với chính quyền thực dân vào những
vị trí quan trọng trong Hội đồng đại kỳ mục; tăng cường các hình thức
kỷ luật đối với hàng ngũ viên chức xã thông qua tăng cường quyền hành
của quan chủ tỉnh đối với làng xã; đặt thêm chức đại hương cả là người
đứng đầu Hội đồng đại kỳ mục.
Ngày 5-11-1944, Toàn quyền Đông Dương ra nghị định thứ ba liên
quan đến quản lý cấp xã ở Nam Kỳ. Ngoài việc mở rộng thành phần
tham gia vào Hội đồng đại kỳ mục, Nghị định còn quy định việc thành
lập Hội đồng tuyển trạch (Assemblée des cooptants). Quan chủ tỉnh sẽ
là người có quyền quyết định tối hậu đối với việc xét tuyển.

1. Dẫn theo Ngô Văn Hòa: “Tổ chức quản lý xã thôn và cộng đồng làng xã ở
Nam Kỳ thời kỳ Pháp thuộc”, tạp chí Nghiên cứu lịch sử, số 5, 1983, tr. 56.
CHƯƠNG II: HỆ THỐNG QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH... 157

Như vậy, từ đầu thế kỷ XX, thực dân Pháp đẩy mạnh quá trình
can thiệp vào tổ chức quản lý cấp xã thông qua chính sách “cải lương
hương chính”. Nam Kỳ là nơi thực dân Pháp tiến hành đầu tiên và
cũng là cuối cùng việc tổ chức lại bộ máy hành chính cấp xã (thông
qua nhiều đợt ban bố các văn bản mang tên “Việc tổ chức lại bộ máy
hành chính xã”; vào các năm 1904, 1927, 1944). Mặc dù thực hiện qua
nhiều đợt nhưng đều nhất quán ở các điểm sau:
Chính quyền cấp tỉnh nắm quyền giám sát và kiểm soát tối cao về
nhân sự trong bộ máy hành chính cấp xã (Hội đồng kỳ mục, xã trưởng
hoặc lý trưởng).
Giám sát và kiểm soát mọi hoạt động nội bộ của xã thông qua kiểm
soát đời sống kinh tế của làng xã.
Giai cấp địa chủ phong kiến vốn được Pháp dung dưỡng, nay càng
tạo điều kiện phát triển, trở thành lực lượng hữu sản tân học nắm quyền
thống trị ở vùng nông thôn.
Đồng thời với việc ban hành các chính sách trực tiếp can thiệp vào
bộ máy tổ chức hành chính cấp xã, thực dân Pháp còn ban hành nhiều
chính sách kinh tế, xã hội khác có ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống làng
xã Nam Kỳ:
Ngày 31-6-1916, Toàn quyền Đông Dương cho phép Hội đồng kỳ
mục ở làng xã Nam Kỳ có quyền đứng ra cho mượn, cho thuê, cho lĩnh
canh công điền, công thổ của làng xã trong thời hạn ba năm, sáu năm
hoặc chín năm. Nếu thời hạn cho mượn, cho thuê, cho lĩnh canh từ
ba năm trở xuống, phải được quan chủ tỉnh cho phép; trên ba năm do
thống đốc chuẩn y thông qua trước Hội đồng tư mật.
Ngày 15-5-1917, Toàn quyền Đông Dương ra Nghị định thiết lập
lực lượng cảnh sát người Việt chung cho toàn Nam Kỳ, gọi là lực lượng
dân vệ hoặc lính thủ bộ (garde civile). Lực lượng này do quan chủ tỉnh
trực tiếp chỉ đạo, điều hành. Chức năng của dân vệ là bảo đảm an ninh
trong tỉnh; đàn áp các cuộc nổi dậy chống lại chính quyền trong tỉnh;
canh giữ tù phạm, truy bắt và áp giải phạm nhân. Dân vệ không trực
158 VÙNG ĐẤT NAM BỘ VIII THIẾT CHẾ QUẢN LÝ XÃ HỘI

tiếp can thiệp vào việc gìn giữ trật tự an ninh của cấp xã nếu không
được chính quyền cấp xã yêu cầu. Làng xã cũng phải tham gia đóng góp
kinh phí cho lực lượng dân vệ. Ngân sách tỉnh và hàng xã Nam Kỳ đài
thọ 3/5 chi phí cho lực lượng dân vệ; 2/5 do ngân sách Nam Kỳ chu cấp.
Qua gần một thế kỷ từ ngày thực dân Pháp tiến hành đánh chiếm
Nam Bộ, trên phương diện tổ chức bộ máy quản lý nhà nước, vùng đất
này đã có nhiều biến đổi to lớn. Với tư cách là vùng lãnh thổ “thuộc địa”
của Pháp, chính quyền thực dân đã thực thi một mô hình hành chính
và quản lý nhà nước phần nhiều được áp đặt “kiểu Pháp” vừa có nét của
mô hình chính quốc, vừa có nét của mô hình thuộc địa Pháp. Một hệ
thống hành chính mà các cấp trung gian được bỏ bớt (phủ, huyện), trực
tiếp từ xứ đến tiểu khu - tỉnh rồi đến tổng, xã; một mô hình tổ chức và
quản lý đô thị hiện đại kiểu Pháp - châu Âu; một bộ máy viên chức thực
hiện các chức năng quản lý khá rạch ròi, có nghiệp vụ và mang tính
chuyên nghiệp.
159

Chương III

HỆ THỐNG QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH


Ở NAM BỘ TỪ SAU CÁCH MẠNG THÁNG TÁM
NĂM 1945

I- THIẾT LẬP CHÍNH QUYỀN CÁCH MẠNG

1. Cách mạng Tháng Tám ở Nam Bộ

Ngay sau khi nhận được tin Nhật Bản đầu hàng Đồng Minh, ngày
15-8-1945, Thường vụ Xứ ủy Nam Kỳ (Tiền Phong) đã họp khẩn cấp
để thảo luận tình hình, thành lập Ủy ban khởi nghĩa gồm: Trần Văn
Giàu (Chủ tịch), Nguyễn Văn Trấn (Phó Chủ tịch), Huỳnh Văn Tiểng
(Thường trực), Nguyễn Văn Tư (Thường trực), Kiều Công Cung và
Hoàng Đôn Văn, đại diện cho Xứ ủy, Thành ủy Sài Gòn - Chợ Lớn,
Tổng công đoàn, thanh niên và binh sĩ. Trụ sở đặt tại đường Colombert
(Sài Gòn).
Tối ngày 16-8-1945, Xứ ủy (Tiền Phong) triệu tập hội nghị mở
rộng tại Chợ Đệm (tỉnh Chợ Lớn)1 bàn kế hoạch phát động khởi
nghĩa giành chính quyền ở Sài Gòn và Nam Kỳ. Trên cơ sở phân
tích tình hình tương quan lực lượng hết sức thận trọng, Hội nghị
đã quyết định khẩn trương xúc tiến công tác chuẩn bị lực lượng và
kế hoạch khởi nghĩa, đồng thời tiếp tục tích cực theo dõi tình hình

1. Nay thuộc huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh.


160 VÙNG ĐẤT NAM BỘ VIII THIẾT CHẾ QUẢN LÝ XÃ HỘI

trong nước và quốc tế, tăng cường theo dõi các động thái mới nhất
của quân đội Nhật và tay sai, khi có tin Hà Nội khởi nghĩa thì Sài
Gòn phải lập tức khởi nghĩa.
Trong khi đó, ngay sau khi đầu hàng Đồng Minh, quân đội Nhật
tuyên bố trao trả Nam Kỳ cho Chính phủ Trần Trọng Kim. Nội các
bù nhìn liền cử Nguyễn Văn Sâm vào giữ chức Khâm sai Nam Kỳ, dự
định làm lễ nhậm chức vào ngày 22-8-1945. Các nhóm và phần tử
thân Nhật cũng ráo riết hoạt động, cố kết lại trong Mặt trận Quốc
gia thống nhất do Hồ Văn Ngà cầm đầu, tuyên bố ủng hộ chính phủ
bù nhìn1.
Trước tình hình đó, Xứ ủy (Tiền Phong) chỉ đạo nhanh chóng củng
cố đội ngũ Công đoàn xung phong và Thanh niên xung phong, tìm cách
tăng trang bị vũ khí cho các đội tự vệ chiến đấu. Ngày 19-8-1945, Thanh
niên tiền phong gồm hơn 50.000 người tổ chức buổi tuyên thệ thứ hai
ở Vườn Ông Thượng2, biểu dương lực lượng, thề hy sinh tranh đấu vì
độc lập, tự do của Tổ quốc. Tối ngày hôm đó, Việt Minh tổ chức mít tinh
quần chúng ở rạp hát Nguyễn Văn Hảo3, tuyên bố ra hoạt động công
khai. Ngày 20-8-1945, tin cuộc tổng khởi nghĩa giành thắng lợi ở Hà
Nội truyền vào làm chấn động không khí chính trị thành phố Sài Gòn
và toàn Nam Kỳ. Ngày hôm đó, Thanh niên tiền phong tuyên bố công
khai gia nhập Mặt trận Việt Minh. Thế và lực của cách mạng đã trở nên
áp đảo. Xe ôtô mang cờ đỏ sao vàng của Việt Minh và cờ đỏ búa liềm
của Đảng xuất hiện khắp thành phố.

1. Mặt trận Quốc gia thống nhất là liên minh của Việt Nam Quốc gia độc lập
Đảng (do Hồ Văn Ngà làm Chủ tịch), Liên đoàn công chức, Cao Đài phái Trần Quang
Vinh, Hoà Hảo và Đảng Quốc gia. Ngày 14-8-1945, Mặt trận này đã tổ chức được một
cuộc biểu tình quần chúng đông tới trên 100.000 người để phản đối âm mưu tái lập
chế độ thực dân Pháp và ủng hộ chính phủ bù nhìn.
2. Nay là Công viên Văn hóa Thành phố Hồ Chí Minh.
3. Nay là Rạp chiếu bóng Công nhân, Thành phố Hồ Chí Minh.
CHƯƠNG III: HỆ THỐNG QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH... 161

Sáng ngày 21-8-1945, Xứ ủy (Tiền Phong) triệu tập hội nghị mở


rộng tại Chợ Đệm, cử ra Ủy ban hành chính lâm thời Nam Bộ do Trần
Văn Giàu làm Chủ tịch. Tuy nhiên, do chưa nắm chắc động thái và
phản ứng của quân đội Nhật, Hội nghị vẫn chưa đi tới phát động khởi
nghĩa giành chính quyền trên toàn Nam Bộ, mà quyết định lấy Tân An
làm thí điểm khởi nghĩa trong đêm ngày 22-8 rạng ngày 23-8 để kiểm
tra thái độ của quân đội Nhật, rút kinh nghiệm, sau đó Sài Gòn và các
tỉnh sẽ khởi nghĩa đồng loạt.
Ngày 22-8-1945, đại diện của Việt Minh do bác sĩ Phạm Ngọc
Thạch dẫn đầu được cử đến gặp Thống chế Terauchi, Tổng chỉ huy
quân đội Nhật Bản ở Nam Đông Dương để thương lượng. Sau khi
được giải thích rõ về mục tiêu giành chính quyền của Việt Minh,
Terauchi đã đảm bảo rằng quân Nhật sẽ giữ thái độ trung lập. Cũng
trong ngày hôm đó, tại trụ sở của Thanh niên tiền phong (số 14, đại lộ
Charner, nay là đường Nguyễn Huệ), Việt Minh tổ chức một cuộc hội
nghị với sự tham gia của đại diện nhiều đảng phái ở Sài Gòn và Nam
Kỳ, kể cả các giáo phái Cao Đài, Hòa Hảo và các đảng phái nằm trong
Mặt trận Quốc gia thống nhất. Trước khí thế và ảnh hưởng áp đảo của
Việt Minh, các đảng và giáo phái đều nhất trí ủng hộ Việt Minh khởi
nghĩa giành chính quyền.
Đêm ngày 22-8-1945, cuộc khởi nghĩa thí điểm ở Tân An nổ ra và
kết thúc thành công rất nhanh, gọn. Các đội xung kích vũ trang Tân An
nhanh chóng chiếm được các cơ quan của chính quyền Pháp ở thị xã và
các quận huyện.
Sáng ngày 23-8-1945, nhận được tin khởi nghĩa ở Tân An giành
thắng lợi, ngay lập tức, Hội nghị Xứ ủy mở rộng quyết định phát động
khởi nghĩa giành chính quyền vào tối ngày 24-8 và tổ chức cuộc mít
tinh khổng lồ của quần chúng vào ngày 25-8 để tuyên bố thành lập
chính phủ cách mạng.
162 VÙNG ĐẤT NAM BỘ VIII THIẾT CHẾ QUẢN LÝ XÃ HỘI

Ngày 24-8-1945, cả thành phố Sài Gòn sống trong không khí sục
sôi, hồi hộp. Cờ đỏ sao vàng, cờ Đảng cùng các khẩu hiệu “Việt Nam
hoàn toàn độc lập!”, “Độc lập hay là chết!”, “Bảo Đại thoái vị!”, “Nguyễn
Văn Sâm từ chức!”, “Chính quyền về tay Việt Minh!” xuất hiện ở khắp
mọi nơi. 18 giờ tối, Ủy ban khởi nghĩa phát lệnh khởi nghĩa. Quân khởi
nghĩa đã chiếm được Dinh Thống đốc Nam Kỳ (dinh Khâm sai), các trại
lính và cảnh sát, kho bạc, sở bưu điện, nhà máy điện, nhà máy nước và
các cây cầu quan trọng..., bắt giữ Nguyễn Văn Sâm và các viên chức cao
cấp của chính phủ bù nhìn. Đến khoảng 22 giờ, cuộc khởi nghĩa giành
thắng lợi căn bản. Tuy nhiên, cũng giống như ở Hà Nội, do quân Nhật
không nhượng bộ nên lực lượng khởi nghĩa đã không chiếm được một
số vị trí quan trọng như dinh Toàn quyền, nhà Ngân hàng Đông Dương,
cảng Quân sự, sân bay Tân Sơn Nhất.
Sáng ngày 25-8-1945, toàn thành phố Sài Gòn tràn ngập trong
không khí ngày hội cách mạng. Những dòng người cuồn cuộn từ khắp
các khu phố, các quận ngoại thành và các tỉnh lân cận đổ về trung tâm
thành phố. Giữa trưa, một cuộc mít tinh khổng lồ với khoảng hơn một
triệu người thuộc đủ mọi tầng lớp, giai cấp, đảng phái, tôn giáo và sắc
tộc đã được tổ chức ở trung tâm thành phố chào mừng thắng lợi của
cuộc khởi nghĩa, biểu thị quyết tâm sắt đá và khối đại đoàn kết dân tộc
kiên quyết giữ gìn nền độc lập dân tộc. Ủy ban hành chính lâm thời
Nam Bộ do Trần Văn Giàu làm Chủ tịch ra mắt nhân dân trong tiếng hò
reo cổ vũ long trời.
Cuộc khởi nghĩa giành chính quyền ở Sài Gòn thắng lợi đã tạo ra
phản ứng dây chuyền làm bùng nổ phong trào khởi nghĩa khắp các
tỉnh ở Nam Kỳ. Công đoàn, Thanh niên tiền phong được lệnh của Xứ
uỷ (Tiền Phong) nhanh chóng toả về các tỉnh cùng với cán bộ Đảng cơ
sở hiệu triệu quần chúng đứng lên giành chính quyền. Chỉ trong vòng
khoảng ba ngày, từ ngày 25 tới ngày 28-8, cách mạng đã nổ ra và giành
thắng lợi ở tất cả các tỉnh thuộc Nam Kỳ.
CHƯƠNG III: HỆ THỐNG QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH... 163

Ngày 25-8-1945, khởi nghĩa nổ ra và thắng lợi ở một loạt tỉnh1: Chợ
Lớn, Gia Định, Sóc Trăng, Long Xuyên, Vĩnh Long, Bà Rịa, Thủ Dầu
Một, Trà Vinh, Tây Ninh, Bến Tre, Bạc Liêu và Sa Đéc. Trong ngày 26-8,
khởi nghĩa giành thắng lợi ở Châu Đốc, Biên Hoà, Cần Thơ. Ngày 27-
8, khởi nghĩa giành thắng lợi ở Rạch Giá. Ngày 28-8-1945, khởi nghĩa
giành thắng lợi ở Đồng Nai Thượng và Hà Tiên.
Cuộc tổng khởi nghĩa giành chính quyền ở Nam Kỳ đã diễn ra
nhanh chóng, đồng loạt và giành được những thắng lợi rất căn bản.
Tuy nhiên, ngay trong ngày tổng khởi nghĩa (ngày 25-8-1945), xung
đột vũ trang đã nổ ra giữa lực lượng của Xứ ủy (Giải Phóng) và Xứ ủy
(Tiền Phong) tại Tân Bình, sau đó còn nổ ra ở một số tỉnh khác, điều
đó tạo điều kiện cho các lực lượng phản cách mạng như Tờrốtkít,
Hòa Hảo, Phục Quốc lợi dụng điểm yếu này để tổ chức một số cuộc
bạo loạn hòng lật đổ chính quyền cách mạng non trẻ tại các tỉnh như
Châu Đốc, Long Xuyên, Cần Thơ... Tình trạng chia rẽ nghiêm trọng
của lực lượng cách mạng ở Nam Kỳ không chỉ gây ra những tổn thất
đáng tiếc đối với cuộc vận động tiến tới giành và củng cố chính quyền
ở Nam Kỳ, mà còn tạo ra những khó khăn, phức tạp cho cuộc đấu
tranh chống âm mưu tái chiếm thuộc địa của thực dân Pháp sau đó.

1. Trước đó, một số tỉnh ở Nam Bộ đã giành được chính quyền. Tỉnh Mỹ Tho
là tỉnh đầu tiên ở Nam Bộ phát động khởi nghĩa trước khi nhận được lệnh của
Trung ương và Xứ ủy. Tỉnh lỵ Mỹ Tho giành được chính quyền ngày 18-8-1945.
Ngày 20-8, lực lượng cách mạng đã biến cuộc biểu tình đón Khâm sai Nguyễn
Văn Sâm thành cuộc biểu dương lực lượng đòi ngụy quyền từ chức. Ngày 23-8,
lực lượng quần chúng được huy động biểu dương sức mạnh trên đường phố thị
xã Bạc Liêu khiến bộ máy ngụy quyền tan rã, Ủy ban dân tộc giải phóng tỉnh lên
nắm chính quyền. Tại thị trấn Cà Mau, cuộc nổi dậy bắt đầu từ ngày 21-8 nhưng
đến ngày 25-8 mới giành được chính quyền. Tại Gò Công, khí thế chuẩn bị khởi
nghĩa đã khiến tỉnh trưởng Gò Công tự nguyện trao chính quyền cho Ủy ban dân
tộc giải phóng lâm thời vào ngày 23-8 (Xem Dương Trung Quốc: Việt Nam những
sự kiện lịch sử 1919-1945, Sđd, tr.411-417).
164 VÙNG ĐẤT NAM BỘ VIII THIẾT CHẾ QUẢN LÝ XÃ HỘI

2. Thiết lập chính quyền cách mạng ở Nam Bộ


a) Tổ chức các cấp hành chính
Trong những ngày đầu mới thành lập, các đơn vị hành chính nước
ta được chia làm năm cấp: kỳ, tỉnh, huyện, xã và thôn, bỏ cấp tổng. Cả
nước chia thành ba kỳ: Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ. Trong đó, Nam Kỳ
lúc này gồm 21 tỉnh1:

Bảng 14: Danh sách các tỉnh ở Nam Kỳ


sau Cách mạng Tháng Tám

1. Tỉnh Bạc Liêu 12. Tỉnh Mỹ Tho

2. Tỉnh Bà Rịa 13. Tỉnh Rạch Giá

3. Tỉnh Bến Tre 14. Tỉnh Sa Đéc

4. Tỉnh Biên Hòa 15. Thành phố Sài Gòn - Chợ Lớn

5. Tỉnh Cần Thơ 16. Tỉnh Sóc Trăng

6. Tỉnh Châu Đốc 17. Tỉnh Tân An

7. Tỉnh Chợ Lớn 18. Tỉnh Tây Ninh

8. Tỉnh Gia Định 19. Tỉnh Thủ Dầu Một

9. Tỉnh Gò Công 20. Tỉnh Trà Vinh

10. Tỉnh Hà Tiên 21. Tỉnh Vĩnh Long

11. Tỉnh Long Xuyên

1. Các tỉnh này được tính theo Sắc lệnh số 51 ngày 17-10-1945 của Chủ tịch
Chính phủ lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ấn định thể lệ cuộc tổng tuyển
cử, trong đó thành phố Sài Gòn - Chợ Lớn cũng được xác định là những đơn vị
tuyển cử như các tỉnh. Năm 1945, khi Cách mạng Tháng Tám thắng lợi, thành
phố Sài Gòn có 5 quận với 18 hộ (đơn vị hành chính cơ sở). Tỉnh Gia Định gồm 4
quận: Hóc Môn, Thủ Đức, Gò Vấp, Nhà Bè với 16 tổng và 80 xã, thôn. Tỉnh Chợ
Lớn có 3 tổng với 15 thôn, xã.
CHƯƠNG III: HỆ THỐNG QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH... 165

Ngoài các đơn vị hành chính các cấp tỉnh - huyện - xã, tại Hội nghị
Xứ ủy mở rộng ngày 10-12-19451, trên cơ sở tổ chức của Trung ương
và Chính phủ, để đảm bảo yêu cầu kháng chiến, Xứ uỷ quyết định chia
Nam Kỳ thành ba khu:
Khu 7 gồm: Sài Gòn, Chợ Lớn, Gia Định, Bà Rịa, Biên Hòa, Thủ
Dầu Một, Tây Ninh.
Khu 8 gồm: Tân An, Mỹ Tho, Gò Công, Bến Tre, Trà Vinh, Vĩnh
Long, Sa Đéc.
Khu 9 gồm: Cần Thơ, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Long Xuyên, Châu Đốc,
Rạch Giá, Hà Tiên2.

b) Tổ chức bộ máy hành chính

Sau Cách mạng Tháng Tám, Chính phủ và các bộ ngành tích cực
tổ chức xây dựng bộ máy chính quyền nhân dân, tổ chức bộ máy hành
chính từ trung ương đến địa phương. Ở Nam Bộ, ngày 25-8-1945, Ủy
ban hành chánh lâm thời Nam Bộ3 chính thức ra mắt do Trần Văn Giàu

1. Đến tháng 11-1946, để chuẩn bị cho cuộc kháng chiến toàn quốc chống
thực dân Pháp xâm lược, Chính phủ chính thức quyết định chia lại các chiến
khu thành 12 khu hành chính và quân sự, trong đó Nam Bộ vẫn giữ nguyên gồm
3 khu (Xem Nguyễn Tố Uyên: Công cuộc bảo vệ và xây dựng chính quyền nhân
dân ở Việt Nam trong những năm 1945-1946, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội,
1999, tr.145).
2. Xem Phạm Văn Thắng: Lịch sử Đảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh, Nxb. Tổng
hợp Thành phố Hồ Chí Minh và Nxb. Văn hóa Sài Gòn, 2007, tr.112.
3. Hay còn gọi là Lâm ủy hành chánh Nam Bộ. Xem thêm:
- Nguyễn Tố Uyên: Công cuộc bảo vệ và xây dựng chính quyền nhân dân ở Việt
Nam trong những năm 1945-1946, Sđd, tr. 33.
- Ban chỉ đạo biên soạn Lịch sử Chính phủ: Lịch sử Chính phủ Việt Nam, Nxb.
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2008, t.1, tr.61.
- Báo cáo tổng quan Lịch sử hình thành và phát triển vùng đất Nam Bộ, tr.392.
- Phạm Ngọc Bích: Cách mạng Tháng Tám 1945 ở Sài Gòn - Chợ Lớn và Gia Định,
Nxb. Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh, 2008, tr.142.
166 VÙNG ĐẤT NAM BỘ VIII THIẾT CHẾ QUẢN LÝ XÃ HỘI

làm Chủ tịch, Nguyễn Văn Tạo (Ủy trưởng Nội vụ), Nguyễn Phi Hoanh
(Ủy trưởng Tài chính), Phạm Ngọc Thạch (Ủy trưởng Ngoại giao)
Hoàng Đôn Văn (Ủy trưởng Lao động), Dương Bạch Mai (Ủy trưởng
Quốc gia tự vệ cuộc), Nguyễn Thanh Sơn (Thanh tra Chính trị), Ngô
Tấn Nhơn (Ủy trưởng Kinh tế), Huỳnh Văn Tiểng (Ủy trưởng Tuyên
truyền và Thanh niên). Các Ủy ban dân tộc giải phóng1, hình thức tiền
chính phủ ở các tỉnh, được cải tổ thành Ủy ban nhân dân cách mạng
lâm thời. Nhưng khác với Bắc Bộ và Trung Bộ2, Ủy ban hành chánh
lâm thời ở Nam Bộ lúc đầu được thành lập ở các tỉnh và thành phố
lớn, dần dần được thành lập ở các tỉnh khác và ở phần lớn phủ, huyện,
xã trong xứ.
Ở Sài Gòn, ông Kha Vạn Cân tiếp tục được đề cử làm Chủ tịch Ủy
ban nhân dân; Đốc phủ Phan Văn Chương làm Phó Chủ tịch, Nguyễn
Văn Kỉnh làm Bí thư Thành ủy3.
Ở Gia Định, sau khi giành chính quyền, ngày 26-8-1945, Ủy ban
nhân dân tỉnh ra mắt nhân dân gồm: Phạm Văn Chiêu (Chủ tịch); Phạm
Văn Khung (Phó Chủ tịch), Phan Văn Năm (Tổng thư ký), Nguyễn Văn
Lượng phụ trách an ninh, Nguyễn Văn Triệu phụ trách tài chính. Ở các
quận trong tỉnh, Ủy ban nhân dân cũng ra mắt đồng bào, như ở Hóc
Môn (Lê Phẩm Thịnh làm Chủ tịch, Nguyễn Văn Thức làm Phó Chủ
tịch, Cao Đức Luốc làm Phó Chủ tịch); ở Thủ Đức (Hồ Văn Tư làm Chủ
tịch, Lê Văn Long làm Phó Chủ tịch, Đào Sơn Tây làm Ủy viên Chính
trị, Nguyễn Văn làm Tổng trưởng Cảnh sát, Trần Văn Ngà làm Ủy viên
Quân sự)...

1. Một số nơi như Bến Tre và Tây Ninh là Ủy ban khởi nghĩa.
2. Ở Bắc Bộ và Trung Bộ, đến tháng 10-1945, Ủy ban nhân dân lâm thời đã
được thành lập từ cấp xã trở lên.
3. Xem Phạm Ngọc Bích: Cách mạng Tháng Tám 1945 ở Sài Gòn - Chợ Lớn và
Gia Định, Sđd, tr.142.
CHƯƠNG III: HỆ THỐNG QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH... 167

Tại tỉnh Chợ Lớn, do sự chưa thống nhất giữa Tiền Phong và Giải
Phóng, nên Lâm ủy hành chính Nam Bộ đã bổ nhiệm ông Võ Lợi Trinh,
nguyên thủ lĩnh Thanh niên Tiền Phong và là chủ nhà máy xay từng
ủng hộ tiền cho cách mạng thời bí mật, làm Chủ tịch; ông Nguyễn
Văn Hoành (Bí thư Tỉnh ủy) làm Phó Chủ tịch. Trụ sở Ủy ban đóng
tại Chợ Đệm1.
Ở tỉnh Bà Rịa, chiều ngày 25-8-1945, Ủy ban nhân dân lâm thời
tỉnh cũng được thành lập gồm: Lê Văn Huê (Chủ tịch); Dương Văn
Xá (Ủy trưởng Quân sự); Nguyễn Phải (Ủy trưởng Kinh tế tài chính);
Phan Kim Chung (Quốc gia tự vệ cuộc), sau đó khoảng 20 ngày bổ sung
thêm: Huỳnh Thừa Tiên (công chức công giáo), Trần Hưng Mưu. Tại
thị xã Vũng Tàu, Nguyễn Văn Nhật được cử làm Chủ tịch Ủy ban nhân
dân, ủy viên gồm có 10 người, trong đó có Lê Đình Y và Nguyễn Văn
Bảo phụ trách Quốc gia tự vệ cuộc2.
Tại tỉnh Bến Tre, ngay sau khi giành được chính quyền, Ủy ban
khởi nghĩa đổi thành Ủy ban nhân dân cách mạng đặc trách việc trấn
áp bọn phản động, bảo vệ thành quả cách mạng. Ngày 26-8-1945, tại
sân vận động Bến Tre, Ủy ban nhân dân cách mạng ra mắt toàn thể
đồng bào. Cùng với thắng lợi ở thị xã, tại các huyện, xã, nhân dân cũng
đã nổi lên cướp chính quyền, thành lập Ủy ban nhân dân cách mạng
địa phương. Song song với Ủy ban nhân dân cách mạng, tại tỉnh Bến
Tre còn tổ chức Ủy ban nhân dân tỉnh (tức Ủy ban hành chính) đảm
nhiệm công việc trị an hành chính. Ủy ban nhân dân tỉnh gồm một
chủ tịch, một phó chủ tịch, một tổng thư ký và bốn ủy viên (một phụ

1. Xem Phạm Ngọc Bích: Cách mạng Tháng Tám 1945 ở Sài Gòn - Chợ Lớn và
Gia Định, Sđd, tr.142-143.
2. Xem Tổ Lịch sử Cách mạng Tháng Tám: Cách mạng Tháng Tám (Tổng khởi
nghĩa ở Hà Nội và các địa phương), Nxb. Sử học, Hà Nội, 1960, t.2, tr.242; Ban
Chấp hành Đảng bộ tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu: Lịch sử Bà Rịa - Vũng Tàu kháng chiến
1945-1975, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1995, tr. 37-38.
168 VÙNG ĐẤT NAM BỘ VIII THIẾT CHẾ QUẢN LÝ XÃ HỘI

trách tài chính, một phụ trách công an, một phụ trách quân sự, một
phụ trách giao thông liên lạc)1.
Tại tỉnh Sóc Trăng, ngày 27-8-1945, Ủy ban nhân dân cách mạng
thành lập thay thế cho Ủy ban dân tộc giải phóng gồm có Dương Kỳ
Hiệp, Tạ Bá Tòng,...2. Cũng trong ngày 27-8-1945, tại tỉnh Biên Hòa,
một cuộc mít tinh gồm trên một vạn rưỡi người được triệu tập tại
tỉnh lỵ để giới thiệu Ủy ban nhân dân cách mạng. Ủy ban gồm Hoàng
Minh Châu (Chủ tịch), Huỳnh Văn Hớn (Phó Chủ tịch kiêm Trưởng
ban Tuyên truyền), Nguyễn Văn Long (phụ trách Cảnh sát), Ngô Hà
Thành (phụ trách Quốc gia tự vệ cuộc), Kinh Lý Tàn (phụ trách Ban
quản trị tài sản quốc gia), sau đó bổ sung thêm Huỳnh Văn Nghệ
(phụ trách Dân quân và tự vệ), Huỳnh Thiện Nghệ (phụ trách Thanh
niên), Hồ Hòa (phụ trách Thanh niên cứu quốc)3.
Nhiều tỉnh khác ở Nam Bộ, các Ủy ban nhân dân tỉnh cũng
lần lượt ra mắt nhân dân như: Mỹ Tho (ngày 25-8-1945)4;2Sa Đéc
(ngày 25-8-1945)5; Biên Hòa (ngày 27-8-1945)6; Tân An (ngày
28-8-1945)7... Tại Gò Công, tuy giành được chính quyền ngay từ
ngày 23-8, nhưng đến ngày 4-9-1945, Ủy ban nhân dân lâm thời tỉnh
Gò Công mới được thành lập, gồm một chủ tịch, một phó chủ tịch
và ba ủy viên8.
Xứ ủy Nam Bộ (Tiền Phong) và Lâm ủy hành chánh Nam Bộ
đóng trụ sở tại Sài Gòn - Chợ Lớn và trực tiếp lãnh đạo nhân dân xây
dựng chính quyền địa phương các cấp. Ngày 27-8-1945, ông Hoàng
Quốc Việt, đại diện cho Thường vụ Trung ương Đảng và Tổng bộ

1, 2, 3, 5, 7, 8. Xem Tổ Lịch sử Cách mạng Tháng Tám: Cách mạng Tháng


Tám Tổng khởi nghĩa ở Hà Nội và các địa phương, Sđd, tr. 262, 264, 287, 311, 341,
327, 218.
4, 6. Xem Dương Trung Quốc: Việt Nam những sự kiện lịch sử 1919-1945, Sđd,
tr.441, 420.
CHƯƠNG III: HỆ THỐNG QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH... 169

Việt Minh cùng ông Cao Hồng Lĩnh tới Sài Gòn. Ngày 10-9-1945,
Hoàng Quốc Việt đã gặp Xứ ủy và Lâm ủy hành chánh Nam Bộ, sau
khi bàn bạc đã đi đến quyết định: Để mở rộng cơ sở chính trị của
chính quyền cách mạng, Ủy ban hành chánh lâm thời Nam Bộ chính
thức được cải tổ thành Ủy ban nhân dân Nam Bộ với sự tham gia của
nhiều nhân sĩ không đảng phái và đại biểu các đảng phái chính trị
khác nhau, gồm có1:

1. Luật sư, Tiến sĩ Phạm Văn Bạch Chủ tịch


2. Bí thư Xứ ủy Trần Văn Giàu Phó Chủ tịch kiêm Ủy viên trưởng Quân sự
3. Nguyễn Văn Tạo Ủy trưởng Nội vụ
4. Ung Văn Khiêm Ủy trưởng
5. Phạm Ngọc Thạch Ủy trưởng Ngoại giao
6. Ngô Tấn Nhơn Ủy trưởng Kinh tế
7. Nguyễn Văn Nghiêm Ủy trưởng
8. Từ Bá Đước Ủy trưởng
9. Huỳnh Phúc Sổ Ủy trưởng đặc biệt
10. Huỳnh Văn Tiểng Ủy trưởng Thanh niên
11. Nguyễn Thanh Sơn Ủy trưởng Thanh tra chính trị
12. Hoàng Đôn Văn Ủy trưởng Lao động
13. Dương Bạch Mai Ủy trưởng Quốc gia tự vệ

Tiếp sau, chính quyền ở các tỉnh, thành cũng lần lượt được củng cố
theo hướng đó. Nhiều đảng viên cộng sản tự nguyện rút ra khỏi bộ máy
chính quyền để đưa thêm vào những nhân sĩ, trí thức, các đại biểu đảng
phái, tôn giáo, dân tộc... Nhiều tỉnh, điển hình là Biên Hòa, lập tổ chức
cố vấn bên cạnh chính quyền để động viên lòng yêu nước và sử dụng sự
đóng góp của các viên chức cao cấp trong chính quyền cũ và các nhân
tài trong xã hội.

1. Xem Phạm Ngọc Bích: Cách mạng Tháng Tám 1945 ở Sài Gòn - Chợ Lớn và Gia
Định, Sđd, tr.147, 148.
170 VÙNG ĐẤT NAM BỘ VIII THIẾT CHẾ QUẢN LÝ XÃ HỘI

Sơ đồ 3: Hệ thống tổ chức chính quyền và Mặt trận Việt Minh ở


Nam Bộ sau Cách mạng Tháng Tám năm 19451
(ngày 10-9-1945)

Vào đêm ngày 22 rạng sáng ngày 23-9-1945, thực dân Pháp được sự
hỗ trợ của quân Anh đã nổ súng ở Sài Gòn, mở đầu cuộc tái chiếm Việt
Nam. Vì danh dự của Tổ quốc, vì nền độc lập, tự do của đất nước, Xứ ủy
và Ủy ban nhân dân Nam Bộ đã kịp thời lãnh đạo và tổ chức quân, dân
Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định kiên quyết đứng lên chiến đấu.
Ngày 23-9-1945, trước tình hình vô cùng cấp bách, Hội nghị do Xứ
ủy Nam Bộ và Ủy ban nhân dân Nam Bộ triệu tập khẩn cấp tại số 627-629,

1. Xem Phạm Ngọc Bích: Cách mạng Tháng Tám 1945 ở Sài Gòn - Chợ Lớn và
Gia Định, Sđd, tr. 148.
CHƯƠNG III: HỆ THỐNG QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH... 171

đường Cây Mai, Chợ Lớn1, đã quyết định thành lập Ủy ban kháng chiến
Nam Bộ do Trần Văn Giàu làm Chủ tịch, để chuyên lo về quân sự. Chiều
cùng ngày, Ủy ban nhân dân Nam Bộ ra Tuyên cáo quốc dân:
“Đồng bào Nam Bộ!
Vì coi quân Anh là đại biểu của Đồng Minh tới đất nước chúng ta
giải giáp quân Nhật để đem lại hòa bình cho dân chúng Đông Dương,
nên chúng tôi - Ủy ban nhân dân Nam Bộ - luôn giúp cho quân đội Anh
làm nhiệm vụ được dễ dàng. Mặc dù có nhiều điều bất mãn, chúng tôi
đã nhiều lần kêu gọi quốc dân nên nén lòng căm giận để chờ đợi cuộc
vận động ngoại giao với Đồng Minh trên trường quốc tế. Nhưng do sự
nhân nhượng và dung túng của quân Anh, bọn thực dân Pháp đã làm
nhiều điều quá đáng.
Đêm 22-9, chúng cùng với quân đội Anh chiếm Sở Bưu điện và Sở
Cảnh sát. Sáng hôm 23-9, quân Pháp công nhiên chiếm trụ sở Ủy ban
nhân dân Nam Bộ và Quốc gia tự vệ. Chúng đã gây nhiều đổ máu ở
đường phố Sài Gòn. Rõ ràng là quân đội Anh đã làm trái trách nhiệm
của Đồng Minh ủy thác cho họ.
.....
Chúng tôi đã:
Lập Ủy ban kháng chiến để lo quân sự
Hạ lệnh đình công và bất hợp tác với địch
Truyền đi lục tỉnh thi hành phá hoại đường giao thông, phong tỏa
việc chuyển vận tiếp tế để bao vây địch.
Kêu gọi đồng bào tố cáo bọn Việt gian nguy hiểm.
Đồng bào thân mến!
Cương quyết phấn đấu, toàn dân hãy đoàn kết để bảo vệ quốc gia”2.

1. Nay là đường Nguyễn Trãi, quận 5, Thành phố Hồ Chí Minh.


2. Sơ thảo lịch sử Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam Thành phố Hồ Chí
Minh, tập 1, (1930-1945), Nxb. Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh, 1995,
tr. 210-211.
172 VÙNG ĐẤT NAM BỘ VIII THIẾT CHẾ QUẢN LÝ XÃ HỘI

Để củng cố các mặt trận, Ủy ban kháng chiến Nam Bộ chỉ đạo thành
lập Ủy ban kháng chiến Sài Gòn - Chợ Lớn do Nguyễn Văn Tư làm Chủ
tịch, Huỳnh Đình Mai và Từ Văn Ri làm Ủy viên1; sau đó tiếp tục thành
lập Ủy ban kháng chiến miền Đông Nam Bộ, Ủy ban kháng chiến miền
Tây Nam Bộ và Ủy ban kháng chiến miền Trung Nam Bộ2.
Ngày 25-10-1945, tại Hội nghị cán bộ Đảng ở Thiên Hộ (Mỹ Tho),
Xứ ủy Nam Bộ đã phân công Tôn Đức Thắng phụ trách Ủy ban kháng
chiến Nam Bộ và chỉ đạo các lực lượng vũ trang3.
Nhìn chung toàn xứ, hệ thống chính quyền bốn cấp: xứ, tỉnh,
huyện, xã ở nhiều địa phương Nam Bộ đã dần dần hình thành, song
hết sức đơn giản, gồm hai bộ phận là hành chính và chuyên môn; hành
chính kiêm luôn cả tư pháp, mối quan hệ và quyền hạn của hai bộ phận
chưa được phân định rõ ràng. Hầu hết các tỉnh sử dụng nhân viên cũ
vào làm việc trong các cơ quan chính quyền mới; các đảng viên và quần
chúng mới tham gia chính quyền thì không hoặc rất ít am hiểu về kỹ
thuật chuyên môn, cũng như về công tác chính quyền. Hơn thế nữa, bộ
máy chính quyền lại chưa được pháp lý hóa, thiếu quy định thống nhất
về chức năng, nhiệm vụ ở từng loại hình đơn vị hành chính - lãnh thổ
(nông thôn và đô thị, miền núi và đồng bằng, lục địa và hải đảo). Chính
vì vậy, ngày 22-11-1945, trên cơ sở kiến nghị của ban nghiên cứu tổ
chức chính quyền địa phương, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký ban hành Sắc
lệnh số 63 về tổ chức quyền hạn, cách làm việc của Hội đồng nhân dân
và Ủy ban hành chính các cấp (xã, huyện, tỉnh, kỳ)4.2.Đây là văn bản quy
phạm pháp luật cơ bản nhất quy định tổ chức chính quyền nhân dân các
cấp địa phương.
Theo Sắc lệnh này, chính quyền nhân dân địa phương bao gồm hai

1, 2, 3. Xem Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam Thành phố Hồ Chí Minh:
Lịch sử Mặt trận Dân tộc thống nhất Sài Gòn - Thành phố Hồ Chí Minh, tập 1,
(1930-1975), Nxb. Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh, 2006, tr.167, 174, 178.
4. Xem Công báo nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, số 11, ngày 30-11-1945,
tr. 131.
CHƯƠNG III: HỆ THỐNG QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH... 173

cơ quan là Hội đồng nhân dân và Ủy ban hành chính. Hội đồng nhân
dân do nhân dân bầu ra, là cơ quan thay mặt nhân dân. Ủy ban hành
chính là do Hội đồng nhân dân bầu ra, là cơ quan hành chính, vừa
thay mặt cho nhân dân, vừa đại diện cho Chính phủ. Hệ thống cơ quan
chính quyền địa phương được tổ chức ở cấp xã, huyện, tỉnh, kỳ, trong đó
ở cấp xã và tỉnh có cả Hội đồng nhân dân và Ủy ban hành chính, còn ở
cấp huyện thì chỉ có Ủy ban hành chính. Với Sắc lệnh này, lần đầu tiên ở
Nam Bộ nói riêng và cả nước nói chung, chính quyền được chính thức
thành lập về cả cơ sở pháp lý và thực tiễn. Tuy vậy, Sắc lệnh số 63 chỉ quy
định chính quyền địa phương nói chung, chưa khu biệt hóa đặc trưng tổ
chức chính quyền đô thị.
Đối với khu vực thành thị ở Nam Bộ, theo Sắc lệnh số 77 ngày 21-
12-19451 của Chủ tịch Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa, Sài Gòn - Chợ Lớn được đặt làm thành phố. Thành phố đặt
ba thứ cơ quan: Hội đồng nhân dân thành phố, Ủy ban hành chính
thành phố và Ủy ban hành chính khu phố. Hội đồng nhân dân thành
phố do nhân dân thành phố bầu ra theo lối phổ thông và trực tiếp đầu
phiếu, là cơ quan thay mặt cho nhân dân thành phố. Cũng giống như Hà
Nội, Hội đồng nhân dân thành phố Sài Gòn - Chợ Lớn có 30 hội viên
chính thức và 6 hội viên dự khuyết. Ủy ban hành chính thành phố do
Hội đồng nhân dân thành phố bầu ra, vừa thay mặt cho nhân dân thành
phố vừa thay mặt cho Chính phủ. Ủy ban hành chính thành phố có 5
uỷ viên chính thức (một Chủ tịch, hai phó chủ tịch, hai thư ký) và ba
ủy viên dự khuyết. Ủy ban hành chính khu phố do dân khu phố bầu ra
theo lối phổ thông và trực tiếp đầu phiếu, là cơ quan vừa thay mặt cho
dân khu phố vừa thay mặt cho Chính phủ. Ở mỗi khu phố sẽ đặt một
Ủy ban hành chính khu phố gồm có ba ủy viên chính thức (một chủ
tịch, một phó chủ tịch và một thư ký) và hai ủy viên dự khuyết. Khi bầu

1. Xem Công báo nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, số 16, ngày 29-12-1945,
tr. 197.
174 VÙNG ĐẤT NAM BỘ VIII THIẾT CHẾ QUẢN LÝ XÃ HỘI

thì bầu riêng chủ tịch, phó chủ tịch và thư ký. Sài Gòn - Chợ Lớn vẫn
giữ nguyên bộ máy tổ chức cũ (Kha Vạn Cân làm Chủ tịch, Phạm Văn
Chương làm Phó Chủ tịch)1.
Để giúp đỡ chính quyền nhân dân ở các địa phương Nam Bộ, Chính
phủ đã ra Sắc lệnh số 70 cử Bộ trưởng Bộ Lao động Lê Văn Hiến làm đặc
phái viên đặc biệt của Chính phủ ở Nam Trung Bộ và Nam Bộ thực hiện
nhiệm vụ kiểm tra công việc của ủy ban nhân dân địa phương và các cơ
quan hành chính; chỉnh đốn các cơ quan hành chính địa phương cho
được thống nhất; liên lạc với Chính phủ Trung ương và địa phương2.
Thực hiện chủ trương “vừa kháng chiến, vừa kiến quốc”, nhất là đối
với các tỉnh Nam Bộ, Chính phủ quyết định thành lập các chiến khu
trong cả nước để phù hợp với điều kiện thời chiến. Trên cơ sở ấy, ngày
10-12-1945, tại xã Bình Hòa Nam bên bờ sông Vàm Cỏ Đông, Xứ ủy
Nam Bộ tổ chức Hội nghị mở rộng và quyết định: giải thể Ủy ban kháng
chiến Nam Bộ, thành lập Ủy ban kháng chiến miền Nam Việt Nam do
Cao Hồng Lĩnh làm Chủ tịch, Đàm Minh Viễn làm Chủ nhiệm Tham
mưu, Trần Ngọc Danh làm Chủ nhiệm Chính trị, Tôn Đức Thắng làm
Chủ nhiệm Hậu cần. Chấp hành quyết định của Trung ương, Hội nghị
đã chia Nam Bộ thành ba khu kháng chiến và chỉ định cán bộ chỉ huy
gồm: Khu 7 (miền Đông Nam Bộ) do Nguyễn Binh làm Khu trưởng;
Khu 8 (miền Trung Nam Bộ) do Đào Văn Trường làm Khu trưởng; Khu 9
(miền Tây Nam Bộ) do Vũ Đức (Hoàng Đình Dong) làm Khu trưởng3.
Như vậy, cho đến cuối năm 1945, trong bối cảnh chiến tranh đang
nổ ra khắp nơi, ở các tỉnh Nam Bộ đã hình thành trên thực tế hai bộ
phận của chính quyền: một là các Ủy ban nhân dân cách mạng lâm thời
phụ trách công việc hành chính và chuyên môn, hai là các Ủy ban kháng

1. Xem Phạm Văn Thắng: Lịch sử Đảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh, Sđd, tr.99.
2. Xem Ban chỉ đạo biên soạn Lịch sử Chính phủ Việt Nam: Lịch sử Chính phủ
Việt Nam, Sđd, t.1, tr.72.
3. Xem Phạm Văn Thắng: Lịch sử Đảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh, Sđd,
tr.112.
CHƯƠNG III: HỆ THỐNG QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH... 175

chiến miền và khu để phụ trách mặt quân sự. Trước những tình thế khó
khăn, thử thách nghiêm trọng, hai bộ phận này đã phát huy được hiệu
lực và bản chất cách mạng của mình, hoàn thành nhiệm vụ giữ vững
chính quyền cách mạng cùng cả nước bước vào cuộc kháng chiến chống
thực dân Pháp.

II- HỆ THỐNG QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH Ở NAM BỘ THỜI KỲ KHÁNG


CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN PHÁP (1945 - 1954)

1. Thực dân Pháp tái xâm lược Nam Bộ

Ở Nam Bộ, ngoài việc lấy danh nghĩa quân Đồng Minh vào giải giáp
quân Nhật từ vĩ tuyến 16 trở vào, quân đội Anh còn đồng loã và giúp
cho thực dân Pháp quay lại xâm lược nước ta lần thứ hai. Ngay từ ngày
2-9-1945, giữa lúc nhân dân Sài Gòn mít tinh mừng ngày tuyên bố độc
lập của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, một số thực dân phản động
Pháp đã núp trong các khu nhà, xả súng bắn ra làm 47 người chết và
nhiều người bị thương. Ngày 23-9-1945, quân đội Pháp nổ súng đánh
chiếm Sài Gòn, mở đầu cuộc xâm lược Việt Nam lần thứ hai.
Ngay sáng 23-9-1945, Xứ ủy và Ủy ban nhân dân Nam Bộ đã họp
tại địa điểm trên đường Cây Mai, Chợ Lớn1. Tham dự cuộc họp có
Ung Văn Khiêm, Trần Văn Giàu, Nguyễn Văn Nguyễn, Phạm Ngọc
Thạch, Huỳnh Văn Tiểng... Hội nghị đã nhất trí điện ra Trung ương
xin Chủ tịch Hồ Chí Minh cho phép được phát động cuộc kháng
chiến và trên thực tế, quân dân Sài Gòn - Chợ Lớn đã buộc phải đứng
lên kháng chiến vì quyền lợi tối cao của quốc gia dân tộc, thực hiện
lời thề độc lập ngày 2-9-1945.

1. Nay là số nhà 627-629, đường Nguyễn Trãi, quận 5, Thành phố Hồ Chí Minh.
176 VÙNG ĐẤT NAM BỘ VIII THIẾT CHẾ QUẢN LÝ XÃ HỘI

Trong ngày hôm đó, Ủy ban kháng chiến Nam Bộ được thành lập
do Trần Văn Giàu làm Chủ tịch, còn Ủy ban kháng chiến Sài Gòn - Chợ
Lớn do Nguyễn Văn Tư làm Chủ tịch. Chiều cùng ngày, Ủy ban kháng
chiến Nam Bộ ra tuyên cáo nêu rõ: “Sáng hôm 23-9, quân Pháp công
nhiên chiếm trụ sở Ủy ban hành chính Nam Bộ và Quốc gia tự vệ cuộc.
Chúng đã gây nhiều cuộc đổ máu ở đường phố Sài Gòn... Không lẽ chịu
nhục hoài, vì danh dự của dân tộc, chúng ta coi trọng quyền lợi của
quốc gia, nên chúng tôi phải đánh điện ra Trung ương xin phép cho
kháng chiến...”1.
Quân dân Sài Gòn - Chợ Lớn đã kiên quyết đứng lên chiến đấu mở
đầu cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Các đơn vị Xung phong,
Công đoàn, Thanh niên tiền phong lập tức chiếm lĩnh các vị trí chiến
đấu, đánh trả và vây hãm quân Pháp.
Ngày 24-9, Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng Hòa ra Huấn
lệnh gửi cho quân dân Nam Bộ. Huấn lệnh chỉ rõ: “Nam Bộ phải căn
cứ theo chính sách tranh thủ hoàn toàn độc lập của Chính phủ và điều
kiện thực tế của Nam Bộ mà định phương châm hành động cho đúng,
làm sao giữ gìn được lực lượng quân sự và chính trị, đồng thời chứng tỏ
cho thế giới biết rằng dân Việt Nam không chịu ách nô lệ một lần nữa”2.
Ngày 26-9, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã gửi thư biểu dương “lòng
kiên quyết ái quốc của đồng bào Nam Bộ”. Người nêu rõ: “Chính phủ
và toàn quốc đồng bào sẽ hết sức giúp những chiến sĩ và nhân dân hiện
đang hy sinh tranh đấu để giữ vững nền độc lập của nước nhà”3.
Bị vây chặt trong thành phố Sài Gòn, không thực hiện được ý đồ
đánh chớp nhoáng, quân Pháp phải xin đình chiến từ ngày 30-9. Đến
cuối tháng 10-1945, nhờ tăng viện binh, quân Pháp đã phá vỡ vòng

1. Báo Cứu quốc, số 54, ngày 29-9-1945.


2. Báo Cứu quốc, số 50, ngày 24-9-1945.
3. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t.4, tr. 29.
CHƯƠNG III: HỆ THỐNG QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH... 177

vây xung quanh Sài Gòn - Chợ Lớn, mở rộng đánh chiếm Biên Hòa,
Thủ Dầu Một (ngày 25-10) rồi Mỹ Tho (ngày 26-10), Vĩnh Long (ngày
29-10), Cần Thơ (ngày 30-10). Đầu năm 1946, thực dân Pháp mở rộng
vùng chiếm đóng, chúng lần lượt chiếm được các tỉnh: Sa Đéc (ngày
9-1), Long Xuyên (ngày 9-1), Châu Đốc (ngày 20-1), Hà Tiên (ngày 20-
1), Rạch Giá (ngày 26-1) và Cà Mau (ngày 5-2)... Đến tháng 2-1946, hầu
hết các tỉnh Nam Bộ đã thuộc về tay thực dân Pháp.

2. Tổ chức hành chính ở Nam Bộ thời kỳ chiến tranh Pháp - Việt


(1946-1954)

a) Tổ chức các cấp hành chính

Về phía chính quyền cách mạng, theo Hiến pháp năm 1946, lãnh thổ
Việt Nam được chia thành ba bộ: Bắc Bộ, Trung Bộ và Nam Bộ. Mỗi bộ
chia thành tỉnh; mỗi tỉnh chia thành huyện; mỗi huyện chia thành xã1.
Chính quyền địa phương gồm bốn cấp: xã, huyện, tỉnh, bộ (trước kia
là kỳ).
Sau ngày Toàn quốc kháng chiến (19-12-1946), để tiện cho việc chỉ
đạo chiến tranh trong từng giai đoạn trên phạm vi cả nước nói chung
và Nam Bộ nói riêng, Chính phủ Việt Nam Dân Chủ cộng hòa nhiều
lần thay đổi cách phân chia các khu vực hành chính. Các khu (chiến
khu) nếu như trước đây chỉ là đơn vị quân sự, thì lúc này kiêm cả chức
năng hành chính, là đơn vị quân sự - hành chính. Đến tháng 11-1946, cả
nước được chia thành 12 khu hành chính và quân sự, trong đó các tỉnh
Nam Bộ vẫn thuộc các khu 7, 8, 9 như cuối năm 1945.
Từ tháng 1-1948, Chính phủ cho thành lập các liên khu; tuy nhiên,
Nam Bộ vẫn giữ ba khu: Khu 7, Khu 8, Khu 9 và đặc khu Sài Gòn - Chợ Lớn

1. Xem Tuyên ngôn độc lập năm 1945 và các Hiến pháp Việt Nam (1946, 1959,
1980, 1992), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2007, tr. 23.
178 VÙNG ĐẤT NAM BỘ VIII THIẾT CHẾ QUẢN LÝ XÃ HỘI

(trực thuộc Tư lệnh Nam Bộ)1. Tháng 3-1948, bãi bỏ các danh từ
phủ, châu, quận. Cấp trên cấp xã và dưới cấp tỉnh nay nhất luật gọi
là cấp “huyện”2.
Từ tháng 10-1951, Chính phủ chia Liên khu Nam Bộ làm hai phân
liên khu: Phân liên khu miền Đông gồm Gia Định Ninh3, Thủ Biên4, Bà
Chợ5, Mỹ Tho6, Long Châu Sa7; Phân liên khu miền Tây gồm Bến Tre,
Trà Vinh8, Cần Thơ, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Long Châu Hạ9; và đặc khu
Sài Gòn - Chợ Lớn10.
Tại vùng Pháp chiếm đóng11, thực hiện âm mưu dùng người Việt
đánh người Việt, thực dân Pháp đã liên tiếp lập ra các chính phủ tay sai
ở cả ba miền. Ngay sau khi được thành lập, các chính phủ tay sai ban
hành nhiều đạo dụ quy định địa giới hành chính một số địa phương của
Nam Bộ.
Tháng 7-1949, Bảo Đại ban hành Dụ số 2 quy định “Về phương
diện hành chính, lãnh thổ Quốc gia Việt Nam có ba phần: Bắc Việt,
Trung Việt, Nam Việt”. Tại mỗi phần, có thủ hiến đại diện cho chính
phủ Trung ương, có các cấp hành chính tỉnh, quận, tổng, xã.

1. Xem Viện Sử học: Việt Nam những sự kiện lịch sử 1945-1975, Nxb. Giáo
dục, Hà Nội, 2005, tr.51.
2. Sắc lệnh số 148-SL, ngày 25-3-1948.
3. Tỉnh Gia Định Ninh: gồm hai tỉnh Gia Định, Tây Ninh và một phần Chợ Lớn.
4. Tỉnh Thủ Biên: gồm hai tỉnh Thủ Dầu Một và Biên Hòa hợp lại.
5. Tỉnh Bà Chợ: gồm tỉnh Bà Rịa, một phần Chợ Lớn và huyện Nhà Bè của
tỉnh Gia Định hợp lại.
6. Tỉnh Mỹ Tho: gồm ba tỉnh Mỹ Tho, Tân An, Gò Công hợp lại.
7. Tỉnh Long Châu Sa: gồm các tỉnh Sa Đéc và ½ tỉnh Long Xuyên, ½ tỉnh
Châu Đốc hợp lại.
8. Tỉnh Vĩnh Trà: gồm hai tỉnh Vĩnh Long và Trà Vinh hợp lại.
9. Tỉnh Long Châu Hạ: gồm ba tỉnh Hà Tiên và ½ tỉnh Long Xuyên, ½ tỉnh
Châu Đốc hợp lại.
10. Xem Nguyễn Quang Ân: Việt Nam những thay đổi địa danh, địa giới hành
chính (1945 - 2002), Nxb. Thông tấn, Hà Nội, 2003, tr.55.
11. Xem Đặng Phong (Chủ biên): Lịch sử kinh tế Việt Nam 1945-2000, tập 1:
1945-1954, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 2001, tr. 444.
CHƯƠNG III: HỆ THỐNG QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH... 179

Về cấp tỉnh, Chính phủ lâm thời Cộng hòa Nam Kỳ cho thành lập
tỉnh Cap Saint Jacques (Vũng Tàu) ngày 10-3-1947.
Về cấp quận, trong những năm 1946-1954, chính quyền ở địa phương
và Chính phủ lâm thời Cộng hòa Nam Kỳ đã cho thành lập thêm một
số quận, trụ sở hành chính mới như: quận Châu Thành, quận Bến Súc
thuộc tỉnh Thủ Dầu Một (năm 1946); các quận hành chính và quân sự
Xuyên Mộc, Phú Mỹ thuộc tỉnh Bà Rịa (ngày 14-11-1946)1; quận hành
chính Bãi Xàu thuộc tỉnh Sóc Trăng (ngày 3-7-1947); quận hành chính
Cần Giờ thuộc tỉnh Vũng Tàu (ngày 3-5-1947); quận hành chính Bình
Phước, Bình Tịnh, Tân Uyên thuộc tỉnh Biên Hòa (ngày 5-1947); quận
hành chính Bến Gỗ thuộc tỉnh Biên Hòa; quận hành chính Lấp Vò thuộc
tỉnh Sa Đéc (ngày 19-5-1947); các quận hành chính Phước Điền Hạ, Gò
Đen, Đức Hòa, Mộc Hóa thuộc tỉnh Tân An (ngày 28-5-1947); quận hành
chính Long Thành2 thuộc tỉnh Biên Hòa (ngày 10-6-1947); quận Bằng Đa
thuộc tỉnh Trà Vinh (ngày 8-2-1949)3; quận Ba Động thuộc tỉnh Trà Vinh
(ngày 1-10-1951)4...

1. Xem Nguyễn Quang Ân: Việt Nam những thay đổi địa danh, địa giới hành
chính (1945-2002), Sđd, tr. 163.
2. Quận hành chính Long Thành gồm có:
- Tổng Thành Tuy Hạ với các làng: Long Hiệu, Phước Thạnh, Tân Hương, Phú
Hội, Phú Hữu, An Phú, Bình Quới, Phước Khánh, Phước Lý.
- Tổng Thành Tuy Phượng với các làng: Lộc An, Long Phước, Phước Thọ,
Phước Long, Phước Lai, Phước Kiến, Mỹ Khoan, Phước An, Thái Phiên, Phước
Thiên, Phước Lộc Xã, với hai làng Tam An và An Lợi của Tổng Long Vĩnh Thượng.
(Nguyễn Quang Ân: Việt Nam những thay đổi địa danh, địa giới hành chính (1945-
2002), tr,166).
3. Nguyễn Quang Ân: Việt Nam những thay đổi địa danh, địa giới hành chính
(1945-2002), Sđd, tr.183.
4. Gồm có các làng: Hiệp Thạnh, Long Toàn, Long Hựu, Trường Long Hòa, Hiệp
Mỹ và Mỹ Long trước thuộc quận Cầu Ngang cùng tỉnh. Tuy nhiên sau đó, quận này
lại bị giải thể, các làng này được nhập vào lãnh thổ quận Cầu Ngang. (Xem Nguyễn
Quang Ân: Việt Nam những thay đổi địa danh, địa giới hành chính (1945-2002), Sđd,
tr.221-231).
180 VÙNG ĐẤT NAM BỘ VIII THIẾT CHẾ QUẢN LÝ XÃ HỘI

Đối với khu Sài Gòn - Chợ Lớn, tháng 5-1948, khu được chia thành
sáu quận cảnh sát. Trên địa bàn Sài Gòn có quận 1, quận 2, quận 3 và
quận 6. Trên địa bàn Chợ Lớn có quận 4 và quận 5. Ranh giới được ấn
định như sau: quận 1 gồm có hộ 1; quận 2 gồm có hộ 2; quận 3 gồm có
hộ 4, cộng thêm một khu tứ giác được bao bọc bởi đường Chasseloup
Laubat, đại lộ Hui Bon Hoa, đường Général Lizé và ranh giới của hộ 3
và hộ 4 y như đã được ấn định theo Nghị định ngày 22-9-1941; quận
4 gồm có hộ 7, hộ 8, hộ 9 và hộ 10, hộ 13 và một phần của hộ 15 và hộ
18 khu vực Chợ Lớn; quận 5 gồm có hộ 11, hộ 12, hộ 14, hộ 15, hộ 16,
hộ 17 và hộ 18 (trừ phần đã sáp nhập vào quận 4); quận 6 gồm có hộ 3
(Khánh Hội và Vĩnh Hội) của Sài Gòn1.
Năm 1952, thành phố Sài Gòn - Chợ Lớn được gọi là Thủ đô Sài
Gòn - Chợ Lớn. Ngày 27-12-1952, theo Sắc lệnh số 104-NV của Quốc
trưởng Bảo Đại, Thủ đô Sài Gòn - Chợ Lớn được chia làm bảy quận.
Mỗi quận do một Hội nghị hàng quận, gồm 5 hội viên, cai trị, dưới
quyền của Đô trưởng Sài Gòn - Chợ Lớn2.
Ngày 29-12-1952, một số thị trấn ở Nam Kỳ được gọi là thị xã hỗn
hợp (commune mixte): Bạc Liêu, Cần Thơ, Rạch Giá, Long Xuyên, Mỹ
Tho và Vũng Tàu3.
Những thay đổi về các cấp hành chính, địa giới hành chính ở Nam
Bộ do chính quyền tay sai của Pháp lập nên chỉ tồn tại trong khu vực và
thời gian Pháp chiếm đóng, chính vì vậy danh sách các cấp hành chính
thường thiếu ổn định. Đến năm 1953, Nam Bộ gồm 21 tỉnh và thành phố
Sài Gòn - Chợ Lớn với 94 quận4: 2:

1, 2, 3. Xem Nguyễn Quang Ân: Việt Nam những thay đổi địa danh, địa giới
hành chính (1945-2002), Sđd, tr.170-171, 235, 235..
4. Annuaire des États Associés, 1953, tr. 341-343. trích theo Nguyễn Đình
Đầu: Tổng kết nghiên cứu địa bạ Nam Kỳ lục tỉnh, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh,
1994, tr. 107.
CHƯƠNG III: HỆ THỐNG QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH... 181

Bảng 15: Danh sách các tỉnh Nam Bộ đến năm 1953

Số
STT Tỉnh Danh sách các quận
quận
1 Bạc Liêu 4 Vĩnh Lợi, Vĩnh Châu, Giá Rai, Cà Mau
2 Bà Rịa 2 Long Điền, Đất Đỏ
3 Bến Tre 4 Bến Tre, Ba Trí, Mõ Cày, Thạnh Phú
4 Biên Hòa 4 Biên Hòa, Long Thành, Tân Uyên, Xuân Lộc
5 Cần Thơ 5 Cần Thơ, Ô Môn, Trà Ôn, Phụng Hiệp, Cầu Kè
Cap Saint
6 Jacques
(Vũng Tàu)
Châu Phú, Tân Châu, Tri Tôn, Tịnh Biên, Hồng
7 Châu Đốc 5
Ngự
8 Chợ Lớn 4 Gò Đen, Cần Giuộc, Cần Đước, Đức Hòa
9 Gia Định 5 Gò Vấp, Tân Bình, Thủ Đức, Hóc Môn, Nhà Bè
Hòa Đồng Thượng, Hòa Đồng Trung, Hòa Đồng
10 Gò Công 5
Hạ, Hòa Lạc Thượng, Hòa Lạc Hạ
11 Hà Tiên 3 Hòn Chông, Phú Quốc và Giang Thanh
Long Xuyên, Thốt Nốt, Chợ Mới, Lắp Vò, Núi
12 Long Xuyên 5
Sập
13 Mỹ Tho 5 Mỹ Tho, Cai Lậy, Cái Bè, Chợ Gạo, Hòa Thạnh
14 Rạch Giá 4 Rạch Giá, Tân Hiệp, An Biên, Phú Quốc
15 Sa Đéc 5 Sa Đéc, Cao Lãnh, An Trung, An Tịnh, An Thới
Sóc Trăng, Kế Sách, Long Phú, Lịch Hội
16 Sóc Trăng 5
Thượng, Thạnh Trị
17 Tân An 3 Tân An, Thủ Thừa, Bình Phước
18 Tây Ninh 2 Châu Thành, Trảng Bàng
Thủ Dầu Một, Lái Thiêu, Bến Cát, Dầu Tiếng,
19 Thủ Dầu Một 7
Hớn Quản, Sông Bé, Bù Đốp
Trà Vinh, Tiểu Cầu, Càng Long, Cầu Ngang,
20 Trà Vinh 7
Trà Cú, Ba Động, Bangda
21 Vĩnh Long 4 Vĩnh Long, Chợ Lách, Tam Bình, Vũng Liêm
Thành phố Sài Quận 1, Quận 2, Quận 3, Quận 4, Quận 5,
6
Gòn - Chợ Lớn Quận 6

Nguồn: Nguyễn Đình Đầu: Tổng kết nghiên cứu địa bạ Nam Kỳ lục tỉnh,
Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, 1994, tr.107-113.
182 VÙNG ĐẤT NAM BỘ VIII THIẾT CHẾ QUẢN LÝ XÃ HỘI

b) Tổ chức bộ máy quản lý


- Chính quyền cách mạng
Theo Hiến pháp năm 1946, ở tỉnh, thành phố, thị xã và xã có Hội
đồng nhân dân do đầu phiếu phổ thông và trực tiếp bầu ra. Hội đồng
nhân dân tỉnh, thành phố, thị xã hay xã cử ra Ủy ban hành chính. Ở bộ
và huyện, chỉ có Ủy ban hành chính. Ủy ban hành chính bộ do Hội đồng
các tỉnh và thành phố bầu ra. Ủy ban hành chính huyện do Hội đồng các
xã bầu ra1. Tuy nhiên, riêng ở Nam Bộ, do hoàn cảnh chiến tranh nổ ra
từ sớm, không phải cấp nào, địa phương nào cũng tổ chức chính quyền
theo phương thức và nguyên tắc mà các văn bản Nhà nước đã quy định.
Đa số các địa phương chưa thể thực hiện được bầu cử Hội đồng nhân
dân. Do đó, Ủy ban hành chính không phải do các Hội đồng nhân dân
bầu ra mà do dân quân, các đoàn thể cử ra (ở những nơi có phong trào
mạnh) hoặc do cơ quan cấp trên chỉ định.
Đến tháng 2-1946, Pháp chiếm đóng tất cả các tỉnh lỵ Nam Bộ,
kiểm soát hầu hết các trục đường giao thông thủy bộ quan trọng. Cuộc
kháng chiến ở Nam Bộ rơi vào tình trạng hết sức khó khăn, chính quyền
nhân dân nhiều nơi tan rã. Khu VII, VIII và IX đều yên tiếng súng
kháng chiến, Nam Bộ chìm trong bầu không khí đen tối nhất.
Tuy nhiên, sau Hội nghị Đà Lạt (tháng 4-1946), trong khí thế nhân
dân cả nước nhất tề đấu tranh trở lại, toàn miền Nam cũng sống dậy
không khí quyết liệt của những ngày Cách mạng Tháng Tám hào hùng.
Chính quyền nhân dân ở 20 tỉnh trên tổng số 21 tỉnh Nam Bộ được lập
lại, nhân dân nắm quyền kiểm soát ở hầu hết các xã2, khoảng trên 1.000
xã trong tổng số 1.204 xã toàn Nam Bộ đã nằm trong phạm vi kiểm soát

1. Xem Tuyên ngôn độc lập năm 1945 và các Hiến pháp Việt Nam (1946, 1959,
1980, 1992), Sđd, tr.23.
2. Xem Nguyễn Tố Uyên: Công cuộc bảo vệ và xây dựng chính quyền nhân
dân ở Việt Nam trong những năm 1945-1946, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội,
1999, tr. 208.
CHƯƠNG III: HỆ THỐNG QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH... 183

của ta. Tháng 6-1946, Hội nghị quân dân chính toàn Nam Bộ được triệu
tập để bàn biện pháp cải tổ và củng cố các cơ quan chính quyền các cấp1.
Ngày 12-7-1946, Chính phủ cử đồng chí Nguyễn Sơn giữ chức Chủ
tịch Ủy ban kháng chiến miền Nam Việt Nam kiêm Chủ tịch Ủy ban
kháng chiến miền Nam Trung Bộ. Đồng thời, do đồng chí Hoàng Quốc
Việt được điều động đi nơi khác, nên cử đồng chí Nguyễn Văn Duẩn
làm Ủy viên Ủy ban kháng chiến miền Nam Việt Nam2.
Ngày 13-9-1946, Chính phủ ra Sắc lệnh số 182 cải tổ Ủy ban kháng
chiến miền Nam bằng việc hợp nhất Ủy ban kháng chiến miền Nam
Việt Nam và Ủy ban kháng chiến miền Nam Trung Bộ nhằm thống nhất
hành động và chỉ huy trong cuộc kháng chiến tại miền Nam Việt Nam.
Ủy ban kháng chiến miền Nam Việt Nam gồm từ bảy đến chín ủy viên,
trong số đó có một ủy viên đại biểu Ủy ban hành chính Nam Bộ và một
ủy viên đại biểu Ủy ban hành chính Trung Bộ. Ủy ban do một Chủ tịch
và hai Phó Chủ tịch điều hành.
Cũng theo Sắc lệnh này, Ủy ban kháng chiến miền Nam Việt Nam
có nhiệm vụ tổ chức công cuộc kháng chiến tại Nam phần Trung Bộ (từ
tỉnh Quảng Nam trở vào) và Nam Bộ.
Về phương diện quân sự, Ủy ban kháng chiến miền Nam tổ chức
công cuộc kháng chiến toàn dân, điều hành và chỉ huy bộ đội trong
những miền thuộc phạm vi của Ủy ban.
Về phương diện hành chính và chuyên môn, Ủy ban kháng chiến
miền Nam Việt Nam có các quyền sau:
a) Trong những trường hợp khẩn cấp và nghiêm trọng đặc biệt,
có ủy quyền để tuyên bố và thi hành việc thiết quân luật ở những địa
phương nào xét ra cần, theo những cách thức đã quy định trong Sắc
lệnh số 77, ngày 29-5-1946;

1. Xem Tố Thanh: Cuộc đấu tranh nhằm củng cố và giữ vững chính quyền cách
mạng ở Nam Bộ thời kỳ 1945-1946, tạp chí Nghiên cứu lịch sử, số 5-1986, tr. 24.
2. Xem Sắc lệnh số 123, ngày 16-7-1946.
184 VÙNG ĐẤT NAM BỘ VIII THIẾT CHẾ QUẢN LÝ XÃ HỘI

b) Trái lại, trong lúc bình thường, các cơ quan hành chính và
chuyên môn ở địa phương vẫn làm việc theo quy tắc chung. Ủy ban
kháng chiến miền Nam Việt Nam chỉ có quyền liên lạc với các cơ quan
đó để thảo luận và giải quyết nhưng vẫn có liên quan đến công cuộc
kháng chiến1.
Ngày 24-9-1946, Chính phủ tiếp tục bổ sung danh sách các đồng
chí thuộc Ủy ban kháng chiến miền Nam Việt Nam gồm2:
- Nguyễn Sơn : Chủ tịch
- Nguyễn Văn Tày : Phó Chủ tịch
- Phạm Văn Bạch : Phó Chủ tịch
- Cao Hồng Lĩnh : Ủy viên
- Lê Duẩn : Ủy viên
- Nguyễn Chánh : Ủy viên
- Huỳnh Văn Tiểng : Ủy viên
Cho đến tháng 11-1946, ở Nam Bộ, vì chiến tranh ác liệt, sau một
thời gian phân tán, các Ủy ban nhân dân lâm thời mới dần tụ họp và
hoạt động trở lại3.
Bước sang năm 1947, trong điều kiện chiến tranh, nhằm giảm sự
chồng chéo, cồng kềnh về tổ chức, ngày 1-10-1947, Chính phủ ra Sắc
lệnh số 91-SL, hợp nhất Ủy ban kháng chiến và Ủy ban hành chính từ
cấp tỉnh đến xã thành Ủy ban kháng chiến kiêm hành chính. Quy định
thành phần Ủy ban và quan hệ làm việc giữa Ủy ban các cấp4. Căn cứ
vào sắc lệnh trên, thành phần Ủy ban kháng chiến kiêm hành chính tại

1. Xem Sắc lệnh số 182, ngày 13-9-1946 của Chủ tịch Chính phủ Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa.
2. Xem Sắc lệnh số 183, ngày 24-9-1946.
3. Xem Nguyễn Tố Uyên: Công cuộc bảo vệ và xây dựng chính quyền nhân dân
ở Việt Nam trong những năm 1945-1946, Sđd, tr. 150.
4. Đến ngày 25-3-1948, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 149-SL, quy
định bỏ từ “kiêm” trong danh từ “Ủy ban kháng chiến kiêm hành chính”; gọi là:
“Ủy ban kháng chiến hành chính”.
CHƯƠNG III: HỆ THỐNG QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH... 185

mỗi cấp định như sau: cấp xã gồm năm ủy viên hành chính, một ủy viên
quân sự, một ủy viên nhân dân; cấp huyện, phủ hay châu gồm bảy ủy
viên: ba ủy viên hành chính, một ủy viên quân sự, ba ủy viên nhân dân;
cấp tỉnh cũng gồm bảy ủy viên: ba ủy viên hành chính, một ủy viên quân
sự, ba ủy viên nhân dân. Sắc lệnh này sau đó nhanh chóng được triển
khai thực hiện, trong đó có Nam Bộ.
Sau đó, theo Sắc lệnh số 120-SL ngày 25-1-19481, các khu hợp nhất
thành liên khu, trong đó ở Nam Bộ, Ủy ban kháng chiến miền Nam đổi
thành Ủy ban kháng chiến kiêm hành chính miền Nam Trung Bộ và Ủy
ban kháng chiến kiêm hành chính Nam Bộ. Ngày 24-9-1948, Chủ tịch
Hồ Chí Minh chỉ thị lập Ban Quân sự Nam Bộ với tên gọi là Bộ Tư lệnh
Nam Bộ2.
Ngày 15-2-1948, theo Sắc lệnh số 132-SL, về việc cử các Ủy viên,
và các Cố vấn Ủy ban Kháng chiến kiêm hành chính Nam Bộ; danh
sách ủy viên trong Ủy ban kháng chiến kiêm hành chính Nam Bộ được
thông qua các ông: Phạm Văn Bạch, Phạm Ngọc Thuận, Nguyễn Bình,
Trần Bửu Khoát, Nguyễn Thanh Sơn, Nguyễn Thành Vinh, Kha Vạn
Cân, Ung Văn Khiêm, Hoàng Xuân Nhi, Nguyễn Văn Hường, Nguyễn
Ngọc Nhất. Cùng với đó, cử ông Cao Triều Phát, Nguyễn Bá Sang làm
cố vấn của Ủy ban kháng chiến kiêm hành chính Nam Bộ.
Năm 1947-1948, Chính phủ đã cử nhiều cán bộ vào bổ sung cho
Nam Bộ. Năm 1948, lần đầu tiên Nam Bộ tiến hành cuộc bầu cử Hội
đồng nhân dân từ cấp xã đến cấp tỉnh3.
Ngày 21-3-1949, để tăng cường cho hệ thống chính quyền ở các
tỉnh cực nam của Tổ quốc, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký các sắc lệnh cử

1. Xem Công báo nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa số 2 năm 1948, tr.3.
2. Xem Ban chỉ đạo biên soạn lịch sử Chính phủ Việt Nam: Lịch sử Chính phủ
Việt Nam, Sđd, t.1, tr.177.
3. Xem Ban chỉ đạo biên soạn lịch sử Chính phủ Việt Nam: Lịch sử Chính phủ
Việt Nam, Sđd, t.1, tr.177.
186 VÙNG ĐẤT NAM BỘ VIII THIẾT CHẾ QUẢN LÝ XÃ HỘI

Tư lệnh, Phó Tư lệnh và Chính trị ủy viên Bộ Tư lệnh Nam Bộ như:


Sắc lệnh số 18-SL, ngày 12-3-1949, cử ông Nguyễn Bình giữ chức Tư
lệnh Bộ Tư lệnh Nam Bộ; Sắc lệnh số 19-SL, ngày 21-3-1949, cử ông
Trần Văn Trà giữ chức Phó Tư lệnh Bộ Tư lệnh Nam Bộ; Sắc lệnh số
20-SL, ngày 21-3-1949 cử ông Phạm Ngọc Thuần giữ chức Chính trị
ủy viên Bộ Tư lệnh Nam Bộ1.
Ngày 18-10-1949, Chính phủ ra Sắc lệnh số 115-SL, cử ông Phạm
Văn Bách làm Chủ tịch Ủy ban kháng chiến hành chính Nam Bộ; ông
Phạm Ngọc Thuần làm Phó Chủ tịch; ông Nguyễn Bình làm Ủy viên
quân sự; các ông Ca Văn Thỉnh, Ung Văn Khiêm, Nguyễn Thành Vinh,
Kha Vạn Cân làm Ủy viên Ủy ban kháng chiến hành chính Nam Bộ2.
Ngày 20-10-1949, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 119-SL, cử
ông Dương Quốc Chính giữ chức Chính trị ủy viên Bộ Tư lệnh Nam Bộ
thay ông Phạm Ngọc Thuần chuyển công tác khác. Cùng ngày, Người ký
Sắc lệnh số 120-SL đặt một ban cố vấn bên cạnh Ủy ban kháng chiến hành
chính Nam Bộ, gồm các ông Cao Triều Phát, Nguyễn Văn Hưởng, Phạm
Văn Chương và Lê Duẩn3. Năm 1952-1953, Chính phủ tiếp tục cử ông
Nguyễn Văn Hưởng4,3,Phạm Hữu Lâu54làm Ủy viên Ủy ban kháng chiến
hành chính Nam Bộ.
- Chính quyền thực dân trong vùng Pháp chiếm đóng
Sau khi ký Hiệp định Sơ bộ, tại Sài Gòn, ngày 4-2-19466,5, thực
dân Pháp và tay sai lập ra cái gọi là “Hội đồng tư vấn Nam Kỳ” do

1. Xem Ban chỉ đạo biên soạn lịch sử Chính phủ Việt Nam: Lịch sử Chính phủ
Việt Nam, Sđd, t.1, tr.177.
2, 3. Xem Ban chỉ đạo biên soạn lịch sử Chính phủ Việt Nam: Lịch sử Chính
phủ Việt Nam, Sđd, t.1, tr.169.
4. Xem Sắc lệnh số 118-SL, ngày 22-9-1952, chỉ định Ủy viên Ủy ban kháng
chiến hành chính Nam Bộ.
5. Sắc lệnh số 136-SL, ngày 31-1-1953.
6. Xem Nguyễn Tố Uyên: Công cuộc bảo vệ và xây dựng chính quyền nhân dân
ở Việt Nam trong những năm 1945-1946, Sđd, tr.201.
CHƯƠNG III: HỆ THỐNG QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH... 187

Cédille làm Chủ tịch, có bốn đại biểu Pháp, tám đại biểu Việt Nam,
ra sức hoạt động, nhằm tiếp tục âm mưu tách Nam Bộ ra khỏi Việt
Nam, nhằm chia cắt lâu dài đất nước ta. Ngày 26-3-1946, Hội đồng
tư vấn bầu Nguyễn Văn Thinh làm “Thủ tướng Chính phủ lâm thời
Cộng hòa Nam Kỳ”. Ngày 1-6-1946 tại Sài Gòn, Nguyễn Văn Thinh
làm lễ tuyên bố thành lập “nước Nam Kỳ tự trị” với bộ máy chính
phủ gồm hai phần ba là người Pháp và tay sai1. Tuy nhiên sau đó,
Chính phủ này lâm vào bế tắc trầm trọng, Nguyễn Văn Thinh phải
thắt cổ tự tử.
Sau cái chết của Nguyễn Văn Thinh, thực dân Pháp tiếp tục dựng
lên cái gọi là “Chính phủ Quốc gia Việt Nam” do Bảo Đại làm Quốc
trưởng từ năm 1948 đến năm 1954.
Được Chủ tịch Hồ Chí Minh mời ra Hà Nội nhậm chức Cố vấn
tối cao Chính phủ Lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, ngày
6-1-1946 (ngày bầu cử Quốc hội đầu tiên), công dân Vĩnh Thuỵ
(cựu Hoàng đế Bảo Đại) đã được bầu làm đại biểu Quốc hội khoá I.
Ngày 16-3-1946, Vĩnh Thụy cùng phái đoàn đại diện Chính phủ
Việt Nam Dân chủ Cộng Hòa sang thăm, đàm phán và gây thân
thiện với Trung Hoa. Trong thời gian ở Trung Hoa, nhóm đảng
phái thân Tưởng Giới Thạch và thân Pháp âm mưu lôi kéo cựu
Hoàng đế Bảo Đại để lập ra một chính phủ mới thân Pháp và thân
Tưởng Giới Thạch.
Ngày 6-2-1947, Cao ủy Bollaert đại diện Chính phủ Pháp đã mời
Bảo Đại đến hội kiến trên Chiến hạm Duguay Troin để bàn bạc về
việc lập một Chính phủ Việt Nam nằm trong Liên hiệp Pháp do Bảo
Đại lãnh đạo. Ngày 19-2-1947, Thiếu tướng trong quân đội Pháp

1. Xem Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam Thành phố Hồ Chí Minh, Sđd,
tr.186.
188 VÙNG ĐẤT NAM BỘ VIII THIẾT CHẾ QUẢN LÝ XÃ HỘI

Nguyễn Văn Xuân từ Sài Gòn bay sang Hương Cảng gặp Bảo Đại
xin lập một chính phủ mới ở Việt Nam, Bảo Đại đồng ý và cho chiếu
thư để Nguyễn Văn Xuân mang về Sài Gòn lập chính phủ. Ngày 2-6-
1948, Nguyễn Văn Xuân đã lập một “Nội các chính phủ” do mình
làm Thủ tướng; cùng với ba tổng trấn của Bắc phần, Trung phần và
Nam phần. Riêng đối với Nam phần, vì Pháp chưa giải tán Chính
phủ tự trị Nam Kỳ, nên Trần Văn Hữu không được gọi là Tổng trấn
Nam phần, mà vẫn là Thủ tướng Chính phủ tự trị Nam Kỳ1. “Chính
phủ” này lấy cờ vàng ba sọc làm “Quốc kỳ”, lấy bản nhạc Thanh niên
hành khúc của nhạc sĩ Lưu Hữu Phước làm “Quốc ca”. Ngày 5-6-
1948, một bản Tuyên ngôn Việt - Pháp được trình diễn trên chiếm
hạm Duguay Troin, Pháp thừa nhận nguyên tắc độc lập và thống
nhất của Việt Nam do cái gọi là “Chính phủ Quốc gia Việt Nam” nằm
trong Liên hiệp Pháp lãnh đạo2.
Ngày 28-4-1949, Bảo Đại về Sài Gòn sau ba năm sống lưu vong tại
các nước Trung Hoa, Anh, Pháp. Ngày 14-6-1949, Bảo Đại tổ chức một
buổi lễ long trọng trao đổi văn kiện với Thượng sứ đại diện cho Chính
phủ Pháp là Léon Pignon tại Sài Gòn. Ngày 1-7-1949, Bảo Đại xây dựng
Nội các mới để thay thế cho Nội các lâm thời do tướng Nguyễn Văn Xuân
thành lập hồi tháng 6-1948.
Nội các Chính phủ Quốc gia Việt Nam do Bảo Đại thành lập gồm:
- Bảo Đại: Quốc trưởng - kiêm Thủ tướng
- Nguyễn Văn Xuân: Phó Thủ tướng - kiêm Tổng trưởng

1. Xem Viện Sử học: Lịch sử Việt Nam, tập X, 1945-1950, Nxb. Khoa học xã
hội, Hà Nội, 2007, tr. 351.
2. Xem Học viện Hành chính quốc gia: Giáo trình lịch sử hành chính Nhà
nước Việt Nam, Nxb. Khoa học kỹ thuật, Hà Nội, 2007, tr. 407.
CHƯƠNG III: HỆ THỐNG QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH... 189

- Nguyễn Khắc Vệ: Tổng trưởng Tư pháp


- Nguyễn Phan Long: Tổng trưởng Ngoại giao
- Trần Văn Văn: Tổng trưởng Kinh tế và Kế hoạch
- Trần Văn Tỵ: Quốc vụ khanh
- Vũ Ngọc Trản: Thứ trưởng Nội vụ
- Phan Huy Đán: Thứ trưởng Nội vụ
- Dương Tấn Tài: Thứ trưởng Tài chính
- Hoàng Cung: Thứ trưởng Canh nông - Xã hội - Lao động
- Trần Quang Vinh: Thứ trưởng Quốc phòng
- Lê Thăng: Thứ trưởng Ngoại giao
- Phan Huy Quát: Thứ trưởng Quốc gia giáo dục
- Trần Văn Của: Thứ trưởng Kiến thiết - Giao thông
- Nguyễn Tôn Hoàn: Thứ trưởng Thanh niên
- Nguyễn Hữu Phiếm: Thứ trưởng Y tế
- Trần Văn Tuyên: Tổng Giám đốc Thông tin
- Đặng Trinh Kỳ: Tổng Thư ký Chính phủ1.
Ở Nam Bộ, ngày 3-7-1949, Bảo Đại ký sắc lệnh bổ nhiệm Trần Văn
Hữu làm Thủ hiến Nam Việt.
Tuy vậy, Nội các Chính phủ này vừa mới thành lập đã tỏ ra không
hiệu lực, Nguyễn Văn Xuân xin từ chức, Bảo Đại liền giao cho Nguyễn
Phan Long lập một Nội các mới vào ngày 22-1-1950. Hai ngày sau khi
Nội các Nguyễn Phan Long ra mắt, ngày 27-4-1950, Bảo Đại giải tán
Chính phủ Nguyễn Phan Long và uỷ nhiệm cho Thủ hiến Nam Việt
Trần Văn Hữu đứng ra lập chính phủ mới. Ngày 6-5-1950, Thủ tướng
Trần Văn Hữu cùng chính phủ mới ra mắt Quốc trưởng Bảo Đại ở Đà Lạt.

1. Xem Học viện Hành chính quốc gia: Giáo trình lịch sử hành chính Nhà
nước Việt Nam, Sđd, tr. 408.
190 VÙNG ĐẤT NAM BỘ VIII THIẾT CHẾ QUẢN LÝ XÃ HỘI

Sau đó, lần lượt các chính phủ mới1 dưới sự chỉ đạo của Bảo Đại và
thực dân Pháp tiếp tục được thành lập nhưng vẫn không cải thiện
được tình hình.
Tại cấp tỉnh, đến đầu năm 1948, tất cả các tỉnh lỵ ở Nam Bộ bị Pháp
chiếm đóng đều đã lập Hội đồng an dân. Quyền hạn của Hội đồng an
dân đã được nới rộng hơn với các chức danh: tỉnh trưởng cai quản một
tỉnh, quận trưởng cai quản một huyện, đồng thời có một cố vấn người
Pháp bên cạnh. Ở một số tỉnh như Long An, Bến Tre, Pháp đặt Tòa cố
vấn chính trị bên cạnh Tòa tỉnh trưởng. Giúp việc cho Tòa tỉnh trưởng
có các phòng và sở chuyên môn như: Sở Đoan (Sở Thuế), Sở Ngoại kiều,
Sở Địa chính, Sở Kinh tế, Sở Kho bạc, Sở Cảnh sát, Phòng Thương mại,
Phòng Sinh tử và Giá thú, Phòng Thông tin. Ở các tỉnh nhỏ thường
không có Tòa cố vấn chính trị, mà ở đó, những viên quan chỉ huy quân
sự người Pháp của một khu vực (secteur) hay một vùng (zóne) trực tiếp
ra mệnh lệnh cho tỉnh trưởng thi hành các quyết định, chỉ thị của Pháp.
Cho đến năm 1950, tổ chức bộ máy chính quyền tay sai cấp tỉnh
trong vùng Pháp chiếm đóng ở Nam Bộ đã được xác lập khá chặt chẽ.
Các tỉnh ở Nam Bộ hầu hết đều có tỉnh trưởng nắm quyền chỉ huy và
quản lý mọi công việc trong tỉnh.

1. Ngày 21-1-1951, Bảo Đại buộc phải giải tán Chính phủ của Trần Văn Hữu
nhưng lại ủy nhiệm cho Trần Văn Hữu thành lập chính phủ mới. Một tháng sau,
ngày 21-2-1951, nội các mới của Chính phủ do Trần Văn Hữu làm Thủ tướng lại
được thành lập. Để đối phó với tình hình rối ren, Bảo Đại thăng hàm Thiếu tướng
cho Trung tá Nguyễn Văn Hinh rồi cử Hinh làm Tổng tham mưu trưởng quân đội,
ủng hộ Thủ tướng Trần Văn Hữu cải tổ Nội các Chính phủ, Trần Văn Hữu bất lực,
cuối cùng đành nhường chức Thủ tướng cho trùm mật thám Pháp Nguyễn Văn
Tâm lên thay. Ngày 20-11-1953, Hoàng thân Bửu Lộc được triệu hồi từ Pháp về Sài
Gòn để lập một chính phủ mới thay thế Chính phủ của Nguyễn Văn Tâm (Xem
Học viện Hành chính quốc gia: Giáo trình lịch sử hành chính Nhà nước Việt Nam,
Sđd, tr. 209-210).
CHƯƠNG III: HỆ THỐNG QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH... 191

Bảng 16: Danh sách tỉnh trưởng tại một số tỉnh Nam Bộ
năm 1950

STT Tỉnh Tỉnh trưởng


1 Bạc Liêu Lương K. Nha
2 Bà Rịa Lê Tống
3 Bến Tre Nguyễn Đ. Cao
4 Biên Hòa Bùi Văn An
5 Cần Thơ Trương Trọng Vinh1
6 Cap Saint Jacques (Vũng Tàu) Viala
7 Châu Đốc Đặng Văn Lý
8 Gia Định Nguyễn Văn Tư
9 Gò Công Đặng Văn Kỳ
10 Hà Tiên Nguyễn Văn Hải
11 Long Xuyên Nguyễn Ngọc Thơ
12 Mỹ Tho Lê Văn An
13 Rạch Giá Nguyễn Văn Phạm
14 Sa Đéc Nguyễn Văn Điều
15 Sóc Trăng So Lier
16 Tân An Lê Xuân Thọ
17 Tây Ninh Tô Văn Qua
18 Vĩnh Long Trần Công Thiện
Nguồn: Viện Sử học: Lịch sử Việt Nam, tập X, 1945-1950, Nxb. Khoa học
xã hội, Hà Nội, 2007, tr.375.

Trong thời kỳ này, thực dân Pháp cho đặt ở cấp huyện chức huyện
trưởng hay trưởng khu (đối với những nơi chưa lập Hội tề), hay quận
trưởng hay tri huyện, tri phủ (đối với những nơi có Hội tề). Tại cấp tổng,
thực dân Pháp cho đặt lại chức chánh tổng, phó tổng, có nơi đặt thêm
chức tuần tổng hay chánh, phó tổng đoàn. Chức chánh, phó tổng do các
chánh, phó hương chủ ở các xã hoặc Hội đồng kỳ mục cử ra. Cũng có
nơi do Pháp chỉ định, hoặc quận trưởng đặc cách cử ra. Tỉnh trưởng ra
quyết định bổ nhiệm chánh, phó tổng. Đối với các xã, họ thành lập các
Hội tề. Hội tề là một tổ chức chính quyền cấp xã do Pháp đặt ra và áp
192 VÙNG ĐẤT NAM BỘ VIII THIẾT CHẾ QUẢN LÝ XÃ HỘI

dụng đầu tiên ở Nam Bộ. Thành phần Hội tề, còn gọi là Hội đồng hương
chính, từ năm 1948 vẫn gồm có: tiên chỉ, thứ chỉ, lý trưởng (có nơi gọi
là xã trưởng hay chánh kỳ hào), phó lý, thư ký, thủ quỹ, trương tuần.
Bên cạnh đó có nơi còn cử ra một Hội đồng kỳ mục. Hội đồng này khác
trước ở chỗ không phải do dân bầu lên, mà những ai có đủ điều kiện thì
gia nhập Hội đồng. Thành phần Hội đồng gồm 2/3 nhân viên là hương
biểu (là những đại biểu do giáp, thôn cử ra), còn 1/3 nhân viên là thân
hào, kỳ hào do quận trưởng đặc cách cử ra1.
Bước sang năm 1950, theo lệnh của Pháp, chính phủ bù nhìn đã
tiến hành cải tổ hành chính từ cấp xã lên cấp quận2. Tổ chức hành
chính trong xã theo thể thức như sau: mỗi xã gồm một xã ủy, một phó
xã ủy đảm nhiệm công việc hành chính trong xã, quan hệ trực tiếp
với các cấp tổng, bang, quận tùy theo trường hợp công việc. Đối với
những xã có nhiều thôn hay nhiều xóm hợp lại thì bầu thêm trưởng
thôn và trưởng xóm. Ngoài ra còn có thư ký giúp việc văn phòng cho
xã ủy, hộ lại giữ việc hộ tịch, Chưởng bạ giữ việc điền thổ kiến diện.
Mỗi xã còn lập một Hội đồng quản trị hành chính và Ban tư vấn xã
với số nhân viên không quá 10 người3.
Song song với việc cải tổ hành chính ở cấp xã, chính quyền bù
nhìn cũng tiến hành cải tổ hành chính cấp tổng. Mỗi tổng gồm có
tổng ủy, tổng tuần do các xã bầu lên. Giúp việc có một thư ký văn
phòng và một thư ký kế toán lo việc sổ sách thu chi và phụ cấp hằng
tháng; một trưởng ban bình dân giáo dục, một phó trưởng ban và bốn
kiểm soát viên bình dân giáo dục. Bên cạnh tổng ủy có một Hội đồng
tư vấn để giải quyết mọi việc trong tổng4.

1. Xem Tập tài liệu về tình hình tổ chức bộ máy và hoạt động của chính phủ
bù nhìn trong các năm 1948-1950, Trung tâm Lưu trữ Quốc gia III, phông Thủ
tướng, hồ sơ số 960.
2. Theo Chương trình cải tổ hành chính và cai trị trong dân, Trung tâm Lưu
trữ Quốc gia III, phông Thủ tướng, Hồ sơ số 9.
3. Xem Viện Sử học: Lịch sử Việt Nam, tập X, 1945-1950, Sđd, tr.375-376,
378-379.
CHƯƠNG III: HỆ THỐNG QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH... 193

Đối với thành phố Sài Gòn - Chợ Lớn1,,từ tháng 9-1945 đến
tháng 5-1949, vì những điều kiện bất khả kháng như tình hình thiếu
an ninh, sự vắng mặt của đa số nhân viên đã tản cư khỏi thành phố,
nên việc quản trị địa phương này vẫn do người Pháp tiếp tục điều
hành. Ngày 26-9-1947, Chính phủ lâm thời Nam Kỳ đổi từ quận
trưởng địa phương Sài Gòn - Chợ Lớn thành đô trưởng, chỉ huy Sở
Hành chánh gọi là Tổng Thư ký, và hai vị đại diện ở Sài Gòn và Chợ
Lớn được gọi là Phó Đô trưởng Sài Gòn, Phó Đô trưởng Chợ Lớn.
Tháng 12-1952, đô thành Sài Gòn - Chợ Lớn được chia làm bảy quận
đặt dưới quyền đô trưởng. Mỗi quận có Hội đồng quận gồm năm hội
viên bầu theo lối phổ thông đầu phiếu và trực tiếp với nhiệm kỳ ba
năm. Hội đồng quận bầu ra trong số các hội viên: một Chủ tịch và
một phó chủ tịch. Hội đồng có thể bị giải tán bởi nghị định của Bộ
Nội vụ theo đề nghị có lý do của Thủ hiến Nam Việt. Đối với cơ quan
hành chánh đô thành, các hội viên hội đồng cấp quận là đại diện cho
dân phố. Ngược lại, đối với dân trong quận, các hội viên là đại diện
cho chính quyền đô thành. Hội viên hội đồng quận thi hành nhiệm
vụ của mình đối với toàn thể cư dân trong quận, người Việt Nam hay
người ngoại kiều.
Cuộc bầu cử đầu tiên theo thể thức trực tiếp và phổ thông đã được
tiến hành ngày 25-1-1953. Ở Sài Gòn - Chợ Lớn, 35 hội viên đã được
bầu ra, họp thành Hội đồng quản trị cùng với bảy hội viên người Pháp
do Bộ Nội vụ chỉ định và một đại diện các nhóm người Hoa2.

1. Năm 1931, bằng Sắc lệnh ngày 27-4-1931, Sài Gòn và Chợ Lớn và vùng
ngoại ô được sáp nhập thành một đơn vị hành chính tự trị, lấy tên chung là thành
phố Sài Gòn - Chợ Lớn (Xem Sài Gòn - Thành phố Hồ Chí Minh 60 năm tiếp bước
con đường Cách mạng Tháng Tám (1945-2005), Nxb. Tổng hợp Thành phố Hồ Chí
Minh, 2005, tr.108).
2. Xem Sài Gòn - Thành phố Hồ Chí Minh 60 năm tiếp bước con đường Cách
mạng Tháng Tám (1945-2005), Sđd, tr.108-109.
194 VÙNG ĐẤT NAM BỘ VIII THIẾT CHẾ QUẢN LÝ XÃ HỘI

Theo Dụ số 11 ngày 30-05-1954, đô thành Sài Gòn - Chợ Lớn


đặt dưới quyền quản trị của một đô trưởng, một Hội đồng đô thành
và những quận trưởng đô thành. Đô trưởng do sắc lệnh của Quốc
trưởng bổ nhiệm. Đô trưởng trực thuộc Thủ hiến Nam Việt. Đô
trưởng điều hành tất cả các công sở của đô thành. Các phụ tá của đô
trưởng gồm có: giám đốc cảnh sát; tổng thư ký1; các phó đô trưởng2;
Hội đồng đô thành3; các quận và quận trưởng4 (xem Sơ đồ 4).

1. Do nghị định của thủ hiến bổ nhiệm, theo đề nghị của đô trưởng. Tổng thư ký
thi hành theo chỉ thị của đô trưởng về vấn đề tài chính và hành chính. Tổng thư ký có
thể được ủy nhiệm đặc biệt của đô trưởng.
2. Do nghị định của thủ hiến bổ nhiệm, theo đề nghị của đô trưởng. Một phó đô
trưởng cho Sài Gòn và một cho Chợ Lớn. Các phó đô trưởng trong địa hạt của mình
là đại diện của đô trưởng; có thể được uỷ quyền thường trực của đô trưởng trong một
số lĩnh vực.
3. Hội đồng đô thành lúc này gồm 35 nghị viên được bầu cử theo lối phổ thông
đầu phiếu trực tiếp, nhiệm kỳ ba năm. Sự bầu cử được tổ chức tại mỗi quận đô thành
và phân phối các nghị viên cho từng quận. Nghị viên Hội đồng đô thành không thể
kiêm nhiệm. Người công chức đắc cử phải chọn lấy công vụ hoặc ủy nhiệm nghị
viên trong thời hạn 10 ngày sau khi sự uỷ nhiệm được chuẩn nhận. Quá thời hạn
trên, đương sự được coi như là đã chọn lấy công vụ và kể như đã đương nhiệm từ
chức nghị viên. Nếu đương sự chọn chức nghị viên thì được cho nghỉ việc không
lương trong nhiệm kỳ của họ (nghỉ giả hạn không lương). Đô trưởng có thể chống
lại nếu bàn cãi một vấn đề nào không được ghi vào chương trình nghị sự, trong
những vấn đề mà Hội đồng có quyền biểu quyết, đô trưởng có quyền yêu cầu xét
lại một lần thứ hai trước khi đem ra thi hành. Đô trưởng hoặc đại diện giữ chức uỷ
viên của Chính phủ bên cạnh Hội đồng đô thành. (Xem Võ Thị Vị: “Mô hình và cơ
chế vận hành của hệ thống chính quyền ở Sài Gòn từ năm 1955 đến nay ; trong Phan
Xuân Biên (Chủ biên) : “Một số vấn đề về xây dựng chính quyền đô thị từ thực tiễn
Thành phố Hồ Chí Minh, Nxb. Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh, tr.425).
4. Địa phận đô thành Sài Gòn - Chợ Lớn trong thời điểm này chia ra bảy quận.
Các quận đô thành không được quyền tự trị về hành chính và tài chính. Dưới sự kiểm
sát của đô trưởng, mỗi quận đô thành có một quận trưởng quản trị theo lối đầu phiếu
kín với đa số tuyệt đối trong số nghị viên đô thành tại quận. Trong trường hợp không
thể bầu cử theo quy định hoặc không có ứng cử viên, hoặc vì lý do nào khác, thì quận
trưởng được chỉ định theo nghị định của đô trưởng.
CHƯƠNG III: HỆ THỐNG QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH... 195

Trong lúc ấy, sau khi thất thủ ở Điện Biên Phủ, tình thế của Pháp

ở Đông Dương đã vào hồi bi đát, người Mỹ bắt đầu nhảy vào cuộc can

thiệp Việt Nam. Trước hết, người Mỹ đưa con bài đã được đào tạo kỹ

là Ngô Đình Diệm sang Pháp gặp Bảo Đại tại Paris để thảo luận việc

Ngô Đình Diệm về nước lập Nội các Chính phủ thay thế Chính phủ

của Bửu Lộc. Ngày 6-7-1954, với sự đỡ đầu của quan thầy Mỹ, Ngô Đình

Diệm đã lập chính phủ tại Sài Gòn.

Ngày 21-7-1954, Hiệp định Giơnevơ về Đông Dương được ký

kết, miền Nam tạm thời giao cho Bảo Đại làm Quốc trưởng, Ngô

Đình Diệm là Thủ tướng để chờ tổng tuyển cử hiệp thương cả nước.

Năm 1955, Ngô Đình Diệm dựa vào hậu thuẫn của Mỹ đã bày ra

cái gọi là “trưng cầu dân ý” để phế truất Quốc trưởng Bảo Đại. Với

5.721.735 phiếu trưng cầu dân ý, Bảo Đại bị phế truất và Ngô Đình

Diệm được “công nhận” làm Quốc trưởng1. Nền hành chính của

thực dân Pháp ở Nam Bộ nói riêng và cả nước nói chung chính thức

sụp đổ.

* *

Tóm lại, cuộc chiến đấu của quân và dân các tỉnh Nam Bộ đã

đưa vùng đất này trở thành một vùng lãnh thổ đầu tiên của cả nước

có sự tương tác quyền lực chính trị - hành chính của hai bên tham

1. Xem Học viện Hành chính quốc gia: Giáo trình lịch sử hành chính Nhà
nước Việt Nam, Sđd, tr. 411.
196 VÙNG ĐẤT NAM BỘ VIII THIẾT CHẾ QUẢN LÝ XÃ HỘI

chiến, mà hình thái biểu hiện về phía lực lượng kháng chiến là tổ

chức và hoạt động bí mật, còn phía Pháp là công khai. Thể chế, cơ

cấu, phạm vi của quyền lực chính trị - hành chính mà mỗi bên tác

động lên Nam Bộ rất phức tạp, có sự đan cài, chồng lấn, tùy theo

tương quan so sánh lực lượng mỗi bên trong tiến trình chiến tranh

và cục diện chiến trường Đông Dương nói chung, và trên chiến

trường Nam Bộ nói riêng. Điều này tạo nên những nét đặc trưng

riêng có trong tổ chức hành chính ở Nam Bộ thời kỳ chiến tranh

Pháp - Việt (1946 -1954). Về phía chính quyền cách mạng, có thể

thấy trong suốt những năm kháng chiến chống thực dân Pháp, các

cơ quan hành chính - kháng chiến cũng như công tác tổ chức và cán

bộ ở Nam Bộ thay đổi thường xuyên do tác động của cuộc chiến và

do đặc điểm chính trị - xã hội ở chiến trường này. Tuy nhiên, với

sự chỉ đạo kịp thời của Chính phủ và Trung ương, hệ thống chính

quyền Nam Bộ đã được củng cố, tăng cường sức chiến đấu, khả

năng tập hợp quần chúng, điều hành tương đối hiệu quả các hoạt

động hành chính dân sự cũng như các hoạt động quân sự. Về phía

chính quyền thực dân, sự bất ổn và sụp đổ của chính quyền này bắt

nguồn từ chính những thất bại liên tiếp trên chiến trường của thực

dân Pháp, đặc biệt là sau khi thất thủ ở Điện Biên Phủ. Với việc Ngô

Đình Diệm lên nắm chính quyền dưới sự hậu thuẫn của Mỹ, cục

diện chiến trường và bộ máy quản lý hành chính ở Nam Bộ trở nên

lâm vào tình thế vô cùng khó khăn và phức tạp.


CHƯƠNG III: HỆ THỐNG QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH... 197

Sơ đồ 4: Tổ chức đô thành Sài Gòn năm 19541

Đ Ở TỔNG
THƯ KÝ

Văn phòng QUẬN QUẬN QUẬN QUẬN Văn phòng QUẬN QUẬN QUẬN
Phó đô 1 2 3 6 Phó đô 4 5 7
trưởng trưởng

Thanh tra THÚ Y CỨU HỎA CÔNG TRỒNG GIA CƯ KHO


TIỂU HỌC XƯỞNG TỈA LIÊM - GIA - CUỘC TIẾT KIỆM

TY TY TY TY CẢNH
VỆ SINH TÀI CHÍNH HÀNH CHÁNH KỸ THUẬT SÁT
NHÂN VIÊN

P.VỆ SINH Y - VIỆN PHÒNG PHÒNG PHÒNG


TRUNG TÂN ĐỊNH SỰ VỤ HÀNH KIỂU LỘ C.S CUỘC VĂN PHÒNG
ƯƠNG CHÍNH TRUNG NHÂN VIÊN
ƯƠNG
P.KHÁM PHÒNG PHÒNG PHÒNG
BỆNH Y - VIỆN NHẬP THÂU NHÂN VIÊN THUỶ ĐIỆN CẢNH SÁT C.S CUỘC
CÔNGCHỨC KHÁNH HỘI CÔNG LỘ QUẬN 1

P.KHÁM P.NHẬP P.KINH TẾ PHÒNG


BỆNH CS VÀ THÂU VÀ XÃ HỘI CÔNG XÃ C.S CUỘC C.S CUỘC
Y - VIỆN
HS CHỢ LỚN QUẬN 2 QUẬN 3
CHỢ LỚN
P.NGÂN PHÒNG
P.THANH P.HỘ TỊCH C.S CUỘC C.S CUỘC
SÁCH VÀ TÔ HỌA ĐỒ
TRA VÀ QUÂN VỤ QUẬN 4 QUẬN 5
THUẾ
VỆ SINH
PHÒNG P.ĐẠI DIỆN
ĐẠI DIỆN LƯƠNG C.S CUỘC C.S CUỘC
CHỢ LỚN
Y TẾ QUẬN 6 QUẬN 7
BỔNG
CHỢ LỚN
PHÒNG PHÒNG
VẬT LIỆU CÔNG VĂN

1. Xem Võ Thành Vị: “Mô hình và cơ chế vận hành của hệ thống chính quyền
Sài Gòn từ 1995 đến nay”, trong Phan Xuân Biên (Chủ biên) : Một số vấn đề về
xây dựng chính quyền đô thị từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh, Nxb. Tổng hợp
Thành phố Hồ Chí Minh, 2007, tr. 426.
198 VÙNG ĐẤT NAM BỘ VIII THIẾT CHẾ QUẢN LÝ XÃ HỘI

III- HỆ THỐNG QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH Ở NAM BỘ THỜI KỲ KHÁNG


CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC (1954-1975)

1. Bối cảnh lịch sử


Từ tháng 7-1954, lịch sử miền Nam bước vào thời kỳ mới. Tuân thủ
đúng Hiệp định Genève, trong 300 ngày chuyển quân tập kết, phần lớn
lực lượng vũ trang cách mạng và cán bộ miền Nam tập kết ra miền Bắc
và đã bàn giao miền Nam cho đối phương kiểm soát.
Nhưng Hoa Kỳ đã tính toán và thực hiện mưu đồ mới của mình. Vốn
từng muốn thay chân Pháp từ trước, nên sau Hiệp định Genève, Hoa Kỳ
đã tìm mọi cách gạt Pháp ra khỏi miền Nam, biến miền Nam thành thuộc
địa kiểu mới. Bước khởi đầu đó bắt đầu từ việc xây dựng một hệ thống
chính trị mới tại miền Nam.
Đầu tháng 7-1954, Hoa Kỳ đưa Ngô Đình Diệm về miền Nam và
ép Pháp để Ngô Đình Diệm chấp chính. Ngày 23-10-1955, Ngô Đình
Diệm tổ chức “trưng cầu dân ý” để phế truất Bảo Đại. Giữa năm 1956,
Ngô Đình Diệm sau khi tổ chức bầu cử gian lận ở miền Nam, đã lập
nước “Việt Nam Cộng hoà” do Ngô Đình Diệm làm Tổng thống và
thẳng thừng từ chối hiệp thương tổng tuyển cử thống nhất nước nhà
như Hiệp định Genève đã quy định. Sự kiện Hoa Kỳ tiếp tay để Ngô
Đình Diệm lập “quốc gia riêng” đánh dấu Hoa Kỳ đã xác lập xong chủ
nghĩa thực dân kiểu mới ở miền Nam. Ngày 19-12-1954, Pháp buộc
phải ký hiệp định trao quyền hành chính, chính trị ở miền Nam cho
Ngô Đình Diệm.
Trong những năm cầm quyền, chính quyền Ngô Đình Diệm thẳng
tay thực hiện đàn áp lực lượng yêu nước từ miền Trung vào Nam Bộ
theo kiểu “cuốn chiếu” để dồn cách mạng vào thế khó khăn.
Tháng 1-1959, Hội nghị lần thứ 15 của Ban Chấp hành Trung ương
Đảng Lao động Việt Nam họp bàn về công cuộc cách mạng miền Nam.
Nghị quyết Hội nghị Trung ương 15 đến với cách mạng miền Nam đã
thổi bùng ngọn lửa đồng khởi trên nhiều vùng rộng lớn ở miền Nam.
CHƯƠNG III: HỆ THỐNG QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH... 199

Sang năm 1960, cao trào cách mạng bùng lên bắt đầu từ Bến Tre,
mở đầu ở ba xã Định Thuỷ, Bình Khánh và Phước Hiệp vào ngày 17-1-
1960. Sau đó, đồng khởi nhanh chóng lan ra toàn huyện Mỏ Cày, Giồng
Trôm, Thạnh Phú, Ba Tri, Châu Thành, Bình Đại,... Đồng khởi đã lan
rộng ra khắp một vùng rộng lớn ở Nam Bộ. Trong các tỉnh Bến Tre, Tây
Ninh, Mỹ Tho, Tân An, Trà Vinh, Bạc Liêu, Rạch Giá, Cà Mau, Châu
Đốc, Long Xuyên, Sóc Trăng, Cần Thơ, Kiến Phong, Kiến Tường và
vùng rừng núi miền Trung Trung Bộ. Khoảng 2/3 số thôn xóm ở đây
đã giành được quyền làm chủ. Đồng khởi đợt 2 (từ tháng 4) cũng bắt
đầu từ Bến Tre. Sau Bến Tre, miền Tây Nam Bộ bước vào cao trào đồng
khởi. Cao trào đồng khởi ở miền Tây Nam Bộ đã làm tan rã phần lớn bộ
máy kìm kẹp của địch, mở ra nhiều vùng giải phóng rộng lớn1. Sau đồng
khởi, cách mạng miền Nam chuyển lên thành chiến tranh cách mạng.
Thất bại trên chiến trường, cùng với khủng hoảng chính trị ở vùng
đô thị làm thể chế Sài Gòn lung lay tận gốc. Sau một thời gian chuẩn bị,
ngày 1-11-1963, lực lượng đảo chính nổ súng tiến công Dinh Gia Long,
lật đổ chế độ Diệm - Nhu. Cuộc đảo chính tháng 11-1963, đã mở màn
cho thời kỳ khủng hoảng triền miên của thể chế Sài Gòn. Chỉ trong
vòng hai năm sau đó, liên tục diễn ra mười cuộc đảo chính. Sự lục đục
trong nội bộ kẻ thù đã tạo điều kiện khách quan cho lực lượng cách
mạng miền Nam vươn lên.
Đầu năm 1965, cách mạng miền Nam đã phát triển vượt bậc về
mọi mặt và chính quyền Sài Gòn đang đứng trước nguy cơ sụp đổ
hoàn toàn. Trước tình thế đó, Chính phủ Hoa Kỳ mở bước phiêu lưu
quân sự mới, chuẩn bị đưa lực lượng quân viễn chinh vào chiến trường
miền Nam, đồng thời leo thang đánh phá miền Bắc.

1. Xem Bộ Tư lệnh Quân khu 9: Quân khu 9 - 30 năm kháng chiến (1945-
1975), Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1996, tr. 290.
200 VÙNG ĐẤT NAM BỘ VIII THIẾT CHẾ QUẢN LÝ XÃ HỘI

Trong những năm 1965-1968, quân và dân miền Nam đã kiên


cường bẻ gãy liên tiếp các cuộc hành quân “tìm diệt” và “bình định” của
Hoa Kỳ. Tết Mậu Thân năm 1968, các lực lượng vũ trang và nhân dân
miền Nam cùng một lúc đã tiến công và nổi dậy ở khắp các thành phố,
thị xã... Cuộc tổng tiến công và nổi dậy trong năm 1968 của quân và dân
ta đã đánh bại chiến lược “Chiến tranh cục bộ”, buộc Hoa Kỳ phải ngồi
đàm phán với ta ở bàn hội nghị, tạo ra cục diện mới trên chiến trường
miền Nam, đưa cuộc kháng chiến cứu nước của nhân dân ta sang thời
kỳ lịch sử mới.
Tháng 6-1969, Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền
Nam Việt Nam ra đời, thay thế chức năng nhà nước cho Mặt trận Dân
tộc giải phóng miền Nam Việt Nam.
Hiểu rõ âm mưu của địch, kiên quyết giữ vững đường lối độc lập, tự
chủ, xuân hè năm 1972, ta chủ trương chủ động mở đợt tấn công chiến
lược vào thời điểm thích hợp trên chiến trường miền Nam. Những
thắng lợi trên chiến trường miền Nam, cùng với chiến thắng cuộc chiến
tranh phá hoại lần thứ hai của địch đã buộc Hoa Kỳ phải ký Hiệp định
Paris, lập lại hòa bình ở Việt Nam và Đông Dương.
Sau Hiệp định Paris, ngày 29-1-1973, Hoa Kỳ rút quân khỏi miền
Nam. Ngày 29-3-1973, Bộ chỉ huy quân sự Hoa Kỳ ở Sài Gòn làm lễ
cuốn cờ về nước. Dù đã ký hiệp định nhưng Hoa Kỳ và Chính phủ Sài
Gòn vẫn ngoan cố không chịu thực hiện đầy đủ các điều khoản hiệp
định đã quy định.
Từ giữa năm 1973 đến cuối năm 1974, đầu năm 1975, thế và lực
của cách mạng miền Nam lớn mạnh chưa từng có. Hội nghị Bộ Chính
trị tháng 1-1975 đã kiểm điểm tình hình chung của cách mạng miền
Nam và hạ quyết tâm giải phóng miền Nam trong năm 1975-1976
đồng thời chỉ ra rằng nếu điều kiện thuận lợi thì cố gắng giải phóng
miền Nam trong năm 1975.
CHƯƠNG III: HỆ THỐNG QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH... 201

Sau một thời gian chuẩn bị, ngày 10-3-1975, quân ta tiến công
địch ở Buôn Ma Thuột mở đầu cho đại thắng mùa xuân năm 1975.
Ngày 26-4, trận đánh lịch sử mang tên Chiến dịch Hồ Chí Minh
mở màn. 10 giờ 45 phút ngày 30-4-1975, quân ta tiến vào Dinh Độc
Lập bắt sống toàn bộ chính quyền trung ương Sài Gòn, Tổng thống
Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng không điều kiện. Từ ngày 1
đến ngày 2-5-1975, toàn bộ các tỉnh còn lại cùng các đảo Côn Sơn,
Phú Quốc được giải phóng. Chiến dịch Hồ Chí Minh toàn thắng là
kết quả và đỉnh cao của 21 năm chống Mỹ, cứu nước. Thắng lợi của
cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975 đã kết thúc vẻ vang
30 năm đấu tranh kiên cường chống chủ nghĩa thực dân cũ và mới,
kết thúc hơn 100 năm đô hộ của đế quốc thực dân. Thắng lợi đó mở
ra thời kỳ mới cho lịch sử Việt Nam: cả nước thống nhất đi lên chủ
nghĩa xã hội.

2. Quy hoạch hành chính và tổ chức bộ máy cai trị của chính quyền
Việt Nam Cộng hòa

a) Quy hoạch hành chính

Thời kỳ Đệ nhất Cộng hòa, chính quyền Việt Nam Cộng hòa gọi
vùng đất Nam Bộ là Nam phần. Nam phần được chia ra thành Đông
Nam phần và Tây Nam phần.
Đối với các đơn vị hành chính cấp tỉnh, trong thời gian này, chính
quyền Sài Gòn đã tích cực chia lại địa giới hành chính ở một số
địa phương, theo nguyên tắc là chia nhỏ lãnh thổ thành nhiều tỉnh.
Một trong những lý do Sài Gòn chia lại địa giới hành chính là nhằm
khống chế các địa phương, các chiến khu, căn cứ địa, nơi từng có
phong trào kháng chiến rất cao trong thời kỳ kháng chiến chống
thực dân Pháp, nhằm xóa bỏ hết khu vực hành chính có ảnh hưởng
to lớn của cách mạng.
202 VÙNG ĐẤT NAM BỘ VIII THIẾT CHẾ QUẢN LÝ XÃ HỘI

Ngày 22-10-19561, Tổng thống Việt Nam Cộng hòa ra Sắc lệnh số
143-NV tiến hành chia lại địa phận Nam phần gồm thêm một phần tỉnh
Bình Thuận, chia ra như sau: Thủ đô Sài Gòn, tên cũ là Sài Gòn - Chợ
Lớn và 22 tỉnh2 là:
1. Phước Tuy (tỉnh lỵ Phước Lễ). Tên cũ: Bà Rịa, Vũng Tàu, Trường
Sa (Spratley).

1. Trước đó, tại Nam phần đã thành lập các tỉnh:


- Ngày 17-2-1956, thành lập tỉnh Mộc Hóa, gồm: quận Mộc Hóa (thuộc tỉnh
Tân An); phần đất quận Phủ Thừa (thuộc tỉnh Tân An); phần đất tỉnh Sa Đéc ở
phía đông bắc kinh Vĩnh Hạ, Mỹ Tho và kinh số 4 nối dài; phần đất tỉnh Mỹ Tho ở
phía bắc một ranh giới ấn định như sau: kinh số 4 nối dài, kinh số 4 tới vàm kinh
Tổng Đốc Lộc - kinh Tổng Đốc Lộc tới vàm kinh thương mãi - kinh thương mãi.
Trụ sở tỉnh Mộc Hóa đặt tại tỉnh Mộc Hóa. (Sắc lệnh số 21-NV của Tổng thống
Việt Nam Cộng hòa).
- Ngày 17-2-1956, thành lập tỉnh Phong Thạnh, gồm: địa phận quận Hồng
Ngự, cù lao Long Khánh, cù lao Cai Vung và cù lao Tây (thuộc tỉnh Châu Đốc);
địa phận quận Long Thạnh Thượng và tổng An Bình (thuộc tỉnh Long Xuyên); địa
phận Cao Lãnh (thuộc tỉnh Sa Đéc) trừ phần đất ở phía đông bắc kinh Vĩnh Hạ -
Mỹ Tho và kinh số 4 nối dài (sáp nhập vào tỉnh Mộc Hóa); phần đất tỉnh Mỹ Tho
ở phía tây một đường ranh giới định như sau: kinh số 4 tới vàm kinh Tổng Đốc
Lộc và kinh Tổng Đốc Lộc tới Mỹ Hiệp. Trụ sở tỉnh Long Thạnh đặt tại Cao Lãnh.
(Sắc lệnh số 22-NV của Tổng thống Việt Nam Cộng hòa).
- Ngày 9-3-1956, thành lập tỉnh Cà Mau, gồm địa phận Cà Mau nam; phía tây bắc
giáp quận An Phước tỉnh Rạch Giá, đường ranh giới là sông Ông Đốc, kinh Thị Phụng;
phía đông bắc giáp tỉnh Bạc Liêu, đường ranh giới là rạch Dương Cay, sông Gành Hào;
phía đông, tây, nam giáp biển. Tỉnh lỵ đặt tại Cà Mau. Về phương diện quân sự, tỉnh Cà
Mau là một tiểu khu trực thuộc Phân khu Nam. (Sắc lệnh số 32-NV của Tổng thống Việt
Nam Cộng hòa).
(Xem Nguyễn Quang Ân: Việt Nam những thay đổi địa danh, địa giới hành
chính (1945-2002), Sđd, tr. 257-258).
2. Xem Nguyễn Quang Ân: Việt Nam những thay đổi địa danh, địa giới hành chính
(1945-2002), Sđd, tr. 259-260.
CHƯƠNG III: HỆ THỐNG QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH... 203

2. Biên Hòa (tỉnh lỵ Biên Hòa). Tên cũ: Biên Hòa (Biên Hòa chia
làm 4: Biên Hòa, Long Khánh, Phước Long, Bình Long).
3. Long Khánh (tỉnh lỵ Xuân Lộc). Tên cũ: Biên Hòa (Xuân Lộc).
4. Phước Long (tỉnh lỵ Phước Bình). Tên cũ: Biên Hòa (Bà Rá).
5. Bình Long (tỉnh lỵ An Lộc). Tên cũ: Biên Hòa (Hới Quản).
6. Tây Ninh (tỉnh lỵ Tây Ninh). Tên cũ: Tây Ninh.
7. Long An (tỉnh lỵ Tân An). Tên cũ: Chợ Lớn - Tân An.
8. Kiến Tường (tỉnh lỵ Mộc Hóa). Tên cũ: Mộc Hóa.
9. Kiến Phong (tỉnh lỵ Cao Lãnh). Tên cũ: Phong Thạnh.
10. Định Tường (tỉnh lỵ Mỹ Tho). Tên cũ: Mỹ Tho - Gò Công.
11. Kiến Hòa (tỉnh lỵ Trúc Giang). Tên cũ: Bến Tre.
12. Vĩnh Long (tỉnh lỵ Vĩnh Long). Tên cũ: Vĩnh Long - Sa Đéc.
13. Vĩnh Bình (tỉnh lỵ Phú Vinh). Tên cũ: Trà Vinh.
14. An Giang (tỉnh lỵ Long Xuyên). Tên cũ: Long Xuyên - Châu
Đốc).
15. Phong Dinh (tỉnh lỵ Cần Thơ). Tên cũ: Cần Thơ.
16. Ba Xuyên (tỉnh lỵ Ba Xuyên). Tên cũ: Bạc Liêu - Sóc Trăng.
17. Kiến Giang (tỉnh lỵ Rạch Giá). Tên cũ: Rạch Giá - Hà Tiên.
18. Gia Định (tỉnh lỵ Gia Định). Tên cũ: Gia Định.
19. An Xuyên (tỉnh lỵ Quản Long). Tên cũ: Cà Mau.
20. Bình Dương (tỉnh lỵ Phú Cường). Tên cũ: Thủ Dầu Một.
21. Bình Tuy (tỉnh lỵ Hàm Tân). Tên cũ: gồm một phần tỉnh Đồng
Nai Thượng, một phần Bình Thuận (Hàm Tân - Tánh Linh).
22. Côn Sơn (tỉnh lỵ Côn Sơn). Tên cũ: Côn Đảo1.

1. Tỉnh này bị bãi bỏ từ ngày 21-4-1965. (Xem Nguyễn Quang Ân: Việt Nam
những thay đổi địa danh, địa giới hành chính (1945-2002), Sđd, tr. 386).
204 VÙNG ĐẤT NAM BỘ VIII THIẾT CHẾ QUẢN LÝ XÃ HỘI

Sau đó tại Nam Phần tiếp tục lập thêm các tỉnh mới như:
Phước Thành (ngày 23-1-1959) 1; Chương Thiện (ngày 24-12-
1961) 2, gồm phần đất các tỉnh Ba Xuyên, Phong Dinh, Kiên Giang
cũ; Hậu Nghĩa (ngày 15-10-1963) 3, bao gồm phần đất của Bình
Dương, Long An, Tây Ninh; tái lập tỉnh Gò Công (ngày 20-12-
1963) 4 thay tên tỉnh Định Tường; tái lập tỉnh Bạc Liêu (ngày 8-9-
1964) 5, bao gồm phần đất Ba Xuyên, Chương Thiện; tái lập tỉnh

1. Ngày 23-1-1959, thành lập một tỉnh mới, đặt tên là tỉnh Phước Thành, trụ sở
đặt tại Phước Vĩnh (thuộc quận Tân Yên, tỉnh Biên Hòa). Tỉnh Phước Thành gồm
có: địa phận quận Tân Uyên, trừ khu Cây Gáo về phía đông nam và một phần đất về
phía tây bắc; một phần đất thuộc tỉnh Bình Dương về phía tây; một phần đất thuộc
tỉnh Phước Long về phía bắc; một phần đất thuộc tỉnh Long Khánh về phía đông.
Tỉnh Phước Thành được chia làm ba quận Phu Giáo, Tân Uyên và Hiếu Liêm (Sắc
lệnh số 25-NV của Tổng thống Việt Nam Cộng hòa). Tuy nhiên sau đó tỉnh này bị bãi
bỏ từ ngày 8-7-1965 (Xem Nguyễn Quang Ân: Việt Nam những thay đổi địa danh, địa
giới hành chính (1945-2002), Sđd, tr. 315, 386).
2. Ngày 24-12-1961, thành lập tại Nam phần một tỉnh mới, lấy tên là tỉnh Chương
Thiện, tỉnh lỵ đặt tại Vị Thanh, gồm các: quận Đức Long, Long Mỹ, Kiên Hưng, Kiên
Long, Phước Long, (Sắc lệnh số 244-NV của Tổng thống Việt Nam Cộng hòa). (Xem
Nguyễn Quang Ân: Việt Nam những thay đổi địa danh, địa giới hành chính (1945-
2002), Sđd, tr. 343).
3. Ngày 15-10-1963, thành lập tại miền Đông Nam phần một tỉnh mới, đặt tên
là tỉnh Hậu Nghĩa. Tỉnh lỵ đặt tại Bàu Trai (nay gọi là Khiêm Cương), gồm các quận:
Phú Đức, Củ Chi, Đức Huệ, Đức Hòa (Sắc lệnh số 124-NV của Tổng thống Việt Nam
Cộng hòa). (Xem Nguyễn Quang Ân: Việt Nam những thay đổi địa danh, địa giới hành
chính (1945-2002), Sđd, tr.362).
4. Ngày 20-12-1963, tái lập tỉnh Gò Công. Tỉnh lỵ đặt tại Gò Công. Tỉnh Gò Công
gồm 2 quận (Châu Thành và Hòa Đồng), 4 tổng, 31 xã (Sắc lệnh số 36-TTP của Thủ tướng
Chính phủ lâm thời Việt Nam Cộng hòa) (Xem Nguyễn Quang Ân: Việt Nam những thay
đổi địa danh, địa giới hành chính (1945-2002), Sđd, tr. 362).
5. Ngày 8-9-1964, tái lập tỉnh Bạc Liêu từ ngày 1-10-1964. Tỉnh lỵ Bạc Liêu, gồm
các: quận Vĩnh Lợi, Giá Rai, Vĩnh Châu, Phước Long (Sắc lệnh số 245-NV của Thủ
tướng Việt Nam Cộng hòa) (Xem Nguyễn Quang Ân: Việt Nam những thay đổi địa
danh, địa giới hành chính (1945-2002), Sđd, tr. 374).
CHƯƠNG III: HỆ THỐNG QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH... 205

Châu Đốc (ngày 8-9-1964)1, bao gồm An Giang và Kiên Giang; tái
lập tỉnh Sa Đéc (ngày 24-9-1966)2... Hai đô thị mới được lập là Vũng
Tàu (tháng 10-1965) gồm phần đất Phước Tuy cũ và Cam Ranh
(tháng 10-1965), bao gồm phần đất Khánh Hòa và Ninh Thuận3.
Đối với các cấp hành chính quận, tổng, xã (phường), theo như quy
định của chính quyền Việt Nam Cộng hòa, các đơn vị hành chính
cấp tỉnh được chia ra thành quận, quận chia ra tổng, tổng chia ra xã
(phường). Suốt trong những năm nắm quyền, chính quyền Sài Gòn cố
gắng tìm mọi cách với tay xuống các đơn vị hành chính cơ sở, nhằm mục
đích quản lý dân cư, tạo rào cản ngăn cách quần chúng với lực lượng
cách mạng. Để thực hiện mục đích này, đến trước năm 1960, chính
quyền Sài Gòn nhiều lần ra các nghị định quy định lại các đơn vị hành
chính của các tỉnh như: Tây Ninh (ngày 3-1-1957)4, Vĩnh Bình (ngày
3-1-1957), Long Khánh (ngày 24-4-1957)5, Long An (ngày 24-4-1957), An
Giang (ngày 24-4-1957), Định Tường (ngày 24-4-1957), Kiến Tường
(ngày 24-4-1957)6, Gia Định (ngày 29-4-1957), Biên Hòa (ngày 2-5-1957),

1. Ngày 8-9-1964, tái lập tỉnh Châu Đốc, kể từ ngày 1-10-1964, tỉnh lỵ ở Châu
Đốc, gồm các: quận Châu Phú, An Phú, Tịnh Biên, Tri Tôn, Tân Châu (Sắc lệnh số
246-NV của Thủ tướng Việt Nam Cộng hòa) (Xem Nguyễn Quang Ân: Việt Nam
những thay đổi địa danh, địa giới hành chính (1945-2002), Sđd, tr. 374).
2. Ngày 24-9-1966, tái lập tỉnh Sa Đéc, tỉnh lỵ đặt tại Sa Đéc. Tỉnh Sa Đéc có 4
quận, đều thuộc tỉnh Vĩnh Long cũ: quận Sa Đéc với 3 tổng, 13 xã; quận Lấp Vò với 2
tổng và 8 xã; quận Đức Tôn với 2 tổng và 7 xã; quận Đức Thành với 3 tổng và 8 xã (Sắc
lệnh số 162-SL/ĐUHC của Chủ tịch Ủy ban Hành pháp Trung ương). (Xem Nguyễn
Quang Ân: Việt Nam những thay đổi địa danh, địa giới hành chính (1945-2002), Sđd,
tr.394-395).
3. Xem Việt Nam Cộng hòa - Bộ Kinh tế (Sài Gòn): Niên giám Thống kê Việt Nam
1964-1965, Sài Gòn, 1966, tr.1.
4. Ấn định lại ngày 1-7-1958 với Nghị định số 355-BNV/HC/NĐ và ngày
29-11-1960 với Nghị định số 1567-BNV/NC8/NĐ.
5. Ấn định lại ngày 31-3-1960 với Nghị định số 426-BNV/NC8/NĐ của Tổng
thống Việt Nam Cộng hòa.
6. Ấn định lại ngày 7-6-1958 với Nghị định số 290-BNV/HC/NĐ.
206 VÙNG ĐẤT NAM BỘ VIII THIẾT CHẾ QUẢN LÝ XÃ HỘI

Phong Dinh (ngày 5-6-1957), Bình Tuy (ngày 29-6-1957)1, An Xuyên (ngày
5-8-1957), Ba Xuyên (ngày 13-8-1957), Kiên Giang (ngày 30-8-1957)2,
Bình Dương (ngày 30-8-1957)3, Vĩnh Long (ngày 8-10-1957)4, Phước Long
(ngày 10-10-1957)5, Kiến Phong (ngày 11-12-1957)6, Ba Xuyên (ngày 13-1-
1958)7, Phước Tuy (ngày 20-3-1958)8, Bình Long (ngày 13-6-1960)... Qua
nhiều lần thay đổi, quy hoạch hành chính, tính đến trước ngày 30-4-1975,
cả Nam Bộ bao gồm: đô thành Sài Gòn, 27 tỉnh với 163 quận.

Bảng 17: Danh sách các tỉnh ở Nam Bộ trước ngày 30-4-1975

Quận
STT Tỉnh Số
Tên
lượng
- Quận Nhất
- Quận Nhì
- Quận Ba
- Quận Tư
- Quận Năm
Đô thành Sài
1 11 - Quận Sáu
Gòn
- Quận Bảy
- Quận Tám
- Quận Chín
- Quận Mười
- Quận Mười một
2 Bình Tuy 2 Hoài Đức, Hàm Tân
3 Long Khánh 3 Định Quán, Xuân Lộc, Kiệm Tâm

1. Ấn định lại ngày 13-10-1964 với Nghị định số 1260-BNV/NC.


2. Hủy bỏ Nghị định số 7-BNV/HC/NĐ ngày 3-1-1957. Sau đó được ấn định
lại ngày 13-6-1958 theo Nghị định 314-BNV/HC/NĐ.
3. Hủy bỏ Nghị định số 9-BNV/HC/NĐ ngày 3-1-1957.
4. Hủy bỏ Nghị định số 10-BNV/HC/NĐ ngày 4-1-1957. Ấn định lại ngày
2-8-1969 theo Nghị định số 856-NĐ/NV của Thủ tướng Việt Nam Cộng hòa.
5. Được điều chỉnh ngày 21-3-1958 bởi Nghị định số 78-BNV/NC/NĐ.
6. Ấn định lại ngày 21-7-1960 với Nghị định 876-BNV/NC8/NĐ.
7. Hủy bỏ Nghị định số 348-BNV/HC/NĐ ngày 3-12-1957.
8. Sửa đổi Nghị định số 6-BNV/NC/NĐ ngày 3-1-1957.
CHƯƠNG III: HỆ THỐNG QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH... 207

Quận
STT Tỉnh Số
Tên
lượng
4 Phước Long 4 Bố Đức, Đức Phong, Phước Bình, Đôn Luân
5 Bình Long 3 Lộc Ninh, Chơn Thành, An Lộc
Tân Uyên, Công Thanh, Đức Tu, Dĩ An, Long
6 Biên Hòa 6
Thành, Nhơn Rạch
Thị xã Vũng Tàu, Xuyên Lộc, Long Lễ, Đất Đỏ,
7 Phước Tuy 6
Long Điền, Đức Thạnh
Hóc Môn, Gò Vấp, Tân Bình, Thủ Đức, Nhà Bè,
8 Gia Định 8
Bình Chánh, Quảng Xuyên, Cần Giờ
Châu Thành, Trị Tân, Phú Giáo, Phú Hòa, Lái
9 Bình Dương 6
Thiêu, Bến Cát
10 Tây Ninh 4 Phú Ninh, Phú Khương, Khiêm Hanh, Hiếu Thiện
11 Hậu Nghĩa 4 Trảng Bàng, Củ Chi, Đức Huệ, Đức Hòa
Bến Lức, Thủ Thừa, Rạch Kiến, Tân Trụ, Cần
12 Long An 8
Đước, Cần Giuộc, Tuyên Nhơn, Kiến Bình
13 Kiến Tường 3 Châu Thành, Tuyên Bình, Ấp Bắc
Thị xã Mỹ Tho, Châu Thành, Bến Tranh, Giáo
14 Định Tường 9 Đức, Cái Bè, Chợ Gạo, Sầm Giang, Hậu Mỹ, Cai
Lậy
15 Gò Công 4 Hòa Tân, Hòa Lạc, Hòa Đồng, Hòa Bình
Trúc Giang, Hàm Luông, Đôn Nhơn, Bình Đại,
16 Kiến Hòa 9 Giồng Trôm, Mỏ Cày, Hương Mỹ, Ba Tri, Thạnh
Phú
Hồng Ngự, Thanh Bình, Mỹ An, Kiến Văn, Cao
17 Kiến Phong 6
Lãnh, Đồng Tiến
Châu Thành, Chợ Lách, Minh Đức, Bình Minh,
18 Vĩnh Long 7
Vũng Liêm, Tam Bình, Trà Ôn
19 Sa Đéc 4 Lấp Vò, Đức Thành, Đức Tôn, Đức Thịnh
20 Châu Đốc 5 Châu Phú, Tân Châu, Tịnh Biên, Tri Tôn, An Phú
21 An Giang 4 Châu Thành, Chợ Mới, Thốt Nốt, Huệ Đức
208 VÙNG ĐẤT NAM BỘ VIII THIẾT CHẾ QUẢN LÝ XÃ HỘI

Quận
STT Tỉnh Số
Tên
lượng
Thị xã Cần Thơ, Châu Thành, Phong Thuận,
22 Phong Dinh 8 Phong Phú, Phong Điền, Thuận Nhơn, Phụng
Hiệp, Thuận Trung
Châu Thành, Càng Long, Cầu Kè, Tiểu Cần, Cầu
23 Vĩnh Bình 7
Ngang, Trà Cú, Long Toàn
Kế Sách, Thuận Hòa, Long Phú, Mỹ Xuyên,
24 Ba Xuyên 8
Thanh Trị, Lịch Hội, Ngã Năm, Hòa Trị
Kiến Hưng, Đức Long, Long Mỹ, Kiên Thiện, Kiên
25 Chương Thiện 6
Long, Hưng Long
Thị xã Rạch Giá, Hà Tiên, Kiên Tân, Kiên Thành,
26 Kiên Giang 8
Kiên Bình, Kiên An, Hiếu Lễ, Kiên Lương
27 Bạc Liêu 4 Phước Long, Vĩnh Lợi, Vĩnh Châu, Giá Rai
Quản Long, Thới Bình, Sông Ông Đốc, Đầm Dơi,
28 An Xuyên 6
Năm Căn, Hải Yến

Nguồn: Nguyễn Quang Ân: Việt Nam những thay đổi địa danh, địa giới hành
chính (1945 - 2002), Sđd, tr.71-76.

Riêng với đô thành Sài Gòn, trong vai trò trung tâm chính trị - hành
chính, quân sự, kinh tế của cả miền Nam nói chung và Nam Bộ nói
riêng, Sài Gòn được chính quyền Sài Gòn nhiều lần quy hoạch, thay đổi
mở rộng địa giới hành chính, nhằm củng cố sức mạnh kinh tế, chính trị
cũng như tạo thành một trung tâm đầu não quân sự mạnh.
Ngày 27-3-1959, địa phận đô thành Sài Gòn được chia ranh giới
làm 8 quận: quận Nhất; quận Nhì; quận Ba; quận Tư; quận Năm;
quận Sáu; quận Bảy; quận Tám1. Ngày 22-4-1959, địa phận các

1. Nghị định số 110-NV của Tổng thống Việt Nam Cộng hòa (Xem Nguyễn
Quang Ân: Việt Nam những thay đổi địa danh, địa giới hành chính (1945-2002),
Sđd, tr. 317).
CHƯƠNG III: HỆ THỐNG QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH... 209

phường của 8 quận hành chính đô thành Sài Gòn được quy hoạch
chính thức. Theo đó, đô thành Sài Gòn gồm 41 phường sau: Bến
Nghé; Hòa Bình; Tự Đức; Trần Quang Khải (thuộc quận Nhất); Cầu
Ông Lãnh; Chợ Bến Thành; Cầu Kho; Nhà Thờ Huyện Sĩ (thuộc
quận Nhì); Đài Chiến Sĩ; Bàn Cờ; Chí Hòa; Trương Minh Giảng; Yên
Đỗ (thuộc quận Ba); Xóm Chiếu; Lý Nhơn; Vĩnh Hội; Bến Xà Lan
(thuộc quận Tư); Trung Ương; Chợ Quán; An Động; Minh Mạng;
Nguyễn Tri Phương; Phú Thọ (thuộc quận Năm); Bình Tây; Chợ;
Bình Tiên; Phú Lâm; Cầu Tre; Bình Thới; Phú Thọ Hòa (thuộc quận
Sáu); Cây Sung; Bình Đông; Rạch Cát; Phú Định; Bến Đá; Hàng Thái
(quận Bảy); Xóm Củi; Hưng Phú; Bình An; Chánh Hưng; Rạch Ông
(thuộc quận Tám)1...
Cũng như các địa phương khác, với nguyên tắc chia nhỏ các khu
vực hành chính, ngày 1-7-1969, chính quyền Sài Gòn tiếp tục chia nhỏ
đô thành Sài Gòn với việc thành lập hai quận mới (quận 10 và quận 11)
và ba phường mới:
1. Địa phận quận 10, gồm các phường: Chí Hòa (quận 3), Phan
Thanh Giản (quận Ba), Nguyễn Tri Phương (quận Năm), Minh Mạng
(quận 5).
2. Địa phận quận 11, gồm các phường: Cầu Tre (quận Sáu), Bình Thới
(quận Sáu), Phú Thọ Hòa (quận Sáu), Phú Thọ (quận Sáu)2.
3. Phường Bình Phú do tách một phần đất phường Bình Tiên và đặt
thuộc quận Sáu.
4. Phường Bình Thạnh do tách một phần đất phường Bình Thới và
đặt thuộc quận 11.

1. Xem Nguyễn Quang Ân: Việt Nam những thay đổi địa danh, địa giới hành
chính (1945-2002), Sđd, tr.318-320.
2. Sắc lệnh số 073-SL-NV của Thủ tướng Việt Nam Cộng hòa. (Xem Nguyễn
Quang Ân: Việt Nam những thay đổi địa danh, địa giới hành chính (1945-2002),
Sđd, tr.416).
210 VÙNG ĐẤT NAM BỘ VIII THIẾT CHẾ QUẢN LÝ XÃ HỘI

5. Phường Phú Thạnh do tách một phần đất phường Phú Thọ và
đặt thuộc quận 111.
Cùng với việc phân định các khu vực hành chính, chính quyền
Sài Gòn còn chia Nam Bộ thành các quân khu, các vùng chiến thuật
quân sự.
Ngày 22-10-1956, Tổng thống Việt Nam Cộng hòa sửa đổi địa
giới Đệ Nhất quân khu, gồm 9 tỉnh: Gia Định, Biên Hòa, Bình Dương,
Phước Long, Tây Ninh, Bình Long, Phước Tuy, Long Khánh, Bình Tuy.
Cùng với đó, thành lập thêm một quân khu Thủ đô và Đệ Ngũ quân
khu. Theo đó, quân khu Thủ đô gồm Thủ đô Sài Gòn; Đệ Ngũ quân
khu gồm 13 tỉnh: Long An, Kiến Tường, Kiến Phong, Kiến Hòa, Định
Tường, Vĩnh Long, Vĩnh Bình, An Giang, Phong Dinh, Ba Xuyên, Kiên
Giang, An Xuyên, Côn Sơn2.
Tiếp đó, ngày 13-4-1961, chính quyền Sài Gòn ra Sắc lệnh số
98-QP chia lãnh thổ quốc gia thành 3 vùng chiến thuật3. Ngoài ra,
sẽ thành lập một biệt khu Thủ đô gồm Sài Gòn - Chợ Lớn và tỉnh
Gia Định. Tùy theo nhu cầu tình thế, các vùng chiến thuật có thể
chia thành nhiều khu chiến thuật. Mỗi khu chiến thuật sẽ gồm nhiều
tỉnh. Mỗi tỉnh sẽ tổ chức thành một tiểu khu và tỉnh trưởng nếu là
quận nhân, sẽ tạm thời kiêm nhiệm chức tiểu khu trưởng4. Các tỉnh
Nam Bộ thuộc vùng chiến thuật 3 do Quân đoàn 3 phụ trách. Địa

1. Nghị định số 416-BNV-HCĐP-PTĐT-NĐ của Bộ Nội vụ (Xem Nguyễn


Quang Ân: Việt Nam những thay đổi địa danh, địa giới hành chính (1945-2002),
Sđd, tr. 439).
2. Xem Nguyễn Quang Ân: Việt Nam những thay đổi địa danh, địa giới hành
chính (1945-2002), Sđd, tr.259.
3. Vùng chiến thuật 1 gồm các tỉnh từ Quảng Ngãi trở ra vĩ tuyến 17; vùng
chiến thuật 2 gồm các tỉnh cao nguyên và cực Nam Trung Bộ; vùng chiến thuật 3
gồm các tỉnh Nam Bộ.
4. Sắc lệnh số 147-b-QP của Tổng thống Việt Nam Cộng hòa. (Xem Nguyễn
Quang Ân: Việt Nam những thay đổi địa danh, địa giới hành chính (1945-2002),
Sđd, tr.339.
CHƯƠNG III: HỆ THỐNG QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH... 211

bàn vùng chiến thuật 3 gồm tổng cộng 26 đơn vị hành chính (Bạc
Liêu, Bà Rịa, Bến Tre, Biên Hòa, Cà Mau, Cần Thơ, Châu Đốc, Chợ
Lớn, Gia Định, Gò Công, Hà Tiên, Long Xuyên, Mộc Hóa, Mỹ Tho,
Phong Thạnh, Rạch Giá, Sa Đéc, Sóc Trăng, Tam Cần, Tân An, Tây
Ninh, Thủ Dầu Một, Trà Vinh, Vĩnh Long, Vũng Tàu, Côn Đảo) với
99 quận, 1.262 làng. Thành phố Sài Gòn - Chợ Lớn tổ chức thành
quân khu đặc biệt1.
Ngày 9-12-1965, Chủ tịch Ủy ban hành pháp trung ương của chính
quyền Sài Gòn chính thức phân chia lãnh thổ quốc gia thành 4 vùng
chiến thuật, quân khu Thủ đô và đặc khu Rừng Sác. Trong đó, Nam Bộ
nằm trong vùng chiến thuật 3 và 4, cùng quân khu Thủ đô và đặc khu
Rừng Sác:
1. Vùng chiến thuật 3 gồm 10 tỉnh: Phước Long, Bình Long, Bình
Dương, Long Khánh, Bình Tuy, Phước Tuy, Biên Hòa (trừ hai quận
Quảng Xuyên và Cần Giờ), Tây Ninh, Hậu Nghĩa, Long An.
2. Vùng chiến thuật 4 gồm 15 tỉnh: Kiến Tường, Định Tường, Gò
Công, Kiến Hòa, Kiến Phong, Vĩnh Long, Vĩnh Bình, Châu Đốc, An
Giang, Kiên Giang, Phong Dinh, Chương Thiện, Bạc Liêu, Ba Xuyên,
An Xuyên.
3. Quân khu Thủ đô gồm: đô thành Sài Gòn, tỉnh Gia Định,
Côn Sơn.
4. Đặc khu Rừng Sác gồm hai quận Quảng Yên và Cần Giờ thuộc
tỉnh Biên Hòa2.
Năm 1969, chính quyền Nguyễn Văn Thiệu cải tổ lại tổ chức lãnh
thổ hành chính và các vùng chiến thuật trên toàn miền Nam. Theo đó,

1. Xem Hồ Sơn Đài: Mấy đặc điểm về tổ chức chiến trường ở Nam Bộ trong
cuộc khánh chiến chống Mỹ, cứu nước, bài in trong Sài Gòn - Thành phố Hồ Chí
Minh tiếp bước con đường Cách mạng Tháng Tám (1945-2005), Nxb. Tổng hợp
Thành phố Hồ Chí Minh, 2005, tr.391-392.
2. Xem Nguyễn Quang Ân: Việt Nam những thay đổi địa danh, địa giới hành
chính (1945-2002), Sđd, tr.388.
212 VÙNG ĐẤT NAM BỘ VIII THIẾT CHẾ QUẢN LÝ XÃ HỘI

tại Nam Bộ vẫn tồn tại hai quân khu (vùng chiến thuật cũ), một loại tổ
chức quân sự hành chính làm nhiệm vụ bảo đảm an ninh lãnh thổ và
bình định xây dựng tại chỗ. Dưới quân khu là khu trách nhiệm chiến
thuật (khu chiến thuật cũ), tiểu khu (tỉnh), các chi khu (quận). Tổ chức
này tồn tại cho đến trước ngày 30-4-1975. Các đơn vị hành chính của
Nam Bộ thuộc các quân khu như sau:
Quân khu 3 gồm 12 tỉnh: Biên Hòa, Bình Dương, Bình Long, Bình
Tuy, Gia Định, Hậu Nghĩa, Long An, Long Khánh, Phước Long, Phước
Tuy, Tây Ninh, Vũng Tàu.
Quân khu 4 gồm 11 tỉnh: An Giang, An Xuyên, Ba Xuyên, Bạc
Liêu, Châu Đốc, Chương Thiện, Côn Sơn, Định Tường, Gò Công, Kiên
Giang, Kiến Hòa1.
Bên cạnh việc quy định hành chính trên đất liền, về các đơn vị
hành chính trên biển, ngày 6-9-1973, Bộ Nội vụ của chính quyền Sài
Gòn ra nghị định sáp nhập một số đảo vào xã Phước Hải, quận Đất
Đỏ, tỉnh Phước Tuy, gồm có Trường Sa (Spratly), An Bang (Amboyna
Cay), Thái Bình (Itu Aba), Song Tử Đông (Northeast Cay), Song
Tử Tây (Southwest Cay), Loai Ta (Loaita), Thị Tứ (Thitu), Nam Ai
(Namyit), Sinh Tồn (Sin Cowc) và các đảo phụ cận2. Đầu năm 1974,
một số nước trong khu vực tranh chấp đảo Hoàng Sa, Trường Sa của
Việt Nam. Các quần đảo này vào thời gian đó đang thuộc địa giới của
chính quyền Sài Gòn. Tại Hội nghị ASSAC ngày 13-7-1971, chính
quyền Sài Gòn đã khẳng định chủ quyền Việt Nam đối với quần đảo
Hoàng Sa và Trường Sa.

1. Hồ Sơn Đài, Mấy đặc điểm về tổ chức chiến trường ở Nam Bộ trong cuộc
kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, bài in trong Sài Gòn - Thành phố Hồ Chí Minh
tiếp bước con đường Cách mạng Tháng Tám (1945-2005), Sđd, tr.393-394.
2. Nghị định số 420-BNV-HCĐP-26-X của Bộ Nội vụ (Xem Nguyễn Quang
Ân: Việt Nam những thay đổi địa danh, địa giới hành chính (1945-2002), Sđd,
tr.439).
CHƯƠNG III: HỆ THỐNG QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH... 213

Ngày 19-1-1974, Trung Quốc cho hải quân tiến đánh quân Sài
Gòn đang đồn trú ở Trường Sa. Ngày 20-1-1974, Trung Quốc cho máy
bay ném bom xuống đảo Hữu Nhật, Quang Anh và Hoàng Sa. Bộ
Ngoại giao của chính quyền Việt Nam Cộng hòa đã ra tuyên cáo lên
án Trung Quốc và khẳng định với chính quyền Đài Loan chủ quyền
của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Ngày
14-2-1974, sau khi Trung Quốc nổ súng cưỡng chiếm Hoàng Sa, một
làn sóng phản đối mãnh liệt đã nổ ra trên khắp miền Nam Việt Nam.
Chính quyền Sài Gòn đã ra tuyên bố lên án Trung Quốc xâm lược,
khẳng định lại chủ quyền Hoàng Sa và Trường Sa.

b) Bộ máy quản lý

Từ trước Hiệp định Genève, đế quốc Mỹ đã âm mưu lợi dụng


thất bại của thực dân Pháp để nhảy vào xâm lược Việt Nam và
Đông Dương. Thực hiện âm mưu đó, ngày 16-6-1954, Mỹ ép Bảo
Đại ký Sắc lệnh số 38-QT cử Ngô Đình Diệm làm Thủ tướng, lập
chính phủ bù nhìn mới, làm tay sai cho Mỹ ở miền Nam nói chung
và Nam Bộ nói riêng. Hệ thống chính quyền Sài Gòn được thiết lập
từ năm 1954, tồn tại và áp đặt quản lý hành chính cũng như quân
sự tại Nam Bộ cho đến ngày 30-4-1975 với tên gọi Chính phủ Việt
Nam Cộng hoà.
Đối với cơ cấu tổ chức bộ máy hành chính Trung ương, thời kỳ “Đệ
nhất Cộng hoà” (từ tháng 10-1955 đến tháng 11-1963), ngày 23-10-
1955, dưới sự chỉ đạo của người Mỹ, một cuộc “bầu cử” được dựng
lên để phế truất Hoàng đế Bảo Đại, đưa Ngô Đình Diệm lên làm Tổng
thống với 99,04% số phiếu bầu1.

1. Xem Nguyễn Khắc Viện: Miền Nam Việt Nam từ sau Điện Biên Phủ,
Nxb. Tri thức, Hà Nội, 2008, tr.107.
214 VÙNG ĐẤT NAM BỘ VIII THIẾT CHẾ QUẢN LÝ XÃ HỘI

Ngô Đình Diệm đã thiết lập một bộ máy chính quyền mô phỏng
theo kiểu chính thể của Hoa Kỳ. Ba ngày sau bầu cử, chính thể Việt
Nam Cộng hòa do Ngô Đình Diệm đứng đầu, đã ra tuyên bố là một
quốc gia có chủ quyền kể từ vĩ tuyến 17 trở vào. Một năm sau, ngày
26-10-1956, Tổng thống Ngô Đình Diệm ban hành Hiến pháp nhằm
hợp thức hóa các chế độ công quyền đang có sẵn đi vào hoạt động.
Theo bản Hiến pháp này, tổng thống và phó tổng thống được
bầu theo lối liên danh. Tổng thống có quyền bổ nhiệm tất cả các bộ
trưởng, quốc vụ khanh chỉ chịu trách nhiệm trước tổng thống, tổng
thống lại có quyền trực tiếp ban hành luật trong các trường hợp:
- Khi Quốc hội đang nghỉ họp (Điều 4).
- Trong các trường hợp có chiến tranh nổi dậy, khủng hoảng kinh
tế hoặc tài chính (Điều 42).
- Nếu đến ngày 31-12, Quốc hội chưa bổ phiếu thông qua ngân sách
cho năm tới, tổng thống sẽ quyết định ngân sách này đơn giản chỉ bằng
sắc lệnh (Điều 43).
- Tổng thống có quyền ra sắc lệnh ban bố tình trạng khẩn cấp, báo
động, thiết quân luật trong một hay nhiều khu vực (Điều 44)1.
Trong Hiến pháp cũng ghi rõ ông Ngô Đình Diệm, theo luật
định, là Tổng thống đầu tiên của nước Cộng hòa. Nhiệm kỳ của tổng
thống là 5 năm2. Hết nhiệm kỳ lại có quyền ứng cử tiếp hai nhiệm kỳ
nữa. Tổng thống bổ nhiệm các thành viên trong Nội các và cũng bổ
nhiệm các Bộ trưởng đứng đầu các bộ của Chính phủ.
Thời kỳ này, Chính phủ gồm có 12 bộ và một số nha trực thuộc.
Tổng thống chỉ bị phủ quyết khi có từ 3/4 trở lên số đại biểu Quốc hội

1. Xem Nguyễn Khắc Viện: Miền Nam Việt Nam từ sau Điện Biên Phủ, Sđd,
tr.148-149.
2. Theo một số tài liệu không chính thức, nhiệm kỳ của tổng thống chỉ là 48
tháng kể từ ngày nhậm chức.
CHƯƠNG III: HỆ THỐNG QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH... 215

phủ quyết. Quốc hội hoàn toàn chấp nhận quyền lãnh đạo của tổng
thống. Bộ Tư pháp có quyền thuyên chuyển các thẩm phán1.
Chung quanh tổng thống là bộ máy Văn phòng Phủ Tổng thống
bao gồm các tổng nha và các nha sở chuyên trách quản lý điều hành các
lĩnh vực. Phủ Tổng thống do một bộ trưởng chịu trách nhiệm quản lý
điều hành.
Các tổng nha trực thuộc có chức năng và nhiệm vụ khá phức tạp
gồm hai loại: một loại tổng nha có chức năng tham mưu phụ tá như
Tổng nha Công vụ, Tổng nha Ngân sách... Loại thứ hai là các tổng
nha có chức năng thừa hành như các Tổng nha Xã hội, Tổng nha
Kiến thiết, Phủ Tổng ủy Đinh - Điền, Phủ Tổng ủy Hợp tác xã... Sự
phân công chức năng quyền hành không được rõ ràng bởi khuynh
hướng tập trung quyền hành thái quá vào tay tổng thống.
Giúp việc tổng thống còn có một Nội các - là tổ chức tham mưu tập
thể cho tổng thống gồm một số bộ trưởng đứng đầu các lĩnh vực căn
bản của quốc gia. Quyền hành độc lập của tổng thống còn được biểu
hiện ở chỗ xóa bỏ chức vụ thủ hiến ở các phần, các chức vụ thay thế
thống sứ, khâm sứ, thống đốc thời Pháp thuộc là vị trí quan trọng trước
đây lấn át quyền hành Trung ương2.
Tuy nhiên, càng ngày Chính phủ Ngô Đình Diệm càng có xu
hướng gia đình trị và phát xít hóa, tạo ra những mâu thuẫn nội bộ và
xa rời lợi ích của nhân dân, gây bất bình trong quần chúng, dẫn đến
phong trào cách mạng nổi lên mạnh mẽ khắp miền Nam. Để đối phó
với tình hình đó, tháng 11-1963, người Mỹ đã chỉ huy đảo chính, lật
đổ chính phủ gia đình trị của Ngô Đình Diệm, lập nên một chính
phủ mới do lực lượng quân đội nắm quyền. Thời kỳ “Đệ nhất Cộng
hoà” chấm dứt.

1, 2. Xem Học viện Hành chính quốc gia: Giáo trình lịch sử hành chính Nhà
nước Việt Nam, Sđd, tr.412, 415.
216 VÙNG ĐẤT NAM BỘ VIII THIẾT CHẾ QUẢN LÝ XÃ HỘI

Bước sang thời kỳ lực lượng quân đội nắm quyền (từ tháng 11-1963
đến tháng 4-1967), sau cuộc đảo chính lật đổ Chính phủ của Ngô Đình
Diệm, lực lượng ngụy quân mà đại diện là “Hội đồng quân nhân cách
mạng” đã lên nắm quyền lực. Thời kỳ này là thời kỳ bất ổn định và xáo
trộn mạnh nhất của nền hành chính “Việt Nam Cộng hoà” ở miền Nam.
Trong ba năm, từ năm 1963 đến năm 1965, lần lượt có đến bốn chính
phủ thay nhau thành lập và giải thể, gồm: Chính phủ do Nguyễn Ngọc
Thơ làm Thủ tướng; Chính phủ do Dương Văn Minh làm Quốc trưởng;
Chính phủ do Phan Khắc Sửu làm Quốc trưởng và Chính phủ do Phan
Huy Quát làm Thủ tướng.
Các chính phủ quân sự nối tiếp nhau quản lý, điều hành nền hành
chính theo các quy định tạm thời được gọi là “Hiến chế lâm thời” gồm
các văn bản:
- Hiến ước tạm thời số 1 ngày 04-11-1963.
- Hiến chương Việt Nam Cộng Hòa ngày 16-8-1964 (trên thực tế
Hiến chương này không được thi hành).
- Hiến chương lâm thời ngày 20-10-1964.
- Quyết định số 6 của Hội đồng quân lực Việt Nam Cộng Hòa ngày
17-11-1964.
Trước tình hình lộn xộn và bất ổn đó, nhằm ổn định hành chính,
ngày 19-6-1965, một “Ước pháp tạm thời” được ban bố. Theo quy định
của Ước pháp đó, quyền hành Trung ương bao gồm có các cơ quan sau
đây: Ủy ban lãnh đạo quốc gia, Đại hội đồng quân lực, Ủy ban hành
pháp Trung ương (trong đó gồm các viện, tổng nha và tổng bộ), Hội
đồng dân quân và Ủy ban cải cách hành chính.
Ngày 5-4-1966, Đại hội đồng quân lực Việt Nam Cộng hòa đã triệu
tập hội nghị chính trị để xúc tiến việc thành lập Quốc hội lập hiến1.

1. Xem Học viện Hành chính quốc gia: Giáo trình lịch sử hành chính Nhà
nước Việt Nam, Sđd, tr.413.
CHƯƠNG III: HỆ THỐNG QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH... 217

Theo Ước pháp ngày 19-6-1965, Đại hội đồng quân lực thiết lập
một Ủy ban lãnh đạo quốc gia. Ủy ban này do Nguyễn Văn Thiệu làm
Chủ tịch, nắm chủ quyền và điều hành mọi công việc của quốc gia. Với
cơ cấu như vậy, không có sự phân chia rõ rệt giữa quyền lập pháp và
quyền hành pháp.
Ngày 18-3-1967, Quốc hội lập hiến đã thông qua bản “Hiến pháp
mới” gồm có 9 chương, 112 điều. Ngày 1-4-1967, Nguyễn Văn Thiệu với
tư cách là Chủ tịch Ủy ban lãnh đạo quốc gia đã ra tuyên cáo công bố
bản “Hiến pháp mới”. Đây là mốc đánh dấu sự thay đổi của chính quyền
Sài Gòn, kết thúc thời kỳ quân đội nắm quyền và mở đầu cho thời kỳ
nền “Đệ nhị Cộng hoà”.
Thời kỳ “Đệ nhị Cộng hòa” (1967-1975), sau khi tuyên bố ban hành
“Hiến pháp mới” được sự giúp đỡ của quan thầy Mỹ, Nguyễn Văn Thiệu
đã tuyên bố thành lập một Nội các mới ở miền Nam. Theo “Hiến pháp
mới” (năm 1967), bộ máy ngụy quyền do Nguyễn Văn Thiệu đứng đầu
được tổ chức theo nguyên tắc “tam quyền phân lập”. Quyền lập pháp
thuộc về Quốc hội, gồm có Thượng nghị viện và Hạ nghị viện. Quyền
hành pháp trao cho tổng thống nắm giữ (theo “Hiến pháp mới”, tổng
thống có quyền hành rất lớn). Quyền tư pháp thuộc về Tối cao pháp
viện. Trong bộ máy Nhà nước Trung ương còn có các cơ quan khác như:
Đặc biệt pháp viện, Hội đồng quân lực, Quốc vụ khanh...1.
Thời kỳ từ năm 1967 đến năm 1975, Nguyễn Văn Thiệu được sự
chỉ đạo của Mỹ đã dốc sức xây dựng một chế độ ngụy quyền đủ sức đối
phó với tình hình đầy biến động và phức tạp ở miền Nam.
Trong Ủy ban lãnh đạo quốc gia có một ủy viên điều khiển hành
pháp giữ chức vụ Chủ tịch Ủy ban hành pháp Trung ương. Chức vụ
này có toàn quyền về xây dựng tổ chức bộ máy hành chính và lựa

1. Xem Học viện Hành chính quốc gia: Giáo trình lịch sử hành chính Nhà
nước Việt Nam, Sđd, tr.414.
218 VÙNG ĐẤT NAM BỘ VIII THIẾT CHẾ QUẢN LÝ XÃ HỘI

chọn, bổ nhiệm các công chức giữ chức vụ trong bộ máy hành chính.
Trường hợp bổ nhiệm chức vụ cấp tổng nha hoặc cấp tỉnh chỉ cần có
sự thoả thuận của Ủy ban lãnh đạo quốc gia.
Nắm quyền tối cao là tổng thống, có hai nhiệm vụ chính: Thứ nhất
là, đại diện của chính thể quốc gia, giữ chức vụ Chủ tịch Ủy ban lãnh
đạo quốc gia (giống như quốc trưởng trước đây); Thứ hai là, điều khiển
nền hành pháp.
Đảm trách giúp tổng thống về điều khiển nền hành pháp là Chủ
tịch Ủy ban hành pháp Trung ương, Chủ tịch Ủy ban hành pháp
Trung ương có khi còn được ủy quyền ký ban hành các sắc luật.
- Văn phòng Chủ tịch Ủy ban hành pháp Trung ương: Thời kỳ này
có sự cải tổ căn bản là sáp nhập Nha Tổng thư ký với Nha Tổng thống
vào Văn phòng Ủy ban hành pháp. Đứng đầu Văn phòng là một đổng
lý văn phòng làm nhiệm vụ tham mưu, tư vấn, điều hành giúp trực tiếp
Chủ tịch Ủy ban hành pháp. Ngoài ra, Chủ tịch Ủy ban hành pháp còn
có những ủy viên phụ tá khác cũng ở trong Hội đồng Nội các được Chủ
tịch Ủy ban hành pháp ủy quyền giải quyết các vấn đề chuyên trách.
Đặc biệt là để điều hành hoạt động của các nha, sở trực thuộc Ủy ban
hành pháp.
Thời kỳ này, các nha, sở trực thuộc Ủy ban hành pháp giảm đi nhiều
so với thời kỳ trước. Các nha, sở trực thuộc Ủy ban hành pháp có thể
chia làm hai loại:
Loại thứ nhất: Có chức năng vừa phụ tá vừa tham mưu, như Tổng
nha Kế hoạch, Tổng nha Ngân sách và Ngoại viện, Học viện Quốc gia
hành chính (Viện trưởng Học viện Quốc gia hành chính luôn luôn kiêm
nhiệm chức Chủ tịch Ủy ban cải cách hành chính). Nha Tổng thư ký Hội
đồng tối cao thực hiện cả chức năng nghiên cứu chính sách và nguyên
tắc quản lý công chức do Tổng nha Công vụ trước đây đảm nhiệm, đến
thời kỳ này Tổng nha Công vụ đã giải tán.
CHƯƠNG III: HỆ THỐNG QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH... 219

Loại thứ hai: Có chức năng là các cơ quan thừa hành, song Chủ tịch
Ủy ban hành pháp không muốn đặt lại tại các bộ mà muốn nhấn mạnh
ý nghĩa quan trọng của nó nên đã đặt nó thành tổ chức độc lập như Phủ
Đặc ủy Thương vụ, Phủ Đặc ủy Tỵ nạn cộng sản. Tổng nha Thương
cảng và giám sát viên cùng các thanh tra giám sát thay thế cho các thanh
tra hành chính và tài chính của thời kỳ trước.
Về Nội các, một đặc trưng nổi bật trong lịch sử hành chính của
nguỵ quyền Sài Gòn là thành phần Nội các luôn luôn thay đổi do điều
kiện bất ổn và khủng hoảng về chính trị. Nhiều Nội các liên tục thay
đổi nhau từ Nội các của Nguyễn Cao Kỳ, Nguyễn Văn Lộc, Trần Văn
Hương, cho đến Nội các của Trần Thiện Khiêm.
Các vị trí thực hiện các chức năng quan trọng của Nội các thường
do các Phó Chủ tịch Ủy ban hành pháp đảm trách (giống như cương vị
Phó Thủ tướng) hoặc do các tổng ủy viên đảm trách. Cụ thể là:
Chức năng đảm nhiệm các vấn đề về chiến tranh do một Phó Chủ
tịch Ủy ban hành pháp phụ trách, bao gồm các cơ quan như Bộ Quốc
phòng, Bộ Thanh niên, Bộ Cựu chiến binh và Bộ Giao thông - Vận tải.
Chức năng đảm nhiệm các vấn đề về xây dựng nông thôn do một
Phó Chủ tịch Ủy ban hành pháp phụ trách, bao gồm các Bộ như Bộ Xây
dựng, Bộ Công chánh và Phủ Đặc ủy hành chính (Bộ Nội vụ trước đây).
Chức năng đảm nhiệm các vấn đề về văn hóa, giáo dục do một Phó
Chủ tịch Ủy ban hành pháp phụ trách, bao gồm Bộ Văn hóa, Bộ Giáo
dục, Bộ Y tế và Bộ Xã hội.
Chức năng đảm nhiệm các vấn đề về kinh tế, tài chính do một Tổng
ủy viên Kinh tế tài chính phụ trách gồm các bộ như: Bộ Thương mại, Bộ
Kỹ nghệ, Bộ Tài chính và Bộ Lao động.
Có những chức năng quan trọng do một bộ đảm nhiệm đặt dưới
quyền phụ trách của một tổng ủy viên như Bộ An ninh, Bộ Thông tin -
Chiêu hồi, Bộ Tư pháp, Bộ Ngoại giao.
220 VÙNG ĐẤT NAM BỘ VIII THIẾT CHẾ QUẢN LÝ XÃ HỘI

Các tổng ủy viên hay ủy viên trong Ủy ban hành pháp thường có
các phụ tá giúp việc thay cho chức vụ đổng lý văn phòng hay tổng thư ký
dưới thời Đệ nhất Cộng hòa. Chức vụ phụ tá thời kỳ này được bổ nhiệm
bằng sắc lệnh của Chủ tịch Ủy ban hành pháp để duy trì tính ổn định
của nền hành chính, khác với trước đây, chức vụ đổng lý văn phòng hay
tổng thư ký được bổ nhiệm bằng nghị định của Bộ trưởng.
Các nha, sở ở Trung ương là các cơ quan chức năng đảm nhiệm các
công việc hành chính cho bộ máy hành chính ở Trung ương. Tùy theo
tầm quan trọng của chức năng và tình hình chính trị - xã hội đòi hỏi
các tổng nha, sở, phòng được nâng lên thành các phủ đặc ủy hay giáng
xuống các bậc thấp hơn.
Các nha, sở trực thuộc các bộ được tăng lên trong thời kỳ này rất
nhiều so với thời Đệ nhất Cộng Hòa hay thời chính quyền quân sự.
Chính vì vậy, Ủy ban cải cách hành chính do Viện trưởng Học viện
Hành chính quốc gia làm chủ tịch đã phải tổ chức nghiên cứu để thực
hiện cải cách cơ cấu bộ máy hành chính.
Các nha, sở ở Trung ương có xu hướng tăng cường thành các công
sở tự trị, có tư cách pháp nhân, có công sở riêng, có ngân sách riêng như
có các thương cảng, các dịch vụ vận tải, dịch vụ thương mại, dịch vụ dân
sự hay dịch vụ quân sự...
Bộ Xây dựng có chức năng phát triển nông thôn được coi là một nhiệm
vụ trọng yếu, do vậy Bộ Xây dựng có các cơ quan ngoài nhiệm đặt ở các tỉnh
gọi là Hội đồng Xây dựng nông thôn cấp tỉnh do một Ban thường vụ điều
hành. Nhiệm vụ của Hội đồng Xây dựng nông thôn ở các tỉnh là giúp tỉnh
trưởng trong công việc phát triển nông thôn về mọi phương diện.
Các hội đồng giúp việc ngoài Hội đồng Nội các, Chủ tịch Ủy ban
hành pháp gồm có hai cơ quan giúp việc quan trọng là:
Thứ nhất, Ủy ban đặc biệt kinh tế tài chính, gồm một nhân viên
của chính phủ chuyên nghiên cứu về các vấn đề kinh tế, tài chính và
các biện pháp thực hiện thích nghi để tư vấn cho Chủ tịch Ủy ban
hành pháp.
CHƯƠNG III: HỆ THỐNG QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH... 221

Thứ hai, Hội đồng dân quân tối đa đến 80 hội viên, trong đó có cả
hội viên quân đội và hội viên dân sự do Ủy ban lãnh đạo quốc gia cử.
Hội đồng dân quân có nhiệm vụ tư vấn cho Ủy ban hành pháp Trung
ương trong các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa xã hội1.
Về cơ cấu tổ chức hành chính địa phương, cũng giống như sự phân
chia địa giới, cơ cấu tổ chức hành chính địa phương các cấp của chế độ
Sài Gòn đều thuần túy theo chức năng của chính quyền Trung ương.
Do đặc trưng nền hành chính Sài Gòn là công cụ của Mỹ nhằm
chống lại sự phản kháng của nhân dân, nên giữa cấp Trung ương và cấp
tỉnh có một cấp quản lý trung gian là các tướng lĩnh quân đội nắm quyền.
Qua các thời kỳ, chính quyền Sài Gòn chia địa phận miền Nam thành các
quân khu, sau đó là các “vùng chiến thuật”. Đứng đầu mỗi vùng là tư lệnh
vùng. Các tư lệnh vùng đều là thành viên của chính phủ, có quyền hành
rất lớn, nhất là quyền thuyên chuyển, điều động nhân sự trong vùng, kể
cả việc thuyên chuyển, điều động các tỉnh trưởng, quận trưởng. Tuy vậy,
các vùng chiến thuật không có ngân sách độc lập và chỉ được coi như là cơ
quan thừa hành đại diện của Chính phủ Trung ương. Chính phủ Trung
ương vẫn coi tỉnh, quận, xã là các cấp hành chính ở địa phương.
Về bộ máy hành chính cấp tỉnh, toàn miền Nam được ngụy quyền
Sài Gòn chia thành 45 tỉnh, trong đó Nam Bộ bao gồm 20 tỉnh và một
đô thành Sài Gòn. Quyền cai quản hành chính ở các địa phương là các
tỉnh trưởng do tổng thống bổ nhiệm trực tiếp (theo quy định của Đạo
dụ số 57-A ngày 24-10-1956). Các Hội đồng hành chính tỉnh bị bãi
bỏ, cho đến năm 1961 mới tái lập theo Sắc lệnh số 237-NV ngày 8-12-
1961. Các phụ tá cho tỉnh trưởng như phó tỉnh trưởng nội an, phó tỉnh
trưởng hành chính và các trưởng ty làm việc tại Toà Hành chánh như
Ty Hành chính, Ty Tài chính, Ty Kinh tế và Xã hội, Ty Nội an và Quân
vụ cũng đều do chính phủ bổ nhiệm.

1. Xem Học viện Hành chính quốc gia: Giáo trình lịch sử hành chính Nhà
nước Việt Nam, Sđd, tr.417-421.
222 VÙNG ĐẤT NAM BỘ VIII THIẾT CHẾ QUẢN LÝ XÃ HỘI

Các nhân viên chính ngạch (công chức) làm việc tại ty trong Toà
Hành chính và các trưởng ty, nhân viên làm việc trong các ty chuyên
môn nằm ngoài Toà Hành chánh như Ty Cảnh sát quốc gia, Ty Thanh
niên, Ty Bưu chính... đều do các bộ chủ quản bổ nhiệm và điều động.
Ngoài tư cách là đơn vị hành chính thừa hành quyền lực Trung ương
như đã trình bày, tỉnh còn có tư cách là đơn vị phân quyền địa phương.
Ngoài việc tiếp nhận các nguồn tài chính từ ngân sách quốc gia, các
tỉnh còn có một số ngân sách riêng biệt. Tuy nhiên, sự kiểm soát về thu
chi ngân sách của Trung ương đối với tỉnh là ngặt nghèo và nghiêm
khắc, song trên thực tế tỉnh cũng có một tư cách pháp nhân và có một
cộng sản riêng.
Đối với những vấn đề quyết sách, tỉnh trưởng không được tự
định đoạt hoàn toàn mà còn phải chấp hành quyết nghị của Hội
đồng Dân cư được bầu ra theo thể thức phổ thông đầu phiếu và trực
tiếp theo Sắc lệnh số 237-NV ngày 8-12-1961 và sau đó thay thế bằng
Sắc lệnh số 68-NV ngày 9-4-1965. Hội đồng Dân cư có quyền quyết
nghị về các vấn đề quan trọng về kế hoạch xây dựng và chi thu ngân
sách tỉnh, thuế địa phương và các chính sách khác. Hội đồng Dân cư
cũng có quyền kiểm soát tỉnh trưởng về việc thi hành chính sách của
Chính phủ Trung ương, về hành vi công vụ của các công chức trong
bộ máy hành chính.
Mỗi tỉnh được chia thành nhiều quận, huyện, các quận trưởng,
quận phó, huyện trưởng, huyện phó và các nhân viên hành chính,
nhân viên chuyên môn cấp quận, huyện đều do Chính phủ Trung
ương bổ nhiệm. Quận trưởng, huyện trưởng phải nhận chỉ thị của
tỉnh trưởng và chịu trách nhiệm báo cáo các hoạt động với tỉnh
trưởng theo nguyên tắc tập quyền. Trên phương diện quản lý, cấp
quận, huyện không có quyền quyết định các vấn đề về chính sách
hành chính. Song, trên thực tế thì quận trưởng, huyện trưởng có
quyền hành rất rộng chi phối toàn bộ hoạt động hành chính trên địa
bàn quận, huyện.
CHƯƠNG III: HỆ THỐNG QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH... 223

Đối với hành chính ở cơ sở các xã do Hội đồng xã đảm nhiệm. Hội
đồng xã có từ 3 đến 8 thành viên tùy theo quy mô lớn, bé của xã, do tỉnh
trưởng bổ nhiệm. Chế độ bổ nhiệm Hội đồng xã được duy trì đến năm
1963 mới chuyển đổi sang chế độ bầu cử theo Sắc lệnh số SL-45-NV
ngày 3-5-1963.
Về bộ máy hành chính cấp cơ sở, các đơn vị xã, ấp chính thức được
chính quyền Sài Gòn quản lý bằng Sắc lệnh số SL-45-NV ngày 3-5-1963
ban hành dưới thời Đệ nhất Cộng hoà, nhưng chưa được thực hiện thì
xảy ra cuộc đảo chính quân sự ngày 1-11-1963. Các chính phủ tiếp nối
lại ban hành các Sắc lệnh số 203-NV ngày 31-5-1964 rồi sau đó thay thế
bằng Pháp lệnh số 98-ĐUHC ngày 24-12-1966 quy định về tổ chức và
quản trị hành chính cấp xã, ấp.
Theo Sắc lệnh số 198-ĐUHC ngày 24-12-1966 quy định thiết lập
ở mỗi xã có một Hội đồng nhân dân xã và một Ủy ban hành chính xã.
Hội đồng nhân dân xã có từ 6 đến 12 thành viên với nhiệm kỳ ba năm
được nhân dân bầu theo thể thức phổ thông đầu phiếu, trực tiếp và
kín. Hội đồng có quyền biểu quyết về ngân sách xã, về chương trình
phát triển công ích, về các vấn đề công sản. Những quyết nghị của
Hội đồng nhân dân xã nếu ở mức ngân sách lớn phải được Chính phủ
duyệt y, nếu ở mức độ vừa theo quy định phải được tỉnh trưởng duyệt
y mới có hiệu lực.
Hội đồng nhân dân xã họp một tháng một lần dưới sự điều hành
của một Ban thường vụ gồm chủ tịch, phó chủ tịch và tổng thư ký. Hội
đồng chỉ biểu quyết và quyết nghị về các vấn đề quản trị xã, còn việc thi
hành các quyết định, chỉ thị của cấp trên là do Ủy ban hành chính xã
đảm nhiệm.
Ủy ban hành chính xã gồm có một chủ tịch kiêm nhiệm quản lý
hộ tịch, một phó chủ tịch phụ trách giúp việc chủ tịch và kiêm nhiệm
ủy viên kinh tài và có từ 1 đến 4 ủy viên khác trông coi các vấn đề an
ninh, tuyên truyền vận động, công tác xã hội và canh nông.
224 VÙNG ĐẤT NAM BỘ VIII THIẾT CHẾ QUẢN LÝ XÃ HỘI

Chủ tịch Ủy ban hành chính do Hội đồng nhân dân xã bầu ra, có
quyền bổ nhiệm các nhân viên khác trong ủy ban, ngoại trừ chánh, phó
thư ký ủy ban phải do tỉnh trưởng tuyển nhiệm theo đề nghị của quận
trưởng. Với thiết chế tổ chức hành chính cơ sở của Sắc lệnh số 198
ngày 24-12-1966 thể hiện rõ quyền tự chủ của xã qua việc phân quyền
cho Hội đồng nhân dân xã. Đồng thời, khẳng định quyền đại diện của
chính phủ tại địa phương là quyền chấp hành của Ủy ban hành chính
xã, quyền giám hộ của Trung ương tại địa phương rất mạnh mẽ.
Đối với việc bầu cử các thành viên của Hội đồng nhân dân xã, danh
sách cử tri phải được quận trưởng, huyện trưởng duyệt y, danh sách ứng
cử viên phải được văn phòng quận tưởng, huyện trưởng niêm yết, kết
quả bầu cử phải được tỉnh trưởng duyệt y bằng quyết định. Tỉnh trưởng
có quyền cách chức hoặc miễn nhiệm thành viên Hội đồng nhân dân
khi có biểu quyết của 2/3 số thành viên. Phủ Đặc ủy hành chánh (ở
Trung ương) có quyền giải tán Hội đồng nhân dân xã nếu xét thấy có
hành vi ngược với tinh thần quốc gia và theo đề nghị của một ủy ban có
thẩm quyền gồm: Tỉnh trưởng, Chánh án Toà án tỉnh và một ủy viên đại
diện cho Hội đồng tỉnh.
Đối với Ủy ban hành chính xã: Tỉnh trưởng có quyền cách chức
hoặc miễn nhiệm Chủ tịch Ủy ban hành chính xã khi có đề nghị của
Hội đồng nhân dân xã hoặc đề nghị của quận trưởng. Quận trưởng,
huyện trưởng có quyền phủ nhận việc bổ nhiệm các ủy viên ủy ban
nếu xét thấy ứng viên không có đủ tiêu chuẩn theo quy định của tỉnh
trưởng. Các ủy viên chuyên trách của Ủy ban hành chính xã có thể bị
Chủ tịch Ủy ban hành chính xã bãi nhiệm sau khi thỏa thuận với Hội
đồng nhân dân xã và không cần có sự chuẩn y của tỉnh trưởng.
Về lý thuyết, các quy định trong Sắc lệnh số 198-ĐU-HC ngày 24-
12-1966 có thể biểu hiện một thiết chế đảm bảo tính tự quản của cơ
sở làng xã, đồng thời tuân thủ sự giám hộ của Chính phủ Trung ương
trong mọi hoạt động ở địa phương bằng đại diện của Ủy ban hành chính
CHƯƠNG III: HỆ THỐNG QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH... 225

xã. Tuy nhiên, trong thực tế việc bầu cử Hội đồng nhân dân xã và thiết
lập các Ủy ban hành chính xã không phải lúc nào cũng thuận lợi bởi
lòng dân không ủng hộ chế độ Sài Gòn. Phần nữa, dân chúng cũng
không thiết tha ứng cử vào bộ máy hành chính vì không mang lại quyền
lợi tinh thần như uy tín, sự kính trọng của nhân dân. Về quyền lợi vật
chất, lương bổng không được bao nhiêu mà luôn luôn bị đe dọa bởi
thời cuộc cách mạng và sự day dứt lương tâm vì làm tay sai cho kẻ thù.
Chính vì thế rất nhiều xã không thực hiện bầu cử được vì chính quyền
Sài Gòn không kiểm soát trên thực tế. Trường hợp đó, chỉ có các Ủy ban
hành chính lâm thời được thành lập một cách danh nghĩa hình thức
theo quyết định của tỉnh trưởng.
Về hình thức, chính quyền Trung ương can thiệp xuống đến tận
hành chính cơ sở. Xã không còn có địa vị tự trị mặc dù xã có tư cách
pháp nhân, có ngân sách độc lập. Quản lý hành chính cấp Trung ương
còn can thiệp sâu xuống cơ sở bằng hai hình thức:
- Hình thức thứ nhất là lập các “khu trù mật”.
- Hình thức thứ hai là lập các “ấp chiến lược”.
Thực chất, hai hình thức này là đặt thêm một cấp hành chính dưới
cấp xã, lần đầu tiên được thực hiện nhằm tăng cường kiểm soát an ninh,
trật tự một cách nghiêm ngặt và chặt chẽ. Chính quyền Sài Gòn coi ấp
là cấp hành chính cơ sở thấp nhất của nền hành chính. Ấp được đặt
dưới quyền quản lý, điều hành của trưởng ấp và phó trưởng ấp do dân
bầu theo chế độ phổ thông đầu phiếu, trực tiếp và kín. Dưới trưởng ấp
và phó trưởng ấp còn các nhân viên phụ tá giúp việc an ninh và tuyên
vận. Những nhân viên giúp việc cho trưởng ấp và phó trưởng ấp do Chủ
tịch Ủy ban hành chính xã bổ nhiệm theo điều kiện các tiêu chuẩn quy
định của tỉnh trưởng, chiểu theo đề nghị của trưởng ấp và được sự thoả
thuận của Hội đồng nhân dân xã. Việc tăng cường giám hộ hành chính
xuống tận ấp và coi ấp là một cấp hành chính gần dân nhất của chế độ
Sài Gòn cơ bản có hai ý nghĩa:
226 VÙNG ĐẤT NAM BỘ VIII THIẾT CHẾ QUẢN LÝ XÃ HỘI

Thứ nhất, chính quyền Sài Gòn muốn can thiệp sâu để kiểm soát
chặt chẽ các hoạt động của quần chúng trong khi phong trào yêu nước
cách mạng ngày càng phát triển và dâng cao.
Thứ hai, việc đặt ấp là một đơn vị hành chính trong hệ thống nền
hành chính còn nằm trong âm mưu khống chế và chia cắt nhân dân
ở các ấp với lực lượng phong trào cách mạng đang dâng cao khắp
miền Nam.
Riêng đối với đô thành Sài Gòn1, dưới thời Ngô Đình Diệm nền
hành chính đô thành Sài Gòn (cũng như các tỉnh) là một thể thống nhất
đều nằm trong hệ thống Bộ Nội vụ:
- Hội đồng đô thành Sài Gòn không là cơ quan quyền lực, chỉ là cơ
quan dân cử.
- Toà đô chánh Sài Gòn là cơ quan hành chính.
- Cấp quận, có Toà hành chính quận, không có cơ quan dân cử (Hội
đồng nhân dân), có tư cách pháp nhân không đầy đủ, không có ngân sách.
- Cấp phường, có Văn phòng phường không có Hội đồng nhân dân,
không có ngân sách.
- Cảnh sát quốc gia dưới thời Ngô Đình Diệm đặt thuộc quyền
của đô trưởng. Giám đốc cảnh sát đô thành trực thuộc đô trưởng. Về
phương diện chuyên môn có thể liên hệ trực tiếp với tổng giám đốc
cảnh sát và công an chính quyền Sài Gòn.
Đến năm 1959, theo Sắc lệnh số 74-TTP, ngày 23-3-1959, đô thành
Sài Gòn - Chợ Lớn được gọi là đô thành Sài Gòn. Đô thành Sài Gòn là
một đơn vị hành chính có tư cách pháp nhân, có ngân sách và công sản,
đặt dưới quyền quản trị của một đô trưởng2. Bên cạnh đô trưởng, có hai

1. Xem Võ Thành Vị: “Mô hình và cơ chế vận hành của hệ thống chính quyền Sài Gòn
từ 1995 đến nay”, trong Phan Xuân Biên: Một số vấn đề về xây dựng chính quyền đô thị từ
thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh, Nxb. Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh, 2007, tr.423.
2. Đô trưởng được bổ nhiệm theo Sắc lệnh của tổng thống và trực thuộc tổng
thống. Đô trưởng đại diện chính quyền Trung ương tại địa hạt đô thành, và điều khiển
tất cả công sở của đô thành. Đô trưởng có hai phó đô trưởng phụ tá. Chức vụ tổng thư
ký không còn nữa.
CHƯƠNG III: HỆ THỐNG QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH... 227

phó đô trưởng; chánh văn phòng, giám đốc cảnh sát đô thành và một
Hội đồng đô thành.
Theo đó, một phó đô trưởng có nhiệm vụ đôn đốc và kiểm soát hoạt
động của các quận và cơ quan cảnh sát đô thành, theo dõi tình hình
an ninh và kiểm soát các tổ chức chính trị, tôn giáo, hiệp hội, nghiệp
đoàn... trong đô thành; phó đô trưởng còn lại phụ trách phối hợp, hoạt
động của tất cả các cơ quan hành chính và chuyên môn khác trực thuộc
Toà đô chánh. Các phó đô trưởng là đại diện của đô trưởng, thừa hành
nhiệm vụ dưới quyền chỉ huy theo chỉ thị của đô trưởng.
Chánh văn phòng được đặt trực thuộc đô trưởng, phụ trách phân
phối công việc, mật vụ, các vấn đề do đô trưởng dành riêng. Giám đốc
cảnh sát đô thành do Nghị định của Tổng thống bổ nhiệm. Giám đốc
cảnh sát đô thành trực thuộc đô trưởng, nhưng về phương diện chuyên
môn có thể liên hệ trực tiếp với Tổng Giám đốc cảnh sát và Công an
chính quyền Sài Gòn. Cảnh sát đô thành là một bộ phận của Cảnh
sát công an tách ra để thuộc quyền điều hành của đô trưởng, đặt dưới
quyền điều hành của đô trưởng về mặt hành chính, dưới quyền kỷ luật
của Tổng giám đốc cảnh sát công an quốc gia, ngân sách đô thành đài
thọ mọi chi phí và cung cấp phương tiện hoạt động.
Hội đồng đô thành gồm có một số hội viên bầu cử theo lối phổ thông
đầu phiếu trực tiếp. Mỗi quận bầu ba hội viên. Nhiệm kỳ của hội viên là
ba năm, có thể được tái cử mãi. Hội viên Hội đồng đô thành không hưởng
lương tháng. Riêng Chủ tịch Hội đồng được lãnh phụ cấp giao tế phí.
Hội đồng đô thành chỉ là một cơ quan có “tính chất tư vấn”. Hội
đồng đô thành được hỏi ý kiến về một số vấn đề. Quyền hạn của Hội
đồng bị thu hẹp rất nhiều; đồng thời nới rộng phạm vi và quyền hạn của
cơ quan hành pháp, đứng đầu là đô trưởng, đại diện cho Trung ương do
tổng thống bổ nhiệm.
228 VÙNG ĐẤT NAM BỘ VIII THIẾT CHẾ QUẢN LÝ XÃ HỘI

Sơ đồ 5: TỔ CHỨC ĐÔ THÀNH SÀI GÒN NĂM 1959


(Theo Sắc lệnh số 74-TTP ngày 23-3-1959)
CHƯƠNG III: HỆ THỐNG QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH... 229

Trong những năm 1963-1975, bộ máy chính quyền đô thành Sài


Gòn bao gồm một số cơ quan sau:
Thứ nhất, Hội đồng nhân dân đô thành được thiết lập để cộng tác
với đô trưởng trong việc quản lý đô thành Sài Gòn (theo Sắc lệnh số
203a/NV, ngày 31-5-1964). Hội đồng đô thành có 30 hội viên, do dân
bầu theo thể thức đầu phiếu phổ thông, trực tiếp và kín, nhiệm kỳ Hội
đồng đô thành là ba năm.
Thứ hai, Tòa đô chánh Sài Gòn được thành lập theo Sắc lệnh số
284-TTP, ngày 5-10-1964, gồm có: đô trưởng, một tổng thư ký1 và hai
phó đô trưởng. Bãi bỏ chức vụ chánh văn phòng. Đến năm 1966, đặt
lại Văn phòng Đô trưởng và Tòa đô chánh có 16 sở, 54 phòng2. Cơ cấu
tổ chức Tòa đô chánh Sài Gòn như sau: đô trưởng; tổng thư ký; hai
phó đô trưởng; Văn phòng đô trưởng (gồm chánh văn phòng, một Bí
thư và ba phòng); 16 sở (Sở Kế hoạch: 2 phòng; Sở Hành chánh, Nhân
viên, Hộ tịch và Bầu cử: 3 phòng; Sở Tài chánh: 6 phòng; Sở Mãi dịch:
2 phòng; Sở Công chánh: 5 phòng; Sở Thiết kế: 3 phòng; Sở Vật liệu: 2
phòng; Sở Vệ sinh: 2 phòng; Sở Y tế: 7 phòng; Sở Thú y và Mục súc: 3
phòng; Sở Kinh tế: 2 phòng; Sở Tiếp tế: 3 phòng; Sở Tiểu học: 3 phòng;
Sở Nội an: 3 phòng; Sở Tình báo: 2 phòng; Sở Cứu hỏa: 2 phòng. Mỗi
sở được đặt dưới quyền điều hành của một chánh sự vụ, mỗi phòng có
một chủ sự phòng.

1. Tổng thư ký có thể được ủy quyền thường trực để giải quyết một số vụ nhất
định. Nếu đô trưởng vắng mặt hay bị cản trở vì một lý do nào đó, tổng thư ký có thể
được ủy thác để xử lý thường vụ cho đô thành.
2. Sắc lệnh số 52-SL/NV; ngày 18-3-1966 bổ túc và sửa đổi Sắc lệnh số 284-
TTP, ngày 5-10-1964.
230 VÙNG ĐẤT NAM BỘ VIII THIẾT CHẾ QUẢN LÝ XÃ HỘI

Năm 1969, đô trưởng có một tổng thư ký Tòa đô chánh, bãi bỏ

chức vụ phó đô trưởng, lập thêm các chức vụ phụ tá phụ trách các

khối: khối chuyên môn, khối kinh tế - tài chánh, khối hành chánh và

Ban Thanh tra1. Lúc này, tổ chức Tòa đô chánh Sài Gòn gồm có: đô

trưởng; chánh văn phòng và bí thư; tổng thư ký Tòa đô chánh; phụ tá

chuyên môn; phụ tá kinh tế - tài chính; phụ tá hành chánh; Ban Thanh

tra. Trong đó:

Tổng thư ký Tòa đô chánh trực tiếp điều hành 2 sở: Sở Kế hoạch,

Trung tâm huấn luyện và tu nghiệp; phụ tá đô trưởng trong việc điều

khiển các sở trực thuộc Tòa đô chánh.

Phụ tá chuyên môn điều hành các sở: Sở Công chánh (4 phòng), Sở

Thiết kế (4 phòng), Sở Vệ sinh (4 phòng), Sở Y tế (6 phòng và 11 khu

y tế của 11 quận), Sở Mục súc (2 phòng), Sở Cứu hỏa (3 phòng), Công

xưởng đô thành; Phòng Trồng tỉa.

Phụ tá kinh tế - tài chánh điều hành các sở: Sở Kinh tế (3 phòng);

Sở Ngân sách và Kế toán (6 phòng); Sở Thuế thổ trạch và Tạp thâu

(7 phòng);

Phụ tá hành chánh điều hành các sở: Sở Nội an (3 phòng); Sở Hành

chánh (3 phòng); Sở Tiểu học (2 phòng).

Ban Thanh tra: do thanh tra trưởng phụ trách, trực thuộc

đô trưởng.

1. Theo Sắc lệnh số 199-SL/NV, ngày 22-12-1969.


CHƯƠNG III: HỆ THỐNG QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH... 231

Sơ đồ 6: TỔ CHỨC TÒA ĐÔ CHÁNH SÀI GÒN NĂM 19691


(Sắc lệnh số 199-SL/NV, ngày 22-12-1969)

1. Xem Võ Thị Vị: “Mô hình và cơ chế vận hành của hệ thống chính quyền ở
Sài Gòn từ năm 1955 đến nay”, trong Phan Xuân Biên (Chủ biên): Một số vấn đề
về xây dựng chính quyền đô thị từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh, Sđd, tr.434.
232 VÙNG ĐẤT NAM BỘ VIII THIẾT CHẾ QUẢN LÝ XÃ HỘI

Năm 1973, theo Sắc lệnh số 006 - A/SL/TH.T/PC ngày 9-1-1973


lập lại chức vụ phó đô trưởng. Đô trưởng có một phó đô trưởng và một
tổng thư ký Toà đô chánh phụ tá. Trường hợp đô trưởng vắng mặt hay
bị cản trở vì một lý do nào đó, phó đô trưởng được ủy thác xử lý thường
vụ đô thành, theo Nghị định của Thủ tướng Chính phủ.

Sơ đồ 7: TỔ CHỨC TÒA HÀNH CHÁNH ĐÔ THÀNH SÀI GÒN


(Theo Sắc lệnh số 199-SL ngày 22-12-1969 và
Sắc lệnh số 006-A/SL-TH.T/PC, ngày 9-1-1973)
CHƯƠNG III: HỆ THỐNG QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH... 233

Thứ ba, các Toà hành chánh quận tại đô thành Sài Gòn gồm có: quận
trưởng; phó quận trưởng; Phòng Hành chính và Quân vụ; Phòng Kinh
tế - Tài chính. Quận trưởng được bổ nhiệm bằng Nghị định của Bộ
Nội vụ, theo đề nghị của đô trưởng. Thủ tướng chính phủ cho phép đô
trưởng ủy quyền cho quận trưởng những nhiệm vụ và quyền hạn theo
từng thời kỳ vì các quận đô thành Sài Gòn có tư cách pháp nhân không
đầy đủ. phó quận trưởng được bổ nhiệm bằng Nghị định của Bộ Nội vụ,
theo đề nghị của Đô trưởng. Theo Nghị định số 675-BNV/HCĐP/NĐ
ngày 14-10-1972 Toà hành chánh quận có 2 phòng: Phòng Hành chánh
và Quân vụ với 3 ban; Phòng Kinh tế - Tài chánh với 3 ban. Mỗi phòng
có 1 chủ sự phòng điều hành; do đô trưởng bổ nhiệm bằng Nghị định và
được Tổng trưởng Nội vụ duyệt y. Mỗi ban do 1 Trưởng ban phụ trách,
do đô trưởng bổ nhiệm bằng quyết định theo đề nghị của quận trưởng.

Sơ đồ 8: Tổ chức tòa hành chánh Quận Đô Thành Sài Gòn

Thứ tư, tổ chức hành chính phường, mỗi phường có Văn phòng
phường, đặt dưới quyền quản trị của một phường trưởng, có một phụ tá
234 VÙNG ĐẤT NAM BỘ VIII THIẾT CHẾ QUẢN LÝ XÃ HỘI

phường trưởng trợ giúp và lâm thời thay thế phường trưởng trong lúc vị
này vắng mặt. Phụ tá Phường trưởng có thể được giao đặc trách một số
vấn đề. Phường trưởng và phụ tá phường trưởng do đô trưởng bổ nhiệm
bằng quyết định, chiếu đề nghị của quận trưởng. Phường trưởng là đại
diện chính quyền tại địa phương. Văn phòng phường có từ hai đến ba thư
ký tuỳ theo phường dưới hay trên 25.000 dân và 1 tùy phái thư ký và tùy
phái là nhân viên hành chánh được quận trưởng bổ nhiệm.

Sơ đồ 9: Tổ chức văn phòng phường

PHƯỜNG TRƯỞNG

PHỤ TÁ PHƯỜNG TRƯỞNG

CÁC THƯ KÝ HÀNH CHÁNH VÀ TÙY PHÁI

3. Tổ chức chiến trường và bộ máy chính quyền cách mạng ở Nam


Bộ (1954-1975)
a) Tổ chức chiến trường
Dựa trên cơ sở tổ chức đơn vị hành chính tỉnh, huyện, xã có sẵn
và kế thừa kinh nghiệm từ cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, tại
Nam Bộ, chính quyền cách mạng dưới sự lãnh đạo của Trung ương Cục
miền Nam đã từng bước điều chỉnh, củng cố lại tổ chức chiến trường để
phù hợp với nhiệm vụ của từng giai đoạn cách mạng cụ thể.
CHƯƠNG III: HỆ THỐNG QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH... 235

Năm 1961, trên cơ sở tái thành lập lực lượng vũ trang và hệ thống
chỉ huy quân sự các cấp, Nam Bộ được tổ chức thành 4 quân khu, hình
thức tổ chức quân sự theo lãnh thổ (mật danh quân sự là T), trực thuộc
quân khu là tỉnh đội, huyện đội và xã đội. Theo đó:
- T1 (Quân khu 7 - miền Đông Nam Bộ) gồm 8 tỉnh: Bà Rịa (gồm cả
thị xã Vũng Tàu), Biên Hòa, Long Khánh, Tây Ninh, Bình Dương, Bình
Long, Phước Long và Phước Thành (gồm huyện Tân Uyên của tỉnh
Biên Hòa và huyện Phước Vĩnh của tỉnh Bình Dương).
- T2 (Quân khu 8 - miền Trung Nam Bộ) gồm 8 tỉnh: Long An, Mỹ
Tho, Gò Công, Long Xuyên, Châu Đốc, Sa Đéc, Bến Tre và Kiến Phong
(gồm Cao Lãnh của tỉnh Sa Đéc và Mộc Hòa của tỉnh Tân An).
- T3 (Quân khu 9 - miền Tây Nam Bộ) gồm 7 tỉnh: Vĩnh Long, Trà
Vinh, Cần Thơ, Sóc Trăng (gồm cả Côn Đảo), Rạch Giá, Cà Mau, Hà
Tiên. Tỉnh Bạc Liêu chia đôi, một nửa nhập về tỉnh Sóc Trăng, một nửa
nhập về tỉnh Cà Mau.
- T4 (Quân khu Sài Gòn - Gia Định) gồm thành phố Sài Gòn - Chợ
Lớn và các huyện ngoại thành: Bình Tân, Tân Bình, Bình Chánh, Nhà
Bè, Thủ Đức, Dĩ An, Gò Vấp, Hóc Môn và Củ Chi.
Năm 1962, thành lập Quân khu 10 (T10) gồm các tỉnh Bình Long,
Phước Long (thuộc Quân khu 7) và các tỉnh Quảng Đức, Lâm Đồng
(thuộc Quân khu 6). Năm 1963, lại giải thể Quân khu 10 (tỉnh BìnhLong
trở về Quân khu 7, các tỉnh còn lại trở về Quân khu 6); đồng thời nhập
hai tỉnh Bà Rịa, Long Khánh thành tỉnh Bà Rịa - Long Khánh. Năm
1966, tỉnh Bà Rịa - Long Khánh sáp nhập với tỉnh Biên Hòa thành Long -
Bà - Biên; tỉnh Phước Thành giải thể; Quân khu 10 tái thành lập gồm
các tỉnh Bình Long, Phước Long và Quảng Đức.
Năm 1967, để chuẩn bị cho cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết
Mậu Thân 1968, chiến trường Nam Bộ có sự biến động lớn về tổ chức.
Các quân khu miền Đông Nam Bộ (Quân khu 7), Sài Gòn - Gia Định
được giải thể, tỉnh Long An thuộc Quân khu 8 cũng được tổ chức lại,
chiến trường Nam Bộ thành lập khu trọng điểm gồm các phân khu:
236 VÙNG ĐẤT NAM BỘ VIII THIẾT CHẾ QUẢN LÝ XÃ HỘI

- Phân khu 1 gồm các huyện: Củ Chi, Hóc Môn, Gò Vấp (Gia
Định), Bến Cát, Dầu Tiếng, (Bình Dương), Trảng Bàng (Tây Ninh).
- Phần khu 2 gồm các huyện Đức Hòa, Đức Huệ, Bến Lức (Long
An), Tân Bình, bắc Bình Chánh và các quận nội thành 3, 5, 6 (Sài Gòn).
- Phân khu 3 gồm các huyện: Châu Thành, Tân Trụ, Cần Đước, Cần
Giuộc (Long An), Nhà Bè, nam Bình Chánh và các quận nội thành 2, 4,
7, 8 (Sài Gòn).
- Phân khu 4 gồm các tỉnh Long Khánh, Biên Hòa và các huyện:
Thủ Đức, Nhơn Trạch, Thạnh Mỹ Tây (Gia Định).
- Phân khu 5 gồm các huyện: Phú Giáo, Lái Thiêu, Dĩ An (Bình
Dương), Tân Uyên (Biên Hòa) và Phú Nhuận, Bình Hòa (Sài Gòn).
- Phân khu 6 gồm vùng nội đô trung tâm thành phố Sài Gòn.
Đến tháng 3-1968, Quân khu 7 được thành lập lại, bao gồm địa bàn
Phân khu 4 và tỉnh Bà Rịa. Tháng 5-1970, Phân khu 2 và Phân khu 3 sáp
nhập lại thành Phân khu Long An. Năm 1971, lại giải thể Quân khu 10
một lần nữa để thành lập Phân khu Bình Phước gồm 2 tỉnh Bình Phước
và Phước Long (tỉnh Quảng Đức chia nhập về tỉnh Đắk Lắk và Lâm
Đồng); Quân khu 7 giải thể, thành lập Phân khu Bà Rịa gồm tỉnh Bà Rịa
và Phân khu 4 cũ.
Từ mùa xuân năm 1972, các tổ chức phân khu bị giải thể, Quân khu
7 lại được khôi phục lại, gồm các tỉnh: Bà Rịa, Long Khánh, Biên Hòa,
Bình Dương, Bình Phước, Tây Ninh; Quân khu Sài Gòn - Gia Định
cũng được tái lập gồm khu vực nội thành Sài Gòn - Chợ Lớn và các
quận huyện vùng ven: Củ Chi, Hóc Môn, Bình Chánh, Tân Bình, Gò
Vấp, Thủ Đức, Nhà Bè. Các tỉnh Long An, Kiến Tường sáp nhập trở
lại Quân khu 8. Tại miền Tây Nam Bộ, thị xã Cần Thơ tách riêng thành
thành phố trực thuộc Quân khu 9.
Sau ngày Hiệp định Paris được ký kết, cách mạng miền Nam bước
sang giai đoạn mới, tổ chức chiến trường Nam Bộ lại có một số thay đổi.
Tại miền Đông Nam Bộ, các huyện Tân Uyên, Phú Giáo, Độc Lập (Biên
Hòa) tách ra thành lập tỉnh Tân Phú. Các tỉnh Bình Phước, Tây Ninh
CHƯƠNG III: HỆ THỐNG QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH... 237

tách khỏi Quân khu 7, chịu sự chỉ đạo trực tiếp của Bộ chỉ huy Miền.
Quân khu Sài Gòn - Gia Định đổi tên thành Thành đội Sài Gòn - Gia
Định. Tại miền Trung Nam Bộ, các tỉnh An Giang, Kiến Phong được
điều chỉnh lại, đổi tên là tỉnh Sa Đéc, tỉnh Long Châu Tiền. Tại miền
Tây Nam Bộ, tỉnh Bạc Liêu được khôi phục lại, tỉnh Châu Hà sáp nhập
thêm vùng nam sông Hậu của Long Xuyên và đổi tên thành lập tỉnh
Long Châu Hà. Các tổ chức trên tồn tại cho đến ngày Nam Bộ hoàn
toàn giải phóng1.

b) Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam ra đời thực
hiện chức năng của chính quyền cách mạng ở Nam Bộ
Sau Hiệp định Genève năm 1954, chính quyền Sài Gòn do Mỹ dựng
lên là một công cụ Mỹ thực hiện âm mưu chia cắt lâu dài đất nước Việt
Nam, phá hoại Hiệp định Genève về tổng tuyển cử thống nhất đất nước,
thực hiện chính sách vô cùng hà khắc và không thực sự đại diện cho
nhân dân miền Nam.
Cuộc Đồng khởi năm 1959-1960 là hành động cách mạng của nhân
dân miền Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng, chống lại âm mưu chia cắt
lâu dài nước ta của Mỹ và chính quyền Ngô Đình Diệm. Trong phong
trào Đồng khởi ở khắp miền Nam, nhân dân nhiều địa phương đã phá
bỏ hệ thống kìm kẹp của địch, giành chính quyền về tay nhân dân, lập ra
các Ủy ban nhân dân tự quản. Các Ủy ban này đã góp phần ổn định đời
sống nhân dân, tổ chức và xây dựng các lực lượng vũ trang cách mạng
để bảo vệ của cải và tính mạng của nhân dân, bảo vệ làng xóm.
Ủy ban nhân dân tự quản là hình thức đầu tiên của chính quyền
dân chủ nhân dân được tổ chức ở các địa phương miền Nam nói chung
và Nam Bộ nói riêng do các tổ chức Đảng lãnh đạo trong cuộc kháng

1. Xem Hồ Sơn Đài: “Mấy đặc điểm về tổ chức chiến trường ở Nam Bộ trong
cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước”, trong Sài Gòn - Thành phố Hồ Chí Minh
tiếp bước con đường Cách mạng Tháng Tám (1945-2005), Sđd, tr.394-396.
238 VÙNG ĐẤT NAM BỘ VIII THIẾT CHẾ QUẢN LÝ XÃ HỘI

chiến chống Mỹ, cứu nước. Việc thành lập các Ủy ban nhân dân tự quản
là thành quả của cao trào khởi nghĩa từng phần của nhân dân ta và là
một tổ chức độc đáo, một sự sáng tạo trong cuộc cách mạng dân tộc,
dân chủ nhân dân ở nước ta. Với bản chất cách mạng và luôn gắn bó với
quyền lợi của dân tộc, của nhân dân, các Ủy ban nhân dân tự quản đã
tập hợp được những lực lượng yêu nước của các địa phương, giáo dục ý
thức cách mạng. Củng cố các Ủy ban nhân dân tự quản thực sự là bước
tập dượt để khi có điều kiện chín muồi, cán bộ và quần chúng xây dựng
và củng cố chính quyền cách mạng của mình. Việc thành lập các Ủy ban
nhân dân tự quản cũng là sự kế thừa các kinh nghiệm của việc thành
lập các Ủy ban dân tộc giải phóng cấp cơ sở trong thời kỳ Cách mạng
Tháng Tám năm 1945.
Từ cuối năm 1959, các Ủy ban nhân dân tự quản được thành lập ở
khắp các địa phương miền Nam. Theo số liệu thống kê, đến cuối năm
1960, gần một nửa chính quyền cơ sở của chế độ Sài Gòn bị tan rã.
Riêng Nam Bộ có trên 60% thôn ấp được giải phóng1. Nhân dân đã bầu
ra các Ủy ban nhân dân tự quản để thay thế chính quyền địch đã bị giải
tán. Trong số 2.627 xã ở miền Nam, đã có 1.373 xã thành lập các Ủy ban
nhân dân tự quản.
Trên cơ sở thắng lợi của phong trào Đồng khởi và sự ra đời của các
Ủy ban nhân dân tự quản trên khắp miền Nam, ngày 20-12-1960, tại xã
Tân Lập, huyện Châu Thành thuộc vùng giải phóng Tây Ninh, đại biểu
các giai cấp, các dân tộc, các tôn giáo và các đảng phái đã họp Đại hội
thành lập Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam. Mặt trận
đề ra Tuyên ngôn và Chương trình hành động 10 điểm2.

1. Xem Ban chỉ đạo biên soạn Lịch sử Chính phủ Việt Nam: Lịch sử Chính phủ
Việt Nam, Sđd, t.2, tr.410.
2. Xem Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam, Nxb. Sự thật, Hà
Nội, 1961, tr.9-12.
CHƯƠNG III: HỆ THỐNG QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH... 239

Mặt trận kêu gọi: “Tất cả hãy đứng lên, tất cả hãy đoàn kết lại! Hãy
siết chặt hàng ngũ để chiến đấu dưới ngọn cờ của Mặt trận Dân tộc giải
phóng đánh đổ ách thống trị của đế quốc Mỹ và Ngô Đình Diệm”1.
Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam được thành lập
và giữ vai trò quan trọng trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước
là sự vận dụng sáng tạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong quá trình
lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Từ kinh nghiệm của việc thành lập Mặt
trận Việt Minh thời kỳ vận động Cách mạng Tháng Tám năm 1945, Mặt
trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam vừa thực hiện chức năng
của một mặt trận dân tộc thống nhất là đoàn kết mọi tầng lớp yêu nước,
dân chủ ở miền Nam, vừa thực hiện chức năng của một chính quyền
cách mạng cho đến khi Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng Hòa miền
Nam Việt Nam ra đời năm 1969.
Về cơ cấu tổ chức, Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt
Nam có một hệ thống khá hoàn chỉnh, thực hiện có hiệu quả ý chí và
nguyện vọng của nhân dân miền Nam Việt Nam, thực hiện có hiệu quả
cả chức năng đối nội và đối ngoại.
Trung ương Cục miền Nam xác định rõ trách nhiệm của Ủy ban Mặt
trận Dân tộc giải phóng ở các địa phương như sau: “Ủy ban chấp hành
mặt trận xã, quận làm nhiệm vụ của Hội đồng nhân dân xã, quận. Ban
Thường vụ của Ủy ban Mặt trận có thể phân chia ra các bộ phận, một
số ủy viên chuyên lo công tác chính quyền và một số ủy viên chuyên lo
công tác mặt trận. Trong vùng tranh chấp, vừa đấu tranh chính trị vừa
đấu tranh vũ trang và vùng căn cứ, thì ở xã cũng có thể do Ủy ban Mặt
trận lo liệu nhiệm vụ chính quyền. Trên đây là những hình thức chính
quyền quá độ, khi thế làm chủ của ta được mở rộng và củng cố, sẽ thành
lập các cơ quan chính quyền chính thức”2.

1. Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam, Sđd, tr.12.
2. Nghị quyết Hội nghị mở rộng Đảng bộ miền Nam (tháng 10-1961), tài liệu
lưu tại Viện Nghiên cứu lịch sử Đảng, ký hiệu: D1TN61.
240 VÙNG ĐẤT NAM BỘ VIII THIẾT CHẾ QUẢN LÝ XÃ HỘI

Trước cuộc Tổng tiến công Tết Mậu Thân 1968, ngày 15-1-1968,
Trung ương Cục miền Nam và Trung ương Mặt trận Dân tộc giải phóng
miền Nam Việt Nam gửi cho các địa phương khắp toàn miền Chỉ thị
về Tích cực, khẩn trương củng cố, xây dựng, phát triển chính quyền cách
mạng, phát huy quyền làm chủ của nhân dân ở xã, ấp. Đây là lần đầu tiên
ở miền Nam, Trung ương Cục và Mặt trận có một văn bản khá đầy đủ
và toàn diện về việc xây dựng một cách dân chủ chính quyền cách mạng
ở cơ sở nhằm tạo nền móng vững chắc cho việc xây dựng chính quyền
liên hiệp bên trên. Theo Chỉ thị này, các địa phương cần khẩn trương
xây dựng chính quyền xã, ấp ở những vùng được giải phóng (kể cả vùng
nông thôn và một số khu phố, thị trấn). Việc xây dựng chính quyền
được thực hiện thông qua bầu cử dân chủ: bầu cử Hội đồng nhân dân
và Ủy ban nhân dân giải phóng xã. Về ấp, tuy không phải là một đơn vị
tổ chức chính quyền cơ sở, nhưng do tính chất khách quan trong tình
hình chiến tranh phức tạp, mọi công việc đều phải được đảm bảo thực
hiện liên kết tận quần chúng nhân dân xóm ấp, nên cần tổ chức bộ máy
thực hiện lấy tên là Ban giải phóng ấp.
Gần một tháng sau, ngày 29-2-1968, Trung ương Cục và Trung ương
Mặt trận lại có điểm bổ sung: phải xây dựng chính quyền cách mạng các
huyện, quận và tỉnh. Về chính quyền cấp tỉnh, nơi nào có thành phố lớn,
thị xã lớn, có đông tôn giáo, dân tộc, trí thức, tư sản - những người tốt,
có tinh thần chiến đấu, có ảnh hưởng và uy tín trong cách mạng thì mời
các vị ấy tham gia chính quyền. Cấp khu chưa thành lập chính quyền,
nhưng do có hệ thống từ xã đến tỉnh nên lãnh đạo mặt trận ở các nơi ấy
cần cử người theo dõi vấn đề này để giúp lãnh đạo kịp thời1.
Thực hiện các chỉ thị nói trên, nhất là Chỉ thị ngày 15-1-1968, chỉ
sau hơn sáu tháng, trên toàn miền Nam đã xây dựng được chính quyền

1. Xem Ung Ngọc Ky: “Từ “Làng Rừng” đến Chính phủ Cách mạng lâm thời”,
trong Chung một bóng cờ, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1993, tr.487-507.
CHƯƠNG III: HỆ THỐNG QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH... 241

cách mạng ở 516 xã trên tổng số 1.800 xã, trong đó Nam Bộ và T6 (Nam
Trung bộ) được 300 xã trên 1.200 xã. Xây dựng chính quyền huyện: 21
huyện trên 170 huyện, trong đó Nam Bộ và T6: 7 huyện trên 121 huyện.
Xây dựng chính quyền cách mạng tỉnh: 3 tỉnh trên 44 tỉnh, riêng Nam
Bộ có 2 tỉnh là Cà Mau và Mỹ Tho1.
Cơ quan thường trực của Mặt trận là Ủy ban Trung ương Mặt trận
Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam, do Đại hội Mặt trận bầu ra.
Ủy ban Trung ương Mặt trận có trách nhiệm động viên, tổ chức và kiểm
tra việc thực hiện các chủ trương, chính sách đã được Đại hội Mặt trận
thông qua. Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Dân tộc giải
phóng miền Nam Việt Nam do Đại hội Mặt trận bầu ra, thay mặt Ủy
ban Trung ương Mặt trận giải quyết những công việc khi không có điều
kiện họp toàn Ủy ban Trung ương Mặt trận. Đoàn Chủ tịch gồm Chủ
tịch, các Phó Chủ tịch và các ủy viên. Ban Thư ký bao gồm một tổng thư
ký, các phó tổng thư ký và các ủy viên.
Ngoài ra còn có các ban và hội thường trực thuộc Ủy ban Trung
ương Mặt trận Dân tộc giải phóng như Ban Quân sự, Ban Kinh tế - Tài
chính, Ban Thông tin - Văn hóa - Giáo dục, Ban Giao thông, Ban Quản
lý vùng giải phóng, Ban Liên lạc đối ngoại và các hội đồng: Y tế, Khen
thưởng, Thương binh và tử sĩ. Các ban và hội đồng đều có nhiệm vụ
tham mưu, giúp việc cho Ủy ban Trung ương và là cơ quan chấp hành
các quyết định của Ủy ban Trung ương về lĩnh vực mà mình phụ trách.
Thực tế nêu trên cho thấy, trong điều kiện cụ thể của cách mạng
miền Nam, Ủy ban Trung ương Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam
Việt Nam đã thực hiện chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn như một
chính phủ cách mạng trong chiến tranh. Hệ thống tổ chức của Ủy ban
Trung ương Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam như sau:

1. Ung Ngọc Ky: Từ “Làng Rừng” đến Chính phủ Cách mạng lâm thời, trong
Chung một bóng cờ, Sđd, tr.487-507.
242 VÙNG ĐẤT NAM BỘ VIII THIẾT CHẾ QUẢN LÝ XÃ HỘI

1. Đoàn Chủ tịch:


- Chủ tịch: Nguyễn Hữu Thọ
- Phó Chủ tịch gồm: Huỳnh Tấn Phát (Tổng Thư ký Đảng Dân chủ
miền Nam Việt Nam, Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Dân tộc giải phóng khu
Sài Gòn - Gia Định); Phùng Văn Cung; Võ Chí Công (đại diện Đảng
Nhân dân cách mạng Việt Nam); Y Bih Alêô (dân tộc Êđê, Chủ tịch Ủy
ban phong trào tự trị các dân tộc Tây Nguyên); Đại đức Thôm Mê Thê
Nhem (dân tộc Khmer); Trần Nam Trung (đại diện các lực lượng vũ
trang nhân dân giải phóng miền Nam Việt Nam).
- Ủy viên gồm: Phan Xuân Thái1 (Chủ tịch Liên hiệp Công đoàn giải
phóng miền Nam Việt Nam); Nguyễn Hữu Thế (Chủ tịch Hội Nông dân
Giải phóng miền Nam Việt Nam); Trần Bạch Đằng (Chủ tịch Hội Liên
hiệp Thanh niên Giải phóng miền Nam Việt Nam); Nguyễn Thị Định
(Hội trưởng Hội Liên hiệp Phụ nữ Giải phóng miền Nam Việt Nam);
Trần Bửu Kiếm (Chủ tịch Hội Liên hiệp Sinh viên Giải phóng miền
Nam Việt Nam); Hòa thượng Thích Thiện Hào (đại diện những người
Phật giáo yêu nước miền Nam Việt Nam); Ngọc đầu sư Nguyễn Văn
Ngợi (đại diện những người Cao Đài yêu nước miền Nam Việt Nam);
Đặng Trần Thi2 (Phó Chủ tịch Liên hiệp Công đoàn Giải phóng miền
Nam Việt Nam).
2. Ban Thư ký:
- Tổng Thư ký: Huỳnh Tấn Phát
- Phó Tổng Thư ký: Lê Văn Huấn (Chủ tịch Hội Nhà giáo yêu nước
miền Nam Việt Nam); Hồ Thu
- Ủy viên: Ung Ngọc Ky (Phó Tổng Thư ký Đảng Dân chủ miền
Nam Việt Nam); Hồ Xuân Sơn3 (nhà báo);

1. Tức Phan Văn Đáng.


2. Tức Bùi San.
3. Tức Hồ Văn Lộc.
CHƯƠNG III: HỆ THỐNG QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH... 243

3. Ủy viên: Joseph Mari Hồ Huệ Bá (đại diện những người Công


giáo kính Chúa yêu nước miền Nam Việt Nam); Nguyễn Thị Bình
(tự Yến Sa, Phó Hội trưởng Hội Liên hiệp Phụ nữ Giải phóng miền
Nam Việt Nam); Rơ Chôm Briu (dân tộc Giarai, Phó Chủ tịch Ủy
ban Phong trào tự trị các dân tộc Tây Nguyên); Lê Quang Chánh (đại
diện Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam tại Cộng Hòa
Inđônêxia); Mã Thị Chu; Huỳnh Cương (trí thức Khmer); Nguyễn
Thùy Dương (tức Dương Quỳnh Hoa); Nguyễn Văn Hiếu (Tổng Thư
ký Đảng Xã hội cấp tiến miền Nam Việt Nam); Lâm Kiết Khánh (tức
Trần Văn Được, đại diện Việt kiều yêu nước ở Campuchia); Võ Văn
Môn (nhân sĩ Bình Xuyên); Tôn Thất Dương Kỵ; Võ Oanh (nhà báo,
nhân sĩ); linh mục Chu Phát (tức linh mục Nguyễn Trinh Đoàn); Lê
Thị Riêng (Phó Hội trưởng Hội Liên hiệp Phụ nữ Giải phóng miền
Nam miền Nam); Sát (dân tộc Bana, Phó Chủ tịch Ủy ban Phong
trào tự trị các dân tộc Tây Nguyên); Hoàng Bích Sơn (đại diện Mặt
trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam tại Cuba); Như Sơn
(tức Michel Văn Vỹ, nhân sĩ Sài Gòn); Huỳnh Văn Tâm (đại diện Mặt
trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam tại Angiêri); Lê Văn
Thả; Nguyễn Thạch (tức Đinh Xáng, nhà kinh doanh công nghiệp Sài
Gòn); Trần Văn Thành (đại diện Mặt trận Dân tộc giải phóng miền
Nam Việt Nam tại Cộng Hòa nhân dân Trung Hoa); Lê Văn Thịnh
(tức Lê Toàn Thư, đại diện Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam
Việt Nam tại Cuba); Nguyễn Ngọc Thưởng (Phó Tổng thư ký Đảng
Xã hội cấp tiến miền Nam Việt Nam); Nguyễn Văn Tiến (Trưởng phái
đoàn Thường trực Ủy ban Trung ương Mặt trận Dân tộc giải phóng
miền Nam Việt Nam tại Hà Nội, sau là Trưởng phái đoàn đại diện đặc
biệt Cộng hòa miền Nam Việt Nam tại Việt Nam Dân chủ Cộng hoà);
Trần Hữu Trang (Chủ tịch Hội Văn nghệ Giải phóng miền Nam Việt
Nam); Lưu Hữu Phước; Vũ Tùng (Chủ tịch Hội Nhà báo yêu nước và
244 VÙNG ĐẤT NAM BỘ VIII THIẾT CHẾ QUẢN LÝ XÃ HỘI

dân chủ miền Nam Việt Nam); Nguyễn Văn Tứ (tức Nguyễn Hữu Ba);
hòa thượng Thích Hưng Từ (tự Hồng Liêm); Huỳnh Thiện Từ (đại
diện những người yêu nước trong Phật giáo Hòa Hảo).
Ở các địa phương, sau khi Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam
Việt Nam ra đời, hàng loạt các tổ chức của Mặt trận được thành lập
trên tất cả các vùng, địa phương của Nam Bộ. Ủy ban Mặt trận Dân tộc
giải phóng địa phương với chức năng như các đơn vị hành chính địa
phương của Ủy ban Trung ương Mặt trận Dân tộc giải phóng đã được
thành lập ở bốn cấp1:
- Cấp miền: Gồm có miền Đông Nam Bộ và miền Tây Nam Bộ.
- Cấp tỉnh: Tất cả các tỉnh và thành phố ở Nam Bộ đều được thành
lập Ủy ban Mặt trận Dân tộc giải phóng cấp tỉnh.
- Cấp quận, huyện, thị xã.
- Cấp xã, phường và thị trấn.
Các Ủy ban Mặt trận Dân tộc giải phóng ở các địa phương đều do
các đoàn thể quần chúng ở địa phương tiến hành hiệp thương bầu ra.
Từ năm 1960 đến năm 1967, Ủy ban Mặt trận Dân tộc giải phóng
địa phương các cấp đã thực hiện chức năng chính quyền cách mạng ở
địa phương mình. Đến năm 1968, ở các địa phương như Sài Gòn - Chợ
Lớn, Gia Định... đã thành lập Ủy ban nhân dân cách mạng, làm nhiệm
vụ của chính quyền cách mạng. Ở các địa phương chưa thành lập được
Ủy ban nhân dân cách mạng thì Ủy ban Mặt trận Dân tộc giải phóng
vẫn tiếp tục làm nhiệm vụ của chính quyền cách mạng.

c) Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam
Trên cơ sở những thất bại của quân viễn chinh Mỹ và quân các
nước phụ thuộc trong hai mùa khô 1965-1966 và 1966-1967, Hội
nghị lần thứ 14 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá III) họp

1. Xem Học viện Hành chính quốc gia: Giáo trình lịch sử hành chính Nhà
nước Việt Nam, Sđd, tr. 430.
CHƯƠNG III: HỆ THỐNG QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH... 245

vào tháng 1-1968 quyết định chuyển cuộc chiến tranh cách mạng của
nhân dân ta ở miền Nam sang một thời kỳ mới, thời kỳ giành thắng
lợi quyết định. Thực hiện Chủ trương trên, đêm ngày 29 rạng ngày
30 và đêm ngày 30 rạng ngày 31-1-1968, tức đêm giao thừa và đêm
mồng một Tết, cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân nổ ra
trên khắp các chiến trường với hướng chính là các đô thị, trung tâm
quân sự, chính trị của Mỹ và chính quyền Sài Gòn ở miền Nam...
Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968 đã tạo ra bước
ngoặt quyết định của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân
dân ta, làm phá sản chiến lược “Chiến tranh cục bộ” của Mỹ, khởi
đầu quá trình đi xuống trong chiến tranh xâm lược Việt Nam của đế
quốc Mỹ.
Trước những chuyển biến của tình hình trong nước cũng như quốc
tế, lúc này ở miền Nam nói chung và Nam Bộ nói riêng, vấn đề thành
lập một chính quyền cách mạng với hình thức là một chính phủ trở
thành yêu cầu cấp bách cả về đối nội và đối ngoại. Đặc biệt, cuộc đấu
tranh ngoại giao tại Hội nghị Paris đòi hỏi có một chính phủ cách mạng
đại diện cho nhân dân miền Nam nhằm nâng cao hơn nữa vị trí, địa
vị pháp lý của chính quyền cách mạng miền Nam tại hội nghị và trên
trường quốc tế. Trên thực tế, việc duy trì được một vùng giải phóng
rộng lớn, có hệ thống chính quyền cấp cơ sở tương đối đều khắp, có lực
lượng vũ trang mạnh, có lực lượng chính trị hùng hậu, thống nhất trong
Mặt trận dân tộc rộng rãi đã là điều kiện cần thiết cho việc thành lập
một chính quyền như vậy.
Trước các yêu cầu cấp thiết của giai đoạn cách mạng mới, Hội
nghị hiệp thương giữa Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt
Nam và Liên minh các lực lượng dân tộc, dân chủ và Hòa bình Việt
Nam quyết định triệu tập Đại hội đại biểu quốc dân miền Nam và
thành lập Ban trù bị Đại hội. Trong các ngày 6, 7 và 8-6-1969, Đại hội
đại biểu quốc dân miền Nam đã họp tại một địa điểm thuộc tỉnh Tây
Ninh. Tham dự Đại hội có các vị đại diện cho các lực lượng yêu nước
246 VÙNG ĐẤT NAM BỘ VIII THIẾT CHẾ QUẢN LÝ XÃ HỘI

ở miền Nam Việt Nam bao gồm các chính đảng, các dân tộc, tôn giáo,
các đoàn thể, các tầng lớp nhân dân, các lực lượng vũ trang, đoàn
thanh niên xung phong...
Trên cơ sở phân tích sâu sắc về tình hình thực tế và yêu cầu của cách
mạng miền Nam, Đại hội đã nhất trí thông qua bản Nghị quyết cơ bản
thành lập chế độ Cộng Hòa miền Nam Việt Nam và Chính phủ Cách
mạng lâm thời Cộng Hòa miền Nam Việt Nam. Nghị quyết nêu rõ:
Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng Hòa miền Nam Việt Nam là cơ
quan quyền lực cao nhất, có nhiệm vụ động viên, lãnh đạo toàn quân,
toàn dân, lãnh đạo các cấp Ủy ban nhân dân cách mạng, đẩy mạnh cao
trào tổng tiến công và nổi dậy, kết hợp với đấu tranh ngoại giao nhằm
đánh bại đế quốc Mỹ xâm lược, đánh đổ nguỵ quyền, thực hiện các mục
tiêu độc lập, dân chủ, Hòa bình tiến tới thống nhất đất nước1.
Trong tình thế khẩn trương lúc ấy, Chính phủ Cách mạng lâm thời
Cộng Hòa miền Nam Việt Nam được Đại hội đại biểu quốc dân giao
toàn quyền điều khiển và giải quyết mọi công tác đối nội và đối ngoại.
Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng Hòa miền Nam Việt Nam có
chủ tịch, phó chủ tịch và các bộ: Quốc phòng, Ngoại giao, Nội vụ, Kinh
tế - Tài chính, Thông tin - Văn hóa, Giáo dục và Thanh niên, Y tế - Xã
hội và Thương binh, Tư pháp.
Nguyên tắc tổ chức của Chính phủ Cách mạng lâm thời là tập trung
dân chủ. Hệ thống hành chính có bốn cấp: có điều kiện thì phổ thông
đầu phiếu, chưa có điều kiện thì đại hội đại biểu nhân dân bầu ra Hội
đồng nhân dân cách mạng và Hội đồng nhân dân cách mạng cử ra Ủy
ban nhân dân cách mạng mà nhiệm vụ và quyền hạn do Chủ tịch Cách
mạng lâm thời quy định.
Nghị quyết cũng nêu việc thành lập Hội đồng cố vấn bên cạnh
Chính phủ Cách mạng lâm thời có nhiệm vụ và quyền hạn góp ý kiến

1. Xem Ban chỉ đạo biên soạn lịch sử Chính phủ Việt Nam: Lịch sử Chính phủ
Việt Nam, Sđd, t. 2, tr.426.
CHƯƠNG III: HỆ THỐNG QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH... 247

với Chính phủ Cách mạng lâm thời trong việc đề ra các chủ trương,
chính sách đối nội và đối ngoại, trong việc ban hành, bổ sung và sửa đổi
các sắc luật, nghị định, chỉ thị, thông tư của Chính phủ.
Đại hội đã bầu Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng Hòa miền
Nam Việt Nam và Hội đồng cố vấn Chính phủ Cách mạng lâm thời.
Thành phần Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng Hòa miền Nam
Việt Nam gồm có1:
- Chủ tịch Chính phủ: Kiến trúc sư Huỳnh Tấn Phát.
- Phó Chủ tịch Chính phủ:
1. Phó Chủ tịch Chính phủ kiêm Bộ trưởng Bộ Nội vụ: Bác sĩ Phùng
Văn Cung.
2. Phó Chủ tịch Chính phủ kiêm Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Thanh
niên: Giáo sư Nguyễn Văn Kiết.
3. Phó Chủ tịch Chính phủ: Nguyễn Đoá, nhân sĩ trí thức Trung
Trung Bộ.
- Bộ trưởng và Thứ trưởng các Bộ:
1. Bộ trưởng Phủ Chủ tịch: Trần Bửu Kiếm
2. Bộ trưởng Bộ Quốc phòng: Trần Nam Trung
3. Bộ trưởng Bộ Ngoại giao: Nguyễn Thị Bình
4. Bộ trưởng Bộ Kinh tế - Tài chính: Kỹ sư Cao Văn Bổn
5. Bộ trưởng Bộ Thông tin - Văn hoá: Nhạc sĩ Lưu Hữu Phước
6. Bộ trưởng Bộ Y tế - Xã hội và Thương binh: Bác sĩ Dương
Quỳnh Hoa
7. Bộ trưởng Bộ Tư pháp: Trương Như Tảng2
8. Thứ trưởng Phủ Chủ tịch: Ung Ngọc Ky
9. Thứ trưởng Bộ Nội vụ: Giáo sư Nguyễn Ngọc Thưởng
10. Thứ trưởng Bộ Quốc phòng: Đồng Văn Cống

1. Xem Ban chỉ đạo biên soạn lịch sử Chính phủ Việt Nam: Lịch sử Chính phủ
Việt Nam, Sđd, t. 2, tr.428.
2. Sau này đã bỏ nhiệm vụ, ra nước ngoài hoạt động chống lại dân tộc.
248 VÙNG ĐẤT NAM BỘ VIII THIẾT CHẾ QUẢN LÝ XÃ HỘI

11. Thứ trưởng Bộ Quốc phòng: Nguyễn Chánh


12. Thứ trưởng Bộ Ngoại giao: Lê Quang Chánh
13. Thứ trưởng Bộ Ngoại giao: Hoàng Bích Sơn
14. Thứ trưởng Bộ Kinh tế - Tài chính: Nguyễn Văn Triệu
15. Thứ trưởng Bộ Thông tin - Văn hóa: Nhà văn Thanh Nghị
16. Thứ trưởng Bộ Thông tin - Văn hóa: Nhà văn Lữ Phương
17. Thứ trưởng Bộ Giáo dục và Thanh niên: Giáo sư Lê Văn Chí
18. Thứ trưởng Bộ Giáo dục và Thanh niên: Hồ Hữu Nhựt
19. Thứ trưởng Bộ Y tế - Xã hội và Thương binh: Bác sĩ Hồ Văn Huê
20. Thứ trưởng Bộ Y tế - Xã hội và Thương binh: Bùi Thị Mè
21. Thứ trưởng Bộ Tư pháp: Kỹ sư Lê Văn Thả.
Hội đồng cố vấn Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền
Nam Việt Nam gồm có:
- Chủ tịch: Luật sư Nguyễn Hữu Thọ
- Phó Chủ tịch: Luật sư Trịnh Đình Thảo
- Ủy viên: A Bih Alêô, Huỳnh Cương, hòa thượng Thích Đôn Hậu,
Huỳnh Văn Trí, Nguyễn Công Phương, kỹ sư Lâm Văn Tết, Võ Oanh, Lê
Văn Giáp, Thiếu tá Huỳnh Thanh Mừng, Luyxieeng Phạm Ngọc Hùng,
Nguyễn Đình Chi.
Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng Hòa miền Nam Việt Nam
ra đời là một sự kiện trọng đại trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu
nước của nhân dân Việt Nam.
Về tổ chức hành chính địa phương của chính quyền cách mạng
miền Nam, từ tháng 6-1969, Đại hội đại biểu Quốc dân miền Nam
tuyên bố chế độ Cộng Hòa miền Nam Việt Nam đã được thành lập ở
bốn cấp: Trung ương; tỉnh và thành phố; huyện, quận, thị xã và tương
đương; xã, phường và tương đương. Ở mỗi cấp hành chính địa phương
đều có Ủy ban nhân dân cách mạng là cơ quan chấp hành của Hội đồng
nhân dân cách mạng và đại diện của Chính phủ Cách mạng lâm thời
Cộng Hòa miền Nam Việt Nam ở các cấp địa phương. Giúp việc cho Ủy
ban nhân dân cách mạng cấp tỉnh có các sở, ty chuyên môn. Giúp việc
CHƯƠNG III: HỆ THỐNG QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH... 249

cho Ủy ban nhân dân cách mạng cấp huyện, xã có các phòng, ban và các
tổ công tác chuyên môn1.
Ngoài ra, về địa giới, các tỉnh, huyện, xã do phía cách mạng phân
chia, nhìn chung tương tự như các tỉnh, quận, xã của Việt Nam Cộng
hòa, nhưng cũng có một số địa giới chia đặt khác. Về danh xưng, nhiều
tỉnh của phía cách mạng vẫn giữ tên cũ, không cải tổ theo Việt Nam
Cộng hòa, tuy địa giới như nhau. Ngày 5-1974, chính quyền Cộng hòa
miền Nam Việt Nam thành lập ba tỉnh: tỉnh Long Châu Hà (gồm 7
huyện: Tịnh Biên, Tri Tôn, Châu Thành A, Huệ Đức, Châu Phú, Châu
Thành, Long Xuyên, và 3 thị xã: Châu Đốc, Long Xuyên, Hà Tiên); tỉnh
Sa Đéc (gồm 8 huyện: Cao Lãnh, Kiến Văn, Mỹ An, Chợ Mới (của tỉnh
Kiến Phong cũ), Lấp Vò, Sa Đéc, Đức Thành, Châu Thành, và 2 thị
xã: Sa Đéc và Cao Lãnh); Long Châu Tiên (gồm 6 huyện: An Phú, Tân
Châu, Phú Tân, Hồng Ngự, Thanh Bình, Tam Nông)2.
Với thành công của Đại hội quốc dân miền Nam và sự ra đời của
Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam, chức
năng nhà nước ở miền Nam, trong đó có Nam Bộ, đã được Mặt trận
Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam chuyển giao cho Chính phủ
Cách mạng lâm thời.
Ngay sau khi thành lập, Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa
miền Nam Việt Nam ra sức xây dựng và củng cố hệ thống chính quyền
cách mạng các cấp, bảo đảm việc quản lý vùng kiểm soát của mình và
quyền tự do dân chủ cho nhân dân.
Ngày 5-10-1969, Trung ương Cục miền Nam lại ra nghị quyết
về xây dựng bộ máy Chính phủ lâm thời. Nghị quyết cho rằng, việc
xây dựng hệ thống chính quyền cách mạng “đánh dấu một sự phát
triển mới đồng thời cũng đem lại một tình hình rất mới trong cuộc

1. Xem Học viện Hành chính quốc gia: Giáo trình lịch sử hành chính Nhà
nước Việt Nam, Sđd, tr. 431-432.
2. Xem Nguyễn Quang Ân: Việt Nam những thay đổi địa danh, địa giới hành
chính (1945-2002), Sđd, tr. 443.
250 VÙNG ĐẤT NAM BỘ VIII THIẾT CHẾ QUẢN LÝ XÃ HỘI

chiến đấu của ta, đó là sự xuất hiện của tình hình có hai hệ thống
chính quyền đang đấu tranh rất quyết liệt và phức tạp song song với
cuộc đấu tranh toàn diện giữa ta và địch về các mặt quân sự, chính
trị, ngoại giao, kinh tế, văn hóa, v.v.. Cuộc đấu tranh nhằm đánh đổ
chính quyền cướp nước và bán nước của địch đi đôi với thành lập và
củng cố, phát huy chính quyền cách mạng của ta từ dưới lên trên là
một bộ phận rất khăng khít của toàn bộ cuộc chiến đấu của quân, dân
ta trong thời gian tới”1. Do đó, nhiệm vụ và đặc điểm của chính quyền
cách mạng ở miền Nam là “do những điều kiện đặc biệt về đối nội và
đối ngoại, ta phải xây dựng một hệ thống chính quyền cách mạng hoàn
chỉnh từ trung ương xuống địa phương trong phạm vi một nửa nước”2.
Với tinh thần trên, Chính phủ Cách mạng lâm thời đã nhanh
chóng tổ chức và kiện toàn bộ máy làm việc của Hội đồng chính phủ
và các bộ. Ban đại diện của Chính phủ ở Đông Nam Bộ và Tây Nam
Bộ được thành lập nhằm đáp ứng yêu cầu quản lý vùng giải phóng
liên hoàn. Ngoài ra, Ủy ban nhân dân cách mạng cũng được thành lập
và củng cố ở 44 tỉnh, 6 thành phố, 182 huyện và hơn 1.500 xã trong
toàn miền Nam3.2
Đối với bộ máy chính quyền các cấp, ngày 12-9-1974, Hội đồng
Chính phủ Cách mạng lâm thời ra Nghị định số 1/NĐ-74 quy định
cụ thể về chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của chính quyền cách
mạng địa phương. Theo Nghị định trên, tất cả các cấp địa phương
đều có bộ máy chính quyền hoàn chỉnh gồm: Hội đồng nhân dân
cách mạng - cơ quan quyền lực ở địa phương, Ủy ban nhân dân cách
mạng - cơ quan chấp hành và hành chính của nó cùng các ngành
chuyên môn trực thuộc Ủy ban nhân dân cách mạng. Từ đây, Ủy ban

1, 2. Viện Lịch sử Đảng: Lịch sử biên niên Xứ ủy Nam Bộ và Trung ương Cục
miền Nam (1954-1975), Sđd, tr.754, 755
3. Theo tài liệu của Ủy ban Thống nhất thuộc Hội đồng Chính phủ, lưu tại
Trung tâm Lưu trữ quốc gia III, ký hiệu: VTCCB, C.16.T2.
CHƯƠNG III: HỆ THỐNG QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH... 251

nhân dân cách mạng cấp khu và cấp tương đương được thành lập để
thay thế Ban đại diện Chính phủ Cách mạng lâm thời ở các miền. Hội
đồng nhân dân cách mạng được bầu ra theo nguyên tắc phổ thông
đầu phiếu, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín. Đây là một bước tiến
trong sự phát triển của bộ máy Nhà nước Cộng hòa miền Nam.
*
* *
Giai đoạn 1954-1975 có ý nghĩa vô cùng quan trọng cả trong lịch
sử đấu tranh cách mạng do Đảng lãnh đạo và cả trong tiến trình phát
triển của lịch sử dân tộc nói chung. Đây là một thời kỳ lịch sử đặc
biệt, nó vừa là sự kế tục và kết thúc sự nghiệp giải phóng dân tộc,
đồng thời đã đặt những yếu tố căn bản cho tiến trình phát triển về
sau. Thời kỳ giữ gìn thực lực của cách mạng miền Nam khá dài và
trong thời kỳ đó, cách mạng miền Nam bị tổn thất nặng nề. Không
có con đường nào khác, muốn thống nhất nước nhà, muốn bảo vệ
mình, nhân dân miền Nam đã vùng lên. Đồng khởi năm 1960 ở miền
Nam là kết quả tất yếu của tiến trình lịch sử. Từ năm 1961 trở đi, cuộc
chiến tranh giữa lực lượng yêu nước giải phóng miền Nam và thế lực
xâm lược diễn ra ngày càng quyết liệt. Chiến tranh tàn khốc đã chi
phối đời sống nhân dân miền Nam nói chung và Nam Bộ nói riêng.
Tuy nhiên, nhìn đại thể, lịch sử Nam Bộ từ đó trở đi có hai dòng khác
nhau: miền Nam, trong đó có Nam Bộ, gồm hai vùng, hai quân đội,
hai thể chế khác nhau. Một thể chế dân chủ và một thể chế thực dân
kiểu mới. Nền kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa của vùng giải phóng
khác biệt với vùng do chính quyền Sài Gòn (chính quyền Việt Nam
Cộng hòa) kiểm soát.
Có thể thấy rằng, kết cấu, cách thức phân cấp quản lý của chính
quyền Sài Gòn qua các thời kỳ là tương đối bài bản, mang tính hợp lý
nhất định, đã phần nào với tay quản lý đến tận các đơn vị hành chính cấp
cơ sở ở Nam Bộ, gây khó khăn không nhỏ cho chính quyền cách mạng.
252 VÙNG ĐẤT NAM BỘ VIII THIẾT CHẾ QUẢN LÝ XÃ HỘI

Tuy nhiên, vai trò của bộ máy quản lý hành chính của chính quyền
Sài Gòn ở Trung ương lẫn địa phương chưa được thực hiện trên thực
tế trong việc quản lý dân cư, quản lý hành chính của các địa phương
ở Nam Bộ, do không được xây dựng trên nền tảng quần chúng nhân
dân, lại thường nặng về góc độ quân sự hơn là hành chính. Hệ thống
bộ máy hành chính của chế độ Việt Nam Cộng hòa mất dần vai trò
ảnh hưởng và sụp đổ hoàn toàn sau tuyên bố đầu hàng không điều
kiện của Tổng thống ngụy quyền Việt Nam Cộng hòa Dương Văn
Minh trưa ngày 30-4-1975.
Dù về địa lý, vùng giải phóng và vùng đối phương kiểm soát
thường xuyên thay đổi tùy theo thế và lực của hai bên trên chiến
trường, nhưng về đại thể, vùng giải phóng thường là vùng rừng núi,
xa trung tâm đô thị và trục giao thông chính. Trong vùng giải phóng,
nhân dân xây dựng chế độ dân chủ, bước đầu xây dựng chính quyền
cách mạng gần giống như vùng giải phóng trong chín năm kháng
chiến chống thực dân Pháp trước đây. Đây là vùng nhân dân tự quản,
với nền kinh tế tự cung, tự cấp; nền giáo dục giải phóng nhằm xây
dựng và hoàn thiện con người mới, nhằm phục vụ cho cuộc kháng
chiến chống Mỹ, cứu nước và đào tạo thế hệ xây dựng đất nước, quê
hương sau này. Dù còn những hạn chế do địch đánh phá ác liệt, nhưng
nhân dân vùng giải phóng được tự do và đã đóng góp rất nhiều nhân
lực, vật chất cho cuộc kháng chiến. Vùng giải phóng ở Nam Bộ đã làm
tốt vai trò hậu phương tại chỗ; là địa bàn đứng chân, bàn đạp của lực
lượng vũ trang cách mạng tiến công vùng địch kiểm soát. Trong khi
đó, tại vùng chính quyền Sài Gòn kiểm soát, nền kinh tế từng bước
chuyển vào vòng quay của chủ nghĩa tư bản. Khi Hoa Kỳ đưa hàng
chục vạn quân viễn chinh vào xâm lược miền Nam, thì nhịp độ trên
càng nhanh hơn, kinh tế miền Nam do tác động của viện trợ Hoa Kỳ
nên phát triển khá phồn thịnh.
Đặc điểm quan trọng nhất của hệ thống chính quyền cách mạng
ở miền Nam nói chung và Nam Bộ nói riêng là sự thành lập Mặt trận
CHƯƠNG III: HỆ THỐNG QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH... 253

Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam và tiếp đó, thành lập Chính
phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam. Chính phủ
Cách mạng lâm thời ra đời là một thắng lợi trong quá trình hoàn
chỉnh hệ thống chính quyền cách mạng ở miền Nam, trong đó có
Nam Bộ, một chính quyền thực sự dân tộc và dân chủ, là thành quả
của cao trào cách mạng của quần chúng, đáp ứng những yêu cầu
khách quan, bức thiết của cách mạng miền Nam. Bằng các chính sách
đúng đắn, hệ thống chính quyền từ Trung ương đến địa phương ở
miền Nam đã được xây dựng hoàn chỉnh, với chức năng và quyền
hạn rõ ràng, cụ thể. Có thể nói, với những hoạt động trên các lĩnh
vực kinh tế, chính trị, quân sự, văn hóa, xã hội, đối ngoại, Chính
phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam và hệ thống
chính quyền cách mạng các cấp đã khẳng định vai trò đặc biệt quan
trọng và to lớn của mình trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước
của nhân dân ta.
Tất cả những đặc điểm đó tạo cho hệ thống quản lý hành chính
của Nam Bộ thời kỳ này những nét đặc trưng riêng biệt cả về địa giới
hành chính lẫn bộ máy quản lý hành chính giữa chính quyền Sài Gòn
và chính quyền cách mạng (từ sau năm 1961).

IV. HỆ THỐNG QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH Ở NAM BỘ SAU NĂM 1975

1. Bối cảnh lịch sử


Sau khi miền Nam hoàn toàn giải phóng đất nước được thống
nhất, tình hình các mặt của đời sống xã hội, các điều kiện xã hội
khách quan và các yếu tố chủ quan đều đã thay đổi. Chức năng trước
hết của quản lý nhà nước không còn là chuyên chính giai cấp, mà là tổ
chức và xây dựng kinh tế - xã hội. Nói cách khác, cả chủ thể và khách
thể quản lý nhà nước đều đã vận động sang một giai đoạn mới, đòi
hỏi bộ máy hành chính phải nhanh chóng chuyển hướng hoạt động,
254 VÙNG ĐẤT NAM BỘ VIII THIẾT CHẾ QUẢN LÝ XÃ HỘI

đổi mới cách nghĩ, cách làm, đổi mới các hình thức và phương pháp
điều hành trên cơ sở tìm hiểu và vận dụng các quy luật kinh tế, tâm lý
xã hội. Vấn đề cấp bách trước mắt đặt ra là phải thực hiện thống nhất
nước nhà về mặt nhà nước, bởi vì: “vấn đề cơ bản của mỗi cuộc cách
mạng là vấn đề chính quyền”.
Vào trung tuần tháng 11-1975, tại thành phố Sài Gòn - Gia Định,
Hội nghị Hiệp thương chính trị gồm đại biểu nhân dân hai miền nhằm
thống nhất về nội dung của toàn bộ sự nghiệp thống nhất nước nhà, đặc
biệt là việc thực hiện thống nhất nước nhà về mặt nhà nước đã thành
công tốt đẹp. Hội nghị đã thống nhất giao cho Chính phủ Việt Nam Dân
chủ Cộng Hòa hiệp thương với Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng
Hòa miền Nam Việt Nam để hợp nhất tỉnh Quảng Bình, khu Vĩnh Linh
với các tỉnh Quảng Trị và Thừa Thiên Huế, thành phố Sài Gòn - Gia
Định được mang tên Thành phố Hồ Chí Minh.
Tính đến thời điểm trước bầu cử Quốc hội khoá VI (tháng 4-1976)
về các đơn vị hành chính địa phương, lãnh thổ Việt Nam được chia
thành 35 tỉnh và 3 thành phố trực thuộc Trung ương: Hà Nội, Thành
phố Hồ Chí Minh và Hải Phòng.
Từ sau Hội nghị Hiệp thương chính trị, việc giới thiệu những
người ra ứng cử đại biểu Quốc hội được tiến hành một cách dân chủ
theo Luật bầu cử đại biểu Quốc hội năm 1960 và Pháp lệnh bầu cử đại
biểu Quốc hội ban hành ngày 20-2-1976. Ngày 25-4-1976, cuộc tổng
tuyển cử Quốc hội khoá VI thống nhất toàn quốc đã được tiến hành.
Hơn 23 triệu cử tri trong cả nước đã đi bỏ phiếu. Kết quả đã có 492
đại biểu đại diện cho các thành phần, dân tộc, tôn giáo tiêu biểu cho
khối đại đoàn kết toàn dân đã trúng cử.
Ngày 2-7-1976, trong kỳ họp đầu tiên, Quốc hội khoá VI - Quốc
hội chung của cả nước - đã thông qua Nghị quyết lấy tên nước là
Cộng Hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, quy định Quốc kỳ, Quốc huy,
Quốc ca, đặt thủ đô tại Hà Nội, mô hình tổ chức bộ máy Nhà nước ta.
CHƯƠNG III: HỆ THỐNG QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH... 255

Thời kỳ 1976-1985, cùng với cả nước, các tỉnh Nam Bộ đã trải


qua một chặng đường đầy gian lao, thử thách, vừa tiếp tục đấu tranh
củng cố chủ quyền lãnh thổ quốc gia trong vấn đề biên giới Tây Nam,
vừa khắc phục hậu quả chiến tranh nặng nề, vừa xây dựng cuộc sống
mới (kinh tế, văn hóa, xã hội), cùng cả nước tìm kiếm giải pháp quản
lý phù hợp nhằm đưa đất nước thoát ra khỏi tình trạng khủng hoảng.
Từ cuối năm 1986 đến nay, các tỉnh Nam Bộ tiến hành công cuộc
đổi mới phát triển theo tinh thần của Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ VI đề ra, mà Thành phố Hồ Chí Minh là ngọn cờ đầu. Trên cơ
sở phát triển vùng kinh tế trọng điểm phía Nam (cả miền Đông Nam
Bộ, Bình Thuận, Long An), vùng đồng bằng sông Cửu Long màu mỡ,
cả Nam Bộ từng bước phát triển mọi mặt đời sống kinh tế - xã hội,
đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và đã giành được
những thắng lợi to lớn.
Tóm lại, từ năm 1975 đến nay, Nhà nước Cộng Hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam đã ra đời, kế tục sự nghiệp của Nhà nước Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa và Chính phủ Cộng hòa miền Nam Việt Nam
đều do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Hình thức nhà nước đã
chuyển từ nhà nước dân chủ nhân dân sang nhà nước cộng hòa xã
hội chủ nghĩa trên phạm vi cả nước, song về bản chất vẫn là nhà nước
cách mạng của giai cấp công nhân do Đảng lãnh đạo - nhà nước của
dân, do dân và vì dân. Đồng thời, hệ thống quản lý hành chính Việt
Nam nói chung và của Nam Bộ nói riêng cũng được xác lập, hoàn
thiện trên cơ sở một nền hành chính thống nhất trong cả nước.

2. Quy hoạch hành chính và tổ chức bộ máy quản lý

a) Quy hoạch hành chính

Ngày 20-9-1975, Bộ Chính trị ra Nghị quyết số 245-NQ/TW Về


việc bỏ khu, hợp tỉnh. Dựa vào những nguyên tắc của Nghị quyết
256 VÙNG ĐẤT NAM BỘ VIII THIẾT CHẾ QUẢN LÝ XÃ HỘI

số 245-NQ/TW1, ở Nam Bộ hợp nhất những tỉnh sau đây thành tỉnh
mới (tên tỉnh mới sẽ do địa phương đề nghị lên):
1. Cà Mau, Bạc Liêu và 2 huyện Vĩnh Thuận, An Biên của Rạch Giá
(trừ hai xã Đông Yên và Tây Yên).
2. Long Châu Hà, Rạch Giá và huyện Thốt Nốt của tỉnh Cần Thơ.
3. Cần Thơ, Sóc Trăng, Vĩnh Long, Trà Vinh.
4. Long Châu Tiền, Sa Đéc, Kiến Tường.
5. Mỹ Tho, Gò Công, Long An, Bến Tre.
6. Tây Ninh, Bình Phước Long, Thủ Dầu Một (trừ hai huyện Tân
Uyên và Dĩ An) và 2 huyện Củ Chi, Độc Lập của tỉnh.
7. Biên Hòa, Bà Rịa, Long Khánh, Bình Tuy và thành huyện Định
Quán, Tân Uyên, Dĩ An của tỉnh.
Ngày 20-12-1975, theo Nghị quyết số 19-NQ/TW về việc điều chỉnh
lại việc hợp nhất một số tỉnh ở miền Nam, Bộ Chính trị quyết định điều
chỉnh lại việc hợp nhất một số tỉnh ở Nam Bộ như sau: hợp nhất các
tỉnh sau đây thành những tỉnh mới:
1. Cà Mau và Bạc Liêu;
2. Cần Thơ (gồm cả huyện Thốt Nốt của Long Xuyên) và Sóc Trăng;
3. Vĩnh Long và Trà Vinh;

1. Theo Nghị quyết số 245-NQ/TW, ngày 20-9-1975 của Bộ Chính trị, việc hợp
nhất các tỉnh nhỏ thành những tỉnh mới là nhằm xây dựng các tỉnh thành những đơn vị
kinh tế, kế hoạch và đơn vị hành chính có khả năng giải quyết đến mức cao nhất những
yêu cầu về đẩy mạnh sản xuất, tổ chức đời sống vật chất, văn hóa của nhân dân, về củng
cố quốc phòng, bảo vệ trị an và có khả năng đóng góp tốt nhất vào sự nghiệp chung
của cả nước; đồng thời cũng để giảm bớt cấp trung gian, giảm bớt đầu mối trực thuộc
Trung ương. Việc hợp nhất các tỉnh phải dựa trên những nguyên tắc sau đây: có địa giới
chung khớp với quy hoạch phân vùng kinh tế, có công nghiệp (lâm, ngư nghiệp nếu có)
và nông nghiệp hỗ trợ lẫn nhau, có dân số (sau khi phân bố lại lực lượng lao động) vào
khoảng trên dưới 1 hoặc 2 triệu; có giao thông tương đối thuận tiện giữa các địa phương
trong tỉnh; có điều kiện thuận lợi cho quốc phòng, trị an. Khi điều chỉnh địa giới cần chú
ý thích đáng đến những đặc điểm về lịch sử và truyền thống đấu tranh cách mạng ở địa
phương, về dân tộc, về tôn giáo... (Xem Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn
tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004, t.36, tr. 437-438).
CHƯƠNG III: HỆ THỐNG QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH... 257

4. Mỹ Tho và Gò Công;
5. Long An và Kiến Tường;
6. Tây Long Châu Tiền và Long Châu Hậu (tỉnh An Giang cũ bao
gồm cả Long Xuyên, Châu Đốc trừ huyện Thốt Nốt;
7. Sa Đéc và Kiến Phong cũ;
8. Bình Phước và Thủ Dầu Một (gồm cả Dĩ An, Tân Uyên, Phú
Giáo); Biên Hòa (trừ Tân Uyên, Phú Giáo), Long Khánh và Bà Rịa (kể cả
Vũng Tàu). Các tỉnh Rạch Giá cũ (bao gồm cả Hà Tiên, Phú Quốc, Châu
Thành A của Long Châu Hà), Bến Tre, Tây Ninh vẫn để là tỉnh riêng1.
Tháng 2-1976, Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền
Nam Việt Nam ra nghị định về việc giải thể khu, hợp nhất tỉnh ở
miền Nam Việt Nam. Theo nghị định này, ở miền Nam có 21 đơn
vị hành chính trực thuộc Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa
miền Nam Việt Nam, trong đó, vùng Nam Bộ bao gồm 12 tỉnh và
Thành phố Hồ Chí Minh:
1. Tỉnh Đồng Nai (gồm ba tỉnh Biên Hòa, Long Khánh và Bà Rịa cũ);
2. Tỉnh Sông Bé (gồm 2 tỉnh Thủ Dầu Một và Bình Phước cũ);
3. Tỉnh Long An (gồm 2 tỉnh Long An và Kiến Tường cũ);
4. Tỉnh Tiền Giang (gồm 2 tỉnh Mỹ Tho, Gò Công và thành phố
Mỹ Tho);
5. Tỉnh Cửu Long (gồm 2 tỉnh Vĩnh Long và Trà Vinh cũ);
6. Tỉnh Hậu Giang (gồm 2 tỉnh Cần Thơ, Sóc Trăng cũ và thành phố
Cần Thơ);
7. Tỉnh Đồng Tháp (gồm 2 tỉnh Sa Đéc và Kiến Phong cũ);
8. Tỉnh An Giang (gồm một số huyện của tỉnh Long Châu Hà, 2
huyện của tỉnh Long Châu Tiền, 1 huyện của tỉnh Sa Đéc và toàn bộ
tỉnh An Giang cũ trước chia ra nay nhập lại, giữ tên An Giang);

1. Xem Nguyễn Quang Ân: Việt Nam những thay đổi địa danh và địa giới
hành chính (1945-2002), Sđd, tr. 446.
258 VÙNG ĐẤT NAM BỘ VIII THIẾT CHẾ QUẢN LÝ XÃ HỘI

9. Tỉnh Kiên Giang (gồm tỉnh Rạch Giá cũ và 3 huyện của tỉnh Long
Châu Hà cũ);
10. Tỉnh Minh Hải (gồm 2 tỉnh Cà Mau và Bạc Liêu cũ);
11. Tỉnh Tây Ninh (vẫn giữ địa giới và tên cũ);
12. Tỉnh Bến Tre (vẫn giữ địa giới và tên cũ);
13. Thành phố Hồ Chí Minh.
Sau khi đất nước thống nhất, ngày 2-7-1976, trong kỳ họp đầu tiên,
Quốc hội khoá VI - Quốc hội chung của cả nước - đã thông qua cơ cấu
bộ máy hành chính Nhà nước ta ở địa phương gồm ba cấp: tỉnh, thành
phố trực thuộc Trung ương và các cấp tương đương; huyện, thành phố
trực thuộc tỉnh, quận, thị xã; xã, phường, thị trấn.
Theo Điều 113, Hiến pháp năm 1980, “các đơn vị hành chính của
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam được phân định như sau:
Nước chia thành tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và đơn vị
hành chính tương đương; Tỉnh chia thành huyện, thành phố thuộc
tỉnh và thị xã; thành phố trực thuộc Trung ương chia thành quận,
huyện và thị xã; Huyện chia thành xã và thị trấn; thành phố thuộc
tỉnh, thị xã chia thành phường và xã; quận chia thành phường”1.
Tháng 9-1981, Hội đồng Bộ trưởng quyết định phường là đơn vị
hành chính cấp cơ sở ở nội thành, nội thị2.
Những năm 1980, phân địa giới hành chính một số xã, phường và
thị trấn của các tỉnh: Kiên Giang (ngày 27-9-1983); An Giang (ngày 12-
1-1984); Đồng Nai (ngày 17-1-1984); Bến Tre (ngày 14-3-1984); Minh
Hải (ngày 17-5-1984); Đồng Nai (ngày 1-12-1985); Cửu Long (ngày 27-
3-1985); Sông Bé (ngày 4-7-1988); Long An (ngày 26-6-1989);... Đối với
Thành phố Hồ Chí Minh, Chính phủ cũng ra một số nghị định về điều

1. Tuyên ngôn Độc lập năm 1945 và các Hiến pháp Việt Nam (1946, 1959,
1980, 1992), Sđd, tr.110.
2. Xem Ban chỉ đạo biên soạn Lịch sử Chính phủ Việt Nam: Lịch sử Chính phủ
Việt Nam, Sđd, t. 3, tr.158.
CHƯƠNG III: HỆ THỐNG QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH... 259

chỉnh địa giới hành chính của các quận và phường như: Quyết định số
67-HĐBT ngày 12-9-1981; Quyết định số 147-HĐBT ngày 26-8-1982;
Quyết định số 70-HĐBT ngày 11-7-1983; Quyết định số 94-HĐBT ngày
30-8-1983...
Ngày 3-1-1981, Hội đồng Chính phủ ra Quyết định số 03-CP thống
nhất tên gọi các đơn vị hành chính ở nội thành, nội thị. Theo đó, đơn
vị hành chính cấp dưới trực tiếp của thành phố trực thuộc Trung
ương đều thống nhất gọi là quận; các đơn vị hành chính cơ sở của
thành phố thuộc tỉnh, thị xã và quận gọi là phường1.
Bước sang những năm 1990, diên cách địa giới hành chính Nam
Bộ tiếp tục được sắp xếp và dần đi vào ổn định. Ngày 26-12-1991, tại
kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa VIII ra nghị quyết về việc phân vạch
lại địa giới hành chính một số tỉnh, trong đó ở Nam Bộ: Chia tỉnh
Hậu Giang thành 2 tỉnh, lấy tên là tỉnh Cần Thơ và tỉnh Sóc Trăng;
chia tỉnh Cửu Long thành 2 tỉnh, lấy tên là tỉnh Vĩnh Long và tỉnh
Trà Vinh.
Ngày 12-8-1991, Quốc hội tiếp tục điều chỉnh địa giới hành
chính một số tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. Theo đó, thành
lập tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu gồm đặc khu Vũng Tàu - Côn Đảo và 3
huyện Long Đất, Châu Thành, Xuyên Mộc của tỉnh Đồng Nai. Tỉnh
Bà Rịa - Vũng Tàu có 5 đơn vị hành chính gồm thành phố Vũng Tàu
và 4 huyện: Côn Đảo, Long Đất, Châu Thành, Xuyên Mộc, có diện
tích tự nhiên 2.047,45km2 với số dân 587.499 người. Tỉnh lỵ là thành
phố Vũng Tàu.
Theo Điều 118, Hiến pháp năm 1992, các đơn vị hành chính được
phân định như sau: “Nước chia thành tỉnh, thành phố trực thuộc Trung
ương; tỉnh chia thành huyện, thành phố thuộc tỉnh và thị xã; thành phố
trực thuộc Trung ương chia thành quận, huyện và thị xã; huyện chia

1. Xem Ban chỉ đạo biên soạn Lịch sử Chính phủ Việt Nam: Lịch sử Chính phủ
Việt Nam, Sđd, t. 3, tr.51.
260 VÙNG ĐẤT NAM BỘ VIII THIẾT CHẾ QUẢN LÝ XÃ HỘI

thành xã, thị trấn; thành phố thuộc tỉnh, thị xã chia thành phường và
xã; quận chia thành phường”1.
Năm 1996, tại kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa IX quyết định chia tỉnh
Minh Hải thành 2 tỉnh là tỉnh Bạc Liêu và tỉnh Cà Mau.
Ngày 26-11-2003, tại kỳ họp thứ 4, Quốc hội khóa XI đã ra Nghị
quyết số 22/2003/QH11 Về việc chia và điều chỉnh địa giới hành chính
một số tỉnh, trong đó đã chia tỉnh Cần Thơ thành thành phố Cần Thơ
trực thuộc Trung ương và tỉnh Hậu Giang.
Theo số liệu thống kê năm 2008, các đơn vị hành chính của Nam
Bộ gồm 17 tỉnh và 2 thành phố trực thuộc Trung ương (Thành phố Hồ
Chí Minh, thành phố Cần Thơ), 8 thành phố trực thuộc tỉnh và 17 thị
xã trực thuộc tỉnh. Trong đó, có 2.454 đơn vị cấp xã, trong đó có 505
phường, 162 thị trấn và 1.787 xã. Tổng số đơn vị cấp huyện là 194, trong
đó số quận là 24, số huyện là 1452.

Bảng 18: Các đơn vị hành chính Nam Bộ


tính đến ngày 31-12-2008

Tổng Trong đó Tổng Trong đó


số số Thành
STT Tỉnh/ Thành phố đơn vị đơn vị phố
cấp Phường Thị Xã cấp trực Quận
Thị
Huyện
xã trấn huyện thuộc xã

tỉnh
Tỉnh Bình
1 Phước 102 5 8 89 8 1 7
2 Tỉnh Tây Ninh 95 5 8 82 9 1 8
3 Tỉnh Bình Dương 89 9 8 72 7 1 6

1. Tuyên ngôn Độc lập năm 1945 và các Hiến pháp Việt Nam (1946, 1959,
1980, 1992), Sđd, tr.170.
2. Tổng cục Thống kê: Danh mục các đơn vị hành chính Việt Nam 2008, Nxb.
Thống kê, Hà Nội, 2009, tr.6.
CHƯƠNG III: HỆ THỐNG QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH... 261

Tổng Trong đó Tổng Trong đó


số sốThành
STT Tỉnh/ Thành phố đơn vị đơn vị phố
cấp Phường Thị Xã cấp trực Quận
Thị
Huyện
xã trấn huyện thuộc xã

tỉnh
4 Tỉnh Đồng Nai 171 29 6 136 11 1 1 9
Tỉnh Bà Rịa -
5 Vũng Tàu 82 24 7 51 8 1 1 6
Thành phố Hồ
6 Chí Minh 322 259 5 58 24 19 5
7 Tỉnh Long An 190 9 15 166 14 1 13
8 Tỉnh Tiền Giang 169 16 7 146 10 1 1 8
9 Tỉnh Bến Tre 160 9 7 144 8 1 7
10 Tỉnh Trà Vinh 104 9 10 85 8 1 7
11 Tỉnh Vĩnh Long 107 7 6 94 8 1 7
12 Tỉnh Đồng Tháp 144 17 8 119 12 1 2 9
13 Tỉnh An Giang 154 15 17 122 11 1 1 9
14 Tỉnh Kiên Giang 142 15 12 115 14 1 1 12
Thành phố Cần
15 Thơ 85 44 5 36 9 5 4
16 Tỉnh Hậu Giang 71 8 9 54 7 2 5
17 Tỉnh Sóc Trăng 106 10 9 87 10 1 9
18 Tỉnh Bạc Liêu 64 7 7 50 7 1 6
19 Tỉnh Cà Mau 97 8 8 81 9 1 8

Tổng số 2.454 505 162 1.787 194 8 24 17 145

Nguồn: Tổng cục Thống kê: Danh mục các đơn vị hành chính Việt Nam
2008, Sđd, tr.6.

Riêng đối với Thành phố Hồ Chí Minh, ngay sau khi thiết lập xong
chính quyền quân quản, ngày 10-5-1975, Ban Thường vụ Thành ủy đã
262 VÙNG ĐẤT NAM BỘ VIII THIẾT CHẾ QUẢN LÝ XÃ HỘI

họp để xác định địa giới và thống nhất tên gọi đối với quận. Thành phố
Sài Gòn - Gia Định vẫn giữ nguyên 21 quận (14 quận nội thành và 7
quận ngoại thành). Trong đó, 14 quận nội thành gồm: 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7,
8, 9, 10, 11, Phú Nhuận, Bình Hòa, Thạch Mỹ Tây; 7 quận ngoại thành
gồm: Thủ Đức, Nhà Bè, Bình Chánh, Tân Bình, Gò Vấp, Hóc Môn, Củ
Chi1. Ngày 2-7-1976, Quốc hội chính thức đặt tên thành phố Sài Gòn -
Gia Định là Thành phố Hồ Chí Minh.
Đến tháng 10-1976, sau khi sắp xếp chính quyền từ bốn cấp thành
ba cấp, một số quận sáp nhập lại, Thành phố Hồ Chí Minh còn 12
quận nội thành và 5 huyện ngoại thành, như: quận 1 và quận 2 sáp
nhập làm một, lấy tên là quận 1; quận 7 và quận 8, lấy tên quận 8;
quận Bình Hòa và quận Thạnh Mỹ Tây, lấy tên là quận Bình Thạnh;
quận 9 nhập vào Thủ Đức, lấy tên là huyện Thủ Đức; và chuyển 2
quận Tân Bình và Gò Vấp thành quận nội thành. Như vậy, nội thành
gồm các quận: 1, 3, 4, 5, 6, 8, 10, 11, Phú Nhuận, Bình Thạnh, Tân
Bình, Gò Vấp; huyện ngoại thành gồm: Bình Chánh, Thủ Đức, Nhà
Bè, Hóc Môn, Củ Chi.
Tiếp đó, địa giới hành chính của thành phố và các quận được
nhiều lần thay đổi, bổ sung tùy theo yêu cầu phát triển và quản lý của
mỗi thời kỳ, như: sau Nghị định số 3/CP của Chính phủ ngày 6-1-
1997, Thành phố Hồ Chí Minh có 17 quận (1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9, 10,
11, 12, Gò Vấp, Tân Bình, Bình Thạnh, Phú Nhuận, Thủ Đức) và 5
huyện (Củ Chi, Hóc Môn, Bình Chánh, Nhà Bè, Cần Giờ). Đến ngày
5-11-2003, Nghị định số 130/2003/NĐ-CP của Chính phủ thành lập
thêm 2 quận Bình Tân (tách từ huyện Bình Chánh) và Tân Phú (tách

1. Xem Phạm Văn Thắng: Lịch sử Đảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh, Nxb. Tổng
hợp Thành phố Hồ Chí Minh và Nxb. Văn hóa Sài Gòn, Thành phố Hồ Chí Minh,
2007, tr. 262.
CHƯƠNG III: HỆ THỐNG QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH... 263

từ quận Tân Bình). Tính đến thời điểm cuối năm 2005, Thành phố Hồ
Chí Minh có 19 quận (1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9, 10, 11, 12, Bình Thạnh,
Phú Nhuận, Gò Vấp, Tân Bình, Thủ Đức, Bình Tân, Tân Phúc) và 5
huyện (Bình Chánh, Cần Giờ, Củ Chi, Hóc Môn, Nhà Bè)1.
Như vậy, có thể tổng hợp quá trình thay đổi địa giới hành chính
các tỉnh ở Nam Bộ từ sau ngày 30-4-1975 cho đến nay như sau:23

Bảng 19: Quá trình thay đổi địa giới hành chính
các tỉnh ở Nam Bộ

Trước năm
1976-1977 1978-1988 1989-1995 1995 đến nay
1976
1. Bình Phước 1. Bình Phước
1.Sông Bé 1.Sông Bé 1.Sông Bé
2. Thủ Dầu Một 2. Bình Dương
3. Long Khánh 2. Đồng Nai 2. Đồng Nai 3. Đồng Nai
4. Biên Hòa 2. Đồng Nai 3. Vũng Tàu - 3. Bà Rịa - 4. Bà Rịa-Vũng
5. Bà Rịa Côn Đảo 2
Vũng Tàu Tàu
6. Long Châu
3. Đồng 4. Đồng
Tiền 4. Đồng Tháp 5. Đồng Tháp
Tháp Tháp
7. Sa Đéc
8. Long An
4. Long An 5. Long An 5. Long An 6. Long An
9. Kiến Tường
10. Bến Tre 5. Bến Tre 6. Bến Tre 6. Bến Tre 7. Bến Tre
11. Gò Công
12. Mỹ Tho 6. Tiền Giang 7. Tiền Giang 7. Tiền Giang 8. Tiền Giang
13. Tây Ninh 7. Tây Ninh 8. Tây Ninh 8. Tây Ninh 9. Tây Ninh
14. Vĩnh Long 9. Vĩnh Long 10. Vĩnh Long
15. Trà Vinh 8. Cửu Long 9. Cửu Long 10. Trà Vinh3 11. Trà Vinh

1. Xem Phạm Văn Thắng: Lịch sử Đảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh, Nxb. Tổng
hợp Thành phố Hồ Chí Minh và Nxb. Văn hóa Sài Gòn, Thành phố Hồ Chí Minh,
2007, tr. 264.
2. Theo Nghị quyết của Quốc hội khóa VI tại kỳ họp thứ 5, ngày 30-5-1979.
3. Theo Nghị quyết của Quốc hội khóa VIII tại kỳ họp thứ 10, ngày 26-12-
1991.
264 VÙNG ĐẤT NAM BỘ VIII THIẾT CHẾ QUẢN LÝ XÃ HỘI

Trước năm
1976-1977 1978-1988 1989-1995 1995 đến nay
1976
16. Long Châu
Hạ (trừ Hà Tiên
cũ) 9. An Giang 10. An Giang 11. An Giang 12. An Giang
13. Thành phố
12. Cần Thơ Cần Thơ
17. Cần Thơ 10. Hậu 13. Sóc 14. Hậu Giang2
18. Sóc Trăng Giang 11.Hậu Giang Trăng 1
15. Sóc Trăng
19. Rạch Giá 11. Kiên 14. Kiên
và Hà Tiên cũ Giang 12. Kiên Giang Giang 16. Kiên Giang
20. Cà Mau 17. Cà Mau
21. Bạc Liêu 12. Minh Hải 13. Minh Hải 15. Minh Hải 18. Bạc Liêu3
22. Gia Định 13. Thành 16. Thành
23. Thành phố phố Hồ Chí 14. Thành phố phố Hồ Chí 19. Thành phố Hồ
Sài Gòn Minh Hồ Chí Minh Minh Chí Minh
13. Thành 16. Thành
23. Thành phố phố Hồ Chí 14. Thành phố phố Hồ Chí 19. Thành phố Hồ
Sài Gòn Minh Hồ Chí Minh Minh Chí Minh

Nguồn: Nguyễn Quang Ân: Việt Nam những thay đổi địa danh, địa giới
hành chính (1945 - 2002), Sđd, Tổng cục Thống kê: Danh mục các đơn vị hành
chính Việt Nam 2008, Sđd.123

b) Tổ chức bộ máy quản lý


Sau đại thắng mùa Xuân năm 1975, nhân dân miền Nam nói chung,
nhân dân Nam Bộ nói riêng vừa phải cùng cả nước bước vào thực hiện
kế hoạch kinh tế vừa phải thực hiện một nhu cầu lớn thứ hai của đất
nước sau chiến tranh là thống nhất nước nhà về mặt nhà nước.
Ngày 20-1-1976, với Chỉ thị của Bộ Chính trị và Quyết định
số 03/QĐ-76 của Hội đồng Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng

1 Theo Nghị quyết của Quốc hội khóa VIII tại kỳ họp thứ 10, ngày 26-12-1991.
2. Theo Nghị quyết số 22/2003/QH11 của Quốc hội khóa XI tại kỳ họp
thứ 4, ngày 26-11-2003
3. Theo Nghị quyết của Quốc hội khóa IX tại kỳ họp thứ 10, ngày 6-11-1996.
CHƯƠNG III: HỆ THỐNG QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH... 265

hòa miền Nam Việt Nam, Ủy ban nhân dân cách mạng thành phố
Sài Gòn - Gia Định được thành lập, thay thế cho Ủy ban quân quản1.
Thành phần ủy ban gồm có: Võ Văn Kiệt làm Chủ tịch; các Phó Chủ
tịch: Mai Chí Thọ, Lê Đình Nhơn, Nguyễn Văn Hiếu; cùng 11 Ủy viên:
Lê Quang Chánh, Nguyễn Duy Cương, Trần Văn Danh, Văn Đại, Bùi
Thanh Khiết, Nguyễn Kiến Lập, Lê Văn Quỳnh, Trần Tấn, Nguyễn Văn
Thuyền, Dương Đình Thảo và Đỗ Duy Liên.
Sang nhiệm kỳ II, Ủy ban nhân dân cách mạng thành phố gồm có:
1 chủ tịch; 3 phó chủ tịch; 12 ủy viên; 26 sở, ngành2. Đến tháng 7-1976,
Ủy ban nhân dân cách mạng thành phố được đổi tên thành Ủy ban nhân
dân Thành phố Hồ Chí Minh cho đến nay.
Trước những đòi hỏi của giai đoạn cách mạng mới, bắt đầu từ năm
1976, hệ thống hành chính ở các tỉnh thuộc Nam Bộ đã liên tục được
hoàn thiện và phát triển theo hướng ngày càng phát huy tính hiệu lực,
hiệu quả quản lý nhà nước ở địa phương trong việc thực hiện chức
năng “điều hành, chỉ huy” các hoạt động quản lý các lĩnh vực kinh
tế, chính trị, văn hóa, xã hội trên toàn quốc. Một loạt các văn bản lớn
của Đảng và Nhà nước về vấn đề này đã được ban hành: Quyết định
số 247-NQ/QH/K6, ngày 26-5-1978 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội
Bổ sung nhiệm vụ và quyền hạn của Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân
dân cấp huyện và quy định lại số lượng thành viên của Ủy ban nhân dân
cấp tỉnh và cấp huyện; Quyết định số 139-CP, ngày 14-6-1978, của Hội

1. Ngay sau khi hoàn toàn giải phóng, tại Sài Gòn - Gia Định, ngày 3-5-
1975, Ủy ban quân quản thành phố được thành lập, gồm: Thượng tướng Trần
Văn Trà (Chủ tịch); các Ủy viên: Đại tá Bùi Thanh Khiết; bác sĩ Nguyễn Văn
Thủy; Vương Kỳ Hiệp; Vũ Thanh Danh, Phạm Minh Tấn. Nguồn: Báo Nhân dân,
ngày 4-5-1975.
2. Xem Võ Thị Vị: “Mô hình và cơ chế vận hành của hệ thống chính quyền
ở Sài Gòn từ năm 1955 đến nay”, bài in trong Phan Xuân Biên (Chủ biên): Một
số vấn đề về xây dựng chính quyền đô thị từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh,
Nxb. Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh, 2007, tr.445.
266 VÙNG ĐẤT NAM BỘ VIII THIẾT CHẾ QUẢN LÝ XÃ HỘI

đồng Chính phủ Ban hành bản quy định chức năng, nhiệm vụ quyền
hạn, tổ chức bộ máy, quan hệ công tác về lề lối làm việc của Ủy ban nhân
dân huyện và các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân huyện;
Nghị quyết số 33-CP ngày 4-2-1978 của Hội đồng Chính phủ về việc
bổ sung nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của chính quyền nhà
nước cấp huyện trong lĩnh vực quản lý kinh tế; Nghị định số 24-CP
ngày 2-2-1976 của Hội đồng Chính phủ quy định về nhiệm vụ, quyền
hạn và trách nhiệm của chính quyền nhà nước cấp tỉnh trong lĩnh vực
quản lý kinh tế.
Bước sang giai đoạn 1980-1992, một trong những mốc quan
trọng nhất của quá trình phát triển, củng cố và hoàn thiện hệ thống
quản lý nhà nước, trong đó có hệ thống hành chính nhà nước ở các
địa phương thuộc Nam Bộ trong giai đoạn này là: Hiến pháp mới
của nước ta đã được Quốc hội khoá VI, kỳ họp thứ 7 thông qua ngày
18-12-1980; tiếp theo là Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban
nhân dân được Quốc hội khóa VII, kỳ họp thứ 6 thông qua ngày 26-
12-1983, được sửa đổi vào năm 1989.
Hiến pháp năm 1980 của nước Cộng Hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam đã dành cả chương IX gồm 14 điều quy định về tổ chức và hoạt
động của Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân. Theo các quy định
của Hiến pháp, hệ thống cơ quan chính quyền địa phương gồm Hội đồng
nhân dân và Ủy ban nhân dân, được tổ chức trên tất cả các đơn vị hành
chính của nước Cộng Hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Theo Hiến pháp năm 1980, “Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền
lực nhà nước ở địa phương, do nhân dân địa phương bầu ra, chịu
trách nhiệm trước nhân dân địa phương và chính quyền cấp trên.
Hội đồng nhân dân quyết định và thực hiện các biện pháp nhằm xây
dựng địa phương về mọi mặt, bảo đảm phát triển kinh tế và văn hóa,
nâng cao đời sống của nhân dân địa phương và hoàn thành nhiệm
CHƯƠNG III: HỆ THỐNG QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH... 267

vụ cấp trên giao cho. Trong hoạt động của mình, Hội đồng nhân dân
dựa vào sự cộng tác chặt chẽ của Mặt trận, các đoàn thể nhân dân và
sự tham gia rộng rãi của công dân”1.
Còn “Ủy ban nhân dân là cơ quan chấp hành của Hội đồng nhân
dân, là cơ quan hành chính Nhà nước ở địa phương. Ủy ban nhân dân
chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Hội đồng nhân dân cùng
cấp và trước Ủy ban nhân dân cấp trên trực tiếp; Ủy ban nhân dân tỉnh,
thành phố trực thuộc Trung ương và cấp tương đương chịu trách nhiệm
và báo cáo công tác trước Hội đồng nhân dân cùng cấp và trước Hội
đồng Bộ trưởng.
Mỗi thành viên Ủy ban nhân dân chịu trách nhiệm cá nhân về phần
công tác của mình trước Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân và cùng
với thành viên khác chịu trách nhiệm tập thể về hoạt động của Ủy ban
nhân dân trước Hội đồng nhân dân”2.
Nhiệm vụ của Ủy ban nhân dân được quy định tại Điều 123 của
Hiến pháp năm 1980 như sau: “Ủy ban nhân dân triệu tập hội nghị Hội
đồng nhân dân cùng cấp; chấp hành nghị quyết của Hội đồng nhân dân
và quyết định, chỉ thị của các cơ quan hành chính cấp trên; quản lý công
tác hành chính ở địa phương; chỉ đạo các ngành, các cấp thuộc quyền
mình nhằm hoàn thành kế hoạch Nhà nước, phát triển kinh tế và văn
hóa, củng cố quốc phòng, cải thiện đời sống nhân dân; xét và giải quyết
các khiếu nại, tố cáo và kiến nghị của nhân dân”3.
Căn cứ vào những quy định của Hiến pháp năm 1980 và Luật tổ
chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân ban hành năm 1983, bộ
máy hành chính địa phương các cấp được tổ chức như sau:

1, 2, 3. Tuyên ngôn Độc lập năm 1945 và các Hiến pháp Việt Nam (1946, 1959,
1980, 1992), Sđd, tr.110-111, 114, 114-115.
268 VÙNG ĐẤT NAM BỘ VIII THIẾT CHẾ QUẢN LÝ XÃ HỘI

Thứ nhất, bộ máy hành chính cấp tỉnh và tương đương bao gồm:
- Ủy ban nhân dân tỉnh gồm: chủ tịch, các phó chủ tịch, ủy viên thư
ký, các ủy viên khác.
- Thường trực Ủy ban nhân dân tỉnh gồm: chủ tịch, các phó chủ
tịch, ủy viên thư ký.
- Tổng số ủy viên Ủy ban nhân dân tỉnh có từ 11 đến 17 người.
- Bộ máy giúp việc của Ủy ban nhân dân tỉnh gồm: Văn phòng Ủy
ban nhân dân và các cơ quan sở, ban, ngành chuyên môn trực thuộc Ủy
ban nhân dân.
Các sở, ban, ngành trực thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh được chia
thành các khối:
+ Khối tổng hợp gồm: Văn phòng Ủy ban nhân dân, Ủy ban Kế
hoạch và Thống kê, Ban Tổ chức chính quyền.
+ Khối nội chính gồm: Sở Tư pháp, Ban Thanh tra, Công an tỉnh,
Toà án nhân dân tỉnh, Viện kiểm sát (theo ngành dọc), Bộ Chỉ huy quân
sự tỉnh (theo ngành dọc).
+ Khối lưu thông phân phối gồm: Sở Thương nghiệp, Sở Tài chính,
Ủy ban Vật giá (sau nhập Sở Tài chính và Ủy ban Vật giá thành Sở Tài
chính - Vật giá, tách thuế thành Cục Thuế), Ngân hàng Nhà nước, Ngân
hàng Đầu tư xây dựng (sau chia Ngân hàng Nhà nước, Ngân hàng Đầu
tư xây dựng thành nhiều ngân hàng và kho bạc), Hợp tác xã mua bán.
+ Khối nông, lâm nghiệp gồm: Sở Nông nghiệp và Thủ công nghiệp,
Sở Giao thông - Vận tải, Sở Bưu điện, Ban Khoa học - Kỹ thuật, Chi cục
Đo lường - Chất lượng.
+ Khối văn xã gồm: Sở Văn hóa, Sở Thông tin, Sở Thể dục thể thao
(sau này ba sở này nhập thành một sở), Sở Giáo dục, Ban Giáo dục
chuyên nghiệp (sau nhập về Sở Giáo dục), Sở Y tế, Bảo vệ Bà mẹ và
trẻ em, Ủy ban quốc gia Dân số và sinh đẻ có kế hoạch (sau đổi tên là
Ủy ban quốc gia Dân số và Kế hoạch hóa gia đình), Sở Lao động, Sở
CHƯƠNG III: HỆ THỐNG QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH... 269

Thương binh và Xã hội (sau Sở Lao động và Sở Thương binh và Xã hội


nhập thành Sở Lao động - Thương binh và Xã hội).
Ngoài các sở, ban, ngành chuyên môn nói trên, còn một số cơ
quan trực thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh như các công ty, trạm, trại, công
trường, nông trường, nhà máy, xí nghiệp, trường học, bệnh viện...
Thứ hai, bộ máy hành chính cấp huyện và tương đương bao gồm:
+ Ủy ban nhân dân cấp huyện gồm từ 9 đến 13 người, trong đó chủ
tịch phụ trách chung và phụ trách khối nội chính, từ 2 đến 3 phó chủ
tịch phụ trách các khối nông, lâm nghiệp, tài chính - thương nghiệp,
công nghiệp - thủ công nghiệp, văn hóa xã hội và các ủy viên khác. Các
thành viên Ủy ban nhân dân được bầu ra trong kỳ họp thứ nhất của mỗi
khoá Hội đồng nhân dân cấp huyện. Chủ tịch, các phó chủ tịch và ủy
viên thư ký của Ủy ban nhân dân cấp huyện hợp thành Thường trực Ủy
ban nhân dân cấp huyện.
Bộ máy giúp việc cho Ủy ban nhân dân cấp huyện gồm: Văn phòng
Ủy ban nhân dân cấp huyện, Ban chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân
cấp huyện.
Các phòng, ban chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cấp huyện có
Phòng Nông nghiệp, Phòng Thủy lợi, Phòng Công nghiệp - Thủ công
nghiệp, Phòng Giao thông, Phòng Xây dựng, Phòng Tài chính - Giá cả,
Phòng Thương nghiệp (sau đổi thành Công ty Thương nghiệp), Phòng
Lương thực (sau đổi thành Công ty Lương thực), Phòng Kế hoạch lao
động, Phòng Thương binh và Xã hội, Phòng Văn hóa - Thông tin - Thể
thao, Phòng Bảo vệ Bà mẹ trẻ em, Phòng Y tế (sau hợp với bệnh viện
thành Trung tâm Y tế), Phòng Giáo dục, Ban Khoa học - Kỹ thuật và
Ban Tổ chức.
Ngoài các phòng, ban chuyên môn còn có các cơ quan chuyên
môn trực thuộc các ngành chuyên môn ở tỉnh chịu sự quản lý hành
chính của Ủy ban nhân dân cấp huyện như các công ty, xí nghiệp,
công trường, nông trường, lâm trường thuộc quyền quản lý của Ủy
ban nhân dân cấp huyện.
270 VÙNG ĐẤT NAM BỘ VIII THIẾT CHẾ QUẢN LÝ XÃ HỘI

Thứ ba, bộ máy hành chính cấp xã và tương đương bao gồm:
Ủy ban nhân dân cấp xã do Hội đồng nhân dân cấp xã bầu ra trong
kỳ họp thứ nhất của mỗi khoá Hội đồng Ủy ban nhân dân cấp xã có từ
7 đến 9 thành viên, gồm: chủ tịch, hai phó chủ tịch, một ủy viên thư ký
và các ủy viên khác. Thường trực Ủy ban nhân dân cấp xã gồm chủ tịch,
các phó chủ tịch và ủy viên thư ký. Bộ máy giúp việc cho Ủy ban nhân
dân cấp xã gồm: Thường trực Văn phòng Ủy ban nhân dân cấp xã, Ban
Tư pháp, Ban Văn hóa xã hội, Ban Nội chính (Ban Công an). Hoạt động
của bộ máy Ủy ban nhân dân xã theo hình thức bán chuyên trách. Ủy
ban nhân dân phường, thị trấn theo hình thức chuyên trách.
Thứ tư, với Thành phố Hồ Chí Minh: Thành phố được chia thành
quận, huyện, phường, xã, thị trấn. Các đơn vị hành chính này đều có
Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân. Hội đồng nhân dân là cơ quan
quyền lực nhà nước ở địa phương, do nhân dân địa phương bầu ra,
chịu trách nhiệm trước nhân dân địa phương và chính quyền cấp trên.
Nhiệm kỳ mỗi khoá Hội đồng nhân dân thành phố là bốn năm. Nhiệm
kỳ mỗi khóa Hội đồng nhân dân các cấp là hai năm. Ủy ban nhân dân
là cơ quan chấp hành của Hội đồng nhân dân, là cơ quan hành chính
nhà nước ở địa phương. Ủy ban nhân dân chịu trách nhiệm báo cáo
công tác trước Hội đồng nhân dân cùng cấp và trước Ủy ban nhân dân
cấp trên trực tiếp. Ủy ban nhân dân thành phố chịu trách nhiệm và báo
cáo công tác trước Hội đồng nhân dân cùng cấp và trước Hội đồng Bộ
trưởng. Mỗi thành viên Ủy ban nhân dân chịu trách nhiệm cá nhân về
phần công tác của mình trước Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân và
cùng với các thành viên khác chịu trách nhiệm tập thể về hoạt động của
Ủy ban nhân dân trước Hội đồng nhân dân. Các thành viên của Ủy ban
nhân dân gồm có: chủ tịch; một hoặc nhiều phó chủ tịch; ủy viên thư ký
và các uỷ viên khác. Nhiệm kỳ của Ủy ban nhân dân theo nhiệm kỳ của
Hội đồng nhân dân.
Các quy định của Hiến pháp năm 1980 và Luật tổ chức Hội đồng
nhân dân và Ủy ban nhân dân năm 1983 đã được cụ thể hóa bằng
CHƯƠNG III: HỆ THỐNG QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH... 271

một loạt các văn bản lớn để điều chỉnh thực tế hoạt động quản lý nhà
nước ở địa phương. Ví dụ như: Theo Điều 1, Quyết định số 202-CP
ngày 26-5-1981 của Hội đồng Chính phủ về Chức năng, nhiệm vụ và
tổ chức việc làm của bộ máy chính quyền thành phố thuộc tỉnh và thị xã1
đã quy định chức năng của cơ quan là “quản lý hành chính Nhà nước,
quản lý kinh tế, văn hóa, xã hội, trật tự trị an”; Quyết định số 94-HĐBT
ngày 26-9-1981 của Hội đồng Bộ trưởng về Chức năng, nhiệm vụ và
tổ chức bộ máy chính quyền cấp phường; Quyết định số 112-HĐBT
ngày 15-10-1981 của Hội đồng Bộ trưởng về Chức năng, nhiệm vụ và
tổ chức bộ máy của chính quyền cấp xã; Nghị định số 156-HĐBT ngày
17-12-1981 của Hội đồng Bộ trưởng Quy định chức năng, nhiệm vụ,
cơ cấu tổ chức và quan hệ công tác của các Văn phòng Ủy ban nhân
dân cấp tỉnh2. Số lượng các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân
dân cấp huyện được tinh giản từ 30 phòng, ban xuống còn 16 phòng,
ban. Sau hai năm thực hiện, qua thực tế quản lý cho thấy cơ cấu này
là không phù hợp. Ngày 4-8-1983, Hội đồng Bộ trưởng đã ban hành
Nghị định số 86-HĐBT về Nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức bộ máy của
cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân huyện3 quy định cơ cấu
tổ chức của Ủy ban nhân dân cấp huyện gồm 25 phòng ban (Điều 3).
Ngày 30-6-1989, Quốc hội đã thông qua Luật tổ chức và hoạt động
của Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân nhằm khắc phục những
nhược điểm trước đây của chính quyền địa phương. So với Luật tổ chức
Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân năm 1983, thì Luật tổ chức Hội
đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân năm 1989 có một số thay đổi cơ
bản như sau:

1. Xem Công báo nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, số 3 năm 1981,
tr.62.
2. Xem Công báo nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, số 6 năm 1981,
tr.106.
3. Xem Công báo nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, số 14 năm 1983,
tr.263-264.
272 VÙNG ĐẤT NAM BỘ VIII THIẾT CHẾ QUẢN LÝ XÃ HỘI

Thứ nhất, Ban thư ký của Hội đồng nhân dân trước đây được thay
bằng Thường trực Hội đồng nhân dân; đã đưa Ủy ban nhân dân trở
lại là cơ quan chấp hành của Hội đồng nhân dân, không còn thực hiện
chức năng hai mặt như trước.
Thứ hai, trong cơ cấu tổ chức của Ủy ban nhân dân, chức danh
ủy viên thư ký và bộ phận thường trực của Ủy ban nhân dân đã bị bãi
bỏ nhằm tăng cường vai trò làm việc tập thể của Ủy ban nhân dân,
đồng thời tăng cường trách nhiệm cá nhân của chủ tịch, phó chủ tịch
và các thành viên khác của Ủy ban nhân dân.
Thứ ba, trong các quy định của pháp luật trước đây, các thành viên
Ủy ban nhân dân nhất thiết phải là đại biểu Hội đồng nhân dân, nhưng
theo quy định của Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân
năm 1989 thì chỉ có Chủ tịch Ủy ban nhân dân phải là đại biểu Hội đồng
nhân dân còn các thành viên khác không nhất thiết phải là thành viên
Hội đồng nhân dân.
Từ năm 1992, các sự kiện quan trọng đánh dấu sự đổi mới về tổ
chức bộ máy hành chính nhà nước ở địa phương nói chung và ở các tỉnh
thuộc Nam Bộ nói riêng là: sự ra đời của Hiến pháp năm 1992 và Luật tổ
chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân năm 2003.
Trên cơ sở của Hiến pháp 1992, tại kỳ họp thứ 5 Quốc hội khoá IX,
ngày 21-6-1994, Quốc hội đã thông qua Luật tổ chức Hội đồng nhân
dân và Ủy ban nhân dân thay thế Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và
Ủy ban nhân dân năm 1989.
Theo Điều 1, Chương 1, Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban
nhân dân năm 19941 thì Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực Nhà
nước ở địa phương, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ
của nhân dân, do nhân dân địa phương bầu ra, chịu trách nhiệm trước

1. Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân năm 1994, Cổng
thông tin điện tử Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, tại trang
web: www.chinhphu.vn.
CHƯƠNG III: HỆ THỐNG QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH... 273

nhân dân địa phương và cơ quan nhà nước cấp trên. Hội đồng nhân dân
thực hiện những nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định của Hiến pháp và
pháp luật, bảo đảm sự lãnh đạo thống nhất của Trung ương đồng thời
phát huy quyền chủ động, sáng tạo của địa phương.
Theo Điều 38, Mục IV, Chương II: Hội đồng nhân dân cấp tỉnh
thành lập ba ban: Ban Kinh tế và Ngân sách, Ban Văn hóa - Xã hội, Ban
Pháp chế; nơi nào có nhiều dân tộc thì có thể thành lập Ban dân tộc.
Hội đồng nhân dân cấp huyện thành lập hai ban: Ban Kinh tế - Xã hội,
Ban Pháp chế.
Theo Điều 2, Chương I: Ủy ban nhân dân do Hội đồng nhân dân
bầu là cơ quan chấp hành của Hội đồng nhân dân, cơ quan hành chính
Nhà nước ở địa phương, chịu trách nhiệm chấp hành Hiến pháp, pháp
luật, các văn bản của cơ quan Nhà nước cấp trên, nghị quyết của Hội
đồng nhân dân cùng cấp.
Theo Điều 41, Mục I, Chương III: Ủy ban nhân dân tổ chức và chỉ
đạo việc thi hành Hiến pháp, pháp luật, các văn bản của cơ quan Nhà
nước cấp trên và nghị quyết của Hội đồng nhân dân cùng cấp. Ủy ban
nhân dân cấp trên chỉ đạo hoạt động của Ủy ban nhân dân cấp dưới
trực tiếp.
Về tổ chức và hoạt động của Ủy ban nhân dân được quy định tại
Điều 46, Mục II, Chương III như sau: Ủy ban nhân dân do Hội đồng
nhân dân cùng cấp bầu ra gồm có chủ tịch, phó chủ tịch và ủy viên. Chủ
tịch Ủy ban nhân dân là đại biểu Hội đồng nhân dân. Các thành viên
khác của Ủy ban nhân dân không nhất thiết phải là đại biểu Hội đồng
nhân dân.
Đối với bộ máy hành chính cấp tỉnh và tương đương: Ủy ban nhân
dân cấp tỉnh gồm từ 9 đến 11 thành viên (Ủy ban nhân dân Thành phố
Hồ Chí Minh không quá 13 thành viên). Trong đó có Chủ tịch Ủy ban
nhân dân tỉnh phụ trách chung và phụ trách khối nội chính; các phó
chủ tịch phụ trách các khối tổng hợp, khối nông, lâm nghiệp, khối tài
chính - thương nghiệp, khối công nghiệp, khối văn xã.
274 VÙNG ĐẤT NAM BỘ VIII THIẾT CHẾ QUẢN LÝ XÃ HỘI

Cơ quan chuyên môn trực thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh gồm các
sở, ban, ngành giúp Ủy ban nhân dân tỉnh thực hiện chức năng quản lý
nhà nước ở địa phương. Trong đó có:
Các sở: Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Sở Tài chính - Vật
giá, Sở Thương mại, Sở Công nghiệp, Sở Điện lực, Sở Khoa học, Công
nghệ và Môi trường, Sở Giao thông - Vận tải, Sở Giáo dục - Đào tạo, Sở
Văn hóa - Thông tin, Sở Thể dục - Thể thao, Sở Lao động - Thương binh
và Xã hội, Sở Y tế, Sở Tư pháp, Sở Xây dựng.
Các ban: Ban Tổ chức chính quyền, Ủy ban Thanh tra nhà nước
tỉnh, Ủy ban Kế hoạch, Ủy ban Bảo vệ Bà mẹ và trẻ em, Ủy ban Dân số
và Kế hoạch hóa gia đình, Ban Định canh định cư và kinh tế mới, Ban
Thi đua khen thưởng.
Các cơ quan khác (quản lý theo ngành dọc): Bộ Chỉ huy quân
sự tỉnh, Công an tỉnh, Bưu điện tỉnh, Cục thuế tỉnh, Cục Thống kê,
Ngân hàng nhà nước tỉnh, Ngân hàng Đầu tư xây dựng cơ bản, Ngân
hàng Nông nghiệp, Ngân hàng Ngoại thương, Kho bạc.
Ngoài các cơ quan trên, Ủy ban nhân dân tỉnh còn quản lý một số
cơ quan trực thuộc như: các nhà máy, xí nghiệp, công ty; các trạm, trại;
các trung tâm, công, nông, lâm trường, trường học, bệnh viện, Đài phát
thanh truyền hình...
Đối với bộ máy hành chính cấp huyện và tương đương: Ủy ban nhân
dân cấp huyện có từ 7 đến 9 thành viên. Trong đó chủ tịch phụ trách
chung, một Phó chủ tịch thường trực, các phó chủ tịch phụ trách các
khối, các ủy viên Ủy ban nhân dân phụ trách các ngành.
Các cơ quan giúp việc Ủy ban nhân dân huyện gồm: Văn phòng
Ủy ban nhân dân, Phòng Tổ chức - Lao động - Thương binh - Xã hội,
Phòng Tư pháp, Phòng Tài chính - Vật giá, Phòng Văn hóa - Thông tin -
Thể thao, Phòng Nông, Lâm, Thủy lợi, Phòng Công nghiệp và Thủ
công nghiệp, Phòng Kế hoạch - Thống kê, Phòng Giao thông, Phòng
Giáo dục, Ban Dân tộc và Miền núi (đối với các huyện miền núi), Ban
Thanh Tra, Ban Dân số và Kế hoạch hóa gia đình, Trung tâm Y tế...
CHƯƠNG III: HỆ THỐNG QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH... 275

Ngoài ra còn có các cơ quan khác như các công ty, ngân hàng, kho bạc,
chi cục thuế, hạt kiểm lâm, các trạm, trại, lâm trường, Đài phát thanh,
truyền hình...
Đối với bộ máy hành chính cấp xã và tương đương: Ủy ban nhân dân
cấp xã có từ 5 đến 7 thành viên. Trong đó có Chủ tịch Ủy ban nhân dân
xã phụ trách các vấn đề chung, Phó Chủ tịch kiêm Trưởng Công an xã
và các ủy viên khác.
Giúp việc Ủy ban nhân dân cấp xã có một số ban hoặc tổ như: Ban
Nội chính, Ban Tư pháp, Ban Địa chính, Ban Văn hóa thông tin. Văn
phòng Ủy ban nhân dân cấp xã không có chánh văn phòng mà chỉ có
một cán bộ trực Văn phòng Ủy ban nhân dân và một đến hai cán bộ làm
nhiệm vụ hành chính tổng hợp.
Đến năm 20031, Hội đồng nhân dân được xác định là cơ quan
quyền lực nhà nước ở địa phương, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và
quyền làm chủ của nhân dân, do nhân dân địa phương bầu ra, chịu
trách nhiệm trước nhân dân địa phương và cơ quan nhà nước cấp trên.
Hội đồng nhân dân quyết định những chủ trương, biện pháp quan
trọng để phát huy tiềm năng của địa phương, xây dựng và phát triển địa
phương về kinh tế - xã hội, củng cố quốc phòng, an ninh, không ngừng
cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, làm tròn nghĩa vụ
của địa phương đối với cả nước.
Hội đồng nhân dân thực hiện quyền giám sát đối với hoạt động
của thường trực Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, Toà án nhân
dân, Viện Kiểm sát nhân dân cùng cấp, giám sát việc thực hiện các nghị
quyết của Hội đồng nhân dân; giám sát việc tuân theo pháp luật của cơ
quan nhà nước; tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân
dân và của công dân ở địa phương. Hội đồng nhân dân tổ chức và hoạt
động theo nguyên tắc tập trung dân chủ.

1. Xem Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân số 11/2003/QH11
ngày 26-11-2003, Cổng thông tin điện tử Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam, tại trang web: www.chinhphu.vn.
276 VÙNG ĐẤT NAM BỘ VIII THIẾT CHẾ QUẢN LÝ XÃ HỘI

Hội đồng nhân dân được tổ chức ở các đơn vị hành chính sau đây:
tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (gọi chung là cấp tỉnh); huyện,
quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (cấp huyện); xã, phường, thị trấn
(cấp xã).
Số lượng đại biểu Hội đồng nhân dân và thể thức bầu cử đại biểu
Hội đồng nhân dân các cấp do Luật bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân
quy định. Nhiệm kỳ mỗi khóa của Hội đồng nhân dân các cấp là 5 năm.
Hội đồng nhân dân chịu sự giám sát và hướng dẫn hoạt động của Ủy
ban Thường vụ Quốc hội, chịu sự hướng dẫn và kiểm tra của Chính phủ
trong việc thực hiện các văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên theo
quy định của Ban Thường vụ Quốc hội.
Ủy ban nhân dân do Hội đồng nhân dân bầu là cơ quan chấp hành
của Hội đồng nhân dân, cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương,
chịu trách nhiệm trước Hội đồng nhân dân cùng cấp và cơ quan nhà
nước cấp trên. Ủy ban nhân dân chịu trách nhiệm chấp hành Hiến
pháp, luật, các văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên và nghị quyết
của Hội đồng nhân dân cùng cấp nhằm đảm bảo thực hiện chủ trương,
biện pháp phát triển kinh tế - xã hội, củng cố quốc phòng, an ninh và
thực hiện các chính sách khác trên địa bàn. Ủy ban nhân dân thực hiện
chức năng quản lý nhà nước ở địa phương, góp phần bảo đảm sự chỉ
đạo, quản lý thống nhất trong bộ máy hành chính nhà nước từ Trung
ương tới cơ sở. Ủy ban nhân dân tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc
tập trung dân chủ.
Tổ chức Ủy ban nhân dân gồm: chủ tịch, phó chủ tịch, và ủy viên.
Chủ tịch Ủy ban nhân dân là đại diện Hội đồng nhân dân. Các thành
viên khác của Ủy ban nhân dân không nhất thiết phải là đại biểu Hội
đồng nhân dân. Số lượng thành viên của Ủy ban nhân dân các cấp được
quy định như sau: Ủy ban nhân dân cấp tỉnh có từ 9 đến 11 thành viên;
CHƯƠNG III: HỆ THỐNG QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH... 277

Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh có không quá 13 thành viên;
Ủy ban nhân dân cấp huyện có từ 7 đến 9 thành viên; Ủy ban nhân dân
cấp xã có từ 3 đến 5 thành viên. Số lượng thành viên và số phó chủ tịch
Ủy ban nhân dân của mỗi cấp do Chính phủ quy định.
Theo Nghị định số 171/2004/NĐ-CP, ngày 29-9-2004 của Chính
phủ Quy định tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân
tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, vị trí của cơ quan chuyên môn
thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh là cơ quan tham mưu, giúp Ủy ban
nhân dân cấp tỉnh thực hiện chức năng quản lý nhà nước ở địa phương
và thực hiện một số nhiệm vụ, quyền hạn theo sự ủy quyền của Ủy ban
nhân dân cấp tỉnh và theo quy định của pháp luật; góp phần bảo đảm
sự thống nhất quản lý của ngành hoặc lĩnh vực công tác từ Trung ương
đến cơ sở. Các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh
chịu sự chỉ đạo, quản lý về tổ chức, biên chế và công tác của Ủy ban
nhân dân cấp tỉnh, đồng thời chịu sự chỉ đạo, kiểm tra về nghiệp vụ của
cơ quan chuyên môn cấp trên1. Theo nghị định này, các cơ quan chuyên
môn thuộc Ủy ban nhân dân, gồm có: 1. Sở Nội vụ; 2. Sở Tài chính; 3.
Sở Kế hoạch và Đầu tư; 4. Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn; 5.
Sở Công nghiệp; 6. Sở Xây dựng; 7. Sở Giao thông vận tải (ở các thành
phố trực thuộc Trung ương là Sở Giao thông - Công chính); 8. Sở Tài
nguyên và Môi trường; 9. Sở Thương mại và Du lịch; 10. Sở Khoa học
và Công nghệ; 11. Sở Giáo dục và Đào tạo; 12. Sở Y tế; 13. Sở Văn hóa -
Thông tin và Thể dục thể thao; 14. Sở Lao động - Thương binh và Xã
hội; 15. Sở Tư pháp; 16. Sở Bưu chính, Viễn thông; 17. Thanh tra tỉnh;
18. Ủy ban Dân số - Gia đình và trẻ em; 19. Văn phòng Ủy ban nhân

1. Xem Nghị định của Chính phủ số 171/2004/NĐ-CP ngày 29-9-2004 Quy
định tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực
thuộc Trung ương­, Cổng thông tin điện tử Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam, tại trang web: www.chinhphu.vn.
278 VÙNG ĐẤT NAM BỘ VIII THIẾT CHẾ QUẢN LÝ XÃ HỘI

dân. Thành phố Hồ Chí Minh có thêm Sở Quy hoạch - Kiến trúc, Sở
Ngoại vụ; đồng thời tách Sở Văn hóa - Thông tin và Thể dục thể thao
thành Sở Văn hóa - Thông tin và Sở Thể dục thể thao; tách Sở Thương
mại và Du lịch thành Sở Thương mại và Sở Du lịch.
*
* *
Sau đại thắng mùa Xuân năm 1975, đất nước ta đã hoàn toàn độc
lập, thống nhất và đi lên chủ nghĩa xã hội. Từ năm 1986, cả nước thực
hiện công cuộc đổi mới sâu sắc và toàn diện, đưa đất nước bước vào
thời kỳ phát triển mới. Cùng với cả nước, sau hơn 30 năm xây dựng
và phát triển, tổ chức bộ máy và hoạt động của chính quyền các tỉnh,
thành phố trực thuộc Trung ương ở Nam Bộ đã có nhiều thay đổi to
lớn, không ngừng được đổi mới, cải tiến, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ chỉ
đạo, điều hành phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội, địa lý hành chính
của các địa phương. Tổ chức bộ máy, chức năng, nhiệm vụ của các cơ
quan hành chính nhà nước ở các địa phương của Nam Bộ đã từng bước
được điều chỉnh theo yêu cầu của quá trình chuyển từ cơ chế quản lý
kế hoạch hóa, tập trung, hành chính và bao cấp sang cơ chế quản lý nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Tuy nhiên, chức năng nhiệm vụ của Hội đồng nhân dân và Ủy ban
nhân dân các cấp ở Nam Bộ cũng như trong cả nước chưa có sự phân
biệt rõ ràng giữa đô thị và nông thôn; quan hệ nội thuộc (quan hệ dọc)
và quan hệ ngoại thuộc (quan hệ ngang) còn thiếu thống nhất, đồng
bộ trong nền hành chính địa phương; nhiều cơ quan chuyên môn còn
chồng chéo nhau trong hoạt động hành chính... Chính vì vậy, yêu cầu
tiếp tục đổi mới, cải cách bộ máy tổ chức hành chính ở các địa phương
Nam Bộ vẫn là những yêu cầu cấp thiết, nhằm tạo điều kiện thuận lợi
nhất cho sự phát triển kinh tế - xã hội ở các địa phương.
279

Chương IV

LÀNG XÃ VÀ CÁC THIẾT CHẾ TỰ QUẢN


CỦA NGƯỜI VIỆT Ở NAM BỘ
I- VÀI NÉT VỀ LÀNG XÃ NGƯỜI VIỆT VÀ CÁC HÌNH THỨC TỰ QUẢN
CỦA NGƯỜI VIỆT

1. Vài nét về làng xã người Việt


Trong nghiên cứu về Việt Nam, vấn đề làng - xã của người Việt sớm
được quan tâm với nhiều phát hiện, khám phá thú vị, bên cạnh không ít
thách thức cả về khung lý thuyết và thực tiễn. Thật khó có thể xác định
một mô thức chung cho làng xã người Việt, ngay cả đối với từng khu vực
Bắc Bộ, Trung Bộ, Nam Bộ, cũng như cả nước nói chung, bởi tính đa
nguyên và đa dạng của thực thể này. Tuy vậy, những kết quả nghiên cứu
trong nhiều năm qua của các thế hệ nhà khoa học trong nước và ngoài
nước đã có thể mang lại những hiểu biết nhất định về làng xã người Việt1.

1. Trong trường hợp này cần lưu ý rằng sự khái quát về làng xã của người Việt,
do các yếu tố thời đại và thực tế kết quả nghiên cứu, gần như mới chỉ dừng lại ở mô
hình làng xã của người Việt ở Bắc Bộ, còn các công trình nghiên cứu về làng xã người
Việt ở Trung Bộ và Nam Bộ hầu như vẫn chỉ là nghiên cứu trường hợp, chưa có những
công trình có tính khái quát cao và mang tính tổng kết. Bởi vậy, làng xã người Việt nói
chung, làng xã người Việt ở Bắc Bộ nói riêng, được trình bày ở đây với hàm nghĩa của
một mô hình tổ chức, được phác dựng nhằm tạo một mô hình cơ sở, hay là một “giả
thuyết làm việc” để xây dựng nền tảng tri thức chung cho những tiếp cận đối với làng
xã người Việt ở Nam Bộ, đồng thời cũng là đối tượng để tham chiếu, so sánh trong
quá trình tìm hiểu, nghiên cứu về làng xã người Việt ở Nam Bộ với quan điểm làng xã
người Việt ở Nam Bộ có những nét đặc thù phong phú nhưng vẫn là một bộ phận hữu
cơ, không tách rời của làng xã người Việt nói chung.
280 VÙNG ĐẤT NAM BỘ VIII THIẾT CHẾ QUẢN LÝ XÃ HỘI

Theo nhà dân tộc học Trần Từ (tức Nguyễn Đức Từ Chi), “Làng”
(廊) là một từ thuần Việt, một chữ Nôm, chỉ đơn vị tụ cư hoàn chỉnh
có quy mô nhỏ nhất của người nông dân; còn “Xã” (社) là một từ Hán
Việt có gốc Hán (Trung Quốc), chỉ đơn vị hành chính cấp thấp nhất ở
các vùng nông thôn Việt Nam. Trên khu vực đồng bằng và trung du Bắc
Bộ, tùy từng trường hợp cụ thể mà xã của người Việt có thể bao gồm
từ một làng cho đến nhiều làng. Được tích hợp vào xã, làng trở thành
yếu tố cấu thành của một đơn vị hành chính và mang tên “Thôn” (村) -
cũng là một từ Hán Việt. Như vậy, “làng” và “thôn” là hai thuật ngữ gần
như đồng nghĩa, nhưng mang sắc độ ý nghĩa khác nhau, trong đó “làng”
thường được sử dụng trong ngôn ngữ thông thường với hàm nghĩa tình
cảm, còn “thôn” biểu thị ý nghĩa mang nặng tính chất hành chính1.
Với tư cách một cấp hành chính, khi xã chỉ gồm một làng (hay một
làng trở thành một đơn vị hành chính cấp xã) thì thường được gọi là
kết cấu “nhất xã nhất thôn”. Trong trường hợp này, trên bi ký và các
văn bản hành chính, tên các làng đó thường được gắn với khái niệm
“xã”. Ví dụ, vào cuối thế kỷ XIX, làng Đào Thục trở thành một đơn vị
hành chính cấp xã (tức xã Đào Thục, tổng Xuân Nộn, huyện Đông Anh,
phủ Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh, nay thuộc xã Thụy Lâm, huyện Đông Anh,
thành phố Hà Nội) thì các văn bản đều ghi là “Đào Thục xã tục lệ”, “Đào
Thục xã địa bạ”... Trong trường hợp một xã gồm nhiều làng (hay nhiều
làng được tập hợp, tổ chức lại thành một đơn vị hành chính cấp xã) thì
thường được gọi là kết cấu “nhất xã nhị tam thôn”. Khi đó, trong bi ký
và các văn bản hành chính, từ “làng” được thay bằng từ “thôn” và được
đặt đứng phía sau từ “xã”. Ví dụ, cũng ở cuối thế kỷ XIX, xã Thư Lâm
(thuộc tổng Xuân Nộn, huyện Đông Anh, phủ Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh,
nay thuộc xã Thụy Lâm, huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội) gồm 4

1. Xem Trần Từ: Cơ cấu tổ chức của làng Việt cổ truyền ở Bắc Bộ, Nxb. Khoa
học xã hội, Hà Nội, 1984, tr.135.
CHƯƠNG IV: LÀNG XÃ VÀ CÁC THIẾT CHẾ TỰ QUẢN... 281

làng là Cổ Miếu, Biểu Khê, Mạnh Tân và Hương Trầm thì văn bản tục lệ
của làng Cổ Miếu sẽ ghi là “Thư Lâm xã, Cổ Miếu thôn tục lệ”, tương tự
văn bản tục lệ của làng Biểu Khê sẽ ghi là “Thư Lâm xã, Biểu Khê thôn
tục lệ”...
Như vậy, làng đồng nhất với thôn trong cả hai trường hợp “nhất xã
nhất thôn” và “nhất xã nhị tam thôn”. Nói cách khác, từ thôn trong các
văn bản Hán Nôm chỉ một làng truyền thống được nhà nước lắp ghép
thành đơn vị hành chính cơ sở (xã) mà số làng được tích hợp tùy từng
vùng và từng giai đoạn lịch sử nhất định.
Từ thuở các Vua Hùng dựng nước buổi sơ khai đến kỷ nguyên nhà
nước độc lập tự chủ từ thế kỷ X với các vương triều Ngô (939-965),
Đinh (968-980), Tiền Lê (980-1009), Lý (1009-1225), Trần (1226-1400),
Hồ (1400-1407), Lê Sơ (1428-1527), Mạc (1527-1592), Lê Trung Hưng
(1533-1788), Tây Sơn (1778-1802) và Nguyễn (1802-1945) sau này, làng
xã luôn giữ vai trò là đơn vị cơ sở xã hội, bao hàm cả về kinh tế, hành
chính và văn hóa. Tuy nhiên, vai trò và chức năng của các làng xã người
Việt không phải khi nào cũng được phát huy hoặc đề cao. Tiềm năng
của các làng xã được khai thác tùy thuộc rất nhiều vào năng lực nội tại
của bản thân làng xã và mức độ đồng thuận giữa người dân làng xã với
chính sách của chính quyền nhà nước đương thời. Mặt khác, hiệu quả
khai thác tiềm năng các làng xã còn phụ thuộc rất nhiều vào tính chất
của chính quyền nhà nước, với sự khác biệt rõ rệt giữa chính quyền nhà
nước của quốc gia thời kỳ độc lập tự chủ so với thời kỳ bị đô hộ bởi các
thế lực ngoại bang.
Trong suốt một thời gian dài trước đây, nhiều nghiên cứu xuất phát
từ việc coi tính tự trị, năng lực tự quản, kết cấu chặt chẽ là đặc trưng
nổi bật của làng Việt và đề cao khái niệm “cộng đồng làng xã”. Điều đó
đã dẫn tới việc mô tả làng xã như một cộng đồng đóng kín, mang tính
hướng nội và được định hướng sâu sắc bởi truyền thống. Ở đó, mỗi
282 VÙNG ĐẤT NAM BỘ VIII THIẾT CHẾ QUẢN LÝ XÃ HỘI

người dân đều cố gắng “hòa nhập với cộng đồng” hay “gắn bó với cộng
đồng”. Bởi vậy, cơ cấu xã hội của làng được coi như là một tập thể hoàn
hảo có những chức năng kỳ diệu, nơi mà tư cách đạo đức của cộng
đồng thay thế cho mỗi cá nhân trong làng1. Do vậy, tính cộng đồng của
làng xã người Việt được lý tưởng hóa, và thể chế làng xã thường được
mô tả như là một hệ thống hài hòa, hay ít ra là một hệ thống đang vươn
tới sự hài hòa. Và như vậy, những vấn đề về quyền lực, tranh chấp,
tương quan lực lượng, cũng như những nguy cơ tiềm ẩn khác bị lờ đi,
dần dẫn đến sự rạn nứt, thậm chí đổ vỡ của tự thân quan niệm này.
Cuối cùng, chính vì làng được coi là khép kín và tự trị nên mối quan
hệ làng - nước chỉ dừng lại ở ba nghĩa vụ cơ bản là thuế, dân công và
quân dịch, còn lại hầu như coi làng Việt thoát ra khỏi những can thiệp
của nhà nước.
Tuy nhiên, quan niệm nêu trên về làng xã người Việt ngày càng
tỏ ra thiếu chân thực. Các nghiên cứu về làng xã hiện nay, nhất là
nhiều công trình nghiên cứu theo hướng Nhân học của các học giả
nước ngoài được tiến hành từ sau Đổi mới, đã đem lại những nhận
định mới và chính xác hơn về cộng đồng làng xã. Những nghiên cứu
mới đây đã chỉ ra rằng xã hội làng xã người Việt ở châu thổ Bắc Bộ
cũng như trên khắp Việt Nam nói chung thực ra luôn cởi mở và phóng
khoáng hơn nhiều so với quan niệm cũ trước đây2. Theo đó, làng xã
không phải là một thực thể gắn kết hoàn toàn và thụ động trong mối

1. Xem Philippe Papin, Olivier Tessier (Chủ biên): Làng ở vùng châu thổ sông
Hồng: vấn đề còn bỏ ngỏ, Trung tâm Khoa học xã hội và Nhân văn quốc gia, Hà
Nội, 2002, tr.21.
2. Xem John Kleinen: Làng Việt đối diện tương lai, hồi sinh quá khứ, Nxb. Đà
Nẵng, 2007; Philippe Papin, Olivier Tessier (Chủ biên): Làng ở vùng châu thổ sông
Hồng: vấn đề còn bỏ ngỏ, Sđd; Hy V. Lương: Revolution in the Village: Tradition
and Transformation in North Vietnam, 1925-1988, University of Hawaii Press,
Honolulu, 1992; Benedict J. Tria Kerkvliet: The Power of Everyday Politics, Cornell
University Press, 2005.
CHƯƠNG IV: LÀNG XÃ VÀ CÁC THIẾT CHẾ TỰ QUẢN... 283

quan hệ với nhà nước. Ngược lại, bên trong mỗi làng xã đều có những
biểu hiện của đời sống chính trị đầy biến động, ở đó có sự tương tác,
đồng thuận và cả những xung đột giữa các lực lượng, tổ chức xã hội.
Cơ cấu làng xã trải qua nhiều biến đổi và luôn có sức phản kháng đối
với những đe dọa từ cả bên trong lẫn bên ngoài. Khi trình bày quan
điểm này, qua các nghiên cứu công phu về làng xã người Việt ở đồng
bằng châu thổ sông Hồng, nhóm các tác giả Philippe Papin, Olivier
Tessier và cộng sự cho rằng: “Làng là một cộng đồng được hình thành
nên từ quá trình tranh chấp, vi phạm, điều chỉnh, thỏa hiệp và trao
đổi, rằng “làng” biến đổi không ngừng và những quy ước xã hội là nền
tảng của “làng” thay đổi tùy thuộc vào hoàn cảnh, cơ cấu xã hội, chính
trị, kinh tế và tôn giáo cũng như vào lợi ích của mỗi cá nhân”1. Chia
sẻ quan điểm với các tác giả Làng ở vùng châu thổ sông Hồng: vấn đề
còn bỏ ngỏ, trong luận án tiến sĩ nghiên cứu về làng xã Việt Nam của
mình, John Kleinen cũng nhấn mạnh đến “sức mạnh nội lực” của cơ
cấu làng xã khi cho rằng: “Làng Việt Nam truyền thống không phải
là những cộng đồng tự nhiên, bền vững và có tính chất tương hỗ lẫn
nhau, nơi mà cộng đồng và khu vực chồng chéo lên nhau. Thay vào
đó, nó khá giống những thế giới thu nhỏ có tổ chức, cũng chịu sự đe
dọa của cả các thế lực bên trong và bên ngoài”2. Hơn thế nữa, làng xã
người Việt không hề là một thực thể đóng kín và thụ động trong mối
quan hệ làng - nước. Trong truyền thống, với trường hợp nghiên cứu
cụ thể tại châu thổ Bắc Bộ, làng xã người Việt thường phản đối sự can
thiệp của Nhà nước, trước hết là ở vấn đề nguồn lực lao động và đất
đai mà hiện tượng di dân là một biểu hiện quan trọng3.

1. Philippe Papin, Olivier Tessier (Chủ biên): Làng ở vùng châu thổ sông Hồng:
vấn đề còn bỏ ngỏ, Sđd, tr.25.
2. John Kleinen: Làng Việt đối diện tương lai, hồi sinh quá khứ, Sđd, tr.240.
3. Xem John Kleinen: Làng Việt đối diện tương lai, hồi sinh quá khứ, Sđd, tr. 18.
284 VÙNG ĐẤT NAM BỘ VIII THIẾT CHẾ QUẢN LÝ XÃ HỘI

Có thể coi nhà dân tộc học Trần Từ là người đầu tiên đã cố gắng
hệ thống hóa một cách tương đối đầy đủ về cơ cấu tổ chức xã hội của
làng xã người Việt ở Bắc Bộ. Theo ông, tổng thể cơ cấu xã hội ở làng
xã Việt cổ truyền được tạo thành bởi 5 hình thức tập hợp người, bao
gồm: 1) Tập hợp người theo địa vực (ngõ, xóm...); 2) Tập hợp người
theo huyết thống (tộc họ); 3) Tập hợp người theo lớp tuổi (giáp); 4)
Tập hợp người trong bộ máy chính quyền ở cấp xã (dân hàng xã, Hội
đồng kỳ dịch (hay Hội đồng kỳ mục), lý dịch); 5) Tập hợp người trong
những tổ chức dựa trên lòng tự nguyện tham gia của từng cá nhân
(phe, hội, phường)1.
Trong cuốn sách Kinh nghiệm tổ chức quản lý nông thôn Việt Nam
trong lịch sử xuất bản năm 1994, những nghiên cứu của Phan Đại
Doãn, Nguyễn Quang Ngọc và cộng sự đã tổng kết về mô hình các tổ
chức của làng xã truyền thống như sau:

Sơ đồ 10: Thiết chế chính trị xã hội nông thôn năm 1945

Nguồn: Phan Đại Doãn - Nguyễn Quang Ngọc (Chủ biên): Kinh nghiệm
tổ chức quản lý nông thôn Việt Nam trong lịch sử, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà
Nội, 1994, tr.58.

1. Xem Trần Từ: Cơ cấu tổ chức của làng Việt cổ truyền ở Bắc Bộ, Sđd.
CHƯƠNG IV: LÀNG XÃ VÀ CÁC THIẾT CHẾ TỰ QUẢN... 285

Theo mô hình trên, đặc điểm lớn nhất về tổ chức của làng xã
người Việt là sự đa hệ thống, với ít nhất hai hệ thống thiết chế tổ chức
cùng tồn tại song hành là các tổ chức quan phương và các tổ chức phi
quan phương. Mỗi loại hình tổ chức khác nhau có cách thức vận hành
và chức năng riêng. Tuy nhiên, ẩn dưới vẻ bề ngoài tưởng như rời rạc,
lẻ tẻ ấy lại là một sự thống nhất và phụ thuộc lẫn nhau rất chặt chẽ.
Các tổ chức “chính thức” cùng với những tổ chức “phi chính thức”
hợp thành một kết cấu tương đối hoàn chỉnh, nhằm quản lý mọi hoạt
động của làng xã. Phương sách quản lý và vận hành của các tổ chức
quan phương chủ yếu dựa vào thể chế kinh tế, chính trị và những văn
bản luật pháp nhất định. Trong khi đó, các tổ chức phi quan phương
vận hành chủ yếu thông qua tác dụng ràng buộc của những quy phạm
đạo đức và dư luận xã hội, được gọi tắt là lệ làng. Kết cấu tổ chức như
trên được Phan Đại Doãn gọi là kết cấu quyền lực kép1, thể hiện mối
quan hệ đan cài giữa các tổ chức, lực lượng bên trong những làng xã
người Việt, đồng thời cho thấy mối quan hệ giữa làng với cấp quản lý
cao hơn là nhà nước.

2. Về các hình thức tự quản của người Việt


a) Quá trình lịch sử
Làng xã cổ truyền Việt Nam có lịch sử lâu đời, gắn liền với các điều
kiện tự nhiên, xã hội khá phức tạp. Quá trình hình thành và phát triển
của mỗi làng xã thường liên quan trực tiếp với nền sản xuất kinh tế
tương ứng, gắn bó chặt chẽ với quá trình chinh phục, khai phá các vùng
đồng bằng và thung lũng trên khắp lãnh thổ Việt Nam. Chính trong quá
trình chinh phục tự nhiên, khai khẩn đất hoang, làm thủy lợi, các cộng
đồng cư dân người Việt đã tạo ra cơ cấu tổ chức xã hội phù hợp và dần

1. Xem Phan Đại Doãn - Nguyễn Quang Ngọc (Chủ biên): Kinh nghiệm tổ
chức quản lý nông thôn Việt Nam trong lịch sử, Sđd.
286 VÙNG ĐẤT NAM BỘ VIII THIẾT CHẾ QUẢN LÝ XÃ HỘI

hình thành truyền thống đoàn kết cộng đồng, tự quản, tự trị của làng
xã, đồng thời tạo cơ sở xã hội tương đối vững chắc cho nhà nước trong
công cuộc đấu tranh chống thiên tai, địch họa, chống ngoại xâm để tồn
tại và phát triển một cách tự chủ, độc lập.
Ngay từ buổi đầu dựng nước, nhất là từ thời kỳ đầu Công nguyên,
sự giao lưu, tiếp biến văn hóa của cư dân Việt cổ với nền văn hóa Hán đã
thúc đẩy, phát triển các kỹ thuật tiên tiến trong việc chế tạo công cụ sản
xuất, kỹ thuật đúc đồng, làm đồ gốm... tạo ra cuộc cách mạng về nông
cụ, từ đó đẩy mạnh thêm một bước tiến bộ vượt bậc của nền sản xuất
nông nghiệp lúa nước của người Việt. Sự phát triển và yêu cầu thực tiễn
của loại hình nông nghiệp ruộng nước kết hợp với các nghề thủ công
nghiệp, cùng với yêu cầu của công tác trị thủy (như làm thủy lợi, đắp đê
đập, khơi sông ngòi...) được đặt ra thường xuyên, đôi khi cấp bách đối
với sự tồn tại của các làng - chạ. Chính những điều này đã tạo cơ sở cho
sự vận động của các công xã - lúc đó còn mang nhiều tàn dư của công
xã nguyên thủy - từng bước chuyển biến thành công xã nông thôn, rồi
sau đó tiếp tục từng bước bị phong kiến hóa. Các công xã nông thôn này
tồn tại dưới hình thức làng - chiềng - viềng - chạ, hay làng - kẻ - ấp, nằm
rải rác ven những vùng đồi gò và dọc lưu vực ba con sông lớn là sông
Hồng, sông Mã và sông Lam. Những làng - ấp này là địa bàn sinh tụ và
cư trú chủ yếu của người nông dân Việt.
Trong thời kỳ Bắc thuộc và cuộc đấu tranh lâu dài giành lại độc
lập dân tộc, các công xã nông thôn đã thực sự là đơn vị kinh tế - xã hội
có cơ sở tương đối độc lập, hầu như nằm ngoài sự kiểm soát của chính
quyền đô hộ phương Bắc. Một số tài liệu cho biết, tiếp nối truyền thống
từ thời kỳ Hùng Vương, các công xã này được dẫn dắt bởi một người
đứng đầu cao tuổi, có đức độ và uy quyền đối với cộng đồng, gọi là Pô
Chiềng, hay Bồ chính1.

1. Xem Trần Quốc Vượng, Hà Văn Tấn: Lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam,
Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 1963, t.1, tr.221.
CHƯƠNG IV: LÀNG XÃ VÀ CÁC THIẾT CHẾ TỰ QUẢN... 287

Dưới tác động của quá trình phát triển kinh tế - xã hội, sự phân
hóa xã hội trong các cộng đồng cư dân Việt ngày càng được mở rộng.
Pô chiềng - Bồ chính dần dần trở thành những hào trưởng, phú hào
giàu sang và có nhiều uy thế ở các địa phương. Họ là bộ phận đứng
trung gian giữa dân làng xã và cấp chính quyền nhà nước ở cơ sở,
không phải do cộng đồng cư dân bầu lên (như việc bầu xã quan, xã
trưởng, lý trưởng sau này) mà mang dáng dấp của chế độ cha truyền
con nối (thế tập). Các hào trưởng có trách nhiệm đại diện, chỉ huy,
điều hành việc duy trì và bảo vệ đời sống cộng đồng, đồng thời cũng
ít nhiều phải phục tùng và chịu sự chi phối của các chính quyền nhà
nước. Mặc dù các công trình nghiên cứu hiện còn chưa cho phép hình
dung cách thức tổ chức, vận hành của bộ máy quyền lực cấp cơ sở làng -
ấp do hào trưởng đứng đầu và các hình thức tự quản trong làng xã
người Việt, nhưng về mặt nào đó có thể thấy rằng lúc này các làng - ấp
của người Việt vẫn duy trì quyền tự trị, tự quản trong phạm vi làng - ấp.
Vượt lên những biến chuyển của lịch sử, làng xã người Việt vẫn
là một thế giới riêng sống động, với những phong tục, tập quán riêng,
thậm chí rất riêng của từng làng. Đồng thời, làng Việt cũng tích hợp,
thâu hóa những yếu tố văn hóa Hán, Chămpa trong quá trình giao lưu,
tiếp biến văn hóa lâu dài, nhưng không hề đánh mất văn hóa bản ngã
của làng Việt. Chính bởi văn hóa bản địa còn mà làng còn, dù nước
mất hơn ngàn năm, và cũng bởi giữ được làng mà giành lại nước. Trải
qua hàng ngàn năm đấu tranh gian khổ, hy sinh, nhờ vào các làng xã
mà người Việt bảo lưu và phát huy được truyền thống cố kết, đoàn kết
cộng đồng làng (làng xóm) - liên làng - siêu làng - nước, thực hành
quyền tự quản, tự trị...
Đến đầu thế kỷ X, nhân cơ hội nội bộ nhà Đường rối loạn, suy yếu,
một hào trưởng ở đất Hồng Châu (Hải Dương) là Khúc Thừa Dụ đứng
lên dựng quyền tự chủ trên lãnh thổ nước ta. Từ năm 907, Khúc Hạo
tiến hành một cuộc cải cách hành chính quan trọng, không chỉ dừng ở
cấp lộ, phủ, châu mà cố gắng vươn quyền quản lý của chính quyền trung
288 VÙNG ĐẤT NAM BỘ VIII THIẾT CHẾ QUẢN LÝ XÃ HỘI

ương đến tận làng xã cơ sở, biến các công xã nông thôn thành đơn vị
hành chính cấp cơ sở của nhà nước, gọi là “xã”1. Hẳn rằng khái niệm
“làng xã” như một đơn vị tụ cư, đơn vị kinh tế, đơn vị tín ngưỡng và sinh
hoạt văn hóa cộng đồng, đơn vị hành chính cấp cơ sở được hình thành
trong khoảng thời gian lịch sử này. Đây cũng chính là bước chuyển biến
rất quan trọng của nông thôn Việt Nam truyền thống.
Cũng trong buổi đầu của thời kỳ độc lập, tự chủ, khi Xã trở thành
đơn vị hành chính cấp cơ sở ở nông thôn thì dường như cấp thôn cũng
đồng thời xuất hiện2. Đến thời Lý (1009-1225), tư liệu chính sử cho biết
tên “thôn” bắt đầu xuất hiện một cách chính thức với tư cách là một đơn
vị tụ cư dưới “ấp” (tức hương ấp)3. Như vậy, thôn có thể được hiểu cũng
là làng, hay chí ít cũng là đơn vị tụ cư tương đương với làng. Trong bối
cảnh hệ thống tự trị, tự quản của làng Việt vẫn còn rất mạnh và giữ vị
trí chi phối so với hệ thống quản lý hành chính cơ sở cấp xã ở nông thôn
Việt Nam, cấp thôn ra đời do nhu cầu quản lý hành chính của bản thân
cấp xã, trở thành đầu mối ráp nối, gắn kết và điều hòa hai hệ thống quản
lý: hành chính và tự trị, luật pháp và tục lệ, chính trị và xã hội...
Vào đầu đời Trần (1226-1400), Nhà nước Đại Việt cố gắng can thiệp
sâu hơn vào đời sống làng xã4. Mặc dù một số học giả nước ngoài hoài
nghi về hiệu quả của việc này, nhưng chính các tác giả đó cũng thừa
nhận “chậm nhất là vào cuối thời Trần, hầu hết các làng Việt đã được coi

1. Xem Quốc sử quán triều Nguyễn: Khâm định Việt sử thông giám cương
mục, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 1998, t.I, tr.207.
2. Xem Văn khắc Hán Nôm Việt Nam, Trường Viễn Đông Bác cổ - Viện
Nghiên cứu Hán Nôm, Hà Nội, 1998, t.I, tr.47; Đại Việt sử ký toàn thư, Nxb. Khoa
học xã hội, Hà Nội, 1998, t.I, tr.206; Quốc sử quán triều Nguyễn: Khâm định Việt
sử thông giám cương mục, Sđd, t.I, tr.214.
3. Xem Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd, t.I, tr.334; Quốc sử quán triều Nguyễn:
Khâm định Việt sử thông giám cương mục, Sđd, t.I, tr.412.
4. Xem Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd, t.II tr.18-19; Quốc sử quán triều Nguyễn:
Khâm định Việt sử thông giám cương mục, Sđd, t.I, tr.442.
CHƯƠNG IV: LÀNG XÃ VÀ CÁC THIẾT CHẾ TỰ QUẢN... 289

là xã”1. Cùng với sự mở rộng và nâng cao vị trí của cấp xã, cho đến trước
thời kỳ Minh thuộc (1407-1427), thôn đã trở thành đơn vị định cư phổ
biến ở nông thôn, ít nhất cũng là ở khu vực phía Bắc2.
Sau khi chiếm được nước ta, nhà Minh muốn áp đặt trọn vẹn mô
hình nông thôn Trung Quốc vào nông thôn Việt Nam với việc phân chia
làng xã Việt thành các “lý”, “giáp” và bố trí các viên chức quản lý. Tuy
nhiên, trong thực tế, mô hình này chưa bao giờ được thực hiện rộng rãi
trên phạm vi cả nước3.
Ngay sau khi chiến thắng quân Minh, Lê Lợi lập tức tiến hành tổ
chức lại làng xã4 và đặt các chức xã quan tùy theo từng loại xã5. Những
xã quan này vừa là các viên chức do nhà nước cử ra để quản lý làng xã,
vừa là người quản lý trực tiếp từng làng xã, thậm chí đến từng thôn
xóm nhỏ. Đến thời Lê Thánh Tông (1460-1497), chính quyền trung
ương tiến sâu thêm nhiều bước trong quá trình thiết lập quyền lực
quản lý đối với các làng xã Việt6. Lê Thánh Tông đã biết khai thác và
lợi dụng tục bầu cử người đứng đầu trong các công xã nông thôn trước
đây để tuyển chọn người đứng đầu làng xã, bảo đảm họ vừa là đại diện
của dân làng, vừa phục vụ một cách có hiệu quả cho yêu cầu quản lý
làng xã của nhà nước trung ương. Với việc thi hành chính sách mới về
ruộng đất, những làng xã tương đối tự trị trước đây đã trở thành một

1. Insun Yu: Cấu trúc của làng Việt Nam ở đồng bằng Bắc Bộ và mối quan hệ
của nó với Nhà nước thời Lê, tạp chí Nghiên cứu lịch sử, số 310, 2000, tr.27.
2. Xem Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd, t.II, tr.209; Quốc sử quán triều Nguyễn:
Khâm định Việt sử thông giám cương mục, Sđd, t.I, tr.698-699.
3. Xem Phan Huy Lê: Lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam, Nxb. Giáo dục, Hà
Nội, 1959, t.II, tr.9.
4. Xem Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd, t.II, tr.297; Viện Sử học: Nguyễn Trãi toàn
tập, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1976, tr.214.
5. Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd, t.II, tr.297.
6. Xem “Thiên Nam dư hạ tập”, trong Một số văn bản pháp luật Việt Nam thế
kỷ XV - thế kỷ XVIII, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1994, tr.212, 234, 241; Đại Việt
sử ký toàn thư, Sđd, t. II, tr.507.
290 VÙNG ĐẤT NAM BỘ VIII THIẾT CHẾ QUẢN LÝ XÃ HỘI

đơn vị kinh tế phụ thuộc nhà nước. Đồng thời, Lê Thánh Tông cũng
ban hành điều luật cho phép các làng xã được lập hương ước riêng vào
năm 14641. Đây có thể coi là thời điểm chính thức xuất hiện của loại
hình hương ước với tư cách là một bộ luật thành văn của làng xã, được
nhà nước chính thức cho phép soạn thảo và thừa nhận. Với hương
ước, Lê Thánh Tông đã đưa ra được một phương án tối ưu để xử lý hài
hòa mối quan hệ giữa quyền quản lý của nhà nước và truyền thống tự
trị của xóm làng. Có lẽ cũng vì thế mà hầu hết các vương triều phong
kiến tiếp sau trên đại thể đều lấy mô hình tổ chức quản lý làng xã thời
Lê Thánh Tông làm khuôn mẫu.
Trong suốt thế kỷ XVII-XVIII, tình hình nông thôn Việt Nam đã
thay đổi nhiều, khiến cho mô hình tổ chức quản lý làng xã thời Lê
Thánh Tông không còn hiệu lực nữa. Bởi vậy, chính quyền phong kiến
Đàng Ngoài nhiều lần tìm kiếm những mô hình mới để thay thế, nhưng
đều không đạt được kết quả. Nhà nước phong kiến trung ương hầu như
bất lực trong nhiệm vụ quản lý người đứng đầu làng xã, phó mặc cho
làng xã tự chọn lấy người đại diện của mình. Xét về hình thức, đây là sự
mở rộng quyền tự trị của làng xã, nhưng cũng chính là sự bỏ mặc cho
cường hào hoành hành trong thực tế, khiến cho tình hình ở các làng xã
người Việt khắp nơi ngày càng nặng nề, căng thẳng. Làng xã người Việt
thế kỷ XVIII đã thực sự tuột ra khỏi tầm kiểm soát của các chính quyền
phong kiến Lê Trung hưng - Trịnh - Nguyễn và nhanh chóng trở thành
căn cứ xuất phát cho các cuộc khởi nghĩa nông dân rộng lớn, và rồi cuối
cùng tất cả các chính quyền đó đều bị lật nhào bởi phong trào nông dân
Tây Sơn. Trong thời gian ngắn ngủi tồn tại, vương triều Tây Sơn cũng
không cải thiện nổi tình hình nông thôn.
Sau khi lập triều Nguyễn, Vua Gia Long đặc biệt đề cao vai trò của
làng xã trong quốc sách trị nước của vương triều mới. Tuy nhiên, những

1. Xem “Hồng Đức thiện chính thư”, trong Một số văn bản pháp luật Việt Nam
thế kỷ XV - thế kỷ XVIII, Sđd, tr.236.
CHƯƠNG IV: LÀNG XÃ VÀ CÁC THIẾT CHẾ TỰ QUẢN... 291

việc làm của Gia Long nhằm can thiệp vào cơ chế tự trị, tự quản của
làng xã Việt hầu như chưa có gì đáng kể, ngoại trừ việc tổ chức điều tra
ruộng đất và lập sổ địa bạ của các làng xã trên phạm vi rộng lớn. Sau khi
lên nối ngôi, Vua Minh Mạng đã quyết định cải tổ lại bộ máy quản lý
xã thôn. Tuy nhiên, cải cách của Minh Mạng đã không hạn chế, diệt trừ
được nạn cường hào mà còn khiến cho cường hào trong các làng xã có
điều kiện phát triển mạnh thêm. Như vậy, trong suốt thời Nguyễn, nhà
nước trung ương càng tỏ ra bất lực, ít ra là cũng không giải tỏa nổi sự
lộng hành, lũng đoạn của cường hào, khiến cho nhà nước không quản
lý được làng xã một cách chặt chẽ trong thực tế.
Sau khi áp đặt hệ thống chính quyền cai trị ở nước ta, thực dân Pháp
đã chọn phương án giữ lại tổ chức xã thôn cổ truyền làm công cụ cho
chính sách thống trị và khai thác thuộc địa. Tuy nhiên, chỉ ít lâu sau,
chính quyền thực dân Pháp buộc phải tiến hành cải tổ lại tổ chức quản
lý truyền thống của các làng xã người Việt. Một cuộc cải lương hương
chính được tiến hành nhằm tổ chức lại bộ máy hành chính cấp cơ sở,
qua đó lợi dụng truyền thống quản lý làng xã của người Việt để đưa luật
pháp của nhà nước bảo hộ vào lệ làng, lệ làng hóa phép nước và buộc
các làng xã phải nghiêm túc thực hiện. Trên thực tế, trước các cuộc tiến
công liên tục bởi những chính sách của chính quyền thực dân Pháp, cơ
chế “tự trị, tự quản” của làng xã người Việt trong thời kỳ Pháp thuộc đã
bị biến dạng sâu sắc. Không kể đến thái độ quyết liệt của chính quyền
thực dân ở Bắc Kỳ vào năm 1921 muốn gạt bỏ cơ chế quản lý cổ truyền
của làng xã để thành lập Hội đồng tộc biểu, ngay các Hội đồng kỳ mục
được duy trì cũng đã biến chất, bị hạn chế về quyền lực và chịu sự giám
sát ngày càng chặt của nhà nước thực dân1. Riêng đối với lệ làng và tín
ngưỡng, tập quán, đặc biệt đối với các hủ tục, chính quyền thực dân hầu
như không đả động tới. Về quyền xét xử của các làng, mặc dù những

1. Xem Viện Sử học: Nông thôn và nông dân Việt Nam thời cận đại, Nxb. Khoa
học xã hội, Hà Nội, 1990, t.1, tr.284.
292 VÙNG ĐẤT NAM BỘ VIII THIẾT CHẾ QUẢN LÝ XÃ HỘI

văn bản vẫn dành cho các Hội đồng hương chính một số quyền hạn
nhất định, nhưng việc thực hiện các quyền hạn này phải chịu sự giám
sát chặt chẽ của các cấp nhà nước và những bộ luật được soạn thảo cho
phù hợp với từng khu vực (kỳ). Như vậy, chế độ tự trị làng xã đã không
còn nguyên vẹn, thậm chí hầu như bị tước bỏ trên những biểu hiện cơ
bản nhất.
Trong bối cảnh đó, nhiều làng xã người Việt đã chống lại chính
sách thống trị của thực dân Pháp dưới những hình thức khác nhau. Khi
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, các làng xã đó lại trở thành những cơ
sở cho Đảng gây dựng lực lượng, chuẩn bị cho cuộc Cách mạng Tháng
Tám năm 1945 và phong trào cách mạng sau này.
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công và sự thành lập
chính quyền dân chủ nhân dân về nguyên tắc là sự phủ định hoàn
toàn bộ máy chính quyền cũ của đế quốc phong kiến từ trung ương
cho đến cơ sở. Tiếp đó, trong công cuộc cải cách ruộng đất và thời kỳ
xây dựng tổ đổi công, Đảng Lao động Việt Nam và Chính phủ Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa cũng dựa vào thôn làng mà phát động phong
trào. Đến thời kỳ hợp tác xã nông nghiệp bậc thấp, thôn làng người
Việt “hóa thân” vào hợp tác xã (lúc này chủ yếu được xây dựng theo
quy mô thôn) và các thôn vẫn còn giữ được các nét truyền thống
riêng. Từ khi hợp tác xã chuyển lên bậc cao với quy mô toàn xã, thôn
làng truyền thống hầu như bị giải thể. Việc chia tách hay quy gọn
các xã hầu như căn cứ thuần túy theo quy mô diện tích và dân số mà
không tính đến cơ sở truyền thống của làng xã. Cơ cấu tổ chức của
làng xã cũ bị thủ tiêu, những cơ sở văn hóa, tín ngưỡng cổ truyền của
thôn làng như đình, chùa, đền, miếu, nhà thờ bị phá bỏ, chuyển đổi
mục đích sử dụng.
Hợp tác hóa nông nghiệp thực sự là “một biến cách lớn” ở các làng
xã người Việt nói riêng, trong nông thôn Việt Nam nói chung. Quản lý
làng xã Việt có nhiều thay đổi. Có những lúc, làng gần như bị giải thể về
mặt tổ chức. Tuy nhiên, làng Việt vẫn bền bỉ tồn tại trên thực tế ở khắp
CHƯƠNG IV: LÀNG XÃ VÀ CÁC THIẾT CHẾ TỰ QUẢN... 293

các vùng nông thôn Việt Nam. Khi không được thừa nhận một cách
chính thức, các thiết chế phi quan phương có tính cách truyền thống đã
chìm sâu vào trong lòng các làng xã người Việt, âm thầm hoạt động như
những “mạch ngầm”. Theo cách thức như vậy, các hình thức tự quản của
người Việt trong làng xã vẫn được duy trì.
Việc thực hiện khoán 10 tiếp tục tạo ra một cuộc “cách mạng” ở
nông thôn Việt Nam. Hộ xã viên hay hộ tư nhân là kiểu sản xuất có tính
cá thể được chấp nhận. Trên thực tế, hộ gia đình trở thành chủ thể xã
hội. Đây là cơ sở để phục hồi lại làng Việt truyền thống. Các thiết chế
phi quan phương của làng xã người Việt lâu nay phải tồn tại như những
“mạch ngầm”, đến đây được nhanh chóng “công khai hóa”. Từ đây, bên
cạnh hệ thống tổ chức quản lý hành chính của nhà nước ở cấp cơ sở là
xã, và gần đây là thôn, các hình thức tự quản trong làng xã người Việt
ngày càng được phục hồi và mở rộng, trở thành phổ biến trên khắp cả
nước. Thực tế lịch sử cho thấy, phục hồi và phát triển các hình thức tự
quản trong làng xã người Việt là một yêu cầu khách quan và phù hợp, có
tác dụng tích cực, thực sự là một bước tiến trong đổi mới và phát triển
kinh tế - xã hội ở nước ta hiện nay1.

b) Một số biểu hiện của hình thức tự quản


Trong xã hội Việt Nam truyền thống, kết cấu kinh tế làng xã bao
gồm ba thành phần chủ yếu là nông nghiệp, thủ công nghiệp và thương
nghiệp. Ở các làng Việt đồng bằng Bắc Bộ và Trung Bộ, kết cấu này có
lịch sử lâu dài và tương đối phổ biến. Với kết cấu này, làng xã người Việt
đã vượt qua những tác động mãnh liệt do các biến động xã hội to lớn
trong suốt mấy thế kỷ qua, thực sự góp phần tạo ra sự ổn định lâu dài và
vững chắc, đồng thời duy trì một cách tương đối diện mạo và tính chất
của làng Việt.

1. Xem Phan Đại Doãn (Chủ biên): Quản lý xã hội nông thôn nước ta hiện
nay - một số vấn đề và giải pháp, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, tr.247-250.
294 VÙNG ĐẤT NAM BỘ VIII THIẾT CHẾ QUẢN LÝ XÃ HỘI

Làng xã người Việt không chỉ là một khu vực cư trú đơn thuần của
các gia đình tiểu nông mà còn là một tổ chức sản xuất, tổ chức quân sự,
tổ chức xã hội. Cộng đồng làng là sự hợp thành của một hệ thống phức
tạp, bao gồm gia đình cá thể, họ hàng, phường, hội, xóm, giáp cùng với
những mối liên kết vật chất và tinh thần khác như tộc ước, phường lệ,
hương ước và tín ngưỡng, tôn giáo, hội hè, đình đám... Nói cách khác,
làng xã người Việt chính là tổng - tích hợp của những thành tố trên.
Ở đây, con người hầu như không tồn tại với tư cách cá nhân độc lập,
mà luôn luôn xuất hiện với tư cách thành viên trong một cộng đồng/tổ
chức/thiết chế nhất định, như dòng họ, phường, hội, làng... Mối quan hệ
trong làng xã không đơn giản là sự liên hệ về nghề nghiệp và cư dân mà
còn là sự kết hợp các tổ chức và quan hệ xã hội. Sự tồn tại của các mối
quan hệ này thể hiện sự “khép đóng” của làng xã nếu xét về mô hình,
cùng với các liên kết có tính chất tương trợ và ràng buộc giữa cư dân
làng xã nếu xét về ý nghĩa xã hội, và sự đa dạng, chặt chẽ của nhiều hình
thức tự quản nếu xét về tổ chức.
- Dòng họ
Làng xã người Việt có thể coi là một phức hợp của nhiều tổ chức xã
hội mà trước hết là dòng họ. Giữa mạng lưới các mối quan hệ đan xen
trong làng, mối liên kết họ hàng vẫn luôn nổi bật và bền vững hơn cả.
Bởi vậy, xét từ một góc nhìn nhất định, cộng đồng làng có thể coi là tập
hợp của những dòng họ.
Tổ chức dòng họ trong các làng người Việt ở nước ta không nặng
nề, chặt chẽ như ở Trung Quốc và Nhật Bản, nhưng cũng không quá
lỏng lẻo như ở Campuchia, Lào và Thái Lan. Nhìn chung, gia đình cá
thể đóng vai trò rất quan trọng trong xã hội người Việt. Cũng bởi những
điều kiện tự nhiên và xã hội đặc thù, người tiểu nông Việt trong làng xã
đã sớm liên kết lại trong cuộc đấu tranh sinh tồn, và sự liên kết đầu tiên
chính là dòng họ. Trải qua hàng nghìn năm, quan hệ dòng họ ngày càng
thắt chặt hơn, gắn bó các gia đình tiểu nông thành từng khối bền chắc.
CHƯƠNG IV: LÀNG XÃ VÀ CÁC THIẾT CHẾ TỰ QUẢN... 295

Quá trình hình thành và phát triển của một làng Việt từ khởi đầu
cho đến ngày nay phổ biến là sự chuyển đổi và mở rộng từ liên kết hộ
gia đình đến liên kết họ hàng và liên kết các dòng họ với nhau. Những
mối liên kết này diễn ra một cách tự nhiên theo các quan hệ trong hôn
nhân và hoạt động sản xuất. Những biểu hiện của mối liên kết dòng họ
rất phong phú, đa dạng, từ đặt ruộng họ, ruộng hậu họ, lập gia phả, cho
đến xây dựng nhà thờ tổ tiên... Trong đó, một đặc trưng tín ngưỡng của
người Việt là thờ cúng tổ tiên đã góp phần không nhỏ trong việc thắt
chặt các quan hệ họ hàng trong cộng đồng.
Trong mỗi làng ấp, người đứng đầu dòng họ - tộc trưởng (trưởng
họ) có vai trò rất quan trọng1. Đối với những dòng họ lớn - cự tộc ở
làng xã người Việt, tộc trưởng đương nhiên phải là con trưởng, ngành
trưởng và là người có đức vọng. Khi Nho giáo thâm nhập ngày càng sâu
vào đời sống làng xã thì vai trò người tộc trưởng càng được đề cao. Họ
chính là tâm điểm để tập hợp, đoàn kết các thành viên của mỗi họ trong
mọi công việc chung của dòng họ và tham gia vào các công việc chung
của làng xã.
Ở nhiều làng xã người Việt, nhất là tại Bắc Bộ, dòng họ còn tồn
tại như một đơn vị, một thành phần quản lý làng xã. Các chính quyền
phong kiến thường cố gắng sử dụng quan hệ dòng họ để góp phần ổn
định và quản lý làng xã. Trong nhiều trường hợp, dòng họ còn xác định
mối liên hệ với làng xã thông qua một tổ chức là “giáp”. Thực ra, giáp là
đơn vị nhỏ của làng, có thể được tổ chức theo khu vực địa lý hoặc theo
dòng họ. Ở nhiều làng, giáp chính là họ. Bởi vậy, có ý kiến cho rằng giáp
chính là khâu trung gian giữa làng và họ, được đặt ra nhằm “hành chính
hóa” dòng họ, quản lý dòng họ và quản lý bằng dòng họ.
Như vậy, quan hệ họ hàng và các thiết chế tự quản liên quan đến
dòng họ của làng xã người Việt có những biến động nhất định trong

1. Xem Trần Quốc Vượng, Hà Văn Tấn: Lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam,
Sđd, t.1, tr.203.
296 VÙNG ĐẤT NAM BỘ VIII THIẾT CHẾ QUẢN LÝ XÃ HỘI

lịch sử, nên nhiều lúc có vẻ “mờ” nhạt hoặc “chìm” đi, nhiều lúc lại được
“nổi” rõ và đề cao... Nhưng rất rõ ràng, dòng họ và các hình thức tự
quản có liên quan đến dòng họ đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong
làng xã người Việt.
- Lệ làng - hương ước
Lệ làng là những quy phạm hoạt động của mỗi thành viên trong
làng, do chính các thành viên trong làng xác lập, thực thi và bảo vệ.
Hương ước là lệ làng được “văn bản hóa”. Giống như luật nước, lệ làng
có tính cưỡng chế. Điểm khác nhau căn bản giữa luật nước và lệ làng
chủ yếu là lực lượng duy trì các quy phạm hoạt động của mỗi thành viên
trong làng. Luật nước dựa vào hệ thống quyền lực của chính quyền nhà
nước, còn lệ làng dựa vào truyền thống được hình thành từ kinh nghiệm
của cộng đồng cư dân, trao truyền từ đời này sang đời khác, được cộng
đồng chấp nhận và tuân thủ. Với sự bó hẹp các hoạt động kinh tế - văn
hóa trong không gian làng và hướng đến cuộc sống chủ yếu tự cấp tự
túc, cả cuộc đời người dân làng xã gắn bó với làng và thường hiểu lệ làng
hơn luật nước. Điều này càng khiến cho lệ làng trở thành một hình thức
tự quản phổ biến và quan trọng của làng Việt.
Sách Hồng Đức thiện chính thư cho biết từ cuối thế kỷ XV, hương
ước thành văn bản đã phổ biến. Nhà nước có quy định để làng xã “văn
bản hóa” lệ làng thành hương ước1. Với hương ước, lệ làng được định
hình cụ thể và mạnh mẽ thêm. Ở các thế kỷ sau, việc lập hương ước
thành văn bản được tiếp tục và ngày càng phổ biến hơn. Nhìn chung,
dân số càng tăng, mật độ cư trú ngày càng cao thì mối liên kết trong các
làng xã càng chặt, thể hiện ở những bản hương ước ngày càng phức tạp,
đa dạng, quy định càng chi tiết, cụ thể. Điều này cho thấy rõ một trong
những tính chất nổi bật của hương ước là tự quản, tự điều hòa, tự điều
khiển đời sống xã hội trong phạm vi làng, nhằm tạo thành một kết cấu

1. Xem “Hồng Đức thiện chính thư”, trong Một số văn bản pháp luật Việt Nam
thế kỷ XV - thế kỷ XVIII, Sđd, tr.236.
CHƯƠNG IV: LÀNG XÃ VÀ CÁC THIẾT CHẾ TỰ QUẢN... 297

xã hội chặt chẽ, ổn định. Theo thống kê năm 1991 của sách Thư mục
hương ước Việt Nam thời cận đại, hầu hết các làng xã ở miền Bắc, miền
Trung cho đến Đồng Nai Thượng vào đầu thế kỷ XX đều có hương ước
(chủ yếu là hương ước cải lương hương chính), với số lượng khoảng
hơn 5.000 bản.
Xét về nội dung, hương ước của làng xã người Việt phản ánh nhiều
mối quan hệ về kinh tế, chính trị, xã hội, môi trường... thể hiện tinh
thần tự trị, tự quản cộng đồng làng, bao gồm: 1) Quy định về những
thiết chế xã hội trong làng (Hội đồng Kỳ mục, lý lịch dòng họ, ngụ cư và
chính cư ở xóm, giáp...); 2) Quy định về các thứ bậc xã hội trong làng
(già trẻ, nam nữ, quan dân...); 3) Quy định những điều khoản về giữ gìn
trật tự, trị an thôn xóm, ruộng đồng và môi trường; 4) Quy định những
nghĩa vụ đối với Nhà nước, như thuế, lao dịch, quân dịch; 5) Quy định
việc giữ gìn phong tục, tập quán, truyền thống trong gia đình, họ hàng,
xóm thôn; 6) Quy định những khoản thưởng phạt rõ ràng nhằm khuyến
khích những hoạt động có lợi cho cộng đồng và trừng phạt những kẻ
làm phương hại cộng đồng... Nội dung của lệ làng - hương ước thể hiện
rõ nét sự khác biệt giữa luật nước và lệ làng, giữa quyền lực nhà nước và
quyền tự quản của làng xã, cũng chính là một biểu hiện nhân nhượng
của luật nước trước quyền và truyền thống tự quản của làng xã. Nói
cách khác, lệ làng - hương ước là một kiểu quản lý phi quan phương,
một hình thức tự quản của làng xã.
- Bộ máy tự quản
Trong làng xã người Việt truyền thống, cơ cấu bộ máy quyền lực
bao gồm hai bộ phận chủ yếu là lý dịch và kỳ mục. Trong đó, bộ phận lý
dịch ở các thời kỳ lịch sử và không gian địa vực khác nhau sẽ có những
tên gọi và cách thức tổ chức khác nhau, nhưng trên danh nghĩa đều là tổ
chức chính quyền cơ sở cấp xã của Nhà nước, gồm có một người đứng
đầu và số lượng thành viên giúp việc được Nhà nước quy định cụ thể.
Vào thời Nguyễn, lý dịch gồm có lý trưởng, phó lý trưởng và trương
tuần. Nhiệm vụ chủ yếu của lý dịch là thu thuế, bắt lính, điều động phu
298 VÙNG ĐẤT NAM BỘ VIII THIẾT CHẾ QUẢN LÝ XÃ HỘI

phen tạp dịch theo mệnh lệnh của chính quyền nhà nước. Trong khi
đó, bộ phận kỳ mục, thường gọi là Hội đồng kỳ mục, thực sự là một bộ
máy tự quản của làng xã, bao gồm các trưởng lão quan viên của cộng
đồng. Hội đồng kỳ mục bao gồm một số dân làng và chức sắc. Số lượng
thành viên và cơ cấu thành phần tùy thuộc từng làng xã cụ thể. Người
đứng đầu Hội đồng kỳ mục là tiên chỉ, thứ chỉ. Tiêu chuẩn tiên chỉ, thứ
chỉ cũng tùy thuộc vào từng địa phương, nơi “trọng hoạn” thường chọn
người có quan tước cao nhất, nơi “trọng khoa” thường chọn người có
học vị khoa bảng cao nhất, nơi “trọng xỉ” thường chọn các cụ cao tuổi
nhất trong làng. Điểm chung của người đứng đầu Hội đồng kỳ mục đều
là người già - đã nghỉ việc “quan” để về làng. Quyền lực của bộ phận kỳ
mục khá lớn, nhiều khi chỉ đạo cả lý dịch1.
Đến thời Pháp thuộc, chính quyền thực dân nhận thức được vai trò
và ảnh hưởng của tổ chức/bộ máy tự quản của làng xã và chủ trương bãi
bỏ bộ phận kỳ mục. Năm 1921, Thống sứ Bắc Kỳ ký lệnh thay thế Hội
đồng kỳ mục bằng Hội đồng tộc biểu (hoặc gọi là Hội đồng giáp biểu)
và tăng cường quyền lực cho bộ phận lý dịch, cho phép lý dịch kiểm soát
ngân sách làng xã. Lệnh này ngay lập tức bị những tiên chỉ, thứ chỉ của
các làng xã phản đối gay gắt, buộc chính quyền thực dân Pháp phải cho
tái lập lại Hội đồng kỳ mục từ năm 1927. Đến năm 1941, Thống sứ Bắc
Kỳ Robin ra lệnh bãi bỏ Hội đồng tộc biểu, nhưng vẫn giữ lại Hội đồng
kỳ mục.
- Phường - hội
Trong làng xã người Việt luôn tồn tại phổ biến các loại hình phường -
hội đa dạng. Các phường - hội này chính là một dạng thiết chế tự quản

1. Xem Dương Kinh Quốc: Chính quyền thuộc địa ở Việt Nam trước Cách
mạng Tháng Tám năm 1945, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1988; Dương Kinh
Quốc: “Bộ máy quản lý làng xã Việt Nam thời cận đại qua các bản “Cải lương
hương chính” của chính quyền thực dân Pháp”, bài in trong Viện Sử học: Nông
thôn và nông dân Việt Nam thời cận đại, Sđd, t.1, tr.259-289.
CHƯƠNG IV: LÀNG XÃ VÀ CÁC THIẾT CHẾ TỰ QUẢN... 299

của làng xã, nhằm tạo ra, duy trì và củng cố thêm một mối dây ràng
buộc những người dân ở bên ngoài tổ chức dòng họ mà vẫn ở trong
phạm vi làng xã.
Phường là tổ chức nghề nghiệp của những người làm nghề thủ công
và buôn bán nói chung, ở nước ta chủ yếu là của nông dân làm thêm
các nghề thủ công hay buôn bán nhỏ. Số lượng và quy mô các phường
phụ thuộc vào đặc điểm phát triển kinh tế của từng làng xã. Phường thủ
công hay phường buôn bán đều có những quy định cụ thể, gọi là phường
lệ, để ràng buộc những người làm cùng một nghề với nhau, nhằm đảm
bảo mối đoàn kết của những người cùng nghề nghiệp, tương trợ lẫn
nhau ổn định sản xuất, chống cạnh tranh. Phường lệ (có văn bản hoặc
không có văn bản) là kỷ luật bắt buộc đối với tất cả các thành viên, cũng
là mối dây ràng buộc khá chặt chẽ đối với những người làm nghề thủ
công hoặc buôn bán.
Hội ở các làng xã người Việt thường được tổ chức theo giới tính,
chức nghiệp và lứa tuổi. Hội Tư văn xuất hiện rất sớm, có thể đã có
từ thế kỷ XV, được duy trì và phát triển liên tục đến đầu thế kỷ XX.
Đây là tổ chức của những người học và dạy chữ Hán (tức chữ Nho),
một số nơi còn kết nạp thêm những người học chữ Quốc ngữ và chữ
Pháp trong thời Pháp thuộc. Một số làng có thêm Hội Tư võ của
những người đi lính và các quan võ về hưu. Hội tổ chức theo giới tính
thường có Hội Chư bà. Hội theo lứa tuổi thường có Hội Mục đồng
(của trẻ chăn trâu), Hội Lão (của những người già) và Hội Đồng niên
(của những người cùng tuổi). Nhiều hội có ruộng đất công, như Hội
Tư văn, Hội Tư võ... Các loại hình hội này thường có quy ước hoạt
động và lễ nghi cúng tế riêng. Sự liên kết giữa các thành viên trong
hội không nặng nề, sâu sắc như đối với dòng họ và các phường nghề
nghiệp, nhưng cũng góp phần ràng buộc các cư dân làng xã theo một
định hướng luân lý, đạo đức nhất định.
300 VÙNG ĐẤT NAM BỘ VIII THIẾT CHẾ QUẢN LÝ XÃ HỘI

II- LÀNG XÃ NGƯỜI VIỆT Ở NAM BỘ VÀ CÁC THIẾT CHẾ TỰ QUẢN


CỦA NGƯỜI VIỆT Ở NAM BỘ

1. Vài nét về đặc điểm của làng người Việt ở Nam Bộ


a) Về phương thức lập làng
Sự hình thành các làng Việt nói chung cũng như các làng Việt ở
Nam Bộ nói riêng đều trải qua một quá trình và bị chi phối bởi nhiều
các nguyên nhân khác nhau. Cũng như ở Bắc Bộ và Trung Bộ, các làng
Việt ở Nam Bộ được hình thành theo nhiều cách thức rất đa dạng, phức
tạp. Ngay trong lịch sử của từng làng, những tác động của các nhân tố
cũng không giống nhau, khiến cho mỗi làng thường có các sắc thái văn
hóa riêng biệt. Rõ ràng, thuật ngữ “làng” trong tiếng Việt bao hàm ý
nghĩa biểu thị không gian cư trú của một cộng đồng cư dân nhất định,
song sự đa dạng của điều kiện tự nhiên, môi trường xã hội và diễn biến
lịch sử đã có tác động rất lớn đến sự hình thành cũng như cơ cấu tổ
chức và cách thức vận hành của các làng Việt ở Nam Bộ. Tuy nhiên, xét
trên tổng thể, cơ cấu tổ chức và sự vận hành của các làng Việt ở Nam Bộ
cũng có những nét cơ bản tương đồng1.
Các tác giả Địa chí Đồng Nai cho rằng quá trình hình thành các
làng Việt ở Đồng Nai - Gia Định (với ý nghĩa chỉ toàn bộ vùng đất
Nam Bộ hiện nay) bao gồm bốn phương thức lập làng2. Sách Địa chí
Tiền Giang phân định bốn loại hình cư trú (thực chất là bốn loại hình
cộng cư, mà bản chất cũng chính là các loại hình làng khác nhau) cùng
tồn tại từ xưa đến nay ở Tiền Giang3. Phân tích cho thấy, ngay cả bốn

1. Xem Ngô Văn Lệ: “Làng và quan hệ dòng họ của người Việt Nam Bộ”, in
trong Hiện đại và động thái của truyền thống ở Việt Nam: Những cách tiếp cận nhân
học, Nxb. Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh,
2010, tr.330-346.
2. Xem Địa chí Đồng Nai, Nxb. Tổng hợp Đồng Nai, 2001, tr.118-120.
3. Xem Trần Hoàng Diệu, Nguyễn Anh Tuấn (Chủ biên): Địa chí Tiền Giang,
Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Tiền Giang xuất bản, 2005, t.1, tr.801-803; Toan Ánh: Nếp
cũ, làng xóm Việt Nam, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, 1992, tr.34-36.
CHƯƠNG IV: LÀNG XÃ VÀ CÁC THIẾT CHẾ TỰ QUẢN... 301

phương thức lập làng được nêu trong Địa chí Đồng Nai cũng như bốn
loại hình cư trú - làng được khái quát trong Địa chí Tiền Giang vẫn có
những điểm chung nhất định. Bởi vậy, tổng hợp các kết quả nghiên
cứu về làng Việt ở Nam Bộ có thể khái quát sự thành lập phần lớn các
làng xã Việt ở Nam Bộ thâu gộp trong hai phương thức chủ yếu: Làng
có nguồn gốc từ đồn điền do nhà nước tổ chức, và làng có nguồn gốc
từ các ấp do lưu dân tự tổ chức lập thành. Tuy nhiên, trên một địa bàn
rộng lớn mênh mông với địa hình đa dạng và lịch sử thành tạo phong
phú như Nam Bộ thì ngay ở trong hai phương thức lập làng chủ yếu
này vẫn tồn tại nhiều kiểu dạng khác nhau.
- Làng có nguồn gốc từ đồn điền do nhà nước tổ chức
Từ trước thế kỷ XVII, những người Việt tiên phong đã đặt chân lên
vùng đất Nam Bộ ngày nay và bắt đầu công cuộc khai phá, mở mang
đất đai, làng xóm. Theo bước chân họ, ngày càng có nhiều lưu dân từ
các vùng nông thôn Bắc Bộ, Trung Bộ di chuyển vào phương Nam sinh
sống. Diện tích ruộng vườn ngày càng mở rộng. Các tụ điểm dân cư
ngày mỗi đông đúc hơn. Trong các thế kỷ XVII, XVIII và nửa đầu thế
kỷ XIX, công cuộc khai phá đã được tiến hành không chỉ do những cố
gắng của lớp lớp lưu dân, mà ở nhiều nơi, trong nhiều trường hợp đã
lưu dấu ấn khá đậm nét vai trò tổ chức của nhà nước với hình thức chủ
yếu là đồn điền. Hình thức tổ chức đồn điền khá đa dạng, không những
đóng góp vào việc khai hoang phục hóa, mở mang ruộng vườn, mà còn
đóng vai trò quan trọng trong việc khai phá những vùng đất mà điều
kiện khai hoang, sinh sống còn nhiều khó khăn.
Ngược dòng lịch sử, đồn điền là một loại trại lính được trao nhiệm
vụ khai khẩn ruộng đất và canh tác nông nghiệp. Bản thân chữ “đồn
điền” (屯 田) cũng thể hiện rõ rệt điều đó1. Không phải đến thế kỷ XVII

1. Chính quyền thực dân Pháp đã dịch chữ đồn điền là “colonie militaire”.
Như vậy, danh từ này có thể còn hẹp so với sự phát triển của các loại đồn điền này.
302 VÙNG ĐẤT NAM BỘ VIII THIẾT CHẾ QUẢN LÝ XÃ HỘI

và chỉ ở Nam Bộ, nước ta mới xuất hiện đồn điền. Hiện nay, các nhà
nghiên cứu vẫn chưa thật thống nhất về thời điểm bắt đầu, nhưng có
thể chắc chắn rằng đồn điền đã xuất hiện ở nước ta từ đầu thế kỷ XV
với những dấu ấn đậm nét trong lịch sử từ triều Lê Sơ1. Những thông
tin còn được ghi lại trong chính sử của các vương triều Việt Nam xưa
cho thấy từ trước thế kỷ XVII, đồn điền đã có vai trò quan trọng về quân
sự, kinh tế ở các vùng miền biên giới, biên viễn trong suốt khoảng thời
gian gần ba thế kỷ.
Nhìn suốt quá trình lập đồn điền ở Nam Bộ có thể thấy rõ sự tồn tại
của hai loại đồn điền:
Thứ nhất là loại đồn điền mang tính chất quân sự thuần túy. Loại
đồn điền này do lực lượng quân lính chính quy chọn đất đóng doanh
trại rồi khẩn hoang, làm ruộng. Tại đây, họ được cấp phát nông cụ thiết
yếu, thóc giống, trâu cày... để vỡ đất hoang, canh tác nông nghiệp. Trong
khi làm ruộng, quân lính được giữ nguyên phiên chế đội ngũ, việc luyện
tập chiến đấu vẫn là chính, còn khẩn hoang chỉ là phụ. Vừa làm nhiệm
vụ bảo vệ an ninh trong vùng, vừa tham gia sản xuất, dần dần một số
binh lính được chia đất canh tác ở đồn điền. Quân lính ở các đồn điền
này thay phiên nhau khẩn hoang, cày cấy, chia theo đội ngũ để làm việc
và thực hiện theo kỷ luật quân sự. Dưới thời Minh Mạng (1820-1840),
binh lính trong các đồn điền thường được chia thành ba đội, hai đội làm
việc công hay luyện tập quân sự, một đội làm ruộng, cứ thế thay phiên
nhau2. Mỗi khu đồn điền thường được giao cho một viên võ quan trật tứ
phẩm cai quản. Cũng có trường hợp nhà nước cho giải ngũ một số binh
lính để đưa đi lập các đồn điền, cũng có khi những người lính này bị gọi

1. Xem Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd, t.II, tr.129; Quốc sử quán triều Nguyễn:
Khâm định Việt sử thông giám cương mục, Sđd, t.I, tr.1118-1119.
2. Xem Nguyễn Thế Anh: Kinh tế và xã hội Việt Nam dưới các vua triều
Nguyễn, Sài Gòn, 1971, tr.156.
CHƯƠNG IV: LÀNG XÃ VÀ CÁC THIẾT CHẾ TỰ QUẢN... 303

trở lại quân ngũ khi cần. Đương nhiên, khi cắt cử quân lính đi khai phá,
sản xuất, nhà nước muốn họ trước hết có thể trực tiếp tự túc nhu cầu
lương thực cần thiết, không phải lệ thuộc vào việc tiếp tế từ bên ngoài
mà trong một số trường hợp không hề dễ dàng1.
Thứ hai là loại đồn điền dùng dân thường làm lực lượng chính. Đối
với loại đồn điền này, nhà nước cũng phiên chế lực lượng thành đội
ngũ như quân đội, nhưng chỉ để lao động chứ không phải thao luyện,
chiến đấu. Loại đồn điền này có mục đính chính là khai hoang, cày
cấy, chăn nuôi để cung cấp lương thực, thực phẩm cho quân lính và
những nhu cầu đặc biệt của triều đình.
Trong giai đoạn đầu của công cuộc khai phá vùng đất Nam Bộ, tư
liệu lịch sử hiện tại chưa tìm thấy những ghi chép về việc nhà nước
đứng ra tổ chức khai phá đất hoang, dù rằng chúa Nguyễn đã sớm chiêu
tập dân chúng đưa vào phương Nam sinh sống. Lúc này, việc khai hoang
chủ yếu do người dân tự tiến hành. Chỉ trong một số trường hợp đặc
biệt, các quan lại của chúa Nguyễn mới trực tiếp đứng ra tổ chức, điều
khiển việc khai hoang, trồng trọt. Ví dụ, năm 1689, khi quân Nguyễn
kéo vào Đồng Nai - Gia Định để dẹp cuộc nổi loạn của Hoàng Tiến và
sự quấy phá của Chân Lạp, gặp mùa nước không thuận lợi, phải đóng
quân nhiều ngày, các tướng chỉ huy đội quân này đã cho quân lính vỡ
đất, cày cấy ở khu Mũi Xuy (hay Mô Xoài) và Sầm Giang (tức Rạch
Gầm) nhằm sản xuất lương thực dự trữ cần thiết2. Tiếp đó, vào năm
1700, trên đường hành quân từ Chân Lạp trở về, Chưởng cơ Nguyễn
Hữu Cảnh (cũng đọc là Nguyễn Hữu Kính) đã cho quân lính khai phá
đất đai để cày cấy ở vùng đất cù lao Vàm Nao, về sau cù lao này mang tên
là “Cù Lao Ông Chưởng”. Một lần khác, vào năm 1705, dưới thời Chúa

1. Xem Quốc sử quán triều Nguyễn: Đại Nam thực lục, Nxb. Giáo dục, Hà
Nội, 2006, t.IV, tr.561-562; Vũ Huy Phúc: “Đồn điền - một loại hình tổ chức nông
nghiệp quan trọng trong nửa đầu thế kỷ XIX”, tạp chí Nghiên cứu lịch sử, số 274,
tháng 3-1994, tr.23.
2. Xem Quốc sử quán triều Nguyễn: Đại Nam thực lục, Sđd, t.I, tr.99-101.
304 VÙNG ĐẤT NAM BỘ VIII THIẾT CHẾ QUẢN LÝ XÃ HỘI

Nguyễn Phúc Chu, Cai cơ Nguyễn Cửu Vân đã cho quân lính khai phá
đất hoang tại Cù Úc (hay Cù Ao, tức Vũng Gù) ở tả ngạn sông Vàm Cỏ
Tây, về sau thuộc tỉnh Định Tường1...
Trong những trường hợp kể trên, với danh nghĩa do nhà nước tổ
chức, việc khai hoang thực chất vẫn chỉ là điều động lực lượng quân đội
khai hoang, trồng trọt tại nơi đóng quân, nhằm sản xuất lương thực cần
thiết đáp ứng cho nhu cầu trực tiếp của các đội quân đó. Sử liệu không
cho biết diện tích ruộng đất khai phá được sẽ giải quyết ra sao sau khi
quân lính di chuyển đi nơi khác. Tuy nhiên, hầu hết những vùng này
sau đó đã trở thành những nơi có ruộng vườn, xóm làng đông đúc, như
trường hợp Cù Lao Ông Chưởng và Cù Úc, nên cũng có thể giả định
rằng sau khi quân lính rút đi, ruộng đất đã khai hoang vẫn được tiếp tục
canh tác và những người nông dân bám trụ ở đây có thể là những lưu
dân đang tìm đất sinh sống hay những binh lính vì lý do nào đó đã rời
khỏi quân ngũ (ốm đau, thương tật, thậm chí đào ngũ...) để trở lại làm
dân thường.
Dần dần, việc dùng binh lính tiến hành khẩn hoang dưới hình thức
đồn điền (loại đồn điền mang tính chất quân sự thuần túy) trở thành
một chủ trương quan trọng và là một quốc sách của các chúa Nguyễn
trong quá trình khai phá vùng đất Nam Bộ. Vào năm 1790, nhà nước
đã lần đầu tiên thực sự đứng ra tổ chức khai phá đất hoang ở Nam Bộ.
Lúc này, sau nhiều năm bôn ba và kiên trì chống cự với chính quyền Tây
Sơn, Nguyễn Ánh đã chiếm lại được Gia Định, cố gắng sản xuất và tích
trữ lương thực để cung ứng cho đội quân đang ngày càng được mở rộng,
tích cực chuẩn bị cho cuộc phản công đối với quân đội Tây Sơn. Bởi vậy,
ông từng bước áp dụng trở lại một phương thức tổ chức khai hoang đã
được dùng từ triều Lê: các “đồn điền”. Nguyễn Ánh cho rằng, “đồn điền
là phép hay đời xưa, nay muốn cử hành mà chưa nắm được chỗ cốt yếu.
Các khanh vốn có mưu xa kinh quốc, ở vị mình tất phải tính việc mình,

1. Xem Quốc sử quán triều Nguyễn: Đại Nam thực lục, Sđd, t.I, tr.118.
CHƯƠNG IV: LÀNG XÃ VÀ CÁC THIẾT CHẾ TỰ QUẢN... 305

đều nên điều trần quy thức, viết thành tập riêng tiến trình, trẫm sẽ chọn
những điều hay mà đem thi hành”1. Sách Đại Nam thực lục chép: tháng
10 năm Canh Tuất (1790), Nguyễn Ánh “ra lệnh cho các đội túc trực và
các vệ thuyền dinh Trung quân ra vỡ ruộng ở Vàm Cỏ, đặt tên là trại
đồn điền, cấp cho trâu bò, điền khí và thóc ngô đậu giống. Đến ngày thu
hoạch đem hết về kho (tức kho Chừ Tích, sau đổi làm kho Đồn Điền).
Lấy Cai cơ hiệu Tiền dực là Nguyễn Bình trông coi việc ấy”2. Ngay sau
đó, tháng 4 năm Tân Hợi (1791), Nguyễn Ánh “sai Tán lý Tiền quân cũ
là Chiêu, Cai cơ quản Tiền chi là Nguyễn Văn Lợi, Cai cơ quản Hậu chi
là Nguyễn Văn Tánh chọn đất sở Bà Rịa và Đông Môn nơi nào có thể mở
đồn điền được thì lường chia quân sở bộ mà cày cấy, làm lấy mà ăn”3.
Một tài liệu của Pháp cho biết Nguyễn Ánh đã “tách một phần quân đội
ra, cấp cho họ đất đai, thành lập các đồn điền mà nhân đinh là binh lính
với các cấp chỉ huy; họ chiến đấu khi lại có chiến tranh. Sau khi bình
định được đất nước, các đồn điền ấy hoàn toàn trở thành thường dân.
Nhiều làng trong vùng An Thạch và Dương Hòa Hạ đã được thành lập
theo kiểu đó như Đức Hưng, Tân Điền...”4.2.Như vậy, ngay từ cuối thế
kỷ XVIII, nhiều đồn điền đã được thành lập trên khắp vùng Gia Định,
từ Đông Môn, Bà Rịa đến Ba Xắc, Trà Vinh.
Việc khai hoang bằng các đồn điền đã góp phần giải quyết nhu cầu
lương thực, sản xuất quân lương cho cuộc chiến tranh chống Tây Sơn
của chính quyền Nguyễn Ánh. Đồng thời, hoạt động này cũng ngày
càng tỏ rõ là một phương cách thích hợp và hiệu quả để đẩy mạnh công
cuộc khai phá vùng đất mới Đồng Nai - Gia Định. Chính vì thế, sau khi
thắng Tây Sơn lập vương triều Nguyễn, các vua đầu triều đại này vẫn
tiếp tục chính sách thành lập đồn điền ở Nam Bộ. Hơn thế nữa, dưới

1, 2, 3. Quốc sử quán triều Nguyễn: Đại Nam thực lục, Sđd, t.I, tr.265, 265,
275.
4. T.Ch. Balancie: “Monographie de l’arrondissement de Gia Định” trong
A. Schreiner: Les institutions Annamites en Basse Cochinchine avant la Conquête
francaise, Saigon, 1900, Tome III, tr.65.
306 VÙNG ĐẤT NAM BỘ VIII THIẾT CHẾ QUẢN LÝ XÃ HỘI

thời các vua Nguyễn, chính sách đồn điền được thi hành một cách triệt
để hơn trên phạm vi cả nước, và Nam Kỳ vẫn là nơi có nhiều đồn điền
nhất. Trong nửa đầu thế kỷ XIX, đồn điền được các vua Nguyễn chú ý
nhiều hay ít tùy từng thời điểm, nhưng nhìn chung các hình thức đồn
điền cũng như nhân lực dùng trong các đồn điền được mở rộng nhiều
hơn so với giai đoạn trước đó. Tùy theo loại nhân lực sử dụng trong các
đồn điền là binh lính, tù phạm hay thường dân mà cách thức tổ chức và
hoạt động của các đồn điền này có những khác biệt nhất định.
Dưới triều vua Gia Long (1802-1819), đồn điền được lập ở bốn phủ
thuộc thành Gia Định là Tân Bình, Định Viễn, Phúc Long, Kiến An.
Binh lính thường được gọi là “quân điền”. Ở đây, những người lính vẫn
phải làm nhiệm vụ quân sự trong khi khai phá đất đai, làm ruộng. Riêng
đối với các đồn điền mà thành phần là dân thường được chiêu mộ, ngay
sau khi chiến tranh chấm dứt, Gia Long đã cho giảm bớt đi 2/10 số thóc
sưu mà dân trong các đồn điền phải nộp (năm 1802), sau đó còn cho
giảm đến 4/6, rồi 5/10 cho các nậu đồn điền người Hoa và các hạng lão
tật. Như thế, dân trong các đồn điền chỉ phải nộp 2 hộc thóc/người/
năm; riêng các hạng lão tật chỉ nộp 1 hộc thóc/người/năm1.
Dưới thời Minh Mạng (1820-1840) và Thiệu Trị (1841-1847), chính
sử nhà Nguyễn tiếp tục nhắc nhiều đến các đồn điền mang tính chất
quân sự thuần túy. Nhưng cũng giống như tình hình đã xảy ra dưới
thời Gia Long, các đồn điền loại này cũng biến đổi và giảm bớt nhiều
tính chất quân sự. Trước hết, lực lượng lao động làm đồn điền được bổ
sung một nguồn nhân lực mới không nằm trong quân đội, đó là các tù
phạm (theo đạo dụ của Minh Mạng năm 18362). Họ được tập trung từ
khắp các tỉnh miền Nam về làm đồn điền ở thành Trấn Tây, có lẽ chỉ
ở mạn Tây Ninh, Châu Đốc. Sau nữa, chính các lính đồn điền và tù

1. Xem Vũ Huy Phúc: Tìm hiểu chế độ ruộng đất Việt Nam nửa đầu thế kỷ
XIX, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1979, tr.93.
2. Xem Quốc sử quán triều Nguyễn: Đại Nam thực lục, Sđd, t.IV, tr.1007.
CHƯƠNG IV: LÀNG XÃ VÀ CÁC THIẾT CHẾ TỰ QUẢN... 307

phạm này đều được phép hưởng hoa lợi thu hoạch, khấu trừ vào gạo
khẩu phần lương vẫn do nhà nước cấp phát bấy nay (theo các đạo dụ
của Minh Mạng vào năm 1826, 1835, 1836). Đạo dụ năm 1835 của vua
Minh Mạng quy định: “... phỏng theo cách đồn điền đời cổ, chọn những
chỗ đất có thể cày trồng được, cấp trâu cày và đồ làm ruộng cho biền binh
trú phòng ở đấy, khiến họ vừa cày ruộng, vừa thao diễn và cho họ được ăn
dùng những thóc gạo, hoa lợi do họ đã làm được. Đợi sau 1, 2 năm thành
điền rồi, mới lấy thóc lúa, hoa lợi ấy sung làm khẩu lương. Nhà nước chỉ cấp
cho tiền lương, không phải phát gạo, để làm cái chước lâu dài”1. Tiếp đó, vào
năm 1836, Vua Minh Mạng lại ban hành đạo dụ, quy định: “Người nào
nguyên là lính, thì hằng tháng cấp cho 5 tiền, 1 phương gạo, còn thì chỉ
cấp gạo thôi, đến khi thành ruộng rồi thì thôi không cấp nữa”2. Chính
những tù phạm trong các đồn điền này (dĩ nhiên được gọi theo quan
niệm của vương triều Nguyễn) tất yếu sẽ trở thành người dân thường,
cày cấy, sinh sống thành các làng ấp sau này, bởi vì quyết định của Minh
Mạng vào tháng 2 năm Canh Tý (1840) đã ghi rõ: “Lại chuẩn y lời bàn
của Bộ Hộ: từ Khánh Hòa trở vào Nam, những nơi nào có đồn điền,
đều lượng trích những ruộng đã thành điền cho tù phạm quản nhận
cày cấy. Đến khi thu hoạch, một nửa nộp làm của công, một nửa cho ăn
dùng; còn khẩu lương thì thôi không cấp nữa. Những ruộng tù phạm
làm không hết cho dân nào cận tiện đấy cày cấy nộp thuế sung làm công
điền”. Như vậy, chính quyền nhà nước đã chính thức thừa nhận những
tù phạm trong các đồn điền trở thành người dân bình thường, cho họ
quyền chiếm hữu ruộng đất mặc dù vẫn phải đóng thuế rất nặng. Với
quyết định này, trên thực tế, hầu hết những đồn điền loại thứ nhất đến
thời Minh Mạng đã chuyển thành các thôn xã bình thường.
Cũng theo một tài liệu của Pháp thu thập dựa trên thông tin điều
tra trực tiếp đối với những người dân đồn điền còn sót lại lúc quân Pháp

1, 2. Quốc sử quán triều Nguyễn: Đại Nam thực lục, Sđd, t.IV, tr.561-562, 1007;
t.V, tr.664.
308 VÙNG ĐẤT NAM BỘ VIII THIẾT CHẾ QUẢN LÝ XÃ HỘI

đánh chiếm Nam Kỳ, một đồn điền ở Gia Định được mô tả như sau: “có
4 đội lính đồn điền đóng trong vùng này, không đồn lũy mà cũng chẳng
có trại quân chi cả. Người lính đồn điền ở tại nhà họ cày cấy đất đai mà
nhà vua cấp cho họ và phải nộp tô cả thảy là 2 quan tiền và 10 giạ lúa.
Hằng năm vào tháng giêng, họ bị trưng tập đến thành để duyệt quân
và thao luyện. Sau đó họ lại được cho về nhà, không có vũ khí và được
miễn mọi thứ sai dịch khác... Việc tuyển mộ thực hiện bằng việc tham
gia tự nguyện. Chính quyền dân sự là người tổ chức tối cao của tổ chức
đồn điền”1. Quả thực, các đồn điền này nằm dưới sự quản lý, chỉ huy của
quan bố chính (bố chánh) các tỉnh và trên nữa là chức quan kinh lược
sứ, chứ không thuộc quyền quan lãnh binh như những đơn vị quân sự
khác. Ngoài ra, các viên quản đồn điền thường là những viên cai tổng
hay trưởng thôn cũ2.
Tuy nhiên, một quá trình đối ngược lại là nhà nước sử dụng các
dân đồn điền vào mục đích quân sự cũng đồng thời diễn ra trong thời
Nguyễn. Năm 1810, Gia Long ra lệnh: “việc võ bị ở nơi biên cương
không thể thiếu được. Nếu lại điều động binh ở nơi khác đến thì không
quen phong thổ, quyết không bằng dân thổ trước các ngươi biết rõ tình
thế biên cương hoãn cấp thế nào mới có thể sai được. Vậy hạ lệnh số
dân các phủ huyện tổng xã thôn phường cùng số dân đồn điền, biệt
nạp, đều lấy một nửa lập làm hương binh, biên thành đội ngũ, có việc
thì làm lính, không việc thì làm ruộng. Đó là thượng sách để cùng nhau
giữ gìn yên ổn”3. Minh Mạng cũng cho lập nhiều đồn điền hơn so với
triều vua trước, đặc biệt tại các vùng biên giới. Trong thời Minh Mạng,
việc tổ chức dân đinh trong các đồn điền thành đội ngũ như quân đội
được thúc đẩy mạnh hơn. Năm 1822, vua Minh Mạng cho tuyển tất cả

1. Deschasesux trong Excursions et Recon-naissances, Saigon, 1889, Tome


XIV, tr.133-134.
2. Xem Chu Thiên: “Chính sách khẩn hoang của triều Nguyễn”, tạp chí Nghiên
cứu lịch sử, số 56, tháng 11-1963, tr.51.
3. Quốc sử quán triều Nguyễn: Đại Nam thực lục, Sđd, t.I, tr.798.
CHƯƠNG IV: LÀNG XÃ VÀ CÁC THIẾT CHẾ TỰ QUẢN... 309

dân đinh trong các đồn điền vào ngạch binh. Các dân đinh này được
tổ chức như những người lính và phải tập luyện quân sự. Dường như
quyết định này của các vua Nguyễn nhằm đối phó với tình hình chính
trị - xã hội đang ngày càng căng thẳng ở phương Nam. Vào lúc này, do
sự nhũng nhiễu của quan lại và tệ bóc lột của địa chủ mà số dân cùng
khổ ngày càng nhiều, gây ra sự bất ổn âm ỉ trong lòng xã hội Nam Bộ,
sau đó đã nhanh chóng bùng nổ và kéo dài với cuộc nổi dậy của Lê Văn
Khôi (1833-1835), tiếp theo là các cuộc nổi dậy của người Khmer trong
thập niên 1840.
Tư liệu triều Nguyễn1 cho biết chi tiết con số thống kê các hiệu, trại
đồn điền và số dân đinh trong các đồn điền này vào thời điểm đó:
Tân Bình: 3 hiệu 22 trại 750 người.
Định Viễn: 14 hiệu 142 trại 6.174 người.
Phúc Long: 1 hiệu 4 trại 138 người.
Kiến An: 8 hiệu 79 trại 2.641 người.
Tên gọi các đồn điền này vốn được lấy theo tên tổng, huyện sở tại
cũng được đổi thành tên gọi các phiên hiệu như những đơn vị quân đội
chung của vương triều Nguyễn: Tân Bình được đổi thành “Gia Bình
hiệu”; Định Viễn được đổi thành “Gia Viễn hiệu”; Phúc Long được đổi
thành “Gia Phúc hiệu”; Kiến An được đổi thành “Gia An hiệu”...
Vua Minh Mạng tiếp tục đẩy mạnh phát triển các quân đồn điền
ở nhiều vùng biên giới như Hà Tiên (năm 1835), đảo Côn Lôn (năm
1840)... Thêm nữa, Minh Mạng còn tích cực cho đưa tù phạm đến
lao động sản xuất trong các đồn điền. Tư liệu lịch sử cho biết, lúc
đầu các tù phạm được đưa đến làm việc trong những quân đồn điền
ở Trấn Tây Thành, đến năm 1839 thì các tù phạm đã được đưa đến
những quân đồn điền trong khắp sáu tỉnh Nam Kỳ2.

1. Xem Quốc sử quán triều Nguyễn: Đại Nam thực lục, Sđd, t.II, tr.231.
2. Xem Quốc sử quán triều Nguyễn: Minh Mệnh chính yếu, Sài Gòn, 1974,
t.III, tr.92.
310 VÙNG ĐẤT NAM BỘ VIII THIẾT CHẾ QUẢN LÝ XÃ HỘI

Có thể khẳng định rằng thời vua Minh Mạng (1820-1840) là lúc có
nhiều đồn điền nhất tại Nam Bộ. Chỉ tính riêng số dân đồn điền, vào
năm 1822, đã đạt đến con số 247 đơn vị (trại) với 9.703 dân đinh (không
có số liệu cụ thể về quân đồn điền, nhưng chắc chắn cũng là một tỷ lệ
rất đáng kể trong số này).
Đồng thời với sự tồn tại của loại hình đồn điền thứ nhất, để đẩy
mạnh việc khai khẩn đất hoang, mở rộng sản xuất ở Nam Bộ, nhà nước
đứng ra tổ chức chiêu mộ dân, đưa đến các vùng đất hoang khai phá, lập
xóm làng. Chính sách này có thể thấy đã xuất hiện ngay từ tháng 10
năm Canh Tuất (1790), khi Nguyễn Ánh cho mộ dân để lập đồn điền1.
Lúc đó, sau khi đã chiếm giữ được Gia Định, Nguyễn Ánh quyết định
thiết lập lại hình thức đồn điền ở Nam Kỳ, với một điểm mới là ngoài
hình thức đồn điền do binh lính khai khẩn, còn lập thêm một loại đồn
điền khác là những đồn điền do các hạng dân thường canh tác. Dân trong
những đồn điền loại này được chia thành các đội hay các nậu, giống như
tổ chức đội ngũ quân sự. Nhưng họ chỉ chuyên làm ruộng và chăn nuôi,
không phải tập luyện quân sự. Những người dân đồn điền này được nhà
nước giao ruộng hoang, cấp nông cụ (nếu thiếu) và sau khi thu hoạch
hằng năm phải nộp thóc sưu cho nhà nước.
Để thành lập các đồn điền này, chính quyền phong kiến tổ chức
chiêu mộ người dân từ các làng xã trong phạm vi quản lý của nhà
nước. Việc tuyển mộ được tiến hành với cả hai hình thức là tự nguyện
và cưỡng bức. Hình thức chiêu mộ tự nguyện được áp dụng rộng rãi
cho tất cả mọi người với lệ thưởng để khuyến khích. Ví dụ, lệnh mộ
người vào tháng 10 năm Canh Tuất (1790) quy định: “cho các nha văn
võ mộ người lập các đội nậu đồn điền, hằng năm thu thóc sưu mỗi
người 6 hộc. Dân thực nạp ai mộ được 10 người trở lên thì cho làm
cai trại và rút tên khỏi sổ của thôn”2. Hình thức chiêu mộ cưỡng bức

1. Xem Quốc sử quán triều Nguyễn: Đại Nam thực lục, Sđd, t.I, tr.265.
2. Quốc sử quán triều Nguyễn: Đại Nam thực lục, Sđd, t.I, tr.265.
CHƯƠNG IV: LÀNG XÃ VÀ CÁC THIẾT CHẾ TỰ QUẢN... 311

được thực hiện đặc biệt với những người Hoa kiều và Khmer. Tháng
giêng năm Tân Hợi (1791), chính quyền Nguyễn Ánh “Ra lệnh cho
các hạng dân và người Đường [Hoa Kiều] cũ mới ở đạo Long Xuyên,
ai muốn làm đồn điền mà đồ làm ruộng không đủ thì nhà nước cho
vay, mỗi năm thu thóc sưu mỗi người 8 hộc, thuế thân xem như quân
hạng, dao dịch đều miễn. Kẻ nào không muốn làm đồn điền thì bắt
phải thụ dịch tòng chinh, để răn kẻ chơi bời lười biếng. Những người
Phiên và người Đường [Hoa Kiều] ở hai phủ Ba Xắc và Trà Vinh cũng
cho khẩn đất làm đồn điền mỗi năm thu thóc sưu mỗi người 15 hộc
(sau giảm cho 5 hộc)”1. Các biện pháp này được chính quyền Nguyễn
Ánh thực hiện mạnh mẽ nhằm thúc đẩy hơn nữa việc thành lập đồn
điền, thậm chí bắt buộc người dân phải tham gia.
Hình thức đồn điền thứ hai này mang dáng dấp của một thứ ấp tập
trung. Tuy những người dân đồn điền được tổ chức thành từng đội,
nhưng lại không có vũ khí, không thao luyện quân sự và phải nộp sưu
cho nhà nước. Như thế, những người dân đồn điền có địa vị như người
dân thường, và các tổ chức đồn điền này giống như bất cứ làng ấp nào
khác. Quả vậy, hiện chưa có nhiều tài liệu để có thể phục dựng, phác
họa về hình thể, tổ chức của các đồn điền này, nhưng có thể hình dung
rằng những người dân đồn điền hẳn cũng có gia đình, vợ con và nhà
cửa riêng quây quần với nhau. Như vậy, mặc nhiên đã hình thành trên
những vùng đất mới khai khẩn các đơn vị cư trú và sản xuất mới: những
làng ấp có tổ chức.
Sang thời Gia Long (1802-1819), tính chất dân sự của các đồn
điền này lại càng được khẳng định. Trong khi nhà nước trưng mộ
hương binh, dân đồn điền cũng được tính như dân thường sinh sống
ở các làng khác. Họ cũng phải chọn lựa lấy làm hương binh (một loại
hình quân đội địa phương không thoát ly sản xuất) như đối với mọi

1. Quốc sử quán triều Nguyễn: Đại Nam thực lục, Sđd, t.I, tr.270.
312 VÙNG ĐẤT NAM BỘ VIII THIẾT CHẾ QUẢN LÝ XÃ HỘI

người dân nói chung (theo chiếu của vua Gia Long ban hành vào
tháng 9 năm Canh Ngọ (1810)1). Tuy nhiên, việc này cũng được giảm
bớt từ tháng 4 năm Giáp Tuất (1814): trong số dân đồn điền chỉ lấy
1/3 làm hương binh, số hương binh này mỗi năm chỉ phải tập luyện
quân sự hai tháng (vào tháng 3 và tháng 11)2.
Trong thời kỳ các vua Nguyễn, việc trích tách hẳn một phần quân
đội để lập đồn điền như thời kỳ Nguyễn Ánh ở Nam Bộ đã không được
tiếp tục. Triều Nguyễn thay thế bằng biện pháp đưa tù phạm đến khai
khẩn, canh tác ở các đồn điền, hoặc mộ dân thường để lập đồn điền.
Điều đó cho thấy ý nghĩa của chữ “đồn điền” lúc này đã bao hàm nhiều
hơn tính chất dân sự.
Việc mộ dân được quy định rõ ràng: Đối với những người mộ
dân đồn điền “người nào mộ được đủ 1 đội, thì bổ thụ làm Chánh đội
trưởng suất đội (chánh thất phẩm); đủ 1 cơ, thì bổ thụ Cai đội (chánh
lục phẩm) thí sai Phó quản cơ. Sau khi thành căn cước rồi thì 1 đội làm
1 ấp, 1 cơ làm 1 tổng. Quản cơ, suất đội đều lĩnh chức tổng trưởng, ấp
trưởng”3;2 đối với tù phạm: “Lại những tù tội chính quán, ngụ quán ở 6
tỉnh (từ tội xử sung quân trở xuống), không kể quan hay dân phạm tội,
nếu có người nào ra sức tình nguyện triệu mộ dân, lập làm 1 đội, hoặc 1
thôn, đều đủ 50 người, thì cho phép làng, họ bảo nhận cam kết, sẽ được
tạm tha, cho đi chiêu mộ đủ số thì tha tội”4. Cũng theo chính sử triều
Nguyễn, những người ứng mộ làm đồn điền bao gồm người Việt, người
Khmer và người Hoa, thường dân lẫn tù phạm thuộc sáu tỉnh Nam Kỳ,
và cả những người từ Quảng Nam, Bình Định, Khánh Hòa, Bình Thuận
trở vào5.43.

1, 2. Xem Quốc sử quán triều Nguyễn: Đại Nam thực lục, Sđd, t.I, tr.798, 882.
3, 4. Quốc sử quán triều Nguyễn: Đại Nam thực lục, Sđd, t.VII, tr.263, 264.
5. Xem G. Durwell: Bulletin de la Société des études indo-chinoies, No36,
Année, 1898; Quốc sử quán triều Nguyễn: Đại Nam thực lục, Sđd, t.VII,tr.263-264.
CHƯƠNG IV: LÀNG XÃ VÀ CÁC THIẾT CHẾ TỰ QUẢN... 313

Ở đây có một vấn đề cần đặt ra: những người dân ứng mộ làm đồn
điền này có được mang theo gia đình đến vùng đất khai phá hay không?
Điều này có ý nghĩa hết sức sâu xa, bởi vì, ứng mộ nếu những người dân
ứng mộ làm đồn điền được đem theo gia đình thì việc biến chuyển từ
đồn điền sang làng ấp càng nhanh chóng vô cùng. Các tài liệu chính sử
triều Nguyễn không ghi rõ quy định về vấn đề này. Song, theo một tài
liệu của Pháp dịch lại văn bản tập tâu của Nguyễn Tri Phương mà quân
Pháp thu được ở Hóc Môn, Nguyễn Tri Phương có nói đến việc ghi rõ
“họ tên và gia đình những người đã tập hợp được” đệ trình triều đình1.
Cũng theo một tài liệu của Pháp, dưới thời Minh Mạng, ở Gia Định có
bốn đội đồn điền “có đủ cả nhà riêng để ở với gia đình họ”2. Do đó, hoàn
toàn có cơ sở để tin rằng ngay khi mới gom góp người dân lại để thành
lập đồn điền thì một kiểu làng xã mới đã hình thành. Như vậy, tính chất
dân sự của đồn điền lúc này là khá rõ.
Trong việc chiêu mộ lưu dân lập đồn điền thời Nguyễn, quá trình
Nguyễn Văn Thoại đưa dân đến khai phá dọc bờ kênh Vĩnh Tế là một ví
dụ tiêu biểu. Những hoạt động của ông đã trực tiếp dẫn đến việc thành
lập 20 xã thôn trong vùng này3.
Nhìn chung, việc khẩn hoang do nhà nước tổ chức có phần lắng
dịu trong những năm thuộc triều vua Thiệu Trị (1841-1847) và giai
đoạn đầu triều vua Tự Đức (1848-1883). Tư liệu lịch sử có ghi chép
một vài lần triều đình tổ chức đưa tù phạm đi khai hoang. Ví dụ, năm
1842, vua Thiệu Trị ra lệnh đưa tù phạm đi khai hoang ở An Giang4.
Tiếp đó, năm 1851, vua Tự Đức ra lệnh đưa những tù phạm về tội lưu

1. Xem Baulmont: Le service millitaire dans l’Annam d’autrefois, Revue


Indochinose, 1913, t.20, tr.590.
2. G. Durwell: Bulletin de la Société des études indo-chinoies, No36, Année,
1898, tr.14.
3. Nguyễn Văn Hầu: Thoại Ngọc Hầu và những cuộc khai phá miền Hậu Giang,
Hương Sen xuất bản, Sài Gòn, 1972, t.III, tr.400.
4. Quốc sử triều Nguyễn: Đại Nam thực lục, Sđd, t.VI, tr.494-495.
314 VÙNG ĐẤT NAM BỘ VIII THIẾT CHẾ QUẢN LÝ XÃ HỘI

quân ở các tỉnh, trừ ra những người bị bắt vì theo đạo Gia Tô (Thiên
Chúa giáo), vào sáu tỉnh Nam Kỳ, cấp cho họ trâu bò, đồ làm ruộng
và lương thực để khai phá đất hoang1. Sang năm 1852, theo lời tâu
xin của Nguyễn Tri Phương, vua Tự Đức lại cho đưa những tù nhân
phạm tội trộm cướp vặt và những tên du côn không rõ lai lịch ở sáu
tỉnh Nam Kỳ bị tội đồ từ ba năm trở xuống đến tỉnh An Giang để vỡ
đất hoang làm ruộng2...
Tuy vậy, dưới thời Tự Đức, một kế hoạch khai hoang quan trọng
đã được triều đình cho thực hiện ở Nam Kỳ từ năm 1853, bao gồm cả
hình thức khuyến khích dân chúng tự đi khai phá đất hoang trồng trọt
và hình thức nhà nước chủ động tổ chức đưa dân đi khai hoang. Thoạt
đầu, vua Tự Đức chỉ dự định tổ chức khai hoang, đưa dân đến định cư ở
vùng biên giới theo đề nghị của Nguyễn Tri Phương cùng Phan Thanh
Giản “cho là An Giang, Hà Tiên, địa giới liền với đất Man, là nơi địa đầu
yếu; xin mộ dân đồn điền ở mặt dải sông Vĩnh Tế thuộc 2 tỉnh ấy, mỗi
đội 50 tên, do 2 tỉnh ấy dồn làm các đội An điền, Tiên điền, ngày thường
thì khai khẩn làm ruộng; khi có việc thì chia phái đi phòng giữ. Lại ở ven
2 bên bờ sông, cũng xin chiêu dân lập ấp, miễn cho phần chọn ra lính.
Lúc thường thì tùy tiện kinh doanh, sinh nghiệp; có sự thì họp hết lại,
chia đi phòng thủ để làm kế khai khẩn ruộng đất, vững mạnh cõi ven”3.
Sau đó, nhà nước chủ trương thúc đẩy việc khai hoang, mở rộng khu
vực khai khẩn, bao gồm cả hai phủ Tĩnh Biên, Ba Xuyên và cuối cùng

1. Theo lời tâu của Tổng đốc Sơn Hưng Tuyên là Ngụy Khắc Tuần: “Những tù
phạm về tội quân lưu ở các tỉnh hiện đem đi phát phối, trừ ra những tên nguyên
can điều cấm về theo đạo Gia Tô thì không kể còn những tên phạm khác, xin giải
giao cho 6 tỉnh Nam Kỳ trích ra những ruộng chưa từng khai khẩn, liệu cấp cho
trâu và đồ làm ruộng cùng lương ăn, để cho hết sức khai khẩn cày cấy, đẫy 3 năm,
số ruộng khai khẩn được bao nhiêu đều chuẩn cho làm tư điền, cho phép quản
nhận để làm sinh nghiệp, đến 6 năm mới bắt đầu thu thuế” (Xem Quốc sử quán
triều Nguyễn: Đại Nam thực lục, Sđd, t.VII, tr.494-495).
2, 3. Xem Quốc sử quán triều Nguyễn: Đại Nam thực lục, Sđd, t.VII, tr.343,
263.
CHƯƠNG IV: LÀNG XÃ VÀ CÁC THIẾT CHẾ TỰ QUẢN... 315

lan ra khắp cả sáu tỉnh Nam Kỳ. Nguyễn Tri Phương là người được giao
thực hiện kế hoạch quy mô này1.
Để thực hiện kế hoạch này, các quan lại của triều đình Nguyễn
đứng ra tổ chức cả hai hình thức khai hoang là mộ dân lập đồn điền
và mộ dân lập ấp. Trong đó, cách thức mộ dân lập đồn điền là “Dân
mộ làm đồn điền thì dồn làm binh đồn điền, chỉ lấy 50 người dân Kinh
làm 1 đội, 500 người làm 1 cơ. (...) người nào mộ được đủ 1 đội, thì bổ
thụ làm Chánh đội trưởng suất đội (chánh thất phẩm); đủ 1 cơ, thì bổ
thụ Cai đội (chánh lục phẩm) thí sai Phó quản cơ. Sau khi thành căn
cước rồi thì 1 đội làm 1 ấp, 1 cơ làm 1 tổng. Quản cơ, suất đội đều lĩnh
chức tổng trưởng, ấp trưởng”2. Theo báo cáo của Nguyễn Tri Phương
vào năm 18543, 21 cơ đồn điền đã được lập tại 6 tỉnh Nam Kỳ, gồm: 6
cơ (Gia Trung, Gia Thuận, Gia Hùng, Gia Nhuệ, Gia Tráng, Gia Tiệp) ở
Gia Định, 2 cơ (An Vũ, An Dũng) ở An Giang, 3 cơ (Tường Uy, Tường
Kiên, Tường Nhuệ) ở Định Tường, 7 cơ (Long Hùng, Long Dũng, Long
Tự, Long Hựu, Long Minh, Long Nghĩa, Long Vinh) ở Vĩnh Long, 2 cơ
(Hà Kiên, Hà Nghĩa) ở Hà Tiên, 1 cơ (Biên Dũng) ở Biên Hòa. Ngoài
ra, ở vùng kênh Vĩnh Tế còn có 4 cơ đồn điền khác mang tên Ninh Biên
Nhất, Ninh Biên Nhị, Ninh Biên Tam, Ninh Biên Tứ. Như vậy, trên toàn
vùng Nam Kỳ lúc bấy giờ có 25 cơ đồn điền.
Trong khuôn khổ kế hoạch năm 1853 của triều Nguyễn, các đồn
điền mới lập có tính chất quân sự tương đối rõ rệt. Bởi vậy, một số tác
giả người Pháp, chủ yếu là các sĩ quan trong quân đội thực dân, từng đề
cập đến chức năng và hoạt động quân sự của đồn điền, như vọng gác và
việc canh gác có vũ khí, y phục binh lính, các kỳ điểm danh và sự tham
dự của dân đồn điền vào đội quân của Nguyễn Tri Phương chống Pháp
ở đại đồn Chí Hòa. Mặt khác, chính sử triều Nguyễn cũng ghi rõ ràng

1, 3. Xem Quốc sử quán triều Nguyễn: Đại Nam thực lục, Sđd, t.VII, tr. 264,
325-326.
2. Quốc sử quán triều Nguyễn: Đại Nam thực lục, Sđd, t.VII, tr.263.
316 VÙNG ĐẤT NAM BỘ VIII THIẾT CHẾ QUẢN LÝ XÃ HỘI

quyết định năm 1854 của vua Tự Đức hoãn không cấp áo trung khai
(loại áo lính mở vạt ở giữa bụng) và bỏ lệ diễu binh hằng năm cho tất
cả các đồn điền ở sáu tỉnh Nam Kỳ: “việc may cấp quân y và lệ diễn
tập hằng năm, cũng là việc không cần lắm, cho tạm đợi sau 3 năm sẽ
làm dần”1. Tuy nhiên, việc phát y phục và lệ tập quân sự trên thực tế
chỉ thực hiện được một năm rồi bị bãi bỏ. Một tài liệu của Pháp đã mô
tả khá cụ thể tính chất đồn điền thời Tự Đức như sau: “Lính đồn điền
phải hợp thành từng xóm, không được ở lẻ tẻ trong khu đất hoang.
Mỗi đội buộc phải lập một cái chợ để đáp ứng nhu cầu đội mình. Mỗi
phần đất cấp lần đầu cho từng người là 2 hec-ta. Việc tuyển mộ hoặc
do các làng sẵn có thực hiện hoặc bằng cách tham gia tự nguyện.
Trong trường hợp thứ hai, cần phải có 50 người đầy đủ tư cách cùng
ký vào một tờ đơn xin đất... Tổ chức có tính chất quân đội này khi
được mở rộng thì cũng đặt ra các viên quản và phó quản, nhưng họ
luôn luôn dưới sự trông coi của chính quyền dân sự. Hàng năm quan
bố đi kiểm tra các đồn điền và xác nhận kết quả đạt được, ngoài ra
còn chỉ định các cấp bậc nhỏ; các chức đội quản thì do chính quyền
trung ương hay viên tổng đốc trong tỉnh trực tiếp chỉ định”2. Ngoài
các nhiệm vụ quân sự hạn chế như trên, những người trong đồn điền
“tham dự vào mọi đặc quyền của đời sống dân sự. Họ có thể trở thành
kỳ mục các làng xã, đi buôn bán hoặc thông thương tự do. Họ phải
đóng thuế thân theo những điều kiện bình thường, trừ trong thời hạn
7 năm đầu làm việc”3.
Lính đồn điền ăn lương theo ngạch lính, tức mỗi tháng được cấp
1 phương gạo (khoảng 32,77 kg4)3và 1 quan tiền. Cấp chỉ huy mang

1. Quốc sử quán triều Nguyễn: Đại Nam thực lục, Sđd, t.VII, tr.337.
2, 3. Deschasesux trong Excursions et Recon-naissances, Saigon, 1889, Tome
XIV, tr.134-135.
4. Xem Hà Duy Biển: “Định mức lương bổng của quan lại Bộ Binh dưới triều
Minh Mệnh (1820-1840)”, tạp chí Lịch sử quân sự, số 278, tháng 2-2015, tr.54.
CHƯƠNG IV: LÀNG XÃ VÀ CÁC THIẾT CHẾ TỰ QUẢN... 317

danh hiệu như quân đội, nhưng không ở trong ngạch chính quy.
Như vậy, có thể thấy các đồn điền ở giai đoạn này chỉ là một tổ chức
bán quân sự đặt dưới quyền kiểm soát của quan bố chánh và tổng
đốc, chứ không trực thuộc quan lãnh binh hay đề đốc như lực lượng
quân đội thực thụ1.
Nhìn chung, kết quả khai phá đất hoang, lập làng của những đồn
điền này không được đề cập nhiều trong các tài liệu vốn rất tản mạn.
Trong thời kỳ trước năm 1802, Nguyễn Ánh lập loại đồn điền
thứ hai ở khắp khu vực Nam Bộ, nhưng kết quả thực hiện không
được biết một cách rõ ràng. Đến cuối đời Gia Long, theo một tài liệu
của Pháp, nhiều làng ấp ở vùng An Thạnh và Dương Hòa Hạ vốn có
nguồn gốc từ các đồn điền. Riêng ở Gia Định Thành, 4 đồn điền bao
gồm 9.703 người (trong đó, Tân Bình: 750 người; Định Viễn: 6.174
người; Phúc Long: 138 người; Kiến An: 2.641 người). Thực ra, số
người này chỉ là số suất đinh ghi vào sổ thuế, và tên đồn điền cũng
lấy theo tên huyện hay tên tổng sở tại. Bởi vậy, con số 9.703 người có
lẽ cần phải nhân lên gấp 4 hay 5 lần mới phản ánh đúng số hộ dân
đồn điền (gồm người dân đồn điền và gia đình họ). Trong suốt thời
Minh Mạng, chính sử triều Nguyễn chưa thấy ghi chép một con số
nào về vấn đề này. Nhưng theo các tài liệu của Pháp, chính các đồn
điền là lực lượng đầu tiên khai phá Đồng Tháp Mười và lập ra những
khu chợ quan trọng như Vàm Ngựa, Cai Lậy, Bình Thủy, Cái Răng,
Ô Môn, Trà Ôn2. Bên cạnh đó, tài liệu lịch sử cũng thường nhắc đến
các đồn điền ở Hà Tiên, Trấn Tây Thành, Khánh Hòa, đảo Côn Lôn,
Biên Hòa, An Giang, Vĩnh Long... Ngoài ra, nhiều tài liệu khác của

1. Xem Nguyễn Đình Đầu: Chế độ công điền công thổ trong lịch sử khẩn hoang
lập ấp ở Nam Kỳ lục tỉnh, Nxb. Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh, 2001, tr.150-151.
2. Xem Deschasesux trong Excursions et Recon-naissances, Saigon, 1889,
Tome XIV, tr.134.
318 VÙNG ĐẤT NAM BỘ VIII THIẾT CHẾ QUẢN LÝ XÃ HỘI

người Pháp cũng từng đề cập tới một số đồn điền còn lại ở Mỹ Tho,
Cần Thơ... Như vậy, đồn điền xuất hiện rải rác trên khắp khu vực
Nam Kỳ.
Dưới thời Tự Đức, các đồn điền loại thứ hai phát triển mạnh hơn,
tấp nập hơn và cũng phân bố rải rác trên toàn bộ các tỉnh Nam Kỳ, nhất
là ở Gia Định, An Giang, Hà Tiên. Một tài liệu của Pháp cho biết thêm:
các đồn điền này “được dân nghèo hưởng ứng cực kỳ nhiệt liệt và chẳng
bao lâu vô số đồn điền đã hình thành ở các tỉnh miền Tây, nhất là ở vùng
Ba Xuyên, Lạc Hóa. Các đồn điền này chiếm trị tất cả các vàm sông
chính, rồi dần dần cả phía trong các rạch”1.
Ở Hà Tiên, ngay từ năm đầu tiên thực hiện chính sách đồn điền
thời Tự Đức (tức năm 1853), số người ứng mộ đồn điền ở Tiền Giang
đã được 6 cơ với tổng suất 3.000 người (mỗi cơ gồm 500 người2). Theo
tập tâu của Nguyễn Tri Phương vào tháng 7 năm Giáp Dần (1854), ở
sáu tỉnh Nam Kỳ đã “dồn thành cơ đội được 21 cơ, lập thành làng mạc
trên dưới 100 ấp, chia đặt cho đóng đồn, khẩn ruộng, sự thế đã nghiêm,
hình thức đã thành, không đến nỗi dân dễ tán đi nữa”3. Theo tính toán
lý thuyết, 21 cơ đồn điền nói trên bao gồm 10.500 đinh4. Trong Chế độ
công điền công thổ trong lịch sử khẩn hoang lập ấp ở Nam Kỳ lục tỉnh,
Nguyễn Đình Đầu đã cộng thêm 4 cơ ở vùng ngoài kênh Vĩnh Tế vào
con số 21 cơ đồn điền trong báo cáo của Nguyễn Tri Phương để nâng

1. Deschasesux trong Excursions et Recon-naissances, Saigon, 1889, Tome


XIV, tr.135.
2. Mỗi cơ gồm 500 người là con số lý thuyết. Pallu De La Barriere cho rằng
phần đông các cơ đồn điền có không quá 300 người (Xem Pallu De La Barriere:
Histoire de l’expedition de la Cochinchine en 1861, Paris, 1861, bản dịch tiếng Việt:
Pallu De La Barriere: Lịch sử cuộc viễn chinh Nam Kỳ năm 1861, Nxb. Phương
Đông, Thành phố Hồ Chí Minh, 2008).
3. Quốc sử quán triều Nguyễn: Đại Nam thực lục, Sđd, t.VII, tr.325-326.
4. Xem Thực trạng xã hội Việt Nam dưới triều Tự Đức (1847-1883), Đại học
Văn khoa, Sài Gòn, 1970, tr.84.
CHƯƠNG IV: LÀNG XÃ VÀ CÁC THIẾT CHẾ TỰ QUẢN... 319

các con số này lên đến 25 cơ và 13.000 người1. Trong khi đó, Huỳnh Lứa
trong sách Lịch sử khai phá vùng đất Nam Bộ2 đưa ra con số 7.500 dân
đinh trong 25 cơ đồn điền và giả định nếu mỗi dân đinh khai phá được
4 mẫu như Deschaseaux cho biết3 thì diện tích khai phá được trong các
đồn điền ước tính vào khoảng 300.000 mẫu. Còn theo tài liệu của Pháp
thì các đồn điền thời Tự Đức đã lập được trên 500 làng và vỡ hoang
được 100.000 ha trên toàn bộ xứ Nam Kỳ4.
Trong khi đó, tổng số suất đinh cả sáu tỉnh Nam Kỳ thời Tự Đức
là 117.051 người5. Nếu lấy con số của Nguyễn Tri Phương đưa ra để
so sánh thì rõ ràng nhân số của đồn điền xấp xỉ 10% tổng số suất đinh
của toàn bộ sáu tỉnh Nam Kỳ. Đó là một tỷ lệ hoàn toàn không nhỏ.
Thêm nữa, so sánh con số “trên dưới 100 ấp làng”6, hoặc “lập thành
làng ấp, thì Gia Định 32 ấp, Vĩnh Long 60 ấp, An Giang 23 ấp, Định
Tường 9 ấp, cộng 124 ấp”7 hay 500 làng87do đồn điền mà lập thành với
tổng số làng ấp Nam Kỳ hồi đó càng cho thấy vai trò quan trọng của
các đồn điền thời Tự Đức nói riêng, đồn điền ở Nam Kỳ nói chung, đối
với công cuộc khai phá vùng đất Nam Bộ, cũng như vai trò của phương
thức lập làng từ các đồn điền do nhà nước tổ chức đối với quá trình
hình thành các xã thôn ở Nam Kỳ.

1. Xem Nguyễn Đình Đầu: Chế độ công điền công thổ trong lịch sử khẩn hoang
lập ấp ở Nam Kỳ lục tỉnh, Sđd, tr.157.
2. Xem Huỳnh Lứa (Chủ biên): Lịch sử khai phá vùng đất Nam Bộ, Nxb.
Thành phố Hồ Chí Minh, 1987, tr.124.
3. “Note sur les anciens đồn điền”, Excursions et Peconnaissances, 1899, tr.143,
Dẫn theo Huỳnh Lứa (Chủ biên): Lịch sử khai phá vùng đất Nam Bộ, Sđd, 1987,
tr.121.
4. Xem G. Durwell: Bulletin de la Société des études indo-chinoies, No36,
Année, 1898, tr.18.
5. Tổng hợp số liệu từ Quốc sử quán triều Nguyễn: Đại Nam nhất thống chí,
Nxb. Thuận Hóa, Huế, 2006, t. 5.
6, 7. Quốc sử quán triều Nguyễn: Đại Nam thực lục, Sđd, t.VII, tr.325-326, 326.
8. Xem G. Durwell: Bulletin de la Société des études indo-chinoies, No36,
Année, 1898, tr.18.
320 VÙNG ĐẤT NAM BỘ VIII THIẾT CHẾ QUẢN LÝ XÃ HỘI

- Làng có nguồn gốc từ các ấp do lưu dân tự tổ chức lập thành


Từ trước khi Chưởng cơ Nguyễn Hữu Cảnh (tức Nguyễn Hữu
Kính) vào kinh lược vùng đất phương Nam, lấy xứ Đồng Nai lập thành
phủ Gia Định và phân chia đất đai, dân số thành huyện, xã, có lẽ cả trăm
năm trước đã có “Hà Tôm xã”1 - một xã của 20 người lưu dân tự lập nên
giữa vùng đất hoang vu rộng lớn. Trong khi tha phương cầu thực, lưu
dân người Việt không thể sinh sống và khẩn hoang lẻ loi, mà phải đoàn
kết, tương trợ lẫn nhau, đi thành nhóm, đoàn, dựng lều trại, lập làng ấp.
Những người dân di cư vào vùng đất Nam Bộ trong các thế kỷ XVII-
XVIII gồm nhiều thành phần phức tạp. Họ là những tù nhân bị lưu đày,
những người trốn tránh binh dịch, những người giàu có muốn mở rộng
công việc làm ăn, những binh lính đào ngũ hoặc bị bệnh phải giải ngũ,
những người nông dân nghèo không sống nổi ở quê hương vì bị áp bức,
bóc lột nặng nề, và có cả những thành phần lưu manh, trộm cướp...
Nhưng thành phần chủ yếu, chiếm đa số vẫn là những người nông dân
nghèo khổ bị “bần cùng hóa”, buộc phải xiêu tán khỏi làng xã quê hương
mà sử cũ gọi là “lưu dân”. Lớp người này sau khi bị dồn vào con đường
xiêu tán đã tìm thấy nơi dung thân lý tưởng ở vùng đất Đồng Nai - Gia
Định nơi phương trời Nam xa xôi với đất đai rộng rãi, đồng ruộng phì
nhiêu nhưng chưa được khai thác bao nhiêu. Do vậy, không đợi đến khi
các chúa Nguyễn chính thức xây dựng chính quyền ở phương Nam hay
tổ chức các đợt di dân lớn sau này, những lưu dân người Việt đã sớm tìm
mọi cách để có thể di chuyển đến vùng đất biên viễn xa xôi nhưng hứa
hẹn đảm bảo cho họ một cuộc sống mới.
Vả lại, như tài liệu chính sử đã ghi rõ, khi Nguyễn Hữu Cảnh vào
kinh lược phương Nam thì ở Đồng Nai - Gia Định đã có hơn 40.000 hộ
gia đình2. Trong số này, những người đã di cư từ trước hẳn chiếm một

1. Nguyễn Đình Đầu: Chế độ công điền công thổ trong lịch sử khẩn hoang lập ấp ở
Nam Kỳ lục tỉnh, Sđd, tr.31-32.
2. Xem Quốc sử quán triều Nguyễn: Đại Nam thực lục, Sđd, t.I, tr.111.
CHƯƠNG IV: LÀNG XÃ VÀ CÁC THIẾT CHẾ TỰ QUẢN... 321

tỷ lệ không nhỏ. Như vậy, những người Việt rõ ràng đã chủ động di cư
đến Nam Bộ trong suốt thế kỷ XVII và kéo dài đến mãi về sau. Họ có
thể đi lẻ từng người và cả gia đình, hoặc nhiều người, nhiều gia đình kết
lại thành nhóm.
Những người di cư chủ yếu đi bằng đường biển với phương tiện
chính là thuyền buồm, ghe buồm, đã lần lượt tiến vào vùng đất mới.
Theo các kết quả nghiên cứu cho thấy, những điểm quy tụ trước hết của
họ chính là Mũi Xuy (Bà Rịa), Đồng Nai (Biên Hòa), về sau là Gia Định.
Chắc rằng cũng có một số lưu dân người Việt đã tiến vào sinh sống ở
vùng Mỹ Tho cùng với nhóm người Trung Hoa di cư dưới quyền chỉ
huy của Dương Ngạn Địch, hay đến tận vùng Hà Tiên, nơi Mạc Cửu đã
tổ chức các xóm làng khai khẩn, buôn bán.
Trên những vùng đất mới, lưu dân người Việt tự lựa chọn chỗ ở,
khu vực đất đai để khai phá với số lượng nhiều ít tùy theo sức lực của
mỗi người hay nhóm người. Lúc đó, đất rộng người thưa, đất đai hầu
hết chưa được khai phá, ai có sức bao nhiêu thì trưng khẩn bấy nhiêu,
chỉ cốt làm sao khai hoang khẩn hóa, biến đổi những nơi còn “hoang
vu sình lầy” này thành đồng ruộng phì nhiêu.
Ngay cả khi họ Nguyễn đã thiết lập chính quyền ở vùng này, người
dân vẫn còn có quyền tự tiện phân chiếm ruộng đất. Nhà nước không
can thiệp, hạn chế hoặc ràng buộc gì cả, với ý đồ muốn tạo điều kiện
thuận lợi cho việc mở mang, khai khẩn được nhanh chóng, làm tăng
thêm tô thuế cho nhà nước. Sau khi vào kinh lược đất Đồng Nai (tức
vùng Đồng Nai - Gia Định), rồi tổ chức chiêu mộ những lưu dân từ
châu Bố Chính trở vào Nam đến ở, Nguyễn Hữu Cảnh đã cho phép
người dân di cư tiếp tục được tự do phân chiếm ruộng đất.
Chính quyền chúa Nguyễn đã tạo ra những điều kiện hết sức thuận
lợi, dễ dàng trong việc khai hoang, lập ấp. Theo sách Gia Định Thành
thông chí, cư dân ở vùng này có thể tự do đến khai khẩn đất hoang ở
các vùng khác, ai muốn đến đâu ở, khai khẩn ruộng đất ở nơi nào, lập
322 VÙNG ĐẤT NAM BỘ VIII THIẾT CHẾ QUẢN LÝ XÃ HỘI

làng lập ấp ở đâu tùy ý: “địa phương Nông Nại [Đồng Nai - Gia Định],
vốn nhiều chằm đầm rừng rú, khi bắt đầu đặt ba doanh mộ dân đến ở,
pháp chế rất khoan giản, có khi đất ở hạt Phiên Trấn mà cho trưng làm
đất của dân Trấn Biên, do khi đất ở hạt Trấn Biên mà cho trưng làm
đất của dân Phiên Trấn, nghe theo ý muốn của dân, không bó buộc
gì, cốt cho mở đất vỡ hoang thành ruộng lập xã mà thôi”1. Như vậy,
sau khi đã lựa chọn đất đai rồi, người đứng ra khai hoang chỉ cần khai
báo với chính quyền là sẽ trở thành chủ của mảnh đất ấy, chính quyền
cũng không đo đạc, không cần biết đất ấy tốt xấu thế nào; người chủ
tùy theo mảnh đất của mình rộng hay hẹp mà nộp thuế nhiều hay ít,
và nộp thuế bằng thóc; dùng hộc già hay hộc non để đong cũng được.
Sách Phủ biên tạp lục cũng ghi chép rằng chúa Nguyễn “cho dân tự
chiếm, trồng cau và làm nhà cửa”2.
Cùng với việc tự do phân chiếm ruộng đất, những người dân di cư
được tự do lựa chọn nơi cư trú, dựng nhà ở và lập làng tại những nơi
họ cho là tốt và thích hợp. Ở những nơi đó, các lưu dân người Việt sống
quần tụ với nhau, tự lập thành những thôn ấp. Có thể thấy rằng tổ chức
làng xã là cơ sở hạ tầng quen thuộc của người Việt với những truyền
thống đoàn kết, tương trợ, thương yêu nhau vốn có từ xưa. Hơn nữa,
trên vùng đất mới với rừng rậm đầy thú dữ, sông sâu nhiều cá sấu, lại
chưa quen thủy thổ, người Việt càng phải gắn bó với nhau, tự động quần
tụ thành làng, ấp để có điều kiện giúp đỡ lẫn nhau khai hoang mở đất và
đối phó với thiên tai, thú dữ. Đó cũng là cách sinh cơ lập nghiệp quen
thuộc của những người dân Việt di cư.
Xem xét quá trình hình thành các làng do lưu dân tự do tự tổ chức
lập ra trên toàn bộ vùng đất Nam Bộ, có thể khái quát thành ba cách
thức chủ yếu:

1. Trịnh Hoài Đức: Gia Định Thành thông chí, Sđd, tr.80.
2. Lê Quý Đôn: Phủ biên tạp lục, Nxb. Văn hóa - Thông tin, Hà Nội, 2007,
tr.442.
CHƯƠNG IV: LÀNG XÃ VÀ CÁC THIẾT CHẾ TỰ QUẢN... 323

Thứ nhất, một số người rủ nhau họp thành nhóm đi khai hoang
một vùng đất, gieo cấy xong thì trở về; đến mùa lúa chín mới tới gặt hái;
nếu thấy đất dễ thuần và mùa tốt, thì cùng nhau đến định cư tại chỗ rồi
lập thành thôn xóm.
Thứ hai, mấy hộ gia đình cùng làng chia nhau khai hoang những
khoảnh đất gần ruộng đất đã khai hoang của làng; khi ruộng đất đã
thành thục, màu mỡ thì những người này tách ra khỏi làng cũ để lập
thành một làng mới.
Thứ ba, việc khai hoang lập ấp mới do một gia đình khá giả khởi
xướng, chiêu mộ thêm người rồi kéo tới vùng đất khai hoang đã thăm
dò trước, vỡ đất, trồng cấy rồi lập thành làng xóm.
Đối với cả ba kiểu thức lập làng mới này, tư liệu lịch sử vùng đất
Nam Bộ còn lưu giữ được nhiều trường hợp khá tiêu biểu.
Vào tháng 3 năm Minh Mạng thứ 12 (1831), Trương Văn Nghĩa
đứng đơn, xin khai khẩn vùng đất hoang từ núi Chân Tầm Lon tới
núi Trà Béc, vốn thuộc làng An Nông. Lúc đầu, Trương Văn Nghĩa
cùng 11 người khác đến khai phá, sau thêm được 4 người nữa, lập
làng mới lấy tên là Phú Cường. Những người khai khẩn này xin đến
năm Minh Mạng thứ 17 (1836) sẽ đóng đủ thuế, khi chiêu mộ được
thêm dân và lập bộ (địa bộ, địa bạ). Đơn xin khai khẩn được triều
đình trả lại cho chính quyền phủ Tuy Biên để kiểm tra và chuẩn cho
vào tháng 11 năm Minh Mạng thứ 15 (1834). Qua trường hợp này
cho thấy việc kiểm tra, xem xét kéo dài từ năm 1831, khi Trương Văn
Nghĩa khai khẩn đất, xin sẽ lập bộ và đóng thuế; quan địa phương
thu đơn, chờ đến ba năm sau mới chính thức chấp nhận. Trong thời
gian chờ đợi, những người khẩn hoang tha hồ làm ăn, không phải
khai báo, đóng thuế gì cả1.

1. Xem Sơn Nam: Lịch sử khẩn hoang miền Nam, Nxb. Văn nghệ, Thành phố
Hồ Chí Minh, 1994, tr.79-80.
324 VÙNG ĐẤT NAM BỘ VIII THIẾT CHẾ QUẢN LÝ XÃ HỘI

Trong khi đó, trường hợp làng Trường Thạnh tách ra từ làng
Thường Thạnh, rạch Cái Răng (Cần Thơ) lại không được hưởng
nhiều ưu đãi như vậy. Làng Trường Thạnh được lập vào năm Minh
Mạng thứ 15 (1834), do hai người đứng đơn. Làng mới lập gồm 8
người dân có tên trong bộ (địa bộ) làng Thường Thạnh, 8 người dân
lậu và 1 người già 67 tuổi. Họ chịu đóng thuế 5 khoảnh đất, hạng sơn
điền (thuế nhẹ). Có lẽ đây là vùng có an ninh tốt, đất đai tương đối
màu mỡ, cách xa biên giới nên trong đơn lập làng và điều khoản chấp
nhận cho phép khẩn hoang lập làng mới của chính quyền không có
nhiều những điều khoản dễ dãi dành cho vùng biên1.
Làng Hòa Thuận (Long Khánh, Cai Lậy, Tiền Giang) được thành
lập vào khoảng giữa thế kỷ XVIII do Lê Phước Tang dẫn đầu một nhóm
người từ miền Trung vào khai hoang và lập ấp ở đây. Lê Phước Tang
mất năm 1779. Đến đầu thế kỷ XIX, gia đình ông đã có hàng trăm mẫu
ruộng đất2.
Vào khoảng thế kỷ XVIII, ông Cai Lễ đến vùng đất mà ngày nay là
trung tâm huyện Cai Lậy (Tiền Giang) và một số vùng ngoại vi, để khai
hoang, lập làng. Khi ông mất, để ghi nhớ công lao người khai khẩn đầu
tiên, nhân dân đã lấy tên và chức vụ của ông đặt cho vùng đất này là Cai
Lễ. Nhưng có lẽ để kiêng tránh tên Lễ nên người ta đã gọi trại đi thành
Cai Lậy3.
Ông Lê Văn Hiếu cùng với con là Lê Văn Toại từ Quảng Ngãi vào cư
ngụ tại rạch Trà Lọt (Hòa Khánh, Cái Bè, Tiền Giang) khoảng giữa thế
kỷ XVIII, rồi sau đó chuyển cư đến làng Long Hưng (Châu Thành, Tiền
Giang). Dòng họ này vốn gốc ở vùng Sơn Tây - Vĩnh Yên (Vĩnh Phúc).

1. Xem Sơn Nam: Lịch sử khẩn hoang miền Nam, Nxb. Văn nghệ, Thành phố
Hồ Chí Minh, 1994, tr.80.
2. Xem Nguyễn Hữu Hiếu (Chủ biên): Võ Duy Dương với cuộc kháng chiến
Đồng Tháp Mười, Nxb. Đồng Tháp, 1992, tr.48.
3. Xem Lịch sử Đảng bộ huyện Cai Lậy, Ban Tuyên huấn Huyện ủy Cai Lậy xuất
bản, 1996, tr.13.
CHƯƠNG IV: LÀNG XÃ VÀ CÁC THIẾT CHẾ TỰ QUẢN... 325

Con trai của Lê Văn Toại chính là Lê Văn Duyệt (1764-1832), một đại
công thần của nhà Nguyễn, từng giữ chức Tổng trấn Gia Định Thành1.
Những thôn, ấp mà người dân Việt di cư lập ra lúc ban đầu phần
nhiều đều mang tính chất những tổ chức tự quản, chứ chưa phải là
những đơn vị hành chính, vì lúc đó ở đây chưa có hệ thống chính quyền.
Chỉ đến khi Nguyễn Hữu Cảnh tiến hành kinh lược phương Nam vào
năm Mậu Dần (1698), “thiết lập xã thôn, phường ấp, chia cắt giới phận,
khai khẩn ruộng nương, định lệnh thuế tô dung, làm sổ đinh điền”2 thì
các thôn ấp ấy mới chính thức trở thành các đơn vị hành chính.
Những thôn ấp ban đầu vốn chỉ quy tụ năm, bảy gia đình, tối đa là
mười gia đình. Về sau, khi dân số tăng lên đông đúc hơn, các thôn ấp này
trở thành xã. Các xã được lập sớm hay muộn tùy theo tầm quan trọng của
các thôn ấp. Sự thành lập các xã xung quanh Sài Gòn là một ví dụ. Theo
Balencie trong Monographie de Gia Định thì vùng Sài Gòn, “Hanh Thông
xã (Gò Vấp) trở nên xã năm 1698, làng An Lộc trước kia gọi là làng An
Khương trở thành xã năm 1716, làng An Phước năm 1716, xã Phú Thọ
năm 1747, xã Tân Sơn Nhất năm 1749, xã An Lợi Đông 1751”3.
Thêm nữa, khi chính quyền chúa Nguyễn đã tiến hành việc kinh
lược, đặt ra hệ thống hành chính, hình thức tổ chức thôn ấp (theo
nghĩa tổ chức hành chính) vẫn chỉ được áp dụng đối với những người
làm nghề nông, khai khẩn ruộng đất. Một số người làm nghề rừng,
nghề biển được hưởng quy chế riêng, không phải lập thôn ấp, chỉ cần
vài người đứng ra chịu trách nhiệm để kết hợp thành trang, trại, man,
nậu. Họ sống định cư hoặc lưu động, với người cai trại hoặc người hộ

1. Xem Trần Văn Giàu, Trần Bạch Đằng, Nguyễn Công Bình (Chủ biên): Địa
chí văn hóa Thành phố Hồ Chí Minh, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, 1987, t.II,
tr.216, 316.
2. Quốc sử quán triều Nguyễn: Đại Nam thực lục, t.I, Sđd, tr.111.
3. T. Ch. Balancie: Monographie de l’arrondissement de Gia Định, in trong
A. Schreiner: Les institutions annamites en Basse Cochinchine avant la Conquête
francaise, Saigon, 1900, Tome III, tr.273.
326 VÙNG ĐẤT NAM BỘ VIII THIẾT CHẾ QUẢN LÝ XÃ HỘI

trưởng, người đầu nậu đứng đầu, như sách Gia Định Thành thông chí
còn ghi chép lại: “những nơi dựa núi sát biển hẻo lánh lẻ tẻ, còn có
dân sống bằng lợi rừng biển mà không có cai quản, thì lại lập trang,
trại, man (phàm chỗ ở liền nhau gọi là man, cũng như cỏ lan man ra),
nậu (nậu là làm cỏ ở ruộng, tục gọi cùng bọn là nậu, vì lấy ý họp cả
bọn làm ruộng) để thu thập lấy, đều theo nghề nghiệp của mình mà
cung nộp phú thuế, cho có hệ thống, cốt cho đồng ruộng được mở
mang, lợi đất được khai thác mà thôi, tuy phức tạp, lôi thôi, nhưng
đều có manh mối”1. Tuy nhiên, đó là về mặt tổ chức hành chính. Còn
trong thực tế, ngay cả những người dân làm nghề rừng, nghề biển
vẫn sống quy tụ với nhau trong những khu vực cư trú nhất định và rõ
ràng đó cũng chính là những làng ấp của họ.
Sau khi chính quyền chúa Nguyễn chính thức lập ra hệ thống hành
chính và chủ trương đẩy mạnh công cuộc khẩn hoang miền đất Nam
Bộ, việc hình thành những làng ấp mới theo phương thức những người
giàu có (bá hộ) đứng ra đầu đơn xin mộ dân lập ấp trở nên phổ biến và
chiếm ưu thế. Theo phương thức này, những người giàu có mới có thể
đứng ra đầu đơn xin mộ dân lập làng mới, vì muốn mộ dân thì phải có
vốn lớn để cho những người ứng mộ vay mượn sinh sống và làm mùa
trong mấy năm đầu. Người đứng ra mộ dân phải cho những người dân
mộ vay lúa để ăn, vay tiền để cất nhà, đóng xuồng, mua nông cụ... Và
như vậy, những người đứng tên xin lập làng đương nhiên trở thành điền
chủ, chủ nợ.
Sách Đại Nam thực lục ghi chép rõ quy định về việc mộ dân lập ấp
được triều đình Nguyễn ban hành vào năm 1853 như sau: “Dân mộ lập
ấp, thì cần đủ 10 người trở lên, cho phép được tùy chỗ khai khẩn, cư trú
nối liền nhau, lập thành sở của thôn”2. Như vậy, con số tối thiểu để xin

1. Trịnh Hoài Đức: Gia Định Thành thông chí, Sđd, tr.103.
2. Quốc sử quán triều Nguyễn: Đại Nam thực lục, Sđd, t.VII, tr.263.
CHƯƠNG IV: LÀNG XÃ VÀ CÁC THIẾT CHẾ TỰ QUẢN... 327

lập một ấp là mười người. Phải có đủ số người tối thiểu theo quy định
thì ấp mới được khai khẩn và lập bộ (địa bộ, địa bạ). Mười người đầu
tiên này sẽ cam kết chịu thuế, dần dần làng ấp quy tụ thêm một số dân
xiêu tán khác, nhưng những người này không cần ghi tên vào bộ, cứ
sống theo quy chế dân lậu, không phải nộp thuế. Khi ruộng đất thành
thuộc, dân đông hơn thì phát triển thành một xã.
Nhờ có ruộng đất phì nhiêu, nhiều phú hộ di cư đã trở thành bá hộ
hay thiên hộ, với tài sản và quyền lực ảnh hưởng chi phối được từng thôn
hay cả tổng. Sách Phủ biên tạp lục cho biết: “những dân có vật lực ở xứ
Quảng Nam, các phủ Điện Bàn, Quảng Ngãi, Quy Nhơn cho dời tới ở đây,
phát chặt mở mang, hết thảy thành bằng phẳng, đất nước mầu mỡ, cho
dân tự chiếm, trồng cau và làm nhà cửa. (...) Người giàu ở các địa phương
hoặc 40, 50 nhà, hoặc 20, 30 nhà, mỗi nhà điền nô hoặc đến 50, 60 người,
trâu bò hoặc đến 300, 400 con, cày bừa cấy gặt, rộn ràng không rỗi”1. Sự
phân chia đất đai ở vùng Thốt Nốt cho thấy nhiều điền chủ khai khẩn đất
rộng tới 26, 28 hoặc 60 mẫu, trong khi tính trung bình, mỗi phần đất của
dân khẩn hoang là 2 hoặc 3 mẫu. Ở nơi đất tốt, mé sông Cái hoặc cù lao,
việc phân khoảnh nhỏ bé hơn, trung bình từ 1 đến 2 mẫu2. Chính nhờ
những người giàu có này mà công cuộc khẩn hoang lập ấp nhanh chóng
hơn, song cũng chính họ đã gây ra nạn cường hào, ác bá trong làng xóm
và xã hội Nam Bộ xưa.
Số dân di cư đến vùng đất Nam Bộ tăng lên rất nhanh, khiến cho
số lượng thôn, ấp cũng phát triển nhanh chóng. Cuối thế kỷ XVII, khi
Nguyễn Hữu Cảnh vào kinh lược Đồng Nai - Gia Định3, dân số ở đây
mới có hơn 40.000 hộ với khoảng 200.000 người. Lúc đó, Nguyễn Hữu
Cảnh đã chủ động tổ chức chiêu mộ thêm lưu dân từ châu Bố Chính trở
vào đưa đến sinh sống để đẩy mạnh khai hoang lập ấp. Vậy mà chỉ đến

1. Lê Quý Đôn: Phủ biên tạp lục, Sđd, tr.442-443.


2. Xem Sơn Nam: Lịch sử khẩn hoang miền Nam, Sđd, tr.81.
3. Xem Quốc sử quán triều Nguyễn: Đại Nam thực lục, Sđd, t.I, tr.111.
328 VÙNG ĐẤT NAM BỘ VIII THIẾT CHẾ QUẢN LÝ XÃ HỘI

những năm 1770, theo báo cáo của một viên cai bạ ở Dinh Long Hồ là
Nguyễn Khoa Thuyên mà Lê Quý Đôn ghi trong Phủ biên tạp lục thì:
“Huyện Tân Bình, hai thuộc Quy An, Quy Hóa, dân đều hơn 3.000 đinh,
ruộng đều hơn 5.000 thửa (...); thuộc Tam Lạch, dân hơn 4.000 đinh,
ruộng hơn 5.000 thửa, 3 trại thuộc Bả Canh, Bà Lai, Bà Kiến dân hơn
4.000 đinh, ruộng hơn 4.000 thửa (...); huyện Phúc Long, trường Giản
Thảo, ruộng hơn 6.000 thửa (...); châu Định Viễn, dân hơn 7.000 đinh,
ruộng hơn 7.000 thửa”1. Đến thời điểm lập địa bạ hàng loạt vào thời
Minh Mạng (1836), số đơn vị làng xã ở Nam Bộ phát triển đến khoảng
1.700 xã thôn2. Tiếp đó, theo điều tra của phái đoàn Hà Lan, năm 1874,
thì ở sáu tỉnh Nam Kỳ có 5.495 xã thôn3.

b) Về cảnh quan
Xét về mặt hình thái cảnh quan, các thôn, ấp do những người Việt
di cư lập ra ở vùng Đồng Nai - Gia Định rõ ràng có những nét khác biệt
so với các làng Việt ở vùng châu thổ Bắc Bộ và Trung Bộ.
Trong miền châu thổ Bắc Bộ, nơi thường bị đe dọa bởi những con
nước lớn, người dân Việt sợ bị nạn lụt nên thường tránh các nơi đất thấp
dành cho ruộng lúa để lập cư ở những nơi đất cao, gò đất hay lề đồi, dải
duyên hải. Nhưng trong miền đồng bằng sông Đồng Nai và đồng bằng
sông Cửu Long, các thôn, ấp thường được đặt ngay cạnh các con đường
thủy (thủy đạo) để lợi dụng điều kiện giao thông dễ dàng. Ngoài ra, với
lịch sử thành lập mới mẻ, ít dân cư và đất đai rộng rãi hơn, các thôn,
ấp người Việt ở vùng Đồng Nai - Gia Định có quy mô rộng hơn nhiều
và không bị bao vây xung quanh bằng một lũy tre dày kín như các làng

1. Lê Quý Đôn: Phủ biên tạp lục, Sđd, tr.180.


2. Xem Nguyễn Đình Đầu: Chế độ công điền công thổ trong lịch sử khẩn hoang
lập ấp ở Nam Kỳ lục tỉnh, Sđd, tr.103-104.
3. Xem Nguyễn Công Bình: Đời sống xã hội ở vùng Nam Bộ, Nxb. Đại học Quốc
gia Thành phố Hồ Chí Minh, 2008, tr.116-117.
CHƯƠNG IV: LÀNG XÃ VÀ CÁC THIẾT CHẾ TỰ QUẢN... 329

Việt ở Bắc Bộ - giải pháp được kiến tạo để tự vệ trước thú dữ và sự xâm
phạm từ bên ngoài trong suốt nhiều thế kỷ. Thôn, ấp người Việt trong
vùng đất Nam Bộ thường kéo dài dọc theo bờ sông hay hai bên đường.
Người Việt di cư đến Nam Bộ, sau khi định cư trên vùng đất mới, đã
sinh cơ lập nghiệp bằng nhiều nghề khác nhau, tùy theo từng địa bàn cư
trú cụ thể. Trên vùng đất rộng lớn nhưng chưa được khai phá, lại hết sức
phì nhiêu, tươi tốt, với bản thân đa số di dân người Việt vốn là những
nông dân xiêu tán, sau khi lập làng mới trên vùng đất mới này, nếu điều
kiện canh tác thuận lợi thì nguồn sống chính của họ vẫn là khai phá đất
đai, làm ruộng, trồng cau và trồng dâu, nuôi tằm. Tất nhiên, cũng có
một số người chuyên sống bằng nghề buôn bán ở các thị trấn, chợ như
Đại Phố, Sài Côn, Mỹ Tho... hay chuyên nghề đánh cá, làm muối, nước
mắm như những cư dân sống ở vùng ven biển vũng Dương, cửa Tắc Ký,
hải cảng Cần Giờ, đảo Côn Lôn... hoặc chuyên nghề lấy gỗ khai mỏ như
những người ở vùng ven núi, ven rừng, cũng có khi chuyên làm một
số nghề thủ công như dệt cửi, làm gốm, làm rương, dệt chiếu, đan lát...
Các mô hình quần cư ở Nam Bộ chịu ảnh hưởng rõ nét của đặc
điểm địa mạo và chế độ thủy văn. Bởi vậy, địa mạo và thủy văn cũng có
tác động quan trọng đến cảnh quan của các làng Việt ở Nam Bộ1.
Nói chung, làng Việt ở Nam Bộ thể hiện bốn mô hình cảnh quan
chính, gồm:
- Làng Việt bố trí thành tuyến dọc theo kênh rạch. Đây là mô hình
cảnh quan chủ yếu của làng Việt ở Nam Bộ. Mô hình này có ở hầu hết
các khu vực của vùng đất Nam Bộ, ngay cả những vùng mới khai phá
với hệ thống kênh mương chằng chịt. Trong làng, những vùng đất rộng
trồng lúa nằm xen kẽ các khu vườn cây. Nhà dân ở tách biệt, cách xa các
trung tâm hành chính và cơ sở phúc lợi công cộng. Hệ thống giao thông

1. Xem Trần Xuân Kiêm: Dân số, dân cư và lao động, Chương trình 6002, năm
1986, dẫn theo Nguyễn Ngọc Trân: Đồng bằng sông Cửu Long - tài nguyên, môi
trường, phát triển, Báo cáo Chương trình 60B, tr.128-129.
330 VÙNG ĐẤT NAM BỘ VIII THIẾT CHẾ QUẢN LÝ XÃ HỘI

chủ yếu là các kênh rạch chằng chịt. Phương tiện giao thông chủ yếu
bằng ghe, xuồng. Các mặt quan hệ xã hội của loại hình làng Việt này đối
với bên ngoài có nhiều hạn chế. Đối với quan hệ bên trong làng, những
hộ gia đình cư trú rải rác trải dài có khi đến vài chục cây số khiến cho
quan hệ chòm xóm lỏng lẻo, khó tổ chức các hoạt động phục vụ đời
sống chung của cư dân trong làng.
- Làng Việt bố trí theo dọc kênh rạch và trục lộ. Mô hình cảnh
quan này tương đối phổ biến, có tại hầu hết các vùng đất khô ráo hay
ngập nước định kỳ ở Nam Bộ, chạy dọc các kênh mương thủy lợi kết
hợp với đường lộ, chủ yếu ở các vùng định cư đã lâu đời. Trong làng,
những ngôi nhà của người dân bố trí thành dải dọc dài hai bên đường
bộ, hoặc đường nước. Mật độ cư trú rất thấp. Các điểm cư trú rất
mỏng, thưa thớt. Các công trình phúc lợi được bố trí trải dài dọc theo
đường lộ. Trước năm 1975, mô hình cảnh quan này được tăng cường,
mở rộng nhiều do chính sách dồn dân của chính quyền Việt Nam
Cộng hòa. Trong làng, người dân cư trú và sinh sống trong những
vườn cây nhỏ bị giới hạn bởi mặt trước là trục lộ và mặt sau là sông
rạch, chủ yếu làm nghề trồng lúa và hoa màu. Về quan hệ xã hội, mô
hình cảnh quan này có nhiều thuận lợi, trên xe dưới thuyền, các trung
tâm hành chính và phúc lợi công cộng nằm ở giao điểm của trục lộ
hoặc sông rạch, nhưng cũng còn khá xa xôi so với rất nhiều nhà dân
trong làng. Mật độ dân cư thưa thớt, nhà cửa bố trí quá mỏng khiến
cho các mối liên hệ bên trong những ngôi làng này cũng khá lỏng lẻo,
không thường xuyên.
- Làng Việt ở vùng ven biển ngập mặn. Mô hình cảnh quan này tồn
tại chủ yếu ở các làng Việt tại khu vực bán đảo Cà Mau, thuộc tỉnh Kiên
Giang và Cà Mau. Tại đây, các làng Việt được xây dựng trên những vùng
đất do phù sa bồi lấn biển, lợ mặn, thiếu nước ngọt. Hệ thống giao thông
chủ yếu là kênh rạch nằm xen kẽ và nối liền các khu đầm nuôi cá, tôm,
CHƯƠNG IV: LÀNG XÃ VÀ CÁC THIẾT CHẾ TỰ QUẢN... 331

những vùng trồng lúa sớm và các khu rừng tràm, rừng đước. Phương tiện
giao thông chủ yếu là ghe, xuồng. Những ngôi nhà của người dân nằm
thấp thoáng giữa những đầm nước, ruộng lúa và những vạt rừng thưa
thấp. Các trung tâm phúc lợi công cộng, trung tâm hành chính thường bố
trí ở các giao điểm của sông rạch. Mật độ dân cư thưa thớt, các mối liên
hệ trong làng diễn ra lỏng lẻo, không thường xuyên.
- Làng Việt ở vùng bùn lầy ven biển phía đông. Mô hình cảnh quan
này tồn tại chủ yếu ở các vùng giồng, bùn lầy ven biển thuộc đồng bằng
sông Cửu Long (Gò Công, Bến Tre...). Trong làng, những vườn dừa san
sát nằm xen kẽ với kênh rạch chằng chịt dùng để nuôi cá, tôm, và những
giồng lấn biển làm ruộng lúa mùa mưa. Các con đường bộ cùng với
kênh rạch đan dệt thành hệ thống giao thông thuận tiện, có thể sử dụng
cả ghe xuồng lẫn xe cộ để đi lại trong làng. Tuy nhiên, làng xóm hết sức
thưa thớt, cuộc sống hằng ngày của người dân gặp nhiều khó khăn1.

c) Về quy mô diện tích

Theo nhà nghiên cứu Trương Ngọc Tường2, triều Nguyễn quy định
phân chia làng xã người Việt ở Nam Bộ thành ba loại là xã, thôn và ấp.
Trong đó, làng lớn gọi là xã, làng vừa gọi là thôn, làng nhỏ gọi là ấp (có
trường hợp ấp được gọi là trang hoặc trại). Dân số và quy mô diện tích
đất đai khai khẩn là tiêu chuẩn để phân định ba loại làng trên.
Theo cách phân chia kể trên, ấp chỉ là một đơn vị kinh tế do một cá
nhân hoặc một tập thể quản lý, còn xã, thôn mới là đơn vị hành chính
cơ sở. Một xã thường kiêm luôn 3, 4 thôn. Thôn chia ra làm 2, 3 lân (sau
này thường quen gọi là ấp). Còn xã thì chia thành nhiều “giáp”.

1. Xem Nguyễn Công Bình: Đời sống xã hội ở vùng Nam Bộ, Sđd, tr.112-119.
2. Xem Trương Ngọc Tường: Làng xã ở tỉnh Tiền Giang trong thế kỷ XIX,
trong Kỷ yếu Hội thảo Nam Bộ và Nam Trung Bộ những vấn đề lịch sử thế kỷ XVII-
XIX, Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 5-2002, tr.81.
332 VÙNG ĐẤT NAM BỘ VIII THIẾT CHẾ QUẢN LÝ XÃ HỘI

Sơ đồ 11: Ba mô hình làng xã thời Nguyễn

Nguồn: Trương Ngọc Tường: “Làng xã ở tỉnh Tiền Giang trong thế kỷ XIX”,
trong Kỷ yếu hội thảo Nam Bộ và Nam Trung Bộ những vấn đề lịch sử thế kỷ XVII-
XIX, Sđd, tr.81).

Theo Minh Điều hương ước ban hành vào năm 1853, cứ 10 dân
đinh, khai khẩn trên 10 mẫu ruộng thì được phép lập một ấp; từ
50 đến 100 dân đinh khai khẩn được 50 đến 100 mẫu ruộng thì
được phép lập một thôn; từ trên 200 dân đinh với diện tích khai
khẩn trên 200 mẫu thì được lập một xã1. Tuy nhiên, do chủ trương
khuyến khích khai hoang lập ấp của chính quyền, quy định này
được thực hiện một cách thiếu nhất quán và không đầy đủ. Có
trường hợp chỉ cần 15-17 dân đinh với một ít đất đai (nhưng đất
hoang dự trữ còn nhiều) thì cũng có thể lập một thôn. Trong khi
đó, có những vùng như Mỹ Thiện, Thanh Hưng (nay thuộc huyện
Cái Bè, tỉnh Tiền Giang) đã khai khẩn trên 1.000 mẫu ruộng cũng
chỉ được lập một thôn. Hay như các thôn Tân Bình, Mỹ Quý (nay
thuộc huyện Cai Lậy, tỉnh Tiền Giang) đất rộng người đông, đáng
lý phải nâng cấp thành một xã, nhưng chính quyền địa phương vẫn
tách ra làm ba thôn.

1. Xem Trương Ngọc Tường: “Làng xã ở tỉnh Tiền Giang trong thế kỷ XIX”,
trong Kỷ yếu Hội thảo Nam Bộ và Nam Trung Bộ những vấn đề lịch sử thế kỷ XVII-
XIX, Sđd, tr.82.
CHƯƠNG IV: LÀNG XÃ VÀ CÁC THIẾT CHẾ TỰ QUẢN... 333

Trong sách Phủ biên tạp lục (ra đời khoảng năm 1776), Lê Quý
Đôn cung cấp những thông tin đầu tiên cho phép hình dung các đơn
vị hành chính cấp cơ sở ở Nam Bộ đương thời chủ yếu là thôn. Theo
đó, ở dinh Trấn Biên “Số thôn huyện Phúc Long là hơn 250 thôn...
Các nậu về các thuộc Canh Dương, Thiên Mụ, Hoàng Lạp chừng 40
thôn nậu... Các nậu thuộc về Ô Tất chừng 30 nậu”1; ở dinh Phiên
Trấn “Số thôn huyện Tân Bình hơn 350 thôn... Số thôn thuộc Quy
An hơn 100 thôn... Số thôn thuộc Tam Lạch 100 thôn... Số thôn 3 trại
Bả Cảnh, Bà Lai, Rạch Kiến 100 thôn”2; ở dinh Long Hồ: “Số thôn 8
châu Định Viễn là 350 thôn”3. Như vậy, tổng số thôn ở Nam Bộ, theo
thống kê của Lê Quý Đôn, cũng xấp xỉ 1.200 đơn vị.
Sách Gia Định Thành thông chí của Trịnh Hoài Đức cung cấp
tương đối đầy đủ tên gọi các đơn vị hành chính cấp cơ sở của 5 trấn
Phiên An, Biên Hòa, Vĩnh Thanh, Định Tường và Hà Tiên (tương
đương với toàn bộ vùng đất Nam Bộ ngày nay). Qua thống kê và
phân tích 1.525 đơn vị hành chính cấp cơ sở được phản ánh trong
sách cho thấy ở vùng đất Nam Bộ lúc đó có 1.375 thôn, 34 phường,
29 xã, 27 lân, 26 sóc (của người Khmer), 13 ấp, 10 xóm, 4 phố (của
người Hoa), 2 nậu, 2 thuộc, 1 trại, 1 sở (của người Hoa), 1 đội (của
người Chà Và)4.2.Như vậy, tuyệt đại đa số các đơn vị hành chính
cấp cơ sở ở đây lúc này cũng vẫn là thôn (1375/1525 = 90,16%).
Trong khi đó, mặc dù thường xuyên được nhắc đến trong các tài liệu,
chính sách, nhưng trong thực tế cấp xã chỉ chiếm một tỷ lệ rất nhỏ
(29/1525 = 1,90%). Thậm chí, có những trấn lớn như Định Tường,
Vĩnh Thanh còn tuyệt nhiên không có đơn vị hành chính cấp xã.

1, 2, 3. Lê Quý Đôn: Phủ biên tạp lục, Sđd, tr. 247, 248, 248.
4. Xem Nguyễn Quang Ngọc: “Cấp thôn ở Nam Bộ thế kỷ XVII-XVIII-XIX
(Một cái nhìn tổng quan)”, trong Một số vấn đề lịch sử vùng đất Nam Bộ đến cuối
thế kỷ XIX, Nxb. Thế giới, Hà Nội, 2009, tr.197-198.
334 VÙNG ĐẤT NAM BỘ VIII THIẾT CHẾ QUẢN LÝ XÃ HỘI

Các tư liệu này cho phép đặt ra giả thuyết rằng trải qua quá trình
phát triển của các đơn vị hành chính cơ sở ở Việt Nam nói chung,
Nam Bộ nói riêng, giữa sự tồn tại song hành của cấp xã và cấp thôn,
chúa Nguyễn và các vua đầu triều Nguyễn dường như có xu hướng
đề cao cấp thôn hơn, đã áp dụng đồng loạt chủ trương tổ chức cấp
thôn trên vùng đất mới ở Nam Bộ.
Nhà nghiên cứu Nguyễn Đình Đầu trong Tổng kết nghiên cứu
địa bạ Nam Kỳ lục tỉnh cho biết, vào năm 1836, toàn bộ Nam Kỳ
lục tỉnh (gồm Biên Hòa, Gia Định, Định Tường, Vĩnh Long, An
Giang, Hà Tiên) có 1.634 đơn vị hành chính cơ sở mang các tên
thôn, xã, phường, ấp, thuyền, trại, hộ, trong đó có 1.471 thôn, 121
xã, 25 phường, 11 ấp, 4 thuyền, 1 trại, 1 hộ. Đơn vị hành chính cấp
thôn chiếm 1.741 đơn vị (=90,02%); đơn vị hành chính cấp xã chỉ
có 121 đơn vị (=7,40%), còn lại là các đơn vị hành chính khác1. Như
vậy, theo tư liệu địa bạ, đơn vị hành chính cơ sở ở Nam Bộ chủ yếu
là cấp thôn.
Trong quá trình hình thành các đơn vị hành chính cấp cơ sở từ
trước đến nay ở Việt Nam, một số hiện tượng diễn ra ở Nam Bộ có
phần trái ngược với khu vực phía Bắc. Trong đó, quy mô xã ở Nam
Bộ không những không lớn hơn, mà thường nhỏ hơn thôn; xã không
phải là đơn vị hành chính đã ổn định mà thường là đơn vị hành
chính cơ sở mới hình thành; số xã không chỉ chiếm tỷ lệ rất nhỏ mà
còn có vai trò khá mờ nhạt. Kết quả phân tích địa bạ Nam Kỳ lục
tỉnh còn chỉ rõ: “Thôn là danh xưng phổ biến nhất Lục tỉnh (...). Cụ

1. Xem Nguyễn Đình Đầu: Tổng kết nghiên cứu địa bạ Nam Kỳ lục tỉnh, Nxb.
Thành phố Hồ Chí Minh, 1994, tr.83.
CHƯƠNG IV: LÀNG XÃ VÀ CÁC THIẾT CHẾ TỰ QUẢN... 335

thể có nhiều xã chỉ rộng vài mẫu, trong khi nhiều thôn rộng cả ngàn
mẫu ruộng vườn”1.
Như vậy, thôn là đơn vị hành chính cấp cơ sở chủ yếu và phổ
biến nhất ở Nam Bộ. Về cơ bản, thôn/xã hay các đơn vị hành chính
cơ sở khác ở nông thôn Nam Bộ được đặt chồng lên trên quy mô
làng. Như vậy, làng được chọn đặt làm đơn vị hành chính cấp cơ sở
ở Nam Bộ.
Qua thống kê, phân loại quy mô diện tích ruộng đất thực canh,
thực cư của 1.637 đơn vị hành chính cơ sở (thường gọi chung là
làng) ở Nam Bộ hiện còn lưu giữ được địa bạ lập trong những năm
1836-1837, thu được kết quả như sau2:
47 làng mới lập, đã có địa phận nhưng chưa tổ chức đo đạc.
30 làng có dưới 1 mẫu ruộng đất.
229 làng có từ 1 mẫu đến dưới 10 mẫu ruộng đất.
306 làng có từ 10 mẫu đến dưới 50 mẫu ruộng đất.
177 làng có từ 50 mẫu đến dưới 100 mẫu ruộng đất.
141 làng có từ 100 mẫu đến dưới 200 mẫu ruộng đất.
289 làng có từ 200 mẫu đến dưới 500 mẫu ruộng đất.
233 làng có từ 500 mẫu đến dưới 1.000 mẫu ruộng đất.
151 làng có từ 1.000 mẫu đến dưới 2.000 mẫu ruộng đất.
18 làng có từ 2.000 mẫu đến dưới 3.000 mẫu ruộng đất.
11 làng có từ 3.000 mẫu đến dưới 4.000 mẫu ruộng đất.
5 làng có từ 4.073 mẫu đến dưới 4.848 mẫu ruộng đất.
Tổng hợp các kết quả trên được bảng thống kê như sau:

1. Nguyễn Đình Đầu: Tổng kết nghiên cứu địa bạ Nam Kỳ lục tỉnh, Sđd, tr.130.
2. Xem Nguyễn Đình Đầu: Tổng kết nghiên cứu địa bạ Nam Kỳ lục tỉnh, Sđd,
tr.140-141.
336 VÙNG ĐẤT NAM BỘ VIII THIẾT CHẾ QUẢN LÝ XÃ HỘI

Bảng 20: Thống kê, phân loại các đơn vị hành chính (đvhc)
cơ sở ở Nam Bộ những năm 1836-1837 trên cơ sở quy mô diện
tích ruộng đất thực canh, thực cư

TT Diện tích (mẫu) Số đvhc cơ sở Tỷ lệ % Ghi chú


Có 77 đvhc chưa đo, hay
1 1 - 50 612 37,39
<1 mẫu
2 50 - 100 177 10,81
3 100 - 200 141 8,61
5 200 - 500 289 17,66
6 500 - 1.000 233 14,23
7 1.000- 2.000 151 9,22
8 2.000- 3.000 18 1,10 Hoàn toàn là đơn vị thôn
9 3.000- 4.000 11 0,67 Hoàn toàn là đơn vị thôn
10 4.000- 4.848 5 0,31 Hoàn toàn là đơn vị thôn
Cộng 1.637 100,00

Nguồn: Nguyễn Quang Ngọc: “Cấp thôn ở Nam Bộ thế kỷ XVII-XVIII-XIX


(Một cái nhìn tổng quan)”, trong Một số vấn đề lịch sử vùng đất Nam Bộ đến cuối
thế kỷ XIX, Sđd, tr.200-201.

Qua kết quả phân tích địa bạ và bảng thống kê cho thấy sự chênh
lệch về quy mô diện tích ruộng đất canh tác và cư trú giữa 1.637 làng
(số làng mà địa bạ còn được lưu giữ) là rất lớn. Có nhiều làng quy mô
diện tích rất nhỏ, thậm chí có đến 30 làng quy mô diện tích chưa đến 1
mẫu ruộng đất (cả đất ở và đất ruộng). Trong khi đó, nhiều làng có quy
mô ruộng đất vô cùng rộng lớn. Trong đó, có 5 làng quy mô diện tích từ
4.073-4.848 mẫu ruộng đất. Trong số 1.637 làng Nam Bộ được khảo sát
cho thấy có 1.219 làng có quy mô diện tích dưới 500 mẫu ruộng đất, còn
lại 418 làng có quy mô diện tích trên 500 mẫu ruộng đất. Trong số 418
làng có quy mô diện tích trên 500 mẫu ruộng đất lại có 184 làng có quy
mô diện tích trên 1.000 mẫu ruộng đất, và đặc biệt có tới 16 làng có quy
mô diện tích hơn 3.000 mẫu ruộng đất.
CHƯƠNG IV: LÀNG XÃ VÀ CÁC THIẾT CHẾ TỰ QUẢN... 337

Từ thông tin về diện tích ruộng đất của 1.637 làng thuộc sáu
tỉnh Nam Kỳ trong địa bạ Nam Kỳ lục tỉnh, kết quả thống kê phân
tích cho thấy bình quân diện tích đất của các đơn vị hành chính cơ
sở như sau:

Bảng 21: Bình quân diện tích đất thôn, xã ở các tỉnh Nam Kỳ
theo địa bạ

Số thôn, Diện tích trung


STT Tỉnh Diện tích Thứ tự
xã bình
1 Biên Hòa 14128.9.4.8 288 49.6.14.8 5
2 Gia Định 169325.8.8.6 483 352.6.8.8 4
3 Định Tường 138065.8.10.6 219 646.2.10.7 2
4 Vĩnh Long 179672.0.14.4 360 506.5.9.7 3
5 An Giang 96865.6.14.1 146 667.1.11.5 1
6 Hà Tiên 3314.7.11.1 144 23.0.2.8 6

Nguồn: Nguyễn Đình Đầu: Tổng kết nghiên cứu địa bạ Nam Kỳ lục tỉnh,
Sđd, tr.142.

Như vậy, khảo sát quy mô diện tích trung bình của các làng thuộc
sáu tỉnh Nam Kỳ cho thấy:
288 làng thuộc tỉnh Biên Hòa có quy mô diện tích trung bình là hơn
49 mẫu/làng.
483 làng thuộc tỉnh Gia Định có quy mô diện tích trung bình là hơn
352 mẫu/làng.
219 làng thuộc tỉnh Định Tường có quy mô diện tích trung bình là
hơn 646 mẫu/làng.
360 làng thuộc tỉnh Vĩnh Long có quy mô diện tích trung bình là
hơn 506 mẫu/làng.
146 làng thuộc tỉnh An Giang có quy mô diện tích trung bình là
hơn 667 mẫu/làng.
338 VÙNG ĐẤT NAM BỘ VIII THIẾT CHẾ QUẢN LÝ XÃ HỘI

144 làng thuộc tỉnh Hà Tiên có quy mô diện tích trung bình là hơn
23 mẫu/làng1.
So sánh quy mô diện tích trung bình của các làng trong sáu tỉnh
Nam Kỳ nửa đầu thế kỷ XIX cho thấy quy mô diện tích trung bình của
các làng ở Hà Tiên (khoảng 23 mẫu ruộng đất) là thấp nhất, sau đó đến
các làng ở Biên Hòa (khoảng 49 mẫu ruộng đất), tiếp đó là các làng ở
Gia Định (khoảng 352 mẫu ruộng đất), rồi đến các làng ở Vĩnh Long
(khoảng 506 mẫu ruộng đất), lớn hơn nữa là các làng ở Định Tường
(khoảng 646 mẫu ruộng đất), và có quy mô diện tích trung bình lớn
nhất là các làng ở An Giang (khoảng 667 mẫu ruộng đất). Như vậy, làng
có quy mô diện tích trung bình lớn nhất ở Nam Bộ, tức là các làng ở An
Giang, có quy mô diện tích trung bình gấp 29 lần các làng có quy mô
diện tích nhỏ nhất ở Nam Bộ, tức là các làng ở Hà Tiên.

d) Về đặc điểm và sự biến đổi của chế độ ruộng đất, sinh hoạt kinh
tế, quan hệ xã hội qua các thời kỳ lịch sử
Tiến trình chiếm lĩnh đồng bằng Nam Bộ, khai hoang lập ấp diễn
ra như một quá trình “mở”. Trong đó, các làng Việt Nam Bộ cư trú trên
diện rộng và hầu như không tồn tại chế độ công điền, công thổ. Hai đặc
điểm này đã có tác động rất lớn đến chế độ ruộng đất, sinh hoạt kinh tế
và quan hệ xã hội của làng Việt ở Nam Bộ.
Khi nghiên cứu về làng xã Việt, dù ở Bắc Bộ, Trung Bộ hay Nam Bộ,
các nhà nghiên cứu đều rất quan tâm đến tình hình ruộng đất và chế
độ sở hữu ruộng đất2. Ở nông thôn Việt Nam, nguồn gốc hình thành và
những nét văn hóa riêng của từng vùng, từng làng đã làm cho tình hình
sở hữu đất đai khá đa dạng. Nhưng tựu chung lại, sở hữu đất đai trong
các làng xã Việt bao gồm hai loại là sở hữu tư nhân và sở hữu tập thể.

1. Xem Nguyễn Đình Đầu: Tổng kết nghiên cứu địa bạ Nam Kỳ lục tỉnh, Sđd,
tr.142.
2. Xem Viện Sử học: Nông thôn Việt Nam trong lịch sử, Nxb. Khoa học xã hội,
Hà Nội, 1977-1978, t.1,2.
CHƯƠNG IV: LÀNG XÃ VÀ CÁC THIẾT CHẾ TỰ QUẢN... 339

Trong xu hướng phát triển chung của làng xã Việt Nam, sở hữu tư nhân
ngày càng chiếm ưu thế.
Trên thực tế, cho đến những năm 1950, ở đồng bằng Bắc Bộ “làng
nào cũng còn lại một số ruộng đất công, nhiều ít tùy địa phương,
tùy trường hợp cụ thể, nhưng không làng nào là không có”1. Các
làng chia ruộng công cho dân đinh (tức là những công dân nam có
đăng ký vào danh bạ nhà nước từ 18 đến 60 tuổi). Định kỳ phân
chia lại ruộng công cũng không giống nhau giữa các làng. Có làng
cứ ba năm một lần, có làng bốn năm một lần, có làng năm năm một
lần, có làng sáu năm một lần, có làng thậm chí mười năm một lần,
nhưng cũng có làng mỗi năm một lần2. Như vậy, định kỳ phân chia
lại ruộng công không theo một quy định chung nào, mà tùy thuộc
vào tình hình thực tế và những quy định của mỗi làng. Đại bộ phận
ruộng công dành chia cho dân đinh, còn lại một phần được sử dụng
để biếu tặng những người đỗ đạt, dành cho hoạt động tôn giáo, tín
ngưỡng... Người nông dân được chia ruộng đất phải thực hiện đầy đủ
nghĩa vụ, như đóng thuế, lao dịch cho nhà nước, cũng như đóng góp
các khoản khác theo quy định riêng của làng. Bị cột chặt với phần đất
quân cấp và vào công xã, người nông dân không có khả năng đi làm
ăn ở những nơi có nhiều cơ hội và thuận lợi hơn cho bản thân mình,
buộc phải ở trong làng xã, không dám vượt qua lũy tre làng. Ruộng
đất công của làng xã có sức sống dai dẳng hơn nhờ một cơ chế quản
lý các làng không trực tiếp tới từng người dân, trong đó mọi lĩnh vực
có liên quan đến người dân đều thông qua bộ máy quản lý làng. Trong
chừng mực nhất định, ruộng đất công chính là cơ sở để hình thành
làng, cho sự hình thành các xã thôn - ít ra là đúng với hầu hết các làng

1. Nguyễn Từ Chi: Góp phần nghiên cứu văn hóa tộc người, Nxb. Văn hóa -
Thông tin, Hà Nội, 1996, tr.179.
2. Xem Nguyễn Đồng Chi: “Vài nhận xét nhỏ về sở hữu của làng xã ở Việt
Nam trước Cách mạng Tháng 8”, trong Viện Sử học: Nông thôn Việt Nam trong lịch
sử, Sđd, t.1, tr.55.
340 VÙNG ĐẤT NAM BỘ VIII THIẾT CHẾ QUẢN LÝ XÃ HỘI

ở miền Bắc Việt Nam. Và có lẽ đó cũng chính là cơ sở xã hội cho sự


tồn tại phổ biến ruộng công ở làng Việt Bắc Bộ.
Quá trình hình thành các làng Việt Nam Bộ diễn ra rất khác so
với các làng Việt Bắc Bộ. Các bước khẩn hoang lập làng ở Nam Bộ
diễn ra trực tiếp bởi những người nông dân Việt, vì nhiều lý do, đã
có mặt trước khi được tổ chức thành các đơn vị hành chính (trước
năm 1698). Sách Phủ biên tạp lục của Lê Quý Đôn chép rằng: năm
1669, sau khi cử quan lại đi khám đạc ruộng đất công và tư ở vùng
Thuận Hóa, Quảng Nam, Chúa Nguyễn Phúc Tần đã quy định: “Nếu
có người đem sức mình ra khai phá những chỗ rừng rú bỏ hoang,
thành ruộng khai ra, thì cho làm ruộng tư, nhà nước thu thóc tô, xã ấy
không tranh chia, lấy thế làm lệ vĩnh viễn”1. Đối với Gia Định, vùng
đất của rừng rậm hoang vu, chằm phá bạt ngàn, những người lưu
dân sau khi khai phá đất hoang được sở hữu hoàn toàn những mảnh
ruộng đất đó, tức là đất đai khai phá được hoàn toàn trở thành ruộng
tư của những người khai phá. Do vậy, ruộng đất khẩn hoang của
người nào thì được phép trở thành sở hữu riêng của người đó. Tình
hình này diễn ra trong một khoảng thời gian dài, suốt thế kỷ XVII,
XVIII và ở nửa đầu thế kỷ XIX. Như vậy, sự hình thành các xã thôn ở
Nam Bộ hầu như tách rời và không phụ thuộc vào chế độ ruộng đất
công làng xã. Thậm chí, sự hình thành các làng Việt Nam Bộ gắn liền
với sự phát triển của ruộng đất tư hữu.
Theo một kết quả nghiên cứu dựa trên các số liệu đo đạc lập địa
bạ năm 1836, ruộng đất công chiếm một tỷ lệ rất thấp so với ruộng
đất thuộc sở hữu cá nhân2. Qua nghiên cứu 479 tập địa bạ Nam Kỳ
còn lại trong tổng số 484 tập địa bạ lập năm 1836, với khoảng 1.637

1. Lê Quý Đôn, Phủ biên tạp lục, Sđd, tr.161-162.


2. Xem Trần Thị Thu Lương: Chế độ sở hữu và canh tác ruộng đất ở Nam Bộ
nửa đầu thế kỷ XIX, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh,
1994, tr.179-181.
CHƯƠNG IV: LÀNG XÃ VÀ CÁC THIẾT CHẾ TỰ QUẢN... 341

làng ở Nam Kỳ lục tỉnh, nhà nghiên cứu Nguyễn Đình Đầu kết luận:
trước năm 1836 “hầu hết ruộng đất khai hoang đã thành tư điền tư
thổ”1, và “mãi tới năm 1836, tức gần 3 thế kỷ sau, chế độ công điền
công thổ mới chính thức xuất hiện và được ghi vào các bộ điền ở xã
thôn”2. Và ngay cả sau năm 1836, ruộng đất công ở Nam Bộ cũng chỉ
chiếm một tỷ lệ rất nhỏ3.2.Như vậy, do điều kiện lịch sử, các nhân tố
tự nhiên và xã hội, ruộng đất công đã không tự xuất hiện ở đồng bằng
Nam Bộ cho đến đầu thế kỷ XIX. Sau năm 1836, nhà Nguyễn dùng
nhiều biện pháp nhằm gia tăng diện tích ruộng đất công. Nhưng nhìn
chung, công điền cũng chỉ chiếm một tỷ lệ hết sức khiêm tốn4.3.
Rõ ràng, làng Việt Nam Bộ không được thiết lập trên nền tảng
ruộng đất công, khiến cho vai trò của làng có phần nào bị hạ thấp so
với làng Việt Bắc Bộ. Ở đây, làng Việt Nam Bộ không có chức năng
kiểm soát, phân chia việc khai thác đất đai cũng như điều hòa sử
dụng nguồn nước. Những công việc đó không theo thể chế của làng
mà thường do các tư nhân trực tiếp canh tác giải quyết. Có lẽ chính
bởi cơ chế vận hành như vậy mà các làng Việt Nam Bộ hầu như
không có hương ước cổ như nhiều làng Việt Bắc Bộ.
Trong chế độ sở hữu ruộng đất Nam Bộ có một hiện tượng khá phổ
biến, có tính chất khác biệt hoàn toàn so với tình hình ở Bắc Bộ, đó là
hiện tượng ruộng phụ canh5.4Trong khi ở đồng bằng Bắc Bộ chỉ vài làng
có ruộng phụ canh của người làng khác, phần nhiều từ làng bên cạnh,
thì ở đồng bằng sông Đồng Nai và đồng bằng sông Cửu Long phổ biến

1, 2. Nguyễn Đình Đầu: Chế độ công điền công thổ trong lịch sử khẩn hoang lập ấp
ở Nam Kỳ lục tỉnh, Sđd, tr.170.
3. Xem Nguyễn Đình Đầu: Chế độ công điền công thổ trong lịch sử khẩn hoang
lập ấp ở Nam Kỳ lục tỉnh, Sđd, tr.167-169.
4. Xem Nguyễn Phương Thảo: Văn hóa dân gian Nam Bộ - những phác thảo, Nxb.
Giáo dục, Hà Nội, 1997, tr.16-17.
5. Xem Trần Thị Thu Lương: Chế độ sở hữu và canh tác ruộng đất ở Nam Bộ
nửa đầu thế kỷ XIX, Sđd, tr.142-176.
342 VÙNG ĐẤT NAM BỘ VIII THIẾT CHẾ QUẢN LÝ XÃ HỘI

hiện tượng các thôn xã có ruộng đất phụ canh. Nơi đây, nhiều hộ có
ruộng phụ canh ở làng khác, xã khác, huyện khác, thậm chí tỉnh khác.
Lại có những hộ có ruộng đất phụ canh ở đồng thời nhiều thôn xã khác,
tổng khác, huyện khác. Như vậy, ruộng phụ canh ở Nam Bộ không chỉ
có ở các làng láng giềng, mà còn có ở nhiều tổng, huyện, tỉnh khác. Có ý
kiến còn coi đó là “sự giao lưu sở hữu ruộng đất” giữa các làng xã Nam
Bộ1. Cơ chế sở hữu đất canh tác như vậy đã dẫn đến sự giao lưu mạnh
mẽ, liên tục giữa các làng, các vùng, khiến cho không có những cơ sở
kinh tế để tạo thành “ốc đảo” như những làng Việt Bắc Bộ.
Tại làng Việt Nam Bộ hầu như không tồn tại chế độ sở hữu công
cộng, ngay từ đầu đã xác lập sở hữu tư nhân, khiến tạo thành tính
năng động của người tiểu nông. Người nông dân Nam Bộ, do những
ưu đãi của thiên nhiên, không có phong cách “tích cốc phòng cơ” mà
luôn gắn bó với thị trường. Tục ngữ có câu: “Gia Định nhất thóc nhì
cau”. Sách Phủ biên tạp lục ghi rằng: “từ khi có Gia Định, dân ở xứ
ấy chưa từng lấy sự chứa thóc làm lợi”2; cá tôm rất nhiều, “dân địa
phương thường nấu qua rồi phơi khô để bán”3; cau thì cứ để cho quả
già khô rồi “lấy hột bán cho người Tàu”4. Bởi vậy, ở Nam Bộ đã sớm
phát triển nông nghiệp theo hướng sản xuất nông sản hàng hóa. Để gia
nhập thị trường, các làng Nam Bộ không thể duy trì nền sản xuất nhỏ
theo hướng tự cung tự cấp, mà phải hướng tới việc huy động mọi nguồn
lực, vốn liếng để sản xuất sản phẩm sao cho giá rẻ, số lượng nhiều, thời
gian nhanh, đáp ứng nhu cầu của thị trường. Không phải ngẫu nhiên
mà ngay từ trước những năm 1830 ở Nam Bộ đã thấy có sự tích tụ ruộng
đất lớn5.
Cùng với sản xuất hàng hóa, ở Nam Bộ đã sớm hình thành các đô
thị. Những đô thị ở vùng này không mang đậm nét tàn dư của công xã

1, 5. Xem Trần Thị Thu Lương: Chế độ sở hữu và canh tác ruộng đất ở Nam Bộ
nửa đầu thế kỷ XIX, Sđd, tr.211, 46-190.
2, 3, 4. Lê Quý Đôn: Phủ biên tạp lục, Sđd, tr.385, 160, 443.
CHƯƠNG IV: LÀNG XÃ VÀ CÁC THIẾT CHẾ TỰ QUẢN... 343

nông thôn. Đô thị ở đồng bằng sông Cửu Long hình thành nhằm đáp
ứng nhu cầu của một nông thôn sản xuất hàng hóa, mở rộng giao lưu
buôn bán với tất cả các vùng. Trở thành đầu mối giao dịch với các nơi,
người nông dân Nam Bộ không kỳ thị với buôn bán. Tâm lý đó của
người nông dân Nam Bộ được thể hiện rõ qua câu ca đã quen thuộc và
đi vào lòng người bao thế hệ:
Đạo nào vui bằng đạo đi buôn
Xuống biển lên nguồn gạo chợ nước sông.
Sự phát triển kinh tế hàng hóa ở Nam Bộ kích thích giao lưu quốc
tế, làm cho hoạt động của làng Việt Nam Bộ năng động hơn nhiều so
với làng Việt Bắc Bộ.
Sự giao lưu kinh tế của làng Việt Nam Bộ diễn ra khá rõ rệt. Ngay
trong phạm vi sản xuất nông nghiệp, nghề trồng lúa, nghề làm vườn,
nghề đánh bắt thủy hải sản, nghề chăn nuôi, nghề rừng đã cùng phát
triển, đan cài vào nhau (nhất canh trì, nhì canh viên, tam canh điền).
Cũng bởi vậy, làng xã ở Nam Bộ không có một cơ cấu kinh tế khép kín,
cũng không đòi hỏi tự thỏa mãn bằng một quy mô dân số nhất định
của làng. Nó có hình thù đa dạng và thiết chế “mở”, vượt ra khỏi trạng
thái tự túc, tự trị cổ truyền1.
Sự giao lưu trong sinh hoạt kinh tế của làng Việt Nam Bộ vừa góp
phần tạo dựng, vừa tồn tại và phát triển dựa trên sự thông thương buôn
bán trong vùng và giữa vùng Nam Bộ với cả nước và nước ngoài2. Ngay từ
đầu, sinh hoạt kinh tế của làng Việt Nam Bộ đã góp phần hình thành một
nền kinh tế hàng hóa trên vùng đất Nam Bộ. Thực ra, nền kinh tế hàng
hóa Việt Nam đã ra đời từ nhiều thế kỷ trước trên lưu vực sông Hồng và
ven biển miền Trung, nhưng đã bị hạn chế nhiều bởi sự kém phát triển của
chế độ sở hữu tư nhân về ruộng đất. Ở những nơi đó, ruộng công của làng

1. Nguyễn Công Bình: “Sự phát triển của cộng đồng dân tộc Việt Nam trong
cuộc khai phá đất Nam Bộ”, bài in trong Kỷ yếu Hội thảo quốc tế lần thứ nhất trong
Việt Nam học, Nxb. Thế giới, Hà Nội, 2000, t.1, tr.276.
2. Xem Nguyễn Công Bình: Đời sống xã hội ở vùng Nam Bộ, Sđd.
344 VÙNG ĐẤT NAM BỘ VIII THIẾT CHẾ QUẢN LÝ XÃ HỘI

xã dưới sự sở hữu tối cao về ruộng đất của nhà nước vẫn đóng vai trò chủ
đạo, chi phối đời sống kinh tế, xã hội, văn hóa của mọi cộng đồng làng xã.
Nhưng ở Nam Bộ, ngay từ buổi đầu khai phá, chế độ sở hữu tư nhân về
ruộng đất đã rất phổ biến. Ruộng đất tư hữu và sự phân công vốn có giữa
nông nghiệp và thủ công nghiệp dẫn đến việc sớm hình thành một nền
kinh tế hàng hóa ở vùng này.
Người Việt ở Nam Bộ chủ yếu sống bằng nghề trồng lúa nước,
nhưng phải đặc biệt quan tâm tới những chế độ truyền triều rất khác
nhau ở biển Đông (bán nhật triều), biển Tây (nhật triều) ảnh hưởng
trực tiếp tới lưu lượng, mực nước, chất lượng nước trên các sông, rạch
và nội đồng ở từng miệt vườn khác nhau, ở những vùng “giáp nước”
quanh năm úng thủy. Ngoài khái niệm nước cường, nước ròng còn có
nước kém, nước trôi, nước dênh, nước sụt, nước giựt, nước bò, nước
đứng, nước chằm, nước chững, nước chết, nước sát, nước rặt,...1.
Trên một vùng có biển bao quanh, sông rạch chằng chịt, người Việt
trong các làng xã ở Nam Bộ sử dụng rất nhiều loại ghe thuyền để đi lại,
vận chuyển, buôn bán, làm nhà ở, có khi họp thành làng, thành chợ trên
sông. Họ có ghe bản lồng, ghe bàu, ghe bàu nóc, ghe be, ghe cà vom, ghe
chài, ghe cui, ghe cửa, ghe giàn, ghe hấu, ghe lườn, ghe vỏ gạch, ghe ngo,
vỏ lãi, tắc ráng, tam bản, xuồng ba lá,...2.
Như vậy, trong sản xuất kinh doanh, người Việt ở Nam Bộ phải
luôn chăm chú quan sát tính đa dạng và biến đổi sinh thái Nam Bộ,
nhận thức sự đa dạng và biến đổi ấy, không ngừng tích lũy thành kinh
nghiệm, tri thức. Quá trình đó cũng làm đa dạng hóa lao động của họ
để có nhiều sản phẩm cho thị trường. Cá có hàng trăm loại. Tôm có

1. Xem Nguyễn Văn Ái: Sổ tay phương ngữ Nam Bộ, Cửu Long, 1987, tr.165, 367;
Nguyễn Văn Ái: “Tiếng Việt vùng đồng bằng sông Cửu Long”, in trong Mấy đặc điểm
văn hóa đồng bằng sông Cửu Long, Hậu Giang, 1987, tr.159.
2. Xem Nguyễn Văn Ái: Sổ tay phương ngữ Nam Bộ, Sđd, tr.165.
CHƯƠNG IV: LÀNG XÃ VÀ CÁC THIẾT CHẾ TỰ QUẢN... 345

tôm bạc, tôm càng, tôm chấm, tôm chông, tôm chục, tôm đá, tôm đất,
tôm gọng, tôm hùm, tôm kẹt, tôm lông, tôm lửa, tôm quịt, tôm rồng,
tôm sú, tôm thẻ, tôm tích, tôm vang...1 Lúa nếp, lúa tẻ có rất nhiều loại;
riêng lúa tẻ có lúa tàu, lúa móng tàu, lúa móng chim, lúa mô cải, lúa
càn đông, lúa cà nhe, lúa mắc cửi, lúa nhự đông, lúa tráng nhất, lúa
chàng co,...2.
Lao động của người Việt trong các làng xã Nam Bộ gặt hái được
những kết quả xứng đáng: năng suất cao, sản lượng nhiều, giá rẻ hơn so
với những vùng khác. Ở vùng Biên Hòa, Sài Gòn, Mỹ Tho, người nông
dân cấy 1 hộc lúa thu hoạch được 100 hộc, ở Bến Tre, Vĩnh Long, An
Giang gieo 1 hộc thóc giống gặt được 300 hộc lúa3. Mỗi hộc thóc ở Gia
Định bán được 5 tiền, ở Bình Thuận 6 tiền, ở Phú Yên, Quy Nhơn 7 tiền,
ở Quảng Ngãi, Điện Bàn 8 tiền, ở Thuận Hóa, Quảng Bình 1 quan4. Lê
Quý Đôn nhận xét: Gia Định “giá thóc rẻ, chưa nơi nào được như thế”5.4.
Sự phát triển kinh tế hàng hóa ở Nam Bộ dẫn tới hình thành các đô
thị. Đô thị vùng này không xuất phát từ một nông thôn mang đậm tàn
dư công xã, thủ công nghiệp không tách rời nông nghiệp, đôi ba làng lại
có thêm một cái chợ nho nhỏ khẳng định tính tự cung tự cấp của làng,
thành thị ra đời muộn và chính là dinh lũy của vua chúa, quan lại. Sự
hình thành đô thị ở Nam Bộ có một số đặc trưng cơ bản:
Thứ nhất, đô thị ở Nam Bộ xuất phát từ một nông thôn sản xuất
nông sản hàng hóa, ra đời sớm cùng với sự khai phá nông nghiệp và
không chờ đợi công cuộc khai phá nông nghiệp hoàn thành mới có
đô thị. Nông Nại Đại Phố (Biên Hòa), phố chợ Mỹ Tho, Hà Tiên, Bãi
Xàu (Sóc Trăng), Sài Gòn... đều hình thành trong thời kỳ khẩn hoang

1. Xem Nguyễn Văn Ái: Sổ tay phương ngữ Nam Bộ, Sđd, tr.367.
2, 3. Trịnh Hoài Đức: Gia Định Thành thông chí, Sđd, tr.153-154, 155, 150.
4. Xem Lê Quý Đôn: Phủ biên tạp lục, Sđd, tr.386.
5. Lê Quý Đôn: Phủ biên tạp lục, Sđd, tr.160.
346 VÙNG ĐẤT NAM BỘ VIII THIẾT CHẾ QUẢN LÝ XÃ HỘI

(thế kỷ XVII, XVIII). Cho đến đầu thế kỷ XIX, theo Gia Định Thành
thông chí (1820), khi Sài Gòn đã là “nơi đô hội lớn của đất Gia Định, cả
nước không nơi nào bằng”1, thì toàn sáu tỉnh Nam Kỳ khai phá được
hơn 600.000 mẫu ruộng cấy lúa, khoảng 10% tổng diện tích có khả
năng cấy lúa ở cả Nam Bộ.
Thứ hai, đô thị ở Nam Bộ là những trung tâm công thương nghiệp,
nơi tập trung nhiều nghề thủ công chuyên nghiệp, nhất là những ngành
nghề chế biến nông, lâm, thủy, hải sản và là trung tâm thương mại,
chuyên xuất nông sản ra ngoài vùng, đồng thời phân phối các loại hàng
hóa khác từ ngoại vùng vào nội vùng thông qua một hệ thống chợ có
tính chất “chợ đầu mối”.
Thứ ba, đô thị ở Nam Bộ phần nhiều đồng thời là những thương
cảng, được thiết lập gần biển, sát sông, thuận tiện cho sự giao thương
trong nước, ngoài nước.
Thứ tư, đô thị ở Nam Bộ xuất phát từ nông thôn sản xuất nông sản
hàng hóa, nhưng khi đã hình thành sẽ là động lực có tính chất quyết
định nhịp độ, quy mô phát triển nông sản hàng hóa. Đô thị buôn
bán càng sầm uất thì công cuộc khẩn hoang, sản xuất nông sản càng
nhanh, mạnh.
Trong sự phát triển kinh tế chung, toàn vùng Nam Bộ đã hình thành
một cơ cấu kinh tế nông - công - thương nghiệp. Các làng xã ở đồng
bằng sông Cửu Long cung ứng nông sản, các làng xã ở Đông Nam Bộ
cung ứng gỗ và những loại lâm thổ sản, còn Sài Gòn là trung tâm công -
thương nghiệp. Tương ứng với một cơ cấu kinh tế hài hòa là một cơ
cấu xã hội khá năng động cho phát triển sản xuất kinh doanh. Bên cạnh
đông đảo những tiểu nông, thợ thủ công nghiệp, tiểu thương, ở nông
thôn còn có những đại điền chủ, nhiều vùng có 40-50 nhà, hoặc 20-30
nhà, mỗi nhà có 50-60 “điền nô” và 300-400 trâu bò2, ở đô thị có nhiều

1. Trịnh Hoài Đức: Gia Định Thành thông chí, Sđd, tr.150.
2. Xem Lê Quý Đôn: Phủ biên tạp lục, Sđd, tr.443.
CHƯƠNG IV: LÀNG XÃ VÀ CÁC THIẾT CHẾ TỰ QUẢN... 347

phú thương có cửa hàng cửa hiệu, làm xuất nhập khẩu hoặc có phương
tiện vận tải, buôn bán đường dài, có những chủ xưởng lớn mà tính chất
và trình độ sản xuất có thể xem là những công trường thủ công mang
mầm mống tư bản chủ nghĩa1.
Như vậy, nông sản hàng hóa và đô thị thương cảng là chân dung
của miền đất mới Nam Bộ, trong đó làng Việt Nam Bộ luôn ở vị trí
trung tâm. Kinh tế hàng hóa biểu hiện một năng lực mới của cộng
đồng dân tộc Việt Nam đã vượt điểm xuất phát của chính mình trong
việc chinh phục một thiên nhiên đầy thử thách và phát triển cộng
đồng xã hội Việt Nam ổn định, bền vững trên vùng đất mới Nam Bộ.
Điều đó đã mang lại cho Nam Bộ một sự phát triển xã hội hết sức
mãnh liệt trong suốt dọc dài thực tế lịch sử.
Tóm lại, đặc điểm nguồn gốc hình thành các làng Việt Nam Bộ
cũng như yếu tố không bị chi phối bởi chế độ ruộng công đã làm cho
làng Việt có xu hướng “mở” và người nông dân Việt ở Nam Bộ năng
động hơn. Người tiểu nông tuy vẫn mang nặng tình làng nghĩa xóm,
nhưng tính cách và vai trò của họ không bị hòa tan trong cộng đồng và
chính tính năng động khiến cho họ có thể tùy ý lựa chọn phương thức
hoạt động kinh tế. Có lẽ cũng chính vì thế mà những người nông dân
Việt Nam Bộ ít bị chi phối bởi các mối quan hệ khác như người nông
dân Việt Bắc Bộ. Về sau, ngay cả khi đã chiếm đóng hoàn toàn vùng đất
Nam Bộ, thực dân Pháp cũng không làm gì hơn để thay đổi tình hình.
Trái lại, chính quyền thực dân càng đẩy mạnh quá trình tư hữu hóa

1. Cuối thế kỷ XVIII, ở Sài Gòn có những nơi đóng thuyền “có thợ giỏi
người ngoài xứ, ngoài nước thường đến thuê chữa và đóng thuyền mới” (Xem
Lê Quý Đôn: Phủ biên tạp lục); ở Chợ Lớn có khoảng 240 nhóm xay lúa, mỗi
nhóm có đến 5-6 cối xay, mỗi cối có 3-4 người đứng giàn (Xem Huỳnh Thị
Ngọc Tuyết trong sách Sài Gòn xưa và nay, Nxb. Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh,
2007, tr.80); ở Biên Hòa mỗi năm bán cho thuyền buôn nước ngoài 600.000
cân đường cát, đường phèn, đường phổi (Xem Trịnh Hoài Đức: Gia Định
Thành thông chí).
348 VÙNG ĐẤT NAM BỘ VIII THIẾT CHẾ QUẢN LÝ XÃ HỘI

ruộng đất với sự tham gia tích cực của các địa chủ người Pháp, càng làm
gia tăng bộ phận nông dân không có ruộng ở Nam Bộ.
Làng Việt Nam Bộ ra đời không bị chi phối, hoặc bị chi phối nhưng
rất yếu ớt, của chế độ ruộng công, khiến cho người nông dân không bị
quá lệ thuộc vào làng, có thể di chuyển khá tự do. Có lẽ cũng vì thế mà
quan hệ chính cư - ngụ cư không chi phối các thành viên của một làng.
Cư dân Nam Bộ sống trên một vùng thiên nhiên thông thoáng, dễ
dàng “di chuyển đến” và cũng dễ dàng “di chuyển đi”. Phương ngữ Nam
Bộ có từ “miệt” đánh dấu sự nhận biết của người dân Nam Bộ về nhiều
tiểu vùng sinh thái trên châu thổ: miệt trên (Đồng Nai, Biên Hòa), miệt
dưới (Cà Mau), miệt vườn (vùng giữa đồng bằng có nhiều cây ăn trái),
miệt U Minh, miệt Mỹ Vãng (Mỹ Tho, Vĩnh Long), miệt Ông Chưởng
(Long Xuyên), miệt Bảy Núi...
Vùng đất Nam Bộ là nơi hướng đến, chuyển đến của cư dân tứ
phương. Đầu tiên là cư dân miền Trung, sau đó là cư dân các địa phương
khác trong cả nước. Ngày nay, ở đây có những địa phương hội đủ các
thành phần dân cư từ khắp nơi, trên khắp cả nước tới. Đến Nam Bộ, họ
tạo dựng những đơn vị cư trú mới: thôn, ấp, thuộc, phường, man, trại.
Nhưng rồi, theo sông rạch, họ cũng dễ dàng chuyển đi nơi khác làm ăn,
tạo dựng những đơn vị cư trú mới. Làng Việt Nam Bộ là nơi chuyển
đến cũng là nơi chuyển đi, được hình thành trong quá trình khai phá,
tập hợp cư dân từ nhiều địa phương khác nhau, từ nhiều dòng họ khác
nhau. Họ hợp thành “dân ấp, dân lân” với nhau, nhưng sự cố kết “họ
hàng làng xã” ở Nam Bộ lỏng lẻo hơn so với ở Bắc Bộ.
Làng Việt ở Nam Bộ thực sự là những điểm hội tụ trong một vùng
tụ hội. Tụ hội dân cư trong nước, lúc đầu là dân cư các phủ Quảng Nam,
Thuận Hóa1. Tụ hội của nhiều giai cấp xã hội: lưu dân nghèo khổ và
người “có vật lực”2. Tụ hội của nhiều tôn giáo khác lạ với nhau: Phật giáo
Đại thừa, Phật giáo Tiểu thừa, Thiên Chúa giáo, Hồi giáo...

1, 2. Xem Lê Quý Đôn: Phủ biên tạp lục, Sđd, tr.442.


CHƯƠNG IV: LÀNG XÃ VÀ CÁC THIẾT CHẾ TỰ QUẢN... 349

Làng Việt ở Nam Bộ cũng thực sự là những điểm giao lưu trong
một vùng giao lưu. Giao lưu giữa lưu dân cùng cảnh ngộ, tuy khác nhau
về quê hương bản quán, giai tầng xã hội, tộc người và tôn giáo. Trong
những cái khác nhau đó có chứa đựng tính đa dạng của một cốt cách
chung nơi cộng đồng dân tộc Việt Nam. Giao lưu là tìm ra cái hay, cái
đẹp, thích hợp cho việc xây dựng miền đất quê hương mới.
Làng Việt ở Nam Bộ thực sự là những điểm hội nhập giữa một
vùng hội nhập. Tụ hội, giao lưu đưa tới hội nhập. Hội nhập là nhu cầu
bên trong của mọi lưu dân về sự tồn tại và phát triển của mình. Không
phải chỉ nhằm đối phó với một thiên nhiên mới lạ mà lưu dân phải
cố kết lại với nhau, không đẩy những khác biệt về dân cư, dân tộc,
tôn giáo, giàu nghèo thành nhân tố khuếch đại sự phân ly; trái lại, hội
nhập để thành một cộng đồng xã hội ổn định, bền vững và chứng tỏ
có đủ sức lực chinh phục vùng đất mới.
Người Việt trong các làng xã Nam Bộ cũng trồng lúa nước, coi nước
là yếu tố hàng đầu, nhưng không đắp đê phòng lụt, không dùng gầu
giai, gầu sòng... Họ đã sử dụng được nguồn nước phù hợp với cơ chế tác
động của sông và biển, mùa mưa và mùa khô, lũ và hạn để làm các loại
ruộng “thảo điền” (ruộng cỏ nơi đất thấp) và “sơn điền” (ruộng nơi đất
cao). Người Việt ở Nam Bộ cũng từ những người tiểu nông định cư theo
thôn ấp - làng xã truyền thống Việt Nam - nhưng hình thù thôn ấp phù
hợp với môi trường sống theo kênh rạch và thiết chế ít bị khép kín theo
quan hệ “trong họ ngoài làng”. Người Việt ở Nam Bộ sáng tạo thành
công một vùng văn hóa dân gian mới, cũng là tiếng nói Việt Nam, tâm
hồn Việt Nam, nhưng đầy ắp phương ngữ Nam Bộ, ít thổ âm, có tính
thống nhất cao và giàu tính cách Nam Bộ1.

1. Xem Nguyễn Văn Ái: Sổ tay phương ngữ Nam Bộ, Sđd, tr.11; Huỳnh Ngọc
Trảng: “Văn học dân gian Sài Gòn”, trong Trần Văn Giàu, Trần Bạch Đằng, Nguyễn
Công Bình (Chủ biên): Địa chí văn hóa Thành phố Hồ Chí Minh, Nxb. Thành phố
Hồ Chí Minh, 1988, t.2, tr.19-20.
350 VÙNG ĐẤT NAM BỘ VIII THIẾT CHẾ QUẢN LÝ XÃ HỘI

Người tiểu nông trong các làng Việt ở Nam Bộ cũng là thành viên
trong cộng đồng làng. Dù cá nhân từng người sinh tồn dựa trên quyền tư
hữu ruộng đất và được pháp luật thừa nhận, người nông dân vẫn bị ràng
buộc nhất định vào quan hệ “trong họ ngoài làng”. Mỗi hộ nông dân vẫn
mang “tình làng nghĩa xóm”, nhưng tính cách và vai trò cá nhân không bị
hòa tan trong cộng đồng làng. Trái lại, tính cách và vai trò cá nhân đóng
vai trò quyết định trong kinh tế hộ gia đình, mang tính năng động xã hội
cao, tùy ý lựa chọn biện pháp, cách thức phù hợp trong việc khẩn hoang,
sản xuất kinh doanh nông nghiệp, thủ công nghiệp, thương nghiệp... Khi
đó, tính năng động xã hội của cá nhân trong các quan hệ xã hội mang tính
độc lập với cộng đồng, nhưng không đối lập với cộng đồng, hơn nữa lại
gia tăng tính năng động của cộng đồng trên vùng đất mới1.

2. Các thiết chế tự quản của người Việt ở Nam Bộ


a) Thiết chế tự trị làng xã
Trong quá trình khai phá Nam Bộ, ở những nơi mới đến, bằng
nhiều phương thức đa dạng, di dân người Việt sống quần tụ với nhau,
lập thành những thôn ấp. Có thể thấy rằng tổ chức làng xã là cơ sở hạ
tầng quen thuộc của người nông dân Việt Nam với truyền thống đoàn
kết, tương trợ, thương yêu nhau vốn có từ xa xưa. Hơn nữa, trên vùng
đất mới đầy hoang sơ, chưa từng quen thuộc, những người di dân Việt
càng phải gắn bó với nhau, quần tụ với nhau thành thôn, thành ấp để có
điều kiện giúp đỡ lẫn nhau khai hoang mở đất, chống lại bệnh tật, đối
phó với thiên tai, thú dữ, lam sơn chướng khí...
Những người cùng thôn ấp trong các làng Việt Nam Bộ có lẽ rất
bình đẳng và chan hòa với nhau, vì lúc đầu lập ấp, phần lớn họ đều sàn

1. Phần khái quát về đặc điểm của làng xã người Việt ở Nam Bộ này được
viết dựa theo tổng kết của Nguyễn Công Bình: “Sự phát triển của cộng đồng dân
tộc Việt Nam trong cuộc khai phá đất Nam Bộ”, In trong Việt Nam học, Sđd, t.1,
tr.273-279.
CHƯƠNG IV: LÀNG XÃ VÀ CÁC THIẾT CHẾ TỰ QUẢN... 351

sàn như nhau. Hơn nữa, trong khi tha phương cầu thực, họ không thể
sinh sống và khẩn hoang lẻ loi mà phải đoàn kết, tương trợ nhau. Chỉ
đến khi chính quyền họ Nguyễn chiêu mộ những người dân “có vật
lực” (nhà giàu) từ các phủ Điện Bàn, Quảng Nghĩa, Quy Nhơn di cư
vào Nam1 thì trong thôn ấp mới có sự phân hóa, chia ra kẻ giàu, người
nghèo và các phú hộ di cư dần dần trở thành những bá hộ hay thiên hộ -
những điền chủ lớn - khống chế được từng thôn hay từng tổng.
Buổi đầu chưa có luật lệ gì, đất đai thừa thãi, những người di dân
muốn cày cấy và lập thôn xóm ở đâu cũng được. Thường thường, những
di dân người Việt đi thành từng nhóm năm, bảy người, có khi đông hơn,
tới đâu thuận tiện, dễ làm ăn, gần sông nước ngọt, cạnh đường giao
thông thì dựng lều, lập ấp.
Những thôn ấp được lập ra trong thế kỷ XVII rõ ràng mang tính
chất của những tổ chức tự lập, tự quản. Chỉ đến khi Nguyễn, Hữu Cảnh
được lệnh vào kinh lược phương Nam năm 1698 “thiết lập xã thôn
phường ấp, chia cắt giới phận, khai khẩn ruộng nương, định lệnh thuế
tô dung, làm sổ đinh điền”2 thì các thôn ấp ấy mới chính thức trở thành
những đơn vị hành chính cơ sở.
Các thôn ấp do người Việt lập ra ở vùng Đồng Nai - Gia Định, xét
về hình thái và kết cấu tổ chức, có những nét đặc thù, khác biệt so với
các làng ở Bắc Bộ và Trung Bộ. Những thôn ấp của người Việt ở Nam
Bộ thường kéo dài dọc theo bờ sông hay hai bên đường, có diện tích mở
rộng và không bị vây quanh bởi một lũy tre xanh dày kín như các làng ở
miền Bắc. Bởi vậy, thiết chế tự trị làng xã Nam Bộ cũng có nhiều điểm
khác biệt.
Về cơ cấu tổ chức, thôn ấp nơi đây được hình thành do sự quy tụ,
tập hợp tự nhiên trong điều kiện chưa thật ổn định của những con
người phiêu dạt, cho nên lúc đầu các làng ấp miền Nam không có các

1. Xem Lê Quý Đôn: Phủ biên tạp lục, Sđd, tr.442.


2. Quốc sử quán triều Nguyễn: Đại Nam thực lục, Sđd, t.I, tr.111.
352 VÙNG ĐẤT NAM BỘ VIII THIẾT CHẾ QUẢN LÝ XÃ HỘI

quy chế chặt chẽ với những lệ làng, hương ước như các làng xã ở miền
Bắc và miền Trung. Thuở ban đầu, các thôn ấp nơi đây mang nặng
màu sắc của một tổ chức tương tế, tương trợ, tự quản, rất rộng mở và
phóng khoáng, dân số tăng giảm tùy theo tình hình sản xuất và đời
sống, làm ăn được thì trụ lại, khó làm ăn thì chuyển đi, đến đâu cũng
được dung nạp, dễ dàng không bị ngăn trở, không có sự phân biệt
giữa dân chính hộ và dân khách hộ. Mọi người trong thôn ấp đoàn
kết, tương trợ nhau để cùng khắc phục khó khăn trong cuộc sống,
đối xử với nhau chan hòa, rộng rãi. Đây chính là một trong những
yếu tố quan trọng góp phần thúc đẩy việc khai hoang và phát triển
sản xuất cũng như ổn định cuộc sống của những người di cư.
Đơn vị hành chính cơ sở ở Nam Bộ chủ yếu là cấp thôn và xã, nhỏ
hơn là ấp. Các thôn, xã và ấp vốn là những đơn vị kinh tế hơn là đơn
vị hành chính, thường do một người hoặc một nhóm người thành lập.
Bởi vậy, bộ máy quản lý làng Việt Nam Bộ thường sơ sài, lỏng lẻo, chủ
yếu đáp ứng yêu cầu an ninh, trật tự và thuế khóa.
Ngay khi chiếm lại được vùng đất Gia Định, Nguyễn Ánh đã chú ý
đến việc xây dựng hệ thống chính quyền xã, thôn ở vùng này, thâu tóm,
“hành chính hóa” thiết chế tự trị của làng Việt Nam Bộ. Sau đó, các triều
vua Nguyễn đã liên tục nhiều lần chấn chỉnh, cải cách, và đến đời vua
Tự Đức thì thiết chế tự trị làng Việt Nam Bộ đã tương đối hoàn chỉnh.
Theo Minh điều hương ước, việc cai quản làng xã hay thiết chế tự trị
làng Việt Nam Bộ trong khoảng cuối thế kỷ XVIII do một Ban Hương
chức đảm trách, bao gồm:
- Trùm cả: Người đứng đầu làng.
- Trùm chủ: Người đứng thứ nhì trong làng.
- Trùm nghị: Người tham gia đóng góp ý kiến cho làng.
- Xã trưởng: Người giữ con dấu và thu thuế.
- Thủ khoán: Người giữ quỹ và tài sản của làng.
CHƯƠNG IV: LÀNG XÃ VÀ CÁC THIẾT CHẾ TỰ QUẢN... 353

- Câu đương: Người hòa giải các vụ xích mích, thưa kiện nhỏ
trong làng.
- Tri thâu: người phụ trách việc thu thuế1.
Các hương chức của làng thường là những người có nhiều ruộng
đất, tài sản, đức độ và đứng tuổi. Những hương chức tận tụy việc làng,
việc dân thì được dân làng kính trọng.
Nhìn chung, vào thời Nguyễn, thiết chế tự trị làng Việt Nam Bộ bao
gồm năm bộ phận cơ bản sau:
1) Những người có lý lịch tốt (tức con cháu các danh nhân, người
có công): thường được cử giữ các chức vụ giữ gìn truyền thống văn hóa
địa phương.
2) Những người có học thức: thường được cử giữ các chức vụ hành
chính, giáo dục, tài chính, kế toán.
3) Những người giàu có: thường được cử giữ các chức vụ quản lý
tài sản công cộng.
4) Những người ít học nhưng siêng năng: thường được cử giữ chức
vụ thừa hành, sai phái.
5) Quan viên văn võ hưu trí về làng: thường được cử giữ chức
thương quan làm cố vấn và giám sát chính quyền địa phương.
Việc quản trị cấp thôn xã ở Nam Kỳ đã bị chính quyền thực dân
Pháp chính thức can thiệp một cách quy mô vào giữa năm 1901, nghĩa
là sau đúng 37 năm kể từ khi quân Pháp đơn phương tuyên bố chiếm
đóng toàn bộ Nam Kỳ2. Sự can thiệp đó được thể hiện trong bản Nghị

1. Xem Trương Ngọc Tường: “Làng xã cổ truyền ở Nam Bộ qua Minh điều
hương ước”, tạp chí Xưa và Nay, số 58B, tháng 2-1998, tr.26.
2. Ngày 25-6-1867, Tổng chỉ huy quân đội viễn chinh Pháp tại Nam Kỳ là
Thiếu tướng hải quân De la Grandière đã đơn phương ra tuyên bố: Toàn bộ sáu
tỉnh Nam Kỳ là lãnh địa của Pháp; kể từ nay triều đình Huế không còn quyền lực
gì đối với Nam Kỳ lục tỉnh nữa, chỉ có một chính quyền duy nhất tồn tại ở Nam
Kỳ, đó là chính quyền của người Pháp (Xem Dương Kinh Quốc: Việt Nam - những
sự kiện lịch sử (1858-1918), Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 2001, tr.67).
354 VÙNG ĐẤT NAM BỘ VIII THIẾT CHẾ QUẢN LÝ XÃ HỘI

định ngày 27-8-1904 của Toàn quyền Đông Dương, với nội dung cơ bản
gồm một số điểm chính:
1) Việc quản trị mỗi xã phải đặt trong tay một tổ chức mang tên Hội
đồng đại kỳ mục (Conseil de Grands Notables)1.
2) Tiêu chuẩn để được đứng trong hàng ngũ kỳ mục phải là “những
nhà điền chủ hoặc những người giàu có, sung túc nhất trong xã” (Điều 3).
Tất cả các kỳ mục trong xã sẽ phải họp nhau lại và lựa chọn ra tối thiểu
11 người để thành lập Hội đồng đại kỳ mục.
3) Đẳng cấp của 11 “đại kỳ mục” này được sắp xếp thứ tự từ trên
xuống dưới, gồm hương cả (Chủ tịch Hội đồng); hương chủ (Phó Chủ
tịch Hội đồng); các ủy viên hội đồng gồm: hương sư, hương trưởng,
hương chánh, hương giáo, hương quản, hương bộ (còn gọi là thủ bộ),
hương thân, xã trưởng (hoặc thôn trưởng), hương hào. Muốn được giữ
chức hương hào là chức vị thấp nhất trong số đại kỳ mục kể trên, trước
hết người đó buộc phải từng đứng trong đội ngũ kỳ mục của xã trong
một thời gian ít nhất là 1 năm và tối thiểu là 24 tuổi.
4) Danh sách toàn thể các kỳ mục trong xã phải luôn luôn để tại
đình làng và phải sao nộp Văn phòng quan chủ tỉnh để cấp tỉnh theo
dõi. Trường hợp Hội đồng đại kỳ mục bị khuyết người nào, các kỳ mục
trong xã được quyền hội đồng lựa chọn người bổ sung; nếu không có sự
nhất trí trong việc lựa chọn, viên quan chủ tỉnh sẽ là người tối hậu quyết
định. Mỗi thành viên trong Hội đồng đại kỳ mục, sau một thời gian tối
thiểu hai năm liên tục làm việc mà thôi không muốn làm nữa, đều được
bảo lưu mãi mãi danh hiệu của cấp bậc mà mình vừa kinh qua, nếu như
không sai phạm gì trong quá trình làm việc.
5) Bất kể kỳ mục nào, nếu như không tuân thủ phong tục tập
quán của xã, hoặc cưỡng lại lệnh của Hội đồng đại kỳ mục, đều bị

1. Đương thời có khi gọi là Hội đồng hương chức (trong một số văn bản lưu
trữ, từ notable thường được dịch là hương chức).
CHƯƠNG IV: LÀNG XÃ VÀ CÁC THIẾT CHẾ TỰ QUẢN... 355

Hội đồng đại kỳ mục xử phạt từ 1 đến 20 quan tiền; số tiền này sẽ
được nhập vào công quỹ hàng xã. Trường hợp tái phạm nhiều lần,
Hội đồng đại kỳ mục phải báo cáo lên quan chủ tỉnh. Quan chủ tỉnh
có quyền hoặc đình chỉ tạm thời, hoặc cách chức, hoặc loại ra khỏi
danh sách kỳ mục của xã, đối với bất kỳ một kỳ mục nào, kể cả thành
viên của Hội đồng đại kỳ mục.
6) Tuyệt đối cấm làng xã không được tự động cho thuê, cho mượn,
cho lĩnh canh, hoặc cho bán tài sản, ruộng đất của mình, dù là dưới
hình thức nào: bán đứt hay bán đợ. Trường hợp muốn bán, làng xã phải
xin phép quan chủ tỉnh và phải trình bày rõ lý do. Quan chủ tỉnh sẽ báo
cáo lên thống đốc. Chỉ khi nào được phép của thống đốc, làng xã mới
được tổ chức bán, theo cách thuận mua vừa bán giữa đôi bên, hoặc theo
cách bán đấu giá1.
7) Làng xã nào muốn khởi tố việc gì, khởi tố ở cấp nào đều phải
được sự đồng ý của quan chủ tỉnh sở tại. Trường hợp quan chủ tỉnh bác
bỏ, làng xã có thể kháng cáo lên Thống đốc Nam Kỳ.
8) Cá nhân nào muốn kiện làng xã vấn đề gì, phải làm đơn trình bày
với quan chủ tỉnh có liên quan. Quan chủ tỉnh sẽ chuyển đơn đó về cho
Hội đồng đại kỳ mục xã có liên quan. Hội đồng đại kỳ mục xã đó phải
họp bàn và gửi kiến nghị trở lại cho quan chủ tỉnh. Quan chủ tỉnh sẽ xét
và cho phép hoặc không cho phép Hội đồng đại kỳ mục được theo kiện,
khởi tố lại. Trường hợp bị quan chủ tỉnh bác bỏ, không cho theo kiện,

1. Ngày 31-10-1916, Toàn quyền Đông Dương ra nghị định cho phép Hội
đồng đại kỳ mục các xã ở Nam Kỳ được quyền đứng ra cho mượn, cho thuê, cho
lĩnh canh số công điền, công thổ của xã trong thời hạn ba năm, sáu năm hoặc
chín năm. Song, các văn bản phải được giới cầm quyền cấp trên chuẩn y: thời hạn
cho mượn, cho thuê, cho lãnh canh từ ba năm trở xuống, do quan chủ tỉnh chuẩn
y; trên ba năm do thống đốc chuẩn y, thông qua trước Hội đồng tư mật (Journal
officiel de l’Indochine, 1904, tr.1059-1061).
356 VÙNG ĐẤT NAM BỘ VIII THIẾT CHẾ QUẢN LÝ XÃ HỘI

Hội đồng đại kỳ mục sẽ giao trách nhiệm cho xã trưởng kháng cáo lên
Thống đốc Nam Kỳ.
9) Chức năng, nhiệm vụ của từng thành viên Hội đồng đại kỳ mục
được quy định cụ thể:
- Hương cả, hương chủ, hương sư, hương trưởng: là những người
lãnh đạo tối cao của hội đồng, quản lý tài sản của xã, lập ngân sách làng
xã, giám sát việc thu chi của ngân sách làng xã, giữ quỹ xã, giám sát công
việc của các ủy viên khác. Hương cả luôn làm chủ tọa hội đồng, khi vắng
mặt, hương chủ sẽ thay thế.
- Hương chánh1: chịu trách nhiệm trực tiếp theo dõi công việc của
xã trưởng (hoặc thôn trưởng), hương thân, hương hào. Ngoài ra, hương
chánh còn có trách nhiệm giải quyết, dàn xếp, hòa giải những vụ xích
mích nhỏ xảy ra trong xã dân.
- Hương giáo: phụ trách việc giáo huấn các kỳ mục trẻ tuổi, dạy cho
số kỳ mục trẻ tuổi hiểu rõ nhiệm vụ của họ đối với xã.
- Hương quản: phụ trách công việc bảo vệ trật tự trị an trong xã
và giải quyết những vụ kiện cáo xảy ra trong xã. Hương quản trực tiếp
chỉ đạo hương thân, cai tuần, cai thị. Hỗ trợ cho hương quản có hương
thân, xã trưởng và hương hào.
- Hương bộ (còn gọi là thủ bộ hoặc thủ bạ): phụ trách sổ đinh, sổ
địa bộ và các hồ sơ, sổ sách thu chi của xã.

1. Tháng 5 năm Ất Sửu, Tự Đức thứ 18 (tháng 6-1865), vua Tự Đức ban
hành Dụ cho phép các làng xã lập Kho Xã thương và đặt chức hương chánh
(hương chính) để trông coi. Cụ thể: xã nào có 100 mẫu ruộng công trở lên, cho
trích 10% số ruộng công đó và giao cho xã dân cùng làm. Hoa lợi thu được
bao nhiêu đều đưa vào Kho Xã thương để tương trợ những người nghèo túng
trong xã. Chức hương chánh phải lựa chọn trong số những người có của, có
sức, công bằng, ngay thẳng.
CHƯƠNG IV: LÀNG XÃ VÀ CÁC THIẾT CHẾ TỰ QUẢN... 357

- Hương thân1, xã trưởng (hoặc thôn trưởng) và hương hào là ba


ủy viên chấp hành của Hội đồng đại kỳ mục; chịu trách nhiệm thi hành
những quyết nghị của hội đồng và đặt dưới quyền kiểm soát và giám sát
trực tiếp của hương chánh và hương quản. Hương thân là người đứng
đầu số ủy viên chấp hành này. Xã trưởng (hay thôn trưởng) là người
được giữ triện của xã thôn và là người trung gian giao tiếp giữa xã và
chính quyền cấp trên. Hương hào là ủy viên chấp hành đặc trách vấn đề
trật tự, an ninh xã.
Bộ ba hương thân, xã trưởng và hương hào chịu trách nhiệm một
số công việc cụ thể như: lập danh sách những người phải đóng thuế,
phải đi làm xâu, thu thuế của xã dân để nộp cho cấp trên... Ngoài ra, bộ
ba này còn có quyền thị thực tập thể mọi giấy tờ cho xã dân; nếu như
hương thân và hương hào vắng mặt thì có thể thay thế bằng hai kỳ mục
khác trong Hội đồng, còn xã trưởng nhất thiết phải có mặt2.
Hơn 23 năm sau, văn bản “cải lương hương chính” đầu tiên này ở
Nam Kỳ được thay thế bằng một văn bản mới là Nghị định của Toàn
quyền Đông Dương Alexandre Varenne, ngày 30-10-19273. Nghị định
này có một số điểm đáng lưu ý:

1. Khoảng đầu năm Giáp Tý (1864), vua Tự Đức cho đặt chức hương thân tại
các làng xã. Hương thân không dự đến việc làng mà chỉ chuyên trách việc giáo dục
cho xã dân khỏi theo đạo Gia Tô. Hương thân được lựa chọn trong số những viên
quan đã về hưu, hoặc trong số những người đã đỗ tú tài, sĩ nhân trong xã, tuổi từ 50
trở lên, có học và được xã dân kính trọng. Nếu xã nào không có người đạt tiêu chuẩn
đó, thì phải chọn người nhiều tuổi, nhân hậu, trung thực, biết điều hay lẽ phải, biết
phân tích cái đúng, cái sai để cho giữ chức hương thân. Cần biết thêm rằng, trước
đó, vào năm 1853, Đốc thần Bình Phú là Vương Hữu Quang đã đề nghị đặt chức
hương thân này và giao chức đó vào tay những người đỗ cử nhân, tú tài hoặc những
người có học trong xã để giáo dục xã dân, không cho theo đạo Gia Tô.
2. Trong một số văn bản lưu trữ năm 1903 (trước nghị định này), số người
ký giấy tờ có thể là một trong hai nhóm sau: 1) Hương chủ, hương trưởng, hương
thân, hương hào; 2) Hương thân, thôn trưởng, hương hào.
3. Nghị định này được in bằng chữ Pháp, chữ Quốc ngữ, chữ Nho và cho
niêm yết tại tất cả các xã ở Nam Kỳ.
358 VÙNG ĐẤT NAM BỘ VIII THIẾT CHẾ QUẢN LÝ XÃ HỘI

1) Về tiêu chuẩn để được lựa chọn vào đội ngũ kỳ mục (notable),
Điều 3 quy định rộng hơn trước, cụ thể: “kỳ mục lựa chọn trong số các
nhà địa chủ ở xã, các xã dân sung túc nhất trong xã, những viên chức
bản xứ ngạch trung, cao cấp đã về hưu hoặc từ dịch, những quân nhân
đã về hưu hoặc những quân nhân đã giải ngũ với cấp bậc thấp nhất là
đội (sergent), có tên trong sổ thuế thân của xã”.
2) Về đẳng cấp: không có gì thay đổi về nguyên tắc so với Nghị định
năm 1904, song có một ngoại lệ: các viên chức trung, cao cấp đã về hưu,
đã giải ngũ mà có cấp bậc tối thiểu là đội, thì có thể không cần phải lần
lượt kinh qua các chức vụ thấp mà có thể giữ ngay những chức vụ cao
trong Hội đồng kỳ mục (Điều 4).
3) Về kỷ luật: đối với từng cá nhân ủy viên của Hội đồng kỳ mục,
Nghị định đề ra năm mức kỷ lục từ thấp lên cao như sau: khiển trách
đơn giản, khiển trách kèm theo thông báo kỷ luật niêm yết trong một
thời gian nhất định tại đình làng, đình chỉ công tác, cho thôi việc, thải
hồi. Cả năm mức này đều do quan chủ tỉnh công bố dựa theo báo cáo
nhận xét của chánh tổng hoặc của Hội đồng kỳ mục. Trường hợp nếu
tập thể Hội đồng kỳ mục hoặc đa số thành viên trong Hội đồng phạm
khuyết điểm trầm trọng, hoặc có thái độ chống đối có hệ thống, làm hại
cho việc điều hành cấp xã, thì quan chủ tỉnh có thể tuyên bố giải tán toàn
bộ Hội đồng kỳ mục và thay vào đó một Ủy ban quản trị (Commission
Administrative) cho tới khi nào thành lập được một Hội đồng kỳ mục
mới (Điều 14).
4) Đặt thêm chức đại hương cả. Chức đại hương cả phải được lựa
chọn trong số cựu tri phủ, những người có “Bắc Đẩu bội tinh” (Ordre
de la Lesgion d’Honneur), cựu hương cả hoặc hương cả có thành tích
xuất sắc đối với xã. Xã nào có đại hương cả thì đại hương cả là Chủ tịch
Hội đồng đại kỳ mục.
Đến năm 1944, Nam Kỳ lại phải chịu một đợt “cải lương hương
chính” thứ ba theo Nghị định ngày 5-1-1944 của Toàn quyền Decoux.
Về cơ bản, nghị định này không có nhiều khác biệt so với các nghị định
CHƯƠNG IV: LÀNG XÃ VÀ CÁC THIẾT CHẾ TỰ QUẢN... 359

trước đó. Tuy nhiên, có một điểm dễ nhận thấy là diện đối tượng để
được tuyển lựa vào đội ngũ kỳ mục được mở rộng, đồng thời việc tuyển
lựa kỳ mục cũng được quy định cụ thể và có nới rộng hơn trước. Cụ thể:
1) Đối tượng được tuyển lựa không chỉ bao gồm những người như
đã nêu ở điểm 1 trong Nghị định ngày 30-10-1927 kể trên, mà còn bổ
sung các thành phần sau: những thương nhân sung túc nhất trong xã,
những người có bằng Cao đẳng tiểu học Pháp - Việt trở lên, những
cựu binh sĩ và cựu lính thủ bộ, tuy không có cấp bậc nhưng có các loại
huân chương, huy chương chiến công, song phải biết đọc, biết viết
(Điều 2).
2) Việc tuyển lựa các kỳ mục mới không chỉ giới hạn trong số các
kỳ mục hiện dịch như trước nữa, mà phải thông qua một Hội đồng
tuyển trạch bao gồm các thành phần sau: kỳ mục hiện dịch, cựu kỳ
mục không bị cách chức hoặc không bị cho thôi việc, cựu viên chức
trung, cao cấp đã về hưu hoặc từ dịch, cựu quân nhân và cựu lính thủ
bộ có cấp bậc đội trở lên hoặc nếu là lính trơn thì phải biết đọc biết
viết và phải có huân chương hoặc huy chương chiến công (tất cả đều
ngụ cư tại xã tối thiểu từ hai năm trở lên), các ủy viên hoặc cựu ủy
viên (không bị cách chức) của tất cả các hội đồng cấp xứ và cấp tỉnh,
hiện ngụ cư tại xã. Danh sách những người để Hội đồng tuyển trạch
tuyển lựa do kỳ mục hiện dịch lập. Trong quá trình tuyển lựa, nếu có
điều gì khúc mắc, thì quan chủ tỉnh người Pháp sẽ là người quyết định
cuối cùng (Điều 4). Ngoài ra nghị định mới này còn quy định thêm:
tất cả các kỳ mục trong xã sẽ tự lựa chọn trong số họ một số người để
đưa vào Hội đồng kỳ mục xã. Người được lựa chọn đưa vào Hội đồng
kỳ mục xã phải có thêm hai tiêu chuẩn nữa là: không can án, đã có tên
trong sổ thuế thân của xã tối thiểu được hai năm (Điều 2). Hương cả
nào có thành tích xuất sắc thì dù đang tại chức hay đã về hưu hoặc
từ dịch đều có thể được chính quyền cấp tỉnh xét tặng danh hiệu Đại
hương cả. Số lượng Đại hương cả ở mỗi tỉnh không được nhiều hơn
số lượng xã trong mỗi tỉnh (Điều 3).
360 VÙNG ĐẤT NAM BỘ VIII THIẾT CHẾ QUẢN LÝ XÃ HỘI

b) Thiết chế tự quản theo quan hệ huyết thống


Trong đời sống của người Việt và làng Việt nói chung, quan hệ dòng
họ/huyết thống và các thiết chế tự quản theo quan hệ huyết thống đóng
vai trò hết sức quan trọng. Quan hệ dòng họ của người Việt Nam Bộ đã
xuất hiện ngay từ ban đầu, trong từng nhóm di dân đến khai phá vùng
đất mới đầy rẫy những khó khăn, khắc nghiệt. Quan hệ dòng họ đó vốn
có nguồn gốc là quan hệ huyết thống bền vững giữa các thành viên của
một dòng họ tại quê hương bản quán của những người di dân ở một
vùng nào đó ở miền Bắc, miền Trung hay miền Nam, sau vì một lý do
nào đó phải rời bỏ quê hương để chuyển đến sinh sống nơi vùng đất
mới. Trong môi trường mới, mối quan hệ dòng họ tiếp tục được duy trì.
Mặt khác, tại vùng đất mới, quan hệ dòng họ của người Việt được
tiếp tục củng cố và mở rộng trong quá trình định cư và phát triển của
làng Việt Nam Bộ. Trải qua quá trình lâu dài sống trên vùng đất mới mà
những điều kiện địa lý môi sinh, môi trường - xã hội khác với vùng quê
cũ, lại sinh sống xa họ gốc, quan hệ dòng họ ở các làng Việt Nam Bộ đã
có những thay đổi.
Các thành viên trong mỗi dòng họ của các làng Việt Nam Bộ vẫn
thể hiện rõ nguyên tắc “chung tộc danh về phía bố”. Trong một công
trình nghiên cứu về dòng họ của người Việt Nam Bộ, Gerald C. Hukey
cho rằng: “Đó là một hệ thống thân tộc theo dòng của người cha trong
đó con trai được coi trọng hơn con gái và giữ một vai trò ưu thế dẫu
rằng con gái cũng không bị gạt xuống một quy chế thấp kém. Tên của
con gái cũng mang họ của người cha và đều là những phần tử của dòng
họ nội”1. Xác định rạch ròi bên nội, bên ngoại là một biểu hiện rõ rệt
của chế độ ngoại hôn. Có thể thấy rằng, cho dù đã có những biến động
lịch sử, sinh sống khá xa cái nôi của văn minh Việt và ảnh hưởng của

1. Gerald C. Hukey: Nghiên cứu một cộng đồng thôn xã Việt Nam: Xã hội học,
Phái đoàn cố vấn Đại học đường Tiểu bang Michigan tại Việt Nam, Sài Gòn, 1960,
tr.77.
CHƯƠNG IV: LÀNG XÃ VÀ CÁC THIẾT CHẾ TỰ QUẢN... 361

Nho giáo cũng rất nhạt nhòa, người Việt Nam Bộ vẫn giữ được những
nét văn hóa đã ăn sâu vào tiềm thức.
Trong bối cảnh chung của Nam Bộ, chế độ phụ hệ gia trưởng của
người Việt dù vẫn được duy trì như ở các làng Việt Bắc Bộ nhưng đã có
ít nhiều thay đổi. Đối với các công việc trong gia đình, người đàn ông
vẫn giữ vai trò chủ trì, nhưng đã có sự tham gia của người vợ. Ngay cả
trong việc thừa kế gia tài, người con gái cũng được hưởng một phần.
Gerald C. Hukey cho rằng: “Con trai được hưởng một phần gia tài lớn
hơn, nhưng con gái cũng được phần nào gia tài và có trường hợp được
hưởng đất nữa. Người vợ có quyền tham dự vào những quyết định có
liên quan đến gia đình và trong đa số các gia đình Việt Nam Bộ, người
vợ là người giữ ngân quỹ”1. Dù theo chế độ phụ hệ gia trưởng, nhưng
trong các gia đình Việt Nam Bộ, vai trò của người vợ thể hiện rất rõ.
Người vợ chia sẻ cùng chồng trong các công việc có liên quan đến gia
đình mà không cần ẩn tàng như ở các làng Việt Bắc Bộ với vai trò “nội
tướng” như cách nói của Trần Từ (Nguyễn Đức Từ Chi)2. Và có lẽ vì vậy,
trong các gia đình Việt Nam Bộ dù có sinh toàn con gái cũng không gây
cú sốc tâm lý và áp lực nặng nề như đối với nhiều gia đình người Việt
ở Bắc Bộ.
Theo truyền thống của các gia đình người Việt Bắc Bộ, người
con trai trưởng có trách nhiệm thờ cúng bố mẹ. Dịp Tết và các ngày
giỗ bố, mẹ, những người con khác trong gia đình sẽ mang lễ vật cúng
hoặc cùng đóng góp tiền bạc để người con trai trưởng lo sắm sửa lễ
cúng. Vị trí này không ai có thể thay thế khi người con trai trưởng đó
vẫn còn sống, chỉ có thể thay thế vị trí này khi người con trai trưởng
chết mà không có con trai. Tuy nhiên, trong các dòng họ ở làng Việt
Nam Bộ, tộc trưởng của các dòng họ không nhất thiết theo dòng con

1. Gerald C. Hukey: Nghiên cứu một cộng đồng thôn xã Việt Nam: Xã hội học, Phái
đoàn cố vấn Đại học đường Tiểu bang Michigan tại Việt Nam, Sài Gòn, 1960, tr.77.
2. Xem Nguyễn Từ Chi: Góp phần nghiên cứu văn hóa tộc người, Sđd, tr.192.
362 VÙNG ĐẤT NAM BỘ VIII THIẾT CHẾ QUẢN LÝ XÃ HỘI

trưởng. Ở một số dòng họ, tộc trưởng thuộc dòng thứ, ở một số dòng
họ khác, tộc trưởng do các đại cử tri bầu ra1. Phần lớn các dòng họ
của người Việt ở Nam Bộ không có đất hương hỏa nên trong quan
hệ dòng họ cũng không thấy đề cập đến việc thừa kế tài sản của tộc
trưởng. Trong công trình nghiên cứu về làng Khánh Hậu, Gerald C.
Hukey cũng có một nhận xét tương tự: “Trách nhiệm cúng giỗ không
nhất thiết phải do trưởng tộc đảm nhiệm. Nhiều khi trách nhiệm
đó được chia sớt giữa các người thuộc nam phái trong nội tộc để
tránh cho một người nào đó phải một mình chịu đựng cái gánh nặng
tài chính. Trường hợp này đặc biệt đúng với các gia đình không có
hương hỏa và không có nguồn lợi nào khác đặt ra để lo cho việc cúng
giỗ cho nên được tự do hơn để kiếm những tiện nghi riêng của họ. Và
có một phần tử nào đó trong gia đình giàu có hơn những người khác,
thì người đó có thể đảm nhiệm cúng giỗ và đặt tiệc, tuy nhiên không
phải là trưởng tộc”2.
Như vậy, so với quan niệm truyền thống, cái gọi là chế độ tông pháp
trong các làng Việt Nam Bộ đã có những thay đổi. Ngoài ra, việc không
áp dụng đầy đủ và nghiêm khắc chế độ tông pháp còn được thể hiện ở
chỗ không có sự phân định rõ ràng trong cách xưng hô giữa dòng đích
và dòng thứ. Theo chế độ tông pháp, những người con của người con
trưởng sẽ được những người con của dòng thứ gọi là “anh”, “chị” không
phân biệt tuổi tác. Trong khi đó, ở các dòng họ trong những làng Việt
Nam Bộ, phần lớn các trường hợp người lớn tuổi hơn sẽ được gọi bằng
“anh”, “chị”, dù những người đó ở dòng thứ. Đó có thể là do ảnh hưởng
của người Hoa - một tộc người hay giữ tục lệ này. Tuy nhiên, điều này
cũng tạo thành một sự khác biệt rõ nét trong quan hệ dòng họ của người
Việt Nam Bộ, so với người Việt Bắc Bộ và người Việt Trung Bộ.

1. Xem Ngô Văn Lệ: Một số vấn đề về văn hóa tộc người ở Nam Bộ và Đông
Nam Á, Nxb. Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, 2003, tr.106.
2. Gerald C. Hukey: Nghiên cứu một cộng đồng thôn xã Việt Nam: Xã hội học,
Sđd, tr.85.
CHƯƠNG IV: LÀNG XÃ VÀ CÁC THIẾT CHẾ TỰ QUẢN... 363

Các làng Việt Nam Bộ được hình thành trong quá trình khai hoang
lập làng ở một vùng đất rất thuận lợi cho việc giao lưu, mà thành phần
cư dân đa dạng từ nhiều tỉnh, nhiều vùng khác nhau đến khai hoang
vùng đất mới, tạo dựng những đơn vị cư trú mới. Những làng Việt Nam
Bộ nói chung có tính chất “mở” nên người dân dễ dàng di chuyển đi nơi
khác làm ăn và liên tục tạo dựng những làng ấp mới. Bởi vậy, dân cư
của các làng Việt Nam Bộ không thuần nhất như các làng Việt Bắc Bộ.
Làng được hình thành trong quá trình khai phá, tập hợp cư dân ở
nhiều địa phương khác nhau, nhiều dòng họ khác nhau. Ở nhiều làng
Việt Nam Bộ hiện vẫn giữ được phong tục thờ các tiên công, tiên hiền,
nhưng nguyên quán cũng như họ tên (tính danh) của các vị này hầu như
không được rõ. Tìm hiểu tín ngưỡng thờ Thành hoàng ở địa phương
Nam Bộ cho thấy có một số nhân vật lịch sử như Bùi Tá Hán, Lương
Văn Chính, Nguyễn Hữu Cảnh... được thờ phụng ở nhiều nơi, điều này
có thể cho phép xác định nguồn gốc của các nhóm cư dân khẩn hoang
là từ miền Trung tràn vào. Từ đó, có thể nhận thấy các dòng họ có mặt ở
những làng Việt tại Nam Bộ thông thường cách ngày nay khoảng chừng
200 năm (khoảng tám đời). Ở giai đoạn đầu của quá trình khai hoang
lập làng, lực lượng chủ yếu là những nông dân miền Trung, và thành
phần cư dân ở từng vùng vốn đã là sự tập hợp của các thành viên nhiều
dòng họ. Chính vì vậy, trong một làng, số dòng họ khá nhiều1, nhưng
không có dòng họ nào chiếm áp đảo dân cư so với các dòng họ khác,
cũng như không có làng nào lấy tên của dòng họ để đặt cho tên làng như

1. Các làng Việt Nam Bộ thông thường có hàng chục dòng họ. Tài liệu điền dã
tại ấp Danh Co, xã Đông Hưng B và ấp Phát Đạt, xã Vân Khánh (An Minh, Kiên
Giang) cho kết quả như sau: ấp Danh Co có 102 hộ, gồm 23 dòng họ; ấp Phát Đạt
có 327 hộ, gồm 27 dòng họ (Xem Ngô Văn Lệ: “Làng và quan hệ dòng họ của người
Việt Nam Bộ”, trong Hiện đại và động thái của truyền thống ở Việt Nam: Những cách
tiếp cận nhân học, Sđd, q.1, tr.343). Trong khi đó, tại làng Mộ Trạch (Hải Dương),
họ Vũ chiếm 82,8% dân số, 14 họ còn lại chiếm 17,2% dân số (Xem Philippe Papin,
Olivier Tessier (Chủ biên): Làng ở vùng châu thổ sông Hồng: Vấn đề còn bỏ ngỏ, Sđd,
tr.251).
364 VÙNG ĐẤT NAM BỘ VIII THIẾT CHẾ QUẢN LÝ XÃ HỘI

ở nhiều làng Việt Bắc Bộ. Xét trong toàn bộ lịch sử hình thành các làng
Việt Nam Bộ có thể khẳng định là không thấy có làng Việt nào ở Nam
Bộ được hình thành trên cơ sở các thành viên của một dòng họ1.
Thực vậy, tên làng Việt ở Nam Bộ cũng như nhiều vùng khác do
chính quyền đặt ra, thường có yếu tố Hán Việt mang ý nghĩa tốt đẹp
như Tân, An, Bình, Phú, Long, Thạnh, Lộc, Phước, Mỹ... Tuy nhiên, trên
khắp Nam Bộ không có những tên dòng họ lấy làm tên làng (như Đỗ
Xá, Hoàng Xá, Lê Xá, Cao Xá, Chu Xá...)2. Trái lại, các làng Việt ở Nam
Bộ lưu giữ rất nhiều địa danh mang tên cá nhân, thường bắt đầu bằng
“Ông” hay “Bà”, như rạch Bà Ba, rạch Bà Nghè (sau đổi là Thị Nghè),
đồng Ông Cộ, xóm Ông Đội, chợ Bà Chiểu (Sài Gòn), giồng Ông Huệ
(Mỹ Tho), vũng Ông Bường (Đồng Tháp), cù lao Ông Chưởng (Long
Xuyên), kênh Ông Hống (Long An), sông Ông Đốc (Cà Mau)... Ở vùng
Sài Gòn, nhà nghiên cứu Lê Trung Hoa đã xác định được 173 địa danh
“Ông” và 204 địa danh “Bà”3. Họ có thể là những người dân thường,
người có chức sắc hay người có tài lực. Dù là ông hay bà, người có tài lực
hay có chức sắc, họ đều là những cá nhân có công với cộng đồng, được
cộng đồng ghi nhớ, tôn trọng4.
Như vậy, tuy tập hợp nhau lập thành làng xã, trở thành “dân ấp, dân
lân” với nhau, nhưng những sự cố kết “họ hàng”, “làng xã” ở các làng

1. Xem Ngô Văn Lệ: Làng Việt Nam Bộ trong sự nghiệp Công nghiệp hóa - hiện đại
hóa, báo cáo khoa học tại Hội thảo Thôn ấp Nam Bộ - vai trò vị trí trong sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa, tháng 10-1997; Nguyễn Công Bình: “Sự phát triển của cộng
đồng dân tộc Việt Namtrong khai phá đất Đồng Nai - Gia Định”, trong Góp phần tìm
hiểu lịch sử - văn hóa 300 năm Sài Gòn - Thành phố Hồ Chí Minh, Nxb. Trẻ, Thành phố
Hồ Chí Minh, 1998, tr.69-94.
2. Xem Nguyễn Phương Thảo: Văn hóa dân gian Nam Bộ - những phác
thảo, Sđd.
3. Lê Trung Hoa: Địa danh ở Thành phố Hồ Chí Minh, Nxb. Khoa học xã hội,
Hà Nội, 1991, tr.165-170.
4. Sách Gia Định Thành thông chí ghi rằng: Gia Định có nhiều người trung dũng
khí tiết, trọng nghĩa khinh tài, dù là phụ nữ cũng thế (Xem Trịnh Hoài Đức: Gia Định
Thành thông chí, Sđd, tr.142).
CHƯƠNG IV: LÀNG XÃ VÀ CÁC THIẾT CHẾ TỰ QUẢN... 365

Việt Nam Bộ lỏng lẻo hơn nhiều so với các làng Việt Bắc Bộ. Trong bối
cảnh cụ thể của Nam Bộ, chính những điều kiện tự nhiên và xã hội đã
tác động đến mối quan hệ dòng họ vốn đã ăn sâu vào nếp nghĩ, đời sống
của nông dân Việt, tạo ra sự khác biệt so với ở Bắc Bộ.
Mặt khác, quá trình khai hoang lập ấp, lập làng, hình thành các đơn
vị cư trú mới làm cho chế độ sở hữu tư nhân về đất đai ở Nam Bộ hình
thành sớm. Ở Bắc Bộ, chế độ công điền, công thổ tồn tại khá dai dẳng1.
Chính công điền, công thổ đã níu kéo các thành viên gắn bó với làng.
Những thành viên của làng dù đi xa cũng cố gắng thực hiện các nghĩa vụ
của làng để đến khi phân chia lại công điền, công thổ sẽ được làng dành
cho một phần như những thành viên khác đang sinh sống tại làng. Trong
tình hình đó, mối quan hệ dòng họ có điều kiện được củng cố thông qua
mối liên hệ siêu hình giữa người sống và người chết. Sợi dây liên hệ này
chủ yếu là việc thờ cúng tổ tiên. Cơ sở của mối liên hệ giữa người sống và
người chết cũng như sợi dây liên hệ này chủ yếu là sở hữu tập thể, gồm
đất công và nhà thờ. Hơn thế nữa, vinh hạnh của một người được cả
dòng họ đón nhận với tấm lòng trân trọng, như câu tục ngữ: Một người
làm quan, cả họ được nhờ. Còn trong các làng Việt ở Nam Bộ, chế độ tư
hữu hình thành và phát triển sớm, làng lại không được thiết lập trên nền
tảng ruộng công nên vai trò của làng Việt Nam Bộ có phần bị hạ thấp
so với làng Việt Bắc Bộ. Thêm nữa, cơ sở kinh tế của các dòng họ người
Việt tại Nam Bộ hầu hết rất nghèo nàn, khiêm tốn (nếu không muốn nói
là hầu như không có gì). Hầu hết các dòng họ đều không có nhà thờ họ,
nếu có cũng được xây dựng gần đây. Một số dòng họ có nơi thờ cúng
chung (gọi là “kiếng họ”), nhưng cũng rất khiêm tốn, bài trí sơ sài. Trong
hoàn cảnh đó, việc tổ chức giỗ họ được tiến hành ở các gia đình. Các gia
đình không có đất hương hỏa, vì vậy những chi phí trong ngày giỗ cũng

1. Xem Nguyễn Từ Chi: Góp phần nghiên cứu văn hóa tộc người, Sđd, tr.179;
Viện Sử học: Nông thôn Việt Nam trong lịch sử, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội,
1978, t.2, tr. 94-95, 97-126.
366 VÙNG ĐẤT NAM BỘ VIII THIẾT CHẾ QUẢN LÝ XÃ HỘI

như các chi phí khác (như xây dựng, sửa chữa nơi thờ cúng chung) đều
do sự đóng góp của các thành viên trong họ. Do không có đất công nên
nếu dòng họ nào muốn xây dựng nơi thờ cúng chung cũng phải chờ đợi
sự cúng hiến đất đai của một người nào đó trong họ. Bởi vậy, người tiểu
nông Nam Bộ mang tính năng động, tùy ý lựa chọn phương thức sinh
sống của mình. Chính điều đó đã làm cho quan hệ dòng họ có phần lỏng
lẻo, như câu tục ngữ: Bán anh em xa, mua láng giềng gần.
Quan hệ dòng họ của người Việt Nam Bộ có phần khác so với quan
hệ dòng họ của người Việt Bắc Bộ một phần chính là vì những người di
dân đi khai hoang lập làng theo như nhận định của Trần Bạch Đằng là
“những người nghèo khó, đấu tranh để sống, nhưng lại thiếu chữ, đủ sức
làm dân, làm người mà không thuộc Kinh truyện”. Nho giáo du nhập vào
Việt Nam dần dần xác lập được vị trí trong xã hội, được nhà nước đề cao,
nhưng khi chính trị suy vi, Nho giáo cũng mất dần vị trí độc tôn. Khi
vào Nam Bộ, Nho giáo đã nhạt dần, lại tồn tại trong bối cảnh cư dân vốn
là những người nghèo khó, ít học, “nói lý luận là buồn ngủ” (Sơn Nam),
nên không có ảnh hưởng chi phối như ở các làng Bắc Bộ. Nho giáo cũng
không có ảnh hưởng sâu sắc đến từng tế bào của xã hội là các gia đình,
điều đó được thể hiện trong quan niệm hôn nhân gia đình, sinh con đẻ
cái... Trong bối cảnh như thế, chế độ tông pháp cũng không có điều kiện
để phát triển, nhất là khi quan hệ láng giềng đã dần thay thế quan hệ
dòng họ, như câu nói quen thuộc “Tứ hải giai huynh đệ” (Bốn biển đều
là anh em).
Tóm lại, trong các làng Việt Nam Bộ, quan hệ dòng họ của người
Việt Nam Bộ đã và sẽ tồn tại, gắn bó với nhau và không thể thiếu trong
đời sống hằng ngày. Nhưng quan hệ dòng họ của người Việt Nam Bộ đã
có những thay đổi so với quan hệ dòng họ của người Việt Bắc Bộ. Cùng
với thời gian, quan hệ dòng họ cũng như làng xã của người Việt Nam
Bộ sẽ còn có nhiều những đổi thay. Những biến đổi đó là do chính môi
trường tự nhiên và xã hội ở vùng đất mới Nam Bộ đã tác động đến mọi
mặt của người lưu dân, tạo nên những sắc thái địa phương, hình thành
CHƯƠNG IV: LÀNG XÃ VÀ CÁC THIẾT CHẾ TỰ QUẢN... 367

vùng văn hóa Nam Bộ - văn minh miệt vườn, văn minh sông nước,
trong đó có quan hệ huyết thống/dòng họ của người Việt trong các làng
xã. Những sự phát triển đó diễn ra theo quy luật phù hợp, tạo thành sự
thống nhất trong đa dạng của văn minh người Việt1.

c) Thiết chế tự quản theo địa vực


Làng Việt cổ truyền nói chung, ở đồng bằng và trung du Bắc Bộ nói
riêng, phần nhiều vốn là một đơn vị dân cư được tập hợp chủ yếu theo
quan hệ láng giềng, có kết hợp với các quan hệ huyết thống2. Đặc điểm
này cũng thể hiện rõ nét ở làng Việt Nam Bộ.
Như trên đã trình bày, theo mô hình phân loại làng xã ở Tiền Giang
thời Nguyễn của Trương Ngọc Tường, triều Nguyễn quy định phân chia
làng xã người Việt ở Nam Bộ thành ba loại là xã, thôn và ấp. Trong đó,
làng lớn gọi là xã, làng vừa gọi là thôn, làng nhỏ gọi là ấp (có trường hợp
ấp được gọi là trang hoặc trại). Dân số và quy mô diện tích ruộng đất
khai khẩn là tiêu chuẩn để phân định ba loại làng trên3. Theo Minh điều
hương ước ban hành vào năm 1853, cứ 10 dân đinh, khai khẩn trên 10
mẫu ruộng thì được phép lập một ấp; từ 50 đến 100 dân đinh khai khẩn
được 50 đến 100 mẫu ruộng thì được phép lập một thôn; từ trên 200 dân
đinh với diện tích khai khẩn trên 200 mẫu thì được lập một xã. Theo đó,
xét về quy mô, mỗi thôn tương đương với 5-10 ấp, mỗi xã tương đương
với 20 ấp.
Cũng theo cách phân chia kể trên thì ấp chỉ là một đơn vị kinh tế
do một cá nhân hoặc một tập thể quản lý. Còn xã hoặc thôn mới thật
sự là đơn vị hành chính. Một xã thường kiêm luôn 3, 4 thôn. Thôn chia

1. Xem Ngô Văn Lệ: “Làng và quan hệ dòng họ của người Việt Nam Bộ”, bài
in trong Hiện đại và động thái của truyền thống ở Việt Nam: Những cách tiếp cận
nhân học, Sđd, q.1, tr.330-346.
2. Xem Nguyễn Từ Chi: Góp phần nghiên cứu văn hóa tộc người, Sđd, tr.190.
3. Trương Ngọc Tường: “Làng xã ở tỉnh Tiền Giang trong thế kỷ XIX”, In
trong Kỷ yếu hội thảo Nam Bộ và Nam Trung Bộ những vấn đề lịch sử thế kỷ XVII-
XIX, Sđd, tr.81.
368 VÙNG ĐẤT NAM BỘ VIII THIẾT CHẾ QUẢN LÝ XÃ HỘI

ra làm 2, 3 lân (sau này quen gọi là ấp). Còn bản thân xã thì chia thành
nhiều giáp.
Bên cạnh đó, các nghiên cứu dựa trên Phủ biên tạp lục (Lê Quý
Đôn)1, Gia Định Thành thông chí (Trịnh Hoài Đức)2 và Địa bạ Nam
Kỳ lục tỉnh3 cho thấy đơn vị hành chính cơ sở ở Nam Bộ chủ yếu là cấp
thôn, sau đó đến cấp xã. Rất ít các ấp được coi là một đơn vị hành chính
cơ sở độc lập. Còn lại giáp và lân thì hoàn toàn không được tính là đơn
vị hành chính cơ sở trong khi kê khai làm địa bạ những năm 1836-1837.
Như vậy, có thể thấy rằng ở bên dưới các đơn vị hành chính cấp cơ sở là
thôn, xã, trong các làng Việt Nam Bộ còn có các đơn vị cư trú theo địa vực
là giáp, lân và ấp (trong đó ấp là một loại đơn vị hành chính “kép”, có
khi là đơn vị hành chính cơ sở khi đứng độc lập, có khi là một đơn vị
cư trú khi lệ thuộc vào một cấp hành chính cơ sở khác là thôn hay xã).
Đương nhiên, đi kèm theo các đơn vị cư trú theo địa vực phía dưới các
đơn vị hành chính cơ sở này chắc chắn có những thiết chế tự quản theo
địa vực tương đương.
Như vậy, giáp, lân và ấp là các đơn vị cư trú nằm bên dưới đơn vị
hành chính cấp cơ sở. Khi đó, giáp, lân và ấp là một dạng thiết chế tự
quản theo địa vực của làng Việt Nam Bộ. Tuy nhiên, các kết quả nghiên
cứu hiện nay vẫn chưa cho biết các thiết chế tự quản theo địa vực của
làng Việt Nam Bộ được tổ chức và vận hành cụ thể như thế nào.

d) Thiết chế tự quản theo sở thích, tôn giáo - tín ngưỡng


Làng Việt Nam Bộ cũng được tổ chức theo quy cách và truyền thống
chung của làng xã Việt Nam. Trong lòng các làng Việt Nam Bộ, những
thiết chế tự quản theo sở thích, tôn giáo - tín ngưỡng cũng được tổ chức

1. Xem Lê Quý Đôn: Phủ biên tạp lục, Sđd, tr.247-248.


2. Xem Trịnh Hoài Đức: Gia Định Thành thông chí, Dẫn theo Nguyễn Quang
Ngọc: “Cấp thôn ở Nam Bộ thế kỷ XVII-XVIII-XIX (Một cái nhìn tổng quan)”, In
trong Một số vấn đề lịch sử vùng đất Nam Bộ đến cuối thế kỷ XIX, Sđd, tr.197-198.
3. Xem Nguyễn Đình Đầu: Tổng kết nghiên cứu địa bạ Nam Kỳ lục tỉnh, Sđd,
tr.83.
CHƯƠNG IV: LÀNG XÃ VÀ CÁC THIẾT CHẾ TỰ QUẢN... 369

và vận hành, góp phần làm ổn định và phong phú hơn đời sống người
Việt trong các làng xã này.
Mỗi làng Việt Nam Bộ thường có một ngôi đình làng để làm nơi
thờ thần và nhóm họp việc chung. Dường như làng Việt Nam Bộ có vẻ
rất dân chủ. Các thành viên trong làng tập trung sinh hoạt cả vào dịp
tết Nguyên đán. Đình là nơi thờ thần Thành Hoàng Bổn Cảnh (có sắc
phong của triều đình) và các vị phúc thần, linh thần khác. Tuy nhiên,
nhiều đình làng ở Nam Bộ không được cấp sắc phong thần Thành
Hoàng Bổn Cảnh (nam thần) mà được cấp sắc phong Nam Hải Tứ Vị
Tôn Thần (nữ thần), thậm chí không ít đình còn thờ cả Sơn Quân (cọp),
Lang Lại Tướng Quân (rái cá), Nam Hải Ngọc Lân Tôn Thần (cá voi)...
Đình là nơi tổ chức nghi lễ Kỳ yên (cầu an), cầu mưa thuận gió hòa,
mùa màng bội thu, xóm làng yên ổn, đất nước thanh bình. Đồng thời,
đình cũng là nơi dân làng hội họp, vui chơi, tức là một địa điểm sinh
hoạt chung của cộng đồng.
Trong sách Gia Định Thành thông chí (được hoàn thành khoảng
năm 1820), Trịnh Hoài Đức từng chép về phong tục tế ở Gia Định Thành
(Nam Bộ) như sau: “Tế của làng xã. Mỗi làng đều làm một cái đình. Kỳ
tế thì chọn ngày tốt trước, đến ngày, lúc mặt trời xế chiều, người lớn
tuổi, ít tuổi đều họp, ngủ lại ở đình suốt đêm, gọi là túc yết. Sáng sớm
ngày hôm sau, mặc áo mũ, đánh chiêng trống, làm lễ chính tế, ngày hôm
sau nữa tế dịch (tế tạ) gọi là Đại đoàn, làm lễ xong rồi về. Ngày giờ để tế,
tùy theo tục từng làng, phần nhiều không giống nhau, hoặc tế vào tháng
giêng, lấy nghĩa là mùa xuân cầu phúc, hoặc tế vào tháng 8 tháng 9, lấy
nghĩa là mùa thu báo ơn thần, hoặc tế vào ba tháng đông, lấy nghĩa là
cả năm đã thành công, tế Chủng (tế mùa đông gọi là tế Chủng), tế Chạp
để báo ơn thần, đều có lý do cả, đều gọi là tế Kỳ yên. Ngoài những đồ tế
ra, có mổ trâu bò, hát xướng hay không đều theo tục lệ của từng làng.
Khi làm lễ thứ tự nghi tiết và chỗ ngồi đều nhường cho chức dịch trong
làng đứng đầu. Gián hoặc làng nào có học thức, theo lễ “Hương ẩm tửu”
(lễ uống rượu trong hương thôn, theo Kinh Lễ) mà làm; lại giảng quốc
luật, đọc hương ước, thế là làng có phong tục tốt. Đại khái trong ngày
370 VÙNG ĐẤT NAM BỘ VIII THIẾT CHẾ QUẢN LÝ XÃ HỘI

ấy, phàm cả làng trong một năm thu nộp tiền thóc về thuế dinh điền dao
dịch thừa thiếu thế nào, số người, số ruộng, tăng giảm như thế nào, thì
cùng họp mặt, tra xét tính toán; cùng là bầu người trông coi việc làng,
cũng vào ngày hôm ấy giao cho người thay, mọi việc đều có quy chế”1.
Năm 1855, triều đình Tự Đức từng quy định chỗ ngồi trong đình
làng vào các dịp tế lễ như sau: “Những người dự có sắc mệnh, văn từ
thất phẩm trở lên và Giám sinh, Ấm sinh Tú tài đã được hàm bát, cửu
phẩm, võ từ Suất đội trở lên, thi đỗ từ văn, võ Cử nhân trở lên, đều chia
hai bên tả, hữu ngồi ở gian chính giữa đình. Người già tuổi 70 trở lên và
bên võ thất phẩm như đội trưởng các quân, bên văn các nhân viên tạp
lưu bát cửu phẩm, các viên thiên hộ, bá hộ bát cửu phẩm, các cai tổng,
cùng là giám sinh, ấm sinh, tú tài, viên tử cùng thiên hộ, bá hộ quyên,
các binh được miễn sai, miễn dao, đều ngồi ở gian bên tả đình. Các nhân
viên nói trên này, nếu phẩm bậc ngang nhau thì ai nhiều tuổi hơn ngồi
trên. Người tuổi chưa đến 70 trở xuống, cùng lý trưởng, xã dân đều ngồi
ở gian bên hữu đình, nhưng theo tuổi mà ngồi. Khi người được ngồi
chiếu gian giữa đình đến, thì những người ngồi chiếu và người ngồi hai
bên gian tả, hữu đều đứng dậy kính chào. Người tuổi già 70 đến, thì các
viên văn võ bát, cửu phẩm ở chiếu khác và người 60 tuổi trở xuống đều
đứng dậy kính chào. Trừ ra những xã thôn nào đình rộng mà viên chức
nhiều, đều theo nghị cũ. Còn làng nào đình hẹp mà lâm thời viên chức
không ai ở quê, thì gian giữa không nên để không, cho đem những chức
sắc ngồi trên, đều theo thứ tự mà ngồi gian giữa đình”2.
Đình làng ở các làng Việt Nam Bộ thời Nguyễn mang ba chức năng
chủ yếu: 1) Trụ sở hành chính; 2) Nhà truyền thống của làng; 3) Câu lạc
bộ nhân các dịp lễ hội, đình đám. Trong đó, chức năng nhà truyền thống
thường gắn kết việc thờ thần (phần nhiều là thổ thần, thủy thần chứ ít
có nhân thần) với việc thờ tiền hiền, hậu hiền (tiền hiền khai khẩn, hậu
hiền khai cơ, nghĩa là tiền hiền mở đất, hậu hiền lập làng; ngoài ra hậu

1. Trịnh Hoài Đức: Gia Định Thành thông chí, Sđd, tr.146.
2. Quốc sử quán triều Nguyễn: Đại Nam thực lục, Sđd, t.VII, tr.694.
CHƯƠNG IV: LÀNG XÃ VÀ CÁC THIẾT CHẾ TỰ QUẢN... 371

duệ của các dòng họ tiền hiền hậu hiền nói chung cũng thường được cử
vào chính quyền cấp làng xã), đối tượng này đến thời Pháp thuộc còn
được mở rộng tới cả những “hương chức hữu công”.
Có thể thấy rằng, khi người Việt ở Đàng Trong tiến vào đồng bằng
Nam Bộ cuối thế kỷ XVII là lúc chiến tranh Lê - Mạc đã chấm dứt, cục
diện Đàng Trong - Đàng Ngoài đã định hình gần 200 năm, thiết chế nhà
nước ở Đàng Trong với các tập quán tổ chức và hoạt động cũng đã dần
ổn định. Thật ra đó không phải là một mô hình Nho giáo thuần nhất từ
thiết chế tư tưởng tới tổ chức chính trị. Như đã thấy, dưới thời các chúa
Nguyễn ở Đàng Trong, chính quyền một mặt tuyên truyền lý tưởng trị
bình Nho giáo, nhưng vẫn tổ chức chính quyền theo mô hình quân
chính, trong đó hệ thống dinh trấn thống ngự hệ thống phủ huyện.
Mặt khác, các chúa Nguyễn đề cao chuẩn mực cương thường Nho giáo,
nhưng đồng thời lại sùng thượng Phật giáo, làm hình thành ở Đàng
Trong một thiết chế tư tưởng - văn hóa hỗn dung kiểu “Nho Thích song
hành”. Bởi vậy, bên cạnh những ngôi đình làng đã tương đối phổ biến,
sự hiện diện và vai trò của những ngôi chùa tại các làng Việt Nam Bộ
còn phổ biến và có vị trí quan trọng hơn nữa trong đời sống của dân
chúng và làng xã người Việt ở Nam Bộ. Hầu hết mỗi làng Việt Nam Bộ
đều có ít nhất một ngôi chùa. Chùa này thường thờ một tập hợp các vị
Phật, Bồ Tát và nhiều vị thần linh khác. Ngôi chùa hiện diện trong đời
sống làng Việt Nam Bộ để dân làng đến lễ bái vào các dịp lễ, tết. Chùa
làng thường do một cư sĩ quản lý, ít khi có tăng ni trụ trì.
Bên cạnh đình và chùa, nhà võ (còn gọi là nhà vuông) và miếu cũng
hiện diện tương đối phổ biến ở các làng Việt Nam Bộ. Có thể coi nhà
võ là một thiết chế riêng của một lân (ấp). Do đó, chỉ những làng có
nhiều lân thì mới có nhiều ngôi miếu, nhà võ. Nhà võ là nơi thờ Tiên
Sư (các bậc đàn anh trong xóm làng). Nhà võ còn kiêm chức năng của
một điếm canh, một trạm thông tin... Miếu là nơi thờ các bậc thần linh
(nhiều khi đượm màu sắc mê tín). Phần lớn các vị thần linh được thờ
đều thể hiện phần nào gốc gác của xóm đó. Xóm làng làm ruộng thì
miếu thờ Bà Chúa Xứ hoặc Ông Thần Nông. Những nơi thường xảy ra
372 VÙNG ĐẤT NAM BỘ VIII THIẾT CHẾ QUẢN LÝ XÃ HỘI

tai nạn chết người thì xây miếu thờ cô hồn. Ngay cả việc thờ Thủy Long
Thánh Phi ở các làng Việt Nam Bộ, ví dụ như ở Tiền Giang, cũng mang
nhiều ý nghĩa khác nhau. Thủy Long Thánh Phi ở Cai Lậy, Cái Bè được
hiểu như nữ thần cai quản sông nước, cù lao (Bà Thủy). Trong khi đó,
Thủy Long Thánh Phi ở Gò Công lại được hiểu là vị thần cai quản ao
nước ngọt, có lẽ vì ở đây nước sinh hoạt có phần khó khăn, thiếu thốn.
Số miếu theo thiết chế thôn ấp ở các làng Việt Nam Bộ hiện nay có hàng
chục loại khác nhau, nhìn chung có sự chuyển biến theo sự phát triển
của đời sống kinh tế - xã hội.
Các thiết chế, đình, chùa, miếu, nhà võ... là những dạng thức thiết
chế tự quản theo sở thích, tôn giáo - tín ngưỡng trong làng Việt Nam
Bộ, đồng thời là cơ sở do chính quyền địa phương quản lý. Chính quyền
địa phương dựa vào các thiết chế này để hoạt động, giữ gìn bản sắc văn
hóa địa phương.
373

Chương V

THIẾT CHẾ TỰ QUẢN


CỦA NGƯỜI KHMER Ở NAM BỘ

I- VÀI NÉT VỀ NGƯỜI KHMER NAM BỘ

1. Lược sử hình thành cộng đồng tộc người Khmer Nam Bộ

Nam Bộ với hai khu vực địa lý là miền Đông Nam Bộ và miền Tây
Nam Bộ. Trong đó miền Tây là đồng bằng sông Cửu Long, là một vùng
địa lý mà cảnh quan và hệ sinh thái của nó xuất hiện muộn hơn nhiều
so với những vùng đồng bằng khác ở Việt Nam.
Vào thế kỷ đầu Công nguyên, vùng châu thổ đồng bằng sông Cửu
Long được khai thác với sự ra đời của nền văn hóa Óc Eo, đánh dấu
một bước tiến có ý nghĩa lịch sử trong công cuộc chinh phục vùng
đồng bằng này. Văn hóa Óc Eo, qua tài liệu khảo cổ học, là một nền
văn hóa đa dạng, phong phú có trình độ phát triển cao. Nền văn hóa
này, cũng theo các nhà khảo cổ học, cơ bản là kết quả hội tụ của hai
truyền thống: văn hóa truyền thống Đồng Nai bản địa và văn hóa
Ấn Độ cổ ngoại nhập. Nó là thành quả chung của cộng đồng người
đương thời chinh phục vùng sình lầy ven biển, đưa đến sự mở mang
thương mại trên sông, ngoài biển tạo nên được một xã hội phát triển
phồn vinh với nhiều điểm cư dân hình thành đầu tiên trên vùng châu
thổ thấp.
374 VÙNG ĐẤT NAM BỘ VIII THIẾT CHẾ QUẢN LÝ XÃ HỘI

Đến cuối thế kỷ VIII sau Công nguyên, văn hóa Óc Eo bắt đầu tàn
lụi. Các công trình văn hóa Óc Eo rực rỡ một thời đã bị vùi lấp trong
lòng đất phèn mặn của đồng bằng sông Cửu Long. Trong những thế kỷ
tiếp theo vùng đồng bằng sông Cửu Long trở nên hoang vu. Từ thế kỷ
thứ X trở đi, do biển rút dần, những giồng đất lớn được nổi lên ở vùng
Long An, Sóc Trăng, Trà Cú, Đồng Tháp Mười, Giồng Riềng đã trở
thành những vùng đất đai màu mỡ thu hút cư dân đến cư trú.
Từ thế kỷ XII, một bộ phận những người nông dân Khmer nghèo,
trốn chạy sự bóc lột hà khắc, nạn lao dịch nặng nề của giai cấp phong
kiến và vua chúa của các triều đại Ăngko, đã tìm cách di cư đến vùng
đất màu mỡ này. Ở đây, họ chiếm cứ những giồng cát lớn, tổ chức thành
những cụm cư trú tập trung có mối quan hệ rất chặt chẽ về mặt dòng
họ và gia đình. Tập quán cư trú này tác động tới khía cạnh tâm lý xã hội
và hình thành nên những đặc trưng kinh tế - xã hội của người Khmer
tới tận ngày nay mặc dù không gian cư trú đã hoàn toàn biến đổi. Từ
thế kỷ XV trở đi, khi đế chế Ăngko sụp đổ, Campuchia rơi vào sự lệ
thuộc phong kiến ngoại tộc Thái Lan, người dân Khmer Campuchia
càng rơi vào cảnh đói nghèo và bị đàn áp nặng nề bởi phong kiến ngoại
tộc. Bên cạnh đó là những cuộc chính biến, sự thay đổi các vương triều
với những cuộc thanh trừng nội bộ. Trong bối cảnh lịch sử đó, người
Khmer (kể cả người thuộc giới hoàng tộc, quan lại thất thế, sư sãi và trí
thức) tìm đến vùng đồng bằng sông Cửu Long ngày một đông. Vào cuối
thế kỷ XV đầu thế kỷ XVI, về đại thể, ở đồng bằng sông Cửu Long hình
thành ba vùng dân cư tập trung của người Khmer:
- Vùng Sóc Trăng - Bạc Liêu (chủ yếu là Sóc Trăng, Vĩnh Châu,
Vĩnh Lợi).
- Vùng An Giang - Kiên Giang (chủ yếu là Vọng Thê, Tri Tôn, Nha
Bàng, sau đến phía tây bắc Hà Tiên).
- Vùng Trà Vinh.
CHƯƠNG V: THIẾT CHẾ TỰ QUẢN CỦA NGƯỜI KHMER... 375

Trong đó, vùng Khmer Sóc Trăng - Cần Thơ, Trà Vinh là địa bàn
cư trú cổ xưa nhất của người Khmer ở đồng bằng sông Cửu Long.
Là bộ phận phân ly từ cộng đồng tộc người gốc di cư đến đồng
bằng sông Cửu Long, có thể nói, người Khmer Nam Bộ ngày nay và
người Khmer Campuchia có chung lịch sử, tiếng nói, tôn giáo và rất
gần gũi nhau về những đặc trưng văn hóa tộc người. Tuy nhiên, do
sống khu biệt không có quan hệ hành chính với bất cứ quốc gia nào
thời đó, cũng như tách biệt lâu dài với người Khmer ở Campuchia,
nên người Khmer Nam Bộ có những đặc điểm riêng về cư trú, sinh
hoạt kinh tế, văn hóa và tổ chức xã hội. Trong ý thức tự giác dân
tộc, người Khmer Nam Bộ nhận biết dễ dàng và phân biệt tiếng
nói giữa người Khmer miệt dưới (tức người Khmer Nam Bộ) với
người Khmer miệt trên (tức ở Campuchia) một cách chính xác. Khi
giao tiếp với nhau, người Khmer Nam Bộ thường xem những người
Khmer ở Campuchia như là những người thuộc khác xứ sở (Prateh)
với mình. Người Khmer ở Campuchia cũng có tâm lý cảm nhận như
thế từ lâu đời.
Từ thế kỷ thứ XVII trở đi, những lớp cư dân người Việt từ vùng
Thuận Quảng - Trung Bộ, phần đất thuộc chúa Nguyễn Đàng Trong,
tiến dần đến khai khẩn đất hoang ở Nam Bộ. Cùng với người Khmer,
người Việt đã biến vùng đất hoang vu thành những cánh đồng tươi tốt,
làng xóm được mọc lên. Đến cuối thế kỷ thứ XVII, vùng cư dân người
Việt ở Nam Bộ đã phát triển nhanh chóng, để trực tiếp quản lý cư dân,
năm 1698, chúa Nguyễn thiết lập bộ máy cai trị ở đây. Với chính sách
của chúa Nguyễn, công cuộc Nam tiến của người Việt đến tận cùng Cà
Mau dần dần được hoàn tất vào khoảng năm 1757.
Người Hoa có nhiều đợt di cư lớn vào Nam Bộ từ nửa sau thế
kỷ XVII và tiếp tục cho đến nửa đầu thế kỷ XX. Chúa Nguyễn và các
vua triều Nguyễn đã có những chính sách mềm dẻo tạo điều kiện
376 VÙNG ĐẤT NAM BỘ VIII THIẾT CHẾ QUẢN LÝ XÃ HỘI

cho người Hoa định cư khai khẩn vùng Nam Bộ và có những biện
pháp quản lý dân cư để giúp họ hội nhập vào cộng đồng các dân tộc
Việt Nam.
Người Chăm ở Nam Bộ là một bộ phận của người Chăm theo
Hồi giáo. Do những biến động lịch sử họ đã di cư đến Thái Lan,
Campuchia vào thế kỷ XVII - XVIII và sau đó, vào cuối thế kỷ XVIII
đầu thế kỷ XIX, một bộ phận lớn quay trở lại định cư ở vùng Châu
Đốc - An Giang, rồi lan sang các vùng khác của Nam Bộ.
Như vậy, kể từ thế kỷ XVII, bên cạnh người Khmer, ở vùng đồng
bằng sông Cửu Long, còn có các đợt di cư vào các thời điểm khác nhau
của người Việt, Hoa, sau đó là người Chăm. Từ đây mở ra một thời kỳ
mới đối với vấn đề dân cư, dân tộc ở Nam Bộ. Cùng cộng cư trong suốt
mấy thế kỷ, các dân tộc Việt, Khmer, Hoa, Chăm đã tiến hành giao lưu
tiếp xúc văn hóa với nhau, đoàn kết giúp đỡ lẫn nhau trong quá trình
khai khẩn vùng Nam Bộ. Mỗi dân tộc cư trú trong những điều kiện sinh
thái khác nhau, chịu tác động bởi những điều kiện kinh tế - xã hội khác
nhau và có những đặc trưng văn hóa tộc người riêng. Nhưng do cùng
chung một vận mệnh lịch sử của những người di dân khẩn hoang, do
quá trình cộng cư lâu dài trong lịch sử, giao lưu tiếp xúc văn hóa ngày
càng phát triển... đã hình thành một diện mạo văn hóa vùng, mang tính
đa dạng, phong phú ở Nam Bộ, bên cạnh những yếu tố văn hóa riêng
của từng tộc người.

2. Hiện trạng của người Khmer Nam Bộ


a) Dân số và phân bố dân cư
Đặc điểm phân bố dân cư của người Khmer vừa chịu tác động của
lịch sử tộc người, điều kiện địa lý môi sinh và sự phân bố cư dân chung
của cả vùng Nam Bộ.
Riêng ở miền Tây Nam Bộ, tức đồng bằng sông Cửu Long, người
Khmer là tộc người cư trú lâu đời nhất, trước khi có mặt của người Việt,
CHƯƠNG V: THIẾT CHẾ TỰ QUẢN CỦA NGƯỜI KHMER... 377

Hoa, Chăm. Các dân tộc hiện nay vừa sống xen kẽ với nhau trong vùng,
đồng thời mỗi dân tộc thường tập trung ở những địa bàn cư trú riêng,
có lịch sử định cư từ rất lâu đời.
Theo tài liệu của cuộc Tổng điều tra dân số năm 1999, người
Khmer có 1.055.000 người, cư trú ở 10 tỉnh thành Nam Bộ, nhưng
tập trung nhất ở các tỉnh thuộc đồng bằng sông Cửu Long như Trà
Vinh, Sóc Trăng, Kiên Giang, Bạc Liêu, An Giang, Hậu Giang, Vĩnh
Long, Cà Mau. Ngoài ra, còn có khoảng hơn 17.000 người Khmer
sống ở miền Đông Nam Bộ, cư trú rải rác, xen kẽ và hòa lẫn với
người Chăm, Hoa, Việt, tập trung ở một số xã vùng biên giới thuộc
tỉnh Tây Ninh và Bình Phước. Số liệu cụ thể về sự phân bố người
Khmer Nam Bộ như sau:

Bảng 22: Bảng phân bố người Khmer ở các tỉnh thành Nam Bộ
(các tỉnh thành có từ 5.000 người trở lên, theo số liệu
Tổng điều tra dân số ngày 1-4-1999)

Tỷ lệ % trên
STT Tên tỉnh thành Tổng số dân Người Khmer
tổng số dân
1 Trà Vinh 966.949 290.932 30,08%
2 Sóc Trăng 1.172.404 338.296 28,85%
3 Kiên Giang 1.479.639 182.058 12,30%
4 Bạc Liêu 735.130 58.132 7,90%
5 An Giang 2.044.376 78.706 3,85%
6 Vĩnh Long 1.010.521 20.430 2,02%
7 Cần Thơ 1.809.444 35.284 1,95%
8 Cà Mau 1.118.830 20.822 1,86%
9 Bình Phước 653.926 11.323 1,73%
10 Tây Ninh 967.097 5.727 0,59%

Nguồn: Đinh Lê Thư (Chủ biên): Vấn đề giáo dục vùng đồng bào Khmer
đồng bằng sông Cửu Long, Nxb. Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh,
2005, tr.14.
378 VÙNG ĐẤT NAM BỘ VIII THIẾT CHẾ QUẢN LÝ XÃ HỘI

Một trong những đặc điểm phân bố cư dân của người Khmer là cư
trú co cụm, mật độ dân số tăng nhanh và không đồng đều. Ở đồng bằng
sông Cửu Long, căn cứ vào điều kiện địa lý môi sinh và lịch sử cư trú,
có thể phân chia thành ba vùng cư trú chính của người Khmer là: vùng
Trà Vinh, vùng ven biển Sóc Trăng và vùng biên giới Châu Đốc kéo dài
đến Rạch Giá.
- Vùng Trà Vinh hay còn gọi là vùng nội địa
Đây là một trong những vùng cư trú cổ xưa nhất của người Khmer
ở đồng bằng sông Cửu Long mà minh chứng là những chùa tháp được
xây dựng từ khoảng 400 năm về trước, hiện còn được bảo tồn ở đây.
Cũng như trong toàn vùng, ở đây địa hình bị chia cắt bởi một hệ thống
chằng chịt những sông rạch và kênh đào. Địa hình vùng này phẳng,
thấp, ngoại trừ những sống đất dọc theo hai bờ sông Tiền và sông Hậu
cùng với những gờ đất chạy song song với bờ biển cao một vài mét,
được gọi là “giồng” mà người Khmer gọi là ‘”phno”. Những giồng hay
gò đất là vùng đất phù sa cổ, trên mặt là đất cát pha thịt, dưới sâu là đất
sét và dễ thoát nước. Đây là những dải duyên hải xưa cũ mà đồng bằng
trong quá trình tiến dần ra biển hình thành nên.
Khác với người Việt thường cư trú bên bờ những con sông lớn,
phum sóc của người Khmer phần lớn được xây dựng trên các dải đất
giồng dọc lộ giao thông ven thị xã, thị trấn, một số cư trú xen kẽ trong
các vùng đồng ruộng mênh mông, gọi là “ô”, một số cư trú ven kinh và
ven bờ biển.
- Vùng ven biển Sóc Trăng - Bạc Liêu
Vùng này chủ yếu gồm phần đất đai của tỉnh Sóc Trăng và tỉnh Bạc
Liêu. Ở đây, các vùng Kế Sách, Long Phú, Mỹ Xuyên là đất phù sa lẫn
nhiều cát và có các giồng ven biển. Ngược lại, ở các huyện Thanh Trị,
Hòa Thuận là vùng đất sét có nhiều phèn nên nhiều nơi không canh tác
được lúa mà chỉ có rừng chổi, rừng tràm. Vùng bờ biển ở đây thuộc loại
đất bùn, mùa khô nước mặn lên tới tận Đại Ngãi nên các xã ấp xung
quanh đất đai bị nhiễm phèn nặng.
CHƯƠNG V: THIẾT CHẾ TỰ QUẢN CỦA NGƯỜI KHMER... 379

Ở Sóc Trăng, các điểm cư trú của người Khmer, ngoài phân bố ở
ven biển và ven cửa sông Hậu còn trải dài theo các trục đường chính Sóc
Trăng - Đại Ngãi và Sóc Trăng - Bạc Liêu. Trên những giồng cát, phum
sóc của người Khmer được hình thành xung quanh các ngôi chùa cổ
kính. Riêng ở hai huyện Vĩnh Châu và Long Phú, người Khmer chiếm
một nửa dân số của huyện và tập trung ở các xã sát lộ ven biển. Còn ở các
huyện ven biển tỉnh Bạc Liêu, người Khmer đến cư trú khá muộn, cách
đây khoảng 100 năm. Phần lớn họ là những nông dân nghèo, không có
đất ở các vùng trên chuyển xuống làm công cho các đồn điền của địa
chủ người Pháp và người Việt. Phum sóc của họ quy tụ lại thành những
nhóm nhỏ, trải dài theo những con lạch ở giữa các khu rừng thưa.
Nhìn chung, cư dân Khmer ở vùng ven biển Sóc Trăng - Bạc Liêu,
ngoại trừ các vùng từ Sóc Trăng trở lên được khai thác từ rất sớm, đất
đai màu mỡ, còn các xã ven biển là những vùng ngập nước lớn, chưa thu
hút được cư dân cư trú vì đất thấp và lầy lội. Đặc trưng nổi bật của vùng
này là sự cư trú xen kẽ giữa người Khmer, Việt và Hoa dẫn đến sự hòa
nhập một cách sâu sắc về văn hóa tộc người giữa các dân tộc, tạo nên
yếu tố văn hóa chung của vùng.
- Vùng ven biên giới Châu Đốc, Tri Tôn, Hà Tiên
Vùng này còn được gọi là vùng núi Tây Nam, gồm khu tứ giác Long
Xuyên, khu núi cao dọc biên giới Campuchia thuộc dãy Bảy Núi và một
số núi nhỏ khác như núi Sập, núi Ba Thê.
Cư dân Khmer ở vùng này thuộc hai tỉnh biên giới Tây Nam là An
Giang và Kiên Giang. Tại tỉnh An Giang, người Khmer tập trung chủ
yếu ở huyện Tri Tôn, tiếp theo là các huyện Tịnh Biên, Huệ Đức, Châu
Thành, các huyện khác số lượng người Khmer không đáng kể. Ở tỉnh
Kiên Giang, người Khmer phân bố rải rác khắp các huyện. Trong đó,
đông nhất ở các huyện: Châu Thành, Gò Quao, Giồng Riềng, Hà Tiên,
An Biên và thị xã Rạch Giá.
Khác với người Khmer ở nội địa và ven biển, người Khmer ở đây
ở trên những đồi hoặc ven chân núi quanh dãy Bảy Núi. Phum sóc có
380 VÙNG ĐẤT NAM BỘ VIII THIẾT CHẾ QUẢN LÝ XÃ HỘI

dạng dọc dài, vành khăn hay hoa cải. Ngoài ra, người Khmer còn cư trú
ven các thị trấn, thị xã như Tri Tôn, Hà Tiên, Rạch Giá và mặc dù sống
ven các thị tứ nhưng họ vẫn theo thói quen cư trú theo từng phum, sóc
và làm ruộng nước.

b) Các loại hình tụ cư


Các hình thái quần cư của các dân tộc phụ thuộc vào hàng loạt
yếu tố: điều kiện địa lý môi sinh, lịch sử tộc người, trình độ phát triển
kinh tế - xã hội, các loại hình kinh tế, sự phát triển dân số, sự phân
bố dân cư của các dân tộc trên khu vực cụ thể, sự tác động của các tổ
chức chính quyền nhà nước và mối quan hệ giữa các dân tộc trong
lịch sử... Tất cả các yếu tố này quy định hình thức, phương thức cư trú
và tập quán cư trú của mỗi dân tộc.
Căn cứ vào địa lý môi sinh, nhìn một cách tổng quát trên toàn vùng
đồng bằng sông Cửu Long, nơi có người Khmer sinh sống nhiều và tập
trung nhất, có thể quy thành năm hình thức tụ cư chủ yếu của người
Khmer như sau.
- Hình thức cư trú trên đất giồng
Đây là hình thức cư trú phổ biến nhất và cũng là hình thức cư trú
sớm nhất của người Khmer ở đồng bằng sông Cửu Long, tập trung chủ
yếu ở các tỉnh Trà Vinh, Vĩnh Long, Sóc Trăng, Cần Thơ. Giồng có hai
loại: giồng duyên hải và giồng ven sông. Đất giồng là loại phù sa cổ, trên
mặt là đất cát pha thịt, dưới sâu là đất sét, dễ thoát nước, đất đai khô ráo
và không bị nhiễm mặn. Đây vốn là những dải đất vùng duyên hải xưa
bị quá trình mở rộng đồng bằng ra phía biển bỏ lại.
Những đất giồng nơi người Khmer cư trú là các loại giồng duyên
hải, làm thành một hệ thống giồng nằm song song nhau và song song
với bờ biển Đông. Chiều dài các giồng khác nhau, giồng lớn dài trên 10
km, giồng cụt chỉ 1 đến 2 km, thậm chí có giồng chỉ vài trăm mét. Nhờ
có vị trí cao, nổi lên giữa vùng đất trũng, những lớp cư dân Khmer đầu
tiên đến ở vùng đồng bằng sông Cửu Long đã chọn giồng làm nơi trú
CHƯƠNG V: THIẾT CHẾ TỰ QUẢN CỦA NGƯỜI KHMER... 381

chân. Rồi tại đây họ làm nhà ở, làm đường sá đi lại, trồng cây ăn trái,
thuần hóa đất hoang thành đất canh tác, dựng chùa... và định cư tập
trung thành các phum sóc, uốn theo kích thước và chiều hướng của đất
giồng. Sự có mặt của các ngôi chùa cổ trên dưới 400 - 500 năm tuổi cùng
với những câu truyện cổ tích về quá trình định cư khai khẩn đất hoang
là những minh chứng cho sự có mặt lâu đời của người Khmer ở đây.
- Hình thức cư trú trên đất ruộng
Vào thế kỷ XVIII - XIX, công cuộc khai khẩn đồng bằng sông Cửu
Long ngày càng được đẩy mạnh. Cùng với việc di cư của người Việt
vào sâu các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long và chính sách mộ dân khai
khẩn ruộng đất của triều Nguyễn, đất đai canh tác ngày càng được
mở rộng. Đến cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, do áp lực của việc tăng
nhanh dân số của người Khmer và việc đất đai hoang hóa ngày càng
hiếm, những vùng đất tốt, màu mỡ đã khai phá gần hết, rừng hoang,
bưng bãi hẹp dần, người Khmer phải đi xa hơn, khai phá những mảnh
đất cằn cỗi, đó là bưng phèn ở các vùng ngập mặn, chỉ có thể cấy lúa
một vụ. Dưới áp lực dân số, những giồng đất không còn đủ sức chứa,
mật độ cư dân ngày càng đông; mặt khác, để tiện lợi trong việc gần đất
canh tác, các phum sóc chật chội được chia ra, người Khmer bắt đầu
chuyển xuống đất ruộng để thành lập các phum sóc mới. Tài liệu địa
danh học giúp cho chúng ta giải thích hiện tượng này, một số tên sóc
ở vùng đất ruộng có kèm theo chữ Thmei (mới) và Sre (ruộng), như
sóc Srê Xiêm gần Trà Cú, sóc Srê Tô gần Rạch Giá...
Ở những vùng, này người Khmer tập trung thành các khu quây
tròn hay trải dài hoặc phân tán trên đất ruộng phù sa. Càng sâu vào nội
địa, các cụm phum sóc hầu như cô lập giữa vùng trũng - đất thịt. Tuy cư
trú ở đất ruộng nhưng người Khmer vẫn đắp đất thành các giồng nhân
tạo rồi dựng phum sóc mới trên đó. Đây là một kiểu cư trú độc đáo,
phản ánh một tập quán cư trú đã thành thói quen và khả năng thích ứng
một cách sáng tạo của người Khmer trong cuộc đấu tranh sinh tồn và
khai phá vùng đất mới.
382 VÙNG ĐẤT NAM BỘ VIII THIẾT CHẾ QUẢN LÝ XÃ HỘI

- Hình thức cư trú ven theo kênh và các con lạch nhỏ
Cũng như người Việt, người Hoa, một hình thức cư trú khá phổ
biến của người Khmer là cư trú dọc theo ven sông, kênh và các con
rạch nhỏ. Những phum sóc ven theo các con kênh tự nhiên là nơi sinh
cơ lập nghiệp khá lâu đời của người Khmer, so với loại hình cư trú trên
đất ruộng. Ở đây còn bảo lưu nhiều yếu tố văn hóa cổ truyền với sự có
mặt của những ngôi chùa cổ kính. Phum sóc ở đây không còn đậm đặc
như ở đất giồng, các ngôi nhà của người Khmer được làm nối tiếp nhau,
quay mặt ra kênh, trông giống như làng xóm của người Việt, phía sau có
mảnh vườn nhỏ, có khi có ao cá, xa hơn là đất ruộng. Khuôn viên của
mỗi gia đình được bao bọc bởi một vòng mương là ranh giới giữa các
hộ. Mỗi phum sóc có thể có hai hay ba lớp nhà như vậy nằm song song
dọc theo kênh
Ven theo những con kênh đào, người Khmer thường lấy đất đào từ
dưới lòng mương lên đắp hai bên bờ và cư trú trên đó. Số lượng phum sóc
tương ứng với những mảnh ruộng được tưới nước dọc theo kênh. Hình
thức tụ cư dọc theo kênh đào này có lẽ được mở ra từ lúc Thoại Ngọc Hầu
đào cảng Đông Xuyên (năm 1818) trở về sau và phát triển mạnh cùng với
việc người Pháp đào kênh Xáng.
Ngày nay, hình thức tụ cư dọc theo kênh đào vẫn đang được hình
thành ở một vài nơi. Việc vận động và đưa dân từ đất giồng ra ở ven các
kênh trên đất ruộng đã trở thành một chính sách phát triển kinh tế của
các địa phương.
- Hình thức cư trú dọc theo trục lộ giao thông
Khác với người Việt và người Hoa trong vùng, trước đây người
Khmer không có thói quen cư trú dọc theo các trục lộ giao thông mà
thường bám đất giồng và các kênh, rạch để tụ cư, thuận lợi cho sản
xuất nông nghiệp và đi lại. Nhưng ngày nay, vẫn thấy một bộ phận
người Khmer ở dọc theo các trục lộ giao thông lớn nhỏ. Hình thức
CHƯƠNG V: THIẾT CHẾ TỰ QUẢN CỦA NGƯỜI KHMER... 383

tụ cư dọc theo các trục lộ giao thông của người Khmer là hệ quả của
việc mở rộng mạng lưới giao thông đường bộ ở đồng bằng sông Cửu
Long, nhằm nối các thị tứ, tỉnh lỵ với nhau và với Sài Gòn của người
Pháp. Do điều kiện địa hình, nên những con đường đầu tiên được
thiết lập trên các giồng đất hoặc nối các giồng đất lại với nhau, ven
các dòng sông và các kênh đào lớn. Vì vậy, các trục lộ giao thông
vô hình chung đã xuyên qua các phum sóc của người Khmer. Hình
thức tụ cư dọc theo đường giao thông không phải để đáp ứng nhu
cầu phát triển kinh tế thương nghiệp - dịch vụ, vốn không phải là
sở trường của người Khmer, trong các phum sóc dọc theo các tuyến
giao thông người Khmer vẫn chủ yếu làm ruộng, chỉ một số rất ít
chuyển sang buôn bán hay làm các nghề dịch vụ khác.
- Hình thức cư trú dạng vành khăn ven chân núi
Ở vùng biên giới với Campuchia thuộc hai tỉnh An Giang và Kiên
Giang có các dãy Thất Sơn, núi Sập, núi Vọng Thê, phum sóc của
người Khmer được thiết lập quanh sườn đồi, ven chân núi thành từng
lớp hình “vành khăn”, từ chân núi tiến dần ra những phần ruộng
và những con kênh chung quanh. Ở đây người Khmer Việt Nam và
người Khmer ở bên kia biên giới Campuchia thường xuyên đi lại giao
lưu, tiếp xúc với nhau, vì vậy, trong lối sống và văn hóa của họ có ảnh
hưởng nhiều yếu tố từ bên ngoài.
Như vậy, tùy theo những vùng môi sinh khác nhau mà ở mỗi
vùng có những hình thái tụ cư khác nhau để thích ứng với môi
trường. Do đặc điểm của sự phân cư dân tộc, tính chất cư trú của
người Khmer cũng khác nhau ở hai hình thái: sóc thuần Khmer và
sóc hỗn hợp Khmer - Việt, Khmer - Hoa. Nhưng dù môi sinh có
khác nhau, thành phần tộc người có khác nhau, xét về cấu trúc xã hội
của người Khmer, hầu như không thay đổi ở các vùng. Đây là yếu tố
quan trọng nhất giúp người Khmer bảo lưu và giữ gìn truyền thống
văn hóa tộc người của mình. Phum sóc Khmer chính là cái khung
384 VÙNG ĐẤT NAM BỘ VIII THIẾT CHẾ QUẢN LÝ XÃ HỘI

văn hóa - xã hội để trong đó văn hóa Khmer nảy nở, phát triển và lưu
truyền cho tới ngày nay.

II- THIẾT CHẾ TỰ QUẢN GẮN VỚI ĐƠN VỊ TỤ CƯ

Sinh tụ lâu đời trên vùng đất Nam Bộ và vốn là cư dân nông nghiệp
chuyên canh lúa nước, để tồn tại, phát triển và duy trì truyền thống văn
hóa tộc người của mình, người Khmer Nam Bộ đã tập hợp nhau lại
thành những đơn vị cư trú và tổ chức nó thành những đơn vị xã hội tự
quản truyền thống thích ứng với nền kinh tế nông nghiệp, với hai thiết
chế xã hội là phum và sóc (srok). Trong đó, phum là thiết chế xã hội nhỏ,
các phum hợp lại thành sóc - là thiết chế xã hội hoàn chỉnh. Trong điều
kiện sống biệt lập trong một thời gian dài không bị sự chi phối và quản
lý hành chính của bất cứ quốc gia nào thời đó1, khi mà sự phân hóa giai
cấp diễn ra chưa sâu sắc, tính cộng đồng của những người cùng số phận
được đề cao và tính dân chủ, bình đẳng giữa các thành viên trong phum,
sóc cũng được coi trọng, vì vậy bộ máy quản lý phum, sóc được tổ chức
trên cơ sở tự quản với nhiều yếu tố dân chủ công xã. Thêm nữa, khi đến
tụ cư ở vùng Nam Bộ, người Khmer đã mang theo tôn giáo của mình -
Phật giáo Tiểu thừa - được thịnh hành từ thế kỷ XIII và tại nơi này Phật
giáo Tiểu thừa vừa đáp ứng nhu cầu tâm linh của nhân dân, đồng thời là
chất cố kết để quy tụ mọi thành viên trong cộng đồng sống theo giáo lý,
nghi lễ nhà Phật. Yếu tố văn hóa tộc người của cư dân nông nghiệp lúa
nước được kết hợp với yếu tố văn hóa Phật giáo, không chỉ ảnh hưởng
đậm nét vào lối sinh hoạt văn hóa vật chất và tinh thần, mà còn ghi dấu
ấn rõ nét trong bộ máy tự quản truyền thống của người Khmer Nam Bộ.
Đó là bộ máy tự quản phum, sóc và bộ máy quản lý nhà chùa quan hệ
chặt chẽ với nhau, mặc dù có sự biến thiên trong lịch sử, nhưng vẫn có
ảnh hưởng to lớn cho đến ngày nay.

1. Xem Mạc Đường: Vấn đề dân cư và dân tộc ở đồng bằng sông Cửu Long vào
những năm đầu thế kỷ XX, tạp chí Nghiên cứu lịch sử, số 4, 1982, tr. 34-43.
CHƯƠNG V: THIẾT CHẾ TỰ QUẢN CỦA NGƯỜI KHMER... 385

1. Thiết chế tự quản phum


a) Phum - một đơn vị cư trú
Phum trong tiếng Khmer có nghĩa là “đất”, “thổ cư” hay vườn tổng
hợp của gia đình trên đất ở. Với một nghĩa khác, phum có nghĩa là “vườn”.
Bùi Khánh Thế cho rằng, từ “phum” trong tiếng Khmer có nguồn gốc
từ tiếng Sansckrit “Bhumitra”, có nghĩa là đất của bạn bè một vương tử.
Trong ngôn ngữ của các nước chịu ảnh hưởng của văn hóa Ấn Độ, nó
được chuyển nghĩa thành “xứ”, chỉ nơi cư trú của một nhóm nhỏ cư dân.
Theo Nguyễn Xuân Nghĩa, “phum” gốc là tiếng Sansckrit “Bhumi” (mảnh
đất, đất đai)1.
Trên thực tế, phum là đơn vị tụ cư của người Khmer có ít nhất từ
một gia đình trở lên, thường là 5 -7 gia đình, có khi đến 9 - 10 gia đình,
cùng cộng cư trên một khu đất nhất định. Những thành viên của phum
có mối quan hệ huyết thống và quan hệ hôn nhân với nhau.
Nhìn khái quát diện mạo chung, phum là một khu vườn có lũy tre
hay cây dại làm thành hàng rào bao bọc, có cổng trước, cổng sau. Bên
trong phum, bên cạnh các ngôi nhà thường có đống rơm, chuồng trâu
bò, nhà tắm, giếng nước, những mảnh vườn nhỏ để trồng rau hay trồng
cây ăn quả và đáng lưu ý là có một miếu nhỏ thờ Arăk. Tùy theo từng
phum mà khu vườn có thể lớn hay nhỏ, có khi chỉ một công đất, nhưng
thường là từ 5 đến 7 công. Các phum thường ở sát nhau và được phân
chia bằng hàng rào tre hoặc một bờ cây dại có gai.
Phum có tên gọi riêng, thường là gọi theo tên của người lập ra
phum. Tên gọi của phum được thay thế khi người chủ phum mất,
truyền lại chức “mê phum” cho một người nào đó trong phum và tên
phum sẽ theo tên người chủ phum mới. Ngoài ra, có loại tên gọi của
phum liên quan tới vị trí địa lý hay một sự tích nào đó (như phum Đôn

1. Xem Nguyễn Khắc Cảnh: Các loại hình công xã của người Khmer ở đồng
bằng sông Cửu Long, luận án tiến sĩ, Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân
văn - Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, 1997, tr.47.
386 VÙNG ĐẤT NAM BỘ VIII THIẾT CHẾ QUẢN LÝ XÃ HỘI

Nay - phum Thiêu Người chết, phum Chong Pri - phum Ngọn Rừng,
phum Chọt Trô Ca - phum Hẻm Cây Gạo, phum Sra Prók - phum
Giếng tiên Nữ)...
Các gia đình trong phum thường có ba hình thức cư trú chủ yếu.
Hình thức khá phổ biến là các gia đình làm nhà (nhà ở và nhà bếp)
san sát liền nhau, không có lối ngăn, thành một dãy dài ngoảnh mặt
ra đường. Hình thức cư trú thứ hai là ở những phum đất hẹp, các
ngôi nhà được bố trí thành hai dãy dài đối điện với nhau và cách
nhau một khoảng trống ở giữa làm lối đi lại, sân chơi cho trẻ em và
cũng là sân phơi. Hình thức thứ ba, ở những phum có đất rộng, các
ngôi nhà được bố trí rải rác trong phum, không nhất thiết phải liền
dãy hay thẳng hàng, mỗi ngôi nhà tách rời nhau chiếm một khoảng
không gian trong phum, nhưng giữa chúng không có hàng rào ngăn
cách mà chỉ có lối đi lại.

b) Phum - một đơn vị xã hội


Phum của người Khmer Nam Bộ là một đơn vị tụ cư đồng thời là
một đơn vị xã hội trong đó chứa đựng hai mối quan hệ chủ đạo, tạo nên
sự liên kết xã hội giữa các thành viên trong phum, đó là quan hệ huyến
thống và quan hệ hôn nhân, ngoài ra còn có những quan hệ khác như
kinh tế, xã hội, tình cảm và tôn giáo...
Cơ cấu của phum bao gồm các gia đình nhỏ (gia đình hạt nhân)
và, trong một số trường hợp, gia đình lớn (gia đình không phân chia).
Mỗi gia đình có nhà ở riêng, cơ sở kinh tế riêng (ruộng đất, trâu bò,
dụng cụ sản xuất...). Tuy vậy, các gia đình trong phum đều có trách
nhiệm và nghĩa vụ cưu mang, giúp đỡ, tương trợ kinh tế, gắn bó tình
cảm với nhau. Mỗi thành viên trong phum đối xử với nhau theo tinh
thần là những người thân thuộc và không có sự phân việc bên nội
bên ngoại, con cả hay thứ, con dâu, con rể. Trong phum, các gia đình
sống với nhau hòa thuận, êm đẹp, ít có trường hợp xung đột. Quan hệ
tốt đẹp này xuất phát từ mối cộng cảm của những người cùng chung
CHƯƠNG V: THIẾT CHẾ TỰ QUẢN CỦA NGƯỜI KHMER... 387

huyết thống, hôn nhân, lại được nuôi dưỡng bởi tinh thần Phật giáo
đề cao sự bố thí, làm phước, sống trong sáng, ngay thẳng, không làm
điều xằng bậy...
Phum có đất thổ cư và đất canh tác riêng. Mảnh đất tụ cư của phum
trên đất giồng do ông bà khai phá để lại cho con cháu và người chủ sở
hữu là mê phum. Khi con trai lấy vợ về làm dâu hay con gái lấy chồng về
ở rể, họ xin phép mê phum xin một miếng đất ở ngay trong khuôn viên
của phum để cất nhà. Trong phum còn có vườn tạp, các gia đình trong
phum muốn lấy củi, lấy tre làm nhà phải được mê phum đồng ý và cho
phép. Đất thổ cư rộng hẹp khác nhau tùy từng phum. Ngoài đất ở và đất
vườn, trong phum còn có những công trình xây dựng chung như giếng
nước, chuồng trâu bò, sân phơi... Đất canh tác (ruộng hay rẫy) thuộc
quyền sở hữu của các gia đình thành viên của phum. Số đất này, khi có
con trai lấy vợ, con gái lấy chồng các gia đình chia đều không phân biệt
trai, gái.
Các thành viên trong phum có chung một loại ruộng giống như
ruộng hương hỏa của người Việt mà người Khmer gọi là “đây chơn
thuk” (đất chân nhang). Đây là loại ruộng có nguồn gốc là ruộng đất
tư của cha mẹ. Khi chia ruộng đất cho các con, cha mẹ để lại một ít đất
ruộng để sinh sống lúc tuổi già, sau khi cha mẹ qua đời phần ruộng
đó được sử dụng làm ruộng “chơn thuk”. Nguồn gốc của nó có thể do
ảnh hưởng của loại ruộng hương hỏa của người Việt. Có hai cách chia
ruộng chân nhang:
- Nếu gia đình khá giả thì ruộng chân nhang được chia đều cho các
con; mỗi người sẽ dùng hoa lợi thu được đóng góp vào việc cúng ông
bà và làm phước.
- Nếu gia đình ít ruộng, đất chân nhang được các con luân phiên
nhau canh tác và hằng năm nộp hoa lợi cho phum.
Việc phân chia canh tác ruộng “chơn thuk” không phân biệt trai, gái,
con nuôi, con đẻ, mọi người đều có trách nhiệm và nghĩa vụ như nhau.
388 VÙNG ĐẤT NAM BỘ VIII THIẾT CHẾ QUẢN LÝ XÃ HỘI

Theo tục lệ của người Khmer, ruộng “chơn thuk” cấm mua bán,
sang nhượng, cầm cố. Ruộng “chơn thuk” được lưu truyền từ thế hệ
này qua thế hệ khác thành tài sản chung của phum. Tuy nhiên, trong
quá trình phân hóa và biến động, số lượng ruộng chân nhang dần dần
biến thành tài sản riêng của các gia đình hạt nhân. Ruộng chân nhang
thường không nhiều, khoảng từ 3-5 công đến 9-10 công. Hoa lợi của
ruộng chân nhang chủ yếu dùng vào việc cúng giỗ ông bà, cha mẹ, hoặc
những người trong gia đình, dòng họ đã khuất. Thường việc cúng giỗ
này tiến hành vào ngày Tết truyền thống của người Khmer, đặc biệt là
ngày lễ “Đôn ta”. Hoa lợi đôi khi còn được sử dụng khi trong gia đình có
tang ma, cưới xin phải chi phí tốn kém.
Việc quản lý các phum do các “mê phum” (mẹ phum) đảm nhiệm.
Trên thực tế, mê phum thường là những người đàn ông (đôi khi là người
đàn bà) lớn tuổi có uy tín. Ở đây khó tìm ra được một quy tắc nào quy
định các tiêu chuẩn để trở thành mê phum. Mê phum thường là người
được thừa hưởng từ sự thừa kế của mê phum trước đó. Sự thừa kế này
có tính đến khả năng và tư cách đạo đức. Thường mê phum là người
lớn tuổi, nhưng không phải là già nhất, đảm nhận chức năng quản lý
công việc nội bộ của phum, cũng như thay mặt phum liên hệ công việc
với các phum khác, với nhà chùa và cả tổ chức chính quyền ấp, xã. Mê
phum là người có quyền cho những người thân thuộc sử dụng đất đai
cư ngụ trong phum, đốn tre gỗ, lấy củi... Mê phum là người đứng ra giải
quyết mọi công việc trong nội bộ phum khi có sự xích mích, bất hòa
giữa các thành viên trong phum. Để giải quyết những mâu thuẫn này,
biện pháp chủ yếu là hòa giải, thông qua dư luận và ý kiến của các thành
viên để điều chỉnh theo phương thức tự quản. Mỗi khi trong phum có
những công việc như ma chay, cưới xin, sinh đẻ, làm nhà mới..., các
thành viên trong phum hỏi ý kiến mê phum và được giúp đứng ra tổ
chức lo công việc. Để điều hành công việc, mê phum bàn bạc với các
hộ gia đình về việc đóng góp tiền bạc, lúa gạo, công sức và vật liệu phụ
CHƯƠNG V: THIẾT CHẾ TỰ QUẢN CỦA NGƯỜI KHMER... 389

giúp hộ gia đình có việc. Dĩ nhiên, trách nhiệm chính vẫn là các tiểu gia
đình đảm nhận khi có gia sự. Hằng năm mê phum còn có trách nhiệm
đôn đốc các gia đình đưa những con, cháu đã đến tuổi vào tu học ở các
chùa để họ trưởng thành về mặt nhân cách. Mê phum còn là người đứng
ra tổ chức các nghi thức tín ngưỡng tôn giáo có liên quan đến dòng họ
như “chol Arăk phum” (cúng thần dòng họ của phum) hoặc “Neak tà
phum” (lễ cúng thần bảo hộ phum), tổ chức lễ cúng tổ tiên trong ngày
lễ Đôn ta.
Mê phum là người đại diện cho cộng đồng phum để giao tiếp với
các phum khác, với nhà chùa và tổ chức chính quyền xã ấp. Mê phum,
trong một số trường hợp, còn tham gia vào ban quản trị chùa hay người
đứng đầu các wel (tổ chức của tín đồ Phật giáo theo địa vực) để truyền
đạt lại ý kiến, công việc của nhà chùa khi có Phật sự (tổ chức lễ hội, dâng
cúng tiền bạc, đóng góp xây dựng chùa và làm phước cho chùa) đến
các thành viên trong phum. Mê phum là người đứng ra tổ chức quyên
góp tiền bạc, lương thực của các thành viên trong phum dâng hiến cho
chùa, đôn đốc các thành viên tham gia công ích như làm đường, vệ
sinh phum, sóc, làm các công trình công cộng. Mê phum cũng là người
thay mặt phum tiếp xúc với chính quyền ấp, xã, đề đạt ý kiến nhằm giải
quyết những công việc trong phum. Và tổ chức chính quyền ấp, xã địa
phương, khi giải quyết những vấn đề dân sự liên quan tới các thành viên
trong phum cũng thường hỏi ý kiến mê phum.
Sự gắn bó của các thành viên trong phum còn thông qua sự cộng
cảm về mặt tín ngưỡng và tôn giáo. Người Khmer Nam Bộ có một
loại hình tín ngưỡng khá phổ biến là Arăk mà họ quan niệm là “thần
bảo vệ”, “thần giữ gìn” hay “ma quỷ” không có hình dáng biểu hiện rõ
rệt và tính thiện ác cũng khó phân biệt. Một số nhà nghiên cứu trước
đây gán cho Arăk ý nghĩa đơn giản là “linh hồn”, “quỷ”... Cũng có
người muốn xác định Arăk là thần bảo hộ đặc biệt của các gia đình.
Vùng Trà Vinh, nếu so với Sóc Trăng, có thể xem là địa phương có
nhiều miếu thờ Arăk. Ở đây 1/3 số phum có miếu thờ Arăk, là một
390 VÙNG ĐẤT NAM BỘ VIII THIẾT CHẾ QUẢN LÝ XÃ HỘI

cái chòi nhỏ ở ngoài trời, làm theo kiểu nhà sàn, lợp bằng tranh hay
lá dừa nước, bên trong để một đoạn thân cây chuối, trái dừa tươi,
trên có đặt lá trầu cắm hương, một số vật trang trí bằng giấy màu
kiểu hình tháp. Vài ba năm một lần, vào khoảng tháng 3 - tháng 4
âm lịch, các dòng họ tổ chức cúng Arăk theo lễ vật riêng biệt, để cám
ơn các Arăk đã phù hộ cho mọi người được khoẻ mạnh, người bệnh
được khỏi bệnh. Hoặc trong dịp lễ năm mới (Chol Chnam Thmei),
người Khmer dựng một cái chòi ngoài ruộng, đặt một con gà làm lễ
vật cúng Arăk phum. Ngày thường khi trong phum có người bị ốm
đau, bệnh tật người ta cũng thường tổ chức cúng Arăk phum. Mê
phum là người lo nhang đèn mỗi chiều tối để cầu mong Arăk phum
xua đuổi những điều xấu xảy ra trong phum.
Mối cộng cảm huyết thống đặc biệt còn được thể hiện trong việc
tổ chức lễ cúng ông bà (Pi thi sen Đônta). Đây là lễ lớn nhất của người
Khmer, được tổ chức trong ba ngày mỗi năm, từ ngày 29-8 cho đến
ngày 1-9 âm lịch, để tưởng nhớ công ơn ông bà, cha mẹ, họ hàng và
cầu phước cho linh hồn những người đã mất. Trong những ngày này,
anh em, con cháu thường tập trung lại để biếu bánh trái, quần áo cho
ông bà, cha mẹ (những người còn sống) và làm lễ cầu phước cho linh
hồn những người đã chết. Lễ Đôn ta còn là một dịp tổ chức hội vui,
giải trí nhằm thắt chặt thêm tình đoàn kết những người trong phum,
sóc có quan hệ họ hàng.

2. Thiết chế tự quản sóc


a) Sóc - đơn vị cư trú vĩ mô truyền thống của người Khmer
Trước hết, sóc là một đơn vị cư trú bao gồm nhiều phum, có quy
mô lớn nhỏ khác nhau. Trong tiếng Khmer, ý nghĩa của từ sóc cũng
vô cùng phức tạp. Theo nghĩa rộng, sóc có nghĩa là “xứ”, “vùng” (Srók
thleng: vùng kho, vùng hậu cứ, về sau được Việt hóa thành Sóc Trăng;
Neak ta méchar srók: ông tà chủ xứ), là “địa phương” (Neak srók: người
CHƯƠNG V: THIẾT CHẾ TỰ QUẢN CỦA NGƯỜI KHMER... 391

địa phương), là “quê hương” (Rô lức srók: nhớ quê hương). Sóc còn có
nghĩa là “vùng quê”, “miệt vườn” để phân biệt với vùng đô thị (Srók Srê:
vùng quê miệt vườn). Ở người Khmer Campuchia, sóc là đơn vị hành
chính tương đương cấp huyện, nhưng ở người Khmer Nam Bộ, sóc chỉ
một đơn vị cư trú đồng thời là một thiết chế xã hội tự quản truyền
thống. Sóc tương tự như làng của người Việt, hoặc “buôn”, “plei” của
một số dân tộc ở Trường Sơn - Tây Nguyên.
Các sóc cổ thường bố trí trên đất giồng, tùy quy mô giồng lớn
hay nhỏ, dài hay ngắn, rộng hay hẹp mà có sự cư trú khác nhau.
Thường mỗi sóc chiếm một khúc giồng. Giữa các sóc có quy định
ranh giới theo quy ước của dân các sóc với nhau. Ranh giới đó có thể
là rặng tre xanh, một con đường mòn cắt ngang giồng, một khoảng
trống hẹp hoặc có thể lấy mốc là một cây cổ thụ. Thông thường sóc
được xác định tương đối rõ qua ngôi chùa, thường mỗi sóc có một
ngôi chùa (trường hợp sóc có hai chùa hay hai sóc sinh hoạt chung
một chùa rất hiếm).
Nhìn khái quát, các sóc trên đất giồng thường có con đường lớn
chạy giữa sóc từ đầu giồng đến cuối giồng, hai bên là những dãy nhà của
các phum, hướng nhà quay mặt ra đường lớn. Tùy theo giồng rộng hay
hẹp mà có nhiều hay ít các lớp dãy nhà như vậy. Cắt ngang con đường
lớn là những con đường nhỏ, phân chia ranh giới giữa các phum với
nhau, chạy ngang qua các lớp dãy nhà phía sau ra tận đất ruộng. Chạy
dọc theo hai bên phía ngoài mép giồng - nơi giáp giữa đất giồng với đất
ruộng - là những con đường nhỏ cùng với lũy tre xanh. Có khi từ giồng
lớn lại có những giồng nhỏ tẻ nhánh hay có sự ngắt quãng bởi khu đất
hẹp thì một sóc có thể cư trú trên hai hay ba giồng. Ví dụ, sóc Trà Lé
nằm trên giồng Trà Lé, giồng Klây và giồng Trà Tao. Thông thường trên
một giồng lớn có từ 2 đến 5 sóc cùng cư trú.
Tên gọi của sóc thường trùng với tên giồng, nếu một giồng có nhiều
sóc thì tên sóc sẽ được gọi theo vị trí, phương hướng của sóc. Ví dụ, sóc
“Kan đal” (sóc Giữa), sóc “Talêch” (sóc Đông), sóc “Chông Phno” (sóc
392 VÙNG ĐẤT NAM BỘ VIII THIẾT CHẾ QUẢN LÝ XÃ HỘI

Của Giồng)... Có khi, tên sóc lại được gọi theo đặc điểm tự nhiên như
sóc “Chông Clak” (sóc Dừa Nước), sóc “Xăng Ke” (sóc Trâm Bầu), sóc
“Kôsa la” (sóc Cây Cau), sóc “Xoài Srụm” (sóc Cây Xoài Sai Quả), v.v..
Trong nhiều trường hợp, sóc được gọi theo một sự tích gắn liền với
cư dân địa phương, như sóc “Pen Săm Prekh” (sóc Lu Đồng Đen), sóc
“Khnách” (sóc Vũng Voi Nằm), sóc “Sầm đặch” (sóc Vua), v.v.. Ngoài ra,
ở nhiều nơi chúng ta còn thường gặp những tên sóc như sóc “Thmei”
(sóc Mới), sóc “Sre”(sóc Ruộng) đó là những sóc mới lập sau này hoặc
những sóc tách ra và tụ cư ngay ở trên đất ruộng (để phân biệt với sóc
ở trên đất giồng).
Ở vùng Trà Vinh, Vĩnh Long, đơn vị sóc thường trùng với đơn vị
hành chính là ấp hiện nay và quy mô của sóc có khoảng từ trăm hộ đến
vài ba trăm hộ với số dân khoảng từ 1.000 đến 2.000 người. Ví dụ, ở xã
Thanh Sơn, huyện Trà Cú, tỉnh Trà Vinh có 9 sóc người Khmer cùng
đồng nhất với đơn vị ấp1:
Ấp Sóc Trà: Sóc Tà Cụ;
Ấp Giồng Ông Thìn: Sóc Tà Thìn;
Ấp Trà Lé: Sóc Trà Lé
Ấp KoSala: Sóc Kosala (cây cau);
Ấp Trà Cú A: Sóc Tà Cụ;
Ấp Trà Cú B: Sóc Bần Tà Nuột;
Ấp Bãi Sào: Sóc Bãi Sào (cơm sống);
Ấp Bãi Sào Giữa: Sóc Chinexa (một loại cùng giống cây chà là gai);
Ấp Bãi Sào Chót: Sóc Xoài Srụm (xoài sai quả).

b) Thiết chế xã hội sóc


Việc quản lý xã hội truyền thống của sóc Khmer theo một cơ chế
khá đặc biệt, bao gồm quyền lực cộng đồng và vai trò của tổ chức Phật

1. Xem Nguyễn Khắc Cảnh: Các loại hình công xã của người Khmer ở đồng
bằng sông Cửu Long, Sđd, tr.98.
CHƯƠNG V: THIẾT CHẾ TỰ QUẢN CỦA NGƯỜI KHMER... 393

giáo Tiểu thừa. Cho đến trước ngày giải phóng năm 1975, hệ thống
quản lý và điều hành phum sóc mang tính chất truyền thống của người
Khmer Nam Bộ hầu như không còn nữa. Bộ máy quản lý của nhà nước
phong kiến và các chính thể sau này đã thay thế hệ thống quản lý cổ
truyền để điều hành các hộ Khmer trong sóc. Tuy nhiên, khi thiết chế
quản lý xã hội truyền thống của người Khmer tan vỡ, dấu ấn và sự ảnh
hưởng của nó vẫn còn chi phối không nhỏ tới nhiều mặt trong cuộc
sống của người dân Khmer.
Dấu vết bộ máy điều hành của sóc còn lưu lại đến ngày nay qua
khái niệm “Mê Srók” (Mẹ Sóc), tức là người đứng đầu sóc. Giúp việc
cho mê sóc là một ban do dân trong sóc lựa chọn bầu ra. Các thành
viên của ban này đảm nhận những công việc cụ thể của sóc như gìn
giữ an ninh, trật tự, phân phối nước làm mùa, tổ chức thực hiện các
nghi lễ trong việc hôn nhân, tang tế... Những người này hợp thành
một tổ chức gọi là “Kâ ma” (Ban quản trị sóc).
Mê sóc thường là người đàn ông đứng tuổi, am hiểu phong tục tập
quán dân tộc, biết chữ và có kinh nghiệm trong ứng xử, có khả năng
quan hệ ngoại giao với bên ngoài, nhưng trước hết phải là người có
uy tín trong nhân dân, được nhân dân kính trọng, vị nể và được sự tín
nhiệm của các con sóc (dân sóc) bầu chọn. Thường mê sóc xuất thân
từ những acha trong sóc (acha có thể là thầy giáo, thầy thuốc). Acha
cũng là người đã qua thời gian tu hành tại chùa và có học vấn nhất
định, họ là những trí thức ở nông thôn Khmer. Khá nhiều mê sóc là
acha thầy giáo trong sóc Khmer.
Với tính chất của một tổ chức xã hội tự quản, mê sóc và Ban quản
trị sóc có những chức năng sau đây:
- Trông coi điều hành các công việc chung thuộc nội bộ của sóc; gìn
giữ an ninh, trật tự trong sóc; giải quyết các xung đột, tranh chấp giữa
các phum hay giữa các gia đình.
- Trông coi quản lý những tài sản chung của sóc, như: chùa chiền,
miếu thờ neak, nhà thiêu xác, giếng nước, nhà nghỉ mát...; quản lý việc
394 VÙNG ĐẤT NAM BỘ VIII THIẾT CHẾ QUẢN LÝ XÃ HỘI

sử dụng những phần đất công của sóc, như: đất hoang hóa, bãi bồi, các
khu rừng tạp...
- Ghi nhận quyền sở hữu của các phần đất ruộng, vườn của các gia
đình trong sóc; xem xét và thông qua cộng đồng để cho phép những
người ngoài định cư hoặc quyết định sự phân chia sóc mới.
- Chăm sóc, giúp đỡ các gia đình thành viên của sóc khi họ gặp khó
khăn, khi có gia sự (cưới xin, ma chay...), các trẻ em mồ côi, người già,
người tàn tật.
- Tổ chức các công việc hữu ích xã hội chung, như: vệ sinh sóc, làm
đường, tu sửa những công trình công cộng, v.v..
Ngoài ra, mê sóc và Ban quản trị sóc còn thực hiện các công việc
đối ngoại. Mê sóc cùng Ban quản trị sóc chịu trách nhiệm xem xét và
giải quyết những tranh chấp về phạm vi lãnh thổ quản lý của sóc với sóc
khác. Quan hệ với các sóc lân cận trong việc tổ chức các lễ hội truyền
thống dân tộc, mang tính cộng đồng, như: đua ghe ngo, hát dù kê, v.v..
Một trong những trách nhiệm quan trọng của mê sóc và Ban quản
trị sóc là thường xuyên duy trì mối quan hệ giữa nhà chùa với các thành
viên trong sóc. Mê sóc và Ban quản trị sóc sẽ gặp gỡ và bàn bạc với vị
sư cả (Luk Gru) và Ban quản trị chùa và ông chủ chùa (Nhôm wat) về
những công việc có liên quan đến hoạt động của nhà chùa cũng như
các nghĩa vụ tôn giáo của các tín đồ trong sóc. Các mê phum, mê sóc sẽ
tham gia các buổi lễ cúng tổ chức trong chùa, các buổi làm phước của
dân trong sóc cúng hiến lễ vật cho nhà chùa.
Cơ chế quản lý truyền thống sóc vận hành dựa trên các phong tục
tập quán của người Khmer, mê sóc và Ban quản trị sóc hoàn toàn không
có ý nghĩa của bộ máy cai trị có nhiều đặc quyền, đặc lợi mà chỉ là
những người được sự ủy nhiệm của cộng đồng đứng ra điều hành công
việc chung của sóc. Cộng đồng sóc thông qua dư luận để điều chỉnh sự
vận hành mà trong đó phong tục tập quán Khmer như một định chế
để định hướng cho sự vận hành ấy. Mê sóc, trong một chừng mực nào
đó, quyết định và xử lý các công việc của sóc nhằm đảm bảo sự duy trì,
CHƯƠNG V: THIẾT CHẾ TỰ QUẢN CỦA NGƯỜI KHMER... 395

tồn tại của sóc, đảm bảo cho mối quan hệ giữa cộng đồng sóc và các
thành viên trong sóc được tốt đẹp nhất. Thực chất cơ chế quản lý sóc
Khmer mang tính tự quản, dư luận cộng đồng luôn luôn đóng vai trò
hiệu chỉnh hoạt động của sóc. Cơ chế đó nhằm đảm bảo cho quyền lực
ý chí và nguyện vọng của cộng đồng được thực thi một cách tối ưu.

3. Các hình thức sinh hoạt cộng đồng và ý thức cộng đồng phum sóc
Cho đến trước năm 1975, mặc dù đã xuất hiện những yếu tố tư
bản chủ nghĩa trong nông nghiệp, nhưng nhìn chung nông thôn người
Khmer Nam Bộ vẫn là một xã hội tiền tư bản chủ nghĩa. Phum sóc của
người Khmer Nam Bộ, so với làng xã người Việt ở Bắc Bộ trước Cách
mạng Tháng Tám năm 1945 và xét trên bình diện kinh tế, là một tổ
chức xã hội lỏng lẻo, vì nó thiếu một cơ sở kinh tế chung là ruộng đất
công của công xã. Sự tồn tại một ít ruộng đất công, mà thường là đất
xấu chưa được khai thác, không đủ đảm bảo cho sự cố kết cộng đồng
về mặt kinh tế.
Nhưng xét ở những phương diện khác thì phum, sóc Khmer Nam
Bộ lại là một kết cấu tương đối chặt, mang tính cộng đồng thể hiện trên
nhiều phương diện: trong loại hình cư trú, trong lao động sản xuất,
trong sinh hoạt văn hóa, tôn giáo - tín ngưỡng. Trên cơ sở của những
mối liên kết này hình thành một ý thức bền chặt về khối cộng đồng
phum sóc, làm cho phum sóc trường tồn trong lịch sử, trở thành đơn vị
xã hội cơ bản của xã hội người Khmer Nam Bộ truyền thống.

a) Cộng đồng trong lao động sản xuất


Mặc dù chế độ sở hữu tư nhân về ruộng đất và sự phân hóa giai cấp
chi phối nhiều mặt, song trong sinh hoạt kinh tế, tính cộng đồng còn
được biểu hiện khá rõ nét trong lao động sản xuất.
Từ trong buổi đầu khai hoang mở rộng diện tích canh tác, không
riêng một hộ gia đình nào có thể đơn độc mà làm được, việc khẩn
396 VÙNG ĐẤT NAM BỘ VIII THIẾT CHẾ QUẢN LÝ XÃ HỘI

hoang phải có sự bàn bạc nhất trí, giúp đỡ lẫn nhau giữa nhiều hộ gia
đình cùng làm. Đặc biệt là trong công việc xây dựng các công trình
thủy lợi, như: đào mương, đắp đập để ngăn mặn, xổ phèn và tưới tiêu
cho đồng ruộng. Tính cộng đồng thể hiện rõ nét trong việc tương
trợ, giúp đỡ lẫn nhau qua tập quán vần công, đổi công trong sản xuất
nông nghiệp mà người Khmer Nam Bộ gọi là “I ô đây”. Hình thức “I
ô đây” rất phổ biến để tập trung sức người cho kịp hoàn thành công
việc gieo trồng, cấy và thu hoạch đúng thời vụ. Một gia đình nông
dân Khmer đến ngày cần nhổ mạ, cấy lúa hay gặt hái sẽ nhờ các gia
đình khác trong sóc tập trung lao động vào một ngày nhất định để
làm cho dứt điểm công việc. Sau đó, gia đình này sẽ đến làm trả công
cho các gia đình khác khi họ yêu cầu.
Tập quán “I ô đây” không chỉ áp dụng trong công việc sản xuất mà
còn mở rộng ra trong các công việc khác như làm nhà, đào ao... Đó là
những công việc lớn, những sự kiện quan trọng mà chỉ riêng một gia
đình đứng ra lo liệu thì không đủ tiền của cũng như công sức để giải
quyết kịp thời trong một thời gian ngắn. Trong điều kiện đó người dân
trong phum, sóc sẵn sàng giúp đỡ lẫn nhau, tiến hành vần công, đổi
công, không nề hà, tính toán hơn thiệt. Mỗi khi trong gia đình có việc
làm nhà, đào ao... mọi người trong sóc, từ trẻ đến già, kể cả phụ nữ, nếu
rảnh rỗi đều tự nguyện đến tham gia công việc, chỉ cần chủ nhà có lời
mời và có bữa cơm đãi khách.
Tính cộng đồng của cư dân trong sóc còn thể hiện trong việc tham
gia lao động công ích và xây dựng những công trình công cộng như vệ
sinh, sửa sang đường cũ, làm đường mới, giếng nước công cộng và đặc
biệt là công việc xây dựng hay tu sửa chùa - một công việc đòi hỏi nhiều
công sức và tiền của của cư dân trong sóc.

b) Cộng đồng trong sinh hoạt văn hóa, tôn giáo tín ngưỡng
Cùng với cộng đồng trong sinh hoạt kinh tế, tính cộng đồng
trong sinh hoạt văn hóa, tôn giáo - tín ngưỡng được bảo lưu lâu dài
CHƯƠNG V: THIẾT CHẾ TỰ QUẢN CỦA NGƯỜI KHMER... 397

trong lịch sử. Ngoài việc đóng góp vào các việc công ích chung, trong
phum, sóc thường tổ chức các cuộc họp của dân sóc để bàn tổ chức
các lễ hội lớn của cộng đồng dân sóc như tết Năm mới (Pi thi Chôl
Chnam Thmây), lễ Đônta (Pi thi sen Đônta), lễ Cúng trăng (Bon som
pés Prés khe hoặc Ok om bok)... Đây là dịp để cộng đồng sóc tổ chức
các hình thức sinh hoạt văn hóa, văn nghệ, các trò chơi dân gian sôi
nổi, náo nhiệt như múa râm vông, biểu diễn rô bâm, hát dù kê với các
nhạc cụ dân tộc độc đáo, đặc biệt là dàn nhạc ngũ âm. Vào mùa lễ hội,
đến một sóc Khmer Nam Bộ, âm thanh đầu tiên mà người ta nghe
được là sự sôi động độc đáo của dàn ngũ âm. Sân chùa rộn rã, náo
nhiệt với những vòng múa râm vông hay sar van. Khi nhạc đã nổi lên,
mọi người hồ hởi dắt tay nhau ra vòng múa, cởi mở, vui tươi như một
thói quen tự nhiên. Đêm đến, mọi người tụ tập tại sân chùa nghe hát
dù kê, rô bâm và các hình thức diễn xướng khác. Trong những ngày
này, dân trong sóc và khách thường tụ tập ở chùa. Chùa được trang
hoàng đẹp đẽ, mở ra rất nhiều hàng quán với đủ các món ăn để phục
vụ người dân và khách thập phương. Ngôi chùa trong những ngày
này là một tụ điểm sinh hoạt văn hóa và vui chơi của người dân trong
vùng. Mỗi mùa lễ hội như vậy đòi hỏi mọi thành viên trong sóc phải
có trách nhiệm và nghĩa vụ đóng góp tiền bạc, lương thực và công
sức, trở thành loại hình sinh hoạt văn hóa dân gian kết nối cộng đồng
rất rõ nét ở vùng nông thôn Khmer Nam Bộ.
Gắn bó trong mối quan hệ cộng đồng như thế, mọi sự kiện to nhỏ,
vui buồn của từng gia đình đều được người dân trong sóc quan tâm,
cùng chia sẻ. Một đứa bé ra đời, sau bảy ngày được cha mẹ làm lễ cắt tóc
để trả ơn mụ, gia chủ làm một, hai mâm cơm, chè, hoa trái mời bà con
trong phum sóc cùng tới vui chung. Đến lễ giáp tuổi (12 tuổi) con trai
làm lễ xuất gia đi tu, được sư sãi và Ban quản trị chùa giúp đỡ chăm sóc,
dạy dỗ thành người có nhân cách, đạo đức của một tín đồ Phật giáo. Sau
thời gian tu học, người con trai hoàn tục về nhà lấy vợ; đám cưới là sự
kiện vui chung của cả phum sóc, có sư sãi đến tụng kinh cầu chúc cho
398 VÙNG ĐẤT NAM BỘ VIII THIẾT CHẾ QUẢN LÝ XÃ HỘI

đôi trai gái, bà con trong phum sóc được mời tới dự bữa cơm thân mật
trong mối cộng cảm của cộng đồng và ngược lại họ cũng tặng quà cho
đôi vợ chồng trẻ để tỏ lòng quý mến của mình.
Tang ma cũng là sự kiện hệ trọng cần phải có một số lượng người
nhất định để lo việc và nhiều khi xảy ra đột xuất mà gia đình chưa kịp
chuẩn bị cả về vật chất, tiền bạc và tinh thần. Vì vậy, khi một gia đình
có người thân qua đời thì không chỉ những người bà con gần ở trong
phum mà cả bà con trong sóc cũng đến chia buồn, giúp đỡ, san sẻ bớt
khó khăn. Họ tham gia mỗi người mỗi việc, dựng rạp, chuẩn bị những
món ăn, đón tiếp khách xa gần..., thậm chí cho vay cả tiền, gạo nếu chủ
nhà yêu cầu.
Có thể nói, từ thuở ấu thơ đến khi nhắm mắt xuôi tay, người
Khmer Nam Bộ luôn gắn bó với nhau trong mối quan hệ cộng đồng
phum sóc. Trong cuộc sống hằng ngày, các thành viên trong phum
sóc có mối quan hệ bình đẳng, thương yêu và giúp đỡ lẫn nhau. Trách
nhiệm của mỗi thành viên là nghiêm túc chấp hành các tập tục truyền
thống của phum sóc, gìn giữ sự đoàn kết và an ninh trong sóc, thực
hiện một cách tự giác nghĩa vụ đóng góp, phục vụ đối với các việc
công ích và đối với nhà chùa; gìn giữ mối quan hệ thân thiện, đoàn
kết, chung sống cùng nhau với các sóc láng giềng. Truyền thống
thương yêu giúp đỡ trong cộng đồng sóc được xem như một nghĩa vụ
và trách nhiệm của mỗi người và mỗi người lại được cộng đồng đánh
giá và quý trọng thông qua những nghĩa cử ấy. Việc chối từ giúp đỡ
người khác trong khó khăn, hoạn nạn sẽ bị người Khmer lên án và
phê phán nghiêm khắc. Người ở địa phương khác đến vùng Khmer
sẽ được đón tiếp nhiệt tình như là khách quý của phum, sóc. Những
người ở nơi khác, dù là người Khmer, Việt hay Hoa, đến làm ăn sinh
sống trong phạm vi của sóc đều được chấp thuận tương đối dễ dàng
và được bà con trong phum, sóc giúp đỡ nhiệt tình. Mối quan hệ giữa
những người chính cư với những người ngụ cư khá bình đẳng, gần
như không có sự phân biệt đối xử nào.
CHƯƠNG V: THIẾT CHẾ TỰ QUẢN CỦA NGƯỜI KHMER... 399

Trong các hình thức sinh hoạt cộng đồng, sinh hoạt Phật giáo Tiểu
thừa đóng một vai trò đặc biệt quan trọng, là chất men cố kết cộng đồng
bền chặt nhất và cũng là nét đặc thù nổi bật nhất của xã hội nông thôn
Khmer Nam Bộ.
Đối với người Khmer Nam Bộ ngôi chùa mang một tình cảm cực
kỳ sâu sắc. Một người Khmer khi sinh ra, lớn lên rồi về già cho đến
lúc chết, mọi buồn vui của cuộc đời đều gắn bó với ngôi chùa. Chùa là
biểu tượng tinh thần của cộng đồng sóc và đối với từng cá nhân. Việc
đóng góp công sức, tiền của xây dựng chùa là việc làm công đức, là
con đường đưa tới sự giải thoát. Người dân Khmer Nam Bộ sẵn sàng
đóng góp tiền của, công sức để xây dựng ngôi chùa sao cho khang
trang, lộng lẫy, trong khi họ chấp nhận sống nghèo túng trong những
căn nhà tranh nhỏ bé, lụp xụp. Chùa Khmer thường là một công trình
kiến trúc đồ sộ, vì vậy, rất tốn kém tiền bạc, công sức và thường phải
thi công trong một khoảng thời gian dài (có khi tới vài năm, có chùa
phải chia thành nhiều giai đoạn xây dựng, mỗi giai đoạn cách nhau
một vài năm). Mặc dù việc xây dựng chùa nhiều tốn kém nhưng nhân
dân sẵn sàng đóng góp một cách tự nguyện với tấm lòng sùng Phật
chân thành.
Bên cạnh Phật giáo, ở người Khmer Nam Bộ còn có một loại tín
ngưỡng khá phổ biến là Neak-ta (người Việt trong vùng thường gọi
là ông Tà) mà một số nhà nghiên cứu coi đó là thần bảo hộ công xã
sóc của người Khmer1. Đến các sóc của người Khmer Nam Bộ chúng
ta còn gặp rất nhiều thala (ngôi nhà sàn nhỏ nằm ở ngã ba đường để
mọi người nghỉ ngơi và tránh mưa nắng). Ở đây thường có miếu cúng
Neak-ta. Mặc dù là những Phật tử mộ đạo, người Khmer Nam Bộ vẫn
còn tin tưởng ở sự gieo họa hay ban phúc của Neak-ta. Có người đi

1. Xem Nguyễn Xuân Nghĩa: “Tàn dư tín ngưỡng Arăk và Neak Tà ở người
Khmer vùng đồng bằng sông Cửu Long”, tạp chí Dân tộc học, số 3, 1979.
400 VÙNG ĐẤT NAM BỘ VIII THIẾT CHẾ QUẢN LÝ XÃ HỘI

qua miếu Neak-ta vẫn bỏ mũ nón, khi bị bệnh hay muốn cầu xin điều
gì vẫn đến miếu Neak-ta. Khi có những ý kiến bất đồng không hòa giải
được thì Neak-ta là vị quan tòa chứng dám của lễ ăn thề (Về nguồn
gốc và các loại Neak-ta, xin xem thêm Phụ lục I).
Trong các Neak-ta đáng chú ý hơn cả là Neak-ta chủ xóm, và Neak-
ta chùa. Chỉ có hai loại Neak-ta này mới được dân trong sóc cúng định
kỳ hằng năm. Thông thường, mỗi năm dân sóc cúng Neak-ta một lần
sau lễ năm mới, trước khi mùa mưa đến. Tuy nhiên, lễ cúng này cũng
không đồng nhất ở hầu hết các địa phương. Miệt An giang, Kiên Giang
thường cúng trước hay liền sau teat, vùng Sóc Trăng và Trà Vinh lại
thường cúng vào tháng 5 hay tháng 6 dương lịch. Sự khác biệt này được
giải thích là do những cơn mưa đầu mùa bắt đầu ở vùng biển phía Tây
sớm hơn vùng nội địa một tháng.
Việc cúng Neak-ta cũng là yếu tố để cố kết nhân dân trong sóc. Khi
thiên tai, hạn hán hay dịch bệnh, tính mạng của toàn sóc bị đe dọa, các
con dân trong sóc họp nhau lại làm lễ Bon ban dan Neak-ta (lên đồng
Neak-ta) để nói và hỏi ý kiến về nguyên nhân của tai họa. Ngoài ra, hằng
năm trong mỗi sóc đều có làm lễ Cầu an (Bon can xan), ở những nơi có
Neak-ta Méchas Srók hoặc là người ở Wel (khu) nào cúng Neak-ta wel
(khu) đó.

c) Ý thức cộng đồng phum sóc

Từ các hình thức sinh hoạt cộng đồng đã tạo dựng và củng cố
mối quan hệ cộng đồng. Ý thức cộng đồng được nảy sinh và tồn tại
trên cơ sở cùng chung mục đích, nhu cầu, quyền lợi, trách nhiệm, vận
mệnh và là hệ quả của sự cộng cư, cộng sinh giữa những người cùng
phum sóc.
Ý thức đó được thể hiện qua tình cảm của mỗi người với phum sóc
của mình mà người Khmer gọi một cách thần tượng là “đất của ông, bà”,
CHƯƠNG V: THIẾT CHẾ TỰ QUẢN CỦA NGƯỜI KHMER... 401

“đất vườn”, “đất ở”, là “quê hương”, “xứ sở”, là mảnh đất nơi người ta sinh
ra, lớn lên rồi mất đi, là sự nối tiếp giữa các thế hệ cùng sống trên mảnh
đất này, kể cả người đang sống và người đã khuất.
Mặc dù hiện nay, những ranh giới hành chính ở nhiều vùng nông
thôn Khmer Nam Bộ không còn hoàn toàn trùng khớp với địa vực cư
trú của các sóc, nhưng trong tâm thức của người Khmer luôn luôn
bảo lưu hình ảnh phum sóc vốn có từ rất xa xưa. Cho đến nay người
nông dân Khmer Nam Bộ vẫn xác định không gian cư trú của mình
chủ yếu qua phum sóc. Hỏi một người nông dân Khmer, anh ở đâu,
đi đến đâu, thì họ sẽ trả lời ngay: “tôi ở sóc A, đang đi đến sóc B”, nếu
hỏi kỹ hơn thì họ sẽ trả lời sóc đó ở ấp C, ấp D... Chỉ trong các công
việc có tính chất hành chính người Khmer mới trả lời theo đơn vị ấp,
xã, huyện... Ý thức về nơi cư trú của mình đã ăn sâu vào tâm thức của
người Khmer, điều này còn được thể hiện qua những biểu tượng cụ
thể về tên sóc, tên giồng, về những sự tích liên quan tới nơi sinh, tới
quá trình khai khẩn ruộng đất và hình thành phum, sóc. Các tên sóc,
tên giồng, tên chùa được những người dân nhớ rất kỹ và trao truyền
lại cho các thế hệ con cháu.
Hầu hết người Khmer Nam Bộ vừa là thành viên của sóc vừa là một
tín đồ của Phật giáo (Tiểu thừa).
Là một tín đồ Phật giáo, người Khmer có ý thức và tình cảm rất
thiêng liêng đối với ngôi chùa của mình và lòng kính trọng, biết ơn đối
với tầng lớp sư sãi. Hầu hết người Khmer từ khi chào đời đã là người
theo đạo Phật; lớn lên được bố mẹ cho đi tu học tại chùa, được học
chữ, học giáo lý Phật giáo để trở thành người có nhân cách, có văn
hóa; đến khi qua đời thì tro cốt được giữ lại tại tháp cốt trong chùa.
Ngôi chùa là biểu tượng tinh thần, là con đường đi đến sự giải thoát
của mỗi Phật tử Khmer.
Là thành viên của sóc, mỗi cá nhân, gia đình đều có trách nhiệm
với cộng đồng và ngược lại cả cộng đồng có trách nhiệm đối với mỗi cá
402 VÙNG ĐẤT NAM BỘ VIII THIẾT CHẾ QUẢN LÝ XÃ HỘI

nhân. Chính ở đây, cá nhân hòa vào cộng đồng, không tách khỏi cộng
đồng và chịu sự chi phối ràng buộc lẫn nhau.
Như vậy, phum sóc của người Khmer Nam Bộ là một cộng đồng về ý
thức tâm lý và tình cảm. Xét về phương diện sinh hoạt cộng đồng, phum
sóc là một đơn vị xã hội khép kín mang tính hướng nội. Ở đó, tính cộng
đồng bền vững, sâu sắc và trường tồn và chính trong cái khung không
gian xã hội phum sóc ấy mà văn hóa tộc người của người Khmer nảy nở,
bảo tồn lâu dài và phát triển.

III- THIẾT CHẾ TỰ QUẢN GẮN VỚI QUAN HỆ HUYẾT THỐNG

1. Thiết chế gia đình người Khmer


Gia đình là một thiết chế xã hội, chịu sự chi phối của các điều kiện
kinh tế - xã hội và truyền thống văn hóa tộc người. Bên cạnh cái chung
đó, gia đình người Khmer Nam Bộ chịu sự chi phối sâu sắc của đặc
điểm quan hệ thân tộc của người Khmer và có những đặc trưng riêng
thể hiện ở nhiều khía cạnh như cấu trúc gia đình (quy mô, loại hình và
các mối quan hệ của gia đình), các chức năng cơ bản của gia đình cũng
như việc thực hiện các lễ tục trong sinh hoạt gia đình.

a) Cấu trúc gia đình người Khmer


- Loại hình gia đình
Gia đình người Khmer là các thành viên cấu trúc nên phum của
người Khmer Nam Bộ. Các gia đình trong phum thường trải qua một
quá trình hình thành phức tạp, qua nhiều hình thức trung gian chuyển
hóa nhau mà xuất phát điểm của nó là từ một gia đình gốc - gia đình
hạt nhân đầu tiên lập ra phum. Xét theo quan điểm về tiêu chí phân loại
gia đình của dân tộc học thì gia đình Khmer tồn tại dưới hai loại hình
cơ bản: gia đình lớn (gia đình phức hợp “extended family”) - chiếm tỷ lệ
nhỏ, thường có xu hướng nửa hạt nhân hóa và gia đình nhỏ (gia đình hạt
nhân “nuclear family”) là loại hình phổ biến.
CHƯƠNG V: THIẾT CHẾ TỰ QUẢN CỦA NGƯỜI KHMER... 403

+ Gia đình lớn (gia đình phức hợp “extended family”): Gia đình
lớn của người Khmer Nam Bộ được cấu tạo từ hai hay nhiều cặp vợ
chồng với hai, ba hay nhiều thế hệ cùng chung sống trong một mái
nhà, liên hệ với nhau bằng quan hệ hôn nhân và quan hệ huyết thống
theo cả dòng cha và dòng mẹ. Đó cũng là một đơn vị kinh tế có sở
hữu chung về nhà ở, ruộng đất, trâu bò, công cụ sản xuất và các tài
sản khác; cùng tổ chức sản xuất chung và hưởng thụ chung các thành
quả lao động. Đây là loại hình gia đình trung gian trong chu trình gia
đình hạt nhân hóa, thường được hình thành từ gia đình nhỏ theo hai
hình thức sau:
Một là, từ một gia đình nhỏ, khi các con lớn lên và có người xây
dựng gia đình, theo tập quán cư trú sau hôn nhân của người Khmer, đôi
vợ chồng trẻ được quyền chọn cư trú bên chồng hay cư trú bên vợ hoặc
cư trú nơi ở mới. Nhưng thông thường, để tạo lập một cuộc sống riêng,
đôi vợ chồng trẻ thường phải có thời gian ít nhất vài ba năm, nhất là đối
với những gia đình nghèo, nên họ ở chung với cha mẹ và những anh
chị em chưa lập gia đình (bên chồng hay bên vợ), để tích lũy về cơ sở
vật chất cho cuộc sống riêng. Trong thời gian ở chung, đôi vợ chồng trẻ
được nhận một căn phòng riêng trong nhà, số ruộng đất được cha mẹ
hai bên chia cho thường vẫn để cùng với các thành viên trong gia đình
canh tác chung, trong sinh hoạt vẫn ăn chung và sử dụng chung những
đồ dùng trong nhà. Trong thời gian này, họ có thể sinh con. Tình hình
ấy tạo nên một gia đình nhiều thế hệ: cha mẹ, đôi vợ chồng trẻ cùng
anh chị em chưa lập gia đình, con của cặp vợ chồng trẻ. Đến khi có đủ
điều kiện, đôi vợ chồng trẻ tách ra ở riêng, cũng có trường hợp phải ra
ở riêng sớm khi có anh, chị em khác lấy vợ hoặc lấy chồng về ở cùng
gia đình. Như vậy, xét về quy mô, cấu trúc, mối quan hệ giữa các thành
viên trong gia đình và cơ sở kinh tế của nó, có thể xem đây là loại hình
gia đình lớn (hay gia đình phức hợp, gia đình không phân chia). Đây là
một loại hình gia đình trung gian, có tính tạm thời để khi có điều kiện,
404 VÙNG ĐẤT NAM BỘ VIII THIẾT CHẾ QUẢN LÝ XÃ HỘI

các cặp vợ chồng sẽ tách ra thành gia đình nhỏ (gia đình hạt nhân). Vì
vậy, loại gia đình này luôn có xu hướng nửa hạt nhân hóa để trở thành
gia đình hạt nhân trong tương lai.
Hai là, trường hợp khi các con đã lần lượt có gia đình và ở riêng,
đến lúc cha mẹ già yếu, để có người chăm sóc thường xuyên, cha mẹ già
thường chọn ở chung với một người con nào đó, thường là với gia đình
người con gái út. Như vậy, loại hình gia đình lớn lại được tái lập. Loại
gia đình lớn hình thành theo phương thức này thường tồn tại lâu dài,
cho đến khi cha mẹ già yếu và qua đời. Gia đình này thường có ba thế
hệ: ông bà, cha mẹ và con cháu, số thành viên trong gia đình cũng đông
hơn. Nhưng kiểu gia đình lớn này cũng có xu hướng nửa hạt nhân hóa,
nghĩa là khi cha mẹ mất đi thì gia đình phức hợp lại trở thành gia đình
hạt nhân, gồm vợ chồng và con cái.
+ Gia đình nhỏ (gia đình hạt nhân “nuclear family”): Hình thái gia
đình nhỏ của người Khmer Nam Bộ được cấu trúc theo cơ cấu gia đình
hạt nhân, nghĩa là được tạo thành bởi hai thế hệ: cha mẹ và những
người con chưa xây dựng gia đình. Đây là hình thái tách ra từ gia đình
lớn thành loại hình gia đình một vợ một chồng cư trú riêng sau hôn
nhân hoặc sau khi cha mẹ già yếu qua đời, từ gia đình lớn trở thành
gia đình nhỏ. Sự phát triển của gia đình nhỏ là nhân tố phân hóa của
hình thái gia đình lớn. Khi các cặp vợ chồng tách ra, cơ sở kinh tế của
gia đình lớn bị chia nhỏ thành kinh tế của từng gia đình nhỏ với nhà
ở riêng biệt. Thông thường, mỗi gia đình nhỏ gồm vợ chồng và những
đứa con chưa lấy vợ lấy chồng, nhưng cũng có khi có thêm cha hoặc mẹ
hoặc anh chị em chưa xây dựng gia đình, của vợ hay chồng, cùng chung
sống. Cũng có khi gia đình nhỏ mà ở thế hệ cha mẹ khiếm khuyết một
trong hai người hoặc trường hợp gia đình nhỏ nhưng không có con. Vì
vậy, trên thực tế, gia đình nhỏ của người Khmer Nam Bộ tồn tại dưới
hai tiểu loại hình sau:
Gia đình nhỏ hoàn chỉnh: Là loại hình gia đình nhỏ đầy đủ, gồm
một cặp vợ chồng và những người con chưa lập gia đình. Nghĩa là các
CHƯƠNG V: THIẾT CHẾ TỰ QUẢN CỦA NGƯỜI KHMER... 405

thành viên trong gia đình thuộc hai thế hệ: thế hệ trên - thế hệ sinh
thành liên kết với nhau bằng quan hệ hôn nhân; thế hệ dưới - thế hệ con
cái liên kết với nhau bởi quan hệ huyết thống.
Gia đình nhỏ không hoàn chỉnh: Là loại hình gia đình nhỏ không
đầy đủ, vì có sự khiếm khuyết ở thế hệ trên hay thế hệ dưới hoặc là gia
đình nhỏ mở rộng, vì có sự mở rộng ở thế hệ trên. Do đó, tùy theo sự
khiếm khuyết hay sự mở rộng ở các thế hệ mà loại hình gia đình nhỏ
không hoàn chỉnh tồn tại dưới nhiều trường hợp khác nhau:
Trường hợp 1: Gia đình nhỏ chỉ có thế hệ trên (thế hệ cha mẹ) mà
chưa có thế hệ dưới (thế hệ con cái). Đây là gia đình của những cặp
vợ chồng mới kết hôn tách ra ở riêng thành một gia đình mà chưa có
con hoặc những cặp vợ chồng hiếm muộn, kết hôn đã lâu mà chưa có
con. Trường hợp này, trong gia đình chỉ có một mối quan hệ là quan
hệ hôn nhân.
Trường hợp 2: Gia đình nhỏ chỉ có thế hệ dưới - thế hệ con cái. Đây
là những gia đình mà cha mẹ mất sớm, chỉ còn các anh chị em sống với
nhau mà chưa có ai xây dựng gia đình hoặc có người đã xây dựng gia
đình thì đã ra ở riêng thành một gia đình khác. Trường hợp này, trong
gia đình vắng bóng quan hệ hôn nhân, chỉ có mối quan hệ huyết thống.
Trường hợp 3: Gia đình nhỏ có đủ hai thế hệ, nhưng ở thế hệ trên
thiếu vắng cha hoặc mẹ. Đây là những gia đình góa chồng hay góa vợ
hoặc vợ chồng đã ly hôn, chỉ có một mình cha hoặc mẹ sống với các con
chưa lập gia đình.
Trường hợp 4: Gia đình nhỏ đầy đủ gồm một cặp vợ chồng và những
người con chưa lập gia đình, nhưng có thêm người cha hay người mẹ
của vợ hoặc chồng cùng chung sống. Trong trường hợp này, gia đình có
ba thế hệ: thế hệ ông bà, chỉ có một trong hai người; thế hệ bố mẹ và thế
hệ con cháu. Người Khmer không có khái niệm bên nội, bên ngoại, vì
vậy, cha mẹ của chồng hay của vợ đều coi như nhau, không có sự phân
406 VÙNG ĐẤT NAM BỘ VIII THIẾT CHẾ QUẢN LÝ XÃ HỘI

biệt. Có khi người ta gọi dạng gia đình này là gia đình lớn không đầy
đủ, vì có ba thế hệ. Nhưng theo tiêu chí loại hình gia đình lớn (như đã
nêu ở trên) là phải có mặt của từ hai cặp hôn nhân trở lên, do đó, theo
chúng tôi, so với loại hình gia đình nhỏ hoàn chỉnh (đầy đủ) thì đây là
dạng biến thể và có thể gọi là gia đình nhỏ mở rộng, chứ không thể xếp
vào loại hình gia đình lớn.
Trường hợp 5: Gia đình nhỏ đầy đủ gồm một cặp vợ chồng và những
người con chưa lập gia đình, nhưng có thêm người anh/chị em của vợ
hoặc chồng cùng chung sống. Trường hợp này, gia đình có hai thế hệ
nhưng ở thế hệ bố mẹ có sự mở rộng thêm thành viên là anh/chị em
của bố hay mẹ, những người mà vì lý do nào đó chưa xây dựng gia đình,
cùng chung sống.
Trên thực tế, gia đình nhỏ tồn tại độc lập, có nhà ở và kinh tế riêng
biệt, thường cư trú trong khuôn viên của phum, gần gũi với gia đình cha
mẹ và anh chị em khác, có sự liên kết chặt chẽ với nhau theo quan hệ
huyết thống bằng cả bên cha và bên mẹ.
Từ sau ngày giải phóng (ngày 30-4-1975) đến nay, thực hiện chính
sách dãn dân xây dựng kinh tế hộ gia đình, nhiều gia đình đã tách ra lập
hộ gia đình ở riêng trên đất ruộng, cư trú bên ngoài, xa với phum truyền
thống trên đất giồng. Xu hướng này ngày càng phát triển, vì ở riêng trên
đất ruộng họ có điều kiện chăn nuôi, trồng tỉa rau màu, cây ăn quả, đào
ao thả cá,... thuận lợi hơn.
Như vậy, xét trong tiến trình lịch sử hình thành và phát triển các
loại hình gia đình của người Khmer Nam Bộ, gia đình nhỏ được tạo
lập là kết quả phân hóa của gia lớn. Cùng với thời gian, gia đình nhỏ
phát triển và đến khi các con lớn lên lấy vợ, lấy chồng ở chung với
cha mẹ lại tái lập gia đình lớn với hai kiểu loại hình, như đã trình bày
ở trên. Do xu hướng nửa hạt nhân hóa và nhất là do sức ép về kinh
tế, xã hội, từ gia đình lớn lại tách ra thành các gia đình nhỏ. Rồi từ
gia đình nhỏ lại tái lập gia đình lớn. Chu kỳ này được tái lập khá ổn
định ở người Khmer trong những thế kỷ trước đây, là cơ sở để tạo lập
CHƯƠNG V: THIẾT CHẾ TỰ QUẢN CỦA NGƯỜI KHMER... 407

nên thiết chế xã hội mang tính đặc thù là phum thân tộc của người
Khmer Nam Bộ.
Trong những thập kỷ gần đây, do tác động của những yếu tố kinh
tế - xã hội, đặc biệt là kinh tế hàng hóa và kinh tế hộ gia đình trong nông
nghiệp, gia đình lớn ngày càng thu nhỏ về quy mô và tính ổn định của
nó cũng bị phá vỡ nhanh chóng hơn, khi nhu cầu hình thành gia đình
nhỏ diễn ra cấp bách. Số lượng gia đình lớn ngày càng ít đi, quy mô nhỏ
hơn và thời gian tồn tại cũng bị rút ngắn, dẫn đến tình trạng nhiều cha
mẹ già ở riêng không sống chung với con cái. Nhưng dù là loại hình nào,
mỗi gia đình Khmer Nam Bộ vẫn là đơn vị kinh tế, xã hội, độc lập, có
ruộng đất canh tác và tài sản riêng, một ngôi nhà ở riêng, tiến hành sản
xuất và sinh hoạt riêng.
(Sự hình thành và chuyển hóa của hai loại hình gia đình trên
trong phum truyền thống của người Khmer Nam Bộ, xin xem thêm
qua ví dụ khảo sát cấu trúc các phum truyền thống của người Khmer
ở Phụ lục II).
- Quan hệ gia đình
Trong gia đình người Khmer, quan hệ giữa các thành viên chủ yếu
là mối quan hệ giữa vợ và chồng, giữa bố mẹ và con cái.
+ Quan hệ vợ chồng: Trong gia đình người Khmer, người chồng hay
người cha đóng vai trò quan trọng trong sản xuất và quan hệ với bên
ngoài, người vợ hay người mẹ giữ vai trò quan trọng trong công việc nội
trợ, quản lý chi tiêu trong gia đình. Tuy nhiên, những công việc hệ trọng
trong gia đình như mua bán, sắm sửa những thứ nhiều tiền, cưới gả
con cái, làm phước vào chùa... đều có sự bàn bạc thống nhất giữa vợ và
chồng. Người vợ tham gia hết thảy mọi công việc đồng áng như cấy, nhổ
cỏ, gặt hái, làm vườn, gánh nước, làm rẫy, nhổ mạ, đập lúa, tát nước, bón
phân. Ngoài ra, việc chăn nuôi heo, gà, công việc nội trợ trong nhà chủ
yếu là phụ nữ làm, người vợ cũng là người thủ quỹ chính của gia đình.
408 VÙNG ĐẤT NAM BỘ VIII THIẾT CHẾ QUẢN LÝ XÃ HỘI

Quan hệ giữa vợ và chồng trong gia đình người Khmer khá hòa thuận.
Người phụ nữ Khmer được chồng tôn trọng vì họ luôn chia sẻ những
cực nhọc trong lao động sản xuất, thường an phận và nhường nhịn hy
sinh. Người đàn ông Khmer qua thời gian tu học trong chùa được giáo
dục theo tinh thần từ - bi - hỉ - xả, coi trọng sự hòa hiếu, vì vậy, không
khí gia đình Khmer hòa thuận, ít khi có xung đột, vợ chồng hiếm khi
gây lộn, cãi cọ, đánh mắng lẫn nhau.
Sự bình đẳng giữa vợ và chồng thể hiện rõ ở chế độ sở hữu tài sản
và phân chia tài sản sau khi ly hôn. Trong gia đình, ngoài tài sản chung
do công sức hai vợ chồng cùng làm ra trong thời gian chung sống, vợ và
chồng đều có quyền sở hữu chung đất đai do hai gia đình nội ngoại chia
cho họ khi kết hôn. Khi ly dị, tài sản riêng của ai thì người đó giữ lại,
còn tài sản chung thì chia đều. Sau khi ly dị người phụ nữ Khmer không
bị dư luận phê phán và họ có thể tái giá dễ dàng mà không gặp phải khó
khăn như các tộc người Hoa, Việt.
Ở gia đình người Khmer mặc dù yếu tố phụ hệ được xác lập và
từng bước được củng cố trong quan hệ gia đình, nhưng những tàn dư
mẫu hệ vẫn còn tồn tại và chi phối đời sống của người Khmer. Tên
gọi của những chức vụ đứng đầu phum, sóc đều bắt đầu từ chữ “mê”
(mẹ), như “mê phum, mê sóc”. Trong xã hội, người đàn bà được quý
trọng, ngay cả Phật giáo Khmer về mặt quy chế không chấp nhận sự
tu hành của nữ giới, nhưng trong thực tế người phụ nữ Khmer vẫn có
thể thực hiện việc tu tại gia và hằng tháng vẫn được đến chùa trong
một số ngày lễ Phật. Hôn nhân cư trú bên nhà vợ thường được người
Khmer ưa thích.
Quan hệ giữa cha mẹ và con cái: Trong gia đình người Khmer, cha
mẹ thực sự có quyền uy đối với con cái, nhưng trong sinh hoạt hằng
ngày cũng như khi giải quyết những công việc quan trọng vẫn thường
có mối thông cảm giữa cha mẹ và con cái.
Đối với con cái, cha mẹ không có sự phân biệt đối xử trai hay gái,
trưởng hay thứ, con nuôi và con đẻ. Tương tự như vậy, nàng dâu và con
CHƯƠNG V: THIẾT CHẾ TỰ QUẢN CỦA NGƯỜI KHMER... 409

rể trong gia đình được đối xử ngang nhau, anh em bên vợ, anh em bên
chồng không có sự phân biệt trong quan hệ.
Trong việc thừa kế tài sản cha mẹ chia đều cho các con. Trong một
số trường hợp, khi các anh/chị em có gia đình ở riêng, người con út
ở chung và nuôi dưỡng bố mẹ già thì người con này được cả ngôi nhà
của cha mẹ và có thể được phân chia tài sản nhiều hơn (xem thêm Phụ
lục III).

b) Các chức năng cơ bản của gia đình người Khmer Nam Bộ
Gia đình người Khmer Nam Bộ cũng như gia đình Việt Nam nói
chung đều tuân theo quy luật phát triển đa chức năng. Ở đây chúng
tôi chủ yếu đề cập tới ba chức năng cơ bản quan trọng nhất của gia
đình: chức năng tái sản xuất con người, chức năng kinh tế, chức
năng văn hóa - giáo dục và tôn giáo của gia đình Khmer.
- Chức năng tái sản xuất con người
Sinh đẻ con cái là sự tất yếu của mỗi cặp vợ chồng, là niềm vui
mừng của mỗi gia đình. Nhiều tộc người ở Việt Nam xem việc không
có con là điều bất hạnh và nhiều khi đó là cái cớ để chồng ly dị vợ.
Quan niệm truyền thống về đạo đức gia đình là “có phúc đẻ nhiều
con” và đánh giá sự hoàn mỹ của người phụ nữ qua khả năng sinh
đẻ. Ngoài việc muốn có con lưu truyền huyết thống, con cái là nguồn
nhân lực, là sự đảm bảo, nơi nương tựa cho cha mẹ lúc tuổi già sức
yếu, con cái làm cho vợ chồng gắn kết hơn. Vả lại, xưa kia tình trạng
hữu sinh vô dưỡng xảy ra rất nhiều nên nảy sinh tâm lý sinh nhiều
để phòng mất đứa này còn đứa khác. Vì vậy, gia đình truyền thống
của các tộc người ở Việt Nam thường đông con, cho dù phải khổ cực,
nheo nhóc.
Đối với người Khmer Nam Bộ, tuy không coi đông con cháu là điều
ước ao hay được ca ngợi thành một tiêu chuẩn đạo đức, việc sinh đẻ của
các cặp vợ chồng để có thêm con cháu vẫn là niềm vui mà người Khmer
luôn sẵn lòng đón nhận. Trong khi đó, việc không có con được coi là
410 VÙNG ĐẤT NAM BỘ VIII THIẾT CHẾ QUẢN LÝ XÃ HỘI

một điều thiếu may mắn nên các cặp vợ chồng không có con thường
nuôi con nuôi. Tuy nhiên, con nuôi không chỉ dành riêng cho các gia
đình hiếm muộn, các gia đình Khmer dù có con cháu đầy đủ vẫn thích
nhận con nuôi để làm phước, theo triết lý của Phật giáo. Bổn phận,
quyền lợi và nghĩa vụ của con nuôi không có gì khác con đẻ.
Do đặc điểm của hệ thống thân tộc, không hẳn là phụ hệ cũng
không hẳn là mẫu hệ, nên người Khmer không coi trọng con trai hơn
hay con gái hơn. Trong gia đình không có thành kiến phân biệt con trai -
con gái cũng như con cả - con thứ. Tuy nhiên, do con trai có thể đi tu để
trả hiếu cho cha mẹ và những công việc nặng nhọc như việc đồng áng,
làm nhà.... cần có lao động khỏe mạnh nên trên thực tế người ta vẫn
thích có con trai. Còn khi về già bố mẹ lại thường thích ở cùng với con
gái út hơn, vì người con gái Khmer khi lấy chồng không phải đã “xuất
giá tòng phu” là phải bỏ tổ tiên, bố mẹ mình để thờ phụng tổ tiên, bố mẹ
chồng, như hệ thống thân tộc theo chế độ phụ hệ, nên bố mẹ già thích
ở với con gái út để được gần gũi, chăm sóc, nương tựa.
Về động thái dân số, có thể thấy dân số người Khmer phát triển
nhanh chủ yếu là quá trình tăng tự nhiên cao, còn quá trình tăng cơ
học hầu như không đáng kể. Theo số liệu cuộc Tổng điều tra dân số
năm 1999, dân số người Khmer là 1.055.174 người, chiếm 1,38% dân
số cả nước và chiếm 6,5% dân số vùng đồng bằng sông Cửu Long. So
sánh dân số người Khmer từ cuộc Tổng điều tra dân số từ năm 1989
đến năm 1999, có thể thấy tỷ lệ tăng dân số của người Khmer hằng
năm khoảng 1,82%.
Về quy mô gia đình, qua các số liệu thống kê thu thập trong các đợt
điền dã năm 1977, 1978 của Ban Dân tộc học - Viện Khoa học xã hội tại
Thành phố Hồ Chí Minh, dù là gia đình lớn hay gia đình nhỏ, quy mô
gia đình của người Khmer trung bình thường 5-6 con, tính cả bố mẹ là
7-8 người. Theo số liệu cuộc tổng điều tra mức sống hộ gia đình ở Sóc
Trăng thời điểm ngày 1-10-2001, bình quân số người trong một hộ gia
đình người Khmer là 5,02 người. Như vậy, số người bình quân trong
CHƯƠNG V: THIẾT CHẾ TỰ QUẢN CỦA NGƯỜI KHMER... 411

mỗi gia đình Khmer là khá lớn so với số bình quân của mỗi gia đình
nông dân cả nước là 4,78 người (Xem thêm Phụ lục IV).
- Chức năng kinh tế
Chức năng kinh tế là chức năng không thể thiếu của gia đình, nó
bao gồm từ việc tổ chức sản xuất đến phân phối và tiêu dùng các sản
phẩm làm ra để đáp ứng nhu cầu của các thành viên trong gia đình.
Nông thôn vùng đồng bào Khmer Nam Bộ là xã hội tiểu nông chịu
ảnh hưởng sâu đậm Phật giáo Theravada. Đại đa số cư dân Khmer Nam
Bộ là nông dân, sinh sống chủ yếu ở vùng nông thôn với việc canh tác
lúa nước là nghề chính. Khi cùng cư trú trong một phum, có khi giữa
các gia đình không phân chia và sở hữu riêng về đất ở, nhưng đất ruộng,
rẫy... để canh tác, các công cụ sản xuất và tài sản khác là sở hữu riêng
của mỗi gia đình. Gia đình Khmer là những đơn vị kinh tế tiểu nông,
mỗi gia đình tự tổ chức sản xuất và tiêu dùng. Sự phân công trong lao
động chủ yếu là phân công tự nhiên theo giới tính và lứa tuổi. Trong
công việc đồng áng, người đàn ông đảm nhiệm hầu hết những công việc
nặng nhọc như: làm đất (cày, bừa...), nhổ mạ, cấy, gặt..., tính toán quy
trình sản xuất về thời vụ, chọn giống, cách thức canh tác, chăm sóc...
theo kinh nghiệm. Người phụ nữ phần nào chia sẻ các công việc của
người đàn ông và tham gia nhiều hơn các khâu chăm sóc, thu hoạch,
chăn nuôi gia cầm. Người phụ nữ cũng là người quản lý việc chi tiêu, ăn
mặc hằng ngày đảm bảo đáp ứng nhu cầu của các thành viên trong gia
đình. Người già đóng vai trò bảo ban, truyền đạt kinh nghiệm và phụ
giúp những việc thủ công gia đình. Trẻ em thường tham gia phụ giúp
bố mẹ công việc đồng áng như một người học việc, phụ giúp việc chăn
nuôi và các công việc vặt phục vụ sinh hoạt của gia đình. Tuy vậy, chức
năng hoạt động kinh tế của các gia đình Khmer có sự khác biệt nhau,
phụ thuộc vào địa vị xã hội của mỗi gia đình.
Là cư dân nông nghiệp từ lâu đời, tư liệu sản xuất quan trọng nhất
là ruộng đất, vì vậy, cơ sở kinh tế chủ yếu để đảm bảo đời sống của gia
đình Khmer là quyền chiếm hữu và sở hữu ruộng đất. Cho tới trước
412 VÙNG ĐẤT NAM BỘ VIII THIẾT CHẾ QUẢN LÝ XÃ HỘI

ngày giải phóng (ngày 30-4-1975), ở người Khmer Nam Bộ còn tồn
tại nhiều loại sở hữu ruộng đất: ruộng đất tư, ruộng chùa, ruộng chân
nhang, ruộng đất công, trong đó ruộng đất tư là hình thức chiếm ưu
thế. Ruộng đất tư được hình thành khá sớm, người Khmer gọi là “đây
cruaxa” hoặc “đây cầm lăng” (đất của riêng hay đất mồ hôi). Nguồn
gốc của ruộng đất tư do chính bàn tay của người nông dân Khmer
khai phá từ buổi ban đầu, rồi lưu truyền qua thừa kế từ thế hệ này
sang thế hệ khác. Ngoài ra, một bộ phận ruộng đất tư được hình thành
bằng con đường mua bán chuyển nhượng giữa nông dân Khmer, Việt
và Hoa với nhau.
Việc chế độ sở hữu ruộng đất tư là chủ yếu đã dẫn tới hậu quả tất
yếu là sự phân hóa giai cấp đã diễn ra khá sâu sắc trong xã hội nông thôn
Khmer. Cho tới trước giải phóng, trong xã hội nông thôn Khmer Nam
Bộ đã tồn tại các giai cấp, tầng lớp khác nhau liên quan đến chế độ sở
hữu ruộng đất, đó là: địa chủ (mêđai), phú nông (srây thnatlơ), trung
nông (ner srây kandal), bần cố nông (ner kro). Là cư dân nông nghiệp,
nên hầu hết ruộng đất của người Khmer dùng để trồng lúa và hoa màu.
Tuy nhiên, việc canh tác phụ thuộc vào địa vị xã hội của các tầng lớp,
giai cấp khác nhau.
Các gia đình địa chủ Khmer không trực tiếp canh tác, họ dùng
ruộng đất chiếm được cho thuê mướn, phát canh thu tô. Người thuê
mướn hoặc nhận ruộng đất phát canh có nghĩa vụ phải nộp một phần
hoa lợi thu hoạch trên ruộng đất cho địa chủ. Chủ ruộng có thể lấy lại
ruộng hoặc chấm dứt thời gian thuê mướn tùy theo sự thỏa thuận của
đôi bên. Mức tô phụ thuộc vào từng vùng, từng thời kỳ nhưng có khi
người nông dân phải nộp tới 70% mức nông sản thu hoạch được trên
ruộng đất lĩnh canh.
Các gia đình phú nông Khmer không phát canh thu tô mà thường
thuê mướn nhân công nông nghiệp và sản xuất nông sản mang tính
hàng hóa. Dưới thời Mỹ - ngụy, với việc du nhập nhiều máy móc và
các phương tiện sản xuất nông nghiệp, nhiều gia đình phú nông bỏ
CHƯƠNG V: THIẾT CHẾ TỰ QUẢN CỦA NGƯỜI KHMER... 413

tiền ra mua máy móc rồi thuê mướn nhân công cày bừa, bơm nước
thuê cho nông dân. Với số ruộng đất có được họ thuê mướn nhân
công theo mùa vụ hay theo công việc và trả công bằng tiền. Nông
sản thu được trở thành hàng hóa tham gia vào thị trường. Như vậy,
các gia đình phú nông Khmer thực chất là những tư sản ở vùng nông
thôn, thu lợi nhuận bằng lao động thặng dư của những người nông
dân làm thuê.
Các hộ gia đình nông dân Khmer, trừ những gia đình địa chủ,
phú nông chiếm phần nhỏ nói trên, là những đơn vị trực tiếp sản
xuất nông nghiệp. Gia đình tự tổ chức sản xuất, việc phân công lao
động giản đơn theo giới tính và tuổi tác. Trong các gia đình nông dân
Khmer, tầng lớp bần nông, cố nông là đông đảo nhất, có nơi chiếm tới
65%, tính trung bình từ 50% - 55% số hộ1. Các hộ gia đình bần nông
chỉ có ít ruộng đất, hoa lợi thu được không đủ nuôi sống gia đình, họ
buộc phải lĩnh canh ruộng đất của địa chủ và phải nộp trung bình từ
50% - 60% số nông sản thu hoạch được. Ngoài ra, họ còn phải lo nhiều
khoản biếu xén, lễ lạt cho chủ đất. Địa tô quá cao, vào những năm thất
bát, thu hoạch không đủ nộp tô, họ phải vay nặng lãi, rồi lãi mẹ đẻ
lãi con, nợ lãi cứ thế sinh sôi, nhiều người đi làm thuê cả đời không
trả hết nợ. Vì thế, các gia đình thuộc tầng lớp bần nông Khmer ngày
càng lệ thuộc vào địa chủ, họ vừa là tá điền vừa là con nợ của địa chủ.
Các hộ gia đình cố nông Khmer là tầng lớp nghèo khổ nhất, là những
người hoàn toàn không có tư liệu sản xuất, kể cả ruộng đất, trâu bò và
các loại công cụ. Vì vậy, họ không đủ phương tiện để lĩnh canh và tự
tổ chức sản xuất, phải bán sức lao động bằng cách làm thuê cho chủ
đất theo từng ngày, từng vụ, từng công việc hay làm thuê cho phú nông
theo kiểu công nhân nông nghiệp.

1. Xem Phan An: “Một số vấn đề kinh tế - xã hội của vùng nông thôn Khmer
đồng bằng sông Cửu Long”, trong Vấn đề dân tộc ở đồng bằng sông Cửu Long, Nxb.
Khoa học xã hội, Hà Nội, 1981, tr.109-170.
414 VÙNG ĐẤT NAM BỘ VIII THIẾT CHẾ QUẢN LÝ XÃ HỘI

Trong nông dân Khmer, các hộ gia đình thuộc tầng lớp trung nông
là bộ phận có vai trò quan trọng, chiếm tỷ lệ từ 35% đến 40% số hộ1. Các
gia đình trung nông với số ruộng đất bình quân từ 5 - 10 hécta một gia
đình, họ có khả năng tổ chức canh tác để đủ sống và dư dật đôi chút.
Họ là những người có nhiều kinh nghiệm sản xuất nông nghiệp, nên
nhiều gia đình trung nông vươn lên khá giả, một số ít trong họ đã đứng
ra làm trung gian bao thầu ruộng đất của địa chủ cho các gia đình bần
nông thuê lại để kiếm lời. Đó là những “địa chủ tá canh” hưởng chênh
lệch giữa mức tô thu được của người làm thuê và mức tô phải nộp cho
chủ đất. Nhưng các gia đình trung nông cũng là bộ phận không ổn
định nhất. Một số có nhiều kinh nghiệm, nhạy bén với việc áp dụng các
phương tiện máy móc nhỏ phục vụ nông nghiệp vươn lên tầng lớp phú
nông, một số khác cũng dễ dàng rơi xuống tầng lớp bần nông.
- Chức năng văn hóa - giáo dục và tôn giáo
Cũng như các tộc người khác, gia đình Khmer là nơi lưu giữ và lưu
truyền những đặc trưng văn hóa tộc người. Từ những đặc trưng trong
tập quán cư trú, cách thức ăn, mặc, ở, phương tiện vận chuyển... đến
những nét độc đáo của văn hóa tinh thần như kinh nghiệm trong lao
động sản xuất, lối ứng xử, các lễ tục, nghi thức... đều được bảo tồn, thực
hiện ở gia đình. Những giá trị văn hóa tộc người ấy được gia đình trao
truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, góp phần hình thành nhân cách
mỗi con người. Là cư dân nông nghiệp nên từ rất sớm trẻ em đã tham
gia lao động như chăn trâu bò, lấy củi, nấu cơm nước, giữ em, làm việc
vặt trong gia đình; khi lớn hơn, trẻ em trực tiếp tham gia lao động trên
đồng ruộng phụ giúp bố mẹ như cấy lúa, nhổ cỏ, gặt lúa, làm vườn rẫy,
tát nước bắt cá... Đến tuổi 16-17, thanh niên Khmer đã thành thạo mọi
công việc nhà nông và trở thành người nông dân thực thụ. Họ lao động,
làm nhà.... theo những cách thức mà ông bà, cha mẹ truyền cho.

1. Phan An: “Một số vấn đề kinh tế - xã hội của vùng nông thôn Khmer đồng
bằng sông Cửu Long”, trong Vấn đề dân tộc ở đồng bằng sông Cửu Long, Sđd.
CHƯƠNG V: THIẾT CHẾ TỰ QUẢN CỦA NGƯỜI KHMER... 415

Trong giáo dục, đối với con gái thường được dạy bảo những việc
như thêu thùa, may vá, bếp núc để trở thành một thiếu nữ có đủ “nữ
công gia chánh”. Đặc tính nổi bật trong việc dạy dỗ con gái của người
Khmer là dạy cách ứng xử với chồng và gia đình chồng. Trong quan
hệ vợ chồng, người Khmer coi sự hòa thuận là quan trọng nhất, vì vậy,
người con gái Khmer được ông bà, cha mẹ dạy bảo nhiều nhất về tính
nhường nhịn, về tình thương và biết hy sinh.
Đối với nam giới, gia đình chủ yếu đóng vai trò giáo dục nghề
nghiệp, tức là những kỹ năng làm ruộng, nhà chùa hầu như đảm nhiệm
việc giáo dục tri thức. Tập quán sùng đạo, khuyến khích việc đi tu nên
đa số con trai Khmer từ 12 tuổi đã vào chùa tu hành. Đời sống tu hành
trong một ngôi chùa Phật giáo là giai đoạn quan trọng mà mỗi người
con trai Khmer gần như bắt buộc phải trải qua, để trở thành một người
có đủ tư cách đạo đức và văn hóa. Đối với người Khmer, đi tu trước hết
là để trả ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ (tu Sa di trả ơn mẹ, tu Tỳ
kheo trả ơn cha), sau nữa là để hấp thụ, học hỏi không chỉ những kinh
sách Phật giáo mà còn về văn chương, ngôn ngữ cũng như văn hóa,
phong tục tập quán của dân tộc mình. Nhà chùa dạy chữ, dạy kinh kệ,
qua đó giáo dục đạo đức, phẩm hạnh làm người, nên lo cho con trai đi
tu là một bổn phận mà cha mẹ phải chu toàn.
Mỗi người Khmer vừa là dân của một sóc (con sóc) vừa là một
phật tử, vì vậy có thể nói, mỗi gia đình là một nhóm/đơn vị tín đồ của
Phật giáo. Các gia đình phật tử ở gần nhau tạo thành một khu (wel) là
một đơn vị tổ chức tín đồ để thực hiện các nghĩa vụ với nhà chùa. Các
công việc phật sự (đóng góp xây dựng, sửa chữa chùa, tổ chức các lễ tôn
giáo...) được Ban quản trị chùa phân công về các wel, các wel lại phân
bổ đến từng gia đình phật tử trong wel. Việc dâng cơm cho các sư sãi
hằng ngày nhiều nơi cũng tổ chức lần lượt quay vòng theo các wel. Hằng
tháng các gia đình phật tử đi lễ chùa cúng dường ít nhất là vào các ngày
mùng 1, 15, 23 và 30 âm lịch. Gia đình là nơi thực hiện các lễ tục theo
tinh thần, triết lý Phật giáo, các nhà sư tham gia vào các lễ tục ấy tụng
416 VÙNG ĐẤT NAM BỘ VIII THIẾT CHẾ QUẢN LÝ XÃ HỘI

kinh thuyết pháp, từ đó thực hiện chức năng giáo dục của nhà chùa đối
với quảng đại dân chúng.

2. Thiết chế dòng họ của người Khmer Nam Bộ


a) Đặc điểm quan hệ thân tộc của người Khmer Nam Bộ
Trải qua nhiều thế kỷ cùng cộng cư, giao lưu, tiếp xúc với các tộc
người Việt, Hoa và Chăm, chịu tác động các chính sách của triều Nguyễn
và sau đó là các chính quyền thực dân cũ và mới, người Khmer Nam Bộ
tuy có chịu ảnh hưởng lớn của những tác động đó về nhiều mặt, song
trong quan hệ thân tộc vẫn giữ nhiều đặc điểm khác biệt so với các tộc
người cùng cư trú trong vùng.
Theo các tác giả Đinh Văn Liên, Nguyễn Khắc Cảnh, người Khmer
Nam Bộ trước kia không có họ như người Việt mà theo nguyên tắc phụ
tử liên danh, lấy tên cha đặt làm họ cho con, tên riêng thường chọn
những chữ tốt đẹp. Trong một gia đình, ông cháu có thể trùng tên mà
không kiêng cữ. Dưới thời nhà Nguyễn, để kiểm soát dân cư, triều đình
bắt buộc người Khmer Nam Bộ phải mang một trong năm họ: Thạch,
Lâm, Sơn, Kim, Danh. Ngoài ra, do quá trình tiếp xúc tộc người, giao
lưu văn hóa giữa ba tộc người Việt - Khmer - Hoa, do cùng chung số
phận là những người khẩn hoang nghèo khổ, cư dân ba tộc người này
đã dễ dàng hòa đồng, thông cảm và giúp đỡ lẫn nhau. Hôn nhân hỗn
hợp giữa các dân tộc ngày càng nhiều, dẫn đến sự xuất hiện các họ Việt
và Hoa ở cả cư dân Khmer lai và cư dân thuần Khmer.
Bên cạnh đó còn có các họ Chao (hay Chau, Châu), Néang (hay
Neong, Nương), Trà (hay Tà). Trong đó, Chao, Néang là tiếng của người
Khmer, có nghĩa là chàng và nàng; Trà (Tà) tiếng Khmer có nghĩa là ông
đều trở thành họ của người Khmer.
Như vậy, nguồn gốc các loại tên họ của người Khmer Nam Bộ phần
lớn do sự áp đặt của chính quyền phong kiến, một số khác do hôn nhân
hỗn hợp giữa các dân tộc Khmer - Việt, Khmer - Hoa hình thành họ lai,
CHƯƠNG V: THIẾT CHẾ TỰ QUẢN CỦA NGƯỜI KHMER... 417

một số họ do người Khmer vay mượn tên họ người Hoa, Việt trong quá
trình cộng cư, tiếp xúc. Ngoài ra, có một số họ khác có nguồn gốc từ
một loại hình phụ tử liên danh và một số có nguồn gốc là những tiếng
phân biệt giới tính (Chao, Néang) (xem thêm Phụ lục V).
Với sự áp đặt của chính quyền phong kiến, mặt khác chịu ảnh
hưởng của hai dân tộc Việt, Hoa - là những cư dân theo chế độ phụ
hệ, nên người Khmer thường đặt tên con theo họ cha khi làm giấy khai
sinh và kê khai hộ tịch, hộ khẩu công dân. Nhưng trong quan hệ xã hội
truyền thống của người Khmer, thể hiện trong quan hệ dòng họ, hôn
nhân và gia đình, tên họ chỉ đơn thuần là một hình thức pháp lý chưa
có ý nghĩa nào trong việc hình thành một tộc họ theo phụ hệ như người
Việt, người Hoa hay một tộc họ theo mẫu hệ như người Chăm. Ví dụ,
trường hợp người Khmer ở Tri Tôn và Tịnh Biên - An Giang, khi làm
khai sinh con trai đều mang họ Châu hay Chao, còn con gái mang họ
Néang. Tên họ này không mang ý nghĩa nào về quan hệ thân tộc, người
ta không căn cứ vào đó để tính tộc họ, nó chỉ đơn thuần là tên họ về mặt
quản lý hành chính nhà nước.
Hệ thống thân tộc của người Khmer không hẳn là phụ hệ hay mẫu
hệ. Đó là một hệ thống không phân biệt, nghĩa là trong cách tính dòng
họ (descent) một cá nhân không coi mình thuộc một dòng họ bên cha
hay dòng họ bên mẹ mà tính theo cả hai phía. Trong mối quan hệ họ
hàng (chuobua) người Khmer không phân biệt bên cha và bên mẹ,
không có khái niệm về bên nội, bên ngoại, không có khái niệm về tộc
hay họ tính theo một phía cha hay phía mẹ. Tất cả họ hàng của phía cha
và phía mẹ đều được quan niệm và đối xử giống như nhau.
Quan hệ của người Khmer về thân tộc không chỉ gồm những người
có quan hệ huyết thống mà còn bao gồm một số người có quan hệ hôn
nhân. Khái niệm “bà con” (nhom nhem) bao gồm những người có quan
hệ họ hàng huyết thống mở rộng cả về hai phía nội, ngoại và cả những
người có quan hệ hôn nhân về hai phía. Phạm vi dân tộc Khmer được
mở rộng đối với người hôn phối của tôi và toàn thể họ hàng người ấy,
418 VÙNG ĐẤT NAM BỘ VIII THIẾT CHẾ QUẢN LÝ XÃ HỘI

cũng như bao gồm cả những người hôn phối của những bà con huyết
thống gần gũi với tôi như cô, cậu, chú, bác,... Giữa những bà con huyết
thống và những bà con do quan hệ hôn nhân, người Khmer không có
sự phân biệt trong tình cảm cũng như cung cách cư xử.
Vì vậy, phạm vi thân tộc của người Khmer tuy có quy mô rộng lớn
nhưng lại có cấu trúc lỏng lẻo, không có kết cấu chặt chẽ như các hệ
thống thân tộc đơn phương, theo phụ hệ hay mẫu hệ. Nó không tạo
thành một truyền thống truyền thừa tộc họ lâu đời với nhiều đời tộc
trưởng kế tiếp nhau và cũng không có những của cải chung hay nhà thờ
chung của dòng họ (xem thêm Phụ lục VI).
Đặc điểm thân tộc của người Khmer Nam Bộ còn thể hiện rõ trong
quan hệ hôn nhân. Ở người Khmer Nam Bộ quan hệ hôn nhân giữa các
anh/chị em họ chéo (con cô, con cậu) lẫn anh/chị em họ song song (con
chú bác, con dì) đều được chấp nhận. Ngoài ra còn có cả hình thức hôn
nhân anh em chồng (lavirate) và hôn nhân chị em vợ (sororate) mặc dù
không phổ biến. Đây là cấu trúc hôn nhân lỏng hơn so với hệ thống thân
tộc đơn phương, việc tiến hành hôn nhân dễ dàng hơn theo quan hệ cả
hai phía cha và mẹ. Những hình thức hôn nhân anh/chị em họ chéo và
anh/chị em họ song song, cũng như hiện tượng hôn nhân anh em chồng
và hôn nhân chị em vợ làm tăng sự liên kết quan hệ thân thuộc giữa các
thành viên thuộc cả hai phía cha và mẹ củng cố mối quan hệ tình cảm,
kinh tế giữa họ với nhau. Ngoài ra còn nhằm mục đích bảo vệ tài sản
của gia đình (động sản và bất động sản) không thất thoát ra ngoài.
Đặc biệt về hình thái cư trú sau hôn nhân càng thể hiện rõ nét tính
không phân biệt trong quan hệ thân tộc của người Khmer Nam Bộ. Qua
khảo sát, thống kê về hình thái cư trú sau hôn nhân ở 7 phum cho kết
quả là:
- Trong 7 phum có 36 người con trai trong phum lấy vợ đi ở rể cư
trú bên vợ và 27 người con trai ngoài phum về ở rể cư trú trong phum.
Như vậy, tổng cộng có 63 cặp hôn nhân cư trú bên nhà vợ.
CHƯƠNG V: THIẾT CHẾ TỰ QUẢN CỦA NGƯỜI KHMER... 419

- Trong 7 phum có 31 người con gái trong phum lấy chồng đi cư


trú bên chồng và 27 người con gái ngoài phum về làm dâu trong phum.
Tổng cộng có 58 cặp hôn nhân cư trú bên nhà chồng (xem thêm Phụ
lục VII).
Kết quả này cho thấy, số lượng cặp hôn nhân cư trú bên nhà vợ và
số lượng cặp hôn nhân cư trú bên nhà chồng chênh lệch nhau không
lớn (63-58). Tình trạng cư trú sau hôn nhân này phản ánh đặc điểm
không phân biệt tử hệ trong hệ thống thân tộc của người Khmer Nam
Bộ. Nghĩa là các cặp hôn nhân và gia đình họ được quyền lựa chọn nơi
cư trú mà không phụ thuộc quy tắc bắt buộc nào như ở hệ thống thân
tộc phụ hệ hay mẫu hệ. Nó làm cho quan hệ giữa các thành viên của gia
đình và quan hệ giữa các gia đình trong phum có quan hệ song phương
cả về hai phía cha và phía mẹ. Nó cũng phản ánh tâm lý và tình cảm của
người Khmer là không có sự phân biệt, đối xử khác biệt giữa bên nội,
bên ngoại, bên vợ, bên chồng.

b) Quan hệ gia đình với dòng họ

Với đặc điểm quan hệ thân tộc không phân biệt làm cho phạm vi
quan hệ của gia đình Khmer với bà con thân tộc rất rộng, tất cả họ hàng
của phía cha và phía mẹ đều được quan niệm và đối xử giống như nhau.
Trong quan hệ thân tộc, người Khmer không tạo thành những tộc họ
truyền thừa lâu đời theo dòng cha hay dòng mẹ, nhưng lại tạo thành
những đơn vị phum thân tộc rất đặc trưng. Trong xã hội truyền thống
của người Khmer, những người cùng huyết thống gần gũi nhất thường
cùng cư trú và lập thành phum. Vì vậy, trên thực tế, quan hệ của gia
đình với dòng họ thể hiện tập trung nhất ở mối quan hệ giữa các gia
đình thành viên của phum. Trong một phum, các gia đình thành viên có
trách nhiệm và nghĩa vụ giúp đỡ lẫn nhau lúc khó khăn, đói kém, hoạn
nạn, gia đình nào có việc cưới xin, làm nhà, ma chay... là gần như công
420 VÙNG ĐẤT NAM BỘ VIII THIẾT CHẾ QUẢN LÝ XÃ HỘI

việc của cả phum. Các thành viên trong phum luôn đối xử với nhau
theo tinh thần của những người bà con họ hàng thân thuộc.
Sự gắn bó của các gia đình thành viên trong phum còn thông qua sự
cộng cảm về mặt tín ngưỡng và tôn giáo.
Ở vùng Khmer Nam Bộ có một loại hình tín ngưỡng khá phổ biến
đó là Arăk. Arăk tượng trưng cho vị thần của dòng họ mà các gia đình
trong phum thờ cúng để nhờ bảo hộ. Vài ba năm một lần, vào khoảng
tháng 3, tháng 4 âm lịch, các phum tổ chức cúng Arăk để cám ơn các
Arăk đã phù hộ cho các con bệnh được khỏi bệnh. Hoặc trong dịp lễ
năm mới (Chol Chnam Thmei) mỗi phum dựng một cái chòi ngoài
ruộng để tổ chức cúng Arăk phum. Người ta cũng thường tổ chức cúng
Arăk phum khi trong phum có người bị ốm đau, bệnh tật. Sự cộng cảm
huyết thống còn được thể hiện trong việc tổ chức lễ cúng ông bà (Pi thi
sen Đônta). Lễ Đônta là lễ lớn nhất của người Khmer, được tổ chức từ
ngày 29-8 đến ngày 1-9 âm lịch hằng năm... Trong những ngày này, anh
em, con cháu thường tập trung lại để biếu quần áo, bánh trái cho ông
bà, cha mẹ (những người còn sống) và làm lễ cầu phước cho linh hồn
những người đã chết.

IV- THIẾT CHẾ TỰ QUẢN GẮN VỚI SINH HOẠT TÔN GIÁO, TÍN NGƯỠNG

1. Phật giáo Tiểu thừa trong đời sống xã hội người Khmer Nam Bộ
Đạo Phật Tiểu thừa dù chỉ du nhập vào thế kỷ XIII nhưng đã chi
phối sâu sắc đời sống xã hội nông thôn Khmer Nam Bộ. Mọi người
Khmer, dù tu ở chùa hay tại nhà, đều tự coi mình là phật tử.
Phật giáo được người Khmer Nam Bộ sùng kính và bảo vệ không
phải vì sự hấp dẫn của giáo lý, đạo pháp đã đem lại lợi ích thiết thực
trong đời sống mà điều chính yếu là những hành động tôn giáo lưu
truyền quen thuộc qua các thế hệ của người Khmer đã thành nếp sống,
thành quy cách ứng xử mà mỗi thành viên của phum, sóc mặc nhiên
CHƯƠNG V: THIẾT CHẾ TỰ QUẢN CỦA NGƯỜI KHMER... 421

phải tuân theo. Khi còn tại gia, người con trai với bổn phận làm con
phải vâng lời cha mẹ, nhưng sau lễ “quy y”, mặc tấm áo cà sa, người con
trai thành vị sư thì ngay lập tức vị trí xã hội được thay đổi. Bố mẹ gặp
con lúc này phải quỳ lạy, sùng kính vì đó là một trong tam bảo (Phật -
Pháp - Tăng).
Ở chùa, các vị chức sắc như hòa thượng, thượng tọa, đại đức, mê
kôn, sư cả, sư phó... được nhân dân kính trọng không phải đơn thuần
chỉ vì uy quyền tôn giáo mà giữa họ và nhân dân có sự gắn bó mật thiết
hơn nhiều. Trong xã hội nông thôn Khmer, tầng lớp sư sãi có vị trí đặc
biệt. Họ được coi là những bậc thức giả, là linh hồn và niềm tự hào của
phum, sóc. Lời của các sư sãi được coi là biểu hiện lời dạy của đức Phật,
được mọi người quý trọng và tuân thủ. Vì vậy, trong xã hội của người
Khmer Nam Bộ, tầng lớp sư sãi (những vị chức sắc) là người nắm thực
quyền điều hành xã hội, mặc dù trên danh nghĩa họ không phải trực
tiếp quản lý mà thông qua bộ máy Ban quản trị chùa. Sư sãi Khmer
không xa lánh hoàn toàn với cuộc đời, thế sự, họ vừa chăm lo đời sống
tâm linh của phật tử vừa chăm sóc giúp đỡ phật tử trong cuộc sống hằng
ngày. Khi có sự xích mích, kiện tụng xảy ra giữa các gia đình, sư sãi đứng
ra phân xử, hòa giải; người bị bệnh tật hay gặp thiên tai, hoạn nạn cũng
đều tìm đến các vị sư để được an ủi, trao đổi ý kiến; đám cưới, đám ma,
niềm vui, nỗi buồn đều được các vị sư tụng kinh chúc phước. Các vị sư
sãi, với triết lý sống làm phước, đã đến với người dân trong lúc họ gặp
khó khăn nhất mà không cần bất cứ điều kiện nào; mặt khác, sư sãi còn
là thầy giáo dạy chữ, dạy đạo lý, điều đó càng làm tăng thêm lòng kính
trọng, tin yêu của người dân đối với họ.
Theo học thuyết Tiểu thừa thì chỉ có những người “ly gia cắt ái”,
thoát khỏi mọi sự ràng buộc, lo âu của cuộc sống trần tục, để tu hành
mới có thể giải thoát. Vì thế, đối với tín đồ Phật giáo Tiểu thừa Khmer
một nhu cầu không thể thiếu được trong sinh hoạt tôn giáo là ngôi chùa.
Nhưng khác với nhiều tôn giáo khác, Phật giáo Tiểu thừa của người
Khmer không chỉ đảm nhận chức năng tôn giáo mà còn đảm nhận các
422 VÙNG ĐẤT NAM BỘ VIII THIẾT CHẾ QUẢN LÝ XÃ HỘI

chức năng văn hóa, giáo dục. Vì vậy, ngôi chùa Khmer được xây dựng
không chỉ nhằm đáp ứng nhu cầu của hoạt động tôn giáo mà bên cạnh
đó nó còn làm chức năng là trung tâm sinh hoạt văn hóa, giáo dục của
cộng đồng phum, sóc.
Trong quan niệm của người Khmer, đi tu không phải để thành Phật
mà tu là để học làm người có phẩm chất đạo đức, biết sống theo tinh
thần của giáo lý nhà Phật và rèn luyện theo đạo Pháp: thọ, giới, bố thí,
niệm. Trong sách dạy làm người của người Khmer có câu: “Ri neak
minh ban buốt tuk, chia tôk knong sao sơ mai” (nghĩa là: Người không
được tu trong chùa là người có nhiều tội lỗi trong cuộc sống). Vì vậy,
ngôi chùa đã trở thành trung tâm giáo dục dành cho con em của phum,
sóc. Trước kia, ngoài nhà chùa ở đồng bào Khmer Nam Bộ không có hệ
thống trường dạy học nào khác. Mỗi chùa thường có một hoặc vài ba
vị sãi chuyên dạy chữ cho con em người dân trong phum sóc của chùa.
Là cư dân nông nghiệp trồng lúa nước, hằng năm, người Khmer
có nhiều lễ hội gắn liền với các hình thức sinh hoạt văn hóa cộng đồng.
Trong mỗi dịp lễ hội, bên cạnh phần lễ là những hình thức sinh hoạt vui
chơi, giải trí, biểu diễn văn nghệ của quần chúng và tất cả đều được tổ
chức, được diễn ra ở khuôn viên chùa. Chùa còn là hệ thống thiết chế
văn hóa của cộng đồng. Ngôi chùa là thư viện - nơi lưu giữ các bộ sách
cổ và sách Phật, là bảo tàng mỹ thuật và lịch sử - nơi duy nhất trưng bày
các công trình, tác phẩm mỹ thuật của các nghệ nhân dân gian Khmer,
là trường học chữ, là nơi sinh hoạt văn hóa, văn nghệ của cộng đồng...
Đặc biệt hơn, Phật giáo Tiểu thừa với sự hiện hữu của ngôi chùa
trong mỗi sóc còn như là một “thành trì” bảo vệ, che chở cho người
Khmer trước những biến động của thời cuộc và lịch sử. Trước sự xâm
nhập và tác động, chi phối từ mọi phía bên ngoài, người Khmer chỉ còn
dựa vào Phật giáo, co cụm vào chùa để tự bảo vệ mình và giữ gìn những
gì vốn có của dân tộc. Nhiều yếu tố văn hóa Khmer được lưu giữ và nuôi
dưỡng tại chùa. Khi thiết chế quản lý nhà nước vươn tới các phum, sóc
thì bộ máy tự quản lý truyền thống đã rút lui vào chùa và chính ở đây
CHƯƠNG V: THIẾT CHẾ TỰ QUẢN CỦA NGƯỜI KHMER... 423

với chức năng của Ban quản trị chùa, nó lại tiếp tục thực hiện vai trò
quản lý và điều hành đời sống xã hội của cộng đồng phum, sóc (xem
thêm Phụ lục VIII).

2. Bộ máy quản lý chùa


Người Khmer Nam Bộ vừa là thành viên của sóc (con sóc) vừa là
một tín đồ Phật giáo Tiểu thừa. Bên cạnh sự quản lý của bộ máy tự quản
phum, sóc họ còn chịu sự quản lý của hệ thống tổ chức nhà chùa.
Hệ thống tổ chức Phật giáo có từ Trung ương đến địa phương, cao
nhất là Giáo hội Trung ương, dưới Giáo hội Trung ương ở cấp tỉnh có
Sa la kon (Hội đồng sư sãi), đứng đầu cấp huyện có Anakon, từng khu
vực gồm nhiều sư có Upechia. Đây là hệ thống tổ chức của giáo hội theo
ngành dọc, ít liên quan tới tín đồ của phum, sóc.
Riêng bộ máy của nhà chùa trong sóc, không chỉ thuần túy trên lĩnh
vực tôn giáo mà còn cả những vấn đề văn hóa, giáo dục, xã hội khác.
Đứng đầu mỗi chùa có một vị sư cả (lục Krou). Sư cả là người trụ trì ngôi
chùa, vị lãnh đạo tôn giáo cao nhất của một hoặc vài sóc. Sư cả thường
là người cao tuổi đã qua nhiều lớp đào tạo, am hiểu giáo lý, thuộc kinh
kệ, giỏi chữ Phạn và hiểu biết sâu sắc văn hóa truyền thống của người
Khmer, đồng thời là người tình nguyện chọn đời tu hành. Trước đây sư
cả còn được tu học ở các trường Phật học ở Campuchia hoặc Thái Lan,
có bằng cấp về trụ trì các chùa. Sư cả là người rất có uy tín, có vị thế đặc
biệt hơn cả “mê sóc” và được dân trong sóc hết mực kính trọng. Trong
tâm thức của người Khmer, sư cả được coi là người đại diện cho Đức
Phật, những lời giáo huấn của sư cả được nhân dân tôn trọng và thực thi
một cách nghiêm túc. Thường là những cuộc tranh chấp, bất hòa giữa
các thành viên gia đình Khmer trong sóc đều được sư cả và các vị sư
sãi đứng ra giải quyết êm đẹp. Trong không gian trầm mặc, tôn nghiêm
của nhà chùa, người dân đến đây với lòng sùng kính, nên tạo không khí
thuận lợi cho việc hòa giải. Mặt khác, sư cả thường vận dụng những
giáo lý Phật giáo về lòng vị tha, thương người, sống cần làm phước để
424 VÙNG ĐẤT NAM BỘ VIII THIẾT CHẾ QUẢN LÝ XÃ HỘI

mong cuộc đời tốt đẹp mai sau, nên thường dễ dàng thuyết phục được
các bên tranh chấp.
Ngoài sư cả, trong chùa còn có một hoặc hai sư phó. Họ là người
trợ lý giúp việc cho sư cả, chịu trách nhiệm trông coi mọi việc trong
chùa và việc ngoài đời có liên quan đến chùa, duy trì kỷ luật và tu
hành trong chùa.
Giới chức thứ ba trong chùa là các tỳ kheo - những người tu
hành từ 20 tuổi trở lên. Tỳ kheo có nhiều nhiệm vụ đi khất thực, đi
giảng kinh, đi làm các cuộc lễ riêng cho các gia đình, cá nhân ở trong
chùa hay xa chùa.
Cuối cùng là tầng lớp sa di. Lớp này thường là 10 tuổi trở lên, được
cha mẹ cho vào chùa tu học, phục vụ các sư sãi, quét dọn nhà chùa, lau
chùi tượng Phật. Các sa di tu đến năm 20 tuổi thì tùy từng người, tiếp
tục ở lại tu sang bậc tỳ kheo hoặc hoàn tục về nhà làm ăn bình thường.
Trong mỗi chùa, cùng với sư cả, sư phó và các sư sãi chuyên lo các
việc tôn giáo, còn có tổ chức của tín đồ là Ban quản trị chùa (Knã kô ma
ca wat). Chức năng của Ban quản trị chùa là nhằm điều phối mối quan
hệ giữa nhà chùa với các thành viên của sóc. Ban quản trị chùa thường
có tới 9, 10 người, trong đó vị chủ chùa (Nhôm wat) thường là người khá
giả ở địa phương và thông thường trong buổi đầu thành lập sóc những
người đầu tiên đứng ra lập chùa đều trở thành “Nhôm wat”, thầy phụ
trách nghi lễ (Acha wat) và một số vị khác phụ trách về tài chánh, Phật
sự. Họ là những người sùng đạo, biết cách tổ chức các nghi lễ, đồng thời
am hiểu phong tục tập quán của dân tộc Khmer. Phật giáo Khmer Nam
Bộ thông qua Ban quản trị chùa để giúp vào việc quản lý phum, sóc. Ban
quản trị chùa, sau khi hỏi ý kiến và bàn bạc với sư cả, sư phó, thay mặt
nhà chùa đứng ra quyết định và giải quyết mọi công việc liên quan tới
hoạt động tôn giáo. Họ là người hoạch định chương trình và đứng ra tổ
chức các buổi lễ, định địa tô cho chùa, giải quyết những vấn đề Phật sự
như sửa sang, trùng tu chùa, tìm kiếm những ngân khoản chi tiêu cho
nhà chùa.
CHƯƠNG V: THIẾT CHẾ TỰ QUẢN CỦA NGƯỜI KHMER... 425

Trong các sóc Khmer Nam Bộ còn tồn tại một tổ chức tín đồ phật
tử khác gọi là các “wel” hay “wiêl”. Wel là tập hợp một số lượng gia đình
phật tử nhất định, phân theo khu vực địa lý và cả theo nguyện vọng
(giống như các tổ, đội trong các hợp tác xã nông nghiệp của người Việt),
để thực hành những công việc nhà chùa. Mỗi chùa tùy theo quy mô số
lượng dân sóc đông hay ít mà có nhiều hay ít wel. Ví dụ, ở xã Hiếu Tử,
huyện Tiểu Cần, tỉnh Trà Vinh có 3 chùa Khmer, trong đó chùa Ô Dùng
có 13 wel, chùa Tân Đại có 6 wel, chùa Ô Chao có 7 wel. Ngoài khu vực
địa lý và nguyện vọng, cách phân chia ở đây còn chú ý tới khả năng giàu
nghèo của các gia đình phật tử, để không tập trung nhiều gia đình giàu
có vào một wel và ngược lại.
Đứng đầu mỗi wel có một mê wel, là người giúp việc cho Ban quản
trị chùa (trong nhiều trường hợp các mê wel đồng thời là thành viên
trong Ban quản trị của chùa). Mê wel là người có đạo đức, trung thực,
thẳng thắn, có hiểu biết kinh kệ và ở những gia đình có uy tín, được dân
trong wel bình chọn và được Ban quản trị chùa đề nghị với sư cả công
nhận. Các wel được tổ chức nhằm:
- Để nhà chùa tổ chức việc quyên góp, nhận cơm và thức ăn hằng
ngày của con sóc cúng dường. Vào một ngày nhất định trong tháng, từ
sáng sớm các con sóc trong wel chuẩn bị cơm và thức ăn để dâng cúng
cho nhà chùa. Nhà chùa sẽ cử một số sư (các tỳ kheo) cùng với trẻ em
giúp việc mang theo các đồ đựng đến từng nhà trong wel nhận cơm
và thức ăn của con sóc mang về chùa cho các sư sãi dùng trước 12 giờ.
Nhà chùa mỗi ngày chỉ đi nhận cơm và thức ăn ở một wel, cứ lần lượt
như vậy cho tới khi giáp vòng trở lại. Các wel cũng là những đơn vị
thực hiện trách nhiệm và nghĩa vụ công việc nhà chùa. Mỗi khi có việc
tu sửa, xây dựng chùa hay tổ chức các Phật sự khác, Ban quản trị chùa,
sau khi thống nhất với sư cả, sư phó thì phân bổ công việc và sự đóng
góp về các wel. Mê wel có nhiệm vụ phổ biến, tuyên truyền động viên,
khuyến khích các con sóc trong welt tham gia đóng góp công sức hay
cúng dường cho nhà chùa, Phật sự.
426 VÙNG ĐẤT NAM BỘ VIII THIẾT CHẾ QUẢN LÝ XÃ HỘI

- Thực hiện các việc công ích xã hội chung của phum sóc theo sự
phân bổ của Ban quản trị sóc, như tham gia vệ sinh, làm đường sá,
lao động công ích trong sóc hay tham gia đóng góp công sức, tiền của
trong các dịp lễ tết truyền thống dân tộc và Phật giáo. Trên thực tế,
wel là khâu nối giữa nhà chùa và sóc, góp phần vào công việc chung
của sóc.
- Các gia đình chia sẻ những khó khăn và giúp đỡ nhau khi
hoạn nạn. Mọi gia sự, vui hay buồn của một gia đình trước hết là
những người trong cùng một wel đến góp vui hay thăm hỏi chia sẻ
buồn đau.
Như vậy, về mặt giáo lý, nhà chùa và các vị sư sãi chỉ chăm lo việc
tu hành, thờ phụng và đời sống tâm linh cho nhân dân trong sóc,
không tham dự vào việc thế tục. Nhưng trên thực tế, vùng nông thôn
Khmer Nam Bộ, nhà chùa và các vị sư sãi đã có những đóng góp tích
cực trong việc quản lý phum sóc. Đặc biệt là khi thiết chế quản lý
nhà nước vươn tới các phum sóc Khmer thì bộ máy tự quản truyền
thống đã rút lui vào chùa và chính ở đây với chức năng của Ban quản
trị chùa, nó lại tiếp tục thực hiện vai trò quản lý và điều hành đời
sống xã hội của cộng đồng phum, sóc.
Tóm lại, tổ chức xã hội Khmer Nam Bộ truyền thống được vận
hành dựa theo những tập tục văn hóa của một cư dân nông nghiệp
lúa nước, đồng thời dựa trên những định chế của Phật giáo Tiểu
thừa. Sự đan xen hỗn hợp giữa thiết chế xã hội tự quản truyền thống
với tôn giáo đã tạo cho vùng nông thôn Khmer một đặc tính xã hội
riêng, khác với các tộc người khác cùng cư trú trong vùng. Cơ chế
quản lý xã hội truyền thống phum sóc Khmer Nam Bộ là sự kết hợp
giữa tổ chức tự quản của cộng đồng phum sóc với sự tham dự của bộ
máy quản lý chùa Phật giáo Khmer. Mối quan hệ giữa hai yếu tố trên
đây nhằm duy trì sự ổn định và tồn tại của phum, sóc và tạo cho
CHƯƠNG V: THIẾT CHẾ TỰ QUẢN CỦA NGƯỜI KHMER... 427

phum, sóc Khmer một diện mạo riêng biệt khác với làng, xã người
Việt - cư dân chiếm ưu thế cùng cộng cư với người Khmer, Hoa,
Chăm. Trong cơ chế kết hợp đó, người Khmer cảm thấy dễ chịu,
bình yên và luôn cảm thấy mình là chủ nhân của phum, sóc. Họ có ý
thức trách nhiệm tự giác rất cao trong việc bảo vệ, xây dựng phum,
sóc của mình và luôn cảm thấy gắn bó, vinh dự vì mình là một cá
nhân, một thành viên của cộng đồng phum, sóc.
Khi chúa Nguyễn vươn tới vùng Nam Bộ, một bộ máy quản lý
hành chính của chính quyền phong kiến được hình thành ở vùng
Khmer bao trùm lên bộ máy tự quản truyền thống ở các phum, sóc.
Sóc, đơn vị xã hội truyền thống của người Khmer bị tích hợp vào
làng, xã của bộ máy hành chính chúa Nguyễn và nhà Nguyễn sau
này và bị biến đổi dần do sự phân cách địa lý hành chính của chính
quyền. Bộ máy chính quyền phong kiến làm cho bộ máy tự quản
của phum, sóc dần dần bị mất đi và được thay thế dần bằng bộ máy
chính quyền của nhà nước. Các mê sóc bị thay thế bởi các hương cả,
hương chủ, hương thôn - là những chức sắc của chính quyền làng, xã
phong kiến, theo mô hình của làng Việt.
Để duy trì và bảo vệ cơ cấu xã hội truyền thống trước chính sách
đồng hóa của nhà Nguyễn và thực dân Pháp sau này, cư dân Khmer
đã bám trụ trên các phum, sóc của mình xung quanh ngôi chùa, dựa
vào hệ thống quản lý nhà chùa để giải quyết những công việc trong
cộng đồng. Phật giáo trở thành chỗ dựa để chống lại sự đồng hóa về
mọi mặt của chính quyền phong kiến và thực dân. Bộ máy quản lý
nhà chùa được nới rộng, ngoài những chức năng thuần túy tôn giáo
còn đảm nhận chức năng tổ chức và quản lý xã hội. Ban quản trị
chùa và các wel với tư cách là đơn vị tổ chức của tín đồ được củng
cố, vừa chăm lo Phật sự vừa chăm lo tất cả sinh hoạt văn hóa - xã
hội khác. Ngôi chùa trở thành trung tâm sinh hoạt văn hóa - xã hội,
428 VÙNG ĐẤT NAM BỘ VIII THIẾT CHẾ QUẢN LÝ XÃ HỘI

nhằm duy trì sự tồn tại và phát triển của cộng đồng người Khmer,
trước chính sách đồng hóa của phong kiến nhà Nguyễn và các chế
độ thực dân sau đó.
Mặc dù bộ máy quản lý của chính quyền phong kiến, thực dân
được xác lập và có ảnh hưởng rất lớn, thay thế một số chức năng
của bộ máy tự quản trước kia, nhưng do sức sống của nó trong xã
hội Khmer cổ truyền, các chức năng đối nội của bộ máy tự quản về
nhiều mặt được chuyển sang bộ máy quản lý chùa. Bộ máy quản lý
này, tuy về danh nghĩa không được nhà nước công nhận, nhưng trên
thực tế nó lại đóng vai trò cực kỳ quan trọng trong việc tổ chức quản
lý cộng đồng. Mặt khác, khi vai trò nhà nước càng ngày càng cần có sự
ảnh hưởng sâu rộng đến cư dân thì chính quyền thực dân phong kiến
cũng muốn sử dụng các sư sãi có uy tín để phục vụ cho mục đích chính
trị của mình. Sức sống của bộ máy quản lý nhà chùa vẫn duy trì phát
triển cho tới tận ngày nay.
429

Chương VI

THIẾT CHẾ TỰ QUẢN CỦA NGƯỜI HOA


Ở NAM BỘ

I- VÀI NÉT VỀ NGƯỜI HOA Ở NAM BỘ

1. Khái niệm
Người Hoa ở Việt Nam nói chung và người Hoa ở Nam Bộ nói
riêng, từ trước đến nay có nhiều cách biểu đạt. Ở Việt Nam, theo thống
kê của Tổng cục Thống kê, dựa trên số liệu điều tra dân số năm 1999,
có 862.371 người. Phần lớn người Hoa ở Việt Nam, tập trung sinh sống
ở các tỉnh Nam Bộ, trong đó ở Thành phố Hồ Chí Minh có khoảng
450.000 người. Theo Chỉ thị số 62-CT/TW, ngày 8-11-1995 Về tăng
cường công tác người Hoa trong tình hình mới của Ban Bí thư Trung
ương Đảng Cộng sản Việt Nam, khái niệm “Người Hoa ở Việt Nam”
được hiểu như sau:
Đó là “Những người gốc Hán và những người thuộc dân tộc ít
người ở Trung Quốc đã Hán hóa di cư sang Việt Nam và con cháu của
họ đã sinh ra, lớn lên tại Việt Nam, đã nhập quốc tịch Việt Nam, nhưng
vẫn còn giữ những đặc trưng văn hóa, chủ yếu là ngôn ngữ, phong tục
tập quán của dân tộc Hán và tự nhận mình là người Hoa”1.
Khái niệm “Người Hoa ở Việt Nam” trên đây xác định, người Hoa
là một dân tộc ít người ở Việt Nam, trong số 54 thành phần các dân tộc

1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia,
Hà Nội, 2007, t.54, tr. 608.
430 VÙNG ĐẤT NAM BỘ VIII THIẾT CHẾ QUẢN LÝ XÃ HỘI

ở Việt Nam. Người Hoa là công dân Việt Nam, và phân biệt với một bộ
phận được gọi là “Hoa kiều”, là những người Trung Hoa sinh sống, cư
trú ở Việt Nam, nhưng không nhập quốc tịch Việt Nam. Họ là những
kiều dân giống như những người nước ngoài đang sinh sống và làm việc
ở Việt Nam.
So với người Hoa ở một số vùng miền khác, người Hoa ở Nam Bộ
có những nét riêng về lịch sử và văn hóa trong quá trình hội nhập vào
cộng đồng các dân tộc Việt Nam.

2. Quá trình nhập cư của người Hoa ở Nam Bộ


a) Từ giữa thế kỷ XIX trở về trước
Những di dân Trung Hoa, nhập cư vào vùng đất Nam Bộ từ khá
sớm, ít nhất cũng từ khoảng giữa thế kỷ XVI. Phần lớn những di dân
này xuất phát từ vùng duyên hải phía Nam Trung Hoa, như các tỉnh và
vùng miền Quảng Đông, Phúc Kiến, Triều Châu, Hải Nam... Họ đến
Nam Bộ bởi nhiều lý do.
- Phần lớn những di dân Trung Hoa tìm đến Việt Nam là những
nông dân, thợ thủ công nghèo đói, không thể sống nổi ở Trung Hoa
do bị bóc lột nặng nề, mất mùa, dịch bệnh, các cuộc xung đột của
các thế lực phong kiến địa phương ở Trung Hoa. Vùng đất Nam Bộ
đương thời hãy còn hoang hóa, đất rộng người thưa, điều kiện thiên
nhiên có nhiều thuận lợi cho các hoạt động kinh tế như nông nghiệp,
tiểu thủ công nghiệp, thương mại dịch vụ...
- Vào khoảng cuối thế kỷ XVII, ở Trung Quốc, thế lực Mãn Thanh lật
đổ nhà Minh, thiết lập triều đại nhà Thanh. Sự lên ngôi của nhà Thanh
đã khiến một bộ phận đông đảo quan lại, binh lính, trí thức vốn phục vụ
dưới thời nhà Minh bất mãn, đã tìm cách rời bỏ đất nước Trung Hoa, tìm
nơi tị địa. Những người này đã kéo đến Việt Nam, xin với chúa Nguyễn ở
Đàng Trong cho “tị nạn chính trị”. Điển hình cho nhóm người này là đoàn
quan lại và binh lính nhà Minh dưới sự lãnh đạo của Trần Thượng Xuyên
CHƯƠNG VI: THIẾT CHẾ TỰ QUẢN CỦA NGƯỜI HOA... 431

và Dương Ngạn Địch đến Việt Nam vào năm 1679. Chúa Nguyễn đã chấp
nhận và cho phép đoàn người này, gồm khoảng 3.000 người và 60 chiến
thuyền, đến vùng đất Nam Bộ ngày nay cư trú, sinh sống. Trần Thượng
Xuyên đã dẫn một bộ phận đến cư trú và khai phá vùng đất Biên Hòa, còn
Dương Ngạn Địch đến vùng đất Mỹ Tho trên sông Tiền. Nhóm những
người này hy vọng sau thời gian ở Nam Bộ, sẽ có cơ hội “Phản Thanh
phục Minh”. Nhưng qua nhiều năm tháng, ý nguyện không thành, họ tiếp
tục sinh sống lâu dài và hội nhập vào cộng đồng các cư dân ở Nam Bộ.
- Đến Nam Bộ, còn có một bộ phận người Hoa vốn là những thương
nhân, họ tìm nơi buôn bán, mở rộng các hoạt động thương mại, dịch vụ
ra bên ngoài Trung Hoa. Vùng đất Nam Bộ là nơi có nhiều thuận lợi cho
các hoạt động thương mại, vì nằm trên các con đường buôn bán giao
thương quốc tế, nơi có nhiều sản vật địa phương. Tiêu biểu cho trường
hợp này là Mạc Cửu. Ông là một thương nhân người Quảng Đông, đã
nhiều năm buôn bán ở nhiều quốc gia Đông Nam Á1. Năm 16802, ông
cùng khoảng 500 người và một số thuyền buôn đã tìm đến vùng đất
ngày nay là Hà Tiên. Lúc đó Hà Tiên thuộc vương quốc Chân Lạp. Mạc
Cửu đã tổ chức công cuộc khai mở đất Hà Tiên thành một thương cảng
quốc tế phát đạt trong vùng. Sau đó, ông xin được sáp nhập vào đất Nam
Bộ ngày nay. Các chúa Nguyễn và vua Nguyễn đã chấp nhận và phong
ông làm Tổng trấn Hà Tiên cai quản một vùng rộng lớn, mà có tác giả
gọi là “Vương quốc Hà Tiên”.
- Đến vùng đất Nam Bộ, trong thuở ban đầu, còn có một số tội đồ,
những kẻ bất tuân phục triều đình phong kiến Trung Hoa bị truy nã. Họ
đến Nam Bộ để trú ngụ, mai danh ẩn tích, sinh sống nhờ nơi đất khách.
Ngoài ra còn có các nho sĩ, thầy thuốc, thầy bói... cùng đi với các nhóm
di dân Trung Hoa đến Nam Bộ, hành nghề kiếm sống.

1. Cũng có một số tài liệu cho rằng Mạc Cửu là một võ quan trong quân đội
của Trịnh Thành Công chống lại nhà Thanh, sau khi Trịnh Thành Công thất bại,
ông đã rời bỏ Trung Hoa.
2. Một số tư liệu ghi rằng Mạc Cửu đến Hà Tiên năm 1671.
432 VÙNG ĐẤT NAM BỘ VIII THIẾT CHẾ QUẢN LÝ XÃ HỘI

Được sự chấp thuận và cho phép của chính quyền phong kiến Đàng
Trong và Việt Nam sau này, những di dân Trung Hoa đã đến vùng đất
Nam Bộ sinh sống. Họ đã góp phần tích cực vào công cuộc khai mở và
bảo vệ vùng đất Nam Bộ trong lịch sử.

b) Thời kỳ Pháp thuộc


Cuối thế kỷ XIX, người Pháp đã hoàn tất việc thôn tính vùng đất
Nam Bộ, và bắt tay vào công cuộc khai thác thuộc địa. Công cuộc khai
thác thuộc địa ở Việt Nam và Đông Dương đòi hỏi một nguồn nhân lực
rất lớn để mở mang hệ thống giao thông đường bộ, đường sắt, để khai
khẩn vùng đất trồng lúa ở đồng bằng sông Cửu Long và các đồn điền
trồng cao su, cà phê, trà ở Tây Nguyên... Nguồn nhân lực tại chỗ không
đáp ứng đủ, vì vậy, chính quyền thuộc địa đã đàm phán với chính quyền
Trung Hoa nhằm tuyển mộ nhân công từ Trung Quốc.
Ngay từ năm 1865, một số điểm nhập cư nằm ngay trên bến sông
Sài Gòn để đón nhận những người nhập cư từ Trung Hoa đến phục vụ
cho công cuộc khai khẩn vùng đất Nam Bộ. Đến năm 1874, chính quyền
thuộc địa Pháp ở Nam Kỳ đã chính thức tổ chức Sở Cảnh sát nhập cư
để quản lý số người Trung Hoa đến Nam Bộ ngày một thêm đông đảo.
Trong giai đoạn ban đầu, việc nhập cư của lao động Trung Hoa đến
Nam Bộ tương đối dễ dàng, các thủ tục nhập cư khá đơn giản, không
cần các giấy tờ tùy thân, chỉ cần sự chấp nhận và bảo lãnh của các bang,
hội người Hoa ở Sài Gòn, Chợ Lớn là đủ và họ chỉ phải nộp một khoản
tiền thuế thân theo quy định.
Sự khuyến khích và ưu đãi của chính quyền thuộc địa đã làm
gia tăng nhanh chóng số lượng người Trung Hoa đến Nam Kỳ. Vào
cuối thế kỷ XIX, đầu XX, đã có hiện tượng các di dân Trung Hoa ồ
ạt tìm đến vùng đất này, tạo thành những làn sóng nhập cư vào Nam
Bộ. Nếu năm 1879 ở Nam Kỳ chỉ có 44.000 người Trung Hoa, thì
mười năm sau, đã có 57.000 người nhập cư trên tổng dân số Nam
Bộ ước gần 2 triệu người. Phần lớn số người Trung Hoa nhập cư
CHƯƠNG VI: THIẾT CHẾ TỰ QUẢN CỦA NGƯỜI HOA... 433

được phân bố ở các thành thị và các vùng nông thôn Nam Bộ. Chợ
Lớn: 16.000 người, Sài Gòn: 7.000 người, Sóc Trăng: 5.000 người, Trà
Vinh: 4.000 người...1. Trong những năm 1928-1930, theo số liệu ghi
nhận ở cảng Sài Gòn, có 237.000 lượt người nhập cư từ Trung Hoa.
Trong số đó có hơn 100.500 người lưu lại ở Nam Bộ. Năm 1937, ước
có 171.000 người Trung Hoa ở Nam Kỳ, chiếm khoảng 3,7% dân số
toàn vùng. Đến năm 1940, số lượng người Hoa ở Nam Kỳ đạt đến
con số 380.000 người. Đó là chưa kể những người Trung Hoa nhập
cư lậu không kiểm soát và thống kê được2.
Việc nhập cư ồ ạt vào những năm 1930 đã khiến chính quyền thuộc
địa Pháp ở Nam Kỳ bối rối, vì không quản lý được đầy đủ. Vì thế, từ
những năm 1940 trở đi, chính quyền Pháp đã tìm cách hạn chế tốc độ
gia tăng của những người Trung Hoa nhập cư vào Nam Kỳ.

c) Từ năm 1954 đến năm 1975


Làn sóng nhập cư của cư dân Trung Hoa đến vùng đất Nam Bộ
Việt Nam, chỉ chấm dứt vào năm 1949, khi nước Cộng hòa nhân dân
Trung Hoa được thành lập. Từ sau năm 1949 trở đi, chỉ còn một số
ít người Trung Hoa nhập cư lẻ tẻ, đó là số nhập cư lậu không đáng
kể. Chính phủ Trung Quốc đã đình chỉ những cuộc di dân từ Trung
Hoa đến các nước khác, đặc biệt là các nước Đông Nam Á. Sau năm
1954, nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa không có quan hệ ngoại
giao với chính quyền Sài Gòn, chỉ có chính quyền Đài Loan có Đại
sứ quán ở Sài Gòn, đảm nhiệm các công việc liên quan đến người
Hoa ở Nam Bộ.
Từ sau Hiệp định Genèvơ 1954, miền Nam Việt Nam đón nhận
một số lượng khá lớn, ít nhất cũng hơn 1 triệu người từ miền Bắc
di cư vào Nam. Trong số này có một bộ phận người Hoa từng sinh

1, 2. Theo Tsai Maw Kuey: Người Hoa ở miền Nam Việt Nam, Thư viện Quốc
gia Paris, 1968.
434 VÙNG ĐẤT NAM BỘ VIII THIẾT CHẾ QUẢN LÝ XÃ HỘI

sống ở miền Bắc Việt Nam theo chính quyền thực dân Pháp di cư vào
Nam mà phần nhiều do các luận điệu tuyên truyền xuyên tạc, hoặc sự
cưỡng ép di cư. Wòng A Sáng, một sĩ quan cấp tá của quân đội Pháp
có địa bàn hoạt động ở vùng Đông Bắc Bắc Bộ đã đem toàn bộ sư đoàn
của mình di cư vào Nam. Đội quân của Wòng A Sáng phần nhiều là
người Nùng và một số người Hoa. Chính quyền Sài Gòn thân Mỹ, đã
tìm cách “thanh trừng” những thế lực thân Pháp, trong đó có sư đoàn
của Wòng A Sáng. Lực lượng của Wòng A Sáng được phân nhỏ về
các vùng bên ngoài Sài Gòn như ở sông Mao tỉnh Bình Thuận và một
vài nơi ở Đồng Nai, Lâm Đồng... Sau một thời gian, số binh sĩ người
Nùng, người Hoa và gia đình của họ trở lại cuộc sống của người dân
thường, và hình thành nên các nhóm cư dân cư trú ở Nam Trung Bộ
và Đông Nam Bộ được gọi dưới cái tên là “Hoa Nùng”. Xét về thành
phần tộc người nhóm Hoa Nùng khá phức tạp, ngoài phần nhiều là
người Nùng, người Hoa, còn có một số dân tộc ít người vùng Đông
Bắc Bắc Bộ như người Ngái, người Sán Dìu... Vấn đề “Hoa Nùng”, cho
đến nay đang có một số ý kiến, tuy nhiên, ở một số địa phương xếp
nhóm Hoa Nùng vào người Hoa ở Nam Bộ1.
Quá trình nhập cư của người Hoa ở Nam Bộ kéo dài trong nhiều
thế kỷ, ít nhất cũng từ thế kỷ XVI trở về sau. Những di dân từ vùng
duyên hải phía Nam Trung Hoa đến Nam Bộ bởi nhiều lý do, nhưng
hơn hết là do nghèo đói, họ đi tìm miền đất mưu sinh. Nam Bộ, và sớm
nhất là các chúa Nguyễn và vua Nguyễn đã nhìn thấy những ưu thế của
người Hoa trong công cuộc mở mang miền đất phương Nam, đã nhiệt
tình đón tiếp, giúp đỡ người Hoa định cư, ổn định, phát triển cuộc sống
của họ. Chúa Nguyễn, vua Nguyễn và các chính quyền tiếp theo, người
Pháp, chính quyền Sài Gòn thân Mỹ, đã tìm mọi cách để quản lý người

1. Vừa qua, trong một đề tài nghiên cứu về người Hoa ở Đồng Nai, nhiều ý
kiến đề nghị xem đó là người Hoa ở Việt Nam. Số người Hoa ở Đồng Nai có gần
100.000 người, kể cả Hoa Nùng trước đây.
CHƯƠNG VI: THIẾT CHẾ TỰ QUẢN CỦA NGƯỜI HOA... 435

Hoa ở Nam Bộ. Cũng trong bối cảnh đó, người Hoa, để tồn tại và phát
triển, đã cố gắng thích ứng, tạo cho mình những thiết chế tự quản phù
hợp và hữu hiệu nhất.

3. Hiện trạng người Hoa ở Nam Bộ


a) Người Hoa ở Thành phố Hồ Chí Minh
Theo kết quả điều tra dân số năm 1999, dân số người Hoa ở Thành
phố Hồ Chí Minh có 428.576 người, chiếm 8,5% dân số toàn Thành phố.
Ở Thành phố Hồ Chí Minh, người Hoa tập trung cư trú và sinh sống tại
một số quận, huyện như: quận 11: 105.524 người (chiếm 44,32% dân số
toàn quận); quận 5: 72.142 người (chiếm 49,8% dân số toàn quận); quận
6: 71.088 người (chiếm 28% dân số toàn quận); quận 10: 27.197 người
(chiếm 11,3% dân số toàn quận)... Quận 5, 6, 10 vốn là khu vực Chợ Lớn
trước đây, nơi cộng đồng người Hoa tụ cư khá sớm ở Nam Bộ. Vào giữa
thế kỷ XIX, một tác giả nước ngoài đã nhận xét: Chợ Lớn là một trung
tâm náo nhiệt, nơi đây tập trung tất cả thương mại là người Hoa, và có
thể nói là họ độc quyền... Phần nhiều người Hoa ở Thành phố Hố Chí
Minh là bà con lao động nghèo nên tập trung sinh sống trong các hẻm
phố chật chội và chung quanh các cơ sở tôn giáo cộng đồng như các
ngôi miếu, các từ đường...
Hoạt động kinh tế của người Hoa ở Thành phố Hồ Chí Minh diễn
ra trên nhiều lĩnh vực, nhưng tập trung và có ưu thế nhất là sản xuất
tiểu thủ công nghiệp và thương mại dịch vụ. Lịch sử hoạt động kinh tế
của người Hoa từ khi nhập cư đến nay cũng đã có nhiều thay đổi. Tìm
đến vùng đất Nam Bộ, đa số người Hoa là dân lao động nghèo, thợ thủ
công nên họ khởi nghiệp bằng các công việc làm thuê mướn, thu mua
phế liệu. Một số người có chút vốn liếng thì mở cửa hàng tạp hóa, buôn
bán lặt vặt các thứ hàng nhu yếu phẩm, các hiệu ăn bình dân, xe đẩy bán
bánh bao, hủ tiếu. Dần dần nhờ vào sự chịu khó làm ăn, cần kiệm và sự
giúp sức của cộng đồng, một số người Hoa đã trở nên giàu có, buôn bán
436 VÙNG ĐẤT NAM BỘ VIII THIẾT CHẾ QUẢN LÝ XÃ HỘI

phát đạt, kinh doanh nhiều ngành hàng. Trước năm 1975, ở khu vực Sài
Gòn - Chợ Lớn đã có nhiều người Hoa giàu có, đứng đầu các ngành sản
xuất kinh doanh, được gọi là “vua”, như Mã Hỷ là “vua lúa gạo”, Trần
Thành là “vua sắt thép”. Vào đầu thế kỷ XX, những người Hoa giàu có
ở Sài Gòn - Chợ Lớn được biết đến như Chú Hỏa (Hui Bon Hoa), có
rất nhiều bất động sản, nhiều khu phố do ông kiểm soát; Quách Đàm là
một đại gia người Hoa, khởi nghiệp ở Chợ Lớn bằng nghề thu mua phế
liệu, đã bỏ tiền ra xây chợ Bình Tây tặng Sài Gòn - Chợ Lớn hiện nay.
Hiện nay ở Thành phố Hồ Chí Minh, người Hoa tập trung vào lĩnh
vực sản xuất tiểu thủ công nghiệp. Một số ngành nghề người Hoa có
nhiều ưu thế như chế biến lương thực (Kinh Đô, Cầu Tre, Cholimex...);
dệt may gia công và các sản phẩm da (Bitis, Bitas...); các sản phẩm nhựa
(Đại Thành, Đại Phát...). Một số nghề thủ công mang tính truyền thống
của người Hoa như thuộc da, làm hàng mã, thủy tinh... Những đóng
góp về hoạt động tiểu thủ công nghiệp của người Hoa trong cơ cấu kinh
tế tiểu thủ công nghiệp khá lớn, ước tính khoảng 30%.
Trên lĩnh vực thương mại dịch vụ, người Hoa ở Thành phố Hồ Chí
Minh đã có nhiều ưu thế. Ở quận 5, 10, 11, nhiều nhà hàng, khách sạn
lớn do người Hoa quản lý, kinh doanh. Các dịch vụ vui chơi, giải trí của
khu vực Chợ Lớn cũng có sự tham gia tích cực của những nhà doanh
thương người Hoa. Trước đây, nói đến thương mại dịch vụ của người
Hoa thường hay nhắc đến các cửa hàng tạp hóa (chạppô). Hiện nay,
người Hoa cũng vẫn còn duy trì một số cửa hàng tạp hóa, nhưng nhiều
người Hoa đã mở các cửa hàng, siêu thị chuyên doanh về thời trang,
điện máy, điện thoại...
Trước năm 1975, các nhà tư sản người Hoa ở Sài Gòn - Chợ Lớn
đã mở rộng các hoạt động ngân hàng tài chính. Có khoảng 30/35 ngân
hàng ở Sài Gòn - Chợ Lớn có sự tham gia tài chính của người Hoa, trong
đó có 3 ngân hàng do người Hoa kiểm soát. Hiện nay, lĩnh vực ngân
hàng đã thu hút sự tham gia của người Hoa, như Ngân hàng Phương
Nam, do các cổ đông người Hoa góp vốn chiếm đa phần.
CHƯƠNG VI: THIẾT CHẾ TỰ QUẢN CỦA NGƯỜI HOA... 437

Nhìn chung, trên lĩnh vực hoạt động kinh tế, người Hoa ở Thành
phố Hồ Chí Minh đã có một vai trò, vị trí nhất định. Họ đã có những
đóng góp tích cực và hiệu quả cho sự phát triển nói chung của thành
phố trong quá khứ cũng như hiện tại.

b) Người Hoa tại các đô thị khác


Đặc điểm cư trú của người Hoa là tập trung sinh sống ở các thành
thị, thị trấn, thị tứ... Ở Nam Bộ, ngoài Thành phố Hồ Chí Minh là nơi
có tỷ lệ đông đảo người Hoa cư trú, các thành phố, thị xã, thị trấn khác
như Cần Thơ, Biên Hoà, Bình Dương, Sóc Trăng, Trà Vinh, Bạc Liêu...
là những địa phương có đông người Hoa so với các vùng, miền trong
khu vực.
Tại các đô thị ở Nam Bộ, người Hoa cư trú xen kẽ với người Việt và
các dân tộc khác như Khmer. Phần nhiều nhà ở của người Hoa nơi đây
là những nhà hình “ống” dọc ven các sông rạch, bến tàu, ghe, hoặc các
khu phố trung tâm có các hoạt động dịch vụ thương mại sầm uất. Ở Cần
Thơ, người Hoa tập trung ở khu vực bến Ninh Kiều, gần miếu Quan
Thánh Đế Quân. Ở Sóc Trăng, người Hoa sống đông đúc dọc khu chợ
ở trung tâm và một số phố dọc theo kênh Xáng (Maspero). Ở Cà Mau,
phố chợ của người Hoa dọc bến tàu thuyền ở thị xã... Những ngôi nhà
của người Hoa ở các đô thị khá dễ nhận biết, thường là nhà hình “ống”,
chiều ngang rộng khoảng 4m, sâu 15m - 20m, cao từ 2 đến 3 tầng, xây
bằng gạch, lợp ngói hoặc tôn xi măng. Đó là nơi ăn ở, sinh hoạt của gia
đình, nơi mở cửa hàng buôn bán, nơi sản xuất, trao đổi...
Ở các đô thị của các tỉnh Nam Bộ, hoạt động kinh tế của người
Hoa chủ yếu là thương mại, dịch vụ, một số ít làm các nghề thủ công.
So với Thành phố Hồ Chí Minh, các hoạt động thương mại, dịch vụ
của người Hoa ở các đô thị này có phần nhỏ hơn về quy mô. Thường
là các cửa hàng, mà phần nhiều là cửa hàng tạp hóa, cung ứng các mặt
hàng sinh hoạt. Trên các phố lớn trung tâm có một số khách sạn hai
sao và các cửa hàng ăn uống với các món ăn Âu, Á..., một số tiệm hủ
438 VÙNG ĐẤT NAM BỘ VIII THIẾT CHẾ QUẢN LÝ XÃ HỘI

tiếu, mì, hoành thánh, bánh bao... Người Hoa ở các đô thị cũng còn
chuyên doanh các mặt hàng thuốc đông dược, có nơi vừa xem mạch,
kê đơn và bốc thuốc chữa bệnh do các thầy thuốc người Hoa, và thảo
dược nhập từ Trung Hoa. Ở Sóc Trăng, nơi thị xã và vùng phụ cận
có nhiều cơ sở chế biến lương thực, thực phẩm của người Hoa Triều
Châu. Sản phẩm thủ công nổi tiếng của người Hoa ở Sóc Trăng là các
loại lạp xưởng và bánh “pía”, bánh mè láo... rất được người Nam Bộ
ưa chuộng.
Một số người Hoa ở đô thị và ven đô có các đại lý nông nghiệp, đôi
khi các đại lý nông nghiệp này kết hợp với các cửa hàng tạp hóa. Những
đại lý này làm nhiệm vụ thu mua các mặt hàng nông sản, chủ yếu là lúa
gạo. Các đại lý sẽ cung cấp cho nông dân trong vùng các vật tư nông
nghiệp như lúa giống, phân bón, thuốc trừ sâu, các nhu yếu phẩm... và
đôi khi cả việc cho vay vốn sản xuất. Đến khi thu hoạch, họ sẽ nhận lại
các loại sản phẩm nông nghiệp được khấu trừ vào các vật tư và tiền cho
nông dân vay mượn từ đầu vụ. Như vậy, các đại lý của người Hoa đã
nhận được những khoản lợi nhuận từ buôn bán vật tư và thu mua nông
sản. Mặt khác, ở các vùng ven đô, các đại lý của người Hoa đã tạo thuận
lợi cho người nông dân có điều kiện sản xuất nông nghiệp. Ở vùng Cái
Bè, Cai Lậy (Tiền Giang), thành phố Cần Thơ, còn có một số doanh
nghiệp của người Hoa không chỉ thu mua thóc lúa, mà còn tổ chức xay
xát lúa để lấy gạo xuất khẩu (trước đây việc xay xát, chế biến thường
được gia công ở Sài Gòn, Chợ Lớn sau khi thóc lúa được các ghe thuyền
chở về).

c) Người Hoa ở khu vực nông thôn


Số lượng người Hoa sinh sống ở các vùng nông thôn Nam Bộ
không nhiều, chủ yếu là nhóm Hoa Nùng, ở Đồng Nai, Bà Rịa - Vũng
Tàu. Những người Hoa này cư trú ở một số xã thuộc các huyện Xuân
Lộc, Định Quán, Thống Nhất... (Đồng Nai). Hoạt động kinh tế của họ
là làm nghề nông - trồng lúa, hoa màu và các loại cây ăn quả. Một số
CHƯƠNG VI: THIẾT CHẾ TỰ QUẢN CỦA NGƯỜI HOA... 439

người Hoa khá giả có trang trại trồng cà phê, trà, các loại cây ăn quả như
sầu riêng, chôm chôm, bưởi... Phần nhiều các gia đình người Hoa Nùng
canh tác một ít ruộng và đất vườn, nguồn thu nhập từ nông nghiệp chỉ
đủ sống. Kỹ thuật canh tác nông nghiệp của người Hoa cũng giống như
của người Việt và các cư dân trong địa phương. Sản phẩm trồng trọt
của các trang trại của người Hoa mang tính hàng hóa, cung cấp cho thị
trường trong nước và xuất khẩu.
Ở nông thôn huyện Vĩnh Châu, tỉnh Sóc Trăng, người Hoa ở xen
lẫn người Việt và người Khmer. Hoạt động kinh tế của họ chủ yếu sản
xuất nông nghiệp. Thường mỗi năm họ làm một vụ lúa, vụ còn lại
trồng hoa màu và các loại rau đậu. Sản phẩm trồng trọt đặc biệt của
người Hoa ở Vĩnh Châu là loại hành đỏ (còn gọi là hành tím) rất nổi
tiếng, dùng trong công nghiệp chế biến thực phẩm, làm gia vị. Cũng
ở Vĩnh Châu, một số gia đình người Hoa có vườn nhãn. Nhãn Vĩnh
Châu được tiêu thụ rộng rãi khắp nhiều vùng ở Nam Bộ. Một số hộ
gia đình người Hoa sống ở nông thôn thường kết hợp việc canh tác
nông nghiệp với việc buôn bán nhỏ. Các cửa hàng tạp hóa của người
Hoa đáp ứng nhu cầu mua bán của người dân trong vùng. Đôi khi các
cửa hàng tạp hóa này lại là nơi ăn uống, gặp gỡ của người dân trung
địa phương.
Ở một vài nơi thuộc tỉnh Bạc Liêu, có một số người Hoa chuyên
ngành sản xuất muối. Những hộ người Hoa này khai thác các ruộng
muối ven biển, cung cấp muối cho sinh hoạt và chế biến thực phẩm, đặc
biệt là nghề làm mắm cá của người Việt và người Khmer.
Tóm lại, hiện nay người Hoa cư trú và sinh sống hầu như khắp
nhiều vùng ở Nam Bộ từ thành thị đến nông thôn, cả ở những vùng
xa, vùng sâu. Hoạt động kinh tế của người Hoa khá đa dạng, thế
mạnh của họ là lĩnh vực thương mại, dịch vụ, thủ công nghiệp. Trải
qua nhiều thế kỷ chung sống với các dân tộc anh em người Việt,
người Khmer, người Chăm..., người Hoa đã tạo dựng cho mình một
cuộc sống kinh tế - văn hóa ổn định, phát đạt. Mặt khác, mối quan
440 VÙNG ĐẤT NAM BỘ VIII THIẾT CHẾ QUẢN LÝ XÃ HỘI

hệ đoàn kết gắn bó, giúp đỡ nhau giữa người Hoa và các dân tộc anh
em không ngừng tăng cường và phát triển. Người Hoa là thành viên
trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam nói chung và vùng đất Nam
Bộ nói riêng.

II- CÁC THIẾT CHẾ TỰ QUẢN CỦA NGƯỜI HOA Ở NAM BỘ

So với các dân tộc ít người ở Việt Nam, quá trình hình thành
cộng đồng tộc người của người Hoa ở Việt Nam và Nam Bộ có những
nét riêng. Đó là quá trình chuyển từ kiều dân thành công dân Việt
Nam, là quá trình hội nhập của người Hoa vào cộng đồng các dân
tộc Việt Nam. Để tồn tại và phát triển ở vùng đất Nam Bộ, cộng đồng
người Hoa đã tìm kiếm một thiết chế quản lý xã hội phù hợp, vừa bảo
tồn được văn hóa tộc người, vừa phát triển cộng đồng. Mặt khác, mối
quan hệ giữa người Hoa với các chính quyền Nhà nước Việt Nam
đương thời, đã đòi hỏi sự thích ứng nhất định trong mối tương quan
xã hội đó. Những thiết chế tự quản của người Hoa trong lịch sử trên
vùng đất Nam Bộ là một sự chọn lựa phù hợp để người Hoa tồn tại
và phát triển.

1. Làng Minh Hương và Thanh Hà


Sách Gia Định Thành thông chí của Trịnh Hoài Đức khi ghi chép
về người Hoa có đoạn: “Con cháu người Tàu (người Hoa - TG) ở nơi
Trấn Biên thì lập thành xã Thanh Hà, ở nơi Phiên Trấn thì lập thành
xã Minh Hương, rồi ghép vào sổ hộ tịch”1. Thực tế, không phải đợi
đến năm 1698 những đơn vị xã Thanh Hà và Minh Hương mới xuất
hiện, mà trước đó ở phủ Thừa Thiên đã có xã Thanh Hà và ở Hội An
đã có làng Minh Hương. Những ghi chép của Trịnh Hoài Đức nhằm
chỉ về làng Minh Hương và xã Thanh Hà được thiết lập đầu tiên trên
vùng đất Nam Bộ.

1. Trịnh Hoài Đức: Gia Định Thành thông chí, Sđd.


CHƯƠNG VI: THIẾT CHẾ TỰ QUẢN CỦA NGƯỜI HOA... 441

Minh Hương và Thanh Hà1 không phải là tên những làng xã của
người Hoa, mà là một thiết chế tổ chức xã hội của người Hoa đầu tiên
trên đất Nam Bộ. Một số tỉnh ở Nam Bộ, ngày nay vẫn còn dấu vết của
các làng Minh Hương xưa như Tân Hương ở Tiền Giang vốn là một
làng Minh Hương trước đây. Căn cứ vào một số tư liệu, có thể thấy làng
Minh Hương có khác với làng Việt và có một số điểm sau:
- Làng Minh Hương và Thanh Hà không có ranh giới, địa giới cụ
thể, rõ ràng như các làng Việt. Có thể thấy một số làng Minh Hương
“chồng” lên làng Việt như làng Minh Hương ở Chợ Lớn trước đây.
- Làng Minh Hương là một cộng đồng dân cư bao gồm những người
Hoa đã sinh sống nhiều đời (và cả một số người nhập cư đơn lẻ). Có ý
kiến cho rằng, làng Minh Hương là người Hoa lai hoặc đã là thần dân
của nhà nước phong kiến Việt Nam.
- Làng Minh Hương không trực thuộc hệ thống hành chính địa
phương của chính quyền phong kiến Việt Nam (tức các cấp: phủ, huyện,
tổng và xã sở tại). Khi nộp thuế hoặc có các công việc hành chính thì
người làng Minh Hương cử người lên cấp tỉnh (Quy định của vua Minh
Mạng năm 1829).
- Làng Minh Hương được bầu ra một Ban Quản lý, có người đứng
đầu, có nơi gọi là ông trùm, hoặc tiên chỉ và giúp việc là thứ chỉ. Ban quản
trị này được chính quyền cấp tỉnh phê duyệt và công nhận. Tiên chỉ, thứ
chỉ sẽ chỉ định lý trưởng và phó lý lo việc điều hành các công việc của làng.
Làng Minh Hương cũng giống như các làng Việt khác. Đó là những
người dân làng Minh Hương phải ghi tên vào sổ Bộ khi đến 18 tuổi.
Sổ Bộ này do chính quyền phong kiến Việt Nam quản lý và theo dõi.

1. Thanh Hà (có một số tư liệu là Thanh Hương) có nghĩa là làng người Thanh
Minh Hương. Đầu tiên, chữ Hương là hương hỏa, những người giữ hương hỏa
(gốc nguồn) của nhà Minh. Sau vua Minh Mạng đã đổi chữ Hương là làng, có
nghĩa là làng của những người nhà Minh.
442 VÙNG ĐẤT NAM BỘ VIII THIẾT CHẾ QUẢN LÝ XÃ HỘI

Căn cứ vào sổ Bộ, nhà nước sẽ định mức thu các loại thuế và các nghĩa
vụ quy định như mọi thần dân khác, cũng giống với các làng Việt. Tuy
nhiên, trong chừng mực nào đó các mức thuế và nghĩa vụ có sự gia giảm
ít nhiều đối với các thành viên làng Minh Hương. Nhà nước cũng quy
định các thành viên làng Minh Hương phải mặc quần áo như người
Việt, đàn ông không được cạo đầu thắt bím tóc như người nhà Thanh,
hoặc trang phục kiểu nhà Minh trước đó. Con cái người Minh Hương
không được tự ý mang về Trung Quốc. Những dân làng Minh Hương
có nghĩa vụ nộp các loại thuế và một số nghĩa vụ như đóng góp các công
việc công ích, họ được miễn trừ việc phục vụ trong quân ngũ. Người
Minh Hương chủ yếu đóng hai loại thuế là thuế thân khi đến 18 tuổi và
các loại thuế buôn bán, hàng hóa xuất nhập khẩu. Người dân làng Minh
Hương ở Chợ Lớn dưới triều Minh Mạng và Tự Đức nộp thuế thân mỗi
người hai nén bạc, sau giảm còn một nén, và thuế môn bài, được giảm
việc đi xâu hay tạp vụ. Xã trưởng (lý trưởng) thu các loại thuế này và
đem nộp lên tỉnh. Đôi khi xã trưởng phải ứng tiền riêng ra nộp, sau đó
mới thu lại của người dân.
Như vậy, làng Minh Hương và Thanh Hà là một thiết chế xã hội
mang tính tự quản của những người Hoa đến định cư và sinh sống lâu
dài ở Việt Nam, đã gia nhập quốc tịch Việt Nam. Cơ chế tổ chức làng
Minh Hương đã phù hợp với đặc điểm của cộng đồng người Hoa ban
đầu ở Nam Bộ. Người Hoa trong làng Minh Hương tự quyết định, tự
quản lý các công việc của cộng đồng. Nhà nước phong kiến Việt Nam,
bằng cơ chế tự quản đó đã dễ dàng kiểm soát người Hoa, tạo điều kiện
cho người Hoa hội nhập vào xã hội Việt Nam.

2. Tổ chức bang

Vào cuối thế kỷ XVIII, làn sóng nhập cư của người Trung Hoa đến
miền Nam Việt Nam gia tăng nhanh chóng. Việc kiểm soát của nhà
CHƯƠNG VI: THIẾT CHẾ TỰ QUẢN CỦA NGƯỜI HOA... 443

nước phong kiến Việt Nam đối với người Hoa gặp nhiều khó khăn.
Thiết chế tổ chức kiểu làng Minh Hương, Thanh Hà không còn đáp ứng
việc quản lý đối với người Hoa, nhất là những di dân Trung Hoa mới
đến Việt Nam. Vì vậy, đến năm 1865 chính quyền thuộc địa mới giải
tán, các làng Minh Hương sáp nhập vào làng Việt. Vào năm 1787, chúa
Nguyễn cho phép những di dân Trung Hoa mới đến Nam Bộ, đủ một số
lượng người nhất định, được phép thành lập các “bang”. Một số tác giả
cho rằng, phương thức tổ chức “bang” của người Hoa ra đời đầu tiên ở
Việt Nam, sau đó một vài quốc gia Đông Nam Á bắt chước mô hình này
để quản lý người Hoa nhập cư.
Bang là một tập hợp người Hoa đang sinh sống trên đất Việt
Nam, thuộc một vùng, miền nào đó, thường là ở các thành phố, đô
thị, thị xã... nơi tụ cư đông đảo người Hoa. Những người Hoa này
có chung một quê hương ở Trung Quốc trước đây. Thực tế, những
người Hoa cùng địa phương ở Trung Quốc, cũng là những người
có cùng ngôn ngữ. Ban đầu có bốn bang được thành lập là các bang
Quảng Châu, Triều Châu, Phúc Kiến và Hải Nam. Ở Trung Quốc,
hình thức tập hợp người, liên kết với nhau vốn có từ trước, như các
thương bang ở vùng Quảng Đông, nơi có hoạt động thương nghiệp
phát triển. Thực tế, số lượng người Hoa nhập cư không chỉ gồm
những người có quê ở bốn địa phương trên, mà còn nhiều hơn. Tuy
nhiên, số lượng những người Hoa ở địa phương khác có quá ít, chưa
đủ để thành lập bang. Vì vậy, những người này được tự do lựa chọn
một trong bốn bang đó để gia nhập và sinh hoạt. Năm 1814, số lượng
di dân Trung Hoa đến Nam Bộ tiếp tục tăng, nên có thêm một số
bang mới được thành lập là Quỳnh Châu, Phúc Châu và Hẹ. Năm
1871, lại một lần nữa có việc sắp xếp, điều chỉnh lại các bang của
người Hoa, có sự chú trọng về những người Hoa đồng ngôn ngữ, và
chỉ còn bốn bang, trong đó bang Triều Châu giữ nguyên, các bang
444 VÙNG ĐẤT NAM BỘ VIII THIẾT CHẾ QUẢN LÝ XÃ HỘI

khác sáp nhập và đổi tên. Năm 1885, chính quyền thực dân Pháp ở
Nam Kỳ lại thêm một lần cải tổ, sắp xếp lại các bang và chỉ còn năm
bang, gồm: Quảng Đông, Triều Châu, Phúc Kiến, Hải Nam và Hẹ
(Hakka). Bang Hẹ bao gồm những người Hoa không thuộc ngôn
ngữ của bốn bang kia. Vì thế, ngôn ngữ bang Hẹ khá phức tạp, nhiều
phương ngữ, thổ ngữ. Đôi khi người ta phải dùng tiếng Quảng Đông
trong các cuộc hội họp, thương nghị của bang.
Đầu thế kỷ XX, dưới thời thuộc Pháp đã xảy ra những tranh cãi giữa
Chính phủ Pháp và Chính phủ Trung Hoa Dân Quốc về thân phận của
người Hoa ở Nam Kỳ. Năm 1946, Chính phủ Pháp và Chính phủ Trung
Hoa Dân Quốc ký Hiệp ước Trùng Khánh liên quan đến các tổ chức xã
hội của người Hoa ở Nam Kỳ. Theo đó, người Pháp chấp nhận thay đổi
tên gọi tổ chức bang của người Hoa thành “Nhóm hành chính Trung
Hoa địa phương” với các nhóm mang tên Quảng Đông, Triều Châu,
Phúc Kiến, Hải Nam và Hẹ. Việc thay đổi tên gọi tổ chức bang của người
Hoa thành nhóm, thực chất chỉ là những thủ tục và quan hệ ngoại giao
song phương và không có gì thay đổi, hoặc ảnh hưởng đến cơ cấu, thiết
chế tổ chức của bang vốn đã tồn tại từ khá lâu về trước.
Đứng đầu bang là bang trưởng, một người trung niên hoặc có
tuổi, có uy tín và giàu có, được các thành viên trong bang bầu chọn
theo nhiệm kỳ bốn hoặc năm năm. Bang trưởng có thể tái đắc cử
nhiệm kỳ tiếp tục, nếu được sự tín nhiệm của đa số thành viên trong
bang. Chức vụ bang trưởng còn phải được sự phê duyệt và chấp
thuận của chính quyền tỉnh (hoặc hạt hành chính). Giúp việc cho
bang trưởng có các vị phó hoặc ủy viên do bang trưởng lựa chọn
với sự tán đồng của các thành viên. Thường những vị này phần
lớn là những trí thức, thương gia, kỹ nghệ gia có uy tín và am hiểu
công việc. Những vị phó và ủy viên được phân công các công việc
về tài chính, lễ tân, giao tiếp... Những vị trong Ban quản trị, từ bang
CHƯƠNG VI: THIẾT CHẾ TỰ QUẢN CỦA NGƯỜI HOA... 445

trưởng và các phụ tá không hưởng lương mà tự nguyện làm việc


cho bang. Bang trưởng sẽ thay mặt bang quan hệ, làm việc với chính
quyền hiện hữu về các công việc liên quan giữa người Hoa là thành
viên của bang với chính quyền. Bang trưởng cũng là người đại diện
chính quyền thu các loại thuế của người Hoa và truyền đạt ý kiến
của chính quyền đến người Hoa. Đôi khi, bang trưởng phải ứng tiền
riêng để đóng thuế cho một số người Hoa chưa kịp nộp thuế. Bang
trưởng còn có trách nhiệm điều hành, giải quyết các công việc nội
bộ, quan hệ giữa cá nhân và cộng đồng bang. Bang trưởng có thể xét
xử, có quyết định một số công việc, tranh chấp trước khi vụ việc đưa
đến sự giải quyết của chính quyền. Thường thì sau khi có ý kiến và
lời khuyên nhủ của bang trưởng và các ủy viên, người Hoa tự dàn
xếp với nhau, ít khi cần phải có sự hiện diện của chính quyền. Bang
trưởng còn chịu trách nhiệm quản lý tài sản chung, các nguồn công
quỹ của bang. Những nguồn công quỹ này thường là các bất động
sản của bang và sự đóng góp của những người hảo tâm. Công quỹ
được chi tiêu cho việc trùng tu, hoạt động các cơ sở tôn giáo, cho các
lễ hội, cho các hoạt động từ thiện, giúp đỡ các thành viên bang gặp
khó khăn trong đời sống và công việc, cho sự mở mang các trường
học, bệnh viện của bang. Trong giai đoạn nhập cư đông đảo của
người Hoa, bang trưởng có trách nhiệm bảo lãnh, chứng nhận hạnh
kiểm, và lo cho việc ăn ở lúc đầu của những người đồng hương đến
Nam Bộ. Bang trưởng cũng có quyền khai trừ, hoặc trục xuất các
thành viên gây tổn hại cho bang...
Về sau này, khi số lượng người Hoa đông đảo, các bang có nhu cầu
phải xây dựng trường học, bệnh viện, nghĩa trang và các tụ điểm thể dục
thể thao... Bang trưởng và các ủy viên của Ban quản trị phải đứng ra vận
động quyên góp kinh phí, chỉ huy và theo dõi việc xây cất, hoạt động của
các cơ sở công ích của bang. Nhìn chung công việc và trách nhiệm của
446 VÙNG ĐẤT NAM BỘ VIII THIẾT CHẾ QUẢN LÝ XÃ HỘI

bang trưởng khá nặng nề, nhưng người Hoa luôn cảm thấy trách nhiệm
và vinh dự được phục vụ cộng đồng.
Trụ sở làm việc của bang là các hội quán. Hội quán thường gắn
với các cơ sở tôn giáo, tín ngưỡng của người Hoa như các miếu thờ mà
người Việt gọi là “chùa Tàu” hoặc “chùa Hoa”. Hội quán của người Hoa
Quảng Đông ở trong miếu thờ Thiên Hậu (Chùa Bà, quận 5) gọi là Tuệ
Thành Hội Quán. Hội quán của người Hoa Triều Châu ở trong miếu
thờ Quan Thánh Đế Quân (Chùa Ông, quận 5) gọi là Nghĩa An Hội
quán... Ngoài bang trưởng, các ủy viên trong Ban quản trị chia phiên,
cắt cử người trực để giải quyết kịp thời các công việc của bang.
Tại các tỉnh, thành phố có đông người Hoa ở Nam Bộ, đều có các
bang người Hoa. Tuy nhiên, một số nơi không có đủ năm bang, tùy theo
số lượng người Hoa mà tổ chức bang. Ở thị xã Thủ Dầu Một, tỉnh Bình
Dương chỉ có bốn bang, không có bang Hải Nam; ở Cần Thơ không có
bang Hẹ... Đông đảo nhất vẫn là khu vực Sài Gòn, Chợ Lớn trước đây
có đủ năm bang. Trong những bang đông người, có thể phân thành các
nhóm nhỏ hơn, dựa trên cơ sở đồng hương của các địa phương nhỏ
hơn như nhóm người Hoa ở Triều Khánh (Quảng Châu), người Hoa
ở Santou (Quảng Đông)... Cho đến trước năm 1954 ở miền Nam có
khoảng gần 50 bang của người Hoa. Giữa các bang của người Hoa ở
Nam Bộ trước đây cũng có sự liên kết nhau, như tổ chức Hiệp hội Bốn
Bang ra đời khoảng đầu thế kỷ XX. Tổ chức này được sự bảo trợ của
chính quyền thực dân Pháp, gồm các bang Quảng Châu, Triều Châu,
Phúc Kiến và Hẹ. Đứng đầu Hiệp hội Bốn Bang là một Ban Chấp hành,
gọi là Lý sự Hội, bao gồm đại diện của các bang tham gia. Năm 1927, tổ
chức này đổi thành Hội Hoa kiều Việt Nam.
Việc xuất hiện tổ chức bang của người Hoa ở Việt Nam đã có những
tác động nhất định đến quá trình định cư và phát triển của người Hoa.
Về phía bản thân người Hoa, bang là một tổ chức mang tính tự quản,
CHƯƠNG VI: THIẾT CHẾ TỰ QUẢN CỦA NGƯỜI HOA... 447

kết nối gắn bó cộng đồng người Hoa. Mối liên kết đó có ý nghĩa trong
cuộc sống, làm ăn kinh tế của người Hoa. Các thành viên trong bang có
trách nhiệm giúp đỡ nhau trong các hoạt động kinh tế, có sự phân công
các ngành nghề tùy theo từng bang. Người Quảng Đông chuyên về kinh
doanh tạp hóa, nhà hàng, khách sạn; người Phúc Kiến chuyên thu mua
phế liệu; người Hải Nam kinh doanh các đồn điền cây công nghiệp, trà,
cà phê, chế biến thực phẩm; người Triều Châu chuyên về thu mua xuất
khẩu lúa gạo; người Hẹ chuyên kinh doanh đông dược... Những thành
viên trong bang cũng được sự hỗ trợ về vốn, về thị phần, giải quyết
những khó khăn trong kinh doanh, sản xuất. Trong đời sống, nhờ có
bang nên các thành viên có sự nương tựa lẫn nhau, với các hoạt động từ
thiện, cứu trợ và tổ chức các hoạt động văn hóa mang tính truyền thống
của người Hoa. Về sau, các bang còn tổ chức việc xây dựng trường học,
bệnh viện, nghĩa trang... của riêng từng bang. Những tranh chấp nội bộ,
người Hoa cố gắng tự thu xếp thông qua bang, tránh đối diện với chính
quyền, vì danh dự của bang và cộng đồng người Hoa...
Về phía chính quyền, việc quản lý người Hoa theo tổ chức bang tỏ
ra khá thuận lợi và hiệu quả trong việc kiểm soát đối với người Hoa.
Chính quyền phong kiến và về sau là thực dân Pháp, chỉ cần thông qua
tổ chức bang, trực tiếp là bang trưởng để thu thuế, để ban hành các quy
chế hành chính. Chính quyền tránh can thiệp trực tiếp vào cộng đồng
người Hoa.
Dưới thời kỳ thống trị của chính quyền thuộc địa, người Pháp đã
tìm cách khai thác vai trò của bang người Hoa phục vụ cho chính sách
chia để trị. Với tổ chức bang, cộng đồng người Hoa ở Nam Bộ có tính
khép kín, một đời sống xã hội trong lòng xã hội. Người Hoa ngay từ
lúc nhỏ đã sống trong môi trường riêng của mình, trong gia đình, khu
phố, trường học của người Hoa, của bang mình; lớn lên làm việc, sinh
hoạt cũng trong cộng đồng người Hoa, ốm đau có bệnh viện riêng, vui
448 VÙNG ĐẤT NAM BỘ VIII THIẾT CHẾ QUẢN LÝ XÃ HỘI

chơi giải trí, sinh hoạt tín ngưỡng cũng trong các cơ sở của bang, và
cho đến khi qua đời cũng nằm trong nghĩa trang của bang... Điều đó
đã tạo cho người Hoa tâm lý khép kín, ngại giao tiếp, ngoại trừ những
công việc làm ăn, sản xuất, kinh doanh. Người Hoa mang cảm giác
đứng bên ngoài xã hội của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, không
quan tâm nhiều về chính trị, xã hội, chỉ lo làm ăn sinh sống. Người
Pháp đã cố gắng tách người Hoa ra khỏi cộng đồng dân tộc Việt Nam,
vẫn duy trì vị trí kiều dân. Người Pháp có lúc xem người Hoa là một
loại “kiều dân đặc biệt”. Những hành động và ý đồ lợi dụng tổ chức
bang người Hoa của người Pháp đã làm chậm quá trình hội nhập của
người Hoa vào cộng đồng các dân tộc Việt Nam.
Các bang của người Hoa ở Nam Bộ chấm dứt hoạt động khi chính
quyền Sài Gòn do Ngô Đình Diệm làm Thủ tướng. Sắc lệnh số 133.
NV ngày 10-6-1960 của Thủ tướng Chính phủ Việt Nam Cộng hòa
quy định: “Nay bãi bỏ trên toàn lãnh thổ Việt Nam các Lý sự Hội quán
Trung Hoa, các bang Á kiều khác và chấm dứt cùng một lúc chức vụ
các chánh, phó lý sự trưởng Trung Hoa và các chánh phó bang Á kiều”.
Cùng thời điểm này, chính quyền Sài Gòn còn ban hành một số văn bản
cưỡng bức người Hoa gia nhập quốc tịch Việt Nam. Lúc này, trên toàn
miền Nam Việt Nam có 217 chánh và phó lý sự trưởng, trong đó có 64
người chưa nhập quốc tịch Việt Nam Cộng hòa.
Việc giải tán các bang của người Hoa, buộc người Hoa gia nhập
quốc tịch Việt Nam của chính quyền Ngô Đình Diệm đã gây một số
phản ứng từ cộng đồng người Hoa ở Nam Bộ. Tuy nhiên, trong một
mức độ nào đó, vai trò của bang và các hội quán vẫn còn những ảnh
hưởng nhất định đối với một số mặt đời sống và sản xuất, kinh doanh
của người Hoa, cũng như sự gắn kết của các thành viên trong cộng đồng
các bang của người Hoa.
CHƯƠNG VI: THIẾT CHẾ TỰ QUẢN CỦA NGƯỜI HOA... 449

3. Tổ chức hội

Hội là một dạng tập hợp người Hoa tùy theo những tiêu chí khác
nhau tùy theo mỗi loại hội. Trong lịch sử định cư của người Hoa ở Nam
Bộ có nhiều loại hội. Trong số các tổ chức hội của người Hoa, có một số
hội đáng chú ý sau:
- Hội Tông thân (còn gọi là Hội Họ, Hội Thân tộc, Hội Tông
tộc...). Hội Tông thân tập hợp những người Hoa cùng họ. Người
Trung Hoa thường dùng từ “bách tính”, có nghĩa là trăm họ. Thực tế
họ của người Hoa còn nhiều hơn số một trăm. Người Hoa theo chế
độ phụ hệ, nên con cái theo họ cha và thường những người cùng họ
có quan hệ huyết thống với nhau. Tuy nhiên, trải qua nhiều thời gian,
nhiều biến cố lịch sử, những người đồng họ chưa chắc đã có quan hệ
huyết thống. Khi đến định cư ở Nam Bộ Việt Nam, mối quan hệ huyết
thống lại là mối liên kết, là chỗ dựa tinh thần của người Hoa. Vì vậy,
các Hội thân tộc được xác lập là một phương thức liên kết, quản lý xã
hội của người Hoa.
Ở Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay có hơn 50 Hội Tông tộc của
người Hoa, phổ biến là các hội của người họ Trần, Quách, Lâm, Diệp,
Mã, Lý... Những người trong hội chọn ra một người đứng đầu, thường là
người đàn ông có vai vế, vị thứ cao nhất trong dòng họ và có uy tín. Một
số dòng họ được biết đến với các hoạt động kinh doanh, sản xuất chiếm
ưu thế như họ Lâm, Trần, Diệp, Lý... thì người đứng đầu hội là các doanh
nhân thành đạt. Người đứng đầu Hội Thân tộc gần như tộc trưởng của
các dòng họ. Vị tộc trưởng này cũng có những người phụ tá, thường là
những người trưởng các chi họ. Vị tộc trưởng lo các công việc chung
trong họ, như việc thờ cúng các ông tổ dòng họ, việc hôn nhân giữa các
thành viên và cả việc kinh doanh, sản xuất của các lớp con cháu trong họ.
Những người cùng trong Hội Thân tộc có trách nhiệm đoàn kết gắn
bó, giúp đỡ lẫn nhau, cố gắng làm ăn phát đạt để vinh danh dòng họ.
450 VÙNG ĐẤT NAM BỘ VIII THIẾT CHẾ QUẢN LÝ XÃ HỘI

Trong trường hợp có một người trong họ làm ăn thất bại, các thành viên
và vị tộc trưởng có trách nhiệm giúp đỡ về vật chất cũng như tinh thần.
Vị tộc trưởng phải nắm được tình hình làm ăn, sinh sống của những
người trong họ, để bàn bạc cùng các thành viên khác có sự giúp đỡ, tài
trợ. Những việc như cưới gả, tang lễ của các thành viên trong họ cũng
được mọi người quan tâm, lo lắng và hỗ trợ.
Hằng năm, những người là thành viên của tổ chức Hội Thân tộc,
có cuộc gặp gỡ nhau tại từ đường của họ. Từ đường là nơi thờ cúng
người sáng lập ra dòng họ, gọi là tổ sư. Có không ít vị tổ sư dòng họ
là những nhân vật truyền thuyết như Vua Nghiêu, Vua Thuấn, tổ sư
dòng họ Quách, họ Kha Thai... Từ đường là tài sản chung của dòng
họ, là nơi các thành viên về làm lễ chiêm bái vị tổ sư. Những cuộc gặp
mặt nhân ngày giỗ tổ quy tụ đông đảo các thành viên, mà số đông
có quan hệ huyết thống. Đây là dịp để các thành viên, các thế hệ con
cháu nhận biết bà con, mối liên hệ ruột thịt với nhau. Từ đó sẽ tạo
nên sự tương thân, tương ái giữa những người Hoa cùng họ đang sinh
sống nơi xa cội nguồn.
Kết thúc cuộc gặp mặt và tế lễ tại từ đường của các thành viên Hội
Thân tộc là một bữa ăn cộng cảm tại một nhà hàng của người Hoa.
Trong bữa tiệc, mọi người lại có dịp trao đổi, chuyện trò với nhau về
công việc và quan hệ dòng họ, tạo thêm sự gắn bó liên kết với nhau giữa
các thành viên người Hoa.
Việc hình thành các tổ chức mang tính quan hệ dòng họ của người
Hoa ở Nam Bộ có từ rất sớm. Nhiều từ đường của người Hoa được xây
dựng cách đây hơn 200 năm, như các từ đường của người Hoa Phúc
Kiến (trong bệnh viện An Bình), của người Hoa Triều Châu (trong
bệnh viện Nguyễn Trãi)... cho thấy sự ra đời của tổ chức, Hội Thân tộc
là một nhu cầu thiết yếu của người Hoa khi sinh sống xa quê hương, xa
cội nguồn, tổ tiên. Tuy nhiên, về tổ chức, Hội Thân tộc này là một tổ
CHƯƠNG VI: THIẾT CHẾ TỰ QUẢN CỦA NGƯỜI HOA... 451

chức phi quan phương (non office) chưa có một văn bản nào của các
chính quyền công nhận và phê duyệt. Rõ ràng, đây là một tổ chức mang
tính tự quản hoàn toàn của người Hoa ở Nam Bộ.
- Hội nghề nghiệp
Hội nghề nghiệp của người Hoa ở Nam Bộ là một tổ chức mang
tính tự nguyện, tập hợp những người cùng làm một nghề như mộc,
thuộc da, làm nhang, cơ khí, hoặc một ngành nghề như may mặc,
nhựa... Có một số hội nghề nghiệp của người Hoa ở Nam Bộ được
hình thành khá sớm như Hội Kim hoàn, Hội những người thuốc
Bắc... Vào đầu thế kỷ XX, ở khu vực Sài Gòn, Chợ Lớn đã có các hội
của người Hoa, như Nghiệp đoàn những người bán bột (năm 1926),
Nghiệp đoàn các quán nhậu (năm 1924), Nghiệp đoàn những người
bán dược thảo (năm 1931), Nghiệp đoàn ngành da (năm 1921)1, Hội
thương gia mễ cốc... Tùy số lượng người tham gia mà quy mô các hội
nghề nghiệp của người Hoa ở Nam Bộ có khác nhau về quy cách tổ
chức, sinh hoạt. Phần nhiều các hội nghề nghiệp của người Hoa tập
trung ở Thành phố Hồ Chí Minh - nơi có đông người Hoa với nhiều
nghề nghiệp. Một số nghề như cơ khí, đồ mộc, thuốc bắc... có thể có
nhiều hội nghề nghiệp, vì những hội này tổ chức tương đối đơn giản,
gần như một câu lạc bộ, hội nhóm. Những hội nghề nghiệp nhỏ này,
người Hoa tự tổ chức và không cần xin phép chính quyền, họ quan
niệm như một sinh hoạt tín ngưỡng nghề nghiệp hơn là một tổ chức.
Vào đầu thế kỷ XX, hoạt động kinh tế của người Hoa đã đạt được
nhiều kết quả khả quan, các thương gia, kỹ nghệ gia người Hoa ở Nam
Bộ có nhu cầu tập hợp để tạo sức mạnh cạnh tranh với tư bản ngoại
quốc. Năm 1904, họ đã xin phép chính quyền thuộc địa Pháp thành lập

1. Các nghiệp đoàn, thực chất là tổ chức quy tụ những người Hoa theo
cùng một nghề nghiệp, nhưng phải xin phép chính quyền để hoạt động chính
thức. Một nghiệp đoàn thường có từ 7 đến 10 thành viên.
452 VÙNG ĐẤT NAM BỘ VIII THIẾT CHẾ QUẢN LÝ XÃ HỘI

“Tổng Hội thương gia Trung Quốc ở Nam Kỳ”, và đến năm 1910, đổi
tên thành “Phòng Thương mại Trung Hoa”. Đây là một tổ chức mang
tính nghề nghiệp của người Hoa có quy mô lớn. Phòng Thương mại
Trung Hoa đại diện cho nhiều nghiệp đoàn ngành nghề, và nhiều hội
nghề nghiệp của người Hoa ở Nam Bộ. Văn phòng của tổ chức này đặt
ở Chợ Lớn. Phòng Thương mại Trung Hoa không chỉ bảo vệ quyền lợi
cho các thành viên, các thương gia, kỹ nghệ gia người Hoa mà còn điều
phối các hoạt động kinh doanh, sản xuất trên nhiều lĩnh vực của người
Hoa. Phòng Thương mại Trung Hoa vào thời điểm 1923 - 1930 đã tập
hợp 92 công ty, hiệp hội, 3.868 xí nghiệp, 12.000 cơ sở kinh doanh của
người Hoa trên toàn Nam Kỳ.
So với một số dân tộc ít người ở Việt Nam, hầu như chỉ có người
Hoa mới hình thành các tổ chức xã hội mang tính nghề nghiệp. Bởi
lẽ hoạt động kinh tế của người Hoa nghiêng về chiều hướng phi nông
nghiệp. Việc quy tụ những người Hoa cùng ngành nghề vào một tổ chức
là nhu cầu cần thiết để tạo điều kiện sản xuất, kinh doanh có hiệu quả,
giúp nhau tồn tại và phát triển trong điều kiện kinh tế thị trường có sự
bảo hộ và cạnh tranh. Các tổ chức nghề nghiệp của người Hoa dưới
dạng hội và nghiệp đoàn còn giúp những người kinh doanh, sản xuất
thu xếp những va chạm, bất đồng ý kiến trong hoạt động kinh tế, tránh
khỏi sự đối diện với chính quyền bởi danh dự và nhiều khả năng bất ổn
trong nội bộ người Hoa.
Đứng đầu các hội nghiệp đoàn có một hội trưởng. Hội trưởng do
các hội viên, những người Hoa tự nguyện tham gia, bầu chọn công khai.
Hội trưởng thường là người có nhiều kinh nghiệm nghề nghiệp, thâm
niên nghề nghiệp, có uy tín, đức độ và có khả năng tài chính. Hội trưởng
lo việc điều hành các quan hệ giữa các thành viên trong hội và đại diện
cho hội trong các mối làm ăn, giao dịch với bên ngoài, với các tổ chức
kinh tế, xã hội khác. Kinh phí hoạt động của hội do hội phí của các
CHƯƠNG VI: THIẾT CHẾ TỰ QUẢN CỦA NGƯỜI HOA... 453

thành viên theo quy định của mỗi hội và quan trọng hơn là sự tự nguyện
đóng góp của các hội viên, nhất là hội trưởng và các hội viên giàu có.
Hằng năm, các thành viên trong hội có một ngày tập trung để làm lễ
giỗ tổ nghề, cúng vị tổ sư. Những vị tổ sư này thường là những nhân vật
mang tính huyền thoại, người sáng lập như Lỗ Ban - Tổ sư nghề mộc,
Cửu Thiên Huyền Nữ - Tổ sư nghề kim hoàn. Tuy nhiên, trên bài vị bàn
thờ tổ chỉ ghi hai chữ Hán: Tổ sư. Nơi tổ chức lễ giỗ tổ nghề thường là
nhà của vị hội trưởng, hoặc ở miếu tổ sư nghề. Ở Thành phố Hồ Chí
Minh, những người làm nghề kim hoàn, hằng năm đến dự lễ giỗ tổ tại
Lê Chân Hội Quán. Trong ngày giỗ tổ nghề, mọi người gặp nhau cúng
tổ, làm quen với nhau, trao đổi kinh nghiệm nghề nghiệp và các chuyện
liên quan. Kết thúc lễ giỗ là một bữa ăn vui vẻ... Hoạt động của các hội
nghề nghiệp của người Hoa không chỉ đáp ứng nhu cầu tự quản về kinh
tế, xã hội mà còn cả về đời sống văn hóa, tâm linh.
- Hội văn hóa, văn nghệ, thể thao
Trên lĩnh vực văn hóa, văn nghệ, thể thao, người Hoa ở Nam Bộ đã
tổ chức các hội, đoàn, câu lạc bộ quy tụ nhiều người cùng hoạt động,
hoặc yêu thích sinh hoạt nghệ thuật, thể thao. Đó là các đội lân, sư,
rồng, các hội võ thuật, các đoàn ca kịch...
+ Lân, sư, rồng là một bộ môn nghệ thuật đặc sắc của người Hoa,
có sự kết hợp giữa múa, võ thuật, âm nhạc. Riêng Thành phố Hồ
Chí Minh hiện nay có khoảng 40 đội lân, sư, rồng, quy tụ hàng trăm
thành viên, chủ yếu là thanh thiếu niên. Những đội lân, sư, rồng do
những người yêu mến nghệ thuật múa lân, sư, rồng đứng ra tổ chức
với sự giúp đỡ tài chính của các “Mạnh Thường Quân”. Các đội lân,
sư, rồng thường biểu diễn phục vụ bà con người Hoa, Việt trong các
dịp tết Nguyên đán, Nguyên tiêu và các lễ hội khác trong năm như
ngày 30-4, Quốc khánh; các cuộc khai trương, động thổ cửa hàng,
cơ sở kinh doanh cũng thường mời các đội lân, sư, rồng đến biểu
454 VÙNG ĐẤT NAM BỘ VIII THIẾT CHẾ QUẢN LÝ XÃ HỘI

diễn để có nhiều may mắn, hanh thông. Một số đội lân, sư, rồng, ở
Thành phố Hồ Chí Minh còn đi biểu diễn thi đấu ở các tỉnh khác và
nước ngoài.
+ Các hội võ thuật và câu lạc bộ thể thao: Hội võ thuật người Hoa
được thành lập khá nhiều, nhất là ở Thành phố Hồ Chí Minh. Trong số
đó có Hội Tinh võ được thành lập cách nay gần 100 năm, quy tụ nhiều
võ sư và võ sinh yêu thích rèn luyện và biểu diễn võ thuật cổ truyền
Trung Hoa.
Trên lĩnh vực thể dục, thể thao, người Hoa tổ chức hình thức câu
lạc bộ, các nhóm, đội sinh hoạt, như: Câu lạc bộ bóng rổ, bóng chuyền,
cầu lông, các nhóm cờ tướng... Những tổ chức này quy tụ những người
yêu thích và rèn luyện các môn thể thao phổ biến trong người Hoa;
thường có quy mô không lớn lắm; sinh hoạt định kỳ; thường có tổ chức
các cuộc thi đấu với nhiều nhóm đội ở thành phố và địa phương. Nơi
sinh hoạt và tập luyện của các hội võ thuật, thể dục, thể thao là sân các
trường học, các đền miếu của người Hoa là nơi rộng rãi, thuận lợi cho
sự tham dự của nhiều người. Đứng đằng sau và tài trợ kinh phí cho hoạt
động của một số hội, đoàn võ thuật, thể dục, thể thao của người Hoa là
các nhà kinh doanh kỹ nghệ giàu có, được người Hoa gọi là các “Mạnh
Thường Quân”. Các vị này thường là các cố vấn hoặc là chủ tịch danh
dự của các hội, đoàn.
+ Các hội, câu lạc bộ nghệ thuật: Trong những năm gần đây, ở
Thành phố Hồ Chí Minh và một số địa phương đã hình thành các tổ
chức hội mang tính nghệ thuật, quy tụ những hội viên người Hoa yêu
thích các môn nghệ thuật như thư pháp, hội họa, nhiếp ảnh, âm nhạc...
Thực tế đây là những tổ chức quần chúng, mang tính tự quản, đáp ứng
nhu cầu văn hóa của cộng đồng người Hoa Nam Bộ.
Ở Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay có Hội Văn học, nghệ thuật
các dân tộc ít người. Hội này trực thuộc Hội Văn học, nghệ thuật các
CHƯƠNG VI: THIẾT CHẾ TỰ QUẢN CỦA NGƯỜI HOA... 455

dân tộc ít người Việt Nam ở Trung ương và có sự hỗ trợ kinh phí của
Nhà nước. Hội này thuộc dạng bán quan phương trong hoạt động
và quản lý sinh hoạt văn học, nghệ thuật của các dân tộc ít người ở
Thành phố Hồ Chí Minh. Trên thực tế, do số lượng người Hoa đông
hơn người Chăm và Khmer ở Thành phố Hồ Chí Minh, nên hội chủ
yếu công tác trong cộng đồng người Hoa. Trong tổ chức của Hội có
“Câu lạc bộ thư pháp người Hoa”, “Câu lạc bộ nhiếp ảnh”... Hoạt động
của Hội và các câu lạc bộ đã góp phần quản lý sinh hoạt văn hóa, nghệ
thuật của người Hoa.
Trong cộng đồng người Hoa ở Nam Bộ, từ khá sớm đã có các tổ
chức dân gian quy tụ những người yêu âm nhạc truyền thống Trung
Hoa, gọi là “Nhạc xã”. Đây cũng là một dạng thức của tổ chức xã hội
mang tính tự quản của một ngành nghề nghệ thuật. Nhạc xã được hình
thành trong các khu phố lao động của người Hoa, quy tụ những nghệ
nhân, những nhạc công nghiệp dư và những người yêu thích âm nhạc.
Hằng tuần, hoặc định kỳ, mọi người tập hợp tại một nơi rộng rãi và biểu
diễn các bản nhạc, hát dân ca. Những người đến dự tự nguyện đóng
góp kinh phí bằng cách thưởng tiền cho những nghệ sĩ, ca sĩ với các tác
phẩm mà mình yêu thích. Ở Thành phố Hồ Chí Minh, có Đoàn ca kịch
Quảng và Đoàn ca kịch Triều, vốn trước đây do Nhà nước bảo trợ, nay
tự hoạch toán. Trong các dịp tết Nguyên đán, Nguyên tiêu và một số
lễ hội của người Hoa, thường mời các đoàn ca kịch này đến biểu diễn
phục vụ.

4. Các tổ chức tự quản khác

Ngoài các tổ chức trên đây, người Hoa ở Nam Bộ còn có một số
dạng thức tổ chức xã hội mang tính tự quản khác. Đó là các Hội tương
tế, Hội người Hoa theo các địa phương ở Nam Bộ.
456 VÙNG ĐẤT NAM BỘ VIII THIẾT CHẾ QUẢN LÝ XÃ HỘI

Hội tương tế
Đây là một tổ chức của người Hoa, thường là cùng địa phương và
có mối quan hệ với các cơ sở tín ngưỡng cộng đồng, các miếu, điện.
Mục đích hoạt động của hội là giúp đỡ những người Hoa nghèo khó
gặp khó khăn đột xuất như ốm đau, tang ma, tai nạn... Kinh phí hoạt
động của hội do sự đóng góp của cộng đồng người Hoa, các khoản
tiền trích ra từ các điện, miếu. Ban quản trị của hội sẽ đảm nhận việc
quản lý và sử dụng kinh phí theo đề xuất của các thành viên. Thường
thì hội giúp cho những người neo đơn, cô quả một số tiền để sống,
hoặc các nhu yếu phẩm cần thiết; chăm lo việc tang ma, như tặng
quan tài, phúng điếu cho gia đình tang chủ; đóng góp vào các hoạt
động từ thiện...
Hội những người Hoa cùng địa phương
Hội quy tụ những người Hoa cùng sinh sống trên một địa bàn nhất
định như Hội người Hoa thành phố Cà Mau, Hội người Hoa thành phố
Biên Hòa, Hội người Hoa thị xã Sóc Trăng... Đây là những địa phương
có đông người Hoa sinh sống, và họ gắn kết với nhau theo cùng địa
phương ở Nam Bộ (khác với sự gắn kết cùng địa phương hoặc nhóm
ngôn ngữ ở Trung Hoa thời kỳ trước năm 1954). Những Hội người
Hoa cùng địa phương thường liên quan mật thiết với các Hội tương tế,
với các Ban quản trị đền, miếu người Hoa. Hội Tương tế người Hoa ở
Cà Mau quy tụ 16 hội đoàn, các Ban quản trị chùa Hoa ở địa phương,
Hội người Hoa thị xã Sóc Trăng quy tụ 12 tổ chức của người Hoa ở địa
phương... Những tổ chức Hội người Hoa địa phương cũng gắn với Hội
tương tế là tập hợp, đoàn kết người Hoa ở địa phương để giúp đỡ nhau
trong đời sống vật chất cũng như tinh thần, kế tục truyền thống tự quản
lý, tự lo liệu của người Hoa ở Nam Bộ trước đây.
*
* *
CHƯƠNG VI: THIẾT CHẾ TỰ QUẢN CỦA NGƯỜI HOA... 457

Người Hoa ở Nam Bộ là công dân Việt, một thành phần trong cộng
đồng các dân tộc Việt Nam. Người Hoa Nam Bộ vốn là những lưu dân
Trung Hoa tìm đến vùng đất Nam Bộ từ giữa và cuối thế kỷ XVI. Trong
quá trình định cư ở Nam Bộ, người Hoa đã hội nhập vào cộng đồng
các dân tộc Việt Nam. Người Hoa đã có những đóng góp tích cực trong
công cuộc khai mở và bảo vệ vùng đất Nam Bộ của Việt Nam.
Định cư ở vùng đất Nam Bộ, người Hoa, cũng như các dân tộc anh
em cộng cư, đã cố gắng thiết lập cho mình một không gian sinh tồn,
trong đó có việc tổ chức các thiết chế xã hội phù hợp. Đó là các làng
Minh Hương, Thanh Hà trong buổi đầu, rồi sau đó là các bang, hội.
Những tổ chức xã hội này mang tính tự quản. Đây cũng là những kết
quả thích ứng của người Hoa trong một môi trường sinh sống mới. Mặt
khác, cũng là mối quan hệ của cộng đồng người Hoa với các chính sách
của Nhà nước Việt Nam qua từng thời kỳ.
Những tổ chức xã hội mang tính tự quản của người Hoa ở Nam
Bộ như làng Minh Hương, bang, hội... có nét khác với các tổ chức tự
quản của người Việt, Khmer như làng, sóc... Thiết chế xã hội tự quản
của người Hoa không dựa trên mối quan hệ địa vực cư trú, mà dựa
trên quan hệ đồng tộc, đồng hương (vốn từ Trung Hoa), đồng ngôn
ngữ... Thiết chế xã hội mang tính tự quản của người Hoa ở Nam Bộ đã
đáp ứng và tạo thuận lợi cho sự ổn định và phát triển của cộng đồng
người Hoa. Tuy nhiên, trong chừng mực nào đó nó cũng tạo ra sự
khép kín, ít nhiều cản ngại sự hội nhập của người Hoa vào cộng đồng
các dân tộc Việt Nam.
Về phía các chính quyền Việt Nam, từ chúa Nguyễn, nhà Nguyễn,
thực dân Pháp..., việc duy trì các tổ chức xã hội mang tính tự quản
của người Hoa đã tạo sự thuận lợi và hiệu quả cho việc quản lý người
Hoa, một cộng đồng cư dân có những đặc điểm lịch sử và quá trình tộc
người. Cũng trong một mức độ nhất định nào đó, một số chính quyền
458 VÙNG ĐẤT NAM BỘ VIII THIẾT CHẾ QUẢN LÝ XÃ HỘI

đã thông qua các hình thức tự quản này thực hiện những ý đồ và âm
mưu đối với người Hoa cũng như với cộng đồng các dân tộc ở Nam Bộ.
Hiện nay, một số hình thức tổ chức xã hội mang tính tự quản của
người Hoa ở Nam Bộ không còn duy trì vì không còn phù hợp và đáp
ứng tiến trình phát triển của cộng đồng người Hoa. Một số tổ chức
xã hội mang tính tự quản của người Hoa hiện nay như các hội đoàn
về văn hóa, xã hội, các Hội từ thiện, Hội người Hoa cùng địa phương
(ở Nam Bộ), Hội bảo trợ học đường... vẫn còn một vai trò nhất định,
vừa giúp sự cố kết cộng đồng người Hoa, vừa đoàn kết với các cộng
đồng dân cư dân tộc anh em ở Nam Bộ Việt Nam.
459

Chương VII

CÁC THIẾT CHẾ TỰ QUẢN


CỦA CÁC CỘNG ĐỒNG CƯ DÂN KHÁC
Ở NAM BỘ
Với sức hút của một vùng đất giàu tiềm năng, Nam Bộ là nơi tiếp
nhận các dòng chuyển cư liên tục được thực hiện từ trong lịch sử cho đến
tận ngày nay. Đây là một thực tế cần được quan tâm khi nghiên cứu về
cư dân và văn hóa Nam Bộ. Quá trình định canh, định cư của các tộc
người ở Nam Bộ có khác nhau, nhưng tất cả đã cùng nhau đoàn kết khai
thác các nguồn lợi mà thiên nhiên ưu đãi cho vùng đất này. Trong quá
trình chung sống và hợp tác giữa các cộng đồng dân cư nảy sinh và hình
thành mối quan hệ gắn bó trong sản xuất và các mối quan hệ xã hội. Có
thể nhận thấy, ở Nam Bộ, làng ấp của người Việt nằm xen kẽ với phum,
sóc của người Khmer, làng của người Hoa, poh của người Xtiêng... Sự
cộng cư đan xen giữa các tộc người ở Nam Bộ đã tạo nên một bức tranh
văn hóa đa dạng, hài hòa, giao thoa và ảnh hưởng lẫn nhau.
Tuy cùng sinh sống và khai thác trên một vùng đất nhưng do nhiều
nguyên nhân, sự phát triển kinh tế, xã hội của các cộng đồng dân cư có
khác nhau. Có cộng đồng dân cư đã bước sang giai đoạn phát triển kinh
tế hàng hóa, nhưng vẫn có tộc người còn bảo lưu nền kinh tế tự cung
tự cấp, lưu giữ tàn dư của chế độ mẫu hệ... Sự phát triển không đồng đều
của các tộc người là một đặc điểm xã hội của cư dân Nam Bộ.
Các tộc người được xem là cư dân bản địa của vùng đất Nam Bộ như
người Xtiêng, Mạ, Chơro... tập trung tại các tỉnh miền Đông Nam Bộ.
460 VÙNG ĐẤT NAM BỘ VIII THIẾT CHẾ QUẢN LÝ XÃ HỘI

Đây là khu vực bản lề giữa vùng Tây Nguyên đại ngàn và châu thổ sông
Cửu Long màu mỡ. Có thể hình dung không gian cư trú của người Mạ,
Chơro, Xtiêng nằm trong địa phận của bốn dòng sông lớn là Đồng Nai,
sông Bé, La Ngà và sông Sài Gòn. Đầu nguồn bốn con sông là những
cánh rừng nguyên sinh với mặt đất rừng tương đối bằng phẳng tạo tiền
đề để các cộng đồng dân cư sinh sống.
Người Chăm Nam Bộ, một bộ phận của người Chăm Việt Nam
chuyển cư từ miền Trung Việt Nam đã góp phần tạo dựng nên những
sắc thái văn hóa tộc người đa dạng ở Nam Bộ. Hiện nay, một số nơi đã
có thêm sự hiện diện của các dân tộc ít người ở phía Bắc di cư vào, như
người Mnông, có số lượng không nhiều - khoảng 1.000 người, cư trú ở
các huyện Bù Đăng, Phước Long, Bù Gia Mập (tỉnh Bình Phước), giáp
với tỉnh Đăk Nông.
Các thiết chế tự quản được hình thành trong cộng đồng để điều
chỉnh và giám sát mọi hoạt động xã hội, nhờ đó mà các quan hệ xã hội
kết hợp lại với nhau, đảm bảo cho cộng đồng hoạt động nhịp nhàng.
Về mặt tổ chức, thiết chế xã hội là hệ thống các cơ quan quyền lực, đại
biểu đại diện cho cộng đồng để đáp ứng những nhu cầu khác nhau của
cộng đồng và cá nhân nhưng vẫn nằm trong khuôn khổ được phép - đó
là phong tục, tập quán, dư luận... Thiết chế xã hội đôi khi còn dựa trên
niềm tin tôn giáo vào thế lực siêu nhiên để điều chỉnh hành vi của cá
nhân, nhiều khi có ảnh hưởng tới cả cộng đồng. Trong lịch sử, có nhiều
loại thiết chế khác nhau như: 1) Thiết chế kinh tế; 2) Thiết chế chính
trị...; 3) Thiết chế tinh thần; 4) Thiết chế giao tiếp công cộng. Những
thiết chế này đều có tính độc lập tương đối so với các quan hệ xã hội.
Thiết chế thường có tính chất lạc hậu hơn so với các biến đổi của các
quan hệ xã hội. Việc cải biến và thay đổi các thiết chế xã hội liên quan
trực tiếp đến quản lý xã hội và các chính sách xã hội. Việc tìm hiểu
các thiết chế tự quản của người Xtiêng, Chơro, Mạ, Cơho, Chăm... sẽ
giúp chúng ta thấy được sự vận hành của cộng đồng người trước khi có
những tác động từ xã hội hiện đại.
CHƯƠNG VII: CÁC THIẾT CHẾ TỰ QUẢN CỦA... 461

I- NGƯỜI CHƠRO (JRO)

1. Vài nét về người Chơro

Người Chơro chủ yếu sinh sống ở Đồng Nai và Bà Rịa - Vũng Tàu,
rải rác ở Bình Thuận và Bình Phước. Tiếng Chơro thuộc dòng Nam Á,
nhóm ngôn ngữ Môn-Khmer. Danh mục thành phần các dân tộc Việt
Nam của Tổng cục Thống kê ngày 2-3-1979 thống nhất gọi là Chơro
hoặc Dơro (Chrau Jro: chrau - người, Jro - tên bộ tộc). Người Chơro có
nhiều thị tộc cư trú ở các địa bàn khác nhau: 1) Chrau M’Xang ở vùng
Võ Đắc, Tánh Linh (Bình Thuận); 2) Chrau B’Giêng ở vùng Túc Trưng,
Long Khánh (Đồng Nai); 3) Chrau Chà Lun ở vùng Gia Kiện (xưa là Võ
Dõng), Bảo Chánh (Đồng Nai); 4) Chrau M’Rơ ở vùng Bàu Lâm (Xuyên
Mộc). Tại Đồng Nai, người Chơro là cư dân đông nhất khối dân tộc
bản địa, cư trú xen kẽ ở 47/163 xã thuộc 7 huyện thị1. Tại Bà Rịa - Vũng
Tàu, người Chơro được xem là những dân cư có mặt từ rất sớm và có
số lượng lớn nhất, gần 10.000 người, phân bố ở ấp Vinh Thanh (thị trấn
Ngãi Giao, huyện Châu Đức), xã Bàu Chinh (huyện Châu Đức), xã Bàu
Lâm (huyện Xuyên Mộc)2. Đặc điểm cư trú của người Chơro là cư trú
theo dòng họ. Dòng họ Chrau Lưn, B’Giêng, Bi Cu cư trú ở vùng Túc

1. Số liệu năm 1996 cho biết huyện Long Khánh là nơi người Chơro tập trung
đông nhất: 4.015 người (2.084 nữ); trong đó xã Xuân Bình có 1.015 người (534 nữ)
với 128 hộ và xã Xuân Vinh có 1.649 người (1.238 nữ). Ở huyện Xuân Lộc có 3.471
người Chơro (1.715 nữ), trong đó xã Xuân Trường đông nhất, có 1.117 người (569
nữ) với 249 hộ, xã Xuân Phú có 794 người (399 nữ) của 132 hộ, xã Xuân Thọ có
769 người (373 nữ) với 145 hộ. Ở huyện Định Quán, có 3.387 người Chơro (1.666
nữ), tập trung ở ấp Đức Thắng và Đồng Xoài, xã Túc Trưng: 2.900 người với 503
hộ. Ấp Lý Lịch, xã Phú Lý, huyện Vĩnh Cửu có 66 hộ người Chơro gồm 397 người
(189 nữ). Huyện Long Thành có 42 hộ Chơro gồm 174 người (93 nữ) ở khá rải
rác... Năm 1999, dân số người Chơro là 22.567 người.
2. Xem http://www.baobariavungtau.com.vn/vn/chinhtrixahoi/69829/index.brvt
462 VÙNG ĐẤT NAM BỘ VIII THIẾT CHẾ QUẢN LÝ XÃ HỘI

Trưng (Định Quán, Đồng Nai), M’Rơ ở vùng Bàu Lâm (huyện Xuyên
Mộc, Bà Rịa - Vũng Tàu)1...
- Đời sống kinh tế
Nền kinh tế cổ truyền của người Chơro là canh tác nương rẫy, du
canh dựa trên quan hệ sản xuất tập thể nguyên thủy. Mỗi thị tộc tập hợp
khoảng 100 người cùng làm, cùng hưởng những sản phẩm trồng trọt,
hái lượm, đánh cá.
Muốn làm rẫy, người chủ gia đình (trước kia là già làng) có kinh
nghiệm nhất, hoặc người đứng đầu plây (làng) thấy nơi nào đất ẩm,
nhiều mùn hoặc đất đỏ, tơi xốp thì chọn nơi đó. Rẫy đất xám nghèo
mùn, độ phì thấp thường chỉ làm hai vụ, sau đó bỏ hoang. Rẫy đất đỏ tơi
xốp, phì nhiêu hơn có thể trồng ba, bốn vụ. Rẫy của mỗi nhà ngăn cách
bằng ranh giới ước lệ là hàng cây, những hòn đá xếp thành hàng... Vì
làm rẫy giữa rừng già đại ngàn nên các loại thú nay phá hoại cây trồng.
Để bảo vệ, các rẫy trong plây thường ở cạnh nhau, các rẫy ở ngoài cùng
được rào (bằng tre hoặc cành cây) chắc chắn.
Trước đây, đất rừng còn mênh mông nên khi rẫy bạc màu, người
Chơro bỏ không làm. Người Việt đến sau tiếp tục trồng tỉa trên đất
đó, tuy độ phì nhiêu giảm nhưng không tốn công khai phá. Khi người
đông lên, đất chật và tìm đất mới không dễ thì họ bỏ hóa vài năm để
đất phục hồi rồi tiếp tục canh tác. Một mảnh rẫy cũ (re hoặc re thâm)
sau hai năm bỏ hóa thì cây chồi bắt đầu mọc. Sau bảy, tám năm đất
tích lũy được lượng mùn nhất định thì có thể làm rẫy trở lại. Trước
đây, mỗi gia đình có ít nhất một rẫy cũ đã làm qua một vụ và rẫy mới
(răm) vừa khai phá. Các rẫy có thể ở gần hoặc cách xa nhau. Một đời
người Chơro chỉ cần khai thác ba vòng rẫy là đủ, đó là cách làm rẫy
chu kỳ kín. Mảnh rẫy cũ bỏ hoang từ hai năm trở lên thì không thuộc
quyền sở hữu của bất kỳ ai, người nào muốn làm cũng được. Nhưng

1. Xem Nguyễn Thành Đức: Múa dân gian các tộc người Mạ, Chơro, Xtiêng
vùng Đông Nam Bộ, Nxb. Văn hóa dân tộc, Hà Nội, 2004, tr.14.
CHƯƠNG VII: CÁC THIẾT CHẾ TỰ QUẢN CỦA... 463

để giữ mối quan hệ tốt với người có công khai phá thì người tới sau
đem chai rượu, thuốc hút và trầu cau đến nói chuyện. Ở vùng đồng
bào Chơro rất hiếm xảy ra tranh chấp nương rẫy, gần đây có hiện
tượng bán ruộng và rẫy. Ruộng rẫy bán thường gần làng xóm và đã
bạc màu. Hiện nay, người Chơro ngày càng làm rẫy sâu vào vùng rừng
núi như vết dầu loang1.
Khoảng tháng 1 âm lịch, từng gia đình bắt đầu khai phá rẫy mới và
dọn rẫy cũ. Đây là công việc nặng nhọc, đòi hỏi nhiều sức người nên biện
pháp đổi công thường được áp dụng trong các gia đình. Khi đổi công thì
chủ rẫy lo cơm trưa cho những người làm giúp. Chặt hạ cây là việc nặng
và nguy hiểm do đàn ông đảm nhận. Người ta dùng rìu (xuung) hạ cây
lớn; rựa (bra, pì bra) hoặc chà gạc (via, wiah) phát bụi cây nhỏ, dây leo,
cỏ tranh; cào (xơ xằm băm) và chĩa tre (kđạp) để gom cỏ. Dụng cụ làm
rẫy gồm cây chọc lỗ trỉa hạt (chà moi, xơmol, chơtamâng), dao cắt lúa
(to knhel), cày (war), gùi nhỏ (jal, xah xoi) đựng củi, trái cây; gùi lớn
(prông, xah) đựng thóc, bắp.
Từ tháng 3 âm lịch, khi cây bị đốn đã nỏ thì quá trình đốt rẫy bắt
đầu. Các gốc cỏ còn sót lại được rẫy nốt bằng cào. Bà con Chơro tin
rằng nếu dọn sạch và đốt rẫy xong trước rằm tháng 3 âm lịch thì rẫy sẽ
ít cỏ, được mùa. Thực tế cho thấy bắt đầu từ cuối tháng 3, đầu tháng
4 âm lịch là mùa mưa, thuận lợi cho việc gieo trồng. Qua thời gian,
người Chơro đã biết sản xuất theo diễn biến của khí hậu địa phương.
Người Chơro ở Bảo Chánh (huyện Xuân Lộc, Đồng Nai) và Ngãi Giao
(huyện Châu Đức, Bà Rịa - Vũng Tàu) đã biết dự đoán thời tiết dựa
trên các hiện tượng thiên nhiên.

1. Khoảng vào đầu thập niên 60 của thế kỷ XX, bà con Chơro ở Túc Trưng
(xưa là xã Bình Hòa, Định Quán) còn làm ruộng rẫy ở ven quốc lộ 20 thì nay bà
con đã khai phá dần về phía lâm trường Vĩnh An, Cây Gáo đến 10km. Năm 1975,
bà con ở Bảo Chánh còn làm rẫy ở núi Chứa Chan (Gung Char: Núi Lớn) thì nay
rẫy lùi sâu vào phía Thọ Vực hơn 5 km (Xem Địa chí Đồng Nai, tập V: Văn hóa - Xã
hội, Sđd, tr.603).
464 VÙNG ĐẤT NAM BỘ VIII THIẾT CHẾ QUẢN LÝ XÃ HỘI

Những trận mưa đầu mùa báo hiệu thời gian trồng tỉa bắp, bầu
bí, dưa leo... Đàn ông hai tay cầm hai cái gậy chọc lỗ dài khoảng 2 m,
nhọn đầu, vừa đi vừa chọc hai hàng lỗ. Một người chọc lỗ nhanh có
thể đảm bảo cho vài phụ nữ đi sau tỉa hạt. Họ cầm ống tỉa bằng lồ ô
hoặc nứa đựng hạt giống, dốc hạt ra bàn tay và thả hai, ba hạt vào một
lỗ rồi cầm ống tỉa lấp đất. Bắp, bầu bí, dưa leo... được tỉa đầu tiên, mỗi
lỗ cách nhau khoảng 60 cm. Đến tháng 5 âm lịch, mưa đều hơn, đất
đã nguội, bắp lên cao vài gang tay thì bà con bắt đầu tỉa lúa và bông.
Theo tập quán, người Chơro tỉa hạt ở rẫy cũ xong sau đó là tỉa ở rẫy
mới. Rẫy mới tuy tỉa sau nhưng vì màu mỡ hơn nên cây trồng vẫn lớn
kịp thứ tỉa trước. Trên một mảnh rẫy, mùa đầu người Chơro trồng
nhiều loại: phía ngoài cùng trồng bắp, đậu ván, đậu rồng, mướp; bên
trong trồng khoai, mì; ở giữa (trong cùng) tỉa lúa rẫy, bắp. Đến mùa
sau, rẫy cũ được chia làm ba mảnh trồng lúa, bắp, khoai, mì riêng.
Đậu ván, đậu rồng, mướp... trồng ở cạnh nhà. Họ thu hoạch bắp vào
tháng 6, lúa nương vào tháng 10 âm lịch. Sau lễ cúng Thần lúa (Yang
va) là thời gian diễn ra mùa rẫy mới.
Rẫy là hình thức canh tác phổ biến nhưng người Chơro ở xã Xuân
Phú, Xuân Thọ (Đồng Nai) biết làm ruộng lúa nước với kỹ thuật như
người Việt. Giống lúa (va, bar) của người Chơro gồm lúa nếp và lúa tẻ1.
Từ tháng 11 tới tháng 3 âm lịch là khoảng thời gian rảnh rỗi vì
không phải làm rẫy nên các gia đình Chơro thường đi làm thuê, săn
bắn, hái lượm, tát cá, dệt, đan, tìm mật ong... Rừng là nơi cung cấp
nguồn thức ăn quan trọng. Người Chơro dùng ná (nỏ), lao, bẫy để bắt
chim rừng, công, gà lôi, trăn, hươu, nai, mang, khỉ, heo rừng... Hình
thức đi săn là tập thể hoặc cá nhân. Xu hướng đi săn cá nhân ngày
càng phổ biến. Thời gian đi săn là vào ban đêm. Thịt thú rừng được
chia cho bà con, họ hàng; nếu là thú lớn (như bò rừng, trâu rừng) thì
cả plây nấu nướng ăn uống cả tuần. Mọi người săn được thú đều cúng

1. Xem Địa chí Đồng Nai, tập V: Văn hóa - Xã hội, Sđd, tr.650 - 651.
CHƯƠNG VII: CÁC THIẾT CHẾ TỰ QUẢN CỦA... 465

Thần rừng (Yang bri) để cám ơn. Sản phẩm hái lượm là rau, măng,
nấm, củ, quả... đã bổ sung nguồn thực phẩm trong bữa ăn của người
Chơro. Người ta hái tất cả các loại cây có thể ăn được, trong đó có đọt
mây non vị đắng là thành phần không thể thiếu trong món canh bồi
truyền thống. Nghề lấy mật ong của người Chơro là nguồn thu nhập
đáng kể (mỗi bộng ong có thể cho hàng chục lít mật và chừng 1 kg
sáp), dùng để đổi rìu, rựa, ché, muối...
Vật dụng trong nhà, đi rẫy do người Chơro tự làm như đan các loại
gùi để đựng, lờ, lọp đánh cá ở các khúc suối nhỏ, các tấm đệm nằm thay
chiếu được làm từ lá dong rừng (lùng), lá buông... Nghề dệt vải bông cổ
truyền xưa kia cung cấp y phục như áo, khố, váy (xibut: chăn mặc), chăn
đắp (xu). Bông thu hoạch ở rẫy tháng 11 và 12 âm lịch sau đó dùng xa
quay thành sợi thô (như sợi len) rồi guồng thành con cúi, đem hồ sợi
cho cứng. Khung cửi đơn giản, thường là thanh gỗ ngang có chiều dài
chừng 1m, rộng 5 cm, dày 2 cm để mắc sợi dọc. Sản phẩm dệt thô ráp
với hoa văn biến đổi phức tạp, đẹp mắt, song sản phẩm chỉ dùng trong
gia đình.
Trước năm 1975, người Chơro sống chủ yếu bằng nương rẫy với
trình độ canh tác và kỹ thuật đơn giản. Ngoài thời gian làm nương rẫy
là thời gian đi rừng để khai thác nguồn lợi từ rừng. Từ sau năm 1975 trở
lại đây, đời sống xã hội, kinh tế của người Chơro đã có nhiều thay đổi
bởi chính sách định canh, định cư của Nhà nước.
- Đời sống tâm linh
Đối với nhiều cộng đồng dân tộc thiểu số, đời sống tâm linh có ảnh
hưởng rất lớn đến các thiết chế quản lý và quan hệ xã hội. Người Chơro
thờ đa thần, quan trọng nhất là Thần lúa (Yang va), Thần rừng (Yang
bri), Thần suối (Yang dal), Thần rẫy (Yang re), Thần ruộng (Yang mơ).
Các thần hiện diện trong đời sống cộng đồng thông qua lễ cúng.
Lễ cúng Thần lúa được tiến hành vào tháng 3 âm lịch, khi người
Chơro bắt đầu đốt rẫy, chuẩn bị trỉa hạt cho một mùa mới. Trước ngày
cúng, chủ nhà xách chai rượu đi mời họ hàng. Khách đến dự đều mang
466 VÙNG ĐẤT NAM BỘ VIII THIẾT CHẾ QUẢN LÝ XÃ HỘI

theo một chai rượu hoặc ít tiền để mừng chủ nhà. Bữa trước khi cúng
Yang va (Thần lúa), chủ nhà làm mâm cơm cúng mời ông bà, tổ tiên về
ăn lễ cùng con cháu. Khi bắt đầu cúng Yang va, họ hàng đến làm giúp. Lễ
vật gồm hai con gà luộc (ở chòi lúa), hai con gà luộc (cúng ông bà), một
con gà luộc (ở rẫy tỉa lúa) cùng rượu, trầu cau, bánh. Nhà nào được mùa
thì giết lợn. Trong khi người nhà và họ hàng chuẩn bị lễ cúng thì bà chủ
nhà (mây va) đeo gùi và chà gạc ra rẫy. Trên đường đến rẫy, bà chặt một
ngọn mía, một thân chuối non, hai trái bầu khô cho vào gùi. Ở giữa rẫy,
từ vụ trước đã để lại một bụi lúa mẩy hạt. Bà chủ nhà khấn vái rồi cắt
bụi lúa cho vào gùi và đi về chòi lúa. Tại đây, bụi lúa, ngọn mía, trái bầu,
thân chuối non được bày ra. Bà chủ nhà khấn một lần nữa.
Từ 7 giờ tối tới nửa đêm, trong tiếng cồng chiêng, thầy chang
(katung đăp) hoặc bà búp (xà păm) làm lễ ba lần để thỉnh Yang va và
ông bà tổ tiên về chứng kiến, sau đó đập đầu một con gà (không cắt tiết)
để mổ thịt cúng. Tiếp theo, thầy chang hoặc bà búp khấn trả lễ mùa
trước. Nếu năm trước chủ nhà hứa cúng heo mà năm đó trúng mùa thì
mổ heo tạ lễ. Chẳng may thu hoạch kém thì cúng gà. Bước thứ ba là thầy
chang, bà búp lên đồng, cùng chủ nhà khấn vái mong mùa tới Yang va
và ông bà tổ tiên cho được mùa thì sẽ cúng lễ to. Sau lời khấn vái, thầy
chang, bà búp rắc một ít gạo lên bàn thờ, sau đó chủ nhà làm cơm đãi
khách. Người phụ nữ lớn tuổi nhất trong nhà chịu trách nhiệm cai quản
chòi lúa (nhi va) gọi là mẹ lúa (mây va) uống chén rượu đầu tiên vì bà là
người chăm sóc nhà dài, nương rẫy. Trước đây, khi người Chơro còn ở
nhà dài thì lễ cúng Yang va mang tính tập thể kéo dài cả tuần. Mọi nhà
đều làm lễ cúng nên cả tháng 3 là lễ cúng Yang va của người Chơro.
Lễ cúng rẫy được tổ chức trước khi dọn rẫy cũ, phát rẫy mới. Lễ vật
là một con gà, một chai rượu, vài chiếc bánh nếp, một chén rượu, một
nhúm muối, vài miếng trầu cau. Khi lúa có đòng, người Chơro cúng lúa
chửa với lễ vật là gà, rượu, hoa quả (nhất thiết phải có quả me và khế
chua), trầu cau. Lễ cúng cơm mới được bắt đầu khi lúa chín, phơi khô
CHƯƠNG VII: CÁC THIẾT CHẾ TỰ QUẢN CỦA... 467

và giã tay bằng chính lúa mới do gia đình trồng được. Mâm cơm cúng
gồm 1 muỗng gạo mới, 8 chén cơm, 8 con cá, 1 chén mật ong, 2 ly rượu1.
Lễ cúng Thần rừng (Yang bri) do già làng tổ chức diễn ra vào trước
mùa mưa. Mọi người góp gạo, rượu, heo, gà, vịt, trầu cau, trái cây... để
làm lễ cúng. Già làng đọc lời khấn cầu cho suối nhiều cá, rừng có nhiều
nai, cây có nhiều chim, nhiều ong.
Người Chơro chưa hình thành tập tục thờ cúng ông bà, tổ tiên vì
họ quan niệm chết là hết. Tuy nhiên, một bộ phận dân cư, nhất là lớp
trẻ hiện nay đã thờ tổ tiên, vào dịp lễ tết còn đốt vàng mã, gọi hồn. Sau
năm 1975, một số đồng bào Chơro ở ấp Sơn Thành (xã Xuân Sơn), ấp
Ruộng Tre (xã Bình Giã) thuộc huyện Châu Đức, tỉnh Bà Rịa - Vũng
Tàu đã có nhà thờ Kitô giáo. Đạo Tin Lành phát triển mạnh mẽ trong
cộng đồng người Chơro ở Ngãi Giao, huyện Châu Đức với hơn 1.500
tín đồ. Tại suối Nghệ và thị xã Bà Rịa, một số đồng bào Chơro đã đi nhà
thờ Tin Lành2.

2. Thiết chế tự quản


- Plây
Đơn vị cư trú hành chính cơ bản nhất của người Chơro là plây.
Một plây có vài chục nóc nhà sàn dài (sau này là nhà sàn nhỏ) gồm
nhiều dòng họ cùng chung sống với số nhân khẩu không đông, trước
đây thường nằm lọt thỏm giữa rừng già mênh mông. Các gia đình trong
plây phần nhiều có huyết tộc với nhau, cũng có khi có vài dòng họ cùng
sinh sống. Đứng đầu plây là chủ làng (voq plây). Nếu là xóm nhỏ thì
người đứng đầu gọi là mẹ sóc, mây srok (mây srok là đàn ông). Các vị
tù trưởng hoặc mẹ sóc và những người cao tuổi nhất đứng ra lãnh đạo

1. Xem Địa chí Đồng Nai, tập V: Văn hóa - Xã hội, Sđd, tr.675.
2. Xem Ủy ban nhân dân tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, Sở Khoa học, Công nghệ và
Môi trường: Báo cáo tổng kết đề tài: Người Chơro ở Bà Rịa - Vũng Tàu, Cơ quan thực
hiện: Ủy ban Mặt trận Tổ quốc tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu; Chủ nhiệm đề tài: Cử nhân
Trấn Tấn Vĩnh, Bà Rịa - Vũng Tàu, 1999, tr. 67-68.
468 VÙNG ĐẤT NAM BỘ VIII THIẾT CHẾ QUẢN LÝ XÃ HỘI

mọi việc, dời làng, dựng nhà, tổ chức làm ăn, cúng lễ, vui chơi, đi săn,
tát cá... Thời Pháp thuộc, các vị đầu nhang và chức sắc chính quyền cũ:
ông tổng (cai tổng), ông xã (xã trưởng), ông cả, cai tuần... được chính
quyền thực dân đặt ra để quản lý plây. Các chức sắc nói chung thuộc loại
khá giả, có tài sản. Giữa các plây không có tranh chấp, chém giết, cướp
tài sản lẫn nhau. Plây của người Chơro thường nằm trên những vùng
đất cao, bằng phẳng, gần nguồn nước. Khác với người Xtiêng, ranh giới
các plây của người Chơro không có quy định chặt chẽ bởi họ quan niệm
đất, rừng đều là của chung.
Kiểu phân bố và hướng nhà trong plây không có quy định cụ thể.
Những ngôi nhà của người Chơro nằm tương đối biệt lập và không có
sự ngăn cách. Mỗi một plây có tên gọi khác nhau, thường gọi theo đặc
điểm địa hình, sông suối, cây cối, động vật hay tên một nhân vật nào đó.
Một số tên plây của người Chơro ở Bà Rịa - Vũng Tàu như plây Vít: làng
con vịt (Hắc Dịch), plây Mơ Bân (Mơ: ruộng; Bân: tên một người khai
khẩn)1. Qua các thời kỳ, các tên plây của người Chơro được gọi theo tên
thuần Việt. Một số địa danh này cũng được thay đổi tên gọi, như trước
năm 1945 có làng Hách Dịch, nay chuyển thành Hắc Dịch. Một plây đã
thành xóm, ấp của một làng theo tổ chức hành chính hiện nay.
- Bộ máy tự quản
Xã hội cổ truyền của người Chơro còn mang dấu ấn nguyên thủy,
chưa phân hóa giàu nghèo rõ rệt. Đại đa số các thành viên trong plây
sống bình đẳng với nhau một cách thân mật. Gia đình nhiều lao động,
khá giả thì cũng làm vài mẫu rẫy, trung bình mỗi hộ chỉ làm một, hai
mẫu. Ở khu vực người Chơro cư trú, đất canh tác - tư liệu sản xuất
chính - không thiếu, sức người có hạn nên việc khai phá nương rẫy
cũng có hạn. Mỗi làng chỉ có một số ít hộ khá giả do đông lao động,
trúng mùa, ít bệnh tật... Phần lớn số hộ thiếu ăn vài tháng, chính xác là

1. Xem Ủy ban nhân dân tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, Sở Khoa học, Công nghệ và
Môi trường: Báo cáo tổng kết đề tài: Người Chơro ở Bà Rịa - Vũng Tàu, Sđd, tr.41.
CHƯƠNG VII: CÁC THIẾT CHẾ TỰ QUẢN CỦA... 469

thiếu gạo, là các hộ neo đơn, bệnh tật, chủ hộ không chăm chỉ, chi tiêu
không có kế hoạch... Trong chế độ cũ, một số chức sắc Chơro lợi dụng
uy quyền, bóc lột dân làng về sức lao động, ăn phạt... mà có nhiều tài
sản. Trong cộng đồng plây có một số nhân vật đóng vai trò điều tiết cuộc
sống chung của cộng đồng:
+ Vop plây (trưởng làng, chủ làng): được dân bầu lên nhưng vop
plây vẫn làm ruộng rẫy để nuôi sống bản thân, gia đình. Người Chơro
không có quy định về việc đóng góp lương thực, thực phẩm để nộp cho
vop plây. Tuy nhiên, để bày tỏ lòng kính trọng, khi săn bắn được thú lớn
thì vop plây được biếu một phần thịt thú rừng. Vop plây là một người
đàn ông cao tuổi có uy tín, hiểu biết phong tục tập quán và nhất thiết
phải là thành viên của plây chứ không phải là người từ plây khác đến.
Cơ chế bầu vop plây của người Chơro có tính chất dân chủ, do những
người con trai trong làng đến tuổi thành niên bầu. Vop plây đảm nhiệm
trọng trách đến khi chết hay lúc già yếu thì xin nghỉ. Chức vụ này không
có tính thừa kế. Nếu vop plây chết hay xin nghỉ thì có quyền chỉ định
người khác, nhưng người được chỉ định cũng phải do các thành viên
nam trưởng thành của plây tiến hành bầu. Vop plây có chức năng và
quyền hạn:
- Quản lý sinh hoạt trật tự của plây dựa trên những tập tục
truyền thống;
- Phân xử những tranh chấp, xung đột giữa các thành viên trong
cộng đồng;
- Thay mặt cộng đồng đứng ra giao dịch, quan hệ với bên ngoài;
- Huy động các thành viên trong plây vào công việc chung như làm
nhà, hội hè...
+ Thầy cúng (s’păm): Thầy cúng là những người lao động bình
thường, họ cũng có vợ, con, gia đình. Trách nhiệm của thầy cúng là đại
diện cho plây giao tiếp với thần linh vào những dịp lễ hội, ma chay, cưới
xin. Thầy cúng là người nắm rõ những nghi thức, phong tục của plây, có
470 VÙNG ĐẤT NAM BỘ VIII THIẾT CHẾ QUẢN LÝ XÃ HỘI

nhiều kinh nghiệm về trồng trọt, chăn nuôi và chữa bệnh. Những ngày
cúng tế, thầy cúng được dân làng đưa rước và biếu tiền hoặc hiện vật.
+ Thầy chang (tung dăng): Trong plây có một số người được gọi là
thầy chang - đại diện cho một dòng họ hay cho một nhóm người hoặc
cả cộng đồng trong làng đi đón thầy cúng. Thầy chang cũng được mời
trong những vụ phân xử tranh chấp, kiểm chứng những nghi kỵ về
sự gian dối trong cộng đồng. Ông có vợ con và lao động sản xuất như
mọi người.
+ Người giàu (ta mun cần hắp) là người có nhiều tài sản như trâu
bò, cồng chiêng, thóc lúa. Của cải của họ do sức lao động tạo ra, do ông
bà để lại hoặc do buôn bán, trao đổi. Trước đây xã hội Chơro chưa phân
hóa giai cấp rõ rệt thì tài sản của những người giàu so với người nghèo
không chênh lệch bao nhiêu. Những hộ giàu không có nô lệ, người ở
hay thuê mướn người làm, hoặc phát canh thu tô, đồng thời họ cũng
chưa có tư tưởng tranh giành của cải, chiếm đoạt đất đai. Hiện nay,
quan niệm người giàu của dân tộc Chơro cũng có nhiều thay đổi. Người
giàu phải có nhà xây kiên cố, xe máy, ti vi... hoặc có nhiều vườn, rẫy, thu
nhập cao.
+ Người nghèo (loh sawq): Là những người không có tài sản hoặc tài
sản không có giá trị. Nguyên nhân họ nghèo có thể vì đông con, không
có sức lao động hoặc ốm đau, bệnh tật, neo đơn, chi tiêu không có kế
hoạch... Nhiều người phải đi làm thuê cho các gia đình khác.
+ Người ở đợ (ta muh guq diq): là những người hầu như không có
tài sản. Đây là những người mồ côi hay sinh trưởng trong một gia đình
đông anh em, hoặc có khi họ bị phạt phải nộp trâu bò, chiêng... nên lâm
vào hoàn cảnh nghèo khó. Thời gian đi ở đợ có thể là một năm, hai năm
hoặc lâu hơn.
Trong xã hội của người Chơro, mọi thành viên đều có tính độc
lập tương đối nên vai trò của vop plây, thầy cúng, thầy chang, ông đầu
nhang (voh yang va) mang tính chất cùng phối hợp điều tiết hoạt động
của plây, các nhà dài, các thành viên bởi hệ thống luật tục.
CHƯƠNG VII: CÁC THIẾT CHẾ TỰ QUẢN CỦA... 471

Plây là một tập hợp sinh sống của nhiều dòng họ. Một dòng họ có
thể có nhiều gia đình cùng chung sống trong những căn nhà dài. Điều
tiết mối quan hệ giữa các nhà dài cùng huyết thống là trưởng tộc - người
đứng đầu dòng họ, cao tuổi và có uy tín. Trưởng tộc đứng ra phân xử
những xung đột, mâu thuẫn trong dòng họ, quyết định một số điều hệ
trọng của dòng họ.
Ở cấp thấp hơn là nhà dài. Nhà dài là hình thức cư trú phổ biến
trước đây của người Chơro. Một ngôi nhà dài gồm nhiều hộ gia đình
nhỏ có chung huyết thống. Đứng đầu nhà dài là ông đầu nhang (voh
yang va) do mọi người nhất trí cử ra. Ông đầu nhang có thể là người
cha hoặc người anh lớn tuổi nhất của nhà dài. Trách nhiệm của ông
đầu nhang là phân công lao động cho các thành viên, đại diện cho nhà
dài trong các công việc chung của dòng họ và của plây. Khác với một số
cộng đồng dân cư khác, người Chơro sống đơn giản và hòa thuận. Mọi
việc hòa giải, xét xử các vi phạm thường tiến hành trong nội bộ dòng
họ mà người xét xử chính là ông đầu nhang, ít khi đưa ra plây nhờ chức
sắc phân xử. Trong một chừng mực nào đấy, vai trò của ông đầu nhang
quan trọng hơn trong đời sống của nhà dài nói riêng, plây nói chung.
Chế độ nhà dài có xu hướng tan rã vào đầu thế kỷ XX bởi tác động
của xã hội hiện đại. Hiện nay, mô hình phổ biến là gia đình nhỏ một vợ
một chồng theo dòng cha, tuy còn rơi rớt ảnh hưởng dòng mẹ qua tục
ở rể - vốn được tách ra từ nhà dài truyền thống. Ở các gia đình chủ hộ
là người chồng. Ông có vị trí quan trọng như làm các công việc nặng
nhọc: cày bừa, phát rẫy, làm nhà... để nuôi sống gia đình. Chủ hộ đại
diện gia đình để giao tiếp với các gia đình khác, tham gia công việc của
plây. Không chỉ là lao động trụ cột trong gia đình, người chồng có quyền
quyết định mọi việc, song ít tỏ ra độc đoán mà thường bàn bạc với vợ.
Phụ nữ làm công việc không đòi hỏi nhiều sức khỏe như nam giới, đảm
nhận việc nội trợ, nuôi con. Họ vẫn giữ vai trò đáng kể trong nhà, tương
đối bình đẳng với nam giới.
472 VÙNG ĐẤT NAM BỘ VIII THIẾT CHẾ QUẢN LÝ XÃ HỘI

- Luật tục (ra voq) và sự vận hành của cơ chế tự quản


Luật tục của người Chơro là một di sản văn hóa tinh thần đề
cập đến những lĩnh vực khác nhau của đời sống sản xuất, tổ chức xã
hội, quan hệ cộng đồng, gia đình, phong tục, hôn nhân, lễ nghi. Đây
là một chuẩn mực được quy ước từ lâu đời. Do tổ chức xã hội còn
đơn giản nên luật tục của người Chơro không được ghi chép thành
văn bản mà được truyền miệng từ đời này sang đời khác, mọi thành
viên đều phải tuân theo. Các vi phạm (phụ nữ chửa hoang, loạn luân,
vào nhà đã cắm lá cấm...) đều bị phạt đòn, phạt ché, heo, gà, rượu...
Hiện tượng tranh chấp ruộng rẫy, xích mích đánh lộn, cướp của giết
người... hầu như chưa từng xảy ra nên chưa có điều nào của luật tục
quy định.
Trong cộng đồng người Chơro ở Lý Lịch (Đồng Nai), nếu ai bị mất
cắp vật gì và có đối tượng nghi ngờ thì làm lễ thề. Người mất của trình
bày với yang xin yang phân xử, thanh minh với người mình nghi.
Người bị nghi lấy cắp (mà không lấy) thì thề, do đó, tình trạng trộm
cắp rất hiếm xảy ra vì họ sợ bị phạt như lời thề độc1.
Cộng đồng người Chơro ở Bà Rịa - Vũng Tàu còn lưu giữ một số
luật tục truyền miệng như sau:
- Ăn cắp, ăn trộm: Người ăn cắp, ăn trộm đều bị phạt, lấy cái gì của
người khác thì phải trả lại cái đó. Chẳng hạn, nếu bắt được ăn trộm trâu
thì phải đền trâu. Nếu người ăn trộm trâu bỏ chạy dắt theo cả trâu sẽ bị
bắn chết.
- Chửi nhau: Người bị chửi lấy dây gút lại làm tang chứng để đưa ra
làng xử. Người chửi bị phạt nặng hay nhẹ tùy thuộc vào người khiếu nại.
- Người tôi tớ bỏ đi mà không nói với chủ, đi ở cho nhà khác mà
không báo trước, nếu bắt được sẽ bị phạt bằng cách ở thêm cho chủ cũ
thời gian nhiều hơn gấp ba đến bốn lần.

1. Xem Địa chí Đồng Nai, tập 5: Văn hóa - xã hội, Sđd, tr.660.
CHƯƠNG VII: CÁC THIẾT CHẾ TỰ QUẢN CỦA... 473

- Người a dua tòng phạm: Bị đưa ra xét xử và phạt nặng hơn kẻ


phạm tội.
- Vu cáo, vô cớ bắt người: Bị xét xử, phải nộp tiền phạt và một
chai rượu.
- Bỏ plây đi không xin phép: Nếu bỏ đi mà không xin phép vop plây,
khi trở về sẽ xử bị phạt 1,2 đồng và một lít rượu.
- Quyền thừa kế tài sản: Cha mẹ qua đời nếu có di chúc thì tài sản
chia theo di chúc. Tài sản chung của gia đình như bộ chiêng thì người
con gái út được giữ và không được bán. Anh chị có quyền sử dụng bộ
chiêng đó nhưng mỗi lần sử dụng phải đem theo một chai rượu để xin
phép tổ tiên.
- Người tàn tật, ốm đau, già cả không có nơi nương tựa thì trong
plây phân công mỗi gia đình phải nuôi một ngày, cứ giáp vòng này lại
sang vòng khác.
- Đàn ông có vợ con mà bỏ đi: Nếu bắt được phải lạy cha mẹ, họ
hàng bên vợ và bị phạt heo hoặc trâu bò, bồi thường danh dự cho vợ
một bộ chiêng.
- Người con trai, con gái thương nhau nhưng chưa cưới mà ngủ với
nhau nếu bị nhà gái bắt được thì sẽ giữ của người con trai một vật gì đó
như quần, áo, nón... để làm chứng, sau đó người con gái, con trai đến
nhà người con trai hẹn ngày cưới.
- Ngăn cản không cho trai, gái lấy nhau sẽ bị bắt phạt. Giá trị của lần
phạt tùy theo đòi hỏi của người thưa kiện.
- Ngoại tình: Bắt được kẻ ngoại tình thì đưa ra xét xử. Người ngoại
tình bị phạt gà, lợn hay trâu tùy theo sự đòi hỏi của người thưa kiện.
- Chiếm chồng, chiếm vợ người khác cũng bị phạt bằng gà, lợn hay
trâu bò.
- Cướp chồng: Người con gái cướp chồng của chị hay em thì
gia đình đứng ra xử phạt bằng cách đánh đòn. Người bị đánh nằm
474 VÙNG ĐẤT NAM BỘ VIII THIẾT CHẾ QUẢN LÝ XÃ HỘI

xuống đất, trói tay chân vào cột, đánh một roi hỏi một câu. Nếu
người bị đánh có bầu thì đào dưới đất một cái lõm ép bụng xuống.
- Người con gái không được lấy chồng làng khác, nếu lấy thì bị phạt
như tội bỏ đi khỏi plây.
- Người chồng quan hệ với người con gái khác dẫn đến việc có thai
thì phải bồi thường danh dự cho người con gái đó bằng trâu hay cồng
chiêng tùy theo đòi hỏi của người được bồi thường.
- Nếu đánh vợ bị thương thì phải mang hai con gà để xin lỗi vợ, cha,
mẹ và bà con họ hàng bên vợ.
- Phá thai: Người đàn bà nào phá thai mà giấu gia đình thì phải nằm
xuống đất, bị trói tay chân lại mà đánh.
- Hiếp dâm: Kẻ hiếp dâm bị phạt bằng trâu bò hoặc tài sản khác
theo yêu cầu của người bị hại. Nếu hiếp dâm trẻ em sẽ bị trói đánh
đến chết.
- Trâu bò phá hoại hoa màu có giá trị thì người bị hại có quyền bắt
trâu bò để bồi thường. Nếu phần hoa màu bị phá tính chưa bằng giá trị
trâu bò thì người bị hại vẫn có thể bắt trâu bò và trả thêm một số tiền
cho người có trâu bò bị bắt.
- Kết hôn cùng huyết thống: Trai, gái có họ hàng với nhau từ bốn
đời trở xuống không được kết hôn. Nếu vẫn quyết tâm lấy nhau thì gia
đình lấy cơm, thức ăn đổ vào máng heo bắt ăn, nếu đồng ý ăn thì cho lấy.
- Đàn ông lấy vợ mà không có con, muốn lấy vợ khác thì phải được
sự đồng ý của người vợ. Người vợ không bằng lòng nhưng chồng vẫn
lấy thì phải bồi thường danh dự bằng trâu bò hoặc chiêng theo sự đòi
hỏi của người vợ trước1.
Những luật tục của người Chơro còn đơn giản, quy định những
cách thức ứng xử trong một xã hội mà dấu ấn mẫu hệ vẫn còn sâu đậm.

1. Xem Ủy ban nhân dân tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, Sở Khoa học, Công nghệ
và Môi trường: Báo cáo tổng kết đề tài: Người Chơro ở Bà Rịa - Vũng Tàu, Sđd,
tr.48-51.
CHƯƠNG VII: CÁC THIẾT CHẾ TỰ QUẢN CỦA... 475

Tuy nhiên, những quy định này đã trở thành những khuôn mẫu cho
việc điều hành của vop plây (trưởng làng) cũng như cách thức ứng xử
của mỗi thành viên trong cộng đồng.

II- NGƯỜI MẠ

1. Vài nét về người Mạ


Người Mạ thuộc dòng Nam Á, nhóm ngôn ngữ Môn-Khmer.
Dân tộc Mạ được gọi bằng nhiều tên khác nhau: Chau Mạ (Chau:
người, Mạ: tên tộc người), Che Mạ, Mạ Ngăn (Ngan: chính dòng), Mạ
Xốp (Xốp: đá phiến, Mạ Xốp: người Mạ ở vùng đá phiến, người Pháp
phiên âm là Vop), Mạ Tô (Tô: vùng thượng nguồn sông Đồng Nai),
Mạ Krung (Krung: vùng đồng bằng), Mạ Xrê (Xrê: ruộng, Mạ Xrê:
người Mạ làm ruộng). Vào đầu thế kỷ XX, Henri Maitre cho biết người
Mạ chịu ảnh hưởng rất nhiều của người Khmer, đặc biệt trên lĩnh vực
phương ngữ học. Nhóm người Che Mạ là dòng tộc quan trọng và đông
đảo chiếm toàn bộ các tổng nằm giữa Bình Thuận và Nam Kỳ, lưu vực
trung lưu sông Đồng Nai, sông La Ngà (Lagna) và cao nguyên Mạ1.
Tiếng nói của người Mạ và người Cơho căn bản giống nhau, họ có thể
học được chữ Cơho La tinh hóa được tạo ra chưa lâu.
Người Mạ sinh sống ở phía cực nam Tây Nguyên, trên địa bàn tỉnh
Lâm Đồng (các huyện Bảo Lộc, Di Linh, Đức Trọng), Đắk Lắk, Bình
Phước và Đồng Nai. Người Mạ gồm bốn nhóm địa phương: 1) Mạ Ngăn
là Mạ chính dòng, sinh sống ở lưu vực sông Đa Đơng; 2) Mạ Xốp là
người Mạ sống ở cùng đất sét (xốp); 3) Mạ Tô là nhóm người Mạ sinh
sống ở thượng lưu sông La Ngà và cao nguyên Blao, có quan hệ mật

1. Xem Henri Maitre: Rừng người Thượng (vùng rừng núi cao nguyên miền
Trung Việt Nam), bản dịch, Nxb. Tri thức, Hà Nội, 2008, tr.142. Cũng theo
H.Maitre, nhóm Mạ gồm thêm các tộc người Trau (Chrau), Vop, Che-Sre, Che-
Tô, Cơho, Lạt. Tuy nhiên, nhóm tộc người Jiroo (gọi đúng Jro), Nôp, Lạp, Cơho,
Chestto... thuộc các tộc người Jro (Chơro), Cơho.
476 VÙNG ĐẤT NAM BỘ VIII THIẾT CHẾ QUẢN LÝ XÃ HỘI

thiết với người Cơho; 4) Mạ Krung sinh sống rải rác từ huyện Bảo Lộc
(tỉnh Lâm Đồng) đến huyện Định Quán (tỉnh Đồng Nai).
Người Mạ là một trong các cư dân bản địa ở Đồng Nai. Xưa kia,
họ đã lập được Nggar Chau Mạ (nước người Mạ, mà Bernard Bourotte
gọi là công quốc Mạ - principauté Mạ), với ranh giới phía nam là sông
La Ngà (Đạ R’Nga), phía bắc là vùng Đức Trọng (Lâm Đồng), phía
đông giáp đồng bằng Bình Thuận, phía tây giáp Bình Phước. Quốc gia
sơ khai của người Mạ nằm trên phần lớn cao nguyên Di Linh - Bảo
Lộc, nửa phía bắc huyện Định Quán và toàn bộ huyện Tân Phú hiện
nay. Năm 1994, khảo cổ học khám phá thánh địa Cát Tiên (nằm ở hai
bờ bắc, nam sông Đồng Nai thuộc phạm vi tỉnh Lâm Đồng và Đồng
Nai) là cơ sở để khẳng định sự tồn tại của một cộng đồng cư dân có
một trình độ tổ chức xã hội khá cao. Cũng có ý kiến cho rằng tiểu quốc
Mạ là sự liên minh của nhiều bộ lạc, thị tộc. Cuối thế kỷ XVII, tiểu
quốc Mạ tan rã1.
Trong phạm vi tỉnh Đồng Nai, trước Cách mạng Tháng Tám năm
1945, người Mạ sống tập trung ở thị trấn Định Quán, các làng Thuận
Tùng, Cao Cang, Gia Canh và Tà Lài. Năm 1947, họ bị quân Pháp cưỡng
bức tập trung về Trảng Bom (huyện Thống Nhất bây giờ). Theo số liệu
của Cục Thống kê Đồng Nai, năm 1996, người Mạ toàn tỉnh là 1.848,
xếp thứ 10 trong số hơn 40 dân tộc anh em trong tỉnh. Họ tập trung
đông nhất tại ấp Hiếu Nghĩa (trước đây là ấp Trung Hiếu, thị trấn Định
Quán, huyện Định Quán): 182 hộ với 923 nhân khẩu. Xã Tà Lài có 433
nhân khẩu, đông thứ nhì. Số còn lại sinh sống rải rác ở một số xã khác
thuộc huyện Tân Phú như Phú Bình, Phú Sơn...

1. Xã hội người Mạ đã hình thành nhà nước chưa vẫn còn có nhiều ý kiến
khác nhau. Quan điểm về sự hình thành nhà nước của người Mạ (đại diện là các
học giả người Pháp đầu thế kỷ XX như H.Maitre) cho rằng nhà nước của người
Mạ chịu ảnh hưởng của văn hóa Khmer, là chư hầu khá tự do của Chân Lạp. Quan
điểm khác cho rằng chưa hình thành nhà nước bởi thiếu các nghiên cứu về kinh
tế và xã hội của người Mạ trong lịch sử.
CHƯƠNG VII: CÁC THIẾT CHẾ TỰ QUẢN CỦA... 477

- Đời sống kinh tế


Phương thức canh tác chủ yếu của người Mạ là làm nương rẫy.
Khoảng tháng 1 âm lịch, những người cùng làng (bòn) kéo nhau
đi tìm đất làm rẫy (gọi là mì rì, mir; rẫy mới là mì rì pơ, mđrih; rẫy cũ
là mì rì tệ, mpuh) do một già làng giàu kinh nghiệm sản xuất dẫn đầu.
Địa điểm “ăn rừng” là nơi có địa hình tương đối bằng phẳng, sườn dốc
thoải, đất màu xám sẫm, nhiều mùn, chất đất dẻo. Người Mạ thường
chọn rừng thứ sinh (xar) đất tốt, ẩm, dễ khai phá hơn các khu rừng
nguyên sinh (rlau) hoặc rừng thưa (lac). Khu rừng già nhiều cây cao
to, um tùm, rậm rạp được coi là nơi ngự trị của thần linh, gọi là rừng
thiêng (krông).
Trong quá trình đi tìm đất làm rẫy, người Mạ cũng có những kiêng
kị như người Xtiêng. Chọn được vùng đất ưng ý, mỗi gia đình được chia
một khoảnh, định mốc bằng hòn đá lớn hoặc gốc cây to. Mọi người có
thể tự do đi tìm rừng để khai phá, trồng tỉa theo ý riêng. Thông thường,
các gia đình cùng bòn (làng) làm rẫy sát nhau. Ranh giới giữa vùng rừng
kế cận và khu rẫy của bòn là các mốc thiên nhiên được các bòn khác tôn
trọng. Trong cộng đồng một bòn, mọi người tôn trọng quyền chiếm hữu
đất đai của mỗi gia đình và không để xảy ra hiện tượng tranh giành vì
đất rộng mà người lại thưa. Xưa kia, mỗi bòn của người Mạ có một chủ
rừng - gọi là tôm bri - do dân cử. Người nơi khác muốn đến săn bắn,
đánh cá hoặc làm rẫy trong phạm vi đất đai của bòn đều phải được tôm
bri (chủ rừng) cho phép.
Khi chọn rẫy xong, người ta dùng chà gạt để phát cỏ, dùng rìu
đốn cây lớn và vừa. Tháng 2 và tháng 3, khi cây cỏ đã khô là lúc đốt
rẫy. Tháng 4, khi trời bắt đầu mưa là thời điểm làm rẫy. Trước khi
canh tác, bà con cúng rẫy ngay tại nơi trồng tỉa với niềm ước mong
các thần linh và ông bà, tổ tiên cho được mùa, ma quỷ không làm hại
mùa màng. Đối với rẫy mới, vụ đầu trồng lúa cạn, vụ sau trồng lúa
478 VÙNG ĐẤT NAM BỘ VIII THIẾT CHẾ QUẢN LÝ XÃ HỘI

xen với hoa màu như ngô, dưa leo, bí, sắn, khoai lang, bông... Các
giống cây được trồng theo hàng, cách nhau chừng 40 cm để dễ thu
hoạch sản phẩm vào các thời điểm khác nhau (ngô và đậu hái trước,
sau đó là dưa, bí, lúa, cuối cùng là khoai mì). Mỗi nương rẫy canh tác
trong khoảng thời gian từ hai đến ba năm thì bạc màu. Người Mạ bắt
đầu quá trình đi tìm rẫy mới, bỏ hóa rẫy cũ trong thời gian bảy, tám
năm cho lớp phủ thực vật phát triển trở lại thì quay về tiếp tục khai
phá, thực hiện chu kỳ trồng tỉa mới.
Người Mạ ở ấp Hiếu Nghĩa, thị trấn Định Quán, tỉnh Đồng Nai đã
khai phá cánh đồng ven ấp được hơn 50 ha vào năm 1957, sau đó bà con
học cách trồng lúa của người Việt như dùng cày, bừa, nhưng chưa sử
dụng phân bón vì sợ bẩn1.
Chăn nuôi là ngành kinh tế phụ và sản phẩm không dùng để trao
đổi hàng hóa. Gà, vịt, lợn... nuôi quanh nhà, trâu thả rông ven rừng,
được dùng vào việc cưới hỏi, ma chay và cúng lễ. Ngoài nguồn thức ăn
do chăn nuôi, người Mạ vào rừng săn bắn, tìm hái măng tre, mật ong...
hoặc ra suối bắt cá.
Vật dụng trong nhà đều tự làm. Trước đây, khi giao thông khó khăn,
để đáp ứng nhu cầu của cuộc sống, người Mạ trồng bông, kéo sợi để dệt
vải thô (thổ cẩm) dùng làm chăn đắp, váy, khố... với hoa văn trang trí
tinh tế. Sản phẩm dệt của người Mạ nổi tiếng khắp Đông Nam Bộ về sự
khéo léo. Tuy nhiên, nghề dệt cổ truyền đang có nguy cơ biến mất bởi
sự cung ứng các sản phẩm dệt may công nghiệp. Người Mạ biết rèn sắt
làm nông cụ nhưng hiện nay công cụ lao động như rựa, bừa, liềm, rìu...
đều mua ở chợ do thợ rèn người Việt chế tác.
Đặc trưng kinh tế của người Mạ là tự cung tự cấp, phụ thuộc vào tự
nhiên, khai thác rừng... nên đời sống của người dân vẫn còn gặp nhiều

1. Xem Địa chí Đồng Nai, tập 5: Văn hóa - xã hội, Sđd, tr.681.
CHƯƠNG VII: CÁC THIẾT CHẾ TỰ QUẢN CỦA... 479

khó khăn. Mặc dù có những chính sách hỗ trợ của Nhà nước về cuộc
sống định canh, định cư nhưng người Mạ vẫn thích làm rẫy ở trong
rừng. Đây là tập quán còn tồn tại của hoạt động sản xuất nguyên thủy
trong cộng đồng người Mạ.
- Đời sống tâm linh
Người Mạ tin rằng mọi vật đều có thần (yang). Yang có thể mang lại
điều tốt nhưng cũng có thể trừng phạt bằng cách giáng tai họa. Trong
tín ngưỡng của người Mạ, Nđuh là vị thần tạo hóa cao nhất đã sinh ra
muôn loài. Bảo vệ mỗi bòn là thần Kri krông. Thần rừng (Yang bri) cai
quản núi rừng. Thần lúa (Yang kòi) là vị thần quan trọng nhất vì gần gũi
mọi nhà và cung cấp lương thực cho mọi người trong bòn... Chính vì
có niềm tin vào thần linh nên người Mạ khi có việc đều tổ chức lễ cúng
như cúng Thần rừng (lở yang bri), cúng rẫy mới (mì rì pơ), lễ Hội mùa
(Nor he).
Người Mạ ở ấp Hiệp Nghĩa (thị trấn Định Quán, Đồng Nai) coi
ngọn núi Đang Kar gần đó là nơi linh thiêng nên thường tổ chức cúng
Yang bơ nơm (thần núi Đang Kar) vào cuối năm âm lịch. Cả bòn góp lễ
vật, cử một già làng đọc lời khấn cầu phúc. Lễ cúng Thần rừng vào dịp
Tết âm lịch được tổ chức tại nhà tôm bri - vị già làng đại diện bảo vệ chủ
quyền, đất đai, nương rẫy, rừng, suối thuộc phạm vi của bòn. Khoảng ba
năm một lần, dân trong bòn góp rượu, gạo, gà, vịt... làm lễ cúng Thần
rừng (Yang bri), mong Yang bri cho bà con măng, mật ong... Cúng xong,
mọi người cùng nhau nấu nướng, ăn uống trong tiếng cồng chiêng. Khi
săn được thú rừng, người Mạ cúng Thần rừng để tạ ơn. Săn được voi,
cọp thì cúng heo, săn được hươu, nai... thì cúng gà. Nếu bắn trượt thì
luộc trứng gà để cầu lần sau bắn trúng.
Khi chọn rẫy mới, tôm bri cùng đàn ông trai tráng vào rừng, cúng
Thần rừng bằng gà, rượu, xôi, trầu, thuốc..., sau đó tiến hành chặt cây,
480 VÙNG ĐẤT NAM BỘ VIII THIẾT CHẾ QUẢN LÝ XÃ HỘI

phát cỏ. Khi cây cỏ đã khô, người Mạ cúng Thần lửa để cầu mong cây
cỏ cháy hết thành tro, đất đai thêm màu mỡ. Sau khi mưa, bà con làm lễ
cúng hồn lúa tại rẫy trước khi chọc lỗ tỉa hạt. Khi lúa vào đòng, người
Mạ chuẩn bị gà luộc, rượu, chén cơm, trầu cau, một nhúm muối để làm
lễ tạ ơn lúa mẹ1.
Lúa rẫy là nguồn lương thực quan trọng nên khi thu hoạch, người
Mạ thường tổ chức Hội mùa (Nor he) để cúng Thần lúa, diễn ra từ
tháng 2 đến tháng 3 âm lịch theo từng nhà dài. Khi cúng, mỗi nhà lấy
hai cây tre non, cao từ 2 đến 3 m chẻ ngọn thành sáu bông xòe ra, chính
giữa cây tre cắm chùm gai mây tượng trưng cho bông lúa. Hai cây tre
này chôn trước nhà, ở mỗi bông xòe ra gài một chén cơm nhỏ. Trên
cây tre, các nhánh có trang trí những hình vuông lớn với hoa văn hình
học. Dưới gốc tre là các ché rượu cần. Vào buổi tối, gia chủ giết gà, vịt,
heo hoặc trâu để làm lễ cúng. Gia chủ tự cúng, đọc lời khấn cầu nguyện
Thần lúa cho họ được mùa2. Ngày hôm sau, chủ nhà đãi bà con và người
quen trong vòng một đến ba ngày, tùy theo hoàn cảnh từng nhà. Trong
lúc ăn uống, người Mạ đánh cồng chiêng, hát dân ca. Lễ Nor he có khi
kéo dài hàng tháng. Phần lớn lương thực, thực phẩm, công sức lao động
đều dùng vào dịp này.

2. Thiết chế tự quản

Một khu vực cư trú của người Mạ, gọi là bon, thường có một số ngôi
nhà sàn dài (hìu đoòng). Những ngôi nhà sàn dài có thể tập trung hoặc
phân tán trong phạm vi cư trú của cộng đồng. Không gian sinh sống của
người Mạ gồm đất ở, đất canh tác, đất rừng để khai thác rẫy, đất rừng
để săn bắn, bãi cỏ chăn nuôi gia súc, phạm vi đầm hồ, cánh rừng thiêng.

1. Địa chí Đồng Nai, tập 5: Văn hóa - xã hội, Sđd, tr.690.
2. Xem Địa chí Đồng Nai, tập 5: Văn hóa - xã hội, Sđd, tr.690 - 691.
CHƯƠNG VII: CÁC THIẾT CHẾ TỰ QUẢN CỦA... 481

Trong mỗi nhà sàn hàng chục gia đình cùng huyết thống chung
sống. Nhà sàn dài là đơn vị cư trú truyền thống của người Mạ. Mỗi
nóc nhà có thể dài 50m hoặc hơn. Sàn cách mặt đất từ 1 đến 1,5 m,
khung nhà bằng gỗ căm xe, gõ, bằng lăng. Người Mạ kiêng không làm
khung nhà bằng cây dầu. Các mối buộc bằng dây mây và nhà rất thấp.
Trong nhà không có giường, bàn ghế. Người ta nằm ngủ, ngồi chơi,
tiếp khách... trên chiếc chiếu trải ở sàn nhà, cạnh bếp lửa gia đình.
Mỗi nhà sàn dài có một hay vài chòi lúa chung do một phụ nữ lớn tuổi
quản lý, phân phối cho các gia đình nhỏ. Hiện nay, nhà sàn dài không
còn, gia đình nhỏ sống riêng biệt trong căn nhà trệt lợp gianh hoặc
tôn. Nhà nền đất khiến một số gia đình mua sắm bàn, ghế, giường...
Các gia đình nghèo thì làm sạp tre dài (thay cho giường). Có nhà làm
kho lúa nhỏ cạnh nhà. Gia đình thu hoạch ít thóc thì đóng bao, cất
trong nhà.
Mỗi bon do một số người có uy tín tổ chức hoạt động sản xuất,
phân phối tư liệu sản xuất là đất rừng. Người chủ làng đồng thời là chủ
rừng, chủ đất (chau kuang bon, chau pải, tom bri). Mỗi bon thường có
hai người điều khiển rừng (chau át pu bri) cùng với các gia trưởng (pô
hiu) hướng dẫn việc canh tác đất rừng hằng năm.
Ông tộc trưởng (người đứng đầu nhà dài, gọi là chau đoòng) có
nhiệm vụ cúng lễ, tham gia hòa giải mâu thuẫn nội bộ, tham gia xử phạt
các thành viên mắc lỗi... Các chau đoòng và một số bô lão giàu kinh
nghiệm sản xuất, săn bắn giỏi chỉ huy chiến đấu, thạo giao dịch, đối
ngoại họp thành hội đồng già làng. Thời Pháp thuộc cơ cấu này không
còn, thay vào đó là các chức sắc do chính quyền thực dân đặt ra. Xã hội
người Mạ chưa phân hóa giai cấp rõ rệt. Một số hộ có tài sản đáng giá
như trâu, ché, chiêng... còn phần đông vẫn thiếu thốn, một số phải đi làm
mướn kiếm ăn hằng ngày.
482 VÙNG ĐẤT NAM BỘ VIII THIẾT CHẾ QUẢN LÝ XÃ HỘI

Trước đây, khi còn nhà sàn dài, người mẹ/người vợ quyết định mọi
việc trong nhà. Con gái được quý trọng hơn con trai, nam thanh niên
lấy vợ thì ở nhà vợ. Người cậu (anh/em trai của mẹ) có vai trò rất quan
trọng trong việc giải quyết chuyện gia đình. Tuy nhiên, trước tác động
của xã hội bên ngoài, đặc biệt là từ khi thực dân Pháp và đế quốc Mỹ
xâm lược Việt Nam, thì các mối quan hệ và những thiết chế xã hội cổ
truyền đã biến đổi rất nhiều. Gia đình lớn tan rã, gia đình nhỏ xuất
hiện và ngày càng chiếm ưu thế. Huyết thống theo dòng cha từng bước
thắng thế, người đàn ông có bổn phận làm việc nuôi gia đình nên quyền
hành cũng nhiều hơn. Con trai trưởng được coi trọng. Sau hôn nhân,
người vợ về ở bên nhà chồng. Người con trai khi lấy vợ thì không tách
ra ở riêng mà ở cùng bố mẹ và các anh em trai khác. Người con gái khi
lấy chồng thì về nhà chồng. Tính chất phụ hệ trong gia đình thể hiện ở
một số khía cạnh như khi về nhà chồng, những tài sản của người vợ có
được trước đây, một phần đóng góp lại cho gia đình mình, một phần
đóng góp vào gia đình mới. Khi người cha qua đời, của cải do con trai
lớn tuổi nhất thừa kế. Trường hợp không có con trai thì tài sản thừa
kế được chuyển giao cho người anh hoặc người em trai trong dòng họ.
Việc quy định chặt chẽ về quyền thừa kế nhằm mục đích bảo lưu tài sản
trong dòng họ. Tuy nhiên, tàn dư của chế độ mẫu hệ và quần hôn vẫn
còn đậm nét. Tập quán hôn nhân em chồng, em vợ, hôn nhân con trai
cô với con gái cậu vẫn còn dư tồn. Quyền ông cậu vẫn chưa mờ nhạt
trong gia đình người Mạ1.
Cơ chế tự quản, tự vận hành trong xã hội truyền thống là luật tục
do cau quang (người già/già làng có uy tín, hiểu biết về phong tục tập
quán) của cộng đồng trực tiếp xét xử. Luật tục quy định tính liên đới

1, 2. Viện Nghiên cứu văn hóa: Tìm hiểu luật tục các tộc người ở Nam Tây
Nguyên, Nxb. Văn hóa dân tộc, Hà Nội, 2004, tr.136, 165.
CHƯƠNG VII: CÁC THIẾT CHẾ TỰ QUẢN CỦA... 483

của mọi thành viên, thể hiện qua điều luật: người đàn ông có lỗi, làng
phải chịu; đứa con có lỗi, người cha phải gánh2. Luật tục quy định trách
nhiệm về sự gọn gàng, chu đáo trong gia đình thuộc về người phụ nữ.
Tuy nhiên, những công việc quan trọng trong gia đình là của người đàn
ông, bản thân người đàn ông cũng phải làm gương và không được lười
biếng. Vai trò của người đàn ông là phải bảo vệ và giải quyết các công
việc của gia đình, nắm vững các tập quán để đảm bảo các thành viên
trong gia đình không vi phạm luật cấm. Luật tục quan tâm đến các quy
tắc ứng xử trong đời sống thường nhật, đặc biệt là tình yêu nam nữ. Đây
là một nội dung được phản ánh rất nhiều trong luật tục. Theo nguyên
tắc, nam nữ hoàn toàn tự do trước hôn nhân. Họ có thể có nhiều mối
quan hệ nhưng không nên để lại hậu quả nếu không muốn cưới nhau.
Giữa những đôi trai gái đã quyết định kết hôn thì người con trai chuẩn
bị lễ vật đến nhà người con gái. Nhưng khi đã lập gia đình, họ phải có
trách nhiệm với nhau1.
Ngoại tình là lỗi rất nặng. Nếu trong bon xảy ra việc này thì cả làng
phải kiêng cữ bảy ngày, các hoạt động chính như làm rẫy, rèn và dệt vải
phải ngừng lại. Người lạ không được vào trong bon. Người Mạ có quan
niệm ngoại tình là việc làm xáo động đến đời sống của cộng đồng và xúc
phạm đến các vị thần (yang)2. Nếu người đàn ông ngoại tình thì phải có
trách nhiệm bồi thường cho vợ mình và cho chồng của tình nhân. Phụ
nữ ngoại tình phải nộp phạt cho chồng mình và vợ của tình nhân. Nếu
người đàn ông đã có vợ nhưng ngoại tình với cô gái chưa có chồng thì
anh ta phải bồi thường cho cả vợ và nhân tình. Trong khi đó, nếu người
vợ ngoại tình với một người đàn ông độc thân thì cả vợ và nhân tình đều
phải bồi thường cho người chồng. Hiện vật bồi thường cho nạn nhân là

1, 2. Xem Viện Nghiên cứu văn hóa: Tìm hiểu luật tục các tộc người ở Nam Tây
Nguyên, Sđd, tr.154-155, 167.
484 VÙNG ĐẤT NAM BỘ VIII THIẾT CHẾ QUẢN LÝ XÃ HỘI

một con trâu và một cái chiêng cổ. Đối với cộng đồng, người vi phạm
cũng có trách nhiệm bồi thường cho bon.
Luật tục nghiêm cấm các hành động loạn luân, cụ thể là “ngủ với
chị em ruột hay chị em chú bác ruột, cô cậu ruột”. Thực tế cho thấy,
luật tục hoàn toàn ngăn chặn hôn nhân cùng dòng máu. Khi có việc
loạn luân diễn ra, cả cộng đồng phải kiêng cữ hai lần bảy ngày. Việc bồi
thường cho tập thể là trách nhiệm của đương sự.
Để đảm bảo đời sống của cộng đồng không xảy ra những biến động
lớn, cơ cấu tự quản của bon người Mạ nghiêm cấm các hoạt động phù
thủy. Ngoài việc trong bon có một thầy cúng (cenang) chịu trách nhiệm
về các lễ cúng và chế biến thảo dược, những người được coi là phù
thủy khi ông ta cần linh hồn của người muốn làm hại. Trước đây, người
phạm tội phù thủy dùng ma thuật hại người sẽ bị tử hình, hiện nay họ
chỉ bị phạt.

III- NGƯỜI XTIÊNG

1. Vài nét về người Xtiêng


Người Xtiêng sống tập trung tại Bình Phước, một phần ở Tây Ninh,
Đồng Nai. Ngôn ngữ Xtiêng thuộc dòng Nam Á, nhóm Môn-Khmer
và có nhiều từ ngữ khá gần với tiếng Chơro, Mạ, Cơho... Người Xtiêng
được gọi bằng nhiều tên khác nhau: Ke Dieng, Se Dieng, Xađiêng,
Tàmun, Dalmer, Bà Tô, Bù Đip, Bù Lach, Ray, Bà Rá, Rong, Ah, Bù Le,
Bù Lơ (người vùng cao), Bù Đek (người vùng thấp). Vào đầu thế kỷ XX,
người Xtiêng là cộng đồng đông dân nhất ở phía nam Tây Nguyên, sống
trải rộng trên thượng lưu sông Bé và các chi lưu của nó. Về phía tây, tầm
ảnh hưởng của người Xtiêng tới lưu vực thượng lưu sông P.Tchlong,
thượng lưu sông Sài Gòn và dừng lại ở sông Rhlap (một chi lưu của
sông Bé)1.

1. Xem Henri Maitre: Rừng người Thượng (vùng rừng núi cao nguyên miền
Trung Việt Nam), Sđd, tr.144.
CHƯƠNG VII: CÁC THIẾT CHẾ TỰ QUẢN CỦA... 485

Theo kết quả điều tra dân số ngày 1-4-1999, người Xtiêng ở Việt
Nam có tổng số là 66.788 người (34.447 nữ), phân bố ở tỉnh Bình
Phước (63.926 người); tỉnh Tây Ninh (1.469 người); tỉnh Đồng Nai
(1.135 người)1.
- Đời sống kinh tế
Người Xtiêng là cư dân nông nghiệp trồng lúa nhưng gắn bó với đất
rừng vì đất rừng là một bộ phận của cuộc sống, đảm bảo sự tồn tại và
phát triển của họ. Họ canh tác trên rẫy - là một khoảng đất rừng rộng
vài héc ta để gieo tỉa lúa, bắp xen với hoa màu, rau đậu. Đây là nguồn
cung cấp lương thực, thực phẩm trong nhiều tháng cho người Xtiêng.
Chu trình làm rẫy của người Xtiêng là chọn rẫy, phát dọn rẫy, đốt rẫy,
tỉa lúa và thu hoạch.

1. Tại Đồng Nai, năm 1996 người Xtiêng có 1.185 nhân khẩu (603 nữ), xếp thứ
12/40 dân tộc anh em, tập trung đông nhất ở xã Tà Lài (huyện Tân Phú): 422 nhân
khẩu. Xã Xuân Hưng (huyện Xuân Lộc) có 52 hộ với 275 nhân khẩu cũng là nơi có
đông người Xtiêng. Các xã khác, huyện khác cũng có bà con Xtiêng sinh sống, song
ở phân tán hơn, xen kẽ với các dân tộc anh em.
Người Xtiêng ở Bù Chrap (xã Tà Lài) là nhóm dân bản địa trong suốt hai cuộc
kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ một lòng đi theo cách mạng. Khi
địch càn quét gom dân thì bà con vào rừng, không chịu vào ấp chiến lược. Ngay từ
năm 1861, khi thực dân Pháp đánh chiếm tỉnh Biên Hòa lần đầu, người Xtiêng đã kề
vai sát cánh cùng người Việt, người Mạ, người Chơro... đứng lên chống Pháp. Bà con
Xtiêng ở xã Xuân Hưng (huyện Xuân Lộc) và một số nơi khác ở Đồng Nai vốn quê ở
biên giới Bình Phước - Campuchia mới bị gom đưa về vào đầu những năm 1970, nhất
là trong đợt tiến công chiến lược xuân 1972 (chiến dịch Nguyễn Huệ) của quân giải
phóng ở khu Đông Nam Bộ.
Bình Phước là địa phương có đông người Xtiêng sinh sống nhất, chiếm 9,75%
dân số toàn tỉnh và gần 96% dân số người Xtiêng trong cả nước, phân bố ở Phước
Long: 19.877 người; Bình Long: 20.153 người; Lộc Ninh: 10.104 người; Bù Đăng:
10.878 người; Đồng Phú: 2.362 người; thị xã Đồng Xoài: 359 người.
Xem Phan An: Hệ thống xã hội tộc người của người Stiêng ở Việt Nam (từ thế
kỷ XIX đến năm 1975), Nxb. Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, Thành
phố Hồ Chí Minh, 2007, tr.28.
486 VÙNG ĐẤT NAM BỘ VIII THIẾT CHẾ QUẢN LÝ XÃ HỘI

Việc chọn rẫy được tiến hành hàng năm vào khoảng cuối tháng 2,
đầu tháng 3. Khu vực chọn rẫy là các khu rừng lồ ô hoặc rừng nguyên
sinh do người đứng đầu làng (tom poh) bàn bạc với người đứng đầu các
gia đình lớn hoặc dòng họ (mpoh).
Khoảng cuối tháng 3, đầu tháng 4 công việc phát rẫy bắt đầu.
Việc chặt hạ cây to do đàn ông thực hiện, đòi hỏi sự khéo léo để khi
chặt, cây cối ngã theo hướng nhất định thì nắng sẽ làm cho cây mau
khô, cháy hết trong quá trình đốt. Đốt rẫy là công đoạn hoàn chỉnh
việc dọn rẫy và tạo thêm lớp tro làm phân bón cho cây trồng. Người
Xtiêng đốt rẫy theo chiều gió thổi, vào lúc mặt trời lên cao, mặt đất
khô sương. Đốt rẫy là kinh nghiệm quan trọng vì phải điều khiển
ngọn lửa cháy to, lan đều, thiêu hết các cành cây khô nỏ và quan
trọng hơn là không gây cháy rừng. Sau khi đốt xong, trên mặt đất là
lớp tro mùn chờ mưa xuống để thấm vào đất. Việc đốt rẫy có ảnh
hưởng lớn đến kết quả mùa vụ.
Việc tỉa lúa được tiến hành khi những cơn mưa làm đất ẩm ướt
và lớp tro đã ngấm vào đất. Những người đàn ông đi trước với gậy
chọc lỗ (rơmul) trên tay, theo sau là phụ nữ gùi thóc giống trên lưng
và giỏ đựng thóc tỉa bên hông. Cứ mỗi bước đi người đàn ông lại chọc
xuống đất một lỗ nhỏ sâu khoảng 3 - 4cm thành từng hàng. Người
phụ nữ đi sau lấy thóc giống tỉa lúa vào cái lỗ đã chọc sẵn, mỗi lỗ
chừng 5 - 6 hạt rồi dùng chân lấp lại. Công việc bắt đầu từ dưới chân
đồi tiến lên đỉnh đồi.
Cùng với tỉa lúa, người Xtiêng thường trồng xen kẽ vào rẫy các
giống bầu, bí, rau đậu, thuốc lá... Những loại cây này sẽ cho thu hoạch
trước khi lúa trổ bông. Khi lúa làm đòng, người Xtiêng dựng một cái
chòi nhỏ ở giữa hoặc cuối rẫy để ở, vừa chăm sóc vừa chống chim, thú
rừng phá hoại, chờ đến ngày thu hoạch.
CHƯƠNG VII: CÁC THIẾT CHẾ TỰ QUẢN CỦA... 487

Đến cuối tháng 11, đầu tháng 12 là mùa lúa chín. Trước đây người
Xtiêng dùng tay tuốt lúa hoặc dùng cái cặp giống như cái lược để tuốt.
Gần đây người Xtiêng dùng một loại hái nhỏ để cắt và tỉa lúa. Lúa được
phơi khô, làm sạch, sau đó đem cất trong các bồ đựng thóc trên dàn bếp,
nhờ khói bếp để không bị sâu mọt.
Rẫy mới phát lần đầu cho năng suất cao nhất, một gùi lúa giống thu
được 40 gùi lúa (khoảng 14-15 tạ/ha). Các rẫy phát lần sau năng suất
giảm dần, khoảng 10-12 tạ/ha)1. Một rẫy như vậy có chu kỳ khai thác từ
ba đến bốn năm, sau đó bỏ hóa để phục hồi độ dinh dưỡng.
Cùng với nền kinh tế nương rẫy, một bộ phận người Xtiêng Bù
Dek đã biết đến kỹ thuật canh tác lúa nước học được từ người Chăm,
người Việt. Trước năm 1975, ở Bình Long, Đồng Phú đã có những
cánh đồng lúa nước nằm trong thung lũng. Người Xtiêng đắp bờ chắn
những khoảnh ruộng nhỏ để giữ nước và chăm sóc lúa. Về cơ bản,
cách thức làm lúa nước của người Xtiêng Bù Dek giống như người
Việt và người Chăm. Ruộng nước làm mỗi năm một vụ, phụ thuộc
vào thời tiết và chưa có hệ thống thủy lợi. Năng suất trung bình đạt
từ 15 đến 20 tạ/ha2. Nền kinh tế nương rẫy đảm bảo lương thực; săn
bắn và hái lượm từ rừng, suối... là nguồn thực phẩm trong cơ cấu bữa
ăn của người Xtiêng.
Thời gian trước mùa gieo trồng hoặc sau khi tỉa lúa xong, lúc các
bầy thú đông đúc do sinh đẻ là lúc người Xtiêng chuẩn bị săn bắn.
Ná là vũ khí chủ yếu với mũi tên tẩm thuốc độc theo cách thức gia
truyền. Người Xtiêng bố trí các cạm bẫy tại các đường đi lại trong
những khu rừng có nhiều thú. Sau đó họ đánh trống, mõ, đốt lửa và
hò hét, xua đuổi đàn thú chạy về phía cạm bẫy. Cũng có khi, người
Xtiêng thả vào các vũng nước - nơi thú rừng đến uống một loại lá

1, 2. Xem Phan An: Hệ thống xã hội tộc người của người Stiêng ở Việt Nam (từ
thế kỷ XIX đến năm 1975), Sđd, tr.84, 88 - 89.
488 VÙNG ĐẤT NAM BỘ VIII THIẾT CHẾ QUẢN LÝ XÃ HỘI

cây hoặc rễ cây độc giã nhỏ khiến thú rừng uống nước sẽ bị say. Họ
sẽ chọn bắt các con thú cần thiết, không bắt thú nhỏ và thú có chửa.
Thú rừng săn được sẽ mổ thịt tại chỗ xẻ thành từng phiến, sấy hoặc
phơi khô mang về làm thức ăn dự trữ. Thời gian đi săn là những
ngày hội của cộng đồng.
Hái lượm, thu nhặt lâm thổ sản trong rừng là hoạt động kinh tế
đáng chú ý của người Xtiêng. Vào mùa giáp hạt, đàn ông vào rừng đào
củ đùng đình, củ búng báng là những loại củ có nhiều chất bột. Phụ nữ
tìm các loại lá bép (còn gọi là lá nhiếp), đọt mây, rau dớn, rau tàu bay,
củ mài, củ chụp, nấm... chế biến làm thức ăn.
Người Xtiêng bắt cá ở sông, suối vào hai giai đoạn: mùa mưa khi cá
về đẻ hoặc mùa khô khi cá đã lớn. Mùa khô, người Xtiêng sử dụng các
loại lá, rễ cây rừng có chất độc để ruốc cá. Những khúc sông, suối cạn có
nhiều cá được lựa chọn để thả lá, rễ cây độc vào làm cá say và dễ dàng bị
bắt. Sau khi bắt đủ, họ dùng một loại lá cây khác giải độc cho nước để số
cá còn lại sống sót. Săn bắn, đánh bắt của người Xtiêng chiếm một vị trí
quan trọng trong nền kinh tế chiếm đoạt tự nhiên. Rừng, sông, suối là
nơi cung cấp thực phẩm cho bữa ăn và dự trữ. Tuy nhiên, săn bắn, đánh
bắt của họ luôn dừng ở mức độ vừa đủ để thú rừng, cá suối tiếp tục phát
triển, không bị cạn kiệt do đánh bắt.
Người Xtiêng tự chế tạo các dụng cụ sinh hoạt hằng ngày như đồ
mặc, đồ đựng, dụng cụ sản xuất... Người Xtiêng nổi tiếng về nghề rèn,
đặc biệt là các loại vũ khí như dao, giáo, mác. Các hoạt động đan lát mây
tre được tiến hành trong lúc nhàn rỗi và dừng ở trình độ thấp, trong
từng gia đình và chưa có thợ thủ công chuyên nghiệp. Nghề trồng bông
dệt vải chủ yếu do phụ nữ đảm nhiệm nhưng thao tác dệt chậm, năng
suất không cao. Nghề thủ công của người Xtiêng nhìn chung đơn giản,
gắn liền với hoạt động sản xuất nông nghiệp. Sản phẩm đáp ứng nhu
CHƯƠNG VII: CÁC THIẾT CHẾ TỰ QUẢN CỦA... 489

cầu hằng ngày và chưa trở thành hàng hóa. Nguyên liệu thường có sẵn
tại địa phương (trừ nghề rèn).
- Cơ cấu xã hội
Trong xã hội Xtiêng có ba lớp người là bù lươi (người nghèo), bù
khưng (người giàu) và kondek (tôi tớ).
Bù lươi (người nghèo) chiếm số đông trong cộng đồng. Nguyên
nhân nghèo đói: do gia đình thiếu lao động, đông con hoặc người già
ốm đau, bệnh tật; mất mùa do thiên tai; chi tiêu không có kế hoạch... đã
tiêu tốn rất nhiều lương thực mà họ làm ra. Cuộc sống của người nghèo
dựa vào canh tác nương rẫy hoặc ruộng nước, thu nhặt các sản phẩm từ
rừng. Trước đây, do đời sống khó khăn nên thu hoạch từ nương rẫy chỉ
đủ dùng trong khoảng 3-4 tháng, còn lại phụ thuộc vào rừng. Bên cạnh
đó, người nghèo còn bị đe dọa bởi những phong tục tập quán và luật tục
của cộng đồng.
Bù khưng (người giàu có, khá giả) chiếm một tỷ lệ nhỏ, khoảng
1/10 số gia đình trong cộng đồng. Điểm dễ nhận biết những người bù
khưng là biểu hiện về sự giàu có chiêng, ché, trâu... và số tôi tớ. Giai
tầng bù khưng có một vị trí quan trọng trong cộng đồng, thường giữ
các chức vụ chủ làng (tom poh), chủ họ (tom mpol). Thực dân Pháp và
đế quốc Mỹ đã lợi dụng bù khưng để thiết lập bộ máy quản lý xã hội
phục vụ cho chúng với các ông tổng, ông xã... Sự tồn tại của nhóm cư
dân khá giả trong cộng đồng Xtiêng là một thực tế, tuy nhiên sự phân
hóa giữa bù khưng và bù lươi chưa rõ ràng. Hai bộ phận dân cư này
vẫn sinh sống, hoạt động bình thường, cùng tham dự các sinh hoạt của
cộng đồng.
Kondek (tôi tớ) có nguồn gốc từ nợ nần (do vay nợ không trả được)
hoặc là tù binh trong các cuộc xung đột vũ trang giữa các cộng đồng;
người dân tộc khác (thường là phụ nữ, trẻ em) bị bắt cóc đem bán cho
490 VÙNG ĐẤT NAM BỘ VIII THIẾT CHẾ QUẢN LÝ XÃ HỘI

người Xtiêng. Kondek bị bóc lột nặng nề, phải làm trả nợ cho chủ nợ, lệ
thuộc hoàn toàn vào chủ, bị mua đi bán lại. Cũng có một dạng kondek
có nguồn gốc từ “nợ cưới vợ” - đó là người con trai không đủ điều kiện
cưới vợ phải ở rể. Đây là một hình thức tôi tớ mặc dù anh ta có gia đình
và tài sản riêng trong ngôi nhà bên vợ. Từ sau năm 1975, kondek không
còn tồn tại trong xã hội.
Một bộ phận dân cư khác là prăk - người hành nghề ma thuật và
tín ngưỡng. Prăk còn là thầy thuốc chữa bệnh cho mọi người thông qua
cúng bái. Prăk trong cộng đồng Xtiêng vừa được kính nể, vừa bị sợ hãi
vì những quyền phép và uy lực giao tiếp với thần linh của họ.
- Đời sống tâm linh
Người Xtiêng tin rằng vạn vật hữu thần. Cộng đồng người Xtiêng ở
Đồng Nai đều có một miếu nhỏ thờ Neak-ta, đó là ngẫu tượng nhỏ bằng
gỗ, đá. Miếu đặt ở một gốc cây lớn tại ngã ba, ngã tư của sóc. Neak-ta là
vị thần Khmer mà người Xtiêng vay mượn trong quá trình giao lưu văn
hóa1. Người Xtiêng thờ Thần mặt trời, Thần sấm sét cai quản đất đai,
Thần mặt trăng coi sóc việc gặt hái và cây cối... Người ta cũng tin rằng
có thần ác và ma quỷ. Lỡ chặt củi cạnh gò mối hoặc ngồi dưới gốc cây to
mà sau đó về nhà bị bệnh thì người ta san phẳng gò mối, chặt hạ cây đó.
Bà bóng (mây gruh) phụ trách coi bói. Nếu gia đình có chuyện bất
thường thì đi coi bói, bà bóng phán thần, ma quỷ hoặc ông bà quở phạt
thì bà chủ mời bà bóng tới cúng. Mây gruh nhảy vừa theo nhịp chiêng
vừa hát lời cầu khấn. Khi trong sóc có nhiều người ốm, mọi người góp
rượu, thịt, gạo tổ chức cúng tại miếu thờ Neak-ta. Cúng xong, mọi
người ăn uống rồi ra về.

1. Như Neak-ta tức (thủy thần); Neak-ta phnom (thần núi), Neak-ta prey:
(Thần rừng), Neak-ta xre (thần ruộng), Neak-ta prek (thần sông), Neak-ta đam pô
(thần cây đa), Neak-ta popue tuk (thần bọt nước), Neak-ta krapum chuuk (thần
gương sen). (Xem Địa chí Đồng Nai, tập V: Văn hóa - xã hội, Sđd).
CHƯƠNG VII: CÁC THIẾT CHẾ TỰ QUẢN CỦA... 491

2. Thiết chế tự quản

- Poh/wang: Tổ chức cộng đồng của người Xtiêng


Một cộng đồng người Xtiêng sinh sống trong một khu vực gọi
là poh hoặc wang, tương tự như làng của người Việt, phum, sóc của
người Khmer. Theo nghĩa hẹp, poh là khu vực cư trú gồm có nhà ở,
kho thóc, chuồng gia súc. Theo nghĩa rộng, poh là khu vực cư trú và
khoảng rừng rộng bao quanh, đất canh tác, đất dự trữ. Poh/wang của
người Xtiêng thường là một nhóm gia đình có quyền lợi chung và có
mối liên hệ thân thuộc. Có nhiều poh/wang sinh tụ cạnh nhau nhưng
không có một “liên minh” các poh hoặc wang1, tức là không có tổ
chức xã hội cao hơn poh/wang. Và như thế, poh/wang là những đơn
vị tương đối độc lập.
Là khoảng không gian sinh tồn của cộng đồng - một tập hợp người
theo địa vực nên poh là một khu vực cư trú có tên gọi riêng, là cơ sở để
phân biệt giữa các poh với nhau. Ở tỉnh Bình Phước hiện còn một số
địa danh mang dáng dấp poh Xtiêng như poh Bù Đăng, Bù Gia Mập,
Bù Đốp... Poh Xtiêng được xác định rõ ràng bởi những ranh giới cụ thể
trong thiên nhiên như dòng suối, dòng sông, các đường mòn, khe núi,
cây cổ thụ, tảng đá lớn. Những ranh giới quy ước của poh được bảo lưu
qua nhiều thế hệ và được các cộng đồng khác tôn trọng. Theo mô tả
vào đầu thế kỷ XX, mỗi poh Xtiêng thường có những vòng rào kiên cố,
nhiều lớp là các thân cây bị chặt đổ nửa chừng và hệ thống chông gai,
bẫy sập... Poh có một cổng chính ra vào và một cổng phụ nhỏ hơn để
đi lấy nước và di tản. Khi cần thiết thì những cổng này sẽ được bịt kín,

1. Wang (đọc là uang) có nghĩa tương tự như poh, đều là làng hoặc một chỗ
định cư vững chắc. Xem Phan An: Hệ thống xã hội tộc người của người Stiêng ở
Việt Nam (từ thế kỷ XIX đến năm 1975), Sđd, tr.148. Tuy nhiên, poh là từ thông
dụng của người Xtiêng về khu vực cư trú của mình nên chúng tôi sử dụng từ poh
là chủ yếu.
492 VÙNG ĐẤT NAM BỘ VIII THIẾT CHẾ QUẢN LÝ XÃ HỘI

và cùng với các vũ khí chiến đấu thì poh trở thành một công sự phòng
thủ, bảo vệ poh trước sự tấn công từ các poh láng giềng hoặc từ cộng
đồng khác. Bên cạnh đó, hàng rào bao quanh còn nhằm mục đích hạn
chế, ngăn cản người lạ ra vào khi poh đang có những kiêng kị như người
chết, dịch bệnh mà dấu hiệu nhận biết là trước cổng poh có treo một
cành lá hoặc sợi dây thắt nút. Ở một chừng mực nào đó, hàng rào quanh
poh có tác dụng chống thú dữ.
Sự tồn tại của poh phụ thuộc vào thời gian khai thác rẫy. Khoảng từ
8 đến 12 năm, khi các rẫy (mir) đã bạc màu thì người Xtiêng thực hiện
nghi lễ tìm kiếm sự ủng hộ của thần linh để chuyển poh. Vị trí mới vẫn
ở trong giới hạn đất đai của poh. Cũng có trường hợp poh phải đi tìm
một khu vực cư trú khác ở sâu trong rừng già - nơi chưa thuộc phạm vi
kiểm soát của poh nào khác, hoặc trước đây thuộc một poh Xtiêng khác
nhưng đã bỏ hoang. Một số lý do khác như trong poh xảy ra dịch bệnh,
người chết hàng loạt, ma lai (chă)... hoặc những cuộc xung đột tàn phá
poh là nguyên nhân để di chuyển địa điểm cư trú1.
Trong một poh/wang thường có vài dãy nhà dài cùng huyết thống
gọi là mpoh. Mỗi nhà dài có một tom yau (chủ nhà dài) để tiếp khách
và cúng lễ thần linh. Trong một căn nhà dài có nhiều hộ gia đình (nak).
Năm 1983, ở ấp 4 xã Xuân Hưng (huyện Xuân Lộc, tỉnh Đồng Nai) vẫn
còn một số căn nhà dài của đồng bào Xtiêng ở Bình Phước về cư trú.
Mỗi căn dài khoảng 20, 30 m với cột gỗ, mái tranh, sàn và vách bằng tre
nứa đan thành liếp. Sàn nhà cao 0,8 - 1,5 m, đầu nhà có thang gỗ gồm
ba, bốn bậc không có tay vịn để lên xuống. Vì không có cửa sổ nên trong
nhà luôn thiếu ánh sáng. Mỗi nhà chia làm nhiều khoang, ngăn cách bởi
một bức liếp, mỗi khoang là một gia đình nhỏ. Trước đây, khi chưa có sự
can thiệp mạnh mẽ từ bên ngoài vào cấu trúc xã hội của người Xtiêng

1. Xem Phan An: Hệ thống xã hội tộc người của người Stiêng ở Việt Nam (từ thế kỷ
XIX đến năm 1975), Sđd, tr.151-152.
CHƯƠNG VII: CÁC THIẾT CHẾ TỰ QUẢN CỦA... 493

thì chế độ theo dòng họ mẹ rất thịnh hành. Cạnh nhà dài là chòi lúa do
một phụ nữ lớn tuổi coi sóc và phân phát lúa gạo cho mỗi gia đình nhỏ,
thành viên của dòng họ1.
Quy mô một poh Xtiêng ở vùng Bù Lơ (tỉnh Bình Phước) thường
không lớn, khoảng ba, bốn ngôi nhà dài với 30 - 50 người. Trong khi đó
poh Xtiêng ở vùng Bù Dek (tỉnh Bình Phước) lớn hơn rất nhiều, có poh
đạt tới 20 ngôi nhà dài với khoảng 200 người cư trú2.
+ Bộ máy điều hành poh
Bộ máy điều hành poh gồm có tom poh (chủ làng), tom yau (chủ
nhà dài), một số người già (bu kuông), mê prak (người hành nghề tín
ngưỡng tôn giáo của poh).
Tom poh: Là người đứng đầu poh. Ở Bù Dek, tom poh còn gọi là
mê poh - người mẹ của poh. Tom poh được lựa chọn trong số những
người đàn ông có tuổi đứng đầu các yau (nhà dài) với phẩm chất từng
trải, am hiểu phong tục, được các thành viên trong poh yêu quý. Tom
poh thực hiện các chức năng sau:
- Ghi nhớ ranh giới các khu vực đất, rừng của poh. Trong các cuộc
tranh chấp đất rừng, tom poh phải biết cách ăn nói để chứng minh
những ranh giới của poh.
- Chọn lựa và quy định các khoảng rừng để phát rẫy canh tác cho
từng mpoh (nhà dài) cũng như tính toán, liệu định thời gian gieo
trồng, thu hoạch; ghi nhận ranh giới đất, rừng giữa các thành viên
trong poh. Thông thường, tom poh bàn bạc với các tom yau (chủ nhà
dài) về việc phân phối đất rừng cho các thành viên trong poh. Việc
phân chia đất rừng cho các nak (hộ gia đình, thuộc một yau - nhà dài)

1. Bà con tin rằng nếu cất thóc lúa trong nhà ở thì bị xui, ông bà tổ tiên quở
phạt. Nay mỗi gia đình nhỏ thu hoạch không bao nhiêu, sau khi phơi khô, quạt
sạch, bà con đóng bao và cất thóc lúa ở một góc nhà.
2. Xem Phan An: Hệ thống xã hội tộc người của người Stiêng ở Việt Nam (từ
thế kỷ XIX đến năm 1975), Sđd, tr.158.
494 VÙNG ĐẤT NAM BỘ VIII THIẾT CHẾ QUẢN LÝ XÃ HỘI

do tom yau của nhà dài đó quyết định. Tom poh có trách nhiệm ghi
nhận và chứng nhận đất của các nak trong một yau (nhà dài) và giữa
các yau trong poh bởi một hàng rào kiên cố chống thú dữ phá hoại
mùa màng. Với chức trách phân phối đất làm rẫy (mir) và đất rừng
nên tom poh là người phán quyết các tranh chấp về đất đai giữa các
thành viên, đồng thời quyết định quyền tái khai thác của các nak (hộ
gia đình) đối với rẫy cũ.
- Tom poh quản lý và điều hành các sinh hoạt nội bộ của poh như
giữ gìn an ninh trật tự, kiểm soát và ngăn cản người lạ xâm nhập, tuân
thủ các tập tục truyền thống của poh. Tom poh có trách nhiệm dàn xếp
các vụ tranh chấp giữa các thành viên trong cộng đồng. Việc phân xử
dựa trên luật tục và ý kiến của những người già hiểu biết.
- Tom poh có trách nhiệm tổ chức phòng thủ, bảo vệ poh trước sự
tấn công từ bên ngoài, đồng thời là người tổ chức, đứng đầu các cuộc
tấn công ra bên ngoài poh.
- Tom poh đại diện cho poh giải quyết các công việc đối ngoại như
tiếp khách, giải quyết xung đột với cộng đồng bên ngoài, tranh luận về
ranh giới đất, rừng của poh.
Chức năng của tom poh dựa trên luật tục và sự tán thành của đa số
các thành viên trong poh trên cơ sở trao đổi, bàn bạc với các chủ nhà
dài (tom yau), người già (bu kuông) và các đương sự trước khi đưa ra
quyết định cuối cùng. Chức vị tom poh không phải là cha truyền con
nối mà do cộng đồng lựa chọn. Tom poh không có nhiều đặc quyền.
Họ lao động và sinh hoạt như mọi thành viên khác trong poh nhưng
được kính nể và quý mến, là khách mời danh dự trong bữa tiệc của các
gia đình hay cộng đồng1.

1. Xem Phan An: Hệ thống xã hội tộc người của người Stiêng ở Việt Nam (từ thế
kỷ XIX đến năm 1975), Sđd, tr.168-175.
CHƯƠNG VII: CÁC THIẾT CHẾ TỰ QUẢN CỦA... 495

Tom yau là người đứng đầu một nhà dài (yau) điều hành các công
việc trong yau của mình. Tom yau là người đàn ông có tuổi, có kinh
nghiệm trong việc làm rẫy, đi rừng..., được toàn thể các thành viên trong
nhà dài tín nhiệm. Đối với poh, tom yau tham gia bàn bạc, thảo luận
cùng với tom poh trong các công việc cụ thể của poh. Tom yau cũng có
thể là người ra tranh cử chức tom poh.
Bu kuông là những người già có kinh nghiệm trong sản xuất và am
hiểu luật tục, giữ vai trò tư vấn cho tom poh trong việc chọn và phân
phối đất rừng, góp phần hòa giải, biện minh cho dân poh bằng uy tín
và tri thức của mình. Trong nhiều trường hợp, bu kuông là nhân chứng
trong các vụ tranh tụng ruộng đất giữa các thành viên của poh, hoặc
giữa các poh. Bu kuông là khách mời danh dự trong những dịp lễ tết,
tham gia tiếp khách cùng tom poh, xét xử người phạm tội, động viên
con cháu hăng hái chiến đấu...
Mê prak là thầy phù thủy, thầy cúng tham gia hoạt động quản lý poh
bằng cách truyền đạt những ý định của thần linh đối với một số công
việc của poh như lựa chọn nơi phát rẫy, xác minh kẻ phạm tội, tham gia
các lễ hiến sinh để cầu xin thần linh.
Tom poh, tom yau, bu kuông, mê prak là một “cộng đồng” có vai trò
nhất định trong hoạt động điều hành, tổ chức của poh. Tuy nhiên, mỗi
cá nhân trong poh cũng có vai trò nhất định trong các công việc của poh
như tham gia bầu tom poh, có quyền bày tỏ ý kiến riêng.
Đặc trưng của bộ máy vận hành poh là quyền lực thuộc về cộng
đồng và quyền lực cá nhân thông qua cộng đồng. Có sự gắn kết chặt chẽ
giữa quyền lực cá nhân và quyền lực cộng đồng. Và như thế, trong bối
cảnh của cộng đồng, cá nhân người Xtiêng luôn cảm thấy thoải mái, có
sức mạnh và điều đó tạo nên sự cân bằng trong quá trình tồn tại và phát
triển của tộc người1.

1. Xem Phan An: Hệ thống xã hội tộc người của người Stiêng ở Việt Nam (từ
thế kỷ XIX đến năm 1975), Sđd, tr.178.
496 VÙNG ĐẤT NAM BỘ VIII THIẾT CHẾ QUẢN LÝ XÃ HỘI

- Găp mpol (mpol): Tổ chức người theo huyết thống


Mối quan hệ thân thuộc, huyết thống được gọi là găp mpol (hoặc
mpol), có nghĩa là cùng huyết thống, cùng chung một ông/bà tổ. Tuy
nhiên, người Xtiêng ở Bình Phước có sự phân biệt rõ ràng về găp mpol.
Vùng Xtiêng Bù Lơ, những người thuộc cùng găp mpol là có chung
một ông tổ và cùng dòng máu, tính theo phía đàn ông. Như vậy, những
người con của các anh em trai, cháu trai sẽ được coi là cùng găp mpol.
Những người con của chị em gái không cùng găp mpol của ông tổ và
được gọi là ôpi (bà con). Vùng Xtiêng Bù Dek, găp mpol được tính theo
dòng mẹ, nghĩa là có chung một bà tổ. Theo đó, những người con của
chị em gái là cùng găp mpol. Con của anh em trai và con của anh em trai
với chị em gái được gọi là ôpi (bà con). Như vậy, quan hệ huyết thống
của người Xtiêng ở Bù Lơ dựa trên huyết thống người cha - phụ hệ còn
quan hệ của người Xtiêng ở Bù Dek là mẫu hệ.
Mỗi cá nhân người Xtiêng đều thuộc về một găp mpol nhất định
nhưng những người cùng găp mpol có thể cư trú ở nhiều poh khác
nhau. Mỗi poh có thể có nhiều găp mpol. Việc thông tin giữa các thành
viên trong găp mpol chủ yếu là truyền miệng.
Người đứng đầu găp mpol được gọi là kun (ở Bù Dek) hoặc bơp,
băp (ở Bù Lơ). Kun, bơp là người cao tuổi, có đức độ và uy tín. Khi
người đứng đầu găp mpol qua đời, người kế tục được lựa chọn như sau:
Ở Bù Lơ, người kế vị là người có thứ bậc cao nhất sau người quá cố,
thường là em trai hoặc con trai của ông bơp cũ. Ở Bù Dek, người kế vị
được lựa chọn trong những người anh em trai của ông kun đã chết, hoặc
người con trai của chị em gái kun.
Người đứng đầu găp mpol phải nhớ các mối quan hệ giữa các thành
viên trong găp mpol để phân biệt tôn ty, bày tỏ sự chấp thuận những
quan hệ hôn nhân của các thành viên trong găp mpol. Kun/bơp có trách
nhiệm bảo vệ sự trong sạch của găp mpol trong các cuộc tranh luận với
các găp mpol khác về các tội ma lai, loạn luân... có liên quan đến các
thành viên trong găp mpol của mình. Vị trí của kun, bơp được toàn thể
CHƯƠNG VII: CÁC THIẾT CHẾ TỰ QUẢN CỦA... 497

găp mpol tôn trọng, thể hiện ở việc kun, bơp sẽ được mời tham dự các
lễ hội của găp mpol, là người đầu tiên được uống rượu cần.
Việc duy trì vai trò của kun, bơp trong găp mpol là dựa trên trí nhớ
đối với việc xác định một cá nhân thuộc găp mpol nào, nhớ các mối
quan hệ của từng cá nhân trong găp mpol để duy trì quan hệ hôn nhân
và kế thừa tài sản.
Những quy định về kết hôn của người Xtiêng dựa trên nguyên tắc
cấm kết hôn trong nội bộ găp mpol. Quy tắc này được tất cả các thành
viên trong găp mpol tuân thủ triệt để, dù cùng sống trong một poh,
wang hoặc sống ở hai poh, wang riêng biệt. Ở thế hệ thứ ba, cấm kết
hôn giữa những người con của anh em ruột (vùng Bù Lơ) hoặc giữa
những người con của chị em ruột (vùng Bù Dek). Tuy nhiên, cũng bắt
đầu từ thế hệ thứ ba, hiện tượng hôn nhân con cô, con cậu được thực
hiện. Ở Bù Lơ, hôn nhân con cô - con cậu chỉ được thực hiện một lần
và theo một chiều, nghĩa là người con trai vế trên lấy người con gái cô
vế dưới (em cha). Ở Bù Dek, quan hệ hôn nhân con cô - con cậu được
khuyến khích và mở rộng hơn, không phân biệt vế trên, vế dưới. Hôn
nhân con chú, con bác ở Bù Dek cũng khá phổ biến. Tập tục “nối dòng”
cho phép ông (hoặc bà) lấy cháu gái (hoặc cháu trai); người vợ được
phép lấy em trai chồng (nếu chồng chết); người chồng được phép lấy
em gái vợ (nếu vợ chết) phổ biến ở vùng Bù Dek. Tập tục này được thực
hiện trên nguyên tắc hai người lấy nhau phải khác mpol.
Những quy định trong quan hệ hôn nhân của người Xtiêng nhằm
mục đích bảo vệ sự trong sạch của dòng máu, làm theo lời chỉ dẫn của
thần linh - như chính người Xtiêng giải thích. Tuy nhiên, đây là hình
thức cấm đoán tính giao trong quan hệ hôn nhân, nhằm ổn định trong
toàn cộng đồng và làm nền tảng cho trật tự, nhân cách, ứng xử của mỗi
cá nhân trong cộng đồng đó1.

1. Xem Phan An: Hệ thống xã hội tộc người của người Stiêng ở Việt Nam (từ
thế kỷ XIX đến năm 1975), Sđd, tr.137.
498 VÙNG ĐẤT NAM BỘ VIII THIẾT CHẾ QUẢN LÝ XÃ HỘI

Quyền thừa kế tài sản được thực thi trên cơ sở phán quyết của kun,
bơp dựa trên trí nhớ về mối quan hệ của các thành viên trong găp mpol.
Việc chia tài sản trong gia đình có sự khác biệt giữa cộng đồng người
Xtiêng ở Bù Lơ và Bù Dek. Ở Bù Lơ, của cải được chia đều cho tất cả con
trai nhưng những của cải tượng trưng cho sự giàu có, uy tín như chiêng,
ché, vòng đồng... thì được bàn giao cho một trong số những người con
trai của chủ nhà. Trong trường hợp không có con trai thì tài sản sẽ được
giao lại cho anh em hoặc cháu trai do người chủ nhà lựa chọn. Ở Bù Dek
thì ngược lại, của cải được chuyển cho con gái. Việc chuyển giao tài sản
được tiến hành dựa trên quan hệ huyết thống (cùng găp mpol) để tránh
việc chuyển giao của cải ra ngoài cộng đồng huyết tộc.
Găp mpol là một thiết chế gia đình nhằm quản lý các thành viên,
đặc biệt trong quan hệ hôn nhân và phân chia tài sản. Ở đây, rất cần
đến vai trò của trưởng họ là kun, bơp để điều tiết các quan hệ trong
găp mpol.
- Yau và nak: Tập hợp người dựa trên quan hệ thân thuộc và hôn
nhân.
Yau có nghĩa là nhà. Trước đây, nhà của người Xtiêng là nhà dài.
Mỗi một nhà dài khoảng 30 - 40 m là nơi cư trú của 5 - 6 hộ gia đình.
Mỗi một hộ gia đình là thành viên sống trong một nhà dài (yau) được
gọi là nak (nghĩa là bếp lửa) gồm cha mẹ và con cái chưa lập gia đình
riêng (có thể coi là gia đình hạt nhân). Như vậy, trong một yau có thể
có nhiều nak có mối quan hệ ruột thịt, cùng huyết thống (găp mpol) với
nhau. Dấu hiệu nhận ra các nak trong yau là ba viên đá chụm lại để kê
nồi khi đun nấu. Khoảng không gian công cộng xung quanh bếp lửa là
nơi sinh hoạt riêng của mỗi nak, xung quanh là chỗ ngủ, nơi ăn uống, để
đồ đạc. Giới hạn không gian của mỗi nak trong yau (nhà dài) là những
tấm phên đan bằng tre, mây. Trong những năm chiến tranh chống Mỹ,
nhà dài dần biến mất. Từ đầu những năm 80 của thế kỷ XX, thực hiện
chính sách định canh định cư, mỗi gia đình sinh sống trong một căn
nhà. Những ngôi nhà nhỏ thực chất là sự tách ra của một hộ gia đình
(nak) từ một nhà dài (yau) trước đây.
CHƯƠNG VII: CÁC THIẾT CHẾ TỰ QUẢN CỦA... 499

Do khác nhau trong mối quan hệ với cha và mẹ nên người Xtiêng
ở Bù Lơ và Bù Dek cũng có sự khác nhau giữa các hộ gia đình (nak)
trong một nhà dài (yau). Vùng Bù Lơ, do quan hệ huyết thống theo
dòng cha nên những người con trai có quyền mang vợ về nhà mình
nếu người con trai đó trả xong cho nhà vợ lễ vật xin cưới. Trong khi
đó, vùng Bù Dek theo mẫu hệ nên người chồng buộc phải về cư trú
ở nhà vợ.
Mối quan hệ giữa yau và nak thực chất là mối quan hệ huyết thống
liên kết các nak trong một yau và quan hệ hôn nhân để đảm bảo sự tham
gia của những thành viên không cùng huyết thống. Mặt khác, giữa các
nak trong một yau có sự độc lập tương đối, đặc biệt là trong quan hệ
kinh tế hoặc các vấn đề có tính chất nội bộ của nak. Mỗi nak là một đơn
vị kinh tế có phần rẫy riêng do tom yau phân chia, tự canh tác và thu
hoạch. Giữa các nak trong cùng một yau - vì mối quan hệ huyết thống -
nên thường có sự chia sẻ, giúp đỡ nhau về vật chất cũng như tinh thần
vì đây là trách nhiệm và nghĩa vụ.
Đứng đầu mỗi nhà dài (yau) là người phải có uy tín gọi là tom yau.
Ở Bù Lơ, cộng đồng người Xtiêng theo chế độ phụ hệ nên người đứng
đầu là đàn ông. Người đứng đầu yau có thể là cha của những người con
trai - chủ các nak, hoặc là người anh của tất cả các nak. Khi tom yau vì
già yếu mà không đảm nhận được vai trò thì người em trai hoặc con trai
của ông ta sẽ tiếp nối vị trí đó. Người Xtiêng Bù Dek theo chế độ mẫu
hệ, tom yau là chồng của một người phụ nữ có vai vế cao nhất trong
yau hoặc khi chức vị tom yau bị khuyết thì sẽ được bổ sung bởi chồng
của người em gái vợ hoặc chồng của con gái ông ta. Trách nhiệm của
các tom yau trong nội bộ nhà dài là điều hành các công việc của yau
như chia đất làm rẫy cho các nak, phân công các nak giúp đỡ lẫn nhau
(“tầm ốp” - một dạng đổi công, vần công giữa các nak trong một yau),
phân công cứu tế các nak khi gặp khó khăn... Đối với hoạt động đối
ngoại, tom yau là người đại diện của nhà dài tham gia họp bàn cùng các
tom yau của các nhà dài khác, đón tiếp khách... Về chức năng của các
500 VÙNG ĐẤT NAM BỘ VIII THIẾT CHẾ QUẢN LÝ XÃ HỘI

chủ nhà dài, thì không có sự khác biệt giữa cộng đồng người Xtiêng ở
Bù Lơ và Bù Dek nhưng có sự khác nhau về vị trí. Vị trí của tom yau ở
Bù Dek - do vẫn bảo lưu vị thế quan trọng của người phụ nữ - nên “về
một phương diện nào đó, tom yau ở Bù Dek có vẻ ít quyền lực hơn và
phụ thuộc vào người vợ... gần như là “người phát ngôn” hoặc “người
đại diện” cho vợ... và trước khi quyết định công việc lớn thường “tham
khảo” ý kiến của vợ”1.
- Luật tục và vai trò trong điều hành hoạt động của poh
Là sản phẩm của lịch sử tộc người, luật tục là những quy định
về việc được làm và không được làm mà tất cả các thành viên trong
cộng đồng phải tôn trọng. Những kết quả nghiên cứu cho thấy luật
tục Xtiêng quy định về các hình thức phạm tội và hình phạt tương
ứng. Theo quy định của luật tục thì tội ma lai (chă), xâm phạm các
điều cấm kỵ và phỉ báng thần linh (lah căng rai), loạn luân (đoăng ih),
trộm cắp, lừa đảo là tội nặng nhất. Tương ứng với loại tội phạm,
người vi phạm luật tục phải bồi thường thiệt hại cho nạn nhân, tổ
chức một lễ hiến sinh súc vật để cầu xin thần linh tha tội. Việc phán
xét các tội danh thường do tom poh, bu kuông và tom yau bàn bạc,
thảo luận với nhau. Đối với các tội danh không có bằng chứng, hội
đồng thường dựa vào sự phán xét của thần linh để định tội. Hình
phạt tử hình dành cho tội ma lai và tội giết người. Ở cấp nhẹ hơn là
hình phạt đuổi ra khỏi poh đối với tội loạn luân và người bị bệnh
phong. Hình phạt phổ biến là bồi thường cho người bị hại gấp hai, ba
lần theo giá trị vật chất bị thiệt hại. Theo luật tục Xtiêng, nếu phạm
cùng một tội thì nam giới sẽ bị phạt nặng hơn nữ giới. Đối với người
đàn ông bị tình nghi là có ma lai và đã có các dấu hiệu chứng minh
(bằng các hiện tượng bất thường) thì ngay trong đêm, tom yau và các

1. Phan An: Hệ thống xã hội tộc người của người Stiêng ở Việt Nam (từ thế kỷ
XIX đến năm 1975), Sđd, tr.144.
CHƯƠNG VII: CÁC THIẾT CHẾ TỰ QUẢN CỦA... 501

thành viên khác trong nhà dài sẽ tiến hành xử tử hình đối với người
bị kết tội. Trở về nhà, tom yau sẽ dẫn vợ con người bị hành quyết
đem bán làm tôi tớ ở nơi xa. Đối với người phụ nữ bị kết tội ma lai
thì tom yau sẽ đem người đó và con cái của họ bán khỏi làng, nhưng
chồng của người bị kết tội ma lai sẽ vô can. Cuối cùng, gia đình và
dòng họ sẽ làm lễ cúng với thần linh. Giải thích cho hiện tượng ma
lai mà các hình thức kết tội đều dựa trên những chứng cứ mong
manh nhưng hình phạt rất nặng là vì, người có hành vi ma lai đã dựa
vào những bùa phép để hại người một cách vô hình, do đó, người
bị hại cũng như cộng đồng đã không biết làm thế nào để tránh khỏi
những thủ thuật hại người đó.
Tất cả các hành vi vi phạm tập tục của cộng đồng đều phải cúng
thần linh để cầu mong thần linh tha tội cho người phạm tội và
không trừng phạt poh. Để có căn cứ để xử phạt theo luật tục, cộng
đồng Xtiêng dựa vào sự tự giác của người vi phạm. Nếu tự thú nhận
tội lỗi thì bị phạt nhẹ hơn so với không tự giác thú tội. Trong trường
hợp không tự giác thì cộng đồng sẽ dựa vào các dấu hiệu sau đây để
nhận biết:
1. Các tang vật được tìm thấy, các đồ dùng cá nhân bị bỏ quên
tại chỗ.
2. Có sự làm chứng ít nhất của hai người trở lên với điều kiện người
làm chứng phải thề trước mặt người phạm tội là đã tận mắt chứng kiến
hành động sai trái đó.
3. Trong trường hợp không có vật chứng, không có người làm
chứng thì người bị nghi phạm tội sẽ phải tiến hành thử nước. Biện
pháp này được sử dụng để chỉ định sự mách bảo của thần linh mà
trong niềm tin của cộng đồng Xtiêng thì người ngay thẳng sẽ được
thần linh phù hộ. Cách thử nước được tiến hành như sau: đến ngày
hẹn, nguyên đơn và bị đơn đến một cái hồ, dòng suối có độ sâu nhất
502 VÙNG ĐẤT NAM BỘ VIII THIẾT CHẾ QUẢN LÝ XÃ HỘI

định, sau khi làm lễ cúng thần linh, nguyên đơn và bị đơn sẽ cùng
lặn ở dưới hồ nước hoặc dòng suối đó. Người ta tin rằng người nào
ngay thẳng sẽ có lương tâm trong sáng, nín thở được lâu. Trái lại,
người nói dối sẽ không nhịn thở được lâu. Người thua cuộc sẽ phải
đền bù danh dự và lễ vật cúng thần linh.
Luật tục Xtiêng đề cập đến mọi mặt của đời sống xã hội như chế độ
sở hữu và sử dụng đất rừng, quy định các mối quan hệ xã hội1, đặc biệt
là quan hệ dòng họ, gia đình và đời sống vợ chồng. Cộng đồng người
Xtiêng ở Đồng Nai cho phép nếu vợ chết, người chồng có thể lấy em
vợ, song không được lấy chị vợ; chồng chết, người vợ có thể lấy em trai
chồng chứ không được lấy anh chồng. Làm không đúng sẽ bị phạt nặng.
Luật tục Xtiêng có một số ngoại lệ, chồng chết, vợ được đi lấy chồng
khác; nếu chồng còn sống nhưng chưa nộp đủ sính lễ thì tiếp tục ở nhà
vợ làm trừ nợ cho đủ, nếu hai vợ chồng cưới nhau lâu mà chưa có con
thì chồng được lấy vợ khác...
Việc trừng phạt tội ngoại tình có sự phân biệt đối xử. Người chồng
ngoại tình thì bị phạt một con gà. Người vợ ngoại tình với người đàn
ông quen trong rừng thì chị ta và anh ta bị phạt vạ 1 con heo, 1 ghè
rượu; ngoại tình với người lạ thì mức phạt gấp đôi; nếu ngoại tình ngay
trong nhà thì người đàn ông phải trả cho người chồng 1 con trâu, 1 con
heo và nộp 1 ché rượu cho làng; người vợ bị đánh đòn để răn đe. Nếu
tái phạm, chị ta sẽ bị ly dị và gia đình hoặc người tình phải bồi hoàn
sính lễ đám cưới trước đây. Nếu người tình không trả đủ thì phải làm
tôi tớ (đik) để trừ nợ2.
Dù còn hạn chế nhưng luật tục Xtiêng đã góp phần quy định một
trật tự xã hội, ổn định đời sống cá nhân và cộng đồng. Ý nghĩa này thể

1. Xem Viện Nghiên cứu văn hóa: Tìm hiểu luật tục các tộc người ở Nam Tây
Nguyên, Sđd.
2. Xem Địa chí Đồng Nai, tập V: Văn hóa - xã hội, Sđd, tr.703.
CHƯƠNG VII: CÁC THIẾT CHẾ TỰ QUẢN CỦA... 503

hiện trong việc luật tục chống lại những hành vi tổn hại đến cộng đồng
và các thành viên trong cộng đồng.

IV- NGƯỜI CƠHO

1. Vài nét về người Cơho


Người Cơho thuộc dòng Nam Á, nhóm ngôn ngữ Môn - Khmer,
gồm 5 nhóm địa phương: 1) Nhóm Cơho Srê có nhân khẩu đông nhất
phân bố ở huyện Di Linh, tỉnh Lâm Đồng; 2) Nhóm Cơho Nộp cư trú
ở phía nam Di Linh, ven đường số 6 từ Di Linh đi Phan Thiết. Do sinh
sống ở vùng giáp ranh giữa Lâm Đồng và Bình Thuận, cộng thêm quá
trình giao lưu văn hóa lâu đời với các dân tộc khác, nhất là với người
Chăm nên người Nộp còn giữ lại một số nét văn hóa của các dân tộc
đó. Nhóm người Nộp có tục ăn trầu và trồng trầu ngay tại địa bàn sinh
sống của mình; 3) Nhóm Cơho Cơ dòn cư trú ở miền núi phía đông
nam Di Linh, chủ yếu ở xã Đinh Trang Hòa, huyện Di Linh, tỉnh Lâm
Đồng; 4) Nhóm Cơho Chin trước đây sống rải rác trên những sườn núi
cao thuộc thượng lưu Krông Knô và Krông Bung, phía bắc và tây bắc
cao nguyên Lang Biang. Do cuộc sống thiên di nên nhóm Cơho Chin
di chuyển đến phía bắc và đông bắc Đà Lạt. Trong những năm chống
Mỹ, cứu nước, đại bộ phận người Chin bị dồn vào các ấp chiến lược
ven đường giao thông ở hai huyện Đức Trọng (Lâm Đồng) và Đơn
Dương (Đồng Nai); 5) Nhóm Cơho Lạt tập trung ở xã Lát và một số
thung lũng xung quanh thành phố Đà Lạt. Nhóm Cơho Lạt tiếp xúc
nhiều với các dân tộc miền xuôi, nhất là người Việt nên đời sống của
họ có tiến bộ hơn các nhóm Cơho khác1.
Người Cơho có dân số hơn 12 vạn người, sinh sống chủ yếu ở cao
nguyên Lâm Đồng, dọc đường quốc lộ 20. Tại Nam Bộ, người Cơho

1. Xem Ủy ban Khoa học xã hội Việt Nam, Viện Dân tộc học: Các dân tộc ít
người ở Việt Nam (các tỉnh phía Nam), Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1984, tr.108.
504 VÙNG ĐẤT NAM BỘ VIII THIẾT CHẾ QUẢN LÝ XÃ HỘI

sống rải rác ở phía bắc Đồng Nai với dân số khoảng 646 người (324
nữ)1. Người Kơho sống tập trung ở huyện Tân Phú (462 người) thì riêng
xóm Là Ủ, ấp Phú Kiên, xã Phú Bình (Tân Phú) có 76 hộ với 413 nhân
khẩu (208 nữ)... Ngoài ra người Cơho còn sống rải rác ở huyện Long
Khánh, Định Quán... nhưng số lượng không nhiều.
- Đời sống kinh tế
Người Cơho sống dựa chủ yếu vào nương rẫy. Vào tháng giêng, các
già làng, trưởng tộc dẫn đầu từng họ, từng nhóm dân làng tiến hành
chọn đất phát rẫy. Sau khi chọn được đất làm rẫy, người Cơho làm lễ
cúng cầu xin thần rừng cho làm ăn được mùa, đất đai tốt, phát rẫy thuận
lợi, đốt rẫy sạch sẽ. Tháng 3 âm lịch, khi cây cỏ bị chặt đã khô, người
Cơho làm lễ cúng dọn rẫy, sau đó bắt đầu đốt rẫy. Khi mùa mưa đến
(tháng 4 âm lịch) là thời gian bắt đầu tỉa hạt. Một rẫy như vậy được
trồng tỉa trong vòng 2 đến 3 năm, sau đó bỏ hóa từ 7 đến 10 năm để
đất phục hồi. Qua một thời gian bỏ hóa, người Cơho quay về khai thác
lại. Trong quá trình chung sống với người Việt, người Cơho đã tiếp thu
một số tiến bộ trong sản xuất nông nghiệp. Đối với nương rẫy tương đối
bằng phẳng và ở nơi thấp, bà con chuyển thành ruộng khô, canh tác liên
tục. Nền nông nghiệp dùng cuốc, cày, bừa do học từ người Việt được
người Cơho ứng dụng đã làm thay đổi phương thức canh tác truyền
thống trước đây.
Trong bữa ăn của người Cơho, cá là nguồn dinh dưỡng quan trọng.
Đối với những con suối nhỏ, người Cơho tát cá (xạt ka) hoặc dùng cây
độc (krao ka) để bắt. Người Cơho lấy lá, thân và hạt của cây proh và kơ
tanh giã nát rồi thả xuống suối. Cá trúng độc nổi lên, bà con dùng rổ vớt.
Thú rừng là nguồn thực phẩm dồi dào. Người Cơho săn bắn bằng
ná, lao và bẫy. Trước đây, khi rừng còn đại ngàn, người Cơho thường tổ
chức săn tập thể. Khi bắt được thú, tùy theo con thú to, nhỏ mà người
Cơho có cách chia khác nhau: người bắn được con vật sẽ hưởng cái đầu,

1. Theo số liệu năm 1996.


CHƯƠNG VII: CÁC THIẾT CHẾ TỰ QUẢN CỦA... 505

thịt chia đều cho các thành viên tham gia. Nếu con vật lớn, thịt được
chia đều cho cả làng, những người đi săn được nhiều hơn một chút. Nếu
con thú nhỏ, người ta băm nhỏ rồi dùng chén chia đều phần thịt cho các
thành viên đi săn. Nếu con thú quá nhỏ (như nhím, sóc...), người Cơho
nấu lên và ăn chung. Khi bắt được thú lớn như hươu, nai, heo rừng...
người ta làm lễ cúng để tạ ơn Thần rừng. Nếu đi săn không được thú,
người ta tranh thủ bắt cá, hái rau rừng...
Người Cơho chăn nuôi heo, gà, vịt, trâu, bò... nhưng chủ yếu dùng
vào các lễ cúng. Sản phẩm từ chăn nuôi chưa thực sự trở thành hàng
hóa do chăn thả tự do nên năng suất thấp, đáp ứng một phần nhu cầu
cuộc sống.
Sản xuất thủ công nghiệp mang tính tự phát. Người Cơho rèn các
dụng cụ phục vụ cuộc sống và nhu cầu sản xuất. Hiện nay, nghề rèn
đã biến mất do dụng cụ được bày bán nhiều ở chợ. Nghề dệt cũng
đáp ứng nhu cầu hằng ngày. Trước năm 1945, đàn ông Cơho đóng
khố (tron), mặc áo hoặc cởi trần, trên đầu cột chiếc khăn nhỏ, tay
đeo vòng đồng, tóc búi tó bằng lông chim chèo bẻo. Một số người già
buộc sợi dây ngang bụng, trên sợi dây cài từ ba đến năm chiếc lục lạc
nhỏ, khi đi phát ra tiếng nhạc. Phụ nữ mặc váy có hoa văn và lục lạc
đính vào gấu váy, áo và quấn khăn trên đầu. Tóc búi bằng chiếc lược
sừng trâu và con dao nhỏ cán cong (pis chut) được trang điểm thêm
chiếc lông chim pling vào dịp lễ hội. Phụ nữ Cơho thích đeo vòng,
bông tai, nhẫn.
- Đời sống tâm linh
Người Cơho tin rằng có một vị thần cao nhất là Thần Nđu. Tuy
nhiên, những vị thần hay được cúng là những vị thần ở cấp thấp hơn
Thần Nđu, gần gũi với đời sống của người Cơho như Thần đất, Thần
rừng, Thần lúa... Việc cúng thần là hoạt động quan trọng trong đời sống
của người Cơho.
Lễ cúng Thần đất (loh Yang ụ) được người Cơho tiến hành sau khi
tìm được đất làm rẫy. Lễ cúng diễn ra trước khi chặt cây, phát bụi để cầu
506 VÙNG ĐẤT NAM BỘ VIII THIẾT CHẾ QUẢN LÝ XÃ HỘI

xin Thần đất (Yang ụ) cho làm ăn thuận lợi, hoa màu và lúa trồng tốt
tươi, thóc lúa nhiều, mọi người luôn mạnh khỏe. Lễ vật gồm dê, gà, vịt,
rượu cần do một vị già làng hoặc trưởng tộc, chủ hộ cầu khấn.
Lễ cúng lúa và Thần lúa bao gồm các nghi thức: cúng lúa sắp làm
đòng tại nương, rẫy với lễ vật là gà, vịt, dê, rượu để cầu cho mùa màng
tốt tươi. Lễ cúng lúa chín tại ruộng để tạ ơn các thần đã cho một vụ thu
hoạch tốt đẹp. Cúng Thần lúa (loh Yang kòi) là lễ cúng trọng thể nhất
của người Cơho. Sau khi thu hoạch xong, từng dòng họ lập bàn thờ,
trang trí cây tre vót bông ở đỉnh tượng trưng cho bông lúa, một cây có
bông bằng vải kết hoa. Lễ vật gồm cốm dẹp, bánh chưng, bánh dày, củ
khoai môn, bộ lòng con vật cúng, ly rượu cần, đọt mây. Từ bàn nhang
có hai sợi chỉ treo xuống bình rượu cần để dẫn đường. Lễ cúng Thần lúa
được tiến hành tại chòi lúa, sau đó mới cúng trong nhà. Sau lễ cúng, chủ
nhà dọn cỗ đãi khách trong tiếng cồng chiêng vang dội. Lễ cúng Thần
lúa của người Cơho kéo dài trong vài ba ngày.
Lễ đâm trâu (nỵo sa rpuh) là một lễ hội trọng thể trong các dịp cầu
an cho mọi người trong bòn hoặc kết nghĩa giữa các bòn. Nghi lễ đâm
trâu được tiến hành trên một bãi đất rộng, tại đó mọi người dựng một
cây cột cao (nđăh) có bông tre và một cột thấp (kơ rơng) để cột con trâu
hiến tế. Trâu được cột trước đó một ngày. Đến 7h sáng hôm sau, lễ đâm
trâu bắt đầu. Người đâm trâu phụ thuộc vào nghi lễ. Nếu là lễ cầu an
thì già làng lãnh trách nhiệm đâm trâu. Nếu là kết nghĩa thì người bạn
kết nghĩa sẽ đâm trâu. Máu của con trâu hiến tế sẽ được bôi lên một số
vật như bông tre, hòn đá thờ của dòng họ hoặc của bòn. Thịt trâu hiến
tế sẽ dùng làm tiệc để đãi cả bòn nếu đó là lễ đâm trâu cầu an. Nếu là
đâm trâu kết nghĩa thì con vật bị xẻ đôi, mỗi bên lấy một nửa làm tiệc
đãi khách, họ hàng.
Lễ cúng Thần rừng (hol yang brê) là để tạ ơn thần rừng khi săn được
thú, dù đó là thú lớn hay thú nhỏ. Lễ vật là thịt thú săn được. Thành viên
tham gia lễ cúng là những người đi săn. Thường thì người Cơho cúng
tại rừng. Nấu nướng xong thì ăn tại chỗ, chỉ mang phần thịt sống về.
CHƯƠNG VII: CÁC THIẾT CHẾ TỰ QUẢN CỦA... 507

Trong đời sống thường ngày, mối liên hệ giữa người sống với tổ tiên
được thông qua bà bóng (jơnăng). Jơnăng không phải là người chuyên
nghiệp gọi hồn mà vẫn tham gia lao động bình thường. Khi gia đình
nào có người đau ốm thì mời jơnăng để cầu cúng xin lành bệnh. Jơnăng
gọi hồn tổ tiên, ông bà về giúp con cháu mau bình phục.
Đơn vị cư trú truyền thống của người Cơho là bon, gồm một tập
hợp nhiều nhà sàn dài trong một thung lũng, hình thành một làng tương
đối ổn định. Đứng đầu bon là một kuang bon (chủ làng). Đứng đầu mỗi
nhà dài là một kin/kun pang (chủ nóc). Tất cả kin/kun pang tập hợp
thành một hội đồng già làng, có vai trò tư vấn cho kuang bon.
Dưới thời Pháp thuộc, bên cạnh tổ chức tự quản truyền thống thì
chính quyền thực dân đã thiết lập một bộ máy hành chính mới, đứng
đầu là khoa bon, làm công việc bắt phu và thu thuế1. Chính quyền thực
dân đã khéo léo kết hợp, lồng ghép hai chức vụ dân bầu là kuang bon và
chức vụ hành chính khoa bon làm một.
Gia đình là hạt nhân cơ bản của bon. Người Cơho theo dòng mẹ
nên khi con gái lấy chồng thì người chồng phải về nhà vợ. Người phụ
nữ làm chủ và quán xuyến mọi công việc của gia đình, dòng họ. Một gia
đình có thể có nhiều con. Khi những người con lớn thì lập gia đình. Một
gia đình có nhiều con gái khi con gái lập gia đình thì đều sống chung
trong một ngôi nhà dài. Xưa kia nhà dài đến hàng trăm mét, nay chỉ dài
khoảng 20 - 30m. Cùng với tác động của sự phát triển, những ngôi nhà
dài với nhiều gia đình cùng chung sống đã dần tan rã, thay vào đó là
ngôi nhà nhỏ một hộ gia đình.

2. Luật tục và xu hướng điều chỉnh các hành vi trong cộng đồng
Xã hội người Cơho còn mang nặng yếu tố nguyên thủy nên việc
điều hành hoạt động của cộng đồng được dựa trên luật tục. Việc xét

1. Xem Viện Nghiên cứu văn hóa: Tìm hiểu luật tục các tộc người ở Nam Tây
Nguyên, Sđd, tr.184.
508 VÙNG ĐẤT NAM BỘ VIII THIẾT CHẾ QUẢN LÝ XÃ HỘI

xử theo truyền thống do các già làng rất am hiểu luật tục trực tiếp
giải quyết.
Trước hết, nguyên tắc xây dựng luật tục của người Cơho dựa trên
niềm tin vào thế lực siêu nhiên. Mọi sai phạm đều làm rối loạn trật tự
do thần linh tạo dựng nên, do đó, khi thành viên trong cộng đồng phạm
lỗi, người Cơho thường chuẩn bị lễ vật dùng để cúng tế thần linh để xin
tha thứ.
Hình thức đền bù thiệt hại do phạm lỗi gây ra, luật tục Cơho quy
định ba mức phạt: 1) Caras (hòa giải): với những lỗi nhỏ như cãi nhau
thì mức đền bù là hũ rượu nhỏ. Nghiêm trọng hơn thì kèm theo một
con gà, nghiêm trọng hơn nữa là một con lợn. Mức độ xử phạt nặng
nhất cho mức hòa giải là một con trâu, một con vịt, một con gà, một cái
áo, một cái vòng đeo cổ và một số tiền nhỏ; 2) Tóm (bồi thường) là hình
thức phạt, hoặc tương đương, hoặc nhiều hơn giá trị thiệt hại mà người
vi phạm gây ra. Mức bồi thường nặng nhất là bồi thường nợ máu (nếu
gây án mạng) gồm 30 con trâu và các thứ cần thiết cho việc mai táng
người chết; 3) Om dí (ở đợ): được dành cho những người vi phạm mà
không có khả năng bồi thường. Người vi phạm phải đi ở cho người bị
hại trong một thời gian nhất định để đem sức lao động bồi thường thiệt
hại. Hình thức om dí (ở đợ) có thể có thời hạn, có thể kéo dài đến suốt
đời. Người ở đợ không công thì được chuộc bằng 7 con trâu cái hay 7
cái cồng, hoặc 14 cái mền1.
Hình thức quy đổi hiện vật bồi thường đối với người vi phạm luật
tục là:
1 con trâu (rah) tức là con trâu non 2 năm tuổi
1 con trâu cái (pal) tương đương 2 con trâu non 2 tuổi
1 con trâu đực (pal pe) tương đương với 3 con trâu non

1. Xem Viện Nghiên cứu văn hóa: Tìm hiểu luật tục các tộc người ở Nam Tây
Nguyên, Sđd, tr.189-190.
CHƯƠNG VII: CÁC THIẾT CHẾ TỰ QUẢN CỦA... 509

Về cồng có nhiều loại:


- 1 cồng = 1 con trâu non 2 tuổi
- 1 cồng = 1 con trâu cái
- 1 cồng = 6 con trâu non
- 1 cái mền = 1 con trâu non
- 2 gùi lúa = 1 con trâu đực có sừng dài 1 gang tay.
Khi một người vi phạm luật tục thì trách nhiệm đền bù không
những của người đó mà còn thuộc về cả gia đình. Do đó, người phạm
tội không thể bỏ trốn vì còn gia đình của họ. Thông thường, nếu một
người chưa lấy vợ phạm tội thì người chị cả hoặc người cậu có trách
nhiệm bồi thường.
Vật chứng là một nhân tố không tách rời đối với một vụ án. Vật
chứng giúp điều chỉnh vụ xét xử một cách nhanh chóng nhất. Trong
trường hợp cả hai bên đều không đưa ra được chứng cứ thì sẽ phải
thông qua hình thức thử tội. Người Cơho tin rằng khi thử tội sẽ có
thần linh tham gia, do đó, người vô tội sẽ được thần linh chứng minh
là trong trắng.
Luật tục của người Cơho Srê quy định các loại vi phạm để điều chỉnh
các hành vi của mọi cá nhân trong cộng đồng. Đó là đồng lõa phạm tội,
vu cáo, làm chứng gian dối, đe dọa và chửi rủa, bỏ làng đi không báo,
gây rối loạn, mất trật tự, những việc làm sai trái của tù trưởng, những
việc làm ảnh hưởng đến cộng đồng như đốt làng, đốt cháy bụi rậm,
những quy định về hôn nhân, sở hữu đất rừng, nương rẫy.

V- NGƯỜI CHĂM

1. Vài nét về người Chăm


Người Chăm thuộc ngữ hệ Nam Đảo (Malayo-Polinésien), định cư
chủ yếu tại Ninh Thuận và Bình Thuận. Tại Nam Bộ, người Chăm sinh
sống ở An Giang, Đồng Nai, Tây Ninh và Thành phố Hồ Chí Minh.
Người Chăm tại Nam Bộ có nguồn gốc với người Chăm ở khu vực
510 VÙNG ĐẤT NAM BỘ VIII THIẾT CHẾ QUẢN LÝ XÃ HỘI

Trung Bộ. Theo Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009, người Chăm ở
Việt Nam có 161.729 người, tập trung tại các tỉnh: Ninh Thuận (67.274
người, chiếm 41,6% tổng số người Chăm tại Việt Nam), Bình Thuận
(34.690 người, chiếm 21,4% tổng số người Chăm tại Việt Nam), Phú
Yên (19.945 người), Bình Định (5.336 người), An Giang (14.209 người),
Thành phố Hồ Chí Minh (7.819 người), Đồng Nai (3.887 người), Tây
Ninh (3.250 người)...
Ở An Giang, người Chăm cư trú hai bên bờ sông Hậu Giang, trên
những cù lao sông hoặc gần với các trục lộ giao thông. Dọc theo sông
Hậu từ Châu Đốc trải dài đến giáp biên giới Campuchia gồm các làng
Chăm là Châu Giang, Đa Phước, Châu Phong, Lama, Vĩnh Tường,
Búng Lớn, Búng Bình Thiên, Đồng Cô Kỵ. Người Chăm ở An Giang
phần lớn theo Hồi giáo nên trung tâm sinh hoạt, trung tâm cộng đồng
là những thánh đường Hồi giáo và nhiều phong tục, tập quán chịu sự
chi phối mạnh mẽ của giáo luật Hồi giáo.
Ở Tây Ninh người Chăm sinh sống tập trung ở huyện Tân Châu,
thị xã Tây Ninh, huyện Tân Biên, huyện Châu Thành, huyện Dương
Minh Châu...1.
Người Chăm ở Thành phố Hồ Chí Minh là một bộ phận của người
Chăm ở An Giang di cư lên vào năm 1945-1946, nhiều nhất là trong các
năm 1966-1967, sống tập trung ở 13 khu vực (gọi là jammaah) ở quận
1, 4, 5, 6, 8, 10, Phú Nhuận, Bình Thạnh2.

1. Xem Lê Nguyễn Minh Tấn: Hệ thống thân tộc, hôn nhân và gia đình của người
Chăm ở Tây Ninh (nghiên cứu trường hợp ở xã Suối Dây, huyện Tân Châu), luận văn
thạc sĩ ngành Dân tộc học, tư liệu Khoa Nhân học, Trường đại học Khoa học xã hội
và Nhân văn - Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh,
2005, tr.25-26.
2. Xem Huỳnh Ngọc Thu: Hiện trạng kinh tế, xã hội của người Chăm tại Thành
phố Hồ Chí Minh, luận văn thạc sĩ ngành Dân tộc học, tư liệu Khoa Nhân học,
Trường đại học Khoa học xã hội và Nhân văn - Đại học Quốc gia Thành phố Hồ
Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh, 2002, tr.1.
CHƯƠNG VII: CÁC THIẾT CHẾ TỰ QUẢN CỦA... 511

Người Chăm Nam Bộ sản xuất nông nghiệp là chủ yếu. Ở Thành
phố Hồ Chí Minh, người Chăm không sản xuất nông nghiệp mà tham
gia hệ thống sản xuất công nghiệp, dịch vụ... Trong nông nghiệp, trồng
trọt, chăn nuôi có vai trò quan trọng trong sinh kế của người Chăm, thu
hút phần lớn nguồn nhân lực trong cộng đồng. Lúa nước là cây trồng
chính, cấy một năm hai vụ (vụ hè thu, từ tháng 4 đến tháng 7), vụ mùa
(từ tháng 7 đến tháng 10). Các loại cây công nghiệp ngắn ngày như mía,
mì cao sản là cây trồng phụ, có đóng góp về kinh tế đối với người Chăm.
Trâu bò là vật nuôi quan trọng, mang lại hiệu quả kinh tế cao nên
gia đình người Chăm nào cũng chăn nuôi trâu bò. Trâu bò là tài sản
quan trọng để cày ruộng, kéo xe và trao đổi, buôn bán. Một số vùng,
người Chăm mua trâu bò về “vỗ béo” sau đó bán ra thị trường.
Người Chăm ở Châu Đốc, An Giang có nghề dệt thủ công nổi tiếng,
nay không còn.
Khai thác nguồn lợi tự nhiên như đi rừng lấy măng, hái rau, bẫy
chim, thú cũng là một sinh kế quan trọng của người Chăm Nam Bộ.
Tuy nhiên, diện tích rừng ngày càng thu hẹp nên hoạt động này không
còn phổ biến.
Sinh sống tại đô thị nên sinh kế của người Chăm Thành phố Hồ
Chí Minh là hoạt động phi nông nghiệp. Điều tra 704 nhân khẩu năm
2002 thì có 352 người có việc làm, số còn lại không có việc làm, hoặc
làm thuê theo thời vụ. Kết quả thống kê cho biết số người làm nghề
buôn bán chiếm tỷ lệ đông nhất (35,8%), tiếp theo là công nhân (17,9%)
và làm thợ phụ xây dựng (12,8%)1.
Người Chăm Nam Bộ theo Hồi giáo (Islam) nên phong tục, tập
quán, đời sống tâm linh đều chịu sự chi phối mạnh mẽ của tôn giáo này.
Người Chăm Nam Bộ rất tin tưởng vào giáo lý của đạo Hồi và luôn tuân
thủ theo những giáo điều, giáo lý của tôn giáo này.

1. Xem Huỳnh Ngọc Thu: Hiện trạng kinh tế, xã hội của người Chăm tại Thành
phố Hồ Chí Minh, Tlđd, tr.40.
512 VÙNG ĐẤT NAM BỘ VIII THIẾT CHẾ QUẢN LÝ XÃ HỘI

Những đức tin cơ bản của Hồi giáo được người Chăm Nam Bộ
luôn tuân thủ là: tin duy nhất có một thượng đế là Allah tin vào các
thiên thần, tin có ngày phán xét cuối cùng, tin vào quyền mệnh của
Allah, tin vào kinh Qur’an... Ngoài những đức tin trên, người Chăm
ở Nam Bộ, nếu theo Hồi giáo thì phải bảo đảm các nguyên tắc như
cầu nguyện, chay tịnh trong tháng Ramadan, thực hiện bố thí và
hành hương.

2. Thiết chế tự quản


- Palei/jamaah và bộ máy tự quản
Người Chăm sống định cư trong một khu vực, gọi là palei. Palei là
một đơn vị hành chính, thường ở trên những vùng đất cao, xung quanh
là ruộng lúa và nương rẫy. Quy mô của palei có khoảng 300-400 hộ gia
đình thuộc nhiều tộc họ cùng sinh sống. Trong mỗi palei Chăm đều
có một đền thờ thần hoặc thánh đường Hồi giáo (đối với người Chăm
Nam Bộ). Thánh đường hay đền thờ thần là trung tâm tôn giáo, tín
ngưỡng và sinh hoạt cộng đồng của người Chăm Nam Bộ.
Do phân bố trên hai khu vực thành thị và nông thôn nên palei của
người Chăm Nam Bộ có khác nhau. Cộng đồng người Chăm ở Tây Nam
Bộ thường phân bố dọc theo sông và đường giao thông chính, thuận
lợi cho giao lưu, buôn bán. Họ xây dựng những ngôi nhà sàn tương đối
cao, rộng rãi do khu vực này có địa hình thấp, thường xuyên bị ngập vào
mùa nước nổi1.
Palei là đơn vị cư trú truyền thống của người Chăm. Tuy nhiên,
ở An Giang, một palei có thể có nhiều puk như trường hợp palei
Phum Soài (xã Châu Phong, huyện Tân Phong). Phần lớn người
Chăm Nam Bộ đều theo đạo Hồi giáo nên mỗi palei chỉ có một
masjid (thánh đường). Trường hợp palei Phum Soài có nhiều puk

1. Xem Phan Thị Yến Tuyết: Nhà ở, trang phục, ăn uống của các dân tộc vùng đồng
bằng sông Cửu Long, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1993, tr.240.
CHƯƠNG VII: CÁC THIẾT CHẾ TỰ QUẢN CỦA... 513

thì mỗi puk có thể có một surao (tiểu thánh đường)1 tạo điều kiện
cho tín đồ hành lễ hằng ngày. Thông thường, xung quanh thánh
đường là nghĩa địa.
Đối với cộng đồng người Chăm ở Thành phố Hồ Chí Minh, do điều
kiện môi trường sinh sống trong khu đô thị chật hẹp nên họ không thể
phân bố cư trú theo hình thức palei như ở vùng nông thôn. Cộng đồng
người Chăm ở đây tổ chức phân bố, cư trú theo hình thức jammaah
(khu vực) được giới hạn trong một đến hai con đường nhỏ nằm cạnh
một con kênh hoặc rạch. Giống như palei, trong mỗi jammaah đều có
một thánh đường hoặc tiểu thánh đường dùng làm nơi cầu nguyện
chung cho mọi người. Quy mô của jammaah phụ thuộc vào số lượng
của cư dân, thường có khoảng từ 15 đến 25 hộ gia đình. Ở Thành phố
Hồ Chí Minh có 13 jamaah, tập trung ở quận 1 (3 jamaah), quận 3 (2
jamaah), quận 4 (1 jamaah ), quận 5 (1 jamaah), quận 6 (1 jamaah),
quận 8 (2 jamaah), quận Phú Nhuận (2 jamaah), quận Bình Thạnh (1
jamaah). Mỗi một jamaah đều có tên gọi riêng theo tên thánh đường
của khu vực đó, như jamaah ở phường Bến Nghé, quận 1 có tên là
Musulman; jamaah ở phường Cầu Kho, quận 1 có tên là Islami Yah,
jamaah ở phường Nguyễn Thái Bình, quận 1 có tên là Rahim...2. Kiểu cư
trú này chịu ảnh hưởng trực tiếp từ môi trường đô thị.
Đặc điểm cư trú của cộng đồng người Chăm ở Thành phố Hồ Chí
Minh là cư trú tập trung theo từng nhóm gia đình vốn có quan hệ gần
gũi huyết thống, họ hàng thân thích hay cùng quê với nhau. Ví dụ như
phần lớn cộng đồng người Chăm ở quận Phú Nhuận là những người
Chăm có gốc quê ở xã Châu Giang; ở quận 3, 4 là ở xã Châu Phong,
huyện Tân Châu, tỉnh An Giang...

1. Xem Thành Phần: Palei - một hình thái cư trú của cộng đồng người Chăm ở
Việt Nam, in trong Nam Bộ Đất và người, Nxb. Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh, 2007,
t.5, tr. 535- 544.
2. Xem Huỳnh Ngọc Thu: Hiện trạng kinh tế, xã hội của người Chăm tại Thành
phố Hồ Chí Minh, Tlđd, tr.19-20.
514 VÙNG ĐẤT NAM BỘ VIII THIẾT CHẾ QUẢN LÝ XÃ HỘI

Mặc dù người Chăm cư trú khác nhau (đô thị và nông thôn)
nhưng bộ máy tự quản ở cấp palei và jamaah cũng tương đối giống
nhau. Đối với cộng đồng người Chăm ở đồng bằng miền Tây Nam
Bộ, trung tâm sinh hoạt chính của palei là masjid (thánh đường).
Đứng đầu palei là hakem (giáo cả), do dân chúng bầu lên. Người
được chọn làm hakem là người có uy tín, đạo đức, hiểu biết giáo lý
và có khả năng vận dụng giáo lý để giải quyết các mâu thuẫn trong
palei. Thông thường, người được chọn là hakem là những người cao
tuổi, thường là người đã từng tham gia ban hakem nhiệm kỳ trước.
Ngoài ra, còn có một chức vị nữa do hakem chỉ định là naep (phó
trưởng ban) để trợ lý cho hakem. Trong trường hợp một palei có
nhiều puk thì cần phải có thêm một chức vị gọi là ahly (trưởng xóm),
do dân chúng bầu lên để quản lý surao (nhà nguyện hay tiểu thánh
đường) và giải quyết những vấn đề liên quan trong nội bộ của puk.
Như vậy, bộ máy tự quản trong palei là một ban (Banhakem) gồm
có hakem (người đứng đầu palei), naep (phó trưởng ban, trợ lý giúp
việc cho hakem), các vị ahly (người quản lý các puk). Về nguyên tắc,
Ban hakem có nhiệm kỳ 3-5 năm nhưng thường họ được các thành
viên trong palei tín nhiệm và bầu lại nhiều lần cho đến hết đời, nhất
là vị hakem nếu ông vẫn luôn giữ được uy tín trong cộng đồng. Giúp
đỡ cho Ban hakem là các chức danh imam (người hướng dẫn tín đồ
làm lễ), khotip (người giảng kinh Qur’an), hadji (những người đã
hành hương đến thánh địa Mecca) và tuôn (thầy dạy kinh Qur’an).
Những người giúp việc cho Banhakem đều được cộng đồng kính
trọng về đạo đức, lối sống.
Một nguyên tắc là phụ nữ không được tham gia bầu chọn hakem
và ahly, tuy nhiên, họ có thể tham gian bàn bạc và đưa ra ý kiến trong
phạm vi gia đình về việc bầu chọn các chức danh này.
CHƯƠNG VII: CÁC THIẾT CHẾ TỰ QUẢN CỦA... 515

Tại Thành phố Hồ Chí Minh, mỗi một cộng đồng người Chăm sinh
sống trong jamaah, tuy có khác với palei nhưng bộ máy tự quản tương
tự như palei, gồm có Ban quản trị và Ban đại diện cộng đồng Hồi giáo
thành phố.
Ban quản trị (Banhakem) gồm 1 vị hakem (giáo cả, là người đứng
đầu hakem, chịu trách nhiệm về giáo luật của cả jammaah, giảng kinh
và điều hành các buổi lễ lớn tại thánh đường), 2 naep (phó giáo cả, giúp
hakem giáo dục, hướng dẫn tín đồ thực hiện đúng theo quy định trong
tôn giáo), 1 ahly (ủy viên xã hội và thư ký, có vai trò trực tiếp đề đạt các ý
kiến của các thành viên trong jammah tới Ban hakem, đồng thời hướng
dẫn các thành viên jammaah thực hiện các quy định của Ban hakem),
1 pan pageh (thủ quỹ, giữ kinh phí hoạt động và là thư ký của Ban quản
trị). Vai trò của Ban hakem là đốc thúc các tín đồ thường xuyên đi lễ và
tuân thủ các giáo luật của Hồi giáo.
Ban quản trị của các jammaah còn có thêm Ban cố vấn gồm 4
người. Ban cố vấn thường là những người đã mãn nhiệm trong Ban
hakem, hoặc là những người đã hoàn thành việc hành hương đến thánh
địa Mecca (gọi là haji).
Một điểm khác trong cơ cấu tự quản giữa palei và jammaah là các
jammaah ở Thành phố Hồ Chí Minh có thêm Ban đại diện cộng đồng
Hồi giáo thành phố. Ban đại diện cộng đồng Hồi giáo thành phố được
thành lập năm 1992, là tổ chức cao nhất trong cộng đồng của người
Chăm tại Thành phố Hồ Chí Minh, có mục đích đại diện pháp lý cho
các cộng đồng tộc người theo đạo Hồi tại Thành phố Hồ Chí Minh
trước các cơ quan pháp luật của thành phố. Ban đại diện cộng đồng Hồi
giáo thành phố gồm 1 trưởng ban, 2 phó ban, 1 chánh văn phòng, 1 phó
văn phòng, 1 thư ký ban, 1 ủy viên đối ngoại, 1 ủy viên tài chính. Vai trò
của Ban đại diện cộng đồng là phụ trách các hoạt động về tôn giáo và
đảm nhận các nhiệm vụ xã hội.
516 VÙNG ĐẤT NAM BỘ VIII THIẾT CHẾ QUẢN LÝ XÃ HỘI

Vai trò của Ban đại diện cộng đồng Hồi giáo thành phố phụ
trách các lĩnh vực sinh hoạt tôn giáo của toàn bộ các jammaah ở
Thành phố Hồ Chí Minh. Cụ thể, Ban đại diện cộng đồng Hồi giáo
thành phố cung cấp tài liệu học tập giáo lý để duy trì và phát huy
giáo luật của đạo Hồi, giúp đỡ các jammaah tổ chức lễ hội, hiếu, hỷ
theo đúng nghi thức, tổ chức thi đọc kinh Qur’an và khuyến khích
các thành viên hành hương đến Mecca. Về mặt xã hội, Ban đại diện
cộng đồng Hồi giáo thành phố tổ chức các hoạt động từ thiện để cứu
tế cho đồng bào gặp hoàn cảnh khó khăn, lo nghĩa trang trong thành
phố cho các jammaah, kiến nghị với chính quyền thành phố tạo điều
kiện giúp đỡ con em được hưởng các chính sách ưu đãi trong học
tập, giải quyết các vấn đề bất hòa trong cộng đồng người Chăm Hồi
giáo trong thành phố; tổ chức đưa đón những tín đồ Hồi giáo đi
hành hương ở Mecca.
Ban quản trị và Ban đại diện cộng đồng Hồi giáo thành phố ở Thành
phố Hồ Chí Minh là hai cơ quan có sự ảnh hưởng, chi phối lẫn nhau
trong cơ cấu cộng đồng các jammaah. Sự ra đời của Ban quản trị (Ban
hakem) là do nhu cầu của mỗi người dân trong cộng đồng jammah.
Ban hakem có quyền quản lý và điều hành công việc liên quan đến mọi
thành viên của jammaah. Chức năng này hoàn toàn giống như của các
palei khác. Sự khác biệt giữ jammaah và palei là tổ chức Ban đại diện
cộng đồng Hồi giáo thành phố trùm lên các jammaah. Ban đại diện
cộng đồng Hồi giáo thành phố có vai trò điều hành, quản lý tất cả các
Ban quản trị (Ban hakem) và các thành viên trong jammaah. Đặc điểm
này thể hiện qua sự truyền đạt các thông tin cần thiết đến từng Ban
quản trị và các thành viên. Mặt khác, Ban đại diện cộng đồng Hồi giáo
thành phố còn đại diện cho các jammaah đề đạt những nguyện vọng
của người dân đến lãnh đạo thành phố.
CHƯƠNG VII: CÁC THIẾT CHẾ TỰ QUẢN CỦA... 517

- Dòng họ và gia đình


Gia đình, dòng họ là thiết chế xã hội dựa trên quan hệ huyết thống.
Gia đình người Chăm truyền thống ở Trung Bộ theo chế độ mẫu hệ
nhưng người Chăm Nam Bộ, do chịu ảnh hưởng của Hồi giáo nên gia
đình phụ hệ là hạt nhân. Tuy nhiên, ảnh hưởng của chế độ mẫu hệ
trong gia đình người Chăm Nam Bộ vẫn tương đối rõ ràng. Trước năm
1975, sau lễ cưới thì vợ chồng sẽ đến cư ngụ gần nhà cha mẹ vợ, hoặc
đến ở nhà vợ vài ngày rồi chuyển đến nơi ở khác, hoặc về nhà cha mẹ
chồng1. Trước đây, xu hướng chung là gia đình lớn, nhiều thế hệ thì
nay là gia đình hạt nhân với hai thế hệ cùng sinh sống. Ở Thành phố
Hồ Chí Minh, 61% số lượng gia đình được điều tra năm 2002 là gia
đình hạt nhân. Ở Suối Dây, Tân Châu, Tây Ninh, năm 2005, gia đình
hạt nhân chiếm 77,4%2. Mẫu hình gia đình lớn, nhiều thế hệ đang có
những chuyển biến sâu sắc cùng sự phát triển của cộng đồng xã hội
bằng cách các gia đình nhỏ tách khỏi ra đình lớn. Xu hướng này ngày
càng phát triển do ảnh hưởng của môi trường sống, môi trường kinh
tế, văn hóa trong xã hội.
Trong gia đình, người đàn ông có vai trò quyết định mọi công việc
liên quan đến gia đình như sản xuất, phân công lao động, giữ gìn tôn ty,
trật tự. Không như gia đình người Chăm Trung Bộ coi trọng người thừa
kế và có mối quan hệ dòng họ rất chặt chẽ, người Chăm Nam Bộ không
coi trọng các vấn đề này. Sinh con trai hay con gái không quan trọng

1. Xem Nguyễn Văn Luận: Người Chàm Hồi giáo miền Tây Nam phần Việt
Nam, Tủ sách biên khảo, Bộ Văn hóa, Giáo dục và Thanh niên, Sài Gòn, 1974,
tr.78-79.
2. Xem Huỳnh Ngọc Thu: Hiện trạng kinh tế, xã hội của người Chăm tại Thành
phố Hồ Chí Minh, Sđd, tr.81; Lê Nguyễn Minh Tấn: Hệ thống thân tộc, hôn nhân và
gia đình của người Chăm ở Tây Ninh (nghiên cứu trường hợp ở xã Suối Dây, huyện
Tân Châu), Tlđd, tr.81.
518 VÙNG ĐẤT NAM BỘ VIII THIẾT CHẾ QUẢN LÝ XÃ HỘI

đối với người Chăm Nam Bộ vì họ cho rằng con trai hay con gái đều rất
đáng quý. Mặt khác, bị chi phối bởi giáo lý Hồi giáo luôn đề cao quan hệ
láng giềng và cộng đồng, đề cao vai trò của thánh đường1, do đó, người
Chăm Nam Bộ nếu theo đạo Hồi thì sẽ không thờ cúng tổ tiên, không
cúng giỗ người đã mất, không tổ chức cúng dòng họ. Chính vì quan
niệm như vậy nên chức năng của dòng họ trong cộng đồng người Chăm
Hồi giáo tương đối mờ nhạt.
Ngoài người cha, con trai trưởng khi đã vào tuổi trưởng thành cũng
có vai trò tương tự như người cha: có quyền thay cha (khi cha đã mất)
quyết định mọi việc (đã có sự tham khảo ý kiến của những người lớn
tuổi trong dòng họ, nhất là người mẹ) và có quyền đứng chủ hôn cho
các em.
Trong số các thành viên nữ, người mẹ có vị trí đặc biệt nhất vì cùng
với người cha giữ vai trò chăm nuôi và dạy bảo con cái. Người mẹ tuy
không trực tiếp ra những quyết định chính thức nhưng chi phối đến
quyết định của các thành viên khác, nhất là đối với các con. Các con khi
quyết định một vấn đề đều phải tham khảo ý kiến của người mẹ. Nếu
được tư vấn, đồng ý, vấn đề đó sẽ được thực hiện. Ngoài người mẹ, các
thành viên nữ trong gia đình đều có vị trí thấp và không có quyền quyết
định bất cứ vấn đề gì. Mọi công việc liên quan, thậm chí cả việc cưới
và lấy chồng cũng phải có sự đồng ý của cha hoặc anh, em trai trưởng
trong gia đình2.
Sự chuyển đổi từ gia đình mẫu hệ truyền thống sang gia đình
phụ hệ trong cộng đồng người Chăm Nam Bộ là do ảnh hưởng của

1. Xem Bá Trung Phụ: Gia đình và hôn nhân của người Chăm ở Việt Nam,
luận án Phó Tiến sĩ khoa học Lịch sử, Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân
văn Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh, 1996, tr.50.
2. Xem Huỳnh Ngọc Thu: Hiện trạng kinh tế, xã hội của người Chăm tại Thành
phố Hồ Chí Minh, Sđd, tr.86.
CHƯƠNG VII: CÁC THIẾT CHẾ TỰ QUẢN CỦA... 519

đạo Hồi. Mặc dù là gia đình phụ hệ nhưng cộng đồng người Chăm
Nam Bộ không có sự phân biệt bên cha và bên mẹ. Trong quan niệm,
người Chăm Nam Bộ coi trọng gia đình hai bên như nhau.
Trong cộng đồng người Chăm Nam Bộ, do chịu ảnh hưởng của đạo
Hồi nên gia đình được đề cao hơn dòng họ. Vì thế, hình thức tự quản
trong gia đình do sự điều tiết của người chủ gia đình là cha và người con
trai trưởng. Các thành viên khác, đặc biệt là nữ giới chỉ giữ vai trò thực
hiện hoặc tư vấn.
Ở cấp palei hoặc jammaah, Ban quản trị (Ban hakem) giữ vai trò
điều phối chung các hoạt động của mọi gia đình, mọi thành viên trong
palei hoặc jammaah. Hệ thống tự quản do dân bầu đảm nhận vai trò
duy trì trật tự của cộng đồng dựa trên chính vai trò và uy tín của các
thành viên Ban hakem và hệ thống giáo luật của đạo Hồi.
Jammaah là hình thức tụ cư của người Chăm trong môi trường đô
thị, đặc biệt là đô thị lớn như Thành phố Hồ Chí Minh. Chính vì vậy,
ngoài Ban quản trị (Ban hakem) phụ trách một jammaah thì Ban đại
diện cộng đồng Hồi giáo thành phố là cấp tự quản cao hơn, có trách
nhiệm với tất cả các jammaah trong thành phố. Về cơ bản, các hình
thức tự quản của người Chăm góp phần điều hòa và điều chỉnh các
hành vi của mọi thành viên trong cộng đồng, góp phần bảo tồn các giá
trị văn hóa của tộc người.
*
* *
Trong tổ chức xã hội truyền thống của người Xtiêng, Mạ, Cơho,
Chơro, Chăm, các thiết chế tự quản đóng một vai trò quan trọng. Trước
hết, nó điều tiết các hoạt động sản xuất của toàn cộng đồng, điều tiết
hành vi của mọi thành viên. Các thiết chế tự quản này đã phát huy tác
dụng quan trọng là duy trì sự phát triển và tồn tại của cộng đồng.
520 VÙNG ĐẤT NAM BỘ VIII THIẾT CHẾ QUẢN LÝ XÃ HỘI

Bộ máy tự quản gồm những người có uy tín trong cộng đồng, cao
tuổi, có nhiều kinh nghiệm sản xuất đã tạo dựng nên một thiết chế xã
hội mang tính dân chủ cao, điều hành sản xuất. Trên cơ sở luật tục,
phong tục tập quán, bộ máy tự quản đã phát huy tích cực vai trò cũng
như ảnh hưởng đối với các thành viên. Mặt khác, mỗi thành viên trong
cộng đồng đã trực tiếp bầu các chức danh quan trọng của bộ máy tự
quản nên tính dân chủ một mặt được khẳng định, mặt khác thể hiện sự
bình đẳng của tất cả thành viên trong cộng đồng.
Đời sống đơn giản, nền kinh tế tự cung, tự cấp, lối sống du canh,
du cư, niềm tin vào các thế lực siêu nhiên đã ảnh hưởng rất lớn đến
thiết chế tự quản cũng như tổ chức xã hội của người Xtiêng, Mạ, Cơho,
Chơro, Chăm.
521

KẾT LUẬN

1. Lịch sử tổ chức và quản lý hành chính vùng đất Nam Bộ trải qua
nhiều giai đoạn gắn với nhiều thể chế nhà nước

a) Cho đến nay, giới học giả cơ bản thống nhất về sự tồn tại của một
nền văn hóa Óc Eo phân bố trên địa bàn chủ yếu tương đương với vùng
đất Nam Bộ của Việt Nam ngày nay. Trên nền tảng vật chất - kỹ thuật
của nền văn hóa này, vương quốc Phù Nam đã ra đời và phát triển với
phạm vi không gian cũng cơ bản tương đương với vùng đất Nam Bộ.
Trong lịch sử quản lý nhà nước ở vùng đất Nam Bộ, thời kỳ vương quốc
Phù Nam chắc chắn khó có thể mô tả được một cách cụ thể do sự hạn
chế về nguồn tư liệu. Tuy nhiên, qua những gì mà sử sách còn ghi chép
được, nhất là qua các di tích khảo cổ học phát hiện được ngày càng đậm
đặc, nổi bật lên một số điểm lớn đáng lưu ý sau:
Thứ nhất, trong khoảng thế kỷ đầu Công nguyên đến đầu thế kỷ
VII, đã từng tồn tại và phát triển một vương quốc Phù Nam phồn
thịnh bậc nhất trong thế giới Đông Nam Á cổ đại bấy giờ. Điều này
được chứng thực từ những ghi chép của thư tịch và những dấu tích
khảo cổ học. Quốc gia đó phát triển nông nghiệp, nhưng đặc biệt
phát triển mạnh mẽ thương nghiệp, nhất là ngoại thương, với những
cảng lớn, những đô thị lớn, những mối giao lưu kinh tế, văn hóa
rộng rãi với bên ngoài. Một đất nước với nền kinh tế hướng ngoại như
vậy, phát triển mạnh mẽ như vậy trong vòng dăm thế kỷ, chắc phải có
522 VÙNG ĐẤT NAM BỘ VIII THIẾT CHẾ QUẢN LÝ XÃ HỘI

một cách thức quản lý phù hợp và hiệu quả, phản ánh năng lực tổ chức
khá tốt của người Phù Nam khi đó.
Thứ hai, với những lợi thế của mình, vương quốc Phù Nam đã phát
triển hết sức mạnh mẽ để trở thành một đế chế hùng cường, chi phối
và mở rộng phạm vi ảnh hưởng ra bên ngoài, bao trùm phần lớn Đông
Nam Á lục địa bấy giờ. Nhưng cũng chính trong bối cảnh đó, khi sự
phát triển của một đế chế đã vượt ra khỏi tầm kiểm soát, vượt ra khỏi
khả năng thực tế, trở nên bất cập trước tham vọng và thực lực, thì cũng
là khi nó bắt đầu suy yếu và tất yếu sẽ dẫn đến tiêu vong. Thực tế này
thường thấy trong thế giới cổ đại, cả Đông lẫn Tây, và ngay trên một
phần lãnh thổ Việt Nam ngày nay. Sự suy yếu của đế chế Phù Nam trở
nên rõ rệt từ nửa sau thế kỷ VI, cũng là khi các thuộc quốc của đế chế
này lớn mạnh dần, và trong số đó, Chân Lạp đã tấn công Phù Nam và
làm quốc gia này diệt vong.
Như vậy, ở thời kỳ đầu tiên của lịch sử vùng đất Nam Bộ, đã ra đời,
phát triển và diệt vong một nhà nước cổ đại trên mảnh đất này. Nhà
nước đó, nền văn minh đó, dù chịu ảnh hưởng, tác động của yếu tố bên
ngoài, nhất là văn minh Ấn Độ, thì về cơ bản, vẫn là sản phẩm của các
nhân tố bên trong, của nội lực bên trong. Nhà nước đó đã thiết lập được
một bộ máy quản lý trên toàn lãnh thổ của vương quốc đồng thời mở
rộng quyền lực ra bên ngoài, trở thành tôn chủ của nhiều quốc gia trong
khu vực.
b) Sau sự diệt vong của Phù Nam mà nguyên nhân bao gồm cả yếu
tố tự nhiên (nước biển dâng cao) và yếu tố xã hội (sự suy yếu của một
vương quốc khi phát triển trở thành đế chế), vùng đất Nam Bộ trở nên
hoang vu, rất khó quản lý và khai thác. Trong bối cảnh đó, Chân Lạp -
một thuộc quốc của Phù Nam, đã nổi lên. Nhưng Chân Lạp cũng rất
khó khăn trong quản lý và khai thác vùng đất này, bởi sự không thuận
lợi về điều kiện tự nhiên do biển tiến nhấn chìm một phần lãnh thổ
KẾT LUẬN 523

Nam Bộ ngày nay xuống dưới mực nước biển, bởi những thay đổi trong
hệ thống buôn bán quốc tế khiến ưu thế thương mại - ngoại thương của
Phù Nam xưa không được phát huy và bởi, dường như người Chân Lạp
chỉ đủ sức làm chủ trên vùng lãnh thổ truyền thống của mình, tức vùng
đất cao Campuchia ngày nay thôi. Ngay trong sự phân chia Lục Chân
Lạp và Thủy Chân Lạp trước thời đại Ăng co, phần Thủy Chân Lạp -
tức Chân Lạp vùng thấp mà nhiều người đồng nhất nó với đất Nam Bộ
ngày nay cũng không hoàn toàn đúng, trên thực tế, nó bao gồm cả phần
Campuchia giáp Nam Bộ ngày nay và chỉ bao gồm một phần của Nam
Bộ ngày nay. Nghĩa là, Phù Nam sau diệt vong bị sáp nhập vào Chân
Lạp, nhưng Chân Lạp chỉ kiêm tính được một phần, phần còn lại nằm
ngoài kiểm soát của chính quyền Chân Lạp. Vì vậy, trong lịch sử quản lý
vùng đất Nam Bộ, trên phương diện nhà nước, dấu ấn thời kỳ Chân Lạp
là hết sức mờ nhạt.
c) Người Việt bắt đầu một cách mạnh mẽ công cuộc mở đất, khai
phá đất đai, lập làng lập ấp, xác lập chủ quyền ở vùng đất Nam Bộ từ
đầu thế kỷ XVI. Quá trình này diễn ra trong suốt thế kỷ XVII, được
đẩy mạnh trong những thập niên cuối, và trong nửa đầu thế kỷ XVIII.
Một đặc điểm của công cuộc khai phá đất đai, xác lập chủ quyền của
người Việt ở Nam Bộ là quá trình này đồng thời với quá trình thiết lập
bộ máy quản lý của nhà nước mà sự kiện nổi bật là từ cuộc kinh lý của
Nguyễn Hữu Cảnh năm 1698. Nếu người Chân Lạp sáp nhập vương
quốc Phù Nam bằng cuộc chiến tranh xâm lược nhưng sau đó đã không
thực hiện được sự kiểm soát trên toàn bộ lãnh thổ Phù Nam, thì người
Việt đã thực hiện công cuộc khai phá và xác lập chủ quyền đối với vùng
đất Nam Bộ trong điều kiện sự kiểm soát của chính quyền Chân Lạp là
hết sức lỏng lẻo trên một vùng đất đã trở nên hết sức hoang vu và về cơ
bản là được sự tạo điều kiện và đồng thuận của chính quyền Chân Lạp.
Sự thiết lập bộ máy quản lý của người Việt trở thành dấu ấn mạnh mẽ
524 VÙNG ĐẤT NAM BỘ VIII THIẾT CHẾ QUẢN LÝ XÃ HỘI

nhất của công cuộc khai thác vùng đất Nam Bộ kể từ sau ngày sụp đổ
của vương quốc Phù Nam. Từ cuộc kinh lý của Nguyễn Hữu Cảnh năm
1698, hơn nửa thế kỷ sau, vào năm 1757, về cơ bản vùng đất Nam Bộ
đã được người Việt tổ chức trong một hệ thống hành chính và bộ máy
quản lý như một bộ phận của quốc gia Đại Việt mà bấy giờ là chính
quyền chúa Nguyễn Đàng Trong. Người Việt đã trở thành người chủ
thực sự của vùng đất Nam Bộ từ đây, ý thức về chủ quyền lãnh thổ đối
với vùng đất Nam Bộ của người Việt ngày càng trở nên sâu sắc và đạt
đến trình độ tự giác qua cuộc kháng chiến chống xâm lược Xiêm cuối
thế kỷ XVIII và đến nửa đầu thế kỷ XIX, với nhà Nguyễn, sự hội nhập
của Nam Bộ vào thể chế Việt Nam - Đại Nam thống nhất tiến thêm một
bước qua cuộc cải cách hành chính của vua Minh Mạng năm 1832. Nền
hành chính của người Việt ở Nam Bộ, bao gồm cả quy hoạch hành chính
và bộ quản lý, trở thành cơ tầng của thiết chế quản lý nhà nước ở đây mà
bất kỳ một sự thay đổi nào cũng đều diễn ra trên cơ tầng ấy.
d) Tháng 9-1858, thực dân Pháp nổ súng tấn công Đà Nẵng, mở
đầu cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam. Sau khi chuyển hướng tấn
công vào Nam Kỳ, Pháp đã nhanh chóng giành được ưu thế, quân triều
đình Huế liên tiếp thất bại. Nhà Nguyễn buộc phải nhượng cho Pháp ba
tỉnh miền Đông (Gia Định, Định Tường, Biên Hòa), năm 1862, rồi ba
tỉnh miền Tây (Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên), năm 1867 và đến đầu
năm 1874 thì phải ký hiệp ước chính thức xác nhận đất Nam Kỳ là đất
thuộc địa của Pháp. Nam Kỳ trở thành đất thuộc địa của thực dân Pháp,
vì thế, quy chế chính trị mà Pháp áp đặt ở Nam Kỳ là quy chế thuộc
địa - vùng đất trực trị của người Pháp, tổ chức và hoạt động của chính
quyền ở Nam Kỳ vừa nằm trong khuôn khổ của chính quyền thực dân
ở Việt Nam, vừa có những khác biệt so với những vùng miền khác. Cho
dù thiết chế quản lý nhà nước của chính quyền thực dân tồn tại ở Nam
Bộ gần một thế kỷ, trên thực tế chỉ là sự cài cấy trên cơ tầng của thiết chế
KẾT LUẬN 525

quản lý nhà nước của người Việt, thì dấu ấn của nó vẫn để lại khá rõ nét
ở chỗ này, chỗ khác và tính tích cực của nó trên nhiều phương diện là rất
đáng ghi nhận.

2. Sự tồn tại của các mô hình thiết chế quản lý đặc trưng ở Nam Bộ
a) Mô hình quân sự
Người Việt bắt đầu công cuộc khai phá đất đai, xác lập chủ quyền
trên vùng đất Nam Bộ từ đầu thế kỷ XVII và cơ bản hoàn thành vào giữa
thế kỷ XVIII. Phải thừa nhận một thực tế là công cuộc đó được thực thi
trong điều kiện có nhiều thuận lợi, nhất là trên phương diện pháp lý.
Thuận lợi đó là do chính quyền Chân Lạp không kiểm soát được một
cách thực sự vùng đất này, do ảnh hưởng mạnh mẽ, có khi mang tính
“bảo hộ” theo nghĩa tích cực của chính quyền chúa Nguyễn với vương
triều và đất nước Chân Lạp, và các lý do khác, mà chính quyền Chân
Lạp thường đồng thuận và tạo điều kiện thuận lợi cho người Việt và
các nhóm cư dân khác, bao gồm cả người Hoa, vào khai phá đất đai, lập
thôn ấp, làm ăn buôn bán.
Tuy nhiên, công cuộc khai phá đất đai, xác lập chủ quyền, tổ chức
bộ máy quản lý vùng đất Nam Bộ của người Việt cùng các cộng đồng cư
dân khác cũng phải đương đầu với rất nhiều khó khăn, thử thách. Đó là
những can thiệp từ bên ngoài, là chống đối của một bộ phận quan lại và
dân chúng Chân Lạp và đặc biệt là những khắc nghiệt của vùng đất đã
trở nên hoang dã sau hàng ngàn năm. Những khó khăn này sẽ quy định
mô hình tổ chức quản lý của các chúa Nguyễn, cả trong quá trình khai
phá đất đai lẫn khi thiết lập bộ máy quản lý.
Trong lịch sử Việt Nam thời kỳ cổ đại và trung đại, theo ý kiến
của nhiều nhà khoa học, có ít nhất bốn mô hình thiết chế tổ chức và
quản lý xã hội đã từng tồn tại. Đó là: mô hình quân sự (thời Đinh,
Lê thế kỷ X; thời Lê - Trịnh và Nguyễn thế kỷ XVI-XVIII), mô hình
thân dân (thời Lý, Trần thế kỷ XI-XIV), mô hình quan liêu (thời Lê sơ
526 VÙNG ĐẤT NAM BỘ VIII THIẾT CHẾ QUẢN LÝ XÃ HỘI

thế kỷ XV), mô hình chuyên chế (thời Nguyễn nửa đầu thế kỷ XIX).
Vùng đất Nam Bộ được sáp nhập vào lãnh thổ Đại Việt dưới thời các
chúa Nguyễn, vì thế, công cuộc khai phá đất đai, xác lập chủ quyền
của Việt Nam trên vùng đất này cũng gắn liền với mô hình tổ chức
quản lý mang tính quân sự. Điều này vừa xuất phát từ lý do chung,
nhưng cũng có những lý do riêng.
Mô hình thiết chế chính trị tổ chức và quản lý đất nước mang tính
quân sự xuất hiện đầu tiên trong điều kiện nền độc lập dân tộc vừa mới
giành lại được, nguy cơ xâm lược từ bên ngoài vẫn còn đe dọa, trong
nước vẫn tiềm ẩn các khuynh hướng cát cứ chống đối. Vì thế, hai nhà
Đinh, Lê phải duy trì quân đội đông, luật pháp hà khắc, bộ máy nhà
nước phần nhiều do các võ quan nắm giữ... Thiết chế nhà nước đó đã
phát huy tác dụng trong cuộc đấu tranh để khẳng định nền độc lập dân
tộc, khẳng định sự thắng thế của xu hướng tập quyền và thống nhất đất
nước, chuẩn bị cho cuộc bứt phá vĩ đại từ thế kỷ XI với sự ra đời của nhà
Lý, dời đô ra Thăng Long, và là cơ sở để chuyển từ mô hình thiết chế
quản lý mang tính quân sự sang mô hình thiết chế quản lý mang tính
thân dân ở thời đại Lý Trần.
Thế kỷ XVI, sau sự sụp đổ của nhà Lê sơ, đất nước bước vào thời
kỳ nhiều biến động dữ dội, trong đó, một đặc điểm nổi bật là tình trạng
chia cắt đất nước và xung đột giữa các tập đoàn phong kiến (giữa Bắc
triều - Mạc với Nam triều - Lê Trung hưng, giữa Trịnh với Nguyễn).
Tình hình này buộc các chính quyền - thế lực phong kiến phải tăng
cường sức mạnh quân sự và từng bước quân sự hóa bộ máy quản lý. Vấn
đề càng trở nên rõ nét đối với chính quyền chúa Nguyễn ở Đàng Trong
bởi xung đột Trịnh - Nguyễn phần nhiều do sức ép từ Bắc vào và những
khó khăn của công cuộc khai phá và quản lý vùng đất mới. Ở khía cạnh
thứ hai, như đã đề cập, đối với vùng đất Nam Bộ, dù có nhiều thuận lợi
trong công cuộc khai phá đất đai, xác lập chủ quyền, nhưng khó khăn
cũng không ít. Tính chất hoang vu với một thiên nhiên nhiều hoang sơ,
hoang dã; sự phức tạp của các thành phần dân cư tham gia vào công
KẾT LUẬN 527

cuộc mở đất này, cả về tộc người, cả về nguồn gốc xuất thân; can thiệp
của các thế lực bên ngoài... buộc các chúa Nguyễn phải có một mô hình
tổ chức quản lý thích hợp. Trong bối cảnh đó, việc các chúa Nguyễn có
xu hướng quân sự hóa trong phương thức tổ chức cả trong quá trình
khai hoang lập ấp, cả khi đã thành làng thành ấp hay rộng ra là trên mọi
cấp độ hành chính cũng là điều dễ hiểu. Phương thức này đã thực sự
phát huy hiệu quả, dẫn tới kết quả to lớn của công cuộc mở đất, xác lập
và thực thi chủ quyền của Việt Nam trên vùng đất Nam Bộ. Mô hình tổ
chức quản lý này thậm chí còn kéo dài cho đến mấy thập niên đầu thế
kỷ XIX dưới thời Nguyễn.

b) Mô hình thuộc địa


Năm 1858, thực dân Pháp nổ súng xâm lược Việt Nam. Sau một
thời gian tấn công Đà Nẵng không thành, Pháp chuyển hướng đánh
chiếm Nam Bộ và đã nhanh chóng đạt được mục tiêu. Đông Nam Bộ
(năm 1862), rồi Tây Nam Bộ (năm 1867), cả “Nam Kỳ lục tỉnh” dần dần
rơi vào tay thực dân Pháp. Cuộc xâm lăng lan rộng ra cả nước và đến
năm 1884 thì toàn cõi Việt Nam đã trở thành thuộc địa của Pháp.
Nam Kỳ là vùng đất đất đầu tiên mà thực dân Pháp đánh chiếm,
thiết lập chính quyền cai trị. Thời kỳ đầu (trước chế độ Toàn quyền
Đông Dương), bộ máy chính quyền thực dân từng bước được thiết lập,
thực nghiệm mô hình cai trị. Thời kỳ sau này (chế độ Toàn quyền Đông
Dương), bộ máy chính quyền thực dân được củng cố và hoàn thiện.
Nếu ở thời kỳ trước, chính quyền là chính quyền trực trị mang nặng
tính quân sự, thì ở thời kỳ sau, chính quyền vẫn là chính quyền trực trị
nhưng được dân sự hóa. Chính quyền đó vừa mang bản chất và những
đặc trưng chung của chính quyền thuộc địa, đồng thời có những đặc
trưng riêng khác với Bắc Kỳ và Trung Kỳ. Sự khác biệt đó thể hiện ở
nhiều phương diện. Trong khi ở Bắc Kỳ và Trung Kỳ thực dân Pháp
duy trì cả hai hệ thống chính quyền, một của người Pháp, một của nhà
Nguyễn, tương ứng là hai hệ thống pháp luật, hai hệ thống toà án, thì ở
528 VÙNG ĐẤT NAM BỘ VIII THIẾT CHẾ QUẢN LÝ XÃ HỘI

Nam Kỳ chỉ có một hệ thống chính quyền, một hệ thống pháp luật và
một hệ thống toà án của người Pháp. Trong khi Trung Kỳ là đất “bảo hộ”,
Bắc Kỳ là “đất nửa thuộc địa nửa bảo hộ”, thì Nam Kỳ (cùng ba thành
phố loại I là Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng) là đất “thuộc địa”, vì thế, thể
chế hành chính ở Nam Kỳ là thể chế trực trị. Ở Nam Kỳ chỉ tồn tại hệ
thống chính quyền của người Pháp được tổ chức từ trên xuống dưới, từ
cấp kỳ đến cấp xã, trong đó Thống đốc Chủ tỉnh là người Pháp, các cấp
hành chính bên dưới tuy là người Việt nhưng ăn lương của Pháp và nằm
trong guồng máy cai trị của Pháp.
Trên một ý nghĩa khác, trong tổ chức và phương thức hoạt động của
chính quyền thực dân Pháp ở Nam Kỳ, đã tiếp thu một số yếu tố của thể
chế chính trị - pháp lý tư sản phương Tây: bước đầu tư pháp được tách
ra khỏi hành pháp (tổ chức toà án xuất hiện), lập một số cơ quan dân
biểu (cơ quan dân biểu Nam Kỳ được tổ chức hoàn chỉnh hơn, có quyền
hạn rộng hơn các cơ quan dân biểu ở Bắc Kỳ và Trung Kỳ). Nhìn chung
cả Việt Nam, thực dân Pháp vẫn duy trì một số yếu tố chính trị - pháp lý
truyền thống (như Hội đồng kỳ mục hay trong lĩnh vực luật pháp và tư
pháp nhiều quy định của luật phong kiến trước đây và một số tập quán
truyền thống của Việt Nam cũng được người Pháp rất chú trọng, nhất
là về thừa kế, hương hỏa, các mối quan hệ trong gia đình) nhưng ở Nam
Kỳ nhạt hơn so với Bắc Kỳ và Trung Kỳ.
Ở Nam Kỳ, thiết chế chính trị truyền thống gần như giải thể và thay
đổi chức năng. Về mặt chính quyền, ở Nam Kỳ không còn tồn tại các
thiết chế chính quyền của phong kiến nhà Nguyễn, chính quyền của
người Pháp được tổ chức tới tận cấp xã (người Pháp nắm giữ các chức
vụ trọng yếu từ cấp tỉnh trở lên, còn ở cấp dưới các quan chức đều là
người bản xứ, nhưng ăn lương của người Pháp, nằm trong bộ máy chính
quyền của người Pháp). Về mặt thiết chế pháp lý, ở Nam Kỳ không còn
tồn tại các thiết chế pháp lý của phong kiến triều Nguyễn mặc dù chính
quyền Pháp có sử dụng một số yếu tố của phong kiến Nguyễn và tập
quán truyền thống.
KẾT LUẬN 529

Tóm lại, trên đại thể thì Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ đều là thuộc địa
của Pháp, nhưng trong cụ thể thì có khác biệt nhất định, trong đó, tính
chất thuộc địa của Nam Kỳ là rõ ràng nhất, xét trên mọi phương diện.
Về mặt thiết chế tổ chức và quản lý, vùng đất Nam Bộ được thiết kế lại.
Trong khi ở Bắc Kỳ và Trung Kỳ, cơ cấu hành chính và tổ chức bộ máy
quản lý các cấp thời Nguyễn được duy trì cơ bản, dù là về mặt hình thức,
thì ở Nam Kỳ, yếu tố truyền thống chỉ còn được sử dụng lại ở một mức
độ hạn chế. Trên phương diện quy hoạch hành chính, toàn Nam Bộ
được cơ cấu lại thành một “xứ” (xứ thuộc địa) với một tổ chức bộ máy
quản lý đầy đủ, ở một ý nghĩa nhất định, về hình thức, như là sự trở lại
của “Gia Định Thành” ngày nào (qua đây càng thấy không phải ngẫu
nhiên có Gia Định Thành, hay Nam Kỳ, hay Nam Kỳ lục tỉnh). Dưới
kỳ, từ khu rồi tiểu khu - sau đổi thành tỉnh, rồi đến tổng xã, không còn
phủ huyện. Rõ ràng, đây là một bước thay đổi lớn. Cùng với sự thiết kế
lại cơ cấu hành chính, tổ chức bộ máy quản lý cũng như việc đào tạo
và sử dụng viên chức hành chính các cấp, chính sách quan lại với trách
nhiệm và lương bổng... cho thấy tính chất rõ ràng, mạch lạc của nền
hành chính Nam Kỳ thời thuộc Pháp, phản ánh cả đặc điểm của nền
hành chính Pháp lẫn nền hành chính thuộc địa Pháp.
Tuy nhiên, bất luận thế nào, dù với những mặt tích cực không thể
phủ nhận, thì tính khu biệt hóa của nền hành chính Nam Kỳ thời thuộc
Pháp cũng đưa vùng đất này từ trong thể chế Việt Nam thống nhất đạt
được dưới thời Minh Mạng trở lại với các bản tính khu vực vốn có. Tính
hai mặt của thể chế Nam Kỳ thuộc địa, trong đó có vấn đề quản lý hành
chính nhà nước, là điều rất rõ ràng, còn tác động đến tận ngày nay.

3. Xu hướng vận động của thiết chế quản lý nhà nước ở vùng đất Nam
Bộ là đi từ khu biệt đến thống nhất
Nam Bộ là một không gian lịch sử - văn hóa được hội nhập vào Việt
Nam muộn hơn cả. Trong không gian ấy, tính đặc thù - xét trên nhiều
phương diện - là điều rõ ràng. Trên phương diện thiết chế quản lý nhà
530 VÙNG ĐẤT NAM BỘ VIII THIẾT CHẾ QUẢN LÝ XÃ HỘI

nước, tính đặc thù thể hiện ở sự đa chủ thể trong tiến trình lịch sử, ở
sự tồn tại của các mô hình quản lý đặc thù. Tuy nhiên, xét trên nhiều ý
nghĩa, xu hướng đi tới thống nhất với nền hành chính quốc gia vẫn là
xu hướng chủ đạo.
Sự khu biệt trước hết được thể hiện trong bối cảnh chung của
Đàng Trong trong cục diện Đàng Trong - Đàng Ngoài ở các thế kỷ
XVII-XVIII. Điều này là rõ ràng, để lại những hệ quả lâu dài mãi mới
khắc phục được. Nhưng ngay trong thể chế Đàng Trong thì Nam Bộ
cũng có sự khu biệt nhất định với tính điển hình của mô hình quản lý
mang tính quân sự. Phong trào nông dân Tây Sơn, dù còn những hạn
chế không thể vượt qua, thì đối với lịch sử Việt Nam, nó cũng đã tạo
nên một bước thay đổi lớn. Chính phong trào Tây Sơn đã phá vỡ trạng
thái chia cắt đất nước mấy trăm năm để khởi động cho một tiến trình
Việt Nam thống nhất.
Nền thống nhất đất nước đạt được ở đầu thời Nguyễn là một thành
tựu vĩ đại của dân tộc Việt Nam. Tuy nhiên, xét trên nhiều khía cạnh,
nền thống nhất đó chủ yếu thể hiện trên phương diện lãnh thổ với một
chính quyền trung ương duy nhất thực hiện sự quản lý lãnh thổ đó. Còn
trên phương diện thể chế, đến đầu thế kỷ XIX - đầu triều Nguyễn thì vẫn
còn nhiều khác biệt, giữa Đàng Trong với Đàng Ngoài, giữa Bắc, Trung
và Nam, giữa đồng bằng với miền núi, giữa nhiều người với ít người.
Và đặc biệt, trên phương diện nhà nước, là những khác biệt trong quy
hoạch hành chính và tổ chức bộ máy quản lý. Đó là một di tồn của lịch
sử không dễ khắc phục một sớm một chiều, buộc Gia Long phải chấp
nhận thực trạng trên, nghĩa là duy trì tính địa phương, tính vùng miền,
tính tộc người trong thiết chế quản lý nhà nước. Nam Bộ được thiết
kế thành Gia Định Thành, cùng với Bắc Thành (Bắc Bộ), với cơ cấu tổ
chức, bộ máy quản lý có quyền hạn chẳng khác nào các nhà nước con.
Với nghĩa hành chính là quyền lực, dù bất luận lý do gì, tính trung gian
của hai “thành” này cũng là biểu hiện của tính không thống nhất trên
phương diện quản lý nhà nước - nhân lõi của nền thống nhất quốc gia.
KẾT LUẬN 531

Vấn đề đã trở nên vượt quá tầm kiểm soát cùng với thời gian,
đến Minh Mạng trị vì, điều này, cùng với khát vọng nhất thống cháy
bỏng của ông vua Nho giáo bậc nhất này, công cuộc cải cách hành
chính từng bước được thực hiện mà đỉnh cao là cải cách hành chính
địa phương trong các năm 1831 và 1832. Bắc Thành rồi Gia Định
Thành bị xóa bỏ, một nền hành chính thống nhất từ trung ương đến
địa phương được xác lập. Với cải cách này, lần thứ nhất, trên phương
diện quy hoạch hành chính và tổ chức bộ máy quản lý, vùng đất Nam
Bộ có sự hội nhập đầy đủ vào thể chế Việt Nam thống nhất.
Cách mạng Tháng Tám 1945 thành công, nhưng ngay sau đó là cuộc
chiến tranh chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Nam Bộ đi trọn cuộc
hành trình ba mươi năm đó (1945-1975). Quy hoạch hành chính và tổ
chức bộ máy quản lý vùng đất Nam Bộ thời kỳ này chịu tác động của
yếu tố chiến tranh - nhưng lại là chiến tranh cách mạng, chiến tranh giải
phóng dân tộc. Nó thể hiện ở hai phương diện: tính chất quân sự trong
quy hoạch hành chính và tổ chức bộ máy chính quyền và sự song hành
của hai chính quyền - lực lượng: đế quốc - tay sai và cách mạng, trong
đó, trong hầu hết thời gian và không gian, phần “chính thức” thuộc về
các chính quyền thực dân hoặc thân đế quốc. Suốt trong thời kháng
chiến chín năm chống thực dân Pháp và hơn hai mươi năm kháng chiến
chống đế quốc Mỹ, cơ cấu hành chính được cấu tạo với ưu tiên nhằm
vào các mục đích chiến tranh, với ưu thế thuộc về quân đội trong toàn
bộ cơ cấu quyền lực. Tuy nhiên, bên cạnh đó, cũng phải thấy một thực
tế rằng, ở nhiều khía cạnh, nền hành chính vùng Nam Bộ thời kỳ này
vẫn tiếp tục chịu ảnh hưởng của nền hành chính các nước phương Tây
(Pháp và Mỹ), với tính chất chuyên nghiệp khá cao, thể hiện trong gần
như toàn bộ các cấp hành chính, trong đào tạo và sử dụng viên chức
nhà nước, trong quy định chức trách, quyền lợi và nghĩa vụ của các viên
chức hành chính.
532 VÙNG ĐẤT NAM BỘ VIII THIẾT CHẾ QUẢN LÝ XÃ HỘI

Sau ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, từ thống
nhất lãnh thổ đến thống nhất nhà nước, những khác biệt Bắc - Nam
dần được xóa bỏ. Cũng như cả nước, quy hoạch lãnh thổ hành chính
vùng Nam Bộ cũng trải qua nhiều thay đổi với sự nhập, tách nhiều
lần các đơn vị hành chính, nhất là đơn vị hành chính cấp tỉnh, thành.
Từ lục tỉnh Nam Kỳ thời Nguyễn đã chia ra thành nhiều tiểu khu - tỉnh
thời Pháp thuộc, thời chống Mỹ, đến sau giải phóng đã sáp nhập
thành các tỉnh, thành phố với quy mô diện tích lớn hơn nhiều.
Nhưng sau một thời gian, những bất cập bắt đầu nảy sinh liên quan
đến quản lý và phát triển, do vấn đề trình độ và năng lực quản lý
và do sự tồn tại lâu dài của các đơn vị hành chính lãnh thổ dẫn đến
những đặc tính địa phương được thể hiện rõ nét dẫn đến độ vênh
giữa các phần hành chính lãnh thổ được lắp ghép một cách cơ học
sau này. Những điều chỉnh lại diễn ra sau đó mươi mười lăm năm
mà về cơ bản là sự trở lại bức tranh chung thời kỳ trước, với hầu hết
là các đơn vị hành chính lãnh thổ được xác lập từ thời thuộc Pháp.
Tuy có những biến đổi trong vấn đề quy hoạch đơn vị hành
chính lãnh thổ hay sự nhất thể hóa mô hình tổ chức quản lý giữa
hai khu vực nông thôn và thành thị, nhưng phải thấy một thực tế
là, những gì diễn ra từ sau ngày giải phóng miền Nam, trên phương
diện quản lý hành chính nhà nước, vùng đất Nam Bộ lần thứ hai hội
nhập đầy đủ vào thể chế Việt Nam thống nhất, kể từ sau cuộc cải
cách hành chính của vua Minh Mạng năm 1832. Những khái niệm
“Nam Bộ” hay “Đông Nam Bộ”, “Tây Nam Bộ” giờ đây mang những ý
nghĩa kinh tế, ý nghĩa văn hóa hay ý nghĩa an ninh quốc phòng, chứ
không còn mang ý nghĩa hành chính nữa - xét trên mọi chiều cạnh
của vấn đề.
Một trong những nét nổi bật của lịch sử Việt Nam là có một “quá
trình lãnh thổ”. Quá trình đó kéo dài gần tám thế kỷ, tính từ những
KẾT LUẬN 533

xung đột Việt - Chăm đầu tiên (cuối thế kỷ X) hay sự sáp nhập bước
đầu phần lãnh thổ Chămpa vào Đại Việt (cuối thế kỷ XI), cho đến giữa
thế kỷ XVIII khi bản đồ Đại Việt vươn tới đất Cà Mau. Quá trình đó là
sự mở rộng dần từng bước lãnh thổ về phía nam, tiến tới một Việt Nam
thống nhất nhưng đa dạng. Nam Bộ là một vùng trong các đa dạng Việt
Nam. Tính đặc thù hay đặc tính Nam Bộ thể hiện trên nhiều phương
diện, cũng như mọi đa dạng khác, có hay và cũng có dở. Trên phương
diện hành chính cũng vậy, hay dở - xét dưới góc độ hiệu quả quản lý
đáp ứng các yêu cầu phát triển, đảm bảo an ninh và sự toàn vẹn lãnh
thổ, cũng tùy từng thời, tùy từng tình hình cụ thể, trong các mối quan
hệ cụ thể. Khi duy trì tính đặc thù mà đảm bảo hiệu quả cao các mục
tiêu trên thì đặc thù đó là hay (như trong thời kỳ mở đất và bước đầu
xác lập chủ quyền, thiết chế quản lý đậm tính quân sự đã phát huy tác
dụng). Nhưng thực tế, ở bất kỳ quốc gia nào, thời nào, trong một quốc
gia thống nhất, thì một nền hành chính thống nhất luôn là yếu tố đảm
bảo hàng đầu để duy trì nền thống nhất đó, đảm bảo hiệu quả quản lý
xã hội cao. Lịch sử quản lý hành chính nhà nước ở Nam Bộ, kể từ khi
người Việt vào, là quá trình đi từ đặc thù đến thống nhất, nhưng không
phải là con đường thẳng băng, trái lại, rất quanh co. Nó vừa phản ánh
nét riêng của Nam Bộ về địa lý, lịch sử và văn hóa mà các chính thể phải
chấp nhận hoặc lợi dụng, đồng thời phản ánh xu thế của lịch sử Việt
Nam - xu thế của sự thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ.

4. Liên kết cộng đồng theo địa vực của người Việt ở Nam Bộ không
đậm nét như Bắc Bộ và Trung Bộ

Chúng ta biết một thực tế của lịch sử Việt Nam trên phương
diện quản lý xã hội là sự song hành của hai thiết chế nhà nước và phi
nhà nước (hay hành chính và cộng đồng, quan phương và phi quan
phương). Điều này là có căn do lịch sử.
534 VÙNG ĐẤT NAM BỘ VIII THIẾT CHẾ QUẢN LÝ XÃ HỘI

Đồng bằng Bắc Bộ vốn được khai thác rất sớm. Cách đây mấy
nghìn năm, xuất hiện các công xã nông thôn - những làng xóm định
cư. Trong các công xã nông thôn, sở hữu công cộng chiếm ưu thế
tuyệt đối. Tuy nhiên, lẽ thông thường, xu hướng vận động của lịch sử
sẽ là tư hữu hóa và đó là điều bình thường - một biểu hiện của quá
trình tiến hóa tự nhiên. Tuy nhiên, quá trình này đã không diễn ra
một cách thuận lợi ở Việt Nam, mà một trong những nguyên nhân
rất quan trọng là do xâm lược và chính sách đồng hóa của phong
kiến Trung Hoa. Xâm lược và đồng hóa của phong kiến phương Bắc
dẫn đến phản ứng chống xâm lược và chống đồng hóa của người
Việt. Phản ứng đó trước hết được biểu hiện bằng sự co cụm lại của
làng xã. Co cụm lại, tức là duy trì, là gia cố các yếu tố cộng đồng,
phải đủ mạnh để vô hiệu hóa can thiệp của nhà nước, mà ở đây là
các chính quyền đô hộ phong kiến Trung Hoa. Tư hữu hóa - một
xu thế tự nhiên và đã khá rõ từ cuối thời Hùng Vương, gần như bị
chặn lại. Bởi lẽ, cố kết làng xã chỉ trở nên chặt chẽ hơn dựa trên cơ
sở của chế độ công hữu tư liệu sản xuất, trước hết và chủ yếu là đất
đai. Vậy là, thay vì sự phát triển của chế độ tư hữu và sự phân hóa xã
hội, cộng đồng làng xã - các công xã nông thôn thời dựng nước với
đặc trưng công hữu về tư liệu sản xuất và thiết chế quản lý mang tính
tự trị - tự quản cao tiếp tục thể hiện và gia cố thêm trong thời Bắc
thuộc. Điều này đã thực sự đóng một vai trò to lớn trong cuộc đấu
tranh chống Bắc thuộc, chống đồng hóa, là thành công của người
Việt và là thất bại của các chính quyền đô hộ Trung Hoa. Tuy nhiên,
thực tế đó cũng có tính hai mặt: là tích cực trước các yêu cầu của
dân tộc thời kỳ mất nước và nguy cơ đồng hóa, nhưng sẽ là tiêu cực
trong công tác quản lý nhà nước ở làng xã của các chính quyền dân
tộc về sau này. Từ họ Khúc giành quyền tự chủ (năm 905), cho đến
khi người Pháp vào, việc quản lý đất nước, trừ đôi chỗ gián đoạn, là
KẾT LUẬN 535

thuộc các chính quyền dân tộc người Việt. Mà quản lý xã hội nước
ta thời trung đại thực chất, hay chủ yếu, là quản lý nông thôn. Ở đây
là làng xã, đơn vị xã hội - cộng đồng cơ sở. Từ đây, diễn ra một cuộc
“giằng co” giữa xu hướng hành chính hóa của nhà nước với sự níu
kéo các yếu tố tự trị - tự quản của làng xã cùng trên một “trận địa”
là giành quyền kiểm soát nông thôn. Kết cục của cuộc “giằng co” đó
là không có “thắng phụ” rõ ràng, dẫn tới sự thỏa hiệp giữa nhà nước
và làng xã, sự song hành của hai thiết chế quản lý nhà nước và phi
nhà nước - làng xã.
Nhưng đấy là nhìn chung, trên bình diện cả nước, và xét yếu tố
tự trị - tự quản ở mặt chủ yếu của nó gắn với đơn vị cộng đồng xã hội
phổ biến là làng xã, với tư cách một đơn vị cư trú.
Trên thực tế, yếu tố phi nhà nước trong quản lý xã hội (quản lý
nhà nước và quản lý phi nhà nước) được biểu hiện hết sức đa dạng,
hết sức phức tạp. Có cái phi nhà nước gắn với tộc người, với đời
sống tôn giáo tín ngưỡng; có cái phi nhà nước gắn với đơn vị cư trú...
Nhìn chung Việt Nam, với sự đa số của người Việt, với sự phổ biến
của loại hình đơn vị cư trú là làng xã ở vùng đồng bằng và trung du
trong toàn bộ quá trình lịch sử và sẽ còn kéo dài trong một thời gian
không ngắn nữa, tính phi nhà nước gắn với đơn vị cư trú là đặc điểm
nổi bật của hình thức quản lý xã hội mang tính tự trị - tự quản. Tuy
nhiên, khi đi vào cụ thể từng vùng, vấn đề sẽ có những khác biệt
nhất định, do chi phối bởi yếu tố địa lý, quá trình lịch sử, đặc điểm
kinh tế, xã hội và văn hóa và đặc biệt là yếu tố tộc người.
Nam Bộ là một không gian địa lý, lịch sử và văn hóa với nhiều
đặc thù. Dưới góc độ thành phần tộc người, trừ cư dân Phù Nam,
còn từ sau đó, trước khi người Việt vào, chưa có nhóm cư dân - tộc
người nào thực sự làm chủ vùng đất này. Vì thế, từ sau sự sụp đổ của
Phù Nam, cho đến khi vùng đất này được khai phá cơ bản, người
536 VÙNG ĐẤT NAM BỘ VIII THIẾT CHẾ QUẢN LÝ XÃ HỘI

Việt là chủ thể số một. Hình thức cư trú của người Việt, như chúng
ta thấy, ở miền Bắc và miền Trung, phổ biến là đơn vị xã thôn (có xã
riêng, thôn riêng và có thôn trong xã, nhưng phần nhiều là xã riêng
và thôn trong xã). Nhưng vào đến Nam Bộ thì đơn vị cư trú phổ biến
của người Việt là thôn ấp. Xã thôn ở Bắc Bộ, Trung Bộ hay thôn ấp ở
Nam Bộ thì dưới góc độ cộng đồng cũng là các làng Việt. Yếu tố phi
nhà nước trong quản lý xã hội của người Việt chính là gắn với cộng
đồng làng này. Nhưng dường như, trên mọi biểu hiện của nó, mức
độ sự chi phối của yếu tố phi nhà nước trong quản lý xã hội gắn với
cộng đồng làng ở Bắc Bộ và Trung Bộ đậm nét hơn so với Nam Bộ.
Ở Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ là vùng lãnh thổ truyền thống của
người Việt. Dù cách hiểu cho từng thời có khác nhau, thì nhìn chung,
đây vẫn là vùng “đất chật người đông”, đất đai không thật màu mỡ, sự
ưu đãi của tự nhiên không nhiều. Người Việt cặm cụi thâm canh trên
những cánh đồng với lối tư duy kinh tế ăn chắc mặc bền, lấy công
làm lãi và gắn bó với làng với lối sống tắt lửa tối đèn có nhau. Điều
này, cộng với các lý do lịch sử nêu trên, làm cho sự cố kết làng xã ở
đây trở nên hết sức bền chặt, và vừa như một biểu hiện, vừa đến lượt
mình, tính chất tự trị - tự quản hay yếu tố phi quan phương trong
quản lý cũng vì thế mà trở nên đậm nét hơn. Đặc tính trên tiếp tục
được người Việt mang theo qua vùng Trung Trung Bộ, nhưng nhạt
dần khi càng tiến vào Nam.
Ở Nam Bộ, rất rõ ràng, gần như đối lập lại, là “đất rộng người
thưa”, đất đai hết sức màu mỡ, thiên nhiên rất ưu đãi. Quá trình tiến
vào Nam của người Việt được thực hiện bởi những người dân di cư,
ngoài những lý do “chính trị”, trên phương diện kinh tế, tựu trung
có hai bộ phận: bộ phận thứ nhất, không nghèo, thậm chí giàu có,
nhưng muốn bứt khỏi sự chật hẹp khó khăn (đất đai, chính sách) ở
vùng Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ, mà vào vùng đất mới rộng rãi, thuận
KẾT LUẬN 537

lợi để làm giàu và giàu hơn; bộ phận thứ hai, nghèo, rất nghèo, buộc
phải rời quê hương xứ sở, đi để tìm con đường sống. Nhưng, dù là
thuộc bộ phận nào, thì họ cũng đều mang thuộc tính của dân di cư:
đó là tính mạo hiểm, tinh thần tự do, phóng khoáng. Và đặc tính
này đạt đến cực đại với khối cư dân Nam Bộ - miền đất xa xôi nhất.
Đến đây, như được cộng hưởng bởi thiên nhiên thoáng đãng, bằng
cả ưu đãi và thử thách, đã hình thành nên một người Việt Nam Bộ
đầy cá tính, với những con người cụ thể hơn là nhạt nhòa trong cả
khối làng xã chung chung với thế ứng xử người - người hơn là làng -
làng theo kiểu “tứ hải giai huynh đệ”, có thể nay đây mai đó. Chính
điều này dẫn tới tính tự trị - tự quản của thôn ấp người Việt ở Nam
Bộ không đậm nét. Di tồn của đặc điểm lịch sử này sẽ không gây trở
ngại nhiều cho việc thiết lập các cơ chế quản lý hành chính nhà nước
trong hiện tại.
Đây là nét đặc biệt trong tổ chức nhà nước ở vùng Nam Bộ. Đối
với miền Bắc, miền Trung, các yếu tố phi quan phương đối với tổ
chức làng xã có vai trò quan trọng và mạnh. Ở Nam Bộ cũng vậy, các
yếu tố phi quan phương cũng chi phối khá mạnh đến tổ chức nhà
nước vùng Nam Bộ. Tuy nhiên, nếu xét trên nhiều bình diện, thì ảnh
hưởng của yếu tố phi quan phương ở đây không mạnh như châu thổ
Bắc Bộ. Khái niệm “phép vua thua lệ làng” xuất hiện phổ biến tại các
làng xã châu thổ Bắc Bộ nhưng không phải quá chi phối ở Nam Bộ.

5. Các yếu tố tộc người - tôn giáo chi phối mạnh mẽ đến các hình
thức phi quan phương trong quản lý xã hội

Trong khi tính phi quan phương trong quản lý xã hội gắn với
đơn vị cư trú thôn ấp của người Việt ở Nam Bộ không đậm nét như
ở Bắc Bộ và Trung Bộ, thì ở các cộng đồng - tộc người khác và ở các
khía cạnh khác của quan hệ tộc người, điều này lại được thể hiện rất
538 VÙNG ĐẤT NAM BỘ VIII THIẾT CHẾ QUẢN LÝ XÃ HỘI

rõ nét. Trong cơ cấu thành phần tộc người Nam Bộ hiện nay cũng
như trong công cuộc mở đất trước đây, ngoài bộ phận người Việt còn
có nhiều tộc người khác, là người Khmer, người Hoa, người Chăm
và một số nhóm cư dân - tộc người thiểu số khác. Mỗi một tộc người
mang những nét riêng của mình và có mặt ở Nam Bộ trong những
hoàn cảnh khác nhau.
Người Việt, như đã trình bày ở trên, tính tự trị - tự quản cao,
nhưng đậm nét ở Bắc Bộ và Trung Bộ, không đậm ở Nam Bộ, với
những lý do như đã được trình bày. Nói không đậm như ở miền Bắc
và miền Trung không có nghĩa là yếu tố này mờ nhạt ở Nam Bộ.
Trên thực tế, những liên kết trong phạm vi các thôn ấp dựa trên các
nguyên tắc theo huyết thống (dòng họ), địa vực (xóm ngõ) hay sở
thích (phường hội) vẫn tồn tại và là một phần trong các phương thức
tự trị - tự quản của người Việt ở vùng đất này.
Đối với người Khmer, sự gắn kết trên các đơn vị cư trú đặc thù
phum, sóc là hết sức chặt chẽ và cũng như người Chăm, có một niềm
tin tôn giáo sâu sắc - một nền tảng của sự cố kết cộng đồng, của tính
tự trị - tự quản trong quản lý xã hội gắn với đặc trưng của đời sống
tư tưởng - văn hóa này.
Người Hoa là cộng đồng di cư từ bên ngoài, xuất phát từ các lý
do chính trị, kinh tế riêng. Bản thân người Hoa với tư cách kiều dân,
hay thành người Việt gốc Hoa, thì nguồn gốc Hoa cũng trở thành
một cơ sở cho sự gắn kết cộng đồng và các hình thức tự quản của
khối cư dân này. Đó là nét chung của người Hoa khắp thế giới, khắp
Việt Nam. Nhưng dường như điều này được thể hiện đậm nét ở Nam
Bộ, nhất là ở các đô thị, đến nỗi người ta thường nói nhiều về một
cộng đồng “người Hoa Nam Bộ”, thậm chí là “người Hoa Thành phố
Hồ Chí Minh”, “người Hoa Sài Gòn - Chợ Lớn”...
KẾT LUẬN 539

6. Những “ngưng đọng lịch sử”

Lịch sử là một dòng chảy biện chứng giữa hôm qua, hôm nay
và mai sau. Trên phương diện thiết chế quản lý xã hội, ở cả hai khía
cạnh nhà nước và phi nhà nước, trên vùng đất Nam Bộ, có cả cái
hôm qua vẫn đang hiện hữu ở hôm nay và có cả cái hôm qua đang
tác động với các mức độ khác nhau đến cái hôm nay. Những “ngưng
đọng lịch sử” của vấn đề thiết chế quản lý xã hội ở Nam Bộ là một
di sản và chúng ta phải lưu ý đến di sản đó trong tổ chức và quản lý
phát triển hiện nay. Đứng trên quan điểm thống nhất, những đặc thù
phương hại đến yêu cầu này cần phải được khắc phục. Nhưng trong
cái đa dạng có các yếu tố góp phần tăng cường hiệu quả quản lý xã
hội, duy trì tính thống nhất trong đa dạng thì cần phải được phát
huy. Một số điểm cần lưu ý:
Thứ nhất là, những dấu ấn của mô hình chính trị - pháp lý
phương Tây. Điều này là một thực tế vì Nam Bộ là vùng đất đầu tiên
của Việt Nam bị thực dân Pháp xâm chiếm, sau đó thực thi ở đây
chế độ thuộc địa trực trị. Người Pháp đã đem đến Nam Bộ mô hình
tổ chức nhà nước dân chủ tư sản phương Tây tạo nên sự thay đổi
lớn trên phương diện tổ chức nhà nước ở vùng Nam Bộ. Mô hình
tổ chức này tỏ rõ tính khoa học trong quản lý xã hội, điều hành các
thiết chế xã hội; mặt khác, nó tỏ ra thuận lợi và đúng xu hướng phát
triển của thế giới hiện đại. Bỏ qua những yếu tố thực dân, phong
kiến, mô hình chính trị - pháp lý phương Tây để lại nhiều bài học
cần kế thừa cho sự phát triển nhà nước hiện nay ở vùng Nam Bộ.
Thứ hai là, sự tồn tại của thiết chế phi quan phương trong quản
lý xã hội. Tổ chức nhà nước hiện nay ở Nam Bộ vẫn chịu ảnh hưởng
của những yếu tố phi quan phương đã tồn tại lâu dài trong lịch sử.
Các yếu tố phi quan phương đã tồn tại trong quá khứ và tác động lên
những mô hình tổ chức nhà nước trước kia. Yếu tố phi quan phương
540 VÙNG ĐẤT NAM BỘ VIII THIẾT CHẾ QUẢN LÝ XÃ HỘI

tồn tại một mặt như một đối trọng với tổ chức nhà nước của chính
quyền; mặt khác, nếu dung hòa các yếu tố này thì thiết chế phi quan
phương lại trở thành những thiết chế có ảnh hưởng tương trợ cho
tổ chức nhà nước. Xã hội Nam Bộ rất đa dạng, do đó, các yếu tố phi
quan phương vẫn ảnh hưởng như một nhân tố chi phối đến thiết chế
quản lý nhà nước. Đặc thù của Nam Bộ là sự đa dạng về tôn giáo,
tộc người, sống trong một môi trường đặc biệt và các đặc trưng văn
hóa đã hình thành từ lâu. Do đó, các yếu tố phi quan phương đương
nhiên tồn tại lâu dài trong xã hội Nam Bộ. Cần dung hòa các yếu tố
này đảm bảo lợi ích văn hóa, tộc người, tôn giáo sẽ có tác dụng mạnh
mẽ trong quá trình phát triển của xã hội Nam Bộ.
541

PHỤ LỤC
PHỤ LỤC 543

Phụ lục I

Về nguồn gốc và các loại Neak-ta của loại hình tín ngưỡng này
vẫn tồn tại nhưng ý kiến khác nhau: Adlémar Leclire cho rằng Neak-ta
là “hồn của người chết từ lâu”; Monod lại cho Neak-ta là “các vị thần
đồng áng hay thần ở trong rừng mà người ta cần phải xin khi có công
việc liên quan đến khu vực này”; Moura cho rằng Neak-ta là “những
vị thần các cánh đồng hay khu vực mà người ta cần xin khi có công
việc”, có nguồn gốc từ Balamon giáo và đặt các vị thần này trong vũ
trụ quan của tôn giáo đó “Những Neak-ta đó có khi các xứ sở này
được thành lập và chính Préah In (Indra) đã giao cho họ trông coi các
xứ sở này”. Quan niệm cho rằng Neak-ta có nguồn gốc từ Balamon
giáo cũng được L.Malleret tán đồng, lấy vị thần Neang Khmau (Bà
Đen) trong tín ngưỡng của người Khmer làm ví dụ, ông cho rằng đây
chỉ là thần Durga của Balamon giáo.
Có nhiều loại Neak-ta: Neak-ta Wat (Neak-ta chùa) và Neak-ta
Mechas Srók (Neak-ta chủ xóm), Neak-ta ngã ba, ngã tư sông... Căn cứ
vào tên gọi có thể phân chia các Neak-ta thành các loại hình chủ yếu
sau đây:
- Neak-ta được gọi theo tên của một vật tiêu biểu trong thiên nhiên,
hoặc tên của một loại thực vật, như: Neak-ta Xam rôn (Neak-ta cây
Trôm), Neak-ta Đom chey (Neak-ta cây đa)...; hoặc mang tên một đặc
điểm về địa lý như Neak-ta bến đò, Neak-ta bến bình an. Loại Neak-ta
này tiêu biểu cho vùng Trà Vinh, Vĩnh Long.
544 VÙNG ĐẤT NAM BỘ VIII THIẾT CHẾ QUẢN LÝ XÃ HỘI

- Loại thứ hai mang tên người hay sự tích liên quan đến người: ví
dụ, Neak-ta Đây, Neak-ta Don Ray (ở Phú Tân, Mỹ Tú, Sóc Trăng...).
Neak-ta Bas sac (Bãi Sào, Mỹ Xuyên, Sóc Trăng), Neak-ta Khlang Mươn
(Minh Hương, Châu Thành, Kiên Giang)...
- Loại Neak-ta thứ ba cho thấy rõ dấu tích của Balamon giáo ở vùng
đất dọc biên giới phía Tây như Kiên Giang, An Giang, ví dụ: Neak-ta
Dây Khmau, Neak-ta Buôn Muk (bốn mặt), Neak-ta Potthobol (bụng
bự); ở Vọng Thê, Châu Thành, An Giang có Neak-ta Neang Khmau
(Nàng Đen), còn ở chùa Đon Melchel và Ratannaraxi (thị xã Rạch
Giá) có Neak-ta Neang Khiu (Nàng Xanh)... Đặc biệt Dây Khmau và
Koconom là những Neak-ta thấy xuất hiện khắp vùng người Khmer
ở đồng bằng sông Cửu Long. Đây là những hình tượng dân gian được
gắn các thuộc tính là hóa thân và các cận thần của Visnu và Siva. Điều
đáng ngạc nhiên là các Neak-ta Morey, Neak-ta Proum, Neak-ta En mà
người Khmer thường dùng để gọi các vị thần chủ yếu của Balamon giáo:
Visnu, Brahma và Inđra.
Như vậy, qua tìm hiểu nguồn gốc, đối tượng thờ cúng và tên gọi
thì tín ngưỡng Neak-ta là thần bảo hộ cho công xã của người Khmer
mà điển hình là Neak-ta chủ xóm, chủ xứ (Neak-ta Méchas) hay
những người có công dũng cảm chiến đấu bảo vệ công xã. Đến khi
Balamon giáo và tiếp theo là Phật giáo du nhập vào thì tín ngưỡng
Neak-ta lại đồng hóa và dân gian hóa một số thần của các tôn giáo
này thành thần bảo hộ công xã. Phật giáo Tiểu thừa với các định chế
tu trì ràng buộc, các ngôi chùa trở thành trung tâm tôn giáo của các
sóc và trở thành tôn giáo chính thống chi phối tinh thần của người
Khmer, song tín ngưỡng Neak-ta, mặc dù đã yếu thế, vẫn duy trì sự
hiện diện của mình trong khuôn viên chùa với hình ảnh Neak-ta
Wat (Neak-ta chùa). Dĩ nhiên, sự hiện diện này không được nhà
PHỤ LỤC 545

chùa khuyến khích mà chỉ là sự nhượng bộ của Phật giáo. Điều đó


nói lên rằng, tín ngưỡng Neak-ta với tư cách là thần bảo hộ sóc có
sự ảnh hưởng và gắn bó nhiều mặt với đời sống sản xuất và tình cảm
cộng đồng của người dân Khmer.

Phụ lục II

Ví dụ 1, khảo sát phum Tà Tiêng, Dậy Còn (Ông Tiêng, Bà Còn), ở ấp


Ô Trom, xã Hiếu Tử, huyện Tiểu Cần, tỉnh Trà Vinh.
Khoảng những năm 1940-1945, ông Thạch Tiêng (ở Trà Nóc, huyện
Châu Thành) kết hôn với bà Thạch Thị Còn (ở ấp Ô Chao, xã Hiếu Tử,
huyện Tiểu Cần). Ông được bố mẹ cho bốn công ruộng, bà được bố mẹ
cho 10 công ruộng, hai ông bà đến ấp Ô Trom mua 10 công đất ở, là
đất phum hiện nay. Hai ông bà là thế hệ thứ I lập nên gia đình hạt nhân
không đầy đủ và là những người đầu tiên đến cư trú lập thành phum.
Sau đó, hai ông bà lần lượt sinh được 9 người con, 2 nam và 7 nữ, trở
thành gia đình nhỏ hoàn chỉnh với hai thế hệ: bố mẹ và con cái.
Rồi các con của ông bà, thế hệ thứ II, lần lượt xây dựng gia đình, có
4 người con ra ở riêng ngoài phum và 5 người con ở lại trên đất phum,
tạo nên cấu trúc phum gồm các gia đình hạt nhân đầy đủ (có hai thế hệ)
và cả gia đình nhỏ không đầy đủ (chưa có con), dựa trên hai mối quan
hệ huyết thống và hôn nhân.
Khi ông bà Thạch Tiêng và Thạch Thị Còn già ở với vợ chồng
người con gái út và các thành viên thế hệ thứ III (cháu của ông Tiêng
bà Còn) lớn lên xây dựng gia đình, một số người lập gia đình riêng ra
cư trú ngoài phum, có người làm nhà riêng ở trong phum cạnh bố mẹ,
546 VÙNG ĐẤT NAM BỘ VIII THIẾT CHẾ QUẢN LÝ XÃ HỘI

một số lấy vợ, lấy chồng về ở cùng nhà với bố mẹ, trong đó có những
người đã có con - thế hệ thứ IV. Tạo thành cấu trúc phum lúc này vừa
có gia đình lớn ba thế hệ và các gia đình nhỏ, trong đó có cả gia đình
nhỏ khiếm khuyết và mở rộng.
Khi ông bà Thạch Tiêng và Thạch Thị Còn lần lượt qua đời, gia
đình lớn của vợ chồng người con gái út tái lập gia đình nhỏ đầy đủ. Rồi
người chồng đi xuất cảnh, nhưng hai vợ chồng không ly dị nhau, người
con gái lấy chồng, có con nhưng vẫn ở chung với mẹ cùng anh và em
trai, gia đình này lại tái lập gia đình lớn có ba thế hệ, trong đó ở thệ hệ
bố mẹ chỉ có mẹ, còn bố ở nơi khác.

Sơ đồ 12: Cấu trúc phum Tà Tiêng, Dậy Còn

- Thế hệ I: Ông Thạch Tiêng lấy bà Thạch Thị Còn. Hai ông bà có
10 công đất ở, 14 công ruộng, do gia đình hai bên bố mẹ chia cho, có 9
người con 2 con trai và 7 con gái.
- Thế hệ II: 9 người, 2 nam và 7 nữ.
1- Ông Thạch Trịch (73 tuổi) lấy vợ là bà Thái Thị Thơi (70 tuổi)
PHỤ LỤC 547

ra ở riêng ngoài phum, được chia 10 công ruộng. Ông bà có 7 người


con, 3 con trai và 4 con gái, trong đó người con gái út lấy chồng về ở
cùng với bố mẹ, còn những người khác khi xây dựng gia đình đều ra
ở riêng trên phần đất ruộng được bố mẹ chia.
2- Thạch Thị Savết (71 tuổi) lập gia đình với ông Thạch Pu (84 tuổi)
về cư trú trong phum, được chia 1 công đất ở và 10 công ruộng. Bà và
ông có 8 người con, 6 con trai và 2 con gái, trong đó người con trai thứ 7
lấy vợ về ở chung với cha mẹ cùng 1 con trai, 2 người con trai khác đang
đi tu, còn những người con khác của ông bà đã xây dựng gia đình và ở
riêng ngoài phum.
3- Thạch Thị Sôốt lấy chồng (gia đình không nhớ tên chồng của
bà Sôốt) và về ở bên nhà chồng, được chia 10 công ruộng, có 2 con gái.
4- Thạch Thị Sang lấy chồng (gia đình không nhớ tên chồng của
bà Sang) về ở bên nhà chồng, được chia 10 công ruộng, có 5 người con.
5- Thạch Thị Cheo lấy chồng là Thạch Phol, ở riêng trong phum,
được chia 1 công đất ở, 10 công ruộng, có 8 người con, 4 con trai và 4
con gái trong đó người con trai út chưa lấy vợ đang ở chung với bố mẹ,
còn những người khác đã xây dựng gia đình và ra ở ngoài phum.
6- Thạch Thị Thái lấy chồng (gia đình cũng không nhớ tên
chồng của bà Thái) về ở bên nhà chồng, được chia 10 công ruộng,
có 5 người con.
7- Thạch Thị Nguyệt lấy chồng là Thạch Sol, ở riêng trong phum,
được chia 1 công đất ở, 10 công ruộng, có 4 con trai đều chưa xây dựng
gia đình, đang ở chung với bố mẹ.
8- Thạch Vy Chít lấy vợ là Kim Thị Thảo, ở riêng trong phum, được
chia 1 công đất ở, 10 công ruộng, có 3 người con. Trong đó 2 con trai
chưa xây dựng gia đình, ở chung với bố mẹ. Người con gái đầu lấy chồng
về ở riêng trên phần đất ở của bố mẹ trong phum, được chia 5 công
ruộng, có 3 người con, nay đã ly dị chồng, chỉ còn 4 mẹ con ở với nhau.
548 VÙNG ĐẤT NAM BỘ VIII THIẾT CHẾ QUẢN LÝ XÃ HỘI

9- Thạch Thị Chông lấy chồng là Thạch Vàng về ở chung nhà với
bố mẹ. Ngoài căn nhà và 2 công đất ở, cũng được chia 10 công ruộng
như những người con khác. Ông bà có 3 người con, đều đang ở chung
với cha mẹ, trong đó người con gái đã lấy chồng là Kim Vy Chít và đã có
1 con gái. Như vậy, xét theo các cặp hôn nhân, đây là loại hình gia đình
lớn gồm ba thế hệ.
- Thế hệ III:
Tất cả các thành viên: III.1, 2, 3, 5, 8, 9, 10, 11, 12, 13, 14, 15 đều đã
xây dựng gia đình và ra ở ngoài phum, theo chồng hay theo vợ hoặc cư
trú trên phần đất ruộng được chia hoặc mua đất ở ngoài phum.
Hai thành viên III.4 là Thạch Kha là sư cả, III.6 là Thạch Vy Sách là
sư cả nhì đang tu và trụ trì tại chùa ấp Ô Trom.
Thành viên III.7 là Thạch Sa Mết lấy vợ về ở chung nhà với bố mẹ
là bà Thạch Thị Savết và ông Thạch Pu, đã có 1 con trai, hình thành gia
đình lớn ba thế hệ.
Thành viên III.16 là Thạch Săm Rắt chưa xây dựng gia đình, đang ở
chung với bố mẹ là bà Thạch Thị Cheo và ông Thạch Phol, hình thành
gia đình lớn có hai thế hệ.
Các thành viên: III.17 Thạch Phương, III.18 Thạch Phước, III.19
Thạch Phúc, III.20 Thạch Si Phan đều chưa xây dựng gia đình đang ở
cùng với bố mẹ là bà Thạch Thị Nguyệt và ông Thạch Sol, hình thành
gia đình lớn với hai thế hệ.
Thành viên III.21 là Thạch Thị Thanh lấy chồng về làm nhà ở
riêng trong phum, trên phần đất được chia của bố mẹ là ông Thạch Vy
Chít và bà Kim Thị Thảo, có 3 người con và 5 công ruộng. Hiện nay,
hai vợ chồng đã ly dị, chồng là giáo viên tiểu học hiện ở nhà tập thể
của trường, còn chị Thạch Thị Thanh ở với 3 con, hình thành gia đình
nhỏ khiếm khuyết.
PHỤ LỤC 549

Các thành viên: III.22 Thạch Ngọc Thắng, III.23 Thạch Ngọc
Chiến đều chưa xây dựng gia đình, đang ở với bố mẹ là ông Thạch
Vy Chít và bà Kim Thị Thảo, hình thành gia đình nhỏ hoàn chỉnh
gồm hai thế hệ.
Các thành viên: III.24 Thạch Ngọc Đông, III.26 Thạch Ngọc Châu
đều chưa xây dựng gia đình và ở với mẹ; III.25 Thạch Thị Ngọc Em lấy
chồng là Kim Vy Chít có 1 con gái, được chia 8 công ruộng nhưng vẫn
ở chung với cha mẹ cùng anh trai Thạch Ngọc Đông và em trai Thạch
Ngọc Châu hình thành gia đình lớn gồm ba thế hệ.
- Thế hệ IV: Tất cả các thành viên: IV.1, 2, 3, 4, 5 đều còn nhỏ và
đang ở cùng với bố mẹ.
Như vậy, tại thời điểm khảo sát, phum Tà Tiêng, Dậy Còn có 6 gia
đình, gồm: 2 gia đình lớn, 3 gia đình nhỏ hoàn chỉnh (đầy đủ), 1 gia
đình nhỏ khiếm khuyết. Cụ thể như sau:
- Gia đình lớn của bà Thạch Thị Savết (71 tuổi) và ông Thạch Pu (84
tuổi) gồm ba thế hệ và có 5 nhân khẩu.
- Gia đình lớn của chị Thạch Thị Chông và anh Thạch Vàng gồm
ba thệ hệ với 6 nhân khẩu. Đây chính là gia đình gốc từ ông bà Thạch
Tiêng - Thạch Thị Còn lập nên phum và trải qua nhiều lần chuyển
hóa. Khi các con có gia đình và ra ở riêng, ông bà Thạch Tiêng -
Thạch Thị Còn ở với người con gái út là chị Thạch Thị Chông, thành
gia đình nhỏ đầy đủ. Khi chị Thạch Thị Chông lấy chồng về ở với bố
mẹ và có con, gia đình của ông bà Thạch Tiêng - Thạch Thị Còn lại
tái lập gia đình lớn. Rồi ông bà Thạch Tiêng - Thạch Thị Còn mất
đi, gia đình chị Thạch Thị Chông và anh Thạch Vang lại chuyển hóa
thành gia đình hạt nhân đầy đủ. Đến khi người con gái của họ lấy
chồng và có con ở chung với bố mẹ lại hình thành nên gia đình lớn
gồm ba thế hệ, 7 nhân khẩu.
550 VÙNG ĐẤT NAM BỘ VIII THIẾT CHẾ QUẢN LÝ XÃ HỘI

- Gia đình nhỏ đầy đủ của bà Thạch Thị Cheo và ông Thạch Phol và
đứa con trai út chưa lập gia đình.
- Gia đình nhỏ đầy đủ của chị Thạch Thị Nguyệt và anh Thạch Sol
cùng 4 người con chưa lập gia đình.
- Gia đình nhỏ đầy đủ của anh Thạch Vy Chít và chị Kim Thị Thảo
cùng 2 con trai chưa lập gia đình ở cùng.
- Gia đình nhỏ khiếm khuyết của chị Thạch Thị Thanh với 3 con
chưa lập gia đình, chồng đã ly dị.

Sơ đồ 13: Phum Tà Tiêng, Dậy Còn


(các gia đình đang ở trong phum)

Ví dụ 2: Khảo sát cấu trúc phum Tà Hoạt ở ấp Kosala, xã Thanh Sơn.


Ông Kim Hoạt có 7 người con (4 con gái và 3 con trai), 5 người
đã xây dựng gia đình, trong đó 4 người con sau khi lập gia đình đã
tách ra ở riêng làm nhà cư trú trong khuôn viên của phum, gần cha
mẹ, người con gái thứ 5 lấy chồng về ở chung nhà với bố mẹ và 2 em
nhỏ chưa kết hôn.
PHỤ LỤC 551

Sơ đồ 14: Cấu trúc phum Tà Hoạt

- Thế hệ I: Ông Kim Sao kết hôn với bà Kim Thị Chine có 2 con trai
là Kim Hoạt và Kim Men.
- Thế hệ II: II.1 ông Kim Hoạt kết hôn với bà Thạch Thị Sang cư trú
trong phum, có 7 người con (4 con gái và 3 con trai); II.2 ông Kim Men
lấy vợ là bà Kim Thị Hoan, ra khỏi phum, cư trú bên nhà vợ.
- Thế hệ III: III.1 chị Kim Thị Sa Khum lấy chồng về cư trú trong
phum, có 3 con trai; III.2 anh Kim Oanh Na lấy vợ về cư trú trong phum,
có 3 người con (2 con trai và 1 con gái); III.3 anh Kim Quất Tha lấy vợ
về cư trú trong phum, có 1 con trai; III.4 anh Kim Skhun The lấy vợ về
cư trú trong phum, có 1 con trai; III.5 chị Kim Thị Sa Khăng lấy chồng
về cư trú trong phum, ở chung với ông bà Kim Hoạt - Thạch Thị Sang;
III.6 Kim Thị Sô Khây và III.7 Kim Thị Sô Khôn chưa lập gia đình ở với
bố mẹ và vợ chồng chị Kim Thị Sa Khăng.
552 VÙNG ĐẤT NAM BỘ VIII THIẾT CHẾ QUẢN LÝ XÃ HỘI

- Thế hệ IV: Tất cả các thành viên IV.1, 2, 3 (con của III.1), IV.4, 5, 6
(con của III.2), IV.7 (con của III.3), IV.8 (con của III.4) đều còn nhỏ ở
với bố mẹ.
Như vậy, trong phum Tà Hoạt có 5 gia đình thành viên. Trong đó
các gia đình: III.1 của chị Kim Thị Sa Khum cùng chồng và 3 con trai;
III.2 của anh Kim Oanh Na cùng vợ và 2 con trai, 1 con gái; III.3 của
anh Kim Quất Tha cùng vợ và 1 con trai; III.4 của anh Kim Skhun The
cùng vợ và 1 con trai, là những gia đình hạt nhân đầy đủ; còn gia đình
III.5 của chị Kim Thị Sa Khăng cùng chồng ở chung với bố mẹ là ông
bà Kim Hoạt - Thạch Thị Sang và 2 em là Kim Thị Sô Khây, Kim Thị Sô
Khôn là loại hình gia đình lớn (gia đình phức hợp, gia đình không phân
chia). Gia đình này có xu hướng hạt nhân hóa khi vợ chồng chị Kim
Thị Sa Khăng tách ra ở riêng thành một gia đình hạt nhân, ông bà Kim
Hoạt - Thạch Thị Sang ở với 2 con chưa lập gia đình lại sẽ trở thành một
gia đình hạt nhân. Khi một trong 2 người con gái (giả sử cô Kim Thị
Sô Khây) lấy chồng về ở chung thì sẽ trở lại mô hình gia đình phức hợp
(mang tính trung gian). Đến lượt vợ chồng cô Kim Thị Sô Khây tách ra
ở riêng, còn lại ông bà Kim Hoạt - Thạch Thị Sang sống với cô út Kim
Thị Sô Khôn sẽ trở lại thành một gia đình hạt nhân. Khi cô út Kim Thị
Sô Khôn lấy chồng về ở chung với bố mẹ thì đây lại là mô hình gia đình
phức hợp kéo dài cho đến khi ông bà Kim Hoạt - Thạch Thị Sang qua
đời và có thể sẽ có ba thế hệ khi vợ chồng chị Kim Thị Sô Khôn có con.
Trong phum này, khi các thành viên thế hệ thứ IV xây dựng gia
đình thì lại tái lập mô hình gia đình phức hợp mang tính trung gian và
quá trình hạt nhân hóa lại bắt đầu.

Phụ lục III

Trong các cuộc phỏng vấn và điều tra, hầu hết những người được
hỏi đều cho biết là khi con cái lớn lên xây dựng gia đình, bố mẹ chia
PHỤ LỤC 553

ruộng đất, tài sản cho các con đều như nhau mà không có sự phân biệt
nào giữa con trai hay con gái, cả hay thứ. Xin đưa ra ví dụ phum Tà
Tiêng, Dậy Còn (nêu trên Phụ lục II): Ông Thạch Tiêng và bà Thạch
Thị Còn có 9 người con (2 con trai và 7 con gái). Khi các con xây dựng
gia đình, ông bà đều cho mỗi người con 10 công ruộng, không phân biệt
trai hay gái, cả hay thứ. Những người con ở lại trên đất phum thì được 1
công đất ở, riêng người con gái út mà lúc về già ông bà ở cùng thì được
thêm 1 công đất ở và ngôi nhà của ông bà.

Phụ lục IV

Những điều tra và thống kê về quá trình phát triển dân số đã phản
ánh khá rõ về chức năng tái sản xuất con người của gia đình người
Khmer đồng bằng sông Cửu Long. Tuy là cư dân có quá trình cư trú lâu
đời ở Nam Bộ, nhưng chỉ từ khi thực dân Pháp chiếm Nam Bộ mới có
các số liệu thống kê về dân số của người Khmer. Theo số liệu điều tra
của Pháp khi mới tới Nam Bộ, từ năm 1862 đến năm 1888, dân số người
Khmer có 151.367 người; đến năm 1895, dân số người Khmer tăng lên
170.488 người. Đầu thế kỷ XX (năm 1925), dân số người Khmer là
292.000 người và đến năm 1936 là 326.000 người. Theo số liệu thống kê
của chính quyền Sài Gòn, năm 1960, dân số người Khmer có 381.000
người trong tổng số 13.789.300 người ở miền Nam khi đó. Năm 1972,
dân số người Khmer tăng lên 646.591 người.
Sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng (năm 1975), cuộc điều
tra dân số của Nhà nước ta năm 1976 cho biết dân số người Khmer là
652.000 người. Năm 1979, dân số người Khmer tăng nhanh lên 729.068
người; đến năm 1989 là 872.400 người, trong đó có 417.500 nam và
454.900 nữ.
554 VÙNG ĐẤT NAM BỘ VIII THIẾT CHẾ QUẢN LÝ XÃ HỘI

Qua các số liệu trên có thể thấy sau hơn 100 năm, từ năm 1862 đến
năm 1972, dưới sự thống trị của chủ nghĩa thực dân cũ và mới, dân số
người Khmer chỉ tăng khoảng 495.224 người, trong khi đó sau 14 năm
giải phóng (1975 - 1989), dân số người Khmer tăng 220.400 người. Sự
tăng nhanh dân số của người Khmer sau ngày miền Nam giải phóng
phản ánh tỷ lệ tăng dân số tự nhiên (tỷ lệ sinh so với tỷ lệ tử) phát triển
với tốc độ khá nhanh của người Khmer trong điều kiện kinh tế - xã hội
được phát triển.
Tìm hiểu sâu vào tỷ lệ tăng tự nhiên về dân số của người Khmer
cho thấy một hiện tượng là nơi nào có điều kiện kinh tế - xã hội
phát triển, đời sống sung túc thì nơi đó có tỷ lệ sinh tăng và tỷ lệ
tử giảm, do đó tỷ lệ tăng tự nhiên cao; nơi nào còn khó khăn, lạc
hậu thì tỷ lệ tử cao, và do đó, tỷ lệ tăng tự nhiên thấp. Điều này thể
hiện rõ qua số liệu điều tra ở huyện Long Phú, tỉnh Hậu Giang (cũ)
năm 1984:

Bảng 23: Động thái dân số ở huyện Long Phú tỉnh Hậu Giang
(cũ) năm 1984

Tỷ lệ Tỷ lệ Tỷ lệ (‰) tăng
STT Đơn vị
Sinh (‰) tử (‰) tự nhiên
I Toàn huyện 34,14 6,48 27,66
Thị trấn Long Phú 29,2 3,52 25,68
II Nông thôn 34,43 6,66 27,77
1 Long Phú 31,26 3,35 27,91
2 Trung Bình 37,15 11,7 25,45
3 Lịch Hội Thượng 37,13 14,3 22,83
4 Liêu Phú 37,14 8,08 29,06

Nguồn: Đinh Văn Liên: Động thái dân số tộc người của các dân tộc ít người ở
Nam Bộ Việt Nam, Luận án Phó tiến sĩ khoa học lịch sử, Viện Khoa học xã hội tại
Thành phố Hồ Chí Minh, 1994, tr.75-107.
PHỤ LỤC 555

So sánh các tỷ lệ trên giữa các đơn vị cho thấy: Ở xã Lịch Hội
Thượng, nơi đời sống kinh tế còn nhiều khó khăn, tỷ lệ sinh là 37,13‰
và tỷ lệ tử là 14,3‰ tỷ lệ tăng tự nhiên là 22,83‰, còn ở thị trấn Long
Phú, tỷ lệ sinh là 29,2‰, tỷ lệ tử chỉ là 3,52‰ nên tỷ lệ tăng tự nhiên là
25,08‰.
Trường hợp số liệu điều tra ở huyện Trà Cú, tỉnh Trà Vinh (tỉnh
Cửu Long cũ) cũng phản ánh một tình hình tương tự. Tại 5 xã có hơn
70% dân số là người Khmer là Thanh Sơn, Đôn Xuân, Long Hiệp, Tân
Hiệp và Ngọc Biên có tỷ lệ sinh tương đương với vùng thị trấn là 31,6‰
và 31,7‰, nhưng lại có tỷ lệ tử là 6,45‰, cao gấp đôi vùng thị trấn trung
bình là 3,9‰1.

Phụ lục V

Qua tài liệu điều tra dân tộc học cho thấy xã hội người Khmer ở
đồng bằng sông Cửu Long có nhiều đặc điểm khác biệt so với người
Việt và người Hoa cùng cư trú trong vùng. Những yếu tố xã hội đặc
trưng được thể hiện khá sâu sắc trong mối quan hệ thân tộc, hôn nhân
và gia đình.
Bên cạnh những yếu tố đặc trưng của xã hội truyền thống của mình,
trải qua ba thế kỷ cùng cộng cư, giao lưu, tiếp xúc với ba dân tộc Việt,
Hoa và Chăm, đồng thời do tác động của các chính sách cai trị của các
triều Nguyễn và sau đó là các chính quyền thực dân cũ và mới, người
Khmer đã chịu ảnh hưởng sâu đậm về nhiều mặt, trong đó có quan hệ

1. Xem Đinh Văn Liên: Động thái dân số tộc người của các dân tộc ít người ở
Nam Bộ Việt Nam, Luận án Phó tiến sĩ khoa học lịch sử, Viện Khoa học xã hội tại
Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh, 1994, tr. 75-107.
556 VÙNG ĐẤT NAM BỘ VIII THIẾT CHẾ QUẢN LÝ XÃ HỘI

dòng họ, hôn nhân và gia đình. Đề cập về vấn đề này các tác giả Đinh
Văn Liên và Đỗ Khắc Tùng đã lý giải ít nhiều có sức thuyết phục.
Trước khi nhà Nguyễn thiết lập bộ máy hành chính ở đồng bằng
sông Cửu Long, người Khmer ở đây không có họ như người Việt mà
theo nguyên tắc phụ tử liên danh lấy tên cha đặt làm họ. Tên riêng thì
lấy những chữ tốt đẹp, trong một gia đình tuy ông cháu trùng tên mà
không kiêng cữ. Ví dụ: Cha là Uôn Tiêm, con tên là Tiêm Phel và cháu
là Phel Sóc.
Sau khi lên ngôi năm 1802, vua Gia Long bắt đầu thiết lập và củng
cố cơ cấu chính quyền triều Nguyễn. Kế tiếp sau đó, các vua Minh
Mạng, Thiệu Trị... đều tăng cường thiết lập bộ máy hành chính địa
phương để quản lý dân cư thu tô thuế, đặt cư dân Khmer và Việt vào
vòng kiểm soát của Nhà nước. Để tiện cho việc kiểm tra hộ khẩu,
quản lý cư dân nhà Nguyễn buộc người Khmer ở đồng bằng sông
Cửu Long phải mang một trong năm họ sau: Thạch, Lâm, Sơn, Kim,
Danh. Mặc dù vậy, vào thời điểm này, sắc chỉ trên đến được vùng
tả ngạn sông Hậu. Hệ thống năm họ này được ưu tiên phân bố ở
các vùng Trà Cú, Vũng Liêm, Tiểu Cần... của tỉnh Trà Vinh và Vĩnh
Long. Đây là vùng đất được khai phá sớm, nhiều nơi triều đình nhà
Nguyễn đã thiết lập một bộ máy chính quyền vững chắc, đây cũng là
nơi có nhiều cư dân Khmer và Việt cư trú lâu đời. Vào những thế kỷ
sau, để trốn tránh các chính sách sưu thuế hà khắc của triều đình nhà
Nguyễn, dân Khmer và dân Việt đã vượt sông Hậu sang khai khẩn và
sinh sống ở những nơi đất mới thuộc vùng Sóc Trăng, Bạc Liêu thuộc
tỉnh Sóc Trăng, Cần Thơ và vùng Minh Hải hiện nay. Tại đây, họ gặp
gỡ những người Hoa mà nguồn gốc đa số là người Triều Châu và
Quảng Đông. Do cùng chung số phận của những người khẩn hoang
nghèo khổ, cư dân ba dân tộc này đã dễ dàng hòa đồng, thông cảm
và giúp đỡ lẫn nhau. Hôn nhân hỗn hợp giữa các dân tộc ngày càng
nhiều, dẫn đến sự xuất hiện các họ Việt và Hoa ở cả cư dân Khmer lai
và cư dân thuần Khmer.
PHỤ LỤC 557

Tài liệu điều tra 351 hộ gia đình người Khmer ở khóm 5, phường 5, thị
xã Sóc Trăng cho thấy, chỉ có 137 hộ còn mang 5 họ trên: họ Thạch: 64
hộ, họ Lâm: 27 hộ, họ Sơn: 21 hộ, họ Danh: 15 hộ, họ Kim: 10 hộ. Còn
lại 214 hộ gia đình người Khmer có họ du nhập từ các họ của người
Việt hay người Hoa. Căn cứ vào số hộ và hệ thống họ thì số họ lai lên tới
2/3 tổng số hộ gia đình người Khmer ở khóm 5, không kể những hộ gia
đình người Việt và Hoa. Vùng Đại Tâm, Phú Mỹ cách thị xã Sóc Trăng
không xa, trước đây người Pháp gọi là vùng người lai. Đến thời Mỹ -
ngụy, chủ nghĩa thực dân mới và bọn tay sai với âm mưu đồng hóa và
không công nhận người Khmer là một dân tộc ít người, cùng với chính
sách dồn dân và bước đầu hình thành những thị trấn và đô thị nhỏ tư
bản chủ nghĩa trên toàn vùng đồng bằng, đã dẫn đến sự phân hóa xã
hội sâu sắc trong cộng đồng người Khmer. Ở vùng thị trấn và ven thị
trấn, tỷ lệ những gia đình hỗn hợp rất cao, sự lai giữa cư dân các dân
tộc Khmer - Việt - Hoa diễn ra qua nhiều thế hệ, nhưng càng xa khu
chợ, thị trấn, càng đi sâu vào các giồng đất xa xôi thì mức độ lai càng
giảm đi, nhưng hầu như không có cộng đồng phum, sóc Khmer nào mà
lại không có người Việt, người Hoa cư trú và ở đây cũng có những gia
đình hỗn hợp.
Tài liệu điều tra 351 hộ gia đình người Khmer ở khóm 5, phường 5,
thị xã Sóc Trăng cho thấy, ngoài 5 họ chính gốc, còn có sự du nhập
55 họ khác. Trong đó họ lai Việt, lai Hoa chiếm 45%. Các họ lai Việt
như: Nguyễn, Trương, Huỳnh, Đào, Đinh, Bùi, Lê, Đỗ, Võ, Phan, Hoàng
chiếm tỷ lệ 18%; họ lai Hoa gồm: Triệu, Lý, Trần, Hứa, Ngô, Liêu, Dương,
Hàng, Thái, Điền, Cao, Hà, Quách, Kha, Tạ, Giảng, Trang, Tô, Vương,
Lan, Lưu, Bành, Tăng, Mã chiếm tỷ lệ 27%.
Cũng cần lưu ý một điều là sự phân biệt giữa họ lai Việt và lai Hoa
là tương đối, dựa trên cơ sở tự khai dân tộc trong bảng hộ khẩu và tính
phổ biến của các họ thuộc dân tộc nào. Bởi vì, trong thực tế những
558 VÙNG ĐẤT NAM BỘ VIII THIẾT CHẾ QUẢN LÝ XÃ HỘI

trường hợp như các họ Triệu, Lý, Trần... đều phổ biến ở hai dân tộc Việt
và Hoa.
Bên cạnh những họ chính của người Khmer chiếm 40%, họ lai Việt,
lai Hoa chiếm 45%, ở vùng biên giới chúng ta còn thấy các họ từ địa
phương khác du nhập tới như Préas, Uôn, Pôn... là dấu vết của một loại
hình phụ tử liên danh không chặt chẽ và đã biến dạng. Đó là loại hình
họ mà con cháu có thể lấy tên ông nội, ông ngoại, chú, bác làm họ chính
của mình nếu người đó được thừa nhận làm trưởng tộc theo quy định
năm 1911 của Vua Norodom ở Campuchia, trong việc điều tra dân số.
Thuộc vào loại này còn có các họ Châu hay Chao, Néang hay Nương
(được Việt hóa) là những họ chính của vùng Vọng Thê, Tri Tôn (An
Giang) du nhập xuống, nhưng không đáng kể.
Tài liệu điều tra cũng ghi nhận được những họ lạ, ít và đặc biệt gồm
họ Chiêm, Ong, La, Hữu, Tuy, Kiêm, Phản, Tè..., chiếm khoảng 7%.
Ngoài ra, ở đây còn có những họ mà nguồn gốc không phải là họ, nó
hình thành trong một giai đoạn lịch sử nào đó với sự tác động cưỡng
bức của chính quyền thực dân phong kiến mà ngày nay trong cộng đồng
người Khmer ở Sóc Trăng có như: Danh, Thị, Chao, Néang, Trà, Hai.
Trong đó, Danh, Thị là danh xưng để chỉ ngôi thứ ba số ít như Danh
Sơn, Thị Nở, nghĩa là “thằng Sơn”, “con Nở”, là hai tiếng gọi kiểu dân dã
hoặc biểu lộ sự thiếu kính trọng. Chao, Néang là tiếng gọi Khmer, Trà
(hay là Tà) tiếng Khmer có nghĩa là ông, Hai là tên gọi thứ cả phổ biến
ở vùng người Việt Nam Bộ, tất cả những tiếng đó đều trở thành họ của
người Khmer.
Trên đây là những đặc điểm mà chúng ta nhận thấy được qua hệ
thống các họ của người Khmer ở các tỉnh Vĩnh Long, Trà Vinh, Cần
Thơ, Sóc Trăng, nghĩa là từ vùng trung châu thổ đến duyên hải ở đồng
bằng sông Cửu Long.
Từ vùng trung châu thổ lên đến biên giới Campuchia thuộc tỉnh
An Giang, người Khmer cư trú đông ở các huyện: Tri Tôn, Tịnh Biên,
PHỤ LỤC 559

Huệ Đức, Châu Thành. Trước đây, người Khmer ở vùng này không
có họ. Tháng 2 năm Quý Mùi (1823), Lê Văn Duyệt xin vua Minh
Mạng đặt tên cho các chánh đội, đội trưởng người Khmer. Đến cuối
năm 1839, một số sắc lệnh của Minh Mạng buộc đồng bào Khmer cư
trú trong các huyện thuộc các vùng An Giang và Hà Tiên đều được
đặt họ tên như người Hoa và thuộc về các huyện người Hoa quản trị.
Sự kiện này đã gây những khó khăn nhất định trong việc tìm hiểu
họ của người Khmer. Nhưng hầu như sự áp đặt của chính quyền
phong kiến nhà Nguyễn chỉ được thực thi trên giấy tờ, trên sổ thuế
và đối với một thiểu số nào đó, còn đại đa số nhân dân vẫn gọi tên
họ theo tập quán và tiếng địa phương. Dựa vào tài liệu điều tra dân
số của năm 1976, chúng ta thấy hệ thống tên gọi của người Khmer
vùng Tri Tôn, Châu Thành (An Giang) ngoài những gia đình có họ
lai, còn phổ biến là họ Chau và Néang. Chau tiếng Khmer có nghĩa
là “chàng”, còn Néang có nghĩa là nàng. Đây là quá trình từ tiếng
để gọi biến thành họ và được sử dụng làm họ thực thụ của người
Khmer vùng này. Ở đây ta thấy có sự biến âm từ Chau thành Chao
hay Châu, và Néang thành Neong hay Nương. Điều tra về hệ thống
tên họ ở ba ấp Tân Tây, Tân Hiệp A và Trung Sơn thuộc xã Vọng Thê,
huyện Châu Thành, tỉnh An Giang, cho thấy người Khmer sử dụng
họ cho mình và việc đặt tên họ cho con cháu chưa đi vào nền nếp và
chưa đảm bảo nguyên tắc tối thiểu thông thường. Chẳng hạn, theo
nguyên tắc, Chau (chàng) chỉ đặt họ cho phái nam, Néang (nàng) chỉ
dành cho phái nữ. Trong những nguyên tắc chung về họ của người
Khmer có bao gồm nguyên tắc biệt phái (phân biệt giới tính) mà
thông thường là những chức năng của tiếng đệm. Đáng lẽ, nếu cha
là Chau Uynh, mẹ là Néang Chiêm, thì con trai là Chau Tha, con gái
là Néang Sóc Thi. Nhưng người Khmer lại sử dụng một cách lẫn lộn
trong việc đặt họ cho con trai và con gái, như đặt họ Chau cho con
gái, và trong một gia đình khi thì đặt họ Chau khi thì đặt họ Néang
560 VÙNG ĐẤT NAM BỘ VIII THIẾT CHẾ QUẢN LÝ XÃ HỘI

không thống nhất. Điều này vẫn xảy ra khá nhiều và vẫn còn tồn tại
trong việc đặt họ cho các thế hệ gần đây nhất.
Ở vùng giáp biên giới còn xuất hiện những họ lạ như: Panh, Xoth,
Núth, Pem, Xanh, Uôn, Bình, Tưng, Xum, Nên..., như đã trình bày,
những họ này mang dấu vết của loại hình phụ tử liên danh và các họ
này du nhập từ bên ngoài vào.
Khác với các tỉnh Trà Vinh, Vĩnh Long, Sóc Trăng, Cần Thơ ở tỉnh
Kiên Giang, vùng biên giới giáp Campuchia, đa số (khoảng 90%) người
Khmer mang tên họ Danh (nam) và Thị (nữ).
Theo các vị sư chùa Dom Melchei (chùa Phật Lớn) ở thị xã Rạch Giá
và chùa Klang Mương ở huyện Châu Thành (An Giang) thì ngày xưa
người Khmer tụ cư đông đảo quanh tòa hành chánh cũ của huyện Châu
Thành - Rạch Giá. Khi thực dân pháp đánh chiếm thì người Khmer
chạy đi tứ tán khắp nơi, lớp chạy về Gò Quao, Giồng Riềng, lớp chạy lên
Hà Tiên. Đến khi kiểm kê dân số, thực dân Pháp bắt buộc người Khmer
dù trước đó có họ gì thì cũng phải mang hai họ Danh cho nam và Thị
cho nữ. Từ đó trở đi người Khmer chính gốc vùng Kiên Giang đàn ông
có họ là Danh, đàn bà có họ là Thị. Ngoài ra, ở huyện Châu Thành có
một số họ Thạch, Lâm, Sơn du nhập với số lượng không đáng kể. Ở
vùng Rạch Giá, Châu Thành nơi người Hoa và Việt cư trú lâu đời bên
cạnh người Khmer nên xuất hiện các họ Hoa, Việt khá đông.
Nhìn lại, trên toàn bộ đồng bằng sông Cửu Long các họ chính của
người Khmer được phân bố như sau:
- Ở các vùng Vũng Liêm, Trà Cú, Châu Thành của tỉnh Trà Vinh,
và các huyện khác thuộc các tỉnh Sóc Trăng, Vĩnh Long, Cần Thơ phổ
biến mang năm họ chính là Thạch, Lâm, Sơn, Kim, Danh.
- Vùng Vọng Thê, Tri Tôn thuộc tỉnh An Giang phổ biến mang họ
Chau, Néang.
PHỤ LỤC 561

- Ở Rạch Giá, Châu Thành thuộc tỉnh Kiên Giang họ chủ yếu là
Danh và Thị.
Từ việc nghiên cứu nguồn gốc họ của người Khmer ở đồng bằng
sông Cửu Long cho chúng ta thấy rằng, sự hiện diện của các loại tên họ
của người Khmer một phần lớn do sự áp đặt của chính quyền phong
kiến thực dân, một số khác do sự hôn nhân hỗn hợp của các dân tộc
Khmer - Việt, Khmer - Hoa hình thành họ lai, một số họ do người
Khmer vay mượn tên họ Hoa, Việt trong quá trình cộng cư, tiếp xúc.
Ngoài ra có một số họ khác có nguồn gốc từ một loại hình phụ tử liên
danh và một số có nguồn gốc là những tiếng gọi (Danh, Thị, Chau,
Néang).
Do sự áp đặt cưỡng bức của chính quyền phong kiến thực dân; mặt
khác, do chịu ảnh hưởng của hai dân tộc Việt và Hoa là những cư dân
theo chế độ phụ hệ, nên khi con cái sinh ra người Khmer thường đặt
theo họ cha khi làm giấy khai sinh và kê khai hộ tịch, hộ khẩu công dân.
Hiện nay, theo pháp luật người Khmer lấy họ theo họ cha. Nhưng trong
quan hệ xã hội truyền thống của người Khmer thể hiện trong quan hệ
dòng họ, hôn nhân và gia đình thì tên họ chỉ đơn thuần là một hình
thức pháp lý, chưa có ý nghĩa nào trong việc hình thành một tộc họ theo
phụ hệ như người Việt, người Hoa cũng như một tộc họ theo mẫu hệ
như người Chăm.

Phụ lục VI

Cấu trúc hệ thống thân tộc của người Khmer ở đồng bằng sông
Cửu Long được biểu diễn bằng sơ đồ loại hình thân tộc và bảng hệ
thống thuật ngữ thân tộc dưới đây:
562 VÙNG ĐẤT NAM BỘ VIII THIẾT CHẾ QUẢN LÝ XÃ HỘI

Sơ đồ 15: Loại hình thân tộc Khmer

Bảng 24: Hệ thống thuật ngữ thân tộc người Khmer


đồng bằng sông Cửu Long

Thuật ngữ
Ký hiệu tiếng Anh Chú thích
Khmer
Chita FaFa = MoFa Cha của cha hay cha của mẹ
Chiđuône FaMo = MoMo Mẹ của cha hay mẹ của mẹ
FaSi+ = MoSi+ = FaBr+Wi Chị gái của cha hay mẹ hay vợ của
Mđay thum
= MoBr+ Wi anh trai của cha hay mẹ
FaSi_ = MoSi_ = FaBr_Wi Em gái của cha hay mẹ hay vợ của
Ming
= MoBr_ Wi em trai của cha hay mẹ
FaBr = MoBr = FaSi Hu Anh trai của cha hay mẹ hay chồng của
+ + +

Aupuk thum
= MoSi+Hu chị gái của cha hay mẹ
FaBr = MoBr = FaSi Hu Em trai của cha hay mẹ hay chồng của
_ _ _

Pu
= MoSi_ Hu em gái của cha hay mẹ
Mđay Mo Mẹ
Aupuk Fa Cha
Boong Br+ = Si+ Anh hay chị ruột
Ôn Br = Si
- -
Em ruột
Con trai (gái) của anh em (chị em)
Boong (Chi đônFa ( M o ) B r + _ ( S i + _ ) S o +
của cha hay mẹ mà lớn tuổi hơn tôi
mui) (Da+)
(anh, chị họ đời thứ I)
PHỤ LỤC 563

Thuật ngữ
Ký hiệu tiếng Anh Chú thích
Khmer
Con trai (gái) của anh em/chị em của
Fa ( M o ) B r + _ ( S i + _ ) S o _
Ôn (Chi đôn mui) cha hay mẹ mà nhỏ tuổi hơn tôi (em
(Da_)
họ đời thứ I)
Con trai (gái) của anh em (chị em)
Boong (Chi thuộtFa ( M o ) B r + _ ( S i + _ ) S o +
của cha hay mẹ mà lớn tuổi hơn tôi
mui) (Da+)
(anh, chị họ đời thứ II)
Con trai (gái) của anh em (chị em)
Fa(Mo)Br+_(Si+_) So_
Ôn (Chi thuột mui) của cha hay mẹ mà nhỏ tuổi hơn tôi
(Da_)
(em họ đời thứ II)

Phân tích bảng thống kê thuật ngữ thân tộc trên của người Khmer
ở đồng bằng sông Cửu Long, có thể thấy một số đặc trưng sau:
- Thuật ngữ thân tộc của người Khmer không có sự phân biệt giữa
dòng cha và dòng mẹ (hợp xưng nội ngoại).
Nếu lấy Ego (tôi) để gọi thì cha của cha (FaFa) và cha của mẹ (MoFa)
được gọi chung bằng thuật ngữ là Chita, mẹ của cha (FaMo) và mẹ của
mẹ (MoMo) gọi chung bằng thuật ngữ Chiđuône.
Các thuật ngữ để gọi anh chị em của cha và của mẹ cũng không
phân biệt bên cha hay bên mẹ. Chị gái của cha (FaSi+) và chị gái của mẹ
(MoSi+) được gọi chung là Mđay thum và em gái của cha (FaSi_), em gái
của mẹ (MoSi_) gọi chung là Ming. Tương tự, anh trai của cha (FaBr+)
và anh trai của mẹ (MoBr+) gọi chung là Âupuk thum; em trai của cha
(FaBr_) và em trai của mẹ (MoBr_) gọi chung là Pu.
- Trong hệ thống thuật ngữ này cũng gần như không có sự phân
biệt giữa cha mẹ với anh chị em của cha mẹ (hợp xưng trực hệ bàng hệ).
Người Khmer gọi mẹ là Mđay, còn gọi chị gái của mẹ (MoSi+) và chị
gái của cha (FaSi+) là Mđay thum (mẹ lớn). Tương tự, trong khi gọi cha
564 VÙNG ĐẤT NAM BỘ VIII THIẾT CHẾ QUẢN LÝ XÃ HỘI

là Âupuk thì gọi anh trai của cha (FaBr+) và anh trai của mẹ (MoBr+) là
Âupuk thum (cha lớn).
Thuật ngữ gọi các anh chị em họ giống như thuật ngữ gọi các anh
chị em ruột là Boong, nếu lớn tuổi hơn Ego và là Ôn, nếu như nhỏ tuổi
hơn Ego.
- Các thuật ngữ thân tộc Khmer có sự phân biệt theo tương quan
tuổi tác so với cha mẹ của Ego và của chính Ego.
Trong tương quan tuổi tác so với cha mẹ của Ego thì thuật ngữ gọi
chung cho anh trai của cha hay anh trai của mẹ là Âupuk thum khác
với Pu là thuật ngữ gọi chung cho em trai của cha hay em trai của mẹ.
Tương tự, Mđay thum là thuật ngữ gọi chung cho chị gái của cha hay
chị gái của mẹ khác với Ming là thuật ngữ gọi chung cho em gái của cha
hay em gái của mẹ.
Thuật ngữ gọi anh em họ hay anh em ruột cũng dựa theo tương
quan tuổi tác so với Ego. Không phân biệt trai hay gái lớn tuổi hơn
tôi được gọi là Boong và nhỏ tuổi hơn tôi được gọi là Ôn. Chỉ riêng
trong quan hệ do hôn nhân thì phải xưng hô theo vai vế. Chẳng hạn,
tôi phải gọi vợ của anh trai tôi (Br+Wi) là Boong mặc dù người ấy nhỏ
tuổi hơn tôi.
- Trong thuật ngữ thân tộc Khmer cũng không có sự phân biệt quan
hệ hôn nhân (thích tộc). Thuật ngữ để gọi người họ hàng có quan hệ
hôn nhân (thích tộc), giống như thuật ngữ để gọi những bà con huyết
thống (thân tộc) tương ứng.
Người Khmer gọi vợ của anh trai của bố (FaBr+Wi) giống như
đối với chị gái của bố (FaSi+) và chị gái của mẹ (MoSi+) là Mđay thum.
Tương tự, vợ của em trai của bố (FaBr_Wi) được gọi giống như đối với
em gái của bố (FaSi_) và em gái của mẹ (MoSi_) là Ming.
PHỤ LỤC 565

Phụ lục VII

Để nghiên cứu cơ cấu của phum và hình thái cư trú sau hôn nhân,
chúng tôi tiến hành lập biểu xác định mối quan hệ thân tộc giữa các
thành viên dựa trên hai mối quan hệ chính: quan hệ sinh thành (bố mẹ
sinh ra con cái) và quan hệ hôn nhân ở các thế hệ khác nhau. Dựa trên
mối quan hệ chủ yếu này chúng tôi tiến hành thống kê số lượng các
thành viên theo từng thế hệ, các tiểu gia đình được hình thành do quan
hệ hôn nhân (số gia đình hiện có trong phum do con gái lấy chồng về ở
rể, con trai lấy vợ về làm dâu ở trong phum và số con trai trong phum đi
ở rể nơi khác, số con gái trong phum đi làm dâu ở các phum khác). Sau
đây là kết quả khảo sát:
1. Phum Tà Thu, xã An Hiệp, huyện Mỹ Tú, tỉnh Sóc Trăng.
Tổng cộng ba thế hệ có:
Con trai trong phum lấy vợ đi ở rể cư trú bên vợ: 7 rể -
Con gái của phum lấy chồng đi làm dâu cư trú bên chồng: 4 dâu -
Con trai của phum lấy vợ về làm dâu cư trú trong phum: 4 dâu +
Con gái của phum lấy chồng về ở rể cư trú trong phum: 4 rể +
Trong các trường hợp này số con rể và con dâu về cư trú ở phum
bằng nhau (4 - 4).
2. Phum Tà Danh Âm, xã An Hiệp, huyện Mỹ Tú, tỉnh Sóc Trăng.
Tổng cộng bốn thế hệ có:
Con trai trong phum đi làm rể cư trú bên vợ: 1 rể -
Con gái trong phum đi làm dâu cư trú ở nhà chồng: 3 dâu -
Con trai trong phum lấy vợ về làm dâu cư trú trong phum: 2 dâu +
Con gái trong phum lấy chồng về ở rể cư trú trong phum: 5 rể +
Số lượng rể về cư trú trong phum nhiều hơn số lượng dâu về cư trú
trong phum (5-2).
Số lượng con trai trong phum đi ở rể ít hơn số lượng con gái trong
phum đi làm dâu (1-3).
566 VÙNG ĐẤT NAM BỘ VIII THIẾT CHẾ QUẢN LÝ XÃ HỘI

3. Phum Sơn Sen, ấp Thanh Trì Sóc Khnách (ấp Khnách), xã Đa


Lộc, huyện Châu Thành, tỉnh Trà Vinh.
Tổng cộng bốn thế hệ có:
Con trai trong phum đi làm rể cư trú bên vợ: 11 rể -
Con gái trong phum đi làm dâu cư trú bên nhà chồng: 4 dâu -
Con trai trong phum lấy vợ về làm dâu cư trú trong phum: 1 dâu +
Con gái trong phum lấy chồng về ở rể cư trú trong phum: 8 rể +
Số lượng con rể về cư trú trong phum nhiều hơn số lượng con dâu
về cư trú trong phum (8-1).
Số lượng con trai ở phum đi ở rể (ngoài phum) nhiều hơn số lượng
con gái trong phum đi làm dâu ở ngoài phum (11-4).
4. Phum Tà Hoạt, ấp Kôsla, xã Thanh Sơn, huyện Trà Cú, tỉnh
Trà Vinh.
Tổng cộng bốn thế hệ có:
Con trai trong phum lấy vợ đi ở rể cư trú bên vợ: 1 rể -
Con trai trong phum lấy vợ về làm dâu cư trú trong phum: 4 dâu +
Con gái trong phum lấy chồng về ở rể cư trú trong phum: 2 rể +
Số lượng con rể về cư trú trong phum ít hơn số con gái ngoài phum
về làm dâu trong phum (2-4). Trong khi chỉ có 1 con trai trong phum đi
ở rể bên ngoài: (1-0).
5. Phum Tà Cham, ấp Tài Phong, xã Hàm Thuận, huyện Châu
Thành, tỉnh Trà Vinh.
Con trai trong phum lấy vợ đi ở rể cư trú bên vợ: 10 rể -
Con gái trong phum lấy chồng đi làm dâu cư trú bên chồng: 12 dâu -
Con trai trong phum lấy vợ về làm dâu cư trú trong phum: 9 dâu +
Con gái trong phum lấy chồng ở rể cư trú trong phum: 2 rể +
Số lượng con rể về cư trú trong phum ít hơn số lượng con dâu về cư
trú trong phum (2-9).
Số lượng con trai trong phum đi ở rể ít hơn số lượng con gái trong
phum lấy chồng đi cư trú bên chồng (10-12).
PHỤ LỤC 567

6. Phum Xrây Vậy Thơm, ấp Kôsla, xã Thanh Sơn, huyện Trà Cú,
tỉnh Trà Vinh.
Tổng cộng ba thế hệ có:
Con trai trong phum đi làm rể cư trú bên vợ có: 6 rể -
Con gái trong phum đi làm dâu cư trú bên chồng: 5 dâu -
Con trai trong phum lấy vợ về làm dâu cư trú trong phum: 6 dâu +
Con gái trong phum lấy chồng về ở rể cư trú trong phum: 4 rể +
Số lượng con rể về cư trú trong phum ít hơn con dâu về cư trú trong
phum (4-6). Số lượng con trai trong phum đi ở rể nhiều hơn con gái
trong phum đi làm dâu ngoài phum (6-5).
7. Phum Tà Sơn, sóc Bình La, xã Lương Hòa, huyện Châu Thành,
tỉnh Trà Vinh.
Tổng cộng 4 thế hệ gồm có:
Con trai trong phum lấy vợ đi ở rể cư trú bên vợ: 0 rể -
Con gái trong phum lấy chồng đi làm dâu cư trú bên chồng: 3 dâu -
Con trai trong phum lấy vợ về làm dâu cư trú trong phum: 1 dâu +
Con gái trong phum lấy chồng về ở rể cư trú trong phum: 2 rể +
Số lượng dâu, rể về phum cư trú cũng như đi khỏi phum không có
chênh lệch.
Tổng cộng trong 7 phum:

Tổng
Phum 1 2 3 4 5 6 7
cộng
Con trai trong phum lấy vợ đi
cư trú bên vợ (rể -) 7 1 11 1 10 6 0 36 rể -
Con gái trong phum lấy chồng
đi cư trú bên chồng (dâu -) 4 3 4 0 12 5 3 31 dâu -
Con trai trong phum lấy vợ về
cư trú trong phum (dâu +) 4 2 1 4 9 6 1 27 dâu +
Con gái trong phum lấy chồng
về cư trú trong phum (rể +) 4 5 8 2 2 4 2 27 rể +
568 VÙNG ĐẤT NAM BỘ VIII THIẾT CHẾ QUẢN LÝ XÃ HỘI

Kết quả thống kê 7 phum cho thấy:


- Con trai trong phum lấy vợ đi ở rể cư trú bên vợ là 36 người, con
trai ngoài phum về ở rể cư trú trong phum là 27 người (tổng cộng con
rể cả đi lẫn về là 64 người).
- Con gái trong phum lấy chồng đi cư trú bên chồng là 31 người,
con gái ngoài phum về làm dâu trong phum là 27 người (tổng cộng con
dâu cả đi lẫn về là 58 người).

Phụ lục VIII

Trên toàn vùng đồng bằng sông Cửu Long có khoảng 408 ngôi
chùa, mỗi chùa bình quân có 1.600 dân. Ở mỗi sóc của đồng bào Khmer
thường có một chùa, một vài sóc lớn có tới hai chùa (nhưng rất hiếm).
Chùa Khmer thường tọa lạc trên một khu đất rộng, xung quanh chùa
thường trồng những loại cây to như dầu, sao, thốt nốt, tạo thành một
khu rừng nhỏ. Toàn cảnh chùa là một không gian tâm linh mà vào
những ngày thường bao giờ cũng yên tĩnh, thoáng đãng và trầm mặc.
Mỗi ngôi chùa bao gồm nhiều khu vực kiến trúc như: chính điện, sa la,
các dãy nhà tăng, nhà thiêu và các tháp để cốt; trong đó chính điện là
ngôi nhà quan trọng nhất, để thờ phượng Đức Phật, nằm ở giữa khuôn
viên chùa. Chính điện thường được xây cao trên mặt đất khoảng 1 m
và luôn luôn mở cửa chính về hướng đông, vì người Khmer quan niệm
rằng Phật ở phía tây nhưng luôn quay mặt về hướng đông để cứu vớt
chúng sinh.
Trước kia cũng như hiện nay, hầu hết người Khmer ở đồng bằng
sông Cửu Long theo Phật giáo Tiểu thừa. Dù tu ở chùa hay tại nhà thì
mọi người Khmer đều tự coi là con Phật.
PHỤ LỤC 569

Khác với nhiều tôn giáo khác, Phật giáo Khmer không chỉ đảm
nhận chức năng tôn giáo mà còn đảm nhận các chức năng văn hóa -
xã hội, đạo đức khác với từng cá nhân và cả cộng đồng. Ngôi chùa
Khmer, do đó, được xây dựng không chỉ nhằm đáp ứng nhu cầu của
hoạt động tôn giáo mà còn do nhu cầu sinh hoạt văn hóa - xã hội của
phum, sóc.
Theo truyền thống của người Khmer, con trai Khmer học chữ,
học giáo lý, tu hành tại chùa. Vì vậy, ngôi chùa đã trở thành trung
tâm giáo dục dành cho con em của phum, sóc.
Trước kia, ngoài nhà chùa đồng bào Khmer không có hệ thống
trường dạy học nào khác. Mỗi chùa thường có một hoặc vài ba vị sãi
chuyên dạy chữ cho con em dân chúng thuộc sóc của chùa. Thông
thường khi một đứa trẻ lên 6 hoặc 7 tuổi thì được cha mẹ gửi vào
chùa học chữ, học đọc, học viết. Sau khi biết đọc, biết viết các sãi
dạy cho học sinh những quy tắc răn dạy về đức hạnh, về cách ứng
xử với mọi người trong đời sống xã hội. Đến 12 tuổi, theo tập quán
dân tộc, con trai phải vào chùa tu hành một thời gian dài hay ngắn
tùy ý. Đi tu là dịp để người thanh niên Khmer được giáo dục một
cách hoàn thiện nhất, là cơ hội để họ học kinh kệ, giáo lý và rèn
luyện thành người có tri thức, có đạo đức, để xứng danh với gia
đình và xã hội. Nhà chùa, vì vậy, được coi là trường học giáo dục về
tri thức và đạo lý mà các bậc sư sãi là người chăm lo công việc ấy.
Đối với những thanh niên tu ở bậc sadi, nội dung học tập là các bài
giáo huấn theo tinh thần Phật giáo về đức hạnh, về lòng nhân ái, về
những quy tắc ứng xử, đối đãi với mọi người trong xã hội, học một
số Phật thoại và kinh Phật. Cũng trong thời gian này các sadi còn
được học chữ Pali để có thể đọc các bộ kinh bằng chữ Pali. Ngoài
việc học chữ, kinh, luật, họ còn được học cách tu sửa chùa, vẽ tranh,
chạm khắc, đúc tượng...
570 VÙNG ĐẤT NAM BỘ VIII THIẾT CHẾ QUẢN LÝ XÃ HỘI

Đến năm 20 tuổi, các sadi tùy từng người, có thể hoàn tục trở về
nhà hoặc có thể ở lại chùa tu lên bậc tỳ khưu. Ở bậc tỳ khưu nội dung
học tập chủ yếu là học bổ túc chữ Pali và học bộ Tam Tạng Kinh kinh
điển của Phật giáo gồm: Kinh tạng, Luật tạng, Luận tạng. Trong thời
gian tu tỳ khưu, người tu hành cũng có thể xin hoàn tục bất cứ lúc
nào nếu thấy mình đã hết “phước tu”. Khi hoàn tục, tùy theo trình
độ (căn cứ vào các bộ kinh đã được học và thông suốt) của người
tu hành mà họ được phong làm acha hay maha. Khi đó họ là người
được nhân dân quý trọng, có uy tín cao trong xã hội. Họ chịu trách
nhiệm tổ chức và hướng dẫn tiến hành các nghi lễ theo đúng phong
tục tập quán và những quy định của giáo lý trong các dịp lễ hội.
Đối với đông đảo tín đồ Khmer, công việc giáo dục của nhà chùa
chủ yếu thông qua hình thức thuyết pháp và tu thiền. Trong mọi lễ
hội Phật giáo như lễ Phật Đản, lễ Nhập hạ, lễ Xuất hạ, lễ Ban hành
giáo lý, lễ Cầu Xiêu..., cũng như các lễ hội dân tộc được tổ chức tại
chùa hay các tiểu lễ tổ chức ở các gia đình đều có sự tham dự của
các sư sãi trong chùa và các ông acha, maha. Trong các dịp đó, các vị
sư được mời đến sẽ đọc kinh, thuyết pháp. Nội dung của bài thuyết
pháp là nói về đạo đức làm người, về lòng từ thiện, về những quy tắc
ứng xử trong xã hội được rút ra từ các Phật thoại, Phật sử hay các
truyện ngụ ngôn. Tùy theo hoàn cảnh và tính chất của buổi lễ mà nội
dung bài thuyết pháp được lựa chọn sao cho phù hợp. Và chính trong
những thời gian và không gian của các buổi lễ đó mà tinh thần của
các bài thuyết pháp đã đi vào lòng người dân một cách nhanh chóng
nhất và được họ tuân thủ một cách tự giác nhất. Phải chăng nhờ vậy
mà trong cộng đồng phum, sóc của người Khmer ở đồng bằng sông
Cửu Long cuộc sống khá yên bình, lành mạnh. Ở đó thường ít xảy
ra những tệ nạn xấu như trộm cướp, chửi bới, đánh lộn lẫn nhau.
Mọi người đều đối xử với nhau rất bình đẳng, thân mật và trọng đức
PHỤ LỤC 571

hạnh. Mọi cá nhân trong cộng đồng đều hết sức thương yêu và sẵn
lòng giúp đỡ nhau. Và mỗi cá nhân lại được tập thể hội đồng đánh
giá, quý trọng thông qua những nghĩa cử ấy. Trong gia đình cũng
vậy, giáo dục Phật giáo cũng góp phần tạo nên bầu không khí tốt đẹp
trong cuộc sống gia đình. Vợ chồng người Khmer ít khi ly dị nhau,
hiện tượng đa thê cũng ít gặp. Con cái hết lòng tôn kính, quý trọng
cha mẹ và phụng dưỡng, chăm sóc cha mẹ lúc về già rất chu đáo. Cha
mẹ cũng thương yêu và đối xử công bằng với các con không phân
biệt dâu, rể, cả, thứ.
Có thể nói sự tồn tại vững chắc và ảnh hưởng to lớn của nhà
chùa qua bao thế kỷ có được là do các định chế tu trì của đạo Phật
đối với hầu hết mọi thành phần trong xã hội, trong cộng đồng phum,
sóc thông qua Ban quản trị chùa và tổ chức tín đồ ở các wel.
Các thành viên trong phum sóc gắn bó chặt chẽ với nhà chùa là
vì chùa không chỉ là một trung tâm tôn giáo mà còn là một trung
tâm sinh hoạt văn hóa - xã hội. Là cư dân nông nghiệp trồng lúa
nước theo Phật giáo Tiểu Thừa, người Khmer hằng năm có nhiều lễ
hội nông nghiệp gắn liền với các hình thức sinh hoạt văn hóa cộng
đồng. Trong mỗi dịp lễ hội, bên cạnh những nghi thức cổ truyền là
những hình thức sinh hoạt vui chơi, giải trí, biểu diễn văn nghệ của
quần chúng. Tất cả đều được tổ chức và diễn ra ở khuôn viên chùa.
Trong những dịp ấy, các nhà sư không chỉ lo Phật sự mà còn tham
gia tổ chức các công việc sinh hoạt văn hóa cộng đồng như: tiếp đón
các nghệ nhân và khách ăn nghỉ tại chùa, khuyến khích các tổ chức
phật tử lập ra các đội văn nghệ ca, múa, hát để phục vụ các sinh hoạt
chung. Nhà chùa lại cũng chính là nơi các đội văn nghệ ấy thường
xuyên luyện tập ngày đêm.
Chùa còn có hệ thống thiết chế văn hóa của toàn sóc: chùa là thư
viện - nơi tàng trữ các bộ sách cổ và sách Phật, là bảo tàng mỹ thuật
572 VÙNG ĐẤT NAM BỘ VIII THIẾT CHẾ QUẢN LÝ XÃ HỘI

và lịch sử - nơi duy nhất trưng bày các công trình, tác phẩm mỹ thuật
của các nghệ nhân dân gian Khmer, là trường học chữ, là nơi sinh
hoạt văn hóa, văn nghệ của cộng đồng... Cũng tại khuôn viên chùa,
người Khmer sau khi chết được thiêu xác và cốt được gửi vào tháp
ở chùa để được nương náu vào cõi Phật. Có thể nói hầu hết người
Khmer từ khi sinh ra, lớn lên rồi chết đi, cả cuộc đời gắn bó với ngôi
chùa. Đó là nơi nam giới học chữ, học giáo lý để làm người, nơi diễn
ra mọi sinh hoạt của cộng đồng mà trong đó tầng lớp sư sãi và bộ
máy quản lý chùa đóng một vai trò hết sức quan trọng.
573

TÀI LIỆU THAM KHẢO

I- TÀI LIỆU TIẾNG VIỆT

1. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu: Lịch sử Bà Rịa -
Vũng Tàu kháng chiến (1945-1975), Nxb. Quân đội nhân dân, Hà
Nội, 1995.
2. Ban Chỉ đạo biên soạn Lịch sử Chính phủ Việt Nam: Lịch sử Chính
phủ Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2008, t.1, 2, 3.
3. Báo Cứu quốc, số 50, ngày 24-9-1945.
4. Báo Cứu quốc, số 54, ngày 29-9-1945.
5. Báo Le Saigonais, số 93, ngày 17-2-1884.
6. Báo Nhân dân, ngày 4-5-1975.
7. Bộ Kinh tế - Việt Nam Cộng hòa: Niên giám Thống kê Việt Nam
1964-1965, Sài Gòn, 1966.
8. Bùi Đức Tịnh: Lược khảo nguồn gốc địa danh Nam Bộ, Nxb. Văn
nghệ Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh, 1999.
9. Cao Văn Lượng: Lịch sử cách mạng miền Nam Việt Nam giai đoạn
1954-1960, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1991.
10. Châu Đạt Quan: Chân Lạp phong thổ ký, Hà Văn Tấn dịch, Nxb.
Thế giới, Hà Nội, 2006.
11. Chu Thiên: “Chính sách khẩn hoang của triều Nguyễn”, tạp chí
Nghiên cứu lịch sử, số 56, 1963.
12. Chung một bóng cờ, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2015.
13. Coedès G.: Cổ sử các quốc gia Ấn Độ hóa ở Viễn Đông, Nxb. Thế
giới, Hà Nội, 2008.
574 VÙNG ĐẤT NAM BỘ VIII THIẾT CHẾ QUẢN LÝ XÃ HỘI

14. Công báo nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, số 3, 1981.
15. Công báo nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, số 6, 1981.
16. Công báo nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, số 14, 1983.
17. Công báo nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, số 2, 1948.
18. Công báo nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, số 11, 1945.
19. Công báo nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, số 16, 1945.
20. Danh La: Nếp sống và vai trò người Miên trong cộng đồng quốc gia,
luận văn đốc sự hành chánh, khóa 17, Học viện quốc gia hành
chánh Sài Gòn, 1972.
21. Dương Kinh Quốc: Chính quyền thuộc địa ở Việt Nam trước Cách
mạng Tháng Tám năm 1945, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1988.
22. Dương Kinh Quốc: Việt Nam những sự kiện lịch sử 1858-1918,
Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 1999.
23. Dương Trung Quốc: Việt Nam những sự kiện lịch sử (1919-1945),
Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 2000, 2003.
24. Đại Việt sử ký toàn thư, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1985, t.1;
Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1993, t.1, 2.
25. Đặng Phong (Chủ biên): Lịch sử kinh tế Việt Nam 1945-2000, Nxb.
Khoa học xã hội, Hà Nội, 2001, t.1.
26. Đặng Thị Kim Oanh: Hôn nhân và gia đình của người Khmer ở
đồng bằng sông Cửu Long, luận án tiến sĩ, Trường Đại học Khoa
học xã hội và Nhân văn - Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí
Minh, Thành phố Hồ Chí Minh, 2007.
27. Đặng Thu (Chủ biên): Di dân của người Việt từ thế kỷ X đến giữa
thế kỷ XIX, phụ san tạp chí Nghiên cứu lịch sử, Hà Nội, 1994.
28. Địa chí Bà Rịa - Vũng Tàu, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 2005.
29. Địa chí Bến Tre, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 2001.
30. Địa chí Đồng Nai, Nxb. Tổng hợp Đồng Nai, Đồng Nai, 2001.
31. Địa chí Đồng Tháp Mười, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996.
32. Địa chí Long An, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1989.
TÀI LIỆU THAM KHẢO 575

33. Địa chí Tiền Giang, Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Tiền Giang xuất bản,
2005, t.1.
34. Địa chí tỉnh Sông Bé, Nxb. Tổng hợp Sông Bé, Sông Bé, 1991.
35. Đinh Lê Thư (Chủ biên): Vấn đề giáo dục vùng đồng bào Khmer
đồng bằng sông Cửu Long, Nxb. Đại học Quốc gia Thành phố Hồ
Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh, 2005.
36. Đinh Văn Liên: “Đặc điểm môi sinh và dân số ở vùng người
Khmer đồng bằng sông Cửu Long”, trong Vấn đề dân tộc ở đồng
bằng sông Cửu Long, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1991.
37. Đinh Văn Liên: Động thái dân số tộc người của các dân tộc ít người
ở Nam Bộ Việt Nam, luận án Phó tiến sĩ Khoa học Lịch sử, Viện
Khoa học xã hội tại Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí
Minh, 1994.
38. Đinh Văn Liên: “Thử tìm hiểu các loại “họ” của người Khmer
phân bố trong các vùng thuộc đồng bằng sông Cửu Long”, tạp chí
Dân tộc học, số 4, 1990.
39. Đinh Văn Liên: “Vấn đề dân số và phân bố dân cư Khmer ở đồng
bằng sông Cửu Long”, trong Kỷ yếu Hội nghị khoa học về người
Khmer, Viện Nghiên cứu Lý luận và Lịch sử nghệ thuật - Bộ Văn
hóa, Hậu Giang, 1981.
40. Đỗ Bang, Nguyễn Quang Trung Tiến: “Về nguyên nhân thắng lợi
của triều đình Huế ở mặt trận Đà Nẵng”, tạp chí Thông tin Khoa
học và Công nghệ, số 3, 1998.
41. Đỗ Khắc Tùng: “Vài đặc điểm của thân tộc và gia đình người
Khmer đồng bằng sông Cửu Long”, trong Những vấn đề dân tộc
học ở miền Nam Việt Nam, Ban Dân tộc học - Viện Khoa học xã
hội tại Thành phố Hồ Chí Minh in roneo, t.2, q.1.
42. Hà Minh Hồng: Nam Bộ 1945-1975 - những góc nhìn từ lịch sử
chiến tranh cách mạng Việt Nam, Nxb. Đại học Quốc gia Thành
phố Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh, 2009.
43. Hà Tiên trấn Hiệp trấn Mạc thị gia phả, Nxb. Thế giới, Hà Nội, 2006.
576 VÙNG ĐẤT NAM BỘ VIII THIẾT CHẾ QUẢN LÝ XÃ HỘI

44. Hà Văn Tấn: “Phù Nam và Óc Eo: Ở đâu? Khi nào? Và ai?”, báo cáo
tại Hội thảo khoa học về Biên giới Tây Nam, Hà Nội, ngày 6-2-1996,
Trường Đại học Quốc gia Hà Nội tổ chức.
45. Hall D.G.E.: Lịch sử Đông Nam Á, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà
Nội, 1997.
46. Hiện đại và động thái của truyền thống ở Việt Nam: Những cách
tiếp cận nhân học, Nxb. Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí
Minh, Thành phố Hồ Chí Minh, 2010, q.1.
47. Học viện Hành chính quốc gia: Giáo trình lịch sử hành chính nhà
nước Việt Nam, Nxb. Khoa học kỹ thuật, Hà Nội, 2007.
48. Hồ Lê, Huỳnh Lứa, Nguyễn Quang Vinh, Thạch Phương: Văn hóa
dân gian người Việt ở Nam Bộ, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1992.
49. Hồ Sơn Đài: Căn cứ địa kháng chiến chống thực dân Pháp ở miền
Đông Nam Bộ (1945-1954), luận án Phó tiến sĩ Khoa học Lịch sử,
Viện Khoa học xã hội tại Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ
Chí Minh, 1995.
50. Hồ Sơn Đài: “Mấy đặc điểm về tổ chức chiến trường ở Nam Bộ
trong cuộc khánh chiến chống Mỹ, cứu nước”, trong Sài Gòn -
Thành phố Hồ Chí Minh tiếp bước con đường Cách mạng Tháng
Tám (1945-2005), Nxb. Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh, Thành
phố Hồ Chí Minh, 2005.
51. Hội Khoa học lịch sử Việt Nam: Một số vấn đề lịch sử vùng đất
Nam Bộ đến cuối thế kỷ XIX, Nxb. Thế giới, Hà Nội, 2009.
52. Hội Khoa học lịch sử Việt Nam: Một số vấn đề lịch sử vùng đất
Nam Bộ thời kỳ cận đại, Nxb. Thế giới, Hà Nội, 2009.
53. Hội Khoa học lịch sử Việt Nam: Văn hóa Óc Eo và Vương quốc
Phù Nam, Nxb. Thế giới, Hà Nội, 2008.
54. Hukey G.C.: Nghiên cứu một cộng đồng thôn xã Việt Nam: Xã hội
học, Phái đoàn cố vấn Đại học đường Tiểu bang Michigan tại Việt
Nam, Sài Gòn, 1960.
TÀI LIỆU THAM KHẢO 577

55. Huỳnh Lứa: “Mấy nhận xét về cơ cấu chế độ sở hữu ruộng đất ở
vùng Đồng Nai - Gia Định (Nam Bộ cũ) vào nửa đầu thế kỷ XIX”,
tạp chí Nghiên cứu lịch sử, số 215, 1984.
56. Huỳnh Lứa (Chủ biên): Góp phần tìm hiểu vùng đất Nam Bộ các
thế kỷ XVII, XVIII, XIX, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 2000.
57. Huỳnh Minh: Gia Định xưa và nay, Sài Gòn, 1973.
58. Kleinen J.: Làng Việt đối diện tương lai, hồi sinh quá khứ, Nxb. Đà
Nẵng, Đà Nẵng, 2007.
59. Kỷ niệm 100 năm ngày Pháp chiếm Nam Kỳ, Nxb. Trình bầy, Sài
Gòn, 1967.
60. Lê Hương: Sử Cao Miên, Nhà sách Khai Trí, Sài Gòn, 1970.
61. Lê Mậu Hãn (Chủ biên): Biên niên lịch sử Chính phủ (1945-2005),
Nxb. Văn hóa - Thông tin, Hà Nội, 2006, t.1.
62. Lê Xuân Diệm (Chủ biên): Khảo cổ học Đồng Nai, Nxb. Đồng Nai,
Đồng Nai, 1991.
63. Lê Quý Đôn: Lê Quý Đôn toàn tập, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội,
1977, t.1.
64. Lê Quý Đôn: Phủ biên tạp lục, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1964.
65. Lê Trung Hoa: Địa danh ở Thành phố Hồ Chí Minh, Nxb. Khoa
học xã hội, Hà Nội, 1991.
66. Li Tana: Xứ Đàng Trong: Lịch sử kinh tế - xã hội Việt Nam thế kỷ 17
và 18, Nxb. Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh, 1999.
67. Lịch sử Đảng bộ huyện Cai Lậy, Ban Tuyên huấn huyện ủy Cai Lậy
xuất bản, 1996.
68. Lương Ninh: Lịch sử vương quốc Champa, Nxb. Đại học Quốc gia
Hà Nội, Hà Nội, 2004.
69. Lương Ninh: “Óc Eo và Phù Nam”, tạp chí Khảo cổ học, số 2, 1987.
70. Lương Ninh: “Văn hóa cổ Phù Nam - văn hóa đồng bằng sông
Cửu Long”, trong Một chặng đường nghiên cứu lịch sử (1995-2000),
Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000.
71. Lương Ninh: “Văn hóa Óc Eo và văn hóa Phù Nam”, tạp chí Khảo
cổ học, số 3, 1992.
578 VÙNG ĐẤT NAM BỘ VIII THIẾT CHẾ QUẢN LÝ XÃ HỘI

72. Lương Ninh: Vương quốc Phù Nam: lịch sử và văn hóa, Nxb. Thế
giới, Hà Nội, 2005.
73. Lương thư, q.54.
74. Mã Đoan Lâm: Văn hiến thông khảo, q.332.
75. Mạc Đường: “Quá trình phát triển dân cư và dân tộc ở đồng bằng
sông Cửu Long từ thế kỷ XV đến thế kỷ XIX”, tạp chí Nghiên cứu
lịch sử, số 204, tháng 3-1982.
76. Mạc Đường: “Vấn đề dân cư và dân tộc ở đồng bằng sông Cửu
Long trong thời cổ đại”, tạp chí Dân tộc học, số 4, 1981.
77. Mạc Đường: “Vấn đề dân cư và dân tộc ở đồng bằng sông Cửu
Long vào những năm đầu thế kỷ XX”, tạp chí Nghiên cứu lịch sử,
số 205, tháng 4-1982.
78. Mạc Đường (Chủ biên): Làng xã ở châu Á và ở Việt Nam, Nxb.
Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh, 1995.
79. Maitre H.: Rừng người Thượng (vùng rừng núi cao nguyên miền
Trung Việt Nam), Nxb. Tri thức, Hà Nội, 2008.
80. Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam, Nxb. Sự thật,
Hà Nội, 1961.
81. Một số văn bản pháp luật Việt Nam thế kỷ XV - thế kỷ XVIII, Nxb.
Khoa học xã hội, Hà Nội, 1994.
82. Mục lục châu bản triều Nguyễn, Ủy ban phiên dịch sử liệu - Viện
Đại học Huế, 1962, t.2.
83. Nam Bộ và Nam Trung Bộ - những vấn đề lịch sử thế kỷ XVII-XIX,
kỷ yếu hội thảo, Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh, 2002.
84. Nam sử, q.78.
85. Nam Tề thư, q.58.
86. Ngô Đức Thịnh: “Người Khmer đồng bằng sông Cửu Long là
thành viên của cộng đồng các dân tộc Việt Nam”, tạp chí Nghiên
cứu lịch sử, số 216, tháng 3-1984.
87. Ngô Văn Hòa: “Tổ chức quản lý xã thôn và cộng đồng làng xã ở
Nam Kỳ thời Pháp thuộc”, tạp chí Nghiên cứu lịch sử, số 5, 1983.
TÀI LIỆU THAM KHẢO 579

88. Ngô Văn Lệ: “Làng Việt Nam Bộ trong sự nghiệp Công nghiệp
hóa, hiện đại hóa”, báo cáo khoa học tại Hội thảo “Thôn ấp Nam
Bộ - vai trò, vị trí trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa”,
tháng 10-1997.
89. Ngô Văn Lệ: Một số vấn đề về văn hóa tộc người ở Nam Bộ và Đông
Nam Á, Nxb. Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, Thành
phố Hồ Chí Minh, 2003.
90. Nghị quyết Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
khóa VI kỳ họp thứ 5, ngày 30-5-1979.
91. Nghị quyết Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
khóa VIII kỳ họp thứ 10, ngày 26-12-1978.
92. Nghị quyết Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
khóa IX kỳ họp thứ 10, ngày 6-11-1996.
93. Nguyễn Công Bình: Đời sống xã hội ở vùng Nam Bộ, Nxb. Đại học
Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh, 2008.
94. Nguyễn Công Bình: “Phát triển xã hội trong công cuộc khai phá
đất Nam Bộ: Thách thức và hành trang xuất phát”, tạp chí Xã hội
học, số 39, 1999.
95. Nguyễn Công Bình: “Sự phát triển của cộng đồng dân tộc Việt
Nam trong khai phá đất Đồng Nai - Gia Định”, trong Góp phần
tìm hiểu lịch sử - văn hóa 300 năm Sài Gòn - Thành phố Hồ Chí
Minh, Nxb. Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh, 1998.
96. Nguyễn Công Bình, Lê Xuân Diệm, Mạc Đường: Văn hóa và cư
dân đồng bằng sông Cửu Long, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội,
1990.
97. Nguyễn Đình Đầu: Chế độ công điền công thổ trong lịch sử khẩn
hoang lập ấp ở Nam Kỳ lục tỉnh, Hội Sử học Việt Nam, Hà Nội, 1992.
98. Nguyễn Đình Đầu: Tổng kết nghiên cứu địa bạ Nam Kỳ lục tỉnh,
Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh, 1994.
99. Nguyễn Đình Tư: Từ điển địa danh hành chính Nam Bộ, Nxb.
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2008.
580 VÙNG ĐẤT NAM BỘ VIII THIẾT CHẾ QUẢN LÝ XÃ HỘI

100. Nguyễn Hữu Hiếu (Chủ biên): Võ Duy Dương với cuộc kháng
chiến Đồng Tháp Mười, Nxb. Đồng Tháp, Đồng Tháp, 1992.
101. Nguyễn Hữu Thái, Võ Đinh Diệp, Nguyễn Văn Tất: Nhà ở nông
thôn Nam Bộ, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí
Minh, 1984.
102. Nguyễn Khánh Toàn (Chủ biên), Lịch sử Việt Nam, Nxb. Khoa
học xã hội, Hà Nội, 2004, t.2.
103. Nguyễn Khắc Cảnh: Loại hình công xã của người Khmer ở đồng
bằng sông Cửu Long, luận án Phó tiến sĩ Lịch sử, Trường Khoa
học xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí
Minh, 1997.
104. Nguyễn Khắc Cảnh: Phum Sóc Khmer ở đồng bằng sông Cửu Long,
Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 1998.
105. Nguyễn Khắc Cảnh: Vấn đề nguồn gốc và sự hình thành cộng đồng
người Khmer ở vùng đồng bằng sông Cửu Long Việt Nam, đề tài
nghiên cứu khoa học, Trường Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại
học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, 1996.
106. Nguyễn Khắc Viện: Miền Nam Việt Nam từ sau Điện Biên Phủ,
Nxb. Tri thức, Hà Nội, 2008.
107. Nguyễn Ngọc Trân: Đồng bằng sông Cửu Long: Tài nguyên - Môi
trường - Phát triển, Báo cáo Chương trình 60B.
108. Nguyễn Phan Quang: “Tổ chức hành chính Sài Gòn - Chợ Lớn -
Gia Định”, tạp chí Xưa Nay, số 55B, 1998.
109. Nguyễn Phương Thảo: Văn hóa dân gian Nam Bộ - những phác
thảo, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 1997.
110. Nguyễn Quang Ân: Việt Nam, những thay đổi địa danh và địa giới
hành chính (1945-2002), Nxb. Thông tấn, Hà Nội, 2003.
111. Nguyễn Thành Đức: Múa dân gian các tộc người Mạ, Chơro, Xtiêng
vùng Đông Nam Bộ, Nxb. Văn hóa dân tộc, Hà Nội, 2004.
112. Nguyễn Thế Anh: Kinh tế và xã hội Việt Nam dưới các vua triều
Nguyễn, Nxb. Lửa thiêng, Sài Gòn, 1971.
TÀI LIỆU THAM KHẢO 581

113. Nguyễn Tố Uyên: Công cuộc bảo vệ và xây dựng chính quyền nhân
dân ở Việt Nam trong những năm 1945-1946, Nxb. Khoa học xã
hội, Hà Nội, 1999.
114. Nguyễn Trãi toàn tập, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1976.
115. Nguyễn Trọng Phúc (Chủ biên): Biên niên lịch sử Chính phủ Việt
Nam (1945-2005), Nxb. Văn hóa - Thông tin, Hà Nội, 2006, t.3.
116. Nguyễn Trọng Phúc (Chủ biên): Biên niên lịch sử Chính phủ
(1945-2005), Nxb. Văn hóa thông tin, Hà Nội, 2006, t.4.
117. Nguyễn Từ Chi: Góp phần nghiên cứu văn hóa tộc người, Nxb. Văn
hóa thông tin, Hà Nội, 1996; Nxb. Văn hóa dân tộc & tạp chí Văn
hóa nghệ thuật, Hà Nội, 2003.
118. Nguyễn Văn Ái (Chủ biên): Sổ tay phương ngữ Nam Bộ, Nxb. Cửu
Long, Cửu Long, 1987.
119. Nguyễn Văn Ái: “Tiếng Việt vùng đồng bằng sông Cửu Long”,
trong Mấy đặc điểm văn hóa đồng bằng sông Cửu Long, Hậu
Giang, 1987.
120. Nguyễn Văn Hầu: Thoại Ngọc Hầu và những cuộc khai phá miền
Hậu Giang, Nxb. Hương sen, Sài Gòn, 1972, t.3.
121. Nguyễn Văn Tiệp: “Quá trình du nhập và ảnh hưởng của Phật
giáo Tiểu thừa đến sinh hoạt tôn giáo, văn hóa - xã hội của người
Khmer ở đồng bằng sông Cửu Long”, Thông báo khoa học, Trường
Đại học Sư phạm Vinh, 2007.
122. Nguyễn Xuân Nghĩa: “Tàn dư tín ngưỡng Arăk và Neck Tà ở
người Khmer vùng đồng bằng sông Cửu Long”, tạp chí Dân tộc
học, số 3, 1979.
123. Nội các triều Nguyễn: Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, Nxb.
Thuận Hóa, Huế, 1993, t.2.
124. Papin P., Tessier O. (Chủ biên): Làng ở vùng châu thổ sông Hồng:
vấn đề còn bỏ ngỏ, Trung tâm Khoa học xã hội và nhân văn quốc
gia, Hà Nội, 2002.
582 VÙNG ĐẤT NAM BỘ VIII THIẾT CHẾ QUẢN LÝ XÃ HỘI

125. Phạm Ngọc Bích: Cách mạng Tháng Tám 1945 ở Sài Gòn - Chợ
Lớn và Gia Định, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ
Chí Minh, 2008.
126. Phạm Văn Thắng: Lịch sử Đảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh, Nxb.
Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh và Nxb. Văn hóa Sài Gòn,
Thành phố Hồ Chí Minh, 2007.
127. Phan An: Hệ thống xã hội tộc người của người Stiêng ở Việt Nam
(từ thế kỷ XIX đến năm 1975), Nxb. Đại học Quốc gia Thành phố
Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh, 2007.
128. Phan An: “Một số vấn đề kinh tế - xã hội của vùng nông thôn
Khmer đồng bằng sông Cửu Long”, trong Vấn đề dân tộc ở đồng
bằng sông Cửu Long, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1981.
129. Phan An: Người Hoa ở Nam Bộ, Nxb. Khoa học xã hội, Hà
Nội, 2005.
130. Phan An (Chủ biên): Chùa Hoa ở Thành phố Hồ Chí Minh, Nxb.
Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh, 1990.
131. Phan An (Chủ biên): Góp phần tìm hiểu văn hóa người Hoa ở Nam
Bộ, Nxb. Văn hóa - Thông tin, Hà Nội, 2006.
132. Phan Đại Doãn (Chủ biên): Quản lý xã hội nông thôn nước ta
hiện nay - một số vấn đề và giải pháp, Nxb. Chính trị quốc gia,
Hà Nội, 1996.
133. Phan Đại Doãn, Nguyễn Quang Ngọc (Chủ biên): Kinh nghiệm
tổ chức quản lý nông thôn Việt Nam trong lịch sử, Nxb. Chính trị
quốc gia, Hà Nội, 1994.
134. Phan Huy Lê: Lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam, Nxb. Giáo dục,
Hà Nội, 1960, t.2.
135. Phan Khoang: Việt Nam Pháp thuộc sử, Khai Trí, Sài Gòn, 1961.
136. Phan Khoang: Việt sử xứ Đàng Trong, Nxb. Văn học, Hà Nội, 2001.
TÀI LIỆU THAM KHẢO 583

137. Phan Xuân Biên: Một số vấn đề về xây dựng chính quyền đô thị từ
thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh, Nxb. Tổng hợp Thành phố Hồ
Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh, 2007.
138. Phan Xuân Biên (Chủ nhiệm): Luận cứ khoa học cho việc xác định
chính sách đối với cộng đồng người Khmer và người Hoa ở Việt
Nam, Đề tài khoa học công nghệ cấp Nhà nước, KX.04.12, 1995.
139. Phan Xuân Biên, Hồ Hữu Nhựt (Chủ biên): Khoa học xã hội
Thành phố Hồ Chí Minh: Những vấn đề cần nghiên cứu, Nxb. Đại
học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh,
2005.
140. Phan Xuân Biên, Trần Nhu (Chủ biên): Thành phố Hồ Chí Minh,
30 năm xây dựng và phát triển, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 2005.
141. Quốc sử quán triều Nguyễn: Đại Nam liệt truyện, Nxb. Thuận
Hóa, Huế, 1997, t.4.
142. Quốc sử quán triều Nguyễn: Đại Nam nhất thống chí, Nxb. Khoa
học xã hội, Hà Nội, 1969.
143. Quốc sử quán triều Nguyễn: Đại Nam thực lục, Nxb. Sử học, Hà
Nội, 1963: t.2, t.4; 1974: t.27, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 2007: t.1,
2004: t.4, t.5, t.6, t.7.
144. Quốc sử quán triều Nguyễn: Đại Nam thực lục tiền biên, Nxb. Sử
học, Hà Nội, 1962.
145. Quốc sử quán triều Nguyễn: Khâm định Việt sử thông giám cương
mục, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 1998, t.1.
146. Quốc sử quán triều Nguyễn: Minh Mạng chính yếu, Sài Gòn, 1974,
t.3; Nxb. Thuận Hóa, Huế, 1994, t.1.
147. Quyết định số 22/2003/QH11 của Quốc hội nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam khóa XI tại kỳ họp thứ 4, ngày 26-11-2003.
148. Sakurai Yumio: “Thử phác dựng cấu trúc lịch sử của khu vực
Đông Nam Á thông qua mối liên hệ giữa biển và lục địa”, tạp chí
Nghiên cứu Đông Nam Á, số 4 (25), 1996.
584 VÙNG ĐẤT NAM BỘ VIII THIẾT CHẾ QUẢN LÝ XÃ HỘI

149. Sài Gòn - Thành phố Hồ Chí Minh 60 năm tiếp bước con đường
Cách mạng tháng Tám (1945-2005), Nxb. Tổng hợp Thành phố Hồ
Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh, 2005.
150. Sorya: Lễ hội Khmer Nam Bộ, Nxb. Văn hóa dân tộc, Hà Nội, 1988.
151. Sơ thảo lịch sử Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam Thành phố Hồ
Chí Minh, Nxb. Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố
Hồ Chí Minh, 1995, t.1.
152. Sơn Nam: Lịch sử khẩn hoang miền Nam, Nxb. Văn nghệ, Thành
phố Hồ Chí Minh, 1994.
153. Tân Đường thư, q.222.
154. Thạch Phương, Hồ Lê, Huỳnh Lứa, Nguyễn Quang Vinh: Văn hóa
dân gian người Việt ở Nam Bộ, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1992.
155. Thạch Phương, Lê Trung Hoa (Chủ biên): Từ điển Sài Gòn - Thành
phố Hồ Chí Minh, Nxb. Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh, 2008.
156. Thái Bạch: “Lược khảo về chế độ cai trị người Minh Hương ở
Nam Kỳ”, tạp chí Đại Việt, số 8, 1943.
157. Thích Đại Sán: Hải ngoại kỷ sự: Sử liệu nước Đại việt khoảng thế
kỷ VII, 6 quyển, Viện Đại học Huế và Ủy ban phiên dịch sử liệu
Việt Nam, Huế, 1963.
158. Thực trạng xã hội Việt Nam dưới triều Tự Đức (1847-1883), Đại
học Văn khoa, Sài Gòn, 1970.
159. Toan Ánh: Nếp cũ, Làng xóm Việt Nam, Nxb. Thành phố Hồ Chí
Minh, Thành phố Hồ Chí Minh, 1992.
160. Tổ Lịch sử Cách mạng Tháng Tám: Cách mạng Tháng Tám (Tổng
khởi nghĩa ở Hà Nội và các địa phương), Nxb. Sử học, Hà Nội,
1960, t.2.
161. Tố Thanh: “Cuộc đấu tranh nhằm củng cố và giữ vững chính
quyền cách mạng ở Nam Bộ thời kỳ 1945-1946”, tạp chí Nghiên
cứu lịch sử, số 5, 1986.
162. Tổng cục Thống kê: Danh mục các đơn vị hành chính Việt Nam
2008, Nxb. Thống kê, Hà Nội, 2009.
TÀI LIỆU THAM KHẢO 585

163. Trần Bạch Đằng: Đồng bằng sông Cửu Long 40 năm, Nxb. Mũi Cà
Mau, Cà Mau, 1986.
164. Trần Bạch Đằng (Chủ biên): Lịch sử Mặt trận dân tộc thống nhất
Sài Gòn - Thành phố Hồ Chí Minh, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh,
Thành phố Hồ Chí Minh, 2006.
165. Trần Đức Cường (Chủ biên): Biên niên lịch sử Chính phủ Việt
Nam (1945-2005), tập 2: 1955-1976, Nxb. Văn hóa - Thông tin, Hà
Nội, 2006, t.2.
166. Trần Đức Cường (Chủ biên): Biên niên lịch sử Chính phủ Việt
Nam (1945-2005), Nxb. Văn hóa - Thông tin, Hà Nội, 2006, t.5.
167. Trần Quốc Vượng, Hà Văn Tấn, Phan Huy Lê...: Lịch sử chế độ
phong kiến Việt Nam, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 1963, t.1.
168. Trần Tấn Vĩnh (Chủ nhiệm): Báo cáo tổng kết đề tài Người Chơro
ở Bà Rịa - Vũng Tàu, Bà Rịa - Vũng Tàu, 1999.
169. Trần Thị Thu Lương: Chế độ sở hữu và canh tác ruộng đất ở Nam
Bộ nửa đầu thế kỷ XIX, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố
Hồ Chí Minh, 1994.
170. Trần Thị Vinh: “Thể chế chính quyền ở Đàng Trong dưới thời các
chúa Nguyễn (thế kỷ XVI-XVIII)”, tạp chí Nghiên cứu lịch sử, số
10, 2004.
171. Trần Từ: Cơ cấu tổ chức của làng Việt cổ truyền ở Bắc Bộ, Nxb.
Khoa học xã hội, Hà Nội, 1984.
172. Trần Văn Giàu: Miền Nam giữ vững thành đồng: Lược sử đồng bào
miền Nam đấu tranh chống Mỹ và tay sai, Nxb. Khoa học xã hội,
Hà Nội, 1964-1978, t.1, 2, 3, 4, 5.
173. Trần Văn Giàu, Đinh Xuân Lâm, Nguyễn Văn Sự: Lịch sử cận đại
Việt Nam, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 1960, t.1.
174. Trần Văn Giàu, Trần Bạch Đằng, Nguyễn Công Bình (Chủ biên):
Địa chí văn hóa Thành phố Hồ Chí Minh, Nxb. Thành phố Hồ Chí
Minh, Thành phố Hồ Chí Minh, 1987-1988, t.1, 2.
586 VÙNG ĐẤT NAM BỘ VIII THIẾT CHẾ QUẢN LÝ XÃ HỘI

175. Trần Xuân Kiêm: Dân số, dân cư và lao động, Chương trình
6002, 1986.
176. Trịnh Hoài Đức: Gia Định Thành thông chí, Nha Văn hóa - Phủ
Quốc vụ khanh đặc trách văn hóa xuất bản, Sài Gòn, 1972;
Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 1999; Nxb. Tổng hợp Đồng Nai, Đồng
Nai, 2005.
177. Trung Quốc đại bách khoa toàn thư - Trung Quốc lịch sử I, Phù
Nam, Nxb. Đại bách khoa toàn thư Trung Quốc, Bắc Kinh -
Thượng Hải, 1992 (bản tiếng Trung).
178. Trương Ngọc Tường: “Làng xã cổ truyền ở Nam Bộ qua Minh điều
hương ước”, tạp chí Xưa và Nay, số 58B, 1998.
179. Tùy thư, q.82.
180. Tuyên ngôn độc lập năm 1945 và các Hiến pháp Việt Nam (1946,
1959, 1980, 1992), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2007.
181. Tsai Maw Kuey: Người Hoa ở miền Nam Việt Nam, Thư viện quốc
gia Paris, 1968.
182. Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Thành phố Hồ Chí Minh: Lịch sử Mặt
trận dân tộc thống nhất Sài Gòn - Thành phố Hồ Chí Minh, Nxb.
Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh,
2006, t.1.
183. Văn Công Chí: “Khái quát về người Khmer tỉnh Cửu Long”, trong
Người Khmer Cửu Long, Viện Văn hóa và Sở Văn hóa Thông tin
tỉnh Cửu Long xuất bản, 1997.
184. Văn hóa Óc Eo và các văn hóa cổ ở đồng bằng sông Cửu Long, Long
Xuyên, 1984.
185. Văn khắc Hán Nôm Việt Nam, Trường Viễn Đông Bác Cổ & Viện
Nghiên cứu Hán Nôm, Hà Nội, 1998, t.1.
186. Viện Dân tộc học: Các dân tộc ít người ở Việt Nam (các tỉnh phía
Nam), Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1984.
187. Viện Nghiên cứu văn hóa: Tìm hiểu luật tục các tộc người ở Nam
Tây Nguyên, Nxb. Văn hóa dân tộc, Hà Nội, 2004.
TÀI LIỆU THAM KHẢO 587

188. Viện Sử học: Lịch sử Việt Nam, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội,
2007, t.10.
189. Viện Sử học: Nông thôn và nông dân Việt Nam thời cận đại, Nxb.
Khoa học xã hội, Hà Nội, 1990, t.1, 2.
190. Viện Sử học: Nông thôn Việt Nam trong lịch sử, Nxb. Khoa học xã
hội, Hà Nội, 1977-1978, t.1, 2.
191. Viện Sử học: Việt Nam những sự kiện lịch sử 1945-1975, Nxb. Giáo
dục, Hà Nội, 2005.
192. Vũ Huy Phúc: “Đồn điền - một loại hình tổ chức nông nghiệp
quan trọng trong nửa đầu thế kỷ XIX”, tạp chí Nghiên cứu lịch sử,
số 3, 1994.
193. Vũ Huy Phúc: Tìm hiểu chế độ ruộng đất Việt Nam nửa đầu thế kỷ
XIX, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1979.
194. Vũ Minh Giang (Chủ biên): Lược sử vùng đất Nam Bộ Việt Nam,
Nxb. Thế giới, Hà Nội, 2008.
195. Yu Insun: “Cấu trúc của làng Việt Nam ở đồng bằng Bắc Bộ và
mối quan hệ của nó với nhà nước thời Lê”, tạp chí Nghiên cứu lịch
sử, số 310, 2000.

II- TÀI LIỆU TIẾNG NƯỚC NGOÀI

1. Annuaire des États Associés, 1953.


2. Aymonier E.: Le Cambodge, Ernest Leroux, Paris, 1901.
3. Baulmont: “Le service millitaire dans l’Annam d’autrefois”, trong
Revue Indochinose, t. XX, 1913.
4. Borri C.: Cochine-China, London, 1633.
5. Chandler D.P.: A history of Cambodia, Bangkok, 1993.
6. De Galambert J.: Les Administrations et les services publics
indochinois, Hanoi, 1931.
7. De Grammont: Onze mois de sous préfectue en Basse-Cochinchine,
Paris, 1863.
588 VÙNG ĐẤT NAM BỘ VIII THIẾT CHẾ QUẢN LÝ XÃ HỘI

8. De La Barriere P.: Histoire de l’expedition de la Cochinchine en


1861, Paris, 1861.
9. Durwell G.: Bulletin de la Société des études indo-chinoies, No. 36,
Année 1898.
10. Excursions et Recon-naissances, tome XIV, Saigon, 1889.
11. Glover I.C.: “The Southern Silk Road - Archaelogical evidence of
early trade between India and Southeast Asia”, in The Silk Road -
Highways of culture and commerce, UNESCO Publishing, Oxford,
2000.
12. Groslier B.P.: Indochine, carrefour des arts, Paris, 1960.
13. Hall K.R.: “Economic history of early Southest Asia”, in The
Cambridge history of Southeast Asia, Cambridg University Press,
1992, Vol. 1.
14. Isoart P.: “La crétion de l’Union Indochinoise”, Approches Asie, No.
11, 1992.
15. Kerkvliet B.J.T.: The power of everyday politics, Cornell University
Press, 2005.
16. Luong V. Hy: Revolution in the Village: tradition and transformation
in North Vietnam, 1925-1988, University of Hawaii Press,
Honolulu, 1992.
17. Maspéro G.: L’Empire Khmer, Phnom Penh, 1904.
18. Outrey E.: Nouveau recueil de législation cqnisale et communale
annamite de Cochinchine, Imprimerie J. Viet, Saigon, 1928.
19. Pelliot P.: “Le Fou Nan”, BEFEO, 1903.
20. Rapport au Conseil Colonial, 1880-1881, Saigon, 1881.
21. Schreiner A.: Les institutions annamites en Basse Cochinchine
avant la Conquête francaise, Saigon, 1900, tome III.
22. Taboulet: La geste frncaise en Indochine, Maisonneuve, Paris,
1955, t.1.
23. Wheatley P.: Nagara and commandery - Origins of the Southeast
Asian urban traditions, Chicago, 1983.
589

MỤC LỤC

Trang

Lời Nhà xuất bản 5


Lời giới thiệu 9
Mở đầu 13

Chương I
HỆ THỐNG QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH Ở NAM BỘ
TỪ ĐẦU THẾ KỶ XVII ĐẾN NĂM 1858 17
I- Vài nét về vùng đất Nam Bộ trước thế kỷ XVII 17
II- Công cuộc khai phá đất đai, xác lập chủ quyền và thiết lập
bộ máy quản lý trên vùng đất Nam Bộ thế kỷ XVII - XVIII 31
III- Cơ cấu hành chính và tổ chức bộ máy quản lý vùng đất
Nam Bộ nửa đầu thế kỷ XIX 59

Chương II
HỆ THỐNG QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH CỦA
CHÍNH QUYỀN THỰC DÂN PHÁP Ở NAM BỘ
(1858 - 1945) 105
I- Nam Kỳ trong quá trình thuộc địa hóa 105
II- Cơ cấu hành chính và tổ chức bộ máy quản lý ở Nam Kỳ
đến trước năm 1887 124
III- Cơ cấu hành chính và tổ chức bộ máy quản lý ở Nam Kỳ
từ năm 1887 đến năm 1945 135
590 VÙNG ĐẤT NAM BỘ VIII THIẾT CHẾ QUẢN LÝ XÃ HỘI

Chương III
HỆ THỐNG QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH Ở NAM BỘ
TỪ SAU CÁCH MẠNG THÁNG TÁM NĂM 1945 159
I- Thiết lập chính quyền cách mạng 159
II- Hệ thống quản lý hành chính ở Nam Bộ thời kỳ kháng
chiến chống thực dân Pháp (1945 - 1954) 175
III- Hệ thống quản lý hành chính ở Nam Bộ thời kỳ kháng
chiến chống Mỹ, cứu nước (1954 - 1975) 198
IV- Hệ thống quản lý hành chính ở Nam Bộ sau năm 1975 253

Chương IV
LÀNG XÃ VÀ CÁC THIẾT CHẾ TỰ QUẢN
CỦA NGƯỜI VIỆT Ở NAM BỘ 279
I- Vài nét về làng xã người Việt và các hình thức tự quản
của người Việt 279
II- Làng xã người Việt ở Nam Bộ và các thiết chế tự quản
của người Việt ở Nam Bộ 300

Chương V
THIẾT CHẾ TỰ QUẢN CỦA NGƯỜI KHMER
Ở NAM BỘ 373
I- Vài nét về người Khmer Nam Bộ 373
II- Thiết chế tự quản gắn với đơn vị tụ cư 384
III- Thiết chế tự quản gắn với quan hệ huyết thống 402
IV- Thiết chế tự quản gắn với sinh hoạt tôn giáo, tín ngưỡng 420

Chương VI
THIẾT CHẾ TỰ QUẢN CỦA NGƯỜI HOA
Ở NAM BỘ 429
I- Vài nét về người Hoa ở Nam Bộ 429
II- Các thiết chế tự quản của người Hoa ở Nam Bộ 440
MỤC LỤC 591

Chương VII
CÁC THIẾT CHẾ TỰ QUẢN CỦA CÁC CỘNG ĐỒNG
CƯ DÂN KHÁC Ở NAM BỘ 459
I- Người Chơro (JRO) 461
II- Người Mạ 475
III- Người Xtiêng 484
IV- Người Cơho 503
V- Người Chăm 509
Kết luận 521
Phụ lục 541
Tài liệu tham khảo 573

You might also like