Professional Documents
Culture Documents
b) Khí đá phiến
Khí đá phiến là khí thiên nhiên
được sản xuất từ đá phiến sét.
Sự lắng đọng bùn hữu cơ dưới
đáy các khối nước cổ đại cùng
với nhiệt và áp suất kết quả đã
biến bùn thành đá phiến sét và
cũng tạo ra khí tự nhiên từ chất
hữu cơ chứa trong đó.
Đá phiến có độ thấm ma trận quá thấp, không cho phép khí chảy với số lượng
nhiều, các giếng khí đá phiến phụ thuộc vào các khe nứt để cho phép khí chảy.
Gần như tất cả các giếng khí đá phiến ngày nay để tang cường lượng khí sản
xuất ra đều dung cách phá vỡ thủy lực các lớp đá phiến.
Từ năm 2000, khí đá phiến đã trở thành nguồn khí thiên nhiên chính ở Hoa Kỳ
và Canada. Do sản lượng khí đá phiến tăng cao, Hoa Kỳ hiện là nhà sản xuất
khí tự nhiên số một trên thế giới. Sau thành công tại Hoa Kỳ, thăm dò khí đá
phiến đang bắt đầu ở các nước như Ba Lan, Trung Quốc và Cộng hòa Nam Phi.
d) Khí biogas
4. Hiện diện
Khí thiên nhiên đã được phát hiện trên khắp các châu lục, ngoại trừ châu Nam
Cực.
3
Trữ lượng khí thiên nhiên thế giới tổng cộng vào khoảng 150×1018 m (150 tỷ
tỷ m3), chủ yếu nằm ở các nước phát triển (Nga, Mỹ, Canada, các nước khu
vực Trung Đông). Các mỏ có trữ lượng khác nằm ở các nơi khác ở châu Á,
châu Phi và Úc.
5. Phân loại
Khí thiên nhiên là một loại khí không màu sắc và được phân loại tùy theo
thành phần của nó.
Khí khô có chứa tỷ lệ metan cao, còn lại phần lớn là CO
Khí ướt có chứa đáng kể khối lượng hydrocacbon có phân tử lượng cao hơn
thuộc nhóm ankan, bao gồm etan, propan, và butan. Phần cặn lắng của khí là
phần còn lại sau khi các ankan đã được rút khỏi khí ướt.
Khí chua là khí chứa nồng độ H 2S cao (một chất khí không màu, độc có mùi
trứng thối).
Khí ngọt là khí có chứa ít chất H2S.
Các chất không phải là hydro cacbon trong khí thiên nhiên được là các chất
làm loãng (gồm các loại khí và hơi như: nitơ, cacbon dioxit và hơi nước) và
chất gây ô nhiễm (gồm các hydro sunfít và các hợp chất lưu huỳnh khác).
Nếu được đốt, các chất gây ô nhiễm có thể gây ra các vấn đề như ô nhiễm
không khí và mưa axit, g ây hư hại cho mùa màng và rừng, hồ, suối, sông.
6. Khai thác
Để định vị được các mỏ khí, các nhà địa chất học thăm dò những khu vực có
chứa những thành phần cần thiết cho việc tạo ra khí thiên nhiên: đá nguồn giàu
hữu cơ, các điều kiện chôn vùi đủ cao để tạo ra khí tự nhiên từ các chất hữu cơ,
các kiến tạo đá có thể "bẫy" các hydrocarbon.
Khi khai thác người ta sẽ dùng giàn khoan, máy khoan khí để có thể lấy khí
theo ống dẫn vào thùng chứa. Sau đó cần có một công đoạn lọc, điều chế thành
khí tự nhiên có thể ứng dụng trong đời sống. Khi đó, khí tự nhiên chuyển hóa
thành khí thiên nhiên dạng hóa lỏng. Đây là dạng được ứng dụng vào thực tế
nhiều nhất.
Khi các kiến tạo địa chất có thể chứa khí tự nhiên được xác định, người ta tiến
hành khoan các giếng các kiến tạo đá. Nếu giếng khoan đi vào lớp đá xốp có
chứa trữ lượng đáng kể khí thiên nhiên, áp lực bên trong lớp đá xốp có thể ép
khí thiên nhiên lên bề
mặt. Nhìn chung, áp
lực khí thường giảm
sút dần sau một thời
gian khai thác và
người ta phải dùng
bơm hút khi lên bề mặt.
Dầu mỏ và khí tự nhiên ở nước ta chủ yếu tập trung ở vùng thềm lục địa phía
Nam.
Ưu điểm của dầu mỏ nước ta là hàm lượng lưu huỳnh thấp, tuy nhiên do hàm
lượng parafin cao nên dầu mỏ nước ta dễ bị đông đặc
Khai thác, vận chuyển và chế biến dầu mỏ, khí thiên nhiên rất dễ gây ra ô
nhiễm môi trường và các tai nạn cháy nổ. Vì vậy, trong quá trình sản xuất và
vận chuyển dầu, khí phải tuân thủ nghiêm ngặt các quy định về an toàn đã đặt
ra.
Ở Bà Rịa-Vũng Tàu:
Hai đường ống dẫn khí vào vùng BR-VT: đường ống Nam Côn Sơn và Bạch
Hổ.
Vùng biển Bà Rịa - Vũng Tàu có khoảng 400 triệu m3
dầu, chiếm 93,29% trữ lượng cả nước
và khoảng trên 100 tỷ m3 khí, chiếm
16,2% trữ lượng cả nước.
Thực trạng
Dầu mỏ là nguồn năng lượng không tái tạo
nên nhiều người lo ngại về khả năng cạn
kiệt dầu trong một tương lai không xa.
Thực tế, điều kiện khai thác ở các mỏ
dầu khí chủ lực đã chuyển sang giai đoạn
suy giảm sản lượng hay có độ ngập nước cao và tiềm ẩn nhiều rủi ro, như mỏ
Bạch Hổ, Tê Giác Trắng, Sư Tử Đen, Sư Tử Vàng, Rạng Đông, ...
Sử dụng làm nhiên liệu và nguyên liệu đầu vào cho ngành chế biến hóa chất,
ngoài ra dùng để tạo ra nhiệt và ánh sáng: sưởi ấm, đốt lò, …
Là một nhiên liệu công nghiệp, khí thiên nhiên được đốt trong các lò gạch,
gốm và lò cao sản xuất xi măng. Nó còn được sử dụng để đốt các lò đốt các tua
bin nhiệt điện để phát điện cũng như các lò nấu thủy tinh, lò luyện kim và các
loại chế biến thực phẩm.
Sử dụng làm nguyên liệu đầu vào cho ngành hóa dầu để tạo ra các chất hóa
dầu. Các chất hóa dầu này được sử dụng
làm sản
phẩm cơ
sở cho
việc sản
xuất
phân
đạm, bột
giặt,
dược
phẩm, chất dẻo và nhiều loại hàng
hóa khác.
Được sử dụng để tạo ra H2. Khí Hydro có nhiều ứng dụng: nó là nguyên liệu
chính cho ngành công nghiệp hóa chất, tác nhân hydro hóa, một mặt hàng quan
trọng cho các nhà máy lọc dầu và nguồn nhiên liệu trong các phương tiện sử
dụng bằng khí H2.
Thức ăn giàu đạm
và thức ăn cho cá
được sản xuất
bằng cách cho
thêm khí thiên
nhiên vào vi vi
khuẩn
Một số mỏ khí thiên nhiên tạo ra khí chua có chứa hydrogen sulfide. Đây là
một khí vô cùng độc, có thể gây tử vong nếu hít phải.
Tiếp
xúc
với
khí
thiên
nhiên hóa lỏng có thể gây ra các hiện tưọng như phồng rộp da, LNG rất lạnh và
có thể gây bỏng lạnh, các mô ở mắt cũng
có
thể
bị
hư
hại
dù
thời
gian tiếp xúc rất ngắn. Nếu hít phải hơi LNG, phổi có thể bị tổn thương.
Trong một số trường hợp, rò rỉ khí thiên nhiên có thể gây ra các vụ nổ lớn, có
thể thiệt hại nghiêm trọng về người và tài sản.