You are on page 1of 50

1

Lời mở đầu

Đã từ lâu, ở các quốc gia có trữ lượng khí tự nhiên và khí dầu mỏ đáng
kể, việc khai thác và đưa vào sử dụng khí đã đem lại một nguồn lợi ích
kinh tế rất lớn.
Sự phát triển mạnh mẽ của ngành công nghiệp hoá học trong vài thập kỉ
gần đây, kèm theo đó là sự phát triển của ngành dầu khí và công nghệ các
sản phẩm hoá dầu, nguồn nguyên liệu từ khí thiên nhiên, khí đồng hành và
dầu mỏ đã chuyển ngành tổng hợp hoá học sang tổng hợp hoá dầu.
Hiện nay ở Việt Nam, qua nhiều năm thăm dò và tìm kiếm đã tìm ra
được rất nhiều mỏ dầu khí, trong đó tiêu biểu phải kể đến các mỏ như mỏ
Bạch Hổ, Đại Hùng, Rồng, Lan Tây, Lan Đỏ… và rất nhiều mỏ dầu khí
khác. Trong những năm qua việc khai thác tài nguyên từ các mỏ này đã
đem lại lợi ích không nhỏ cho nền kinh tế Việt Nam. Dầu thô được khai
thác ở quy mô công nghiệp từ năm 1986 nhưng một lượng lớn khí đồng
hành vẫn bị đốt bỏ ngay tại mỏ cho đến năm 1997. Hình ảnh những ngọn
lửa rực sáng trên các giàn khoan trong đêm đã một thời là hình ảnh nổi
tiếng và có phần tự hào về nền công nghiệp dầu khí non trẻ của Việt Nam.
Việc xử lý khí đồng hành với khối lượng lớn cần lượng máy móc đồ sộ mà
điều kiện khai thác trên biển không cho phép thực hiện. Đến nay, ngành
công nghiệp chế biến khí đã phát triển mạnh mẽ do nhu cầu của con người
là sử dụng nguồn nguyên liệu sạch và kinh tế khai thác từ các mỏ khí tự
nhiên và khí đồng hành. Do đó cần phải có một hệ thống tàng trữ và phân
phối sản phẩm khí nói chung và khí hoá lỏng ( LPG ) nói riêng một cách
hoàn chỉnh và đảm bảo an toàn phòng chống cháy nổ. Đây cũng là vấn đề
rất cần được quan tâm khi thiết kế, xây dựng các nhà máy lọc – hoá dầu
nhất là trong thời gian tới đây dự án xây dựng khu liên hợp lọc – hoá dầu
Nghi Sơn sẽ được tiến hành. Sau khi tìm hiểu, thu thập tài liệu và được sự
đồng ý của bộ môn Lọc Hoá Dầu khoa Dầu Khí trường đại học Mỏ - Địa

1
2

chất em đã lựa chọn đề tài cho đồ án tốt nghiệp của mình là “ Tìm hiểu và
tính toán thiết kế bồn chứa LPG dung tích 420 m 3”. Nội dung của đồ án
bao gồm các vấn đề chính là:
- Tổng quan về công nghiệp dầu khí ở Việt Nam
- Giới thiệu chung về LPG và bồn chứa .
- Tính toán thiết kế một bể chứa propan dung tích 420 m3.
- An toàn phòng chống cháy nổ đối với khu bồn bể chứa LPG và trong
các nhà máy lọc hóa dầu.
Trong quá trình làm đồ án, do thời gian có hạn và nhũng hiểu biết của
em còn hạn chế nên không tránh khỏi những sai sót. Vì vậy em rất mong
nhận được sư giúp đỡ của quý thầy cô và ý kiến đóng góp của các bạn cùng
lớp để đồ án của em được hoàn thiện hơn.
Thông qua đồ án này em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến các thầy cô
giáo trường đại học Mỏ - Địa chất, các thầy cô giáo trong bộ môn Lọc Hóa
Dầu khoa Dầu khí, đặc biệt em xin gửi lời cảm ơn đến giáo viên hướng dẫn
– TS Nguyễn Thị Bình đã tận tình giúp đỡ em tiến hành thực hiện và thu
thập số liệu cần thiết để em hoàn thành bản đồ án này.
Em xin chân thành cảm ơn !
Hà Nội, ngày tháng 06 năm 2009
Sinh viên thực hiện

Lê Trọng Hùng

2
3

Chương I : Tổng quan về công nghiệp dầu khí ở Việt


Nam
1.1 Khái niệm về khí tự nhiên
Khí tự nhiên là tập hợp những hydrocacbon khí CH 4, C2H6, C3H8,
C4H10… có trong lòng đất. Chúng thường tồn tại trong các mỏ riêng rẽ hoặc
tồn tại trên các lớp dầu mỏ. Khí tự nhiên cũng chứa các khí vô cơ như N 2,
H2S, CO2, khí trơ, mercaptan và hơi nước.
Trong nghĩa hẹp, khí tự nhiên được hiểu là khí trong các mỏ ở đó gần
như chỉ có khí mà không có dầu. Metan chiếm từ 70 – 98 % thể tích khí tự
nhiên.
Theo nghĩa rộng, khí tự nhiên được gồm cả khí đồng hành, đó là khí
hòa tan trong dầu mỏ hay lượng khí trong các mỏ khí ở trên cùng các mỏ
dầu. Metan chiếm từ 48 – 80 % thể tích khí đồng hành.
Khí tự nhiên có thể chia thành các loại sau :
* Khí không đồng hành : là khí nằm trong các mỏ khí riêng biệt,
không nằm trong mỏ dầu.
* Khí đồng hành : là các khí nằm trong các mỏ dầu và được tách ra
trong quá trình khai thác dầu.
Cũng như dầu mỏ, khí tự nhiên là nguồn nguyên liệu, nhiên liệu vô
cùng quí giá, gần như không tái sinh, đóng vai trò cực kì quan trọng, nếu
không nói là quyết định trong hoạt động kinh tế, sản xuất và trong đời sống
của con người trong thời đại văn minh hiện nay.
1.2 Nguồn gốc của dầu và khí
Hiện nay người ta chưa biết chính xác nguồn gốc dầu mỏ và khí tự
nhiên mà chỉ có thể giải thích bằng các thuyết khác nhau. Trong các thuyết
đó, thuyết nguồn gốc hữu cơ là được nhiều người chấp nhận nhất.
Theo thuyết này, có lẽ xác thực vật, động vật, mà chủ yếu là các loại
tảo phù du sống trong biển đã lắng đọng, tích tụ cùng với các lớp đất đá

3
4

trầm tích vô cơ xuống đáy biển từ hang triệu năm về trước đã biến thành
dầu mỏ, sau đó thành khí tự nhiên. Có thể quá trình lâu dài đó xảy ra theo
ba giai đoạn : biến đối sinh học bởi vi khuẩn, biến đổi hóa học dưới tác
dụng của các điều kiện địa hóa thích hợp và sự di chuyển tích tụ các sản
phẩm trong vỏ trái đất.
• Giai đoạn biến đổi sinh học : xác động thực vật bị phân hủy bởi các vi
khuẩn ưa khí, sau đó bởi các vi khuẩn kị khí trong quá trình trầm lắng dần
trong nước biển. Các albumin bị phân hủy nhanh nhất, các hydrat cacbon bị
phân hủy chậm hơn. Các khí tạo ra như H2S, NH3, N2, CO, CH4… hòa tan
trong nước rồi thoát ra ngoài, phần chất hữu cơ còn lại bị chôn vùi ngày
càng sâu trong lớp đất đá trầm tích. Không gian ở đó xảy ra quá trình phân
hủy sinh học trên gọi là vùng vi khuẩn.
• Giai đoạn biển đổi hóa học : ở giai đoạn hóa học tiếp theo, vật liệu hữu
cơ còn lại, chủ yếu là các chất lipid, nhựa, sáp, terpen, axit béo, axit humic
tham gia các phản ứng hóa học dưới tác dụng xúc tác của các chất vô cơ
trong đất đá ở điều kiện áp suất lớn hàng trăm, thậm chí hàng nghìn
atmotphe, ở một vài trăm độ bách phân. Các chất vô cơ khác nhau, đặc biệt
là các aluminosilicat, có thể đóng vai trò chất xúc tác. Quá trình biến đổi
hóa học xảy ra vô cùng chậm. Càng xuống sâu, thời gian càng lớn, sự biến
đổi đó càng xảy ra sâu xa.
Phản ứng chủ yếu xảy ra trong giai đoạn hóa học là phản ứng cracking,
trong đó mạch cacbon của phân tử chất hữu cơ bị đứt gãy dần. Kết quả là
các chất hữu cơ đơn giản hơn, chủ yếu là các hydrocacbon, sinh ra ngày
càng nhiều.
Đồng thời với việc xảy ra các phản ứng cracking phân hủy đó là quá
trình ngưng tụ, kết hợp một số chất hữu cơ tương đối đơn giản vừa tạo
thành để tạo ra các chất hữu cơ phức tạp hơn : các chất nhựa, asphalten.
Các chất nhựa, asphalten tan kém, nặng hơn, nên phần lớn bị kết tủa, sa

4
5

lắng, phần ít còn lại lơ lửng, phân tán trong khối chất lỏng hydrocacbon
sinh ra bởi quá trình cracking.
Tập hợp các phản ứng địa hóa đó đã biến dần các vật liệu hữu cơ thành
dầu mỏ và khí tự nhiên. Như vậy có thể coi khí tự nhiên là sản phẩm của
quá trình phân hủy hóa học của dầu mỏ, do đó mỏ khí tự nhiên thường ở
sâu hơn mỏ dầu, tuổi của khí tự nhiên thường cao hơn tuổi của dầu mỏ.
Dầu mỏ càng già sẽ càng nhẹ đi, càng chứa nhiều chất ít phức tạp, càng
biến nhiều thành khí.
• Giai đoạn di chuyển tích tụ tạo thành mỏ : dầu mỏ đang được tạo thành
ở dạng hỗn hợp lỏng có thể bị di cư từ chỗ này sang chỗ khác dưới tác
dụng vận động của vỏ trái đất. Chúng thẩm thấu, chui qua các lớp đất đá
xốp, chúng chảy theo các khe nứt và có thể bị tập trung, bị giữ trong những
tầng đá đặc khít, tạo ra các túi dầu mà ta thường gọi là các mỏ dầu. Trong
các mỏ dầu các quá trình hóa học vẫn tiếp tục xảy ra, dầu vẫn liên tục biến
thành khí, tạo ra các mỏ khí.
Quá trình hình thành dầu và khí xảy ra rất chậm, kéo dài hàng chục,
thậm chí hàng trăm triệu năm rồi và vẫn đang xảy ra, do đó tuổi của dầu
mỏ, của khí tự nhiên là rất lớn.
1.3 Thành phần của khí tự nhiên
Người ta phân thành phần của khí thiên nhiên và khí đồng hành ra làm
hai nhóm : nhóm các hợp chất hydrocacbon và nhóm các hợp chất phi
hydrocacbon.
1.3.1 Các hợp chất hydrocacbon
Hàm lượng các cấu tử chủ yếu là khí metan và đồng đẳng của nó
như : C2H6, C3H8, C4H10, iC4H10, ngoài ra còn có một ít hàm lượng các hợp
chất C5, C6 . Hàm lượng các cấu tử trên thay đổi theo nguồn gốc của khí.
Đối với khí thiên nhiên thì cấu tử chủ yếu là metan còn các cấu tử
nặng hơn như C3, C4 là rất ít và thành phần của khí trong một mỏ ở bất kì vị
trí nào đều như nhau, nó không phụ thuộc vào vị trí khai thác.

5
6

Đối với khí đồng hành thì hàm lượng các cấu tử C 3 , C4 cao hơn và
thành phần của nó phụ thuộc vào vị trí khai thác và thời gian khai thác.
1.3.2 Các hợp chất phi hydrocacbon
Ngoài các thành phần chính là hydrocacbon, trong khí thiên nhiên và
khí đồng hành còn chứa các hợp chất phi hydrocacbon như : CO 2, N2, H2S,
He, Ar, Ne...Trong đó cấu tử thường chiếm nhiều nhất là N 2. Đặc biệt, có
những mỏ khí chứa hàm lượng He khá cao, như các mỏ khí thiên nhiên ở
Mỹ. Ví dụ mỏ Kandas chứa 1,28 % He, mỏ Texas chứa 0,9 % He.
1.4 Phân loại khí tự nhiên
1.4.1 Phân loại theo nguồn gốc hình thành : người ta chia thành ba
loại:

* Khí thiên nhiên : là các khí chứa trong các mỏ riêng biệt mà thành
phần chủ yếu là metan ( 80 – 95 %, có mỏ lên đến 99 %), còn lại là các khí
khác như etan, propan, butan...

* Khí đồng hành : là khí nằm trong dầu. Khi khai thác dầu, có sự
giảm áp ta sẽ thu được khí này. Thành phần chủ yếu vẫn là metan nhưng
hàm lượng cấu tử nặng hơn ( C2+) tăng lên đáng kể .

* Khí ngưng tụ : thực chất là dạng trung gian giữa dầu và khí, bao
gồm các hydrocacbon như propan, butan...

1.4.2 Phân loại theo hàm lượng khí axit

Theo cách phân loại này ta có hai loại khí như sau :

* Khí chua : là khí có hàm lượng H2S > 1% thể tích, và hàm lượng CO2 >
2 % thể tích.

* Khí ngọt : là khí có hàm lượng các khí axit ít : H 2S < 1% thể tích, và
hàm lượng CO2 < 2 % thể tích.

6
7

1.4.3 Phân loại theo hàm lượng C3+

Theo cách phân loại này thì có hai loại khí : khí béo và khí gầy.

• Khí béo : là khí có hàm lượng C3+ > 150 g/ cm3 , có thể sản xuất ra khí
tự nhiên hóa lỏng LNG ( liquefied natural gas), khí dầu mỏ hóa lỏng
(liquefied petroleum gas) và sản xuất một số hydrocacbon riêng biệt cho
công nghệ tổng hợp hữu cơ hóa dầu.

• Khí gầy : là khí có hàm lượng C3+ < 50 g/ cm3 , dùng làm nhiên liệu cho
công nghiệp và sưởi ấm.
1.4.4 Phân loại theo hàm lượng C2+ : có hai loại
* Khí khô : là khí có hàm lượng C2+ < 10% thể tích .
* Khí ẩm : là khí có hàm lượng C2+ > 10% thể tích.
1.5 Sơ lược các ứng dụng của sản phẩm khí
Khí dầu mỏ có ứng dụng rất rộng rãi trong công nghiệp và trong đời
sống : dùng cho sản xuất điện, cho các hộ công nghiệp, cho sản xuất phân
urê, cho hóa chất, cho tiêu thụ trong gia đình, cho giao thông vận tải.
1.5.1 Sử dụng làm nhiên liệu
Ở nhiều nước đã dùng khí để phát điện ( chiếm 70 – 80 % sản lượng
khí) bằng các nhà máy điện chạy bằng tuabin khí, tuabin khí chu trình hỗn
hợp.
Trong các ngành công nghiệp khác có thể sử dụng trong các lò đốt
trực tiếp trong các nhà máy sản xuất vật liệu xây dựng, luyện cán thép, sản
xuất đồ gốm, thủy tinh cao cấp, sản xuất hơi cho các mục đích sấy, tẩy
rửa... và yêu cầu công nghệ khác của các nhà máy chế biến thực phẩm, dệt,
sợi...
Trong giao thông vận tải LPG / CNG ( khí tự nhiên nén) có thể thay
thế các loại nhiên liệu được sử dụng trước đây là xăng, diesel cho các loại
xe ô tô. Nó là loại nhiên liệu sạch, ít gây ô nhiễm môi trường.

7
8

Ngoài ra khí còn làm chất đốt lý tưởng dùng cho đun nấu trong gia
đình và các dịch vụ ( khách sạn, nhà hàng) khí còn dùng cho các hệ thống
sưởi ấm hoặc điều hòa nhiệt độ ở những trung tâm lớn.
1.5.2 Sử dụng khí làm nguyên liệu
* Sản xuất phân đạm urê cho nông nghiệp, chất nổ cho khai khoáng
và quốc phòng.
* Sản xuất metanol bán sản phẩm, từ đó có thể điều chế ra MTBE
( là một loại phụ gia tăng chỉ số octan cho xăng thì chì, giảm độc hại môi
trường ), sợi tổng hợp; metanol là nguyên liệu chính để sản xuất nhiều sản
phẩm công nghiệp quan trọng như fomalin, axeton, metyl metacylat
(MMA),dymetyltelephtalat( DMT), olefin...
* Sản xuất sắt xốp theo công nghệ hoàn nguyên trực tiếp thay cho
phương pháp cốc hóa than truyền thống.
* Đặc biệt có thể sử dụng rộng rãi trong công nghiệp hóa dầu, để từ
đó sản xuất các loại chất dẻo PVC, PE, sợi tổng hợp PA, PES, sơn tổng
hợp, chất tẩy rửa tổng hợp...
1.6 Tổng quan về thị trường khí Việt Nam
1.6.1 Tiềm năng khí Việt Nam
Trữ lượng khí tại Việt Nam được đánh giá là rất lớn, lượng khí tiềm
năng dự đoán vào khoảng 3 – 4,5 tỉ m 3 quy dầu, các mỏ khí phân bố rộng
rãi từ Bắc đến Nam trong đó chủ yếu tập trung tại hai vùng trũng Nam Côn
Sơn và Sông Hồng.
• Bể Sông Hồng : trữ lượng tiềm năng thu hồi khoảng 550 – 700 triệu tấn
quy dầu trong đó chủ yếu là khí, chiếm 14 % tổng tiềm năng của Việt Nam.
Đến nay đã phát hiện 250 tỉ m3 khí, chủ yếu là CO2, do đó tiềm năng kinh
tế thấp.
• Bể Phú Khánh : tiềm năng 300 – 700 triệu tấn quy dầu, chiếm 10% trữ
lượng tiềm năng của Việt Nam.

8
9

• Bể Cửu Long : được đánh giá có trữ lượng tiềm năng lớn nhất 700 –
800 triệu m 3 quy dầu, chiếm 20%. Trong đó bao gồm 270 triệu tấn dầu, 56
tỉ m3 khí đồng hành. Hiện đang khai thác mỏ Bạch Hổ ( 1986 ), mỏ Rồng (
1994), mỏ Rạng Đông ( 1998 ) và mỏ Ruby ( 1998 ). Tính đến tháng 12/
2004 từ bể Cửu Long khai thác được hơn 100 triệu tấn dầu và khoảng 11 tỉ
m3 khí.
• Bể Nam Côn Sơn : có trữ lượng 650 – 750 triệu tấn quy dầu, chiếm 17
% tổng tiềm năng trong đó lượng khí chiếm 35 – 38 % trữ lượng. Theo
đánh giá trữ lượng của bể bao gồm 74 triệu tấn dầu, 15 tỉ m3 khí đồng hành,
159 tỉ m3 khí không đồng hành và 23 triệu tấn condensat. Đặc điểm ưu việt
là lượng CO2 chiếm không đáng kể. Hiện đang khai thác mỏ Lan Tây, Lan
Đỏ.
• Bể Malay – Thổ Chu : tiềm năng của bể chiếm khoảng 5% ( 150 – 230
triệu tấn quy dầu), trong đó có 12 triệu tấn dầu, 3 tỉ m 3 khí đồng hành, 13 tỉ
m3 khí không đồng hành và 2 triệu tấn condensat. Tuy nhiên lượng khí tại
bể này cũng bị nhiễm khí CO2.
• Bể Vũng Mây : tiềm năng vào khoảng 1 – 1,5 tỉ m 3 khí quy dầu, chiếm
30% tổng lượng khí Việt Nam, chủ yếu trong bể là khí.
Bề mặt tiềm năng, hai bể Nam Côn Sơn và Sông Hồng có triển vọng về
khí và bể Cửu Long có triển vọng về dầu nhưng đồng thời cũng có một
lượng khí đồng hành rất lớn.
Ngoài ra còn có ba mỏ khí phát hiện tại Đà Nẵng, trong đó có 2 mỏ lớn
có trữ lượng khai thác dự báo khoảng 700 tỉ m 3 , tuy nhiên lượng CO2 trong
bể cũng khá cao do đó tiềm năng kinh tế cũng thấp.

9
10

Bảng 1.1 Trữ lượng khí tiềm năng ( nguồn Petro Việt Nam )
Bê Khí ( tỉ m3 )
Đồng hành Không đồng hành
Nam Côn Sơn 4 158
Cửu Long 40 -
Malay – Thổ Chu 13 -
Sông Hồng - 200
Bể khác - 2
Tổng 57 360

1.6.2 Tình hình khai thác và sử dụng khí ở Việt Nam
Phải tới ngày 30/4/1995, dòng khí đốt đầu tiên mới được đưa vào sử
dụng. Đây là sự kiện có ý nghĩa đánh dấu bước khởi đầu cho một ngành
công nghiệp mới – công nghiệp khí đốt Việt Nam. Hiện tại Tập đoàn Dầu
khí Việt Nam đang thực hiện một số công trình khai thác cũng như chế biến
các sản phẩm dầu và khí, bên cạnh đó một số dự án có quy mô lớn đang
được tiến hành, ngoài ra hiện tại cũng còn một số dự án đang chờ chính
phủ phê duyệt. Chúng ta có thể điểm qua một số công trình và dự án trọng
điểm sau :
• Mỏ Bạch Hổ : từ năm 1993 – 1995, hệ thống đường ống dẫn khí ngoài
khơi được hoàn thành, dẫn khí đồng hành từ mỏ Bạch Hổ vào bờ với công
suất 1 triệu m3 khí/ ngày, vận chuyển vào nhà máy điện Bà Rịa thay thế cho
180 nghìn tấn dầu DO/ năm và đã được mở rộng vào năm 1997 nâng công
suất lên 3 triệu m3 / ngày cung cấp đồng thời cho nhà máy điện Phú Mỹ 2.
Hiện nay, sản lượng khí từ hệ thống này đã trên 5 triệu m3/ngày. Bên cạnh
đó, dự án nhà máy GPP Dinh Cố hoàn thành vào tháng 11/ 1998 đã khởi
động cho lĩnh vực chế biến khí ở Việt Nam, tận dụng nguồn khí hóa lỏng
đáp ứng cho nhu cầu nhiên liệu dân dụng.
• Khí thiên nhiên Nam Côn Sơn đã đưa được vào bờ với năng suất ổn
định 2,7 tỉ m3 khí / năm cho thị trường công nghiệp và trong tương lai đảm
bảo cung cấp 7 – 8 tỉ m3 khí/ năm.

10
11

• Chương trình khí Tây Nam : sản lượng khí từ năm 2003 vào khoảng 2,5
tỉ m3 khí/ năm, khai thác ổn định 15 – 17 năm với trữ lượng xác minh 45 tỉ
m3 ( tiềm năng 60 tỉ m3 ) với mục tiêu phát triển đồng bằng sông Cửu Long,
đến 2010 vùng này sản xuất được 1200 – 1300 MW, xây dựng hệ thống
ống dẫn khí dài 500 km và các nhà máy điện môn ( 60 MW ), Sóc Trăng
( 475 MW), và xây dựng một tổ hợp điện đạm ở Cà Mau, hoàn tất vào năm
2008 – 2010 .
Hiện nay, bên cạnh các dự án khai thác khí, Petro Việt Nam đang triển
khai dự án đường ống Phú Mỹ – TP Hồ Chí Minh với công suất 2 tỉ m 3 khí/
năm, vốn đầu tư khoảng 70 triệu USD sẽ vận chuyển một phần khí từ bể
Cửu Long và Nam Côn Sơn bề cung cấp cho các nhà máy điện Hiệp
Phước, Thủ Đức và các khu công nghiệp dọc tuyến ống. Tuyến ống được
thiết kế ba đoạn : Phú Mỹ – Nhơn Trạch ( dài 35,6 km), Nhơn Trạch – Hiệp
Phước ( 11,09 km) xuất phát từ nhà máy phân phối khí Phú Mỹ.
1.6.3 Nhu cầu sử dụng khí ở Việt Nam
Ở Việt Nam khí được sử dụng chủ yếu vào các ngành : sản xuất
điện, công nghiệp, nhiên liệu dân dụng, sản xuất phân bón hóa học...
1.6.3.1 Nhu cầu khí cho ngành điện
Nhu cầu về điện năng tiêu thụ là rất lớn, cứ bình quân khi thu nhập
đầu người tăng 1 % thì cần tăng 2 – 3 % năng lượng. Từ cuối thập niên 80
nhu cầu về điện tăng khoảng 12 – 15 % /năm và khi đường dây 500 KV
Bắc Nam hình thành, nhu cầu tăng vọt lên 20%/ năm, do đó hiện tại ngành
điện phía Nam vẫn còn nhiều khó khăn đảm bảo đáp ứng đủ nhu cầu ngày
càng tăng theo tốc độ phát triển kinh tế. Việc xây dựng mới các nhà máy
thủy điện còn nhiều hạn chế trong khi việc sử dụng khí thiên nhiên làm
nguồn nhiên liệu lại thể hiện nhiều ưu việt so với các nguồn nhiên liệu
khác:
• Thứ nhất : sử dụng khí cho phát điện có các thuận lợi về mặt công nghệ
và vận hành. Về công nghệ, có thể đáp ứng được cho các tổ máy có công

11
12

suất cao, và về vận hành cho phép khởi động máy nhanh, vận hành đơn
giản và có độ tin cậy cao.
• Thứ hai : giảm chi phí đầu tư, chi phí vận hành và bảo dưỡng. Trong khi
đầu tư cho nhà máy điện nguyên tử là 3000 USD/ KW thì công suất đầu tư
cho nhà máy nhiệt điện tuabin khí chu trình hỗn hợp thấp hơn nhiều, chỉ
khoảng 500 USD/ KW.
• Thứ ba : thời gian xây dựng cho nhà máy điện chạy khí ngắn hơn và
không chiếm nhiều diện tích .
• Thứ tư : hiệu suất nhiệt của nhiệt điện khí cao, đạt trên 60% trong khi
hiệu suất nhiệt điện than và nhiệt điện nguyên tử chỉ đạt khoảng 40%.
• Thứ năm : sử dụng khí cho phát điện giảm thiểu các chất thải gây ô
nhiễm cho môi trường, một vấn đề đang rất được quan tâm trong giai đoạn
hiện nay.
Bảng 1.2 Nhu cầu sử dụng khí thiên nhiên ( đơn vị : triệu m3)
Năm 1995 2000 2005 2010
Công nghiệp 0 0 200 1200
Điện năng 500 1200 4500 7000
Phân bón 0 0 500 1000

Những tính ưu việt của sử dụng khí thiên nhiên làm giảm giá thành sản
xuất điện sử dụng khí, tăng tính cạnh tranh của sử dụng khí so với các loại
nhiên liệu khác. Do đó việc xây dựng các nhà máy điện tuabin chạy bằng
khí là phương án khả thi cao hiện nay cho vấn đề đáp ứng nhu cầu về điện.
Ngành công nghiệp chiếm hơn 50% nhu cầu về điện hiện nay và có khả
năng tăng mạnh trong tương lai, trong khi đó ở các ngành khác nhu cầu vẫn
tăng đều và nhu cầu điện cho dân dụng vẫn chưa đáp ứng hết. Vì vậy nhu
cầu sử dụng điện trong tương lai là rất lớn và chính là một đảm bảo lâu dài
cho thị trường khí.
1.6.3.2 Nhu cầu khí cho công nghiệp và nông nghiệp

12
13

Ngoài nhu cầu về điện năng sử dụng cho các ngành công nghiệp
và các khu công nghiệp tập trung tại thành phố Hồ Chí Minh, Đồng Nai,
Bình Dương, Bà Rịa – Vũng Tàu ... Bên cạnh đó các dự án khí điện đạm tại
Cà Mau đang triển khai cùng với nhà máy đạm Phú Mỹ triển khai vào
tháng 2/2001 và hoàn thành vào tháng 6/2004 cũng tiêu thụ lượng khí rất
lớn là 500 triệu m3 / năm.
1.6.3.3 Nhu cầu khí cho nhiên liệu
Trong giai đoạn hiện nay, xu hướng chuyển đổi việc sử dụng khí
thiên nhiên thay thế cho xăng, dầu trong phương tiện giao thông và các lò
đốt sử dụng nhiên liệu nặng như FO hoặc than củi với mục tiêu giảm thiểu
ô nhiễm môi trường do nhiên liệu đang được nghiên cứu thực hiện rất khả
thi dự báo cho nhu cầu sử dụng khí rất lớn.
Bảng 1.3 Nhu cầu khí cho các lĩnh vực ( tỉ m3)

Ngành Các giai đoạn


2005 2006 2007 2008 2009 2010
Điện 6,706 7,666 8,116 8,116 8,116 8,356
Đạm 0,94 0,94 0,94 1,25 1,25 1,25
Thép 0,3 0,3 0,3 0,3 0,3 0,3
Metanol 1,0 1,0 1,0 1,0 1,0 1,0
Etan 0,213 0,213 0,213 0,213 0,213 0,213
Propan 0,153 0,153 0,153 0,153 0,153 0,153
Các mục tiêu khác 0,7 0,7 0,7 0,7 0,7 0,7
Tổng cộng 10,99 11,44 11,75 11,75 11,75 11,75

Chương II : Giới thiệu chung về LPG


2.1 Khái niệm về LPG
LPG là tên viết tắt của khí dầu mỏ hóa lỏng (Liquified Petrolium
Gas). LPG là sản phẩm thu được từ quá trình khai thác dầu mỏ (khí đồng
hành), hoặc từ các mỏ khí thiên nhiên bao gồm các loại hydrocacbon khác
nhau, thành phần chủ yếu là propan, butan hoặc hỗn hợp của chúng.

13
14

Hoá lỏng khí dầu mỏ là quá trình tách đơn giản, vốn đầu tư ít hơn so
với các quá trình tách triệt để. Thông thường người ta chỉ tách riêng metan
thuần độ cao làm nguyên liệu sản xuất methanol, còn metan lẫn etan làm
khí đốt công nghiệp, gia dụng, phát điện hoặc cho xuất khẩu theo đường
ống dẫn khí, hoặc tách metan, etan cho sản xuất ammoniac, urê, còn phần
hoá lỏng là LPG.
Hiện nay trên thế giới LPG được sử dụng rộng rãi trong nhiều ngành :
giao thông vận tải, công nghiệp, nông nghiệp, chế biến thực phẩm... và trở
thành loại nhiên liệu không thể thiếu được đối với mỗi quốc gia, đặc biệt
với các nước có nền công nghiệp phát triển. LPG được sản xuất mạnh ở
những nước có tiềm lực lớn về dầu mỏ như : Mỹ, Nga, Canada, Mexico,
Venezuela, Indonexia, Angieri, Ả rập xê út, Nauy, Iran...
LPG tồn chứa trong các loại bình áp lực khác nhau và được tồn chứa ở
trạng thái bão hoà tức là tồn tại ở dạng hơi nên với thành phần không đổi,
áp suất bão hoà trong bình chứa không phụ thuộc vào lượng LPG bên trong
mà hoàn toàn phụ thuộc vào nhiệt độ bên ngoài. Chất lỏng nằm dưới phần
đáy và hơi nước nằm trên cùng của bình chứa, nghĩa là khoảng trên mức
chất lỏng. Thông thường các loại bình chứa chỉ chứa khí lỏng tối đa khoảng
80 ÷ 95 % thể tích bình, thể tích còn lại dành cho phần hơi có thể giãn nở
khi nhiệt độ tăng.
2.2 Thành phần của LPG
Thành phần hóa học chủ yếu của LPG là các hydrocacbon dạng
parafin có công thức chung là CnH2n+2. LPG là hỗn hợp nhất định của các
hydrocacbon như: Propan (C3H8), Propylen (C3H6), Butan (C4H10),
Butylen(C4H8). Tuy nhiên vẫn có khả năng xuất hiện vết của etan,etylen
hoặc pentan trong LPG thương mại. Butadien 1,3 có thể xuất hiện nhưng
không đạt tới tỷ lệ đo được. Ngoài ra còn có chất tạo mùi Etyl mecaptan ( R
– SH ) với tỷ lệ pha trộn nhất định để khi khí rò rỉ có thể nhận biết được
bằng khứu giác.

14
15

Sản phẩm LPG cũng có thể có hydrocacbon dạng olefin hay


không có olefin phụ thuộc vào phương pháp chế biến.
2.3 Một số tính chất hóa lý đặc trưng của LPG
Bảng 2.1 Tính chất của LPG

Tính chất Đơn vị đo Propan Butan

0
Điểm sôi C -42 đến -45 -0,5 đến -0,2
760mmHg
0
Nhiệt bốc cháy C 520 500
Tỷ trọng so với 1,4 đến 1,52 1,9 đến 2,01
không khí
Khối lượng Kg/m3 1,83 2,46
riêng
Nhiệt dung Btu/1b0F 0,6 0,57
riêng kJ/kg0C 2,512 2,386
Ân nhiệt bay KJ/kg 358,2 372,2
hơi
Áp suất hơi tại:
150C 6,5 0,8
200C Bar 9 2,75
250C 19,6 7
Nhiệt trị toàn Kcal/kg 12000 11800
phần
Nhiệt trị tối Kcal/kg 11000 11900
thiểu
Tỉ lệ thể tích Lít/lít 275 235
khí
Giới hạn cháy 2 1,8
nổ dưói với %V
không khí
0
Nhiệt độ cháy C 1967 1973
với không khí

15
16

0
Nhiệt cháy với C 2900 2904
0xi
Thể tích riêng ở Lít/tấn 1957-2019 1723-1760
15,60C
Lượng không M3 25
khí cần đốt
cháy 1m3 khí

Từ bảng trên ta thấy rằng, ở thể lỏng cũng như ở thể khí Butan đều
nặng hơn Propan nhưng với cùng một trọng lượng thì Propan tạo ra thể khí
lớn hơn so với Butan.
3.3.1 Hệ số dãn nở
Hệ số dãn nở khối của LPG là lượng thể tích tăng lên khi nhiệt độ
của vật chất tăng lên 10C.
Sự dãn nở nhiệt của LPG rất lớn ( gấp 15 ÷ 20 lần so với nước và
lớn hơn rất nhiều so với các sản phẩm dầu mỏ khác). Do đó các bồn chứa,
bình chứa LPG chỉ được chứa đến 80÷ 85 % dung tích toàn phần để có
không gian cho LPG lỏng dãn nở khi nhiệt độ tăng lên.
Do hệ số dãn nở của LPG lớn nên đòi hỏi:
* Phải giữ khoảng trống phù hợp trong các bồn chứa, bình chứa; lắp đặt
các van an toàn cho bồn chứa, các ống dẫn.
* Đo một cách chính xác nhiệt độ sản phẩm trong kho chứa chứa để khi
vận chuyển thì điều khiển được mức dự trữ, hư hao như quy định.
2.3.2 Nhu cầu không khí khi đốt cháy
Khi đốt cháy hoàn toàn một thể tích LPG đòi hỏi không khí lớn gấp
23 lần đối với propan và gấp 33 lần đối với butan. Đồng thời phản ứng sinh
ra lượng CO2 gấp từ 3 – 4 lần thể tích khí đốt. Điều này rất quan trọng vì để
lường trước được khả năng thiếu oxy bão hoà CO 2 đột ngột trước khi đốt
LPG trong không gian khí.
2.3.3 Ẩn nhiệt bay hơi

16
17

Ân nhiệt của chất lỏng là lượng nhiệt cần hấp thụ để bay hơi hoàn
toàn một đơn vị khối lượng chất lỏng đó. Điều này đúng với cả khí hoá
lỏng và đúng với cả nước, nếu không có nhiệt cung cấp bên ngoài thì chất
lỏng không bay hơi được. Khi chất lỏng lạnh dần xuống thì sự bay hơi có
thể chậm lại hay dừng hẳn. Như vậy LPG lỏng đựng trong bình kín có một
lượng khí thoát ra từ bình chứa tương ứng với lượng hơi được tạo ra do sự
cung cấp nhiệt ở điều kiện áp suất khí quyển.
3.3.4 Tỷ trọng
Tỷ trọng thể lỏng : ở điều kiện 15oC, 760mmHg ,tỷ trọng của
propan là 0,51 ; còn butan là 0,575. Propan và butan nhẹ hơn nước nên nó
nổi lên trên mặt nước.
Tỷ trọng thể hơi : ở điều kiện 15oC, 760mmHg, tỷ trọng của propan
hơi bằng 1,52 và butan hơi bằng 2,01. Như vậy ở thể hơi, tỷ trọng của LPG
gấp gần 2 lần tỷ trọng của không khí.
Như vậy khi LPG rò rỉ, khí thoát ra nặng hơn so với không khí sẽ
lan truyền dưới mặt đất ở nơi trũng như rãnh nước, hố gas... Để đảm bảo an
toàn khi có rò rỉ cần tạo điều kiện thông thoáng phần dưới không gian sử
dụng hoặc chứa LPG.
2.3.5 Áp suất hơi bão hoà
LPG có áp suất hơi bão hoà cao hơn áp suất khí quyển, nên ở điều
kiện bình thường ( nhiệt độ và áp suất khí quyển ) LPG tồn tại ở dạng hơi.
Trong điều kiện nhất định về nhiệt độ và áp suất, LPG sẽ chuyển sang dạng
lỏng và có thể tích nhỏ hơn rất nhiều lần so với dạng hơi, điều này thuận lợi
cho việc vận chuyển và tàng trữ.
LPG chứa trong bình kín có thể làm tăng áp suất của bình do tính
chất dễ bay hơi của nó. Nhiệt độ môi trường quá thấp có thể làm giảm áp
suất hơi dưới mức áp suất khí quyển.
Áp suất hơi bão hòa của LPG phụ thuộc vào nhiệt độ bên ngoài của
thiết bị và tỷ lệ thành phần Butan/ propan.

17
18

LPG với thành phần 70% butan và 30% propan có áp suất hơi bão
hòa là 6 kg/ cm2. Ở cùng điều kiện nhiệt độ, khi thay đổi thành phần hỗn
hợp , áp suất hơi bão hòa cũng thay đổi.`
3.3.6 Giới hạn cháy nổ
Hỗn hợp hơi nhiên liệu với không khí có thể cháy nổ khi gặp lửa.
Hỗn hợp chỉ cháy nổ khi nó nằm trong một giới hạn nào đó về nhiệt độ, áp
suất và thành phần. Vùng cháy nổ có giới hạn trên và giới hạn dưới về nồng
độ. Giới hạn dưới ứng với nồng độ nhiên liệu tối thiểu trong hỗn hợp mà ở
đó hỗn hợp cháy khi gặp lửa. Giới hạn trên ứng với nồng độ cực đại của
nhiên liệu để nhiên liệu cháy khi gặp lửa. Nếu quá giới hạn trên hỗn hợp
không cháy nổ vì thiếu oxy, còn thấp hơn giới hạn dưới hỗn hợp quá nghèo
nhiên liệu phản ứng cháy không xảy ra được. Giới hạn cháy nổ được thể
hiện ở bảng sau :

Bảng 2.2 : Giới hạn cháy nổ


Thành phần Giới hạn dưới Giới hạn trên
( % thê tích) ( % thê tích)
Propan thương phẩm 2,2 10,0
Butan thương phẩm 1,8 9,0
Khí than metan 5,0 40,0
Khí thiên nhiên 5,0 15,0
Đối với LPG để đốt cháy và phát nổ nếu được trộn lẫn với không khí
theo tỷ lệ LPG/ không khí : 5 – 15 % tương đương với LPG/ Oxy là 0,25 –
0,75.
2.3.7 Nhiệt độ cháy
Hỗn hợp LPG/ trên không khí cháy sinh ra một lượng nhiệt rất lớn
và tương đối sạch không để lại tạp chất.

18
19

Bảng 2.3 Nhiệt cháy và nhiệt trị của LPG

Nhiệt độ cháy Nhiệt trị LPG ( kcal/kg)


Lớn nhất Nhỏ nhất
Sản phẩm lớn nhất của
LPG/ không
khí (oC)
C3H8 1967 22000 11000
C3H6 2050
C4H10 1973 11800 10900
C4H8 2033

3.3.8 Nhiệt độ tự bắt cháy


Nhiệt độ tự bắt cháy là nhiệt độ mà tại đó phản ứng cháy tự xảy ra
đối với hỗn hợp không khí, nhiên liệu ( hoặc oxy/ nhiên liệu). Nhiệt độ bắt
cháy tối thiểu phụ thuộc vào thiết bị thử, tỷ lệ không khí/ nhiên liệu, áp suất
hỗn hợp.
Bảng 2.4 Nhiệt độ tự bắt cháy của một số loại nhiên liệu tại áp suất khí
quyên
Số thứ Nhiên liệu Nhiệt độ cháy tối thiêu ( oC )
Trong không Trong Oxy
tự
khí ( O2)
1 Propan 400 – 580 470 – 575
2 Butan 410 – 550 280 – 550
3 Acetylen 305 – 500 295 – 440
4 Hydro 550 – 590 560
5 Dầu DO 250 – 340 >240
6 Xăng 280 – 430 >240
7 Dầu hỏa >250 >240
8 Metan 630 – 750

2.4 Các ứng dụng quan trọng của LPG


Thành phần chủ yếu của LPG là propan và butan, được sản xuất bằng
cách nén khí đồng hành hoặc khí từ các quá trình chế biến dầu mỏ ở các

19
20

nhà máy lọc dầu. Việc ứng dụng LPG thương phẩm thường phân chia thành
loại chính :
- Propan thương phẩm : làm nhiên liệu cho động cơ hoạt động ở những
điều kiện khắc nghiệt của môi trường (áp suất cao, nhiệt độ thấp ).
- Butan thương phẩm : Sử dụng làm nhiên liệu đòi hỏi sự bay hơi trung
bình.
- Propan chuyên dùng : Là sản phẩm có chất lượng cao sử dụng trong các
động cơ đốt trong, đòi hỏi nhiên liệu có khả năng chống kích nổ cao.
- Hỗn hợp propan – butan : sử dụng làm nhiên liệu đòi hỏi sự bay hỏi
trung bình.
Hỗn hợp propan – butan là thích hợp cho việc chế biến thành sản
phẩm khí đốt gia dụng vì chúng có áp suất hơi bão hoà và nhiệt độ bay hơi
thích hợp trong các điều kiện sinh hoạt cụ thể.
LPG có nhiệt cháy cao mặc dù tỷ trọng butan lớn hơn tỷ trọng propan
nhưng nhiệt trị tương tự nhau và nằm trong khoảng 11300 ÷ 12000 Kcal/ kg ;
tương đương nhiệt trị của 1,5 – 2 kg than củi ; 1,3 lít dầu mazut ; 1,35 lít
xăng.
Với những đặc tính trên, LPG được sử dụng rất rộng rãi trong mọi
lĩnh vực của đời sống. Một cách tương đối có thể phân chia các ứng dụng của
LPG như sau :
- Sử dụng LPG trong dân dụng: Sử dụng trong nấu nướng, thay thế
điện trong các bình nước nóng, ứng dụng trong các hệ thống sưởi ấm nhà,
chiếu sáng, giặt là.
- Sử dụng LPG trong thương mại: Sử dụng trong các bếp công nghiệp, lò
nướng, đun nước nóng trong các nhà hàng, trong công nghiệp chế biến thực
phẩm.
- Sử dụng LPG trong công nghiệp: Sử dụng trong công nghiệp gia công
kim loại, hàn cắt thép, nấu và gia công thủy tinh, lò nung sản phẩm silicat,
khử trùng đồ hộp, lò đốt rác, sấy màng sơn...

20
21

- Sử dụng LPG trong nông nghiệp: Sử dụng để sản xuất thức ăn gia
súc, chế biến, sấy nông sản, ngũ cốc, thuốc lá, sấy chè, cà phê, lò ấp trứng,
đốt cỏ…
- Sử dụng LPG trong giao thông: Là nhiên liệu lý tưởng thay thế cho
động cơ đốt trong vì trị số ốc tan cao, giá thành rẻ, ít gây ô nhiễm môi
trường, đơn giản hóa cấu tạo động cơ. Nó làm giảm đáng kể sự thoát khí ở
xe tải, làm nhiên liệu đốt trong thay xăng cho các xe du lịch, xe taxi. Ở một
số nước tiên tiến dùng LPG hoá lỏng thay xăng pha chế vừa hạn chế độc
hại trong sử dụng đối với con người, vừa kinh tế.
- Sử dụng LPG trong công nghiệp hoá dầu : LPG được sử dụng trong
tinh chế và công nghiệp hoá dầu. Trong tinh chế, butan dùng để sản xuất
dầu nhờn, n- butan thêm vào để tăng tính bay hơi và chỉ số octan của nhiên
liệu. Một trong những ứng dụng quan trọng khác của LPG là sử dụng làm
nguyên liệu hoá học để tạo ra những polyme trung gian như : polyetylen,
polyvinyl clorua, polypropylen và một số chất khác. Đặc biệt để sản xuất
MTBE là chất làm tăng trị số octan thay thế cho hợp chất pha chì trong
xăng đã phát triển trong một vài năm gần đây.
- Sử dụng cho nhà máy phát điện : Dùng LPG chạy các tuabin để sản
xuất ra điện phục vụ cho các ngành công nghiệp khác đem lại hiệu quả kinh
tế cao và vốn đầu tư xây dựng ban đầu đối với công nghệ này là thấp hơn
so với công nghiệp thuỷ điện và nhiệt điện.
2.5 Ảnh hưởng của các tính chất đến việc tàng chứa và vận chuyên
LPG
LPG có áp suất hơi bão hòa lớn hơn 40 psia ( 2,7atm) tại 100 0F,nhiệt
độ bình thường 250C, áp suất 1Bar thì LPG tồn tại ở dạng khí,chúng có thể
hóa lỏng bằng cách làm lạnh dưới nhiệt độ điểm sôi ( áp suất thường ) hay
nén trên áp suất hơi bão hòa. Nhưng các chất khí hóa lỏng này sẽ hóa hơi
ngay sau khi thoát ra ngoài ở nhiệt độ thường. Tính chất này cho phép ta

21
22

vận chuyển, tàng trữ LPG dưới dạng lỏng nhưng sử dụng chúng dưới dạng
khí.
Propan và butan đều có nhiệt độ điểm sôi thấp (đối với butan là +32 0F
còn đối với propan là -440F). Nhiệt độ này đặt biệt quan trọng trong việc
lựa chọn vật liệu chế tạo bồn chứa và trong việc thiết lập đập chống lan
chất lỏng khi xảy ra sự cố.
Khi tồn tại ở trạng thái lỏng thì tỉ trọng của LPG chỉ bằng ½ so với tỉ
trọng của nước nước luôn luôn nằm phía đáy của bồn. Tính chất này được
ứng dụng khi thiết kế đường ống xả nước cho bồn. Khi LPG thoát ra ngoài
môi trường ở dạng hơi thì chúng đều nặng hơn không khí, vì vậy chúng
không bay lên cao mà ở rất thấp gần mặt đất và khả năng khuyết tán chậm
hơn các khí nhẹ hơn. Tính chất này đặt biệt quan trọng trong phòng chống
chay nổ, kiểm soát sự rò rỉ khí ra ngoài.
LPG tinh khiết không gây ăn mòn đối với thép và các hợp kim của
đồng. Tuy nhiên khi có hợp chất bẩn khác trong thành phần sẽ gây ăn mòn
lớn.
LPG không màu, không mùi nên để kiểm tra phát hiện rò rỉ ra môi
trường ngoài phải thêm chất tạo mùi cho khí.
2.6 Công nghệ sản xuất LPG
Sau khi dầu thô được làm ổn định – phân ly thì trong quá trình vận
chuyển đến nhà máy tinh chế, những lượng nhỏ quan trọng của LPG và
thành phần nhẹ hơn (metan,etan)còn ở trong dầu được đưa đến nhà máy
tinh luyện. Tại đây dầu thô được đưa đến tháp chưng cất phân đoạn. Khí
thuộc thành phần nhẹ được tạo ra là sản phẩm đầu từ cột cất phân đoạn bao
gồm LPG, etan, metan. Những thành phần còn lại bao gồm các phần nặng
như : dầu mỏ, phần cặn.
LPG và những phần nhẹ hơn thu được từ thành phần trực tiếp của dầu
thô và từ thành phần những sản phẩm của các quá trình biến đổi tinh chế
khác nhau như: cracking, cracking xúc tác, hydrocracking, ankyl hoá.

22
23

Tuỳ thuộc vào từng trường hợp mà ta áp dụng các phương pháp sản
xuất thu hồi LPG ở trong các nhà máy chế biến khí hay nhà máy tinh chế
như : phương pháp nén, phương pháp làm lạnh, phương pháp hấp thụ, hấp
phụ….
Một quá trình sản xuất LPG gồm 3 công đoạn chính:
- Chuẩn bị nguyên liệu.
- Chế biến khí
- Pha trộn thành phần LPG
Việc lựa chọn hướng chế biến khí được quyết định bởi tính chất hoá lí
của hỗn hợp khí, mức độ phát triển của công nghệ chế biến khí và những
nhu cầu của nền kinh tế đối với sản phẩm. Công nghệ được lựa chọn đặc
biệt quan trọng và phụ thuộc vào hàng loạt yếu tố như : chất lượng nguyên
liệu khí, các thông số công nghệ, các yếu tố ảnh hưởng, chu trình làm
lạnh….
Sau khi thu được khí qua các công đoạn như thu gom, xử lí, tách các
thành phần khí bằng các cách khác nhau. Cuối cùng là công đoạn pha trộn
thành phần LPG để tạo ra sản phẩm LPG.
Công đoạn pha trộn là công đoạn đơn giản nhất trong các công đoạn sản
xuất LPG. Tuỳ theo nhu cầu thị trường về tiêu thụ sản phẩm LPG mà các
nhà sản xuất sau khi đã có thành phần khí C3 và C4 riêng biệt sẽ đem trộn
lẫn chúng với nhau theo 1 tỉ lệ thích hợp làm sao đáp ứng tốt về nhiệt trị
cũng như tính an toàn. Trong quá trình pha trộn thành phần LPG thì chế độ
công nghệ phụ thuộc vào tỉ lệ cấu tử chính là butan và propan cũng như
năng suất thiết bị. Tuỳ theo mục đích sử dụng mà người ta dùng các loại
máy nén 1 cấp, 2 cấp, hay 3 cấp cùng với thiết bị chứa chuyên dụng để nạp,
nén, tồn chứa LPG tại áp suất khác nhau.

23
24

Chương III :Tổng quan về công trình bê chứa


3.1 Khái niệm
Bể chứa là dạng công trình xây dựng phục vụ cho công tác tồn
chứa các loại nhiên liệu trong đó chủ yếu là nhiên liệu lỏng hoặc khí.
Hiện nay, người ta đã chế tạo được những loại bể chứa có khả năng
chứa lớn và chịu được áp lực cao.
Bể chứa thường được phân loại theo áp lực của nhiên liệu trong bể,
gồm: Bể chứa áp lực thấp và Bể chứa áp lực cao.
3.2 Phân loại bê chứa
3.2.1 Bê chứa áp lực thấp :
Loại bể này chủ yếu hình trụ với nhiều kiểu mái khác nhau. Bể
chứa áp lực thấp thường được dùng để chứa các chất lỏng dễ bay hơi như:
dầu, xăng…
Trong thực tế thường có bể áp lực thấp như sau:

 Bể chứa trụ đứng mái tĩnh

 Bể chứa trụ đứng mái phao

24
25

 Bể chứa trụ ngang

3.2.1.1 Bê chứa trụ đứng mái tĩnh :

Bể chứa trụ đứng mái tĩnh có thể chứa từ 100 đến 20.000 m3 khi

thiết kế chứa xăng, hay khoảng 50.000 m3 khi chứa dầu mazut.

Bể trụ đứng mái tĩnh


Các bộ phận chính của bể gồm:
—Đáy bể: Được đặt trên nền cát đầm chặt hoặc nền được gia cố có lớp
cách nước và được hàn từ các tấm thép.
—Thân bể: Là bộ phận chịu lực chính, gồm nhiều khoang thép tấm hàn lại,
có thể thay đổi được hoặc không thay đổi chiều dày dọc theo thành bể.
—Mái bể: Cũng đựơc tổ hợp từ các tấm thép hàn lại với các dạng chính
như sau: Mái nón, mái treo, mái trụ cầu, mái vòm (xem hình dưới)

25
26

3.2.1.2 Bê chứa trụ đứng mái phao


Loại bể này hiện nay được sử dụng khá nhiều trên thế giới. Việc sử
dụng loại mái mang lại hiệu quả kinh tế cao, làm giảm đáng kể sự mất
mát hydrocacbon nhẹ, giảm ô nhiễm môi trường xung quanh. Việc loại
trừ khoảng không gian hơi trên bề mặt xăng dầu chứa trong bể, cho phép
tăng mức độ an toàn phòng cháy và vệ sinh môi trường hơn các loại bể
khác.
Trên thực tế, người ta hay dùng hai loại bể: Bể hở có mái phao và
bể kín có mái phao. Trường hợp bể hở có hệ số xuất nhập lớn và nằm
trong vùng khí hậu không có tuyết thường dùng kiểu mái hở không có
phao.

Bể chứa trụ đứng mái phao


Các bộ phận chính của bể gồm:
—Phao nổi thường được làm từ các hợp loại kim nhẹ, có gioăng liên
kết với thành bể.
—Thân bể có mặt trong nhẵn để đảm bảo độ kín khít.
—Mái do có thêm phao nổi vì vậy mái chỉ đóng vai trò bao che chứ
không đóng vai trò chịu lực.

26
27

3.2.1.3 Bê chứa trụ ngang


Chứa nhiều loại nhiên liệu khác nhau, có ưu điểm là hình dạng đơn
giản, chịu biến động áp suất tốt. Nhược điểm chính là nó có thể tích nhỏ
và phải có giá đỡ.
Bể chứa trụ ngang được chế tạo từ các tấm thép (bể có kích thước
lớn) hoặc đúc liền khối (bể có kích thước nhỏ). Với bể có kích thước lớn
thì được tổ hợp từ các phân đoạn nhỏ. Các phân đoạn bể lại được tổ hợp
từ các tấm thép và được hàn tự động trong xưởng chết tạo. Bên trong còn
được bố trí thêm các vành gia cường để đảm bảo độ ổn định cũng như
độ bền của bể.

Bể chứa trụ ngang

3.2.2 Bê chứa áp lực cao


Đối với các bể chứa nhiên liệu lỏng do có khoảng trống dẫn tới
việc bay hơi của nhiên liệu trong khoảng mặt thoáng và mái bể gây nên áp
suất dư đồng thời gây hao nhiên liệu. Để chịu được áp lực dư này và hạn
chế sự bay hơi của nhiên liệu người ta sử dụng nhiều loại bể chứa áp lực
cao khác nhau.
3.2.2.1 Bê trụ đứng mái cầu
Loại bể này dùng để chứa sản phẩm dầu, xăng nhẹ dưới áp lực dư
Pd = 0.01 - 0.07 Mpa. Mái gồm các tấm cong chỉ theo phương kinh tuyến
với bán kính cong bằng đường kính thân bể. Thân bể được tổ hợp hàn từ

27
28

những tấm thép, bề dày thân bể có thể thay đổi được hoặc không thay
đổi dọc theo chiều cao thành bể. Đáy bể cũng được đặt trên nền gia cố
với móng bằng bê tông cốt thép.
Đối với loại bể này khi chế tạo phải chế tạo neo giữ vì khi trong bể
còn ít chất lỏng, dưới tác dụng của áp lực dư lớn, phần xung quanh đáy có
thể bị uốn cong nâng lên cùng bể .

Bể trụ đứng mái cầu

3.2.2.2 Bê cầu
Bể cầu là loại bể thường dùng chứa sản phẩm lỏng dưới áp lực cao
như gas hóa lỏng hoặc thành phần nhẹ của xăng với áp lực dư Pd = 0.25
÷ 1.8 Mpa. Thể tích bể V =600-4000m3.
Bể cầu chế tạo phức tạp hơn nhiều so với bể trụ. Bể được hàn tổ hợp
từ các tấm cong hai chiều được chế tạo bằng cách cán nguội hoặc dập
nóng (Khi chiều dày lớn). Các tấm thường được hàn với nhau bằng đường
hàn đối đầu. Cách chia tấm trên mặt cầu có nhiều dạng khác nhau: múi
kinh tuyến với các mạch nối song song hoặc so le.
Bể được đặt trên gối dạng vành hay thanh chống bằng thép ống
hoặc thép chữ I. Dùng thanh chống đảm bảo được biến dạng nhiệt tự do
cho bể. Các thanh chống nên tiếp xúc với mặt bể để giảm ứng suất cục

28
29

bộ và không tỳ vào đường hàn nối các tấm của vỏ bể.


3.2.2.3 Bê trụ nằm ngang
Bể chứa trụ ngang dùng để chứa các sản phẩm dầu mỏ dưới áp lực
dư Pd < 0.2 Mpa và hơi hoá lỏng có Pd < 1.8 Mpa. Thể tích bể V < 100

m3 đối với các sản phẩm dầu khí và V < 500 m3 đối với hơi hoá lỏng.
Bể chứa trụ ngang có các ưu điểm chính sau: hình dạng đơn giản, dễ
chế tạo, có khả năng chế tạo tại nhà máy rồi vận chuyển đến nơi xây
dựng. Nhược điểm là đòi hỏi yêu cầu kỹ thuật cao và thể tích chứa nhỏ
(gối đỡ thì bể nào cũng có).
Bể trụ ngang gồm ba bộ phận chính: Thân, đáy và gối tựa. Thân bể
bằng thép tấm gồm nhiều khoang, các tấm trong cùng khoang và các
khoang được hàn lại với nhau bằng đường hàn đối đầu, bên trong bể có
gia cường bằng các đai thép hình có hình dạng khác nhau: phẳng, nón,
trụ, cầu elip. Việc chọn dạng đáy phụ thuộc thể tích, áp lực dư trong bể
chứa được đặt trên nền móng bằng bê tông cốt thép.

3.3 Cấu tạo của bồn chứa.


Trong hệ thống bồn chứa gồm có các bồn chứa hình trụ chịu áp chứa
sản phẩm, các bồn chứa này đều được thiết kế chung cho một tiêu chuẩn
tàng chứa propan...
Bồn chứa là loại chịu áp lực cao hình trụ nằm ngang, bồn được đặt
trên một nền bê tông kiên cố. Bồn được phủ cát để tránh sự hấp thụ nhiệt từ
môi trường bên ngoài. Trên mỗi bồn chứa được lắp đặt các thiết bị để đảm
bảo an toàn cho bồn chứa.

29
30

Mỗi bồn chứa được lắp hai van an toàn áp suất ( 1 làm việc và 1 dự
phòng), mỗi van được thiết kế theo tiêu chuẩn API 520 và API 521. Trong
quá trình vận hành nếu áp suất trong bồn chứa tăng vượt mức cài đặt thì
van tự động xả ra đuốc đốt. Các van này được nối ở mức kép để khi cần
thiết tháo dỡ kiểm tra thì một van xả áp ra đuốc đốt khi có bất kì sự cố vượt
áp nào. Trường hợp các van an toàn áp suất được nối với đuốc đốt thì mỗi
van an toàn cần lắp đặt thêm các van cách ly, bố trí ở phía xả các van an
toàn cần được tháo gỡ để kiểm tra định kì.
Trên mỗi bồn chứa có lắp đặt thiết bị báo mức trên mỗi bồn chứa
được thiết kế dạng báo tín hiệu trực tiếp và chính xác đến người vận hành.
Trong suốt quá trình xuất hay nhập sản phẩm các thiết bị báo mức này theo
dõi và đo mức chất lỏng trong bồn để báo về phòng điều khiển ngừng quá
trình xuất hay nạp sản phẩm.
Tại đầu đường ống nạp của bồn còn lắp đặt các van SDV với mục đích
an toàn, các van SDV sẽ đóng khi có tín hiệu báo mức cao trong bồn nhằm
mục đích bảo vệ bồn, tránh tình trạng xảy ra trường hơp quá đầy và tăng
tính lưu động trong quá trình tàng trữ sản phẩm.
Tại đường xuất của mỗi bồn chứa cũng lắp đặt các van SDV thứ 2, khi
có tín hiệu báo mức thấp trong bồn thì van này sẽ đóng lại. Mục đích của
việc lắp đặt van này là bảo vệ bồn chứa không bị tình trạng hút chân không
và làm hư các máy bơm của bồn. Chức năng thứ 2 của van này là nhận tín
hiệu cháy từ các thiết bị dò báo cháy, các van này đều có 2 chế độ điều
khiển: Điều khiển bằng tay và điều khiển tự động.
Trên bồn chứa được lắp đặt các thiết bị đo nhiệt độ và áp suất. Chúng
được thiết kế cho việc ghi lại nhiệt độ và áp suất một cách thưòng xuyên để
truyền về phòng điều khiển.
Ký hiệu của các thiết bị trên bồn chứa như sau :
- SV : Van an toàn
- P : Áp kế - hiển thị các thông số áp suất trong bồn.

30
31

- T : Nhiệt kế - Đo các giá trị về nhiệt độ trong bồn.


- PT : Bộ chuyển áp – đo các giá trị áp suất trong suốt quá trình xuất nạp
sản phẩm, giá trị đó được chuyển về phòng điều khiển.
- L2 : Thiết bị chuyển đổi mức – Trong khi xuất nạp sản phẩm thiết bị này
sẽ tiền báo động về mức chất lỏng trong bồn chứa ở mức thấp hay cao
tương ứng.
- L3 : Thiết bị truyền mức hoạt động bằng từ - sau khoảng 10 – 15 phút kể
từ khi tiền báo động về mức chất lỏng cao trong bồn thì thiết bị báo mức L3
phát tín hiệu và kích hoạt động các van nạp sản phẩm ở đầu vào mỗi bồn
chứa.
-L1 : bộ đo mức cao – trong quá trình nạp, chất lỏng trong bồn ở mức quá
cao thì thiết bị báo mức sẽ báo tín hiệu và công tắc áp suất quá cao LSHH
sẽ đóng van nạp của cụm bồn bể.
- L4 : bộ đo mức thấp – trong suốt quá trình xuất sản phẩm, khi mức lỏng
trong bồn chứa ở mức thấp thì công tắc áp suất mức thấp LSL sẽ đóng bơm
xuất sản phẩm.
- VR : van hồi lưu – có chức năng tiếp nhận hơi hồi lưu vào bồn chứa để
bù thể tích khí đang xuất.
- M : cửa người – sử dụng cho người chui vào kiểm tra trong quá trình bảo
dưỡng.
- A : Van nạp sản phẩm.
- B : Van xuất sản phẩm
3.4 Tình hình xây dựng bê chứa ở nước ta
Trong những năm gần đây sự phát triển của ngành Dầu khí và nhu
cầu về tiêu thụ, cung ứng xăng dầu ngày càng to lớn. Do vậy, hàng loạt các
loại bồn chứa đã được xây dựng phục vụ cho khai thác dầu khí, công tác
cung ứng vận chuyển xăng dầu và dự trữ xăng dầu cho mục tiêu an toàn
năng lượng quốc gia với quy mô và dung tích khác nhau.
Ngành xây dựng nước ta đã tự thiết kế và thi công được bồn chứa

31
32

có dung tích lớn tới 25.000m3 (Cát Lái –Thành phố Hồ Chí Minh) và
nhiều loại bể có quy mô phức tạp. Nhưng hiện nay các kho xăng dầu của
ta đa số vẫn là những loại nhỏ và không tập trung, các bể có dung tích nhỏ
hơn 5000 m3 mà ta đã xây dựng trước đây tỏ ra không hiệu quả. Vấn đề
này đặt ra cho những nhà thiết kế, các nhà quản lý cần có các giải pháp
quy hoạch, thiết kế và xây dựng các kho xăng dầu đạt hiệu quả cao.
Một trong những giải pháp đó là nâng sức chứa có dung tích từ

10.000 m3 đến 20.000 m3, thậm chí lên đến 50.000 m3 nhằm giảm
diện tích xây dựng, giảm giá thành đầu tư xây dựng kho và giảm tổn
thất nhiên liệu do quá trình vận chuyển và bay hơi.

32
33

33
34

Chương IV : Tính toán thiết kế bê chứa LPG có dung


tích chứa 420 m3
4.1 Lý thuyết tính toán
4.1.1 Nhiệt độ làm việc,nhiệt độ tính toán
Nhiệt độ làm việc là nhiệt độ của môi trường trong thiết bị đang thực
hiện các quá trình công nghệ đã định trước.
Nhiệt độ tính toán của thành ( tường ) và của các chi tiết khác bên
trong thiết bị khi nhiệt độ của môi trường nhỏ hơn 250 oC thì lấy bằng nhiệt độ
cao nhất của môi trường đang thực hiện quá trình.
Nếu thiết bị bọc lớp cách nhiệt thì lấy nhiệt độ tính toán bằng nhiệt độ
ở bề mặt lớp cách nhiệt công thêm 20oC.
4.1.2 Áp suất làm việc, áp suất tính toán
Áp suất làm việc là áp suất của môi trường trong thiết bị sinh ra khi
thực hiện các quá trình không kể áp suất tăng tức thời( khoảng 10 % áp
suất làm việc) ở trong thiết bị.
Áp suất tính toán là áp suất của môi trường trong thiết bị, được dùng
làm số liệu để tính toán thiết bị theo độ bền và độ ổn định. Nếu áp suất thủy
tĩnh của thiết bị ( có chứa chất lỏng ) bằng 5 % áp suất tính toán thì bỏ qua,
còn nếu nó lớn hơn 5% thì áp suất tính toán ở phần sát đáy của thiết bị
được xác định như sau :
P = pm + g.ρ.Hl , N/m2 ( 4.1 )
Trong đó pm là áp suất làm việc của môi trường, N/m2 ;
g là gia tốc trọng trường , m/s2 ;
ρ là khối lượng riêng của chất lỏng , kg/m3 ;
Hl là chiều cao cột chất lỏng , m .
4.1.3 Ứng suất cho phép
Việc lựa chọn ứng suất cho phép ở các chi tiết khi tính độ bền và độ
ổn định của chúng phụ thuộc vào đặc tính bền của kim loại ở nhiệt độ tính

34
35

toán. Đặc tính bền phụ thuộc vào nhiều yếu tố như công nghệ chế tạo ( hàn,
đúc, rèn, dập ) vào chế độ nhiệt luyện, vào tính chất tác động của tải trọng
(tĩnh, động ) vào các kích thước của chi tiết cũng như đặc điểm của môi
trường trong thiết bị và điều kiện sử dụng.
Đối với các chi tiết thiết bị được chế tạo từ các kim loại cơ bản
( thép, gang, kim loại màu và hợp kim của chúng ) chịu tải trọng tĩnh do áp
suất trong hoặc áp suất chân không cũng như chịu tác dụng của tải trọng
gió à dộng đất, người ta nêu ra một đại lượng tiêu chuẩn , đó là ứng suất
cho phép tiêu chuẩn [σ]*.
Ứng suất cho phép tiêu chuẩn này được dùng để tính các chi tiết
chịu kéo, nén và uốn. Còn khi các chi tiết chịu xoắn và cắt ở các điều kiện
khác nhau thì lấy ứng suất cho phép tiêu chuẩn nhân với hệ số 0,6.
4.1.4 Hệ số hiệu chỉnh
Khi tính kiểm tra độ bền các chi tiết của thiết bị người ta dùng ứng
suất cho phép chứ không dùng ứng suất cho phép tiêu chuẩn và xác định nó
như sau :
[σ] = η.[σ]* ( 4.2 )
Trong đó : η là hệ số hiệu chỉnh, được xác định theo điều kiện làm việc
của thiết bị.
[σ]* là ứng suất cho phép tiêu chuẩn , N/mm2.
Đại lượng hệ số hiệu chỉnh được xác định khi thiết kế phụ thuộc vào
điều kiện sử dụng, vào độ độc và mức độ nguy hiểm của môi trường, lấy
η = 0,9 ÷ 1,0
Đối với các thiết bị dùng để chứa hoặc để chế biến các chất độc, chất
dễ nổ có áp suất cao, các chi tiết bị đốt nóng bằng ngọn lửa, bằng khói lò
hoặc bằng điện chọn η = 0,9. Đối với các thiết bị có bọc lớp cách nhiệt
chọn η = 0,95. Các trường hợp khác chọn η = 1,0.

35
36

4.1.5 Hệ số bền mối hàn


Lúc ghép các chi tiết riêng biệt lại với nhau bằng mối hàn, phần lớn
chúng kém bền hơn so với vật liệu để nguyên không hàn. Do đó khi tính độ
bền của các chi tiết ghép bằng mối hàn thì đưa thêm hệ số bền mối hàn φ h
vào công thức tính toán, đại lượng này đặc trưng cho độ bền của mối ghép
so với độ bền của vật liệu cơ bản.
4.1.6 Hệ số bổ sung bề dày tính toán
Khi tính kiểm tra độ bền các chi tiết hoặc các bộ phận của thiết bị
cần chú ý đến tác dụng hóa học và cơ học của môi trường lên vật liệu chế
tạo thiết bị. Do đó cần bổ sung cho bề dày tính toán của các chi tiết và bộ
phận đó một đại lượng C.
Đại lượng C được xác định theo công thức sau :

C = Ca+ Cb+ Cc+ C0 ( 4.3 )

Trong đó Ca là hệ số bổ sung do ăn mòn hóa học của môi trường, mm;

Cb là hệ số bổ sung do bào mòn cơ học của môi trường,mm ;

Cc là hệ số bổ sung do sai lệch khi chế tạo, lắp ráp, mm ;

C0 là hệ số bổ sung để quy tròn kích thước, mm .

Đại lượng hệ số bổ sung C a phụ thuộc vào sự ăn mòn hóa học của
môi trường và vào thời hạn sử dụng thiết bị. Nói chung, thời hạn sử dụng
thiết bị hóa chất lấy khoảng 10 ÷15 năm.

Nếu lấy thời hạn sử dụng thiết bị là 10 năm thì có thể chọn hệ số Ca
như sau :

- Ca = 0 đối với vật liệu bền trong môi trường có độ ăn mòn không lớn
hơn 0,05 mm/ năm .

36
37

- Ca = 1 mm đối với vật liệu tiếp xúc với môi trường có độ ăn mòn lớn
hơn, từ 0,05 đến 0,1 mm/ năm. Nếu độ ăn mòn lớn hơn 0,1 mm/năm thì căn
cứ vào thời hạn sử dụng thiết bị mà xác định Ca cho mỗi trường hợp cụ thể.

- Ca = 0 nếu ta dùng vật liệu lót có tính bền ăn mòn hoặc thiết bị tráng
men.

Nếu hai phía của thiết bị tiếp xúc với môi trường ăn mòn thì hệ số C a phải
lấy lớn hơn.

Đối với thiết bị hóa chất có thể bỏ qua hệ số bào mòn C b . Người ta
chỉ tính đến hệ số Cb khi môi trường bên trong thiết bị chuyển động với vận
tốc >= 20 m/s (đối với chất lỏng ) và >= 100 m/s ( đối với chất khí ) hoặc
môi trường chứa nhiều hạt rắn.

Còn đại lượng C c phụ thuộc vào dạng chi tiết, vào công nghệ chế tạo
chi tiết và thiết bị.
4.2 Lựa chọn bê và thông số tính toán
4.2.1 Dung tích bê chứa
Mục đích đặt ra là thiết kế bể áp lực LPG với sức chứa 200T LPG.
LPG bình thường ở dạng khí, khi bơm vào bể đến một áp lực cần
thiết thì khí LPG sẽ hóa thành dạng lỏng.
Ở đây nhiên liệu cần chứa là 100% Propane. Trọng lượng riêng của

Propane là 0,56T/m3. Tương ứng với khả năng chứa 200T LPG Propane
thì bể cần có thể tích là:
V= = 420 m3
4.2.2 Các phương án bê chứa áp lực thông dụng
Bể chứa khí hóa lỏng LPG hiện nay gồm có 2 loại thông dụng sau:
— Bể cầu (Spherical Vessel)
— Bể trụ ngang (Horizontal Vessel)

37
38

* Phương án bể cầu :

Với phương án bể cầu thì đường kính trong của bể sơ bộ cần là:

D= (1.9 * V)1/3 = (1.9 * 420)1/3 = 9.28 m


Nhận thấy đường kính bể cũng không lớn nên theo phương án bể cầu là
không nên vì vấn đề thi công bể cầu tương đối phức tạp.
* Phương án bể trụ ngang

Mục đích đặt ra là thiết kế bể chứa áp lực với khả năng chứa

420m3. Với phương án bể trụ ngang thì có nhiều phương án lựa chọn về
đường kính bể, chiều dài bể.
Kích thước (đường kính, chiều dài) có lợi nhất cho bể căn cứ vào các yếu
tố sau:
—Thể tích thiết kế
—Áp lực trong thiết kế
—Ăn mòn cho phép
—Hệ số liên kết hàn

38
39

4.2.3 Các thông số thiết kế bồn

3
Loại nhiên liệu chứa LPG 0.56 T/m
2
Áp lực trong thiết kế P 18 kG/cm
o
Nhiệt độ thiết kế -40 / 100 C
2
Áp suất thử thuỷ lực 27 kG/cm
2
Áp lực vận hành 7.5 kG/cm
o
Nhiệt độ vận hành 25 / 50 C
Khả năng chứa bình thường 85 %
Thử tia X kiểm tra mối hàn 100 %
Vận tốc gió V 36 m/s
Ăn mòn cho phép C.A 0.1 cm

4.3 Tính toán thiết kế bê chứa LPG


4.3.1.Vật liệu chế tạo
Thép làm thân bể : CT3
Thép làm đầu bể : CT3
Thép làm họng ống : CT3
Thép làm các chi tiết khác : CT3
4.3.2 Tính bề dày thành bê chịu áp lực trong.
Bề dày thành bể phải đảm bảo đủ cho bể bền trong quá trình thiết
kế, trong vận hành và thử áp lực. Đây là bề dày tối thiểu yêu cầu.
Tuy nhiên trong quá trình chế tạo, bề dày thành bể còn phải đáp
ứng được các công tác hàn lắp dựng bể. Mặt khác còn kể đến độ ăn mòn
do nhiên liệu, do môi trường bên ngoài. Như vậy, khi tính toán bề dày bể
cần phải kể đến các yêu cầu trên (vận hành, thi công, ăn mòn).
Bể được thiết kế bằng cách hàn các chi tiết với nhau nên ta có thêm
hệ số bền mối hàn E vào công thức tính toán.
4.3.2.1 Lựa chọn phương án hàn đối với bê.
Với bể kích thước đã xác định, chọn phương pháp kiểm tra chiếu

39
40

toàn bộ chiều dài đường hàn, kiểu hàn của các đường hàn là hàn đối đầu
ta có các hệ số liên kết hàn như sau:
- Đường hàn giữa các tấm thép thân bể - thân bể :φh = 1
- Đường hàn giữa các tấm thép thân bể - thân : φh = 1
- Đường hàn giữa các tấm thép đầu bể - thân bể : φh = 1
- Đường hàn giữa các tấm thép đầu bể - đầu bể: φh = 1
* Như vậy, trong các công thức tính toán sau này sẽ dùng chung một hệ
số liên kết hàn : φh=1.
4.3.2.2 Ứng suất cho phép
- Ứng suất cho phép tiêu chuẩn của thép CT3 : [σ]*= 140 N/mm2 =
1400kg/cm2(tra bảng)
Công thức tính ứng suất cho phép [σ] = η.[σ]*
Trong đó η: là hệ số hiệu chỉnh (trong trường hợp này η =1)
=> ứng suất cho phép [σ] =140.1=140 N/mm2
Tính áp suất tính toán khi bồn chứa nhiên liệu.

Theo CT (4.1)
P= pm + g.ρ.h.

Trong đó : pm là áp suất thiết kế


G là gia tốc trọng trường
Ρ là trọng lượng riêng của chất lỏng.
Chiều cao chất lỏng ta lấy bằng đường kính trong của thiết bị tức là h =
4,2m
=>P = 18 + 9,8 .0,56.103.4,2.102 =18.23 kg/cm3

Thông số thiết kế:


Dt 4,2 m
L 30 m
P 18.23 kg/cm3

40
41

σ 1400 kg/cm3
φh 1

Sơ đồ cấu tạo sơ bộ của bồn chứa.

Xét tỉ số ==7.68 (5,5<7,05<25)

=> bề dày tối thiểu được tính theo công thức

S’=== 2,75 cm

Chọn hệ số bổ sung để quy tròn kích thước C0 = 0,15


Tổng hệ số bổ sung với được tính theo công thức (4.3)

C = Ca + Cb + Co =0,1 + 0 + 0,15= 0,11 cm


Bề dày thực của thân

S = S’ + C = 2,75 + 0,1+0,15 = 3,0 cm

Kiểm tra điều kiện


= = 0,0069 < 0,1
=> thoả mãn điều kiện.

41
42

4.3.2.3 Tính bề dày đầu bê ElIP chịu áp lực trong.


Loại đầu bể Elip 2:1
Áp lực trong có kể đến nhiên liệu p = 18,23kg/cm3
Đường kính trong Dt = 420 cm
Ứng suất lớn nhất của thép δ = 140N/mm2
Hệ số hàn đầu bể - thân bể φh = 1
Hệ số ăn mòn Ca = 0,1 cm
Đáy nắp tiêu chuẩn có tỉ số = 0,25
=>Chiều sâu phần Elip ht = 4200.0,25 = 1050 mm
Bán kính cong bên trong được tính theo công thức Rt =
Rt = =4200 mm
Độ dày đầu bồn dưới áp suất bên trong
Xét tỉ số =74.4 > 25
=>bề dày của đáy được tính theo công thức
S’ = = = 2,73 cm
Chọn hệ số bổ sung để quy tròn kích thước C0 = 0,17
Tổng hệ số bổ sung với được tính theo công thức (4.3)

C = Ca + Cb + Co =0,1 + 0 + 0,17= 0,27 cm


Bề dày thực của thân

S = S’ + C = 2,73 + 0,1+0,17 = 3,0 cm

* kết luận : để thiết kế bồn chứa LPG hình trụ nằm ngang dùng vật liệu chế
tạo là thép CT3 về sơ bộ thì bề dày thành thiết bị cần đảm bảo dày 3,0 cm
và bề dày 2 đầu thiết bị dày 3,0 cm.

42
43

Chương V : Công tác an toàn và phòng chống cháy nổ


đối với khu bồn bê chứa LPG và trong các nhà máy lọc
hóa dầu.
5.1. Đặc điêm chung của hệ thống bồn chứa

Chức năng và nhiệm vụ cơ bản của hệ thống bồn chứa là tiếp nhận,
tàng chứa và xuất sản phẩm lỏng LPG một cách an toàn. Chính vì vậy mà
vấn đề an toán đối với khu bể chứa luôn được đặt lên vị trí hàng đầu. Do đó
bể chứa cần được thiết kế đảm bảo cho con người, các thiết bị và khu vực
lân cận. Những vấn đề đáng lưu ý trong thiết kế và lắp đặt hệ thống phòng
cháy chữa cháy của khu bể chứa là các sản phẩm tàng chứa không màu,
không mùi. Khi ở trạng thái lỏng chúng có tỷ trọng bằng 50% tỷ trọng của
nước và khi hoá hơi ở áp suất khí quyển thể tích của chúng tăng lên 250
lần. Ở pha khí cả propan và butan đều nặng hơn so với không khí vì vậy mà
chúng không khuyếch tán dễ dàng trong khí quyển. Hơi LPG tạo thành hỗn
hợp có khả năng bắt cháy với không khí khi ở nồng độ thấp khoảng 2%
theo thể tích ( giới hạn dưới ) và 10% theo thể tích (giới hạn trên). Trên
10% pha hơi của sản phẩm cũng rất nguy hiểm khi pha loãng với không khí
đối với khu vực có gió. Vì vậy biện pháp phòng cháy khi lắp đặt các đầu rò
khí cần chú ý đến tính chất trên của sản phẩm LPG làm đặt ở độ cao thấp
có lưu ý đến hướng gió.

5.2 Các sự cố nguy hiêm trong khu bê chứa

5.2.1 Các sự cố nguy hiêm trong tàng trữ và vận chuyên đến sự
cháy nổ

LPG được coi là nhiên liệu an toàn vì trong thực tế chừng nào LPG
được lưu giữ trong bồn, trong đường ống thì không có nguy hiểm xảy ra.

43
44

Khi có sự rò rỉ sản phẩm từ các bông chứa mới gây ra nguy hiểm.
Nếu điều đó xảy ra thì khí hay lỏng đều thoát ra ngoài. Nếu sản phẩm lỏng
thoát ra ngoài thì nguy hiểm hơn sản phẩm hơi vì sản phẩm lỏng rò rỉ ra
ngoài và hoá hơi thì thể tích tăng 250 lần.

Việc xả hơi từ các bể chứa và đường ống có thể dẫn đến chất lỏng
hoá hơi trong bể chứa và đường ống. Quá trình hoá hơi này sẽ cần nhiệt và
sẽ làm lạnh bể chứa. Nếu có cháy xung quanh bể chứa, hiệu ứng làm lạnh
do bay hơi trong bể sẽ làm chậm quá trình tăng nhiệt độ trong bể. Các đám
mây hơi LPG rất nguy hiểm chừng nào chúng chưa được phân tán an toàn.

Ở nhiệt độ thấp và áp suất thường, LPG ở dạng khí nặng hơn không
khí, hơi propan và butan nặng hơn không khì gấp 1,5 và 2 lần tương ứng.
Bởi vậy, hơi LPG sẽ lắng xuống nơi thấp của môi trường xung quanh và lan
rộng trên mặt đất. Trong môi trường lặng gió, sự phân tán của hơi có thể
xẩy ra chậm. Sự phân tán chậm này rất nguy hiểm và dễ gây ra cháy nổ.

Cần chú ý rằng một lượng rất nhỏ hơi LPG thoát ra ngoài cũng hình
thành một thể tích lớn hỗn hợp cháy của khí cháy và không khí. Một thể
tích hơi có thể tạo thành 10 – 15 lần thể tích hỗn hợp cháy và một thể tích
lỏng có thể hình thành 2500 – 125000 thể tích của hỗn hợp cháy.

5.2.2 Sự cố đối với bồn bê chứa

Nguy hiểm trước hết là bồn chứa bị nứt vỡ và sản phẩm dò rỉ ra bên
ngoài. Nếu nồng độ đạt đến giới hạn cháy nổ ( 2 – 10 % ) thì sự cố sẽ xẩy
ra. Sự cố đối với các loại bồn là tương đương nhau. Tuy nhiên do lắp đặt
nguy hiểm có thể ở các mức độ khác nhau.

Sự cố do hoạt động gây bởi con người hoạt động gần bồn, bồn nổi
thường dễ bị tổn thương hơn.: phụ thuộc vào phương pháp tăng cường hoặc
phòng ngừa được áp dụng đối với bồn trong suốt quá trình sử dụng .

44
45

Sự cố nứt vỡ do giòn : khi nhiệt độ môi trường hạ hay khi nhiệt độ


trong bồn thấp do quá trình bay hơi, có thể làm cho vật liệu trở nên giòn rất
dễ bị nứt vỡ.

Khi nạp sản phẩm vào bồn quá mức do sơ suất trong vận hành cũng
gây nguy hiểm vì bồn không có không gian cho chất lỏng bay hơi khi nhiệt
độ tăng.

5.3 Yêu cầu an toàn trong tàng chứa và vận chuyên

Bất kì một hoạt động nào có liên quan đến khí hoá lỏng LPG đều trực
tiếp hay gián tiếp liên quan tới an toàn. Do vậy tất cả mọi người trong khu
vực bồn bể chứa phải hiểu rõ và tuân theo các yêu cầu chung về an toàn :

 Hiểu rõ các đặc tính của sản phẩm.

 Cấm không đựơc hút thuốc trong khu vực cấm.

 Khi lưu trữ sản phẩm, cần phải đảm bảo để chừa một thể tích đủ cho
chất lỏng giãn nở trong trường hợp có sự thay đổi về nhiệt đô của môi
trường.

 Các bồn chứa phải được thổi Nitơ trước khi nạp LPG, việc này cũng
phải thực hiện sau khi sửa chữa thiết bị.

 Sự xả và rò rỉ hơi LPG ra bên ngoài là rất nguy hiểm. Bất cứ lúc nào
hiện tượng đó xảy ra trong điều kiện không thể tránh khỏi thì phải theo dõi
liên tục và phục hồi về điều kiện bình thường hay khắc phục sự rò rỉ để
tránh thiệt hại về người và của.

 Bể chứa và đường ống phải được kiểm tra kĩ càng trứơc khi nạp.

 Kiểm tra định kì hệ thống bảo vệ catot để đảm bảo tính liên tục.

45
46

 Các bơm cứu hoả luôn luôn làm việc ở trạng thái tốt nhất.

 Mỗi tuần đều phải chạy thử các bơm cúư hoả và súng cứu hoả trong
vòng 30 phút

5.3.1 Phương pháp chống cháy cho các thiết bị và bê chứa

Khu vực của 2 bể chứa condensat được chia làm 2 khu vực riêng
biệt, 2 khu vực này sử dụng hệ thống phun nước tự động khi xảy ra sự cố.

 Phương pháp chống cháy cho khu vực bể chứa

Đối với các khu vực bể chứa khi có sự cố thì các đầu tư phun nước chữa
cháy và các van báo động sẽ thực hiện bởi các súng phun, các họng chữa
cháy khi có tín hiệu từ các đầu rò khí và cháy.

 Phương pháp chống cháy cho các khu vực khác

Các khu vực còn lại sẽ được chữa cháy bằng các súng phun nước và các trụ
nước bố trí trên khắp các khu vực.

5.3.2 Hoạt động trong trường hợp khẩn cấp

Các hoạt động chính trong trường hợp khẩn cấp được trình bày như sau :

 Khi có báo động khẩn cấp thì dừng mọi hoạt động trong khu vực bị ảnh
hưởng, tập trung nhân lực và sơ tán những người không có trách nhiệm
trong việc đối phí khẩn cấp.

 Cô lập phần bị ảnh hưởng của thiết bị để hạn chế sự lan rộng đối với các
khu vực khác.

 Sơ tán các thiết bị di động nằm trong vùng nguy hiểm và đảm bảo
đường thoát được thông thoáng.

 Trong trường hợp rò rỉ ngừng mọi hoạt động của các nguồn sinh lửa và
tuyệt đối không được đóng điện các thiết bị điện.

5.4 Kĩ thuật chữa cháy LPG

46
47

- Nên sử dụng những chất như CO 2 , bột dạng khô hoặc BCF ( B 2C / F2C )
Bromocholozodi Fluazometan vào việc dập tắt các đám cháy LPG, vì
chúng nhanh chóng làm lỏng nồng độ LPG và ngăn không cho không khí
tiếp xúc với ngọn lửa.

- Do sự nguy hiểm của các đám hơi LPG, có thể bất ngờ cháy nổ trở lại gây
ảnh hưởng đến diện rộng đám cháy, không nên dập ngay trừ khi có thể
ngăn chặn nguồn đánh lửa ngay sau đó.

- Nếu ngọn lửa tiếp xúc trực tiếp với bồn chứa LPG( không kể kích cỡ)
thành bồn có thể bị quá nhiệt và bị phá huỷ do áp suất cao trong bồn. Phải
khống chế cường độ của đám cháy để bả vệ bồn chứa LPG. Các thiết bị, tài
sản, máy móc gần ngọn lửa hoặc đang cung cấp LPG cho đám cháy phải
làm mát bởi giàn phun nước, vòi lăng phun, bơm cứu hoả, súng cứu hoả.

- Phần trên của bồn chứa LPG, nơi tiếp xúc với pha hơi là diện tích nguy
hiểm nếu bốn sát với đám cháy. Nước làm mát phải được cung cấp tại đỉnh
của bồn chứa và bộ đỡ của bồn để tránh cho bệ đỡ bị phá hủy kết cấu.

- Các bồn chứa LPG thường được lắp van an toàn nhằm giảm áp suất của
bể khi áp suất của bể quá áp suất thiết kế.

5.5 Các hệ thống chữa cháy


5.5.1 Hệ thống chữa cháy bằng nước
Hệ thống gồm có bơm điện và bơm Diezel có công suất phụ thuộc
vào mức độ yêu cầu và quy mô tàng chứa, hệ thống đường ống dẫn nước
chữa cháy, giàn phun nước tại khu vực nguy hiểm, các vòi lăng phun. Hệ
thống nước chữa cháy phải được thiết kế thuận lợi cho công tác chữa cháy
và đáp ứng yêu cầu chữa cháy như : lượng nước dự trữ, công suất bơm…
5.5.2 Hệ thống chữa cháy bằng CO2
Hệ thống dập lửa bằng CO2 gồm hệ thống ống dẫn CO2 đến các vị trí

đặt vòi phun CO2 tại khu vực cần thiết. Trong trường hợp hệ thống cảm ứng

47
48

phát hiện và đã xác định có lửa vùng nào đó thì van cảm ứng sẽ xả N 2 từ

bình chứa kích hoạt xả CO 2 đồng thời mở các van bằng khí điều khiển trên

ống đến hệ thống vòi phun. Hệ thống chữa cháy bằng CO2 hoạt động theo

hai chế độ : Điều khiển tự động và điều khiển bằng tay.

Kết luận và kiến nghị

Ở nước ta hiện nay khi ngành dầu khí và ngành công nghiêp chế biến

khí phát triển bằng việc ra đời các nhà máy chế biến khí Dinh Cố ở Vũng

Tàu, nhà máy lọc dầu Dung Quất ở Quảng Ngãi, dự án khu liên hợp lọc hóa

dầu Nghi Sơn…đã tận dụng , khai thác và sử dụng một cách hợp lý nguồn

tài nguyên dầu mỏ và khí đốt.

Với nền công nghiệp dầu khí ngày càng phát triển mạnh thì việc xây

dựng một hệ thống tàng chứa với quy mô và hiện đại tất yếu phải được ra

đời. Với đề tài Tìm hiểu và tính toán thiết kế bồn chứa LPG dung tích

420 m3 đồ án đã trình bày được những nội dung chủ yếu sau :

- Tìm hiểu ngành công nghiệp dầu khí ở Việt Nam

- Tìm hiểu về LPG ( thành phần, tính chất hóa lý đặc trưng, ứng dụng…).

48
49

- Kiến thức chung về bồn bể chứa và những tính toán cơ bản trong khi

thiết kế một bể chứa LPG.

Thông qua những nghiên cứu trên, chúng ta đánh giá được tính kinh tế

khi ngành công nghiệp khí phát triển :

- Dự án LPG ra đời nhằm tận dụng được nguồn khí đồng hành đốt bỏ

ngoài khơi, thay thế được các nguồn nhiên liệu khác, giảm bớt được

nguồn ngoại tệ nhập khẩu LPG.

- Góp phần tạo công ăn việc làm, giảm bớt tỷ lệ thất nghiệp.

- Dự án LPG còn hòa nhập vào xu thế chung của thế giới là đẩy mạnh sử

dụng nhiên liệu LPG thay thế cho các nguồn nhiên liệu truyền thống

ngày càng cạn kiệt, góp phần làm giảm ô nhiễm môi trường, giảm bớt

chất độc hại.

Do ngành công nghệ chế biến khí còn khá mới mẻ và đang phát triển

mạnh cho nên việc đào tạo đội ngũ khoa học kỹ thuật phải được chú trọng để

nắm vững được các thiết bị công nghệ tiên tiến, hiện đại. Ngoài ra còn phải

tham khảo và học hỏi kinh nghiệm của các nước có nền công nghiệp dầu khí

phát triển mạnh như : Singapor, Thái Lan, Philippin, Bruney… trong công tác

chế biến, vận hành, tàng trữ khí hóa lỏng.

49
50

50

You might also like