Professional Documents
Culture Documents
Đề cương luận văn 2
Đề cương luận văn 2
VIỆN NIIE
Đề cương tiểu luận: TÁC HẠI CỦA THUỐC LÁ ĐIỆN TỬ TẠI VIỆT NAM
Tên đề tài: Các yếu tố dẫn đến việc bỏ thuốc lá điện tử do tác hại của chúng gây ra
ảnh hưởng đến sức khoẻ của con người tại Việt Nam.
Mục Lục
CHƯƠNG I: GIỚI THIỆU.....................................................................................................5
1.1 Lý do chọn đề tài.......................................................................................................................5
1.2 Tính cấp thiết của đề tài............................................................................................................6
1.3 Mục tiêu nghiên cứu..................................................................................................................7
1.3.1 Mục tiêu chung.........................................................................................................................................7
1.3.2 Mục tiêu cụ thể.........................................................................................................................................7
LỜI CẢM ƠN
Để có được kết quả nghiên cứu và hoàn thàng luận văn này, trong thời gian
thực hiện đề tài tôi luôn nhận được rất nhiều sự giúp đỡ của các Thầy, sự ủng
hộ của gia đình và sự hỗ trợ nhiệt tình của đồng nghiệp, bạn bè. Trước hể, tôi
xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến TS. Nguyễn Xuân Nhĩ- người đã hướng
đẫn trực tiếp và dành nhiều thời gian, công sức hướng dẫn tôi trong quá trình
thực hiện nghiên cứu và hoàn thành bài tiểu luận cuối kì. Tôi xin bày tỏ lòng
biết ơn đến Thầy Nhĩ đã tận tâm và nhiệt tình giảng dạy tôi trong suốt thời
gian học học tại trường, và xin gửi lời biết ơn đến gia đình, bạn bè và đồng
nghiệp đã tạo điều kiện về thời gian, động viên tinh thần và giúp đỡ tôi để tôi
hoàn thành đề tài tiểu luận cuối kì của mình. Tuy có nhiều cố gắng, nhưng
trong bài tiểu luận này không tránh khỏi những thiếu sót, hạn chế. Tôi kính
mong Quý thầy, các chuyên gia, những người quan tâm đến đề tài, đồng
nghiệp, gia đình và bạn bè tiếp tục có những ý kiến đồng góp, giúp đỡ để đề
tài được hoàn thiện hơn. Một lần nữa tôi xin chân thành cảm ơn!
TP. Hồ Chí Minh, ngày 27 tháng 04 năm 2023
Tác giả
Nguyễn Lê Huyền Trân
Nguyễn Lê Uyên Thảo
Tóm tắt
Những người sử dụng thuốc lá điện tử thường có triệu chứng miệng khô, cổ họng ngứa
và ho; nguyên nhân là do hấp thụ chất nicotine có thể xảy ra ở lớp lót trong của miệng
hoặc đường hô hấp trên.
+ Ảnh hưởng đến phổi:
Một trong những thành phần chính trong chất lỏng của thuốc lá điện tử thường là
propylene glycol (vốn được sử dụng để tạo khói trong các rạp hát, sân khấu) và chất
glycerin.
Có những lo ngại cho rằng các hạt nano nguy hiểm từ thuốc lá điện tử cho thể xâm nhập
vào phổi, gây ra chứng viêm phổi hoặc nhiễm trùng phổi.
+ Ảnh hưởng đến tim:
Nicotine trong điếu thuốc nhanh chóng kích thích tuyến thượng thận, làm cơ thể tiết ra
hormone adrenaline, hệ quả là gây tăng huyết áp và nhịp tim.
+ Ảnh hưởng đến não:
Khi nicotine đi vào não, nồng độ Dopamine- một chất truyền thần kinh tăng lên.
Tuy không được coi là một chất gây ung thư nhưng nicotine lại gây nghiện.
+ Ảnh hưởng đến Thai nhi:
Nicotin có thể gây hại cho thai nhi nếu bà mẹ hút thuốc lá điện tử trong quá trình mang
thai. Không chỉ ảnh hưởng tới sự phát triển của phổi và não em bé, chất này còn khiến
trẻ em sinh non, nhẹ cân và thậm chí là chết lưu.
Khi hút thuốc lá điện tử thường xuyên có nguy cơ mắc các bệnh ung thư cao gấp 15 lần
so với những người hút các loại thuốc lá thông thường. Trong bút vape (vếp) chứa chất
Formaldehyde, một chất khí không màu do thuốc lá điện tử tạo ra khi đốt nóng chất lỏng
chứa nicotine và chất tạo mùi thơm bên trong thiết bị. Đây là chất hóa học độc hại có
khả năng gây ung thư, thường được sử dụng trong chế tạo vật liệu xây dựng và bảo quản
thi hài.
Theo các chuyên gia, cứ 3ml chất lỏng được đốt nóng sẽ tạo ra 14mg chất
Formaldehyde. Với người thường xuyên hút 1 bao thuốc/ngày, lượng Formaldehyde
“nạp” vào cơ thể là 3 mg/ngày. Với liều lượng như vậy, nguy cơ ung thư ở những người
hút thuốc lá điện tử lâu năm sẽ cao từ 5-15 lần so với những người nghiện thuốc lá
thường.
Từ những tác hại trên, mong các bạn trẻ không sử dụng, không lôi kéo, rủ rê người khác
tham gia hút hít, không vận chuyển, không mua bán tàng trữ chất gây nghiện.
Không hút thuốc vì sức khỏe của chính bạn và những người thân yêu.
Từ khoá : thuốc lá điện tử, ảnh hưởng đến sức khoẻ
CHƯƠNG I: GIỚI THIỆU
1.1 Lý do chọn đề tài
Trong những năm gần đây, giới trẻ có xu hướng hút thuốc lá điện tử và hút thuốc lá
nung nóng ngày một gia tăng. Vì cho rằng, hút hai loại này chỉ để nhả khói cho vui và
dùng để cai nghiện hút thuốc lá điếu truyền thống. Nhưng suy nghĩ như vậy là chưa
hoàn toàn đúng, bởi những tác hại của thuốc lá điện tử và thuốc lá nung nóng ảnh hưởng
đến sức khỏe không thua kém gì thuốc lá điếu truyền thống. Hiển nhiên, mức độ nguy
hại đến sức khỏe và để lại những hậu quả khó lường cho cả người hút và người xung
quanh thuốc lá điện tử chứa nhiều chất độc hại, gây nghiện, gây bệnh tật, tử vong. Theo
Liên minh Kiểm soát thuốc lá Đông Nam Á (SEATCA) đa phần thuốc lá điện tử có chứa
Nicotine - chất gây nghiện cao, là nguyên nhân gây các bệnh tim mạch, hô hấp, tiêu hóa
và ung thư. Sử dụng nicotine quá liều gây ngộ độc. Nghiện nicotine là một trong những
nguyên nhân gây các bệnh tim mạch, đột quỵ. Nicotine trong thuốc lá điện tử gây hại
cho sự phát triển não bộ ở trẻ em, vì não bộ của trẻ đang trong giai đoạn phát triển.
Nicotine cũng ảnh hưởng xấu tới sức khỏe của bà mẹ và thai nhi trong thai kì, gây ra
sinh non và thai chết lưu. Những thay đổi do nicotine gây ra trong hệ thần kinh trong
não khiến người dùng ở nhóm tuổi trẻ dễ bị nghiện nicotine hơn, và vì thế ảnh hưởng
đến sức khỏe sẽ đến sớm và trầm trọng hơn trong tương lai. Thuốc lá điện tử sử dụng
nhiều hương liệu, hóa chất không phải từ nguyên liệu lá thuốc lá điếu thông thường.
Nguyên liệu phối trộn nhiều loại thành phần khác nhau, nên có thể bị lợi dụng để sử
dụng ma túy thông qua việc phối trộn và đối tượng hướng đến là học sinh, sinh viên,
nhất là giới trẻ. Song song đó, Tổ chức Y tế thế giới khuyến cáo: Thuốc lá làm nóng tạo
ra chất khí độc hại, có nhiều chất độc giống như trong khói thuốc lá điếu thông thường.
Nồng độ một số hóa chất thấp hơn trong thuốc lá điếu thông thường, nhưng nồng độ một
số hóa chất khác lại cao hơn và nồng độ hóa chấp thấp không đồng nghĩa với giảm nguy
cơ sức khỏe. Khói thuốc nung ngoài gây hại cho người hút thì còn gây tác hại cho người
xung quanh do hút thuốc thụ động. Vì thuốc lá làm nóng chứa nicotine là chất gây
nghiện mạnh có hại cho sức khỏe, đặc biệt đối với trẻ em, vị thành niên và phụ nữ có
thai. Phơi nhiễm các có trong thuốc lá làm nóng có thể gây ung thư phổi, mũi, thực
quản, gan, tuyến tụy và cổ tử cung. Làm giảm việc cung cấp oxy tới tim làm tăng nguy
cơ gây huyết khối, bệnh tim và đột quỵ... Nhằm thông tin tới cộng đồng tác hại của việc
nghiện chất nicotine có trong các sản phẩm thuốc lá. Đồng thời kêu gọi các tổ chức
chính trị - xã hội thực hiện những chính sách mạnh mẽ để bảo vệ giới trẻ trước nguy cơ
sử dụng các sản phẩm thuốc lá, bao gồm cả thuốc lá điếu truyền thống cũng như các sản
phẩm thuốc lá thế hệ mới như thuốc lá điện tử, thuốc lá nung nóng. Đừng hút thuốc lá
trong nhà khi có trẻ em, người già và phụ nữ mang thai, đừng mời hoặc nhận thuốc lá từ
bạn bè, đồng nghiệp. Không hút thuốc lá tại cơ quan, công sở, trường học, cơ sở y tế và
các địa điểm công cộng khác. Và hãy giảm thuốc lá, tiến tới cai nghiện thuốc lá; kiên
quyết nói không với thuốc lá khi chưa từng hút, hãy để môi trường xung quanh không
khói thuốc lá.
-Lợi ích:
1. Không có nhựa thuốc lá, các chất gây ung thư và không tạo ra hơn 4000 hoá chất độc
hại như thuốc lá thường
2. Không gây cháy nổ
3.Không hại với những người xung quanh và thân thiện với môi trường
4.Có thể hút thuốc lá điện tử tại nơi công cộng
5.Có thể hoạt động bình thường với nhiệt độ từ 50C tới 420C
6.Thiết kế thông minh vì nó tạo ra làn khói thuốc có nhiệt độ gần bằng thân nhiệt con
người
7.Không tạo ra bức xạ
8.Lượng nicotine trong các đầu lọc của thuốc lá điện tử thấp hơn thuốc lá thường và
chúng là nicotine thanh lọc
Ông Tuấn cho biết qua nghiên cứu, trong 6 tháng đầu năm 2020, đã có 90.410 tin bài
đăng liên quan đến thuốc lá điện tử, thuốc lá nung nóng trên các kênh truyền thông tại
Việt Nam. Trong đó, Facebook là kênh tập trung tin bài nhiều nhất, với 84.731 tin bài
(chiếm 93,7%).
Riêng về thuốc lá điện tử, cũng trong khoảng thời gian trên, có 86.029 tin bài đăng.
Facebook vẫn là kênh truyền thông đăng số lượng tin bài quảng cáo chiếm con số áp
đảo: gần 94%, tiếp đến là Instagram, Youtube và các kênh khác như blog, forum). Nội
dung các tin bài này chủ yếu hướng tới quảng cáo, buôn bán các loại thuốc lá điện tử
như vape, juice và chia sẻ thông tin, review, hướng dẫn sử dụng thuốc lá điện tử - chiếm
95%.
Bên cạnh đó còn là các ý kiến cho rằng báo chí và cơ quan y tế Việt Nam lên án thuốc lá
điện tử là vì ủng hộ thuốc lá truyền thống; một số ý kiến phản đối việc tăng thuế thuốc
lá, cho rằng giá thuốc lá rẻ không phải là nguyên nhân do thuế thuốc lá rẻ.
Cũng theo nghiên cứu của ông Minh, hiện đối với thuốc lá điện tử các cuộc khảo sát
năm 2014 và 2015, Hoa Kỳ chỉ ra rằng gần 10% thanh niên (18-24 tuổi) và 13% học
sinh trung học - những người chưa bao giờ sử dụng các sản phẩm khác từ thuốc lá đã
từng thử thuốc lá điện tử.
Năm 2018, Khảo sát Thuốc lá Thanh thiếu niên Quốc gia cho thấy 20,8% học sinh
trung học hiện có sử dụng thuốc lá điện tử - tăng 75% so với năm 2017.
Một nghiên cứu về thanh thiếu niên tại các thị trấn và thành phố của 13 quốc gia Đông
Âu cho thấy 2,6% thanh thiếu niên không hút thuốc đã từng thử thuốc lá điện tử ít nhất 3
lần.
Một nghiên cứu của Hàn Quốc: 9,5% thanh thiếu niên chưa bao giờ hút thuốc nhưng đã
sử dụng ENDS thường xuyên (nhiều hơn 10 lần mỗi tháng) trong đó 3,3% sử dụng
chúng mỗi ngày.
Một bài tổng quan nghiên cứu của Hoa Kỳ kết luận: Tỷ lệ bắt đầu hút thuốc ở những
người trẻ (tuổi từ 14-30) đã từng dùng thuốc lá điện tử cao hơn 3,62 lần so với những
người chưa từng sử dụng.
Còn thuốc lá làm nóng, nghiên cứu ở Ru-ma-ni năm 2017, có 3,1% thanh niên, 3,8%
nam thanh nhiên và 2,3% nữ thanh niên (13–15 tuổi) hiện đang sử dụng các sản phẩm
thuốc lá làm nóng.
Ở Hàn Quốc năm 2018, một năm sau khi HTP được ra mắt thị trường lần đầu tiên, đã có
2,8% thanh thiếu niên độ tuổi 12-18 cho biết là đã từng sử dụng HTPs.
Tại Việt Nam 45,3% nam giới, 1,1% nữ giới và tính chung là 22,5% người trưởng thành
(tương đương 15,6 triệu người) hiện đang hút thuốc lá, thuốc lào. 18,6% người đã nghe
về thuốc lá điện tử, 1,1% người đã từng sử dụng thuốc lá điện tử, 0,2% người đang sử
dụng thuốc lá điện tử.
Lấy kết quả từ việc khảo sát từ những người sử dụng thuốc lá điện tử. Độ tuổi từ 15-55
tuổi cả nam và nữ cho thấy việc sử dụng thuốc lá điện tử ở Việt Nam và các nước phát
triển khác. Trong đó có các nghiên cứu của những quốc gia đó.
Hàm lượng nicotine thực tế trong các sản phẩm này có thể khác với nội dung được ghi
trên nhãn. Các sản phẩm được dán nhãn là không có nicotine cũng có thể có nicotine.
Những người trẻ bắt đầu nghiện nicotine với thuốc lá điện tử có nhiều khả năng tiếp tục
sử dụng các sản phẩm thuốc lá khác.
-Tính sử dụng (SD): Thuốc lá điện tử rất đa dạng về hình dạng và kích thước, nhưng
kết cấu chung bao gồm một pin, một bộ đốt và buồng chứa dịch lỏng.
Thuốc lá điện tử tạo khói mà người dùng hít vào phổi bằng cách đốt nóng dịch lỏng –
vốn thường chứa nicotin, chất gây nghiện “khét tiếng” trong thuốc lá truyền thống, xì
gà và các sản phẩm thuốc lá khác – chất tạo hương và các hóa chất tạo khói khác.
Những người không hút thuốc nhưng lại đứng gần những người dùng thuốc lá điện tử
cũng không may hít phải loại khói này khi người hút phả chúng vào không khí.
Thuốc lá điện tử có rất nhiều tên gọi: “e-cigs,” “e-hookahs,” “mods,” “bút vape,”
“vapes” ...
Một số thuốc lá điện tử được sản xuất dưới dạng thuốc điếu truyền thống, xì gà hay
ống điếu, có loại giống cây bút, ổ USB và những vật dụng thường ngày khác.
Thuốc lá điện tử có thể được dùng để hút cần sa và các chất gây nghiện khác.
-Tính phổ biến (PB): Tại Việt Nam, tỷ lệ sử dụng TLĐT trong giới trẻ đang gia tăng rất
nhanh. Trong năm 2019, kết quả Điều tra sức khoẻ học sinh toàn cầu của WHO thực
hiện tại 21 tỉnh, thành phố cho thấy: “Tỷ lệ sử dụng TLĐT tử tăng lên 2,6%”, so với tỷ
lệ sử dụng thuốc lá điện tử năm 2015 là 0,2%. Thuốc lá điện tử đang xâm nhập vào các
trường học, ảnh hưởng xấu tới hành vi, lối sống, sức khỏe của học sinh, sinh viên, đồng
thời gây ra các hậu quả trước mắt và lâu dài về sức khỏe, kinh tế, xã hội. Một số lý do có
thể lý giải như sau:
-Lý do thứ 1:Thuốc lá điện tử có hương vị hấp dẫn
- Lý do thứ 2: Thiết kế sản phẩm ấn tượng tạo trào lưu và phong cách hướng đến
giới trẻ.
- Lý do thứ 3: Sử dụng mạng xã hội để quảng cáo và tài trợ cho người nổi tiếng và
có ảnh hưởng trên mạng xã hội.
- Lý do thứ 4: TLĐT tài trợ cho các chương trình lễ hội, sự kiện thể thao, âm
nhạc,... tương đối nhiều để quảng cáo.
- Lý do thứ 5: Đặc biệt việc trưng bày tại điểm bán TLĐT hấp dẫn, giảm giá sản
phẩm, quà tặng hấp dẫn, bán hàng trên các nền tảng mua bán trực tuyến để tăng
khả năng tiếp cận và tiếp thị gián tiếp các sản phẩm thuốc lá trong các tác phẩm
điện ảnh, chương trình truyền hình.
Ngoài ra, việc tiếp cận thông tin hay sử dụng các dịch vụ trên MXH của giới trẻ rất phổ
biến, TLĐT lại đánh mạnh vào việc quảng cáo và mua bán trực tuyến trên những trang
của MXH. Vì thế dần dần TLĐT được mọi người biết đến, sử dụng phổ biến hơn và
ngày càng trẻ hóa đối tượng sử dụng, thậm chí TLĐT đang có xu hướng xâm nhập vào
các trường học nhắm đến đối tượng học sinh, sinh viên, chỉ vì “THUỐC LÁ ĐIỆN TỬ
MUA ĐƯỢC QUÁ DỄ DÀNG”. Một vấn đề đang thật sự đáng báo động hiện nay.
-Tính an toàn (AT): Các chất độc liên quan đến thuốc lá (chất độc có thể gây bệnh) và
chất gây ung thư (hóa chất gây ung thư) cũng đã được tìm thấy trong hơi thuốc của các
sản phẩm thuốc lá điện tử. Các hạt nhỏ kim loại nặng rất có thể từ vỏ và các bộ phận làm
nóng đã được tìm thấy trong hơi thuốc được tạo ra từ việc sử dụng thiết bị. Việc làm
nóng dung dịch thuốc lá điện tử có thể tạo ra các chất độc khác và chất gây ung thư.
Ngày càng có nhiều bằng chứng cho thấy nicotine hít vào từ thuốc lá điện tử phá hủy
nhu mô phổi và làm giảm sức đề kháng tự nhiên của cơ thể đối với các bệnh nhiễm trùng
và ung thư. Có rất nhiều báo cáo về việc nhập viện và thậm chí tử vong liên quan đến
việc sử dụng các sản phẩm này. Mặc dù vẫn chưa rõ về sự an toàn lâu dài của thuốc lá
điện tử, nhưng có rất nhiều lý do để quan ngại.
Đo lường độ tin cậy bằng hệ số Cronbach’s alpha là một phép kiểm định thống
kê về mức độ chặt chẽ mà các mục hỏi trong thang đo tương quan với nhau (Hoàng
Trọng & Chu Nguyễn Mộng Ngọc, 2005), hệ số này đánh giá độ tin cậy của phép đo
dựa trên sự tính toán phương sai của từng tem và tính tương quan điểm của từng item
với điểm của tổng các items còn lại của phép đo.
Nhiều nhà nghiên cứu đồng ý rằng hệ số alpha của từng thang đo từ 0.8 trở lên
đến gần 1 thì thang đo lường là tốt, từ 0.7 đến gần 0.8 là sử dụng được. Cũng có nhà
nghiên cứu đề nghị rằng hệ số alpha từ 0.6 trở lên là có thể sử dụng được trong trường
hợp khái niệm đang nghiên cứu là mới hoặc mới đối với người trả lời trong bối cảnh
nghiên cứu (Nunnally, 1978; Peterson, 1994; Slater, 1995 dẫn theo Hoàng Trọng & Chu
Nguyễn Mộng Ngọc, 2005). Vì vậy, đối với nghiên cứu này thì hệ số alpha từ 0.6 trở lên
là chấp nhận được.
Khi đánh giá độ phù hợp của từng item, những item nào có hệ số tương quan
biến tổng (item-total correlation) lớn hơn hoặc bằng 0.3 được coi là những item có độ tin
cậy bảo đảm (Nguyễn Công Khanh, 2005), các item có hệ số tương quan biến tổng nhỏ
hơn 0.3 sẽ bị loại bỏ ra khỏi thang đo.
Phướng pháp phân tích nhân tố(EFA) giúp đánh giá giá trị của thang đo và hai
giá trị quan trọng của thang đo: giá trị hội tụ và giá trị phân biệt dựa vào mối tương quan
giữa các biến với nhau. Giá trị hội tụ nói lên mức độ hội tụ của thang đo sử dụng để đo
lường một khái niệm sau nhiều lần lặp lại, giá trị phân biệt nói lên hai thang đo lường
hai khái niệm khác nhau phải khác biệt nhau( Nguyễn Đình Thọ, 2014).
Các tiêu chí trong phân tích EFA: Kiêm định KMO, Kiểm định Bartlett’s, tổng
phương sai trích, trọng số nhân tố. KMO là chỉ số dùng để so sánh độ lớn của hệ số
tương quan giữa các biến đo lường với độ lớn của hệ số tương quan riên phần của
chúng. Hệ số KMO càng lớn càng tốt vì phần chung giữa các biến càng lớn. Hệ số KMO
phải đạt giá trị từ 0,5 trở lên(1≥KMO≥0,5) thể hiện phân tích là phù hợp. Hệ số KMO
<0,5 thì không thể chấp nhận được( Nguyễn Đình Thọ, 2014). Kiểm định Bartlett’s có ý
nghĩa thống kê khi sig. < 0,05. Khi đánh giá kết quả EFA cần xem xét phần tổng phương
sai trích TVE, thể hiện các nhân tố trích được bao nhiêu phần trăm của các biến đo
lường. Để kết luận mô hình phù hợp, tổng phương sai trích phải đạt từ 50% trở lên,
nghĩa là phần chung phải lớn hơn phần riêng và phương sai(từ 60% trở lên được coi là
tốt) ( Nguyễn Đình Thọ, 2014). Hệ số tải nhân tố hay còn gọi là trọng số nhân tố theo
Hair et al(2010), hệ số tải từ 0.5 là biến quan sát đạt chất lượng tốt, tối thiểu nên là 0,3
Để đo lường mức độ phù hợp của mô hình với thông tin thị trường, người ta
thường sử dụng Chi-square (CMIN); Chi-square điều chỉnh theo bậc tự do (CMIN/df);
chỉ số thích hợp so sánh(CFI_Comparative Fit Index), Chỉ số Tucker & Lewis
(TLI_Tucker &Lewis Index);Chỉ số RMSEA ( Root Mean Square Error
Approximation). Mô hình được xem là thích họp với dữ liệu thị trường khi kiểm định
Chi-square có P_value< 0,05, các giá trị GFI, TLI, CFI ≥0.9,hoặc >8 CMIN/df≤3,
RMSEA≤0,08 thì mô hình được xem là phù hợp với dữ liệu thị trường, hay tương thích
với dữ liệu thị trường ( Nguyễn Đình Thọ và Nguyễn Thị Mai Trang, 2008)
Phương pháp CFA được sử dụng để khẳng định lại tính đơn hướng, tin cậy, giá
trị hội tụ và phân biệt của bộ thang đo.
3.1.5 Phương pháp phân tích cấu trúc tuyến tính (SEM)
Phương pháp phân tích mô hình cấu trúc tuyến tính đucojw sử dụng để kiểm
định mô hình nghiên cứu đã đề xuất. Mô hình cấu trúc chỉ rõ mối quan hệ giữa các biến
tiềm ẩn( một khái niệm được đo lường dựa trên nhiều biến quan sát) với nhau. Theo
Nguyễn Đình Thọ (2011), khi phân tích mô hình cấu trúc tuyến tính các đặc điểm về
đánh giá mức độ phù hợp của mô hình cũng được xem xét giống như khi phân tích CFA,
các chỉ số đánh giá như CMIN/df (<3), chỉ số TLI,CHI > 0,9 , chỉ số GFI>0,8, hệ số
RMSEA <0,08 thì mô hình được xem là thích hợp với dữ liệu nghiên cứu.
Để đẩy lùi tình trạng hút thuốc lá điện tử trong học sinh, cần có sự quan tâm phối hợp
giữa các cấp các ngành. Cơ quan chức năng nhà nước, cục thực phẩm cần quản lý
chặt chẽ hơn nữa việc mua bán các loại hình thuốc lá điện tử dành cho đối tượng trẻ
em. Nhà trường nên thường xuyên có những buổi học ngoại khoá để tuyên truyền,
giáo dục các em học sinh tránh xa thuốc lá điện tử, cần nghiêm khắc hơn trong việc
học sinh, giáo viên hút thuốc lá điện tử. Gia đình cần quan tâm hơn nữa đến con em
mình. Không nên nuông chiều, dễ giải với những hành vi gian lận tiền bạc, thời gian
vào những việc vô bổ, ảnh hưởng đến học tập và sức khỏe. Quan trọng nhất vẫn là
phía giới trẻ chúng ta nói chung và học sinh nói riêng. Chúng ta nên hiểu rõ về tác hại
của thuốc lá điện tử và tránh xa chúng. Nên dành thời gian cho việc học tập, vui chơi
lành mạnh.
3.2.2 Công cụ
Bảng : dùng để viết các câu hỏi để phỏng vấn
Viết: dùng để viết các câu hỏi trên bảng
Bàn: dùng để để các dụng cụ
Ghế: dùng: để dành cho các bạn tham gia phỏng vấn ngồi
Điện thoại: dùng để quay phim và chụp hình ảnh lúc đang phỏng vấn các bạn
Như chúng ta đã biết, thuốc lá là sản phẩm được dùng trong đời sống của loài người từ
rất xa xưa. Trải qua nhiều thế kỉ, cùng với sự thay đổi của khoa học- công nghệ cũng
như nhu cầu cuộc sống, khiến cho thuốc lá đã thay đổi không ngừng về chất lượng cũng
như chủng loại, mẫu mã cũng như hình thái sử dụng. Mặc dù hiểu biết của con người về
những tác động có hại của thuốc lá đã rõ ràng, song thuốc lá vẫn tồn tại như một phần
không thể thiếu trong cuộc sống xã hội. Tại sao vậy? Có 2 lí giải cho sự tồn tại đó.
Trước tiên phải nói đến đó là nhu cầu của người sử dụng thuốc lá do một số chất gây
nghiện có trong thành phần khói thuốc lá
(nicotin) khiến con người lệ thuộc vào nó. Thứ đến là do nguồn lợi khổng lồ mang tới từ
ngành công nghiệp thuốc lá. Sự gặp nhau của 2 lí do này khiến cho thuốc lá-mặc dù đã
biết là có hại tới sức khỏe con người- vẫn tồn tại mà chưa thể
nào khắc phục được. Tác hại của thuốc lá tới sức khỏe con người trên hầu hết các chức
năng sống của cơ thể. Bởi lẽ khói thuốc lá cùng với một số chất trong hơn
7000 hóa chất chứa trong nó đã được đi vào quá trình chuyển hóa của cơ thể sống. Một
khi đã vào chu trình chuyển hóa, chúng sẽ tác động lên toàn bộ cơ thể, không trừ một
chức năng sống nào, không trừ một bộ phận nào của cơ thể
CHƯƠNG IV: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Mỗi năm, Việt Nam có khoảng 40 nghìn người tử vong vì các bệnh liên quan đến thuốc
lá. Theo số liệu thống kê về sử dụng thuốc lá ở người trưởng thành, hiện có 45,3% người
hút thuốc lá, nghĩa là cứ 2 người có 1 người hút thuốc. Bên cạnh đó, có khoảng 53,3%
người không hút thuốc lá bị phơi nhiễm khói thuốc lá trong gia đình, 36,8% người
không hút thuốc lá làm việc trong những tòa nhà bị phơi nhiễm khói thuốc lá.
Thuốc lá điện tử chứa nhiều chất độc hại, gây nghiện, gây bệnh tật, tử vong. Theo Liên
minh Kiểm soát thuốc lá Đông Nam Á (SEATCA) đa phần thuốc lá điện tử có chứa
Nicotine - chất gây nghiện cao, là nguyên nhân gây các bệnh tim mạch, hô hấp, tiêu hóa
và ung thư. Sử dụng nicotine quá liều gây ngộ độc. Nghiện nicotine là một trong những
nguyên nhân gây các bệnh tim mạch, đột quỵ. Nicotine trong thuốc lá điện tử gây hại
cho sự phát triển não bộ ở trẻ em ,vì não bộ của trẻ đang trong giai đoạn phát triển.
Nicotine cũng ảnh hưởng xấu tới sức khỏe của bà mẹ và thai nhi trong thai kì, gây ra
sinh non và thai chết lưu.
Những thay đổi do nicotine gây ra trong hệ thần kinh trong não khiến người
dùng ở nhóm tuổi trẻ dễ bị nghiện nicotine hơn, và vì thế ảnh hưởng đến sức khỏe sẽ đến
sớm và trầm trọng hơn trong tương lai.
Thuốc lá điện tử sử dụng nhiều hương liệu, hóa chất không phải từ nguyên liệu lá thuốc
lá điếu thông thường. Nguyên liệu phối trộn nhiều loại thành phần khác nhau, nên
có thể bị lợi dụng để sử dụng ma túy thông qua việc phối trộn và đối tượng hướng đến là
học sinh, sinh viên, nhất là giới trẻ.
Khi hút thuốc lá điện tử thường xuyên có nguy cơ mắc các bệnh ung thư cao gấp 15 lần
so với những người hút các loại thuốc lá thông thường. Trong bút vape (vếp) chứa chất
Formaldehyde, một chất khí không màu do thuốc lá điện tử tạo ra khi đốt nóng chất lỏng
chứa nicotine và chất tạo mùi thơm bên trong thiết bị. Đây là chất hóa học độc hại có
khả năng gây ung thư, thường được sử dụng trong chế tạo vật liệu xây dựng và bảo quản
thi hài.
Theo các chuyên gia, cứ 3ml chất lỏng được đốt nóng sẽ tạo ra 14mg chất
Formaldehyde. Với người thường xuyên hút 1 bao thuốc/ngày, lượng Formaldehyde
“nạp” vào cơ thể là 3 mg/ngày. Với liều lượng như vậy, nguy cơ ung thư ở những người
hút thuốc lá điện tử lâu năm sẽ cao từ 5-15 lần so với những người nghiện thuốc lá
thường.
Song song đó, Tổ chức Y tế thế giới (WHO) khuyến cáo: Thuốc lá làm nóng tạo ra chất
khí độc hại, có nhiều chất độc giống như trong khói thuốc lá điếu thông thường. Nồng
độ một số hóa chất thấp hơn trong thuốc lá điếu thông thường, nhưng nồng độ một số
hóa chất khác lại cao hơn và nồng độ hóa chấp thấp không đồng nghĩa với giảm nguy cơ
sức khỏe.
Khói thuốc nung ngoài gây hại cho người hút thì còn gây tác hại cho người xung quanh
do hút thuốc thụ động. Vì thuốc lá làm nóng chứa nicotine là chất gây nghiện mạnh
có hại cho sức khỏe, đặc biệt đối với trẻ em, vị thành niên và phụ nữ có thai. Phơi nhiễm
các có trong thuốc lá làm nóng có thể gây ung thư phổi, mũi, thực quản, gan, tuyến tụy
và cổ tử cung. Làm giảm việc cung cấp oxy tới tim làm tăng nguy cơ gây huyết khối,
bệnh tim và đột quỵ... Thiết bị điện tử có thể hỏng, lỗi và gây cháy nổ, thương tích, mất
an toàn cho người sử dụng.
CHƯƠNG V: HÀM Ý QUẢN TRỊ
Ngày 24-4, ông Lương Ngọc Khuê - cục trưởng Cục Quản lý khám, chữa bệnh (Bộ Y tế)
- ký văn bản số 474 đề nghị sở y tế các địa phương tăng cường truyền thông về tác
hại thuốc lá điện tử, thuốc lá nung nóng, shisha.
Cục này cho hay, qua phản ánh của các cơ sở khám chữa bệnh, cơ sở giáo dục và
phương tiện thông tin đại chúng cho thấy hiện nay việc dùng các sản phẩm thuốc lá điện
tử, thuốc lá nung nóng đang có xu hướng gia tăng nhanh chóng, đặc biệt trong đối tượng
học sinh.
Nhiều học sinh đã phải cấp cứu vì bị ngộ độc nicotine và các dung dịch có trong các sản
phẩm này. Các sản phẩm này hiện nay chưa được phép nhập khẩu, kinh doanh và lưu
hành hợp pháp tại Việt Nam.
Đối với những em hút thuốc lá điện tử, vì khói thuốc nhiều và có mùi nên họ hạn chế
vào các quán cà phê máy lạnh mà sẽ tìm những quán có không gian ngoài trời thoáng
mát, tiện ngồi lâu.
Việc mua thuốc lá điện tử ngày nay cũng rất dễ dàng với đủ chủng loại, mẫu mã, giá
tiền. Theo ghi nhận, điểm chung là khi liên hệ mua các loại thuốc lá điện tử, người mua
chỉ cần một cuộc gọi điện, xác nhận chủng loại và hình thức giao.
Không người bán nào hỏi thăm về độ tuổi khách hàng, những điều kiện để được mua
hay hướng dẫn những tác dụng phụ của các loại thuốc lá này.
5.3 Hàm ý quản trị đối với yếu tố đánh giá sử dụng
Hơi thuốc từ thuốc lá điện tử hít từ thiết bị và phả ra có thể chứa các chất gây hại và có
nguy cơ gây hại, bao gồm:
Nicotin
Các hạt siêu mịn có thể bị hít sâu vào phổi
Chất tạo hương như diacetyl, vốn có thể gây các bệnh lý phổi nghiêm trọng
Các hợp chất hữu cơ dễ bay hơi
Nhiều hoá chất gây ung thư
Kim loại nặng như niken, thiếc và chì
Rất khó để người tiêu dùng biết được họ đang hít vào thứ gì, đã có trường hợp một số
nhãn hiệu thuốc lá điện tử được quảng cáo là không chứa nicotin lại bị phát hiện có chứa
chất gây nghiện “lừng danh” này.
Một số thuốc lá điện tử có hình dáng giống với thuốc lá truyền thống, xì gà hoặc ống
điếu, một số khác trông giống như cây bút, USB hay có thiết kế hoàn toàn khác nhau.
Thuốc lá điện tử có loại dùng một lần và loại có thể “sạc” lại. Hầu hết các mẫu thuốc lá
điện tử hiện nay sử dụng ống chứa dung dịch – loại dùng 1 lần hoặc có thể bơm dịch vào
để dùng tiếp. Dung dịch này thường chứa nicotin, chất tạo hương, propylene glycol và
glycerin thực vật.
Độ nặng của thuốc lá điện tử dựa trên lượng nicotin trong dung dịch, được biểu thị bằng
miligam trên mililit hoặc tính theo phần trăm. Tuy nhiên, các nghiên cứu cảnh báo rằng
các nhãn mác không phải lúc nào cũng cung cấp thông tin chính xác về hàm lượng
nicotin. Một số loại vỏ thuốc dùng một lần chứa dạng nicotin cô đặc, gọi là muối
nicotin,.
Chúng ta có ví dụ như sau: Một vỏ thuốc chứa 5% muối nicotin có thể có 30 đến 50
miligram nicotin, tương đương lượng nicotin trong 1-3 gói thuốc lá thông thường.
5.4 Hàm ý quản trị đối với yếu tố lạm dụng
Thuốc lá điện tử chứa nicotine là chất gây nghiện, vì thế trẻ có thể vật vã khó chịu khi sử
dụng.
Nicotine còn gây hại cho sự phát triển não bộ ở trẻ em, gây suy giảm trí nhớ, ảnh hưởng
đến trí tuệ do não bộ của trẻ chưa hoàn thiện. Thậm chí, có thể gây ra nguy cơ đau thắt
ngực, suy tim, đột quỵ, suy giảm miễn dịch, giảm sức đề kháng.
Thuốc lá điện tử với các ống dung dịch đốt không có định lượng về nồng độ nicotine và
tạp chất, dẫn đến nguy cơ người sử dụng tăng liều lượng nicotine và gây ra ngộ độc cấp
tính.
Đã có không ít trường hợp học sinh được đưa vào cấp cứu trong trạng thái kích thích,
loạn thần, ảo giác hoặc suy hô hấp do ngộ độc các chất trong thuốc lá điện tử. Cụ, thể
trường hợp của em N.A (nam, 12 tuổi) là học sinh Trung học ở Hà Nội đã đến Khoa Sức
khỏe vị thành niên – Bệnh viện Nhi Trung ương với tình trạng khó thở và co giật. Theo
thông tin khai thác thông tin từ gia đình: N.A là học sinh ngoan, học giỏi, nhưng bố đi
làm xa, mẹ bận công việc nên không dành thời gian quan tâm, giám sát trẻ. Gần đây,
N.A hay tụ tập với các anh lớp trên ở trường học, các anh đã rủ N.A sử dụng thuốc lá
điện tử. N.A cho rằng chơi với các anh lớn tuổi, bản thân mình được trải nghiệm hơn,
“làm người lớn” hơn nên đã. Sau đó, trẻ có tự mua trên mạng về để được tự do hút.
Cùng với việc hút thuốc lá điện tử, N.A cũng có biểu hiện học sa sút hơn, bướng bỉnh,
có hành vi chống đối với bố mẹ.
Tính ảnh hưởng(AH)
Các nhà sản xuất của thuốc lá điện tử cho rằng sản phẩm này là một phương tiện an toàn
hơn để hút thuốc. Điều này đúng trong một số trường hợp, bởi vì thuốc lá điện tử không
sản xuất khói và mùi tồi như thuốc lá truyền thống. Nó cũng có thể giảm thiểu những
nguy cơ liên quan đến sức khỏe liên quan đến thuốc lá, bao gồm ung thư phổi, bệnh phổi
tắc nghẽn mạn tính, bệnh tim và đột quỵ. Thuốc lá điện tử cũng có thể giúp người hút
thuốc dần dần giảm độc tính và sự nghiện ngập của thuốc lá.
Tuy nhiên, các nhà khoa học đã đưa ra một số quan ngại về độ an toàn của thuốc lá điện
tử. Mặc dù khói điện tử không có chất độc hại như khói thuốc lá thông thường, nhưng
nó vẫn chứa các chất hóa học nguy hiểm, bao gồm các kim loại nặng và các hợp chất
hữu cơ, có thể gây hại cho sức khỏe của người dùng. Ngoài ra, những tác động của
thuốc lá điện tử về lâu dài vẫn chưa được nghiên cứu đầy đủ. Các nhà khoa học cũng lo
ngại rằng quá trình sử dụng thuốc lá điện tử có thể tạo ra một thói quen mới, nơi mà
người dùng không thể cai nghiện hoàn toàn.
Vì vậy, trước khi sử dụng thuốc lá điện tử, người dùng nên cân nhắc đầy đủ về những lợi
và hại của nó. Mặc dù nó có thể giúp giảm thiểu một số nguy cơ liên quan đến thuốc lá,
nhưng cũng có thể tạo ra các vấn đề khác và tác động lâu dài chưa được biết đến. Tốt
hơn là đối mặt với thực tế rằng thuốc lá độc hại và thử những phương pháp khác để giải
quyết vấn đề bằng cách cai nghiện và giảm hút thuốc.
Để hạn chế được tối đa vấn nạn thuốc lá điện tử hiện nay ở lứa tuổi vị thành niên, vai
trò của gia đình trong đó bố mẹ đóng vai trò rất quan trọng. Bố mẹ cần chú ý:
Dành thời gian quan tâm, lắng nghe trẻ và giám sát trong các hoạt trong cuộc sống của
trẻ trên cơ sở tôn trọng tránh dẫn đến các hành vi chống đối do bị áp đặt.
Phối hợp với nhà trường để tìm hiểu thêm sinh hoạt, mối quan hệ của trẻ để có thể phát
hiện những dấu hiệu bất thường.
Khi phát hiện những dấu hiệu bất thường, cần liên hệ với bác sĩ hoặc chuyên gia tâm lý
để được thăm khám và điều trị sớm.
Bên cạnh đó, vai trò giáo dục của nhà trường cũng là yếu tố quan trọng để trẻ vị thành
niên không bị sa đà vào những thói hư tật xấu, những tệ nạn xã hội:
Giáo dục học sinh nhận thức được các chất gây nghiện và các tác hại do sử dụng chất
gây nghiện.
Tăng cường các hoạt động ngoại khóa để giải tỏa căng thẳng sau giờ học.
Ngoài ra, cần quản lý chặt chẽ vấn đề sử dụng chất ở học sinh: nguồn cung cấp, đối
tượng sử dụng để tránh nguy cơ sử dụng rộng rãi tại trường học.
Sự phối hợp chặt chẽ giữa bố mẹ và nhà trường cùng với sự chung tay của xã hội, tình
trạng học sinh hút thuốc lá điện tử sẽ sớm được loại bỏ khỏi môi trường học đường. Qua
đó, xây dựng một thế hệ trẻ vị thành niên khỏe mạnh và trở thành nhân tố tương lai góp
phần cho sự phát triển của xã hội, đất nước chúng ta
1. Bộ Y tế, Điều tra toàn cầu về sử dụng thuốc lá ở người trưởng thành tại Việt Nam
(GATS) năm 2010. 2011.
2. Bộ Y tế, Điều tra toàn cầu về sử dụng thuốc lá ở người trưởng thành tại Việt Nam
(GATS) năm 2015. 2016, Bộ Y tế.
3. Quỹ Phòng chống tác hại thuốc lá và Trường Đại học y tế công cộng, Điều tra về sử
dụng thuốc lá ở người trưởng thành tại Việt Nam (PGATS) năm 2020. 2020, Bộ Y tế.
4. Bộ Ngoại Giao. Công ước khung về Kiểm soát Thuốc lá của Tổ chức Y tế Thế giới
(WHO) có hiệu lực đối với nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam từ ngày 17 tháng
3 năm 2005. Số 34/2005/LPQT.
5. Thủ tướng Chính Phủ. Quyết định số 1315/QĐ-TTG của Thủ tướng Chính phủ: Về
việc phê duyệt Kế hoạch thực hiện Công ước khung về kiểm soát thuốc lá. Ngày 21
tháng 8 năm 2009.
6. Quốc hội, Luật số 09/2012/QH13: Phòng, chống tác hại của thuốc lá. 2012.