Professional Documents
Culture Documents
ĐỒ ÁN CÔNG NGHỆ 1
XÂY DỰNG QUY TRÌNH CÔNG NGHỆ
SẢN XUẤT ETHANOL TỪ VỎ ĐẬU NÀNH
Đà Nẵng, 2021
Đồ án công nghệ 1
LỜI CẢM ƠN
***
Thay mặt toàn bộ thành viên của nhóm, đầu tiên em xin gửi lời cảm ơn đến cô TS.
Nguyễn Thị Minh Xuân đã hướng dẫn, góp ý nhiệt tình của cô trong suốt thời gian
nghiên cứu và hoàn thành đồ án. Đồng thời em cũng xin cảm ơn các cô thầy tại Đại
học Bách khoa – Đại học Đà Nẵng nói chung, các cô thầy giảng dạy tại khoa Hóa và
bộ môn Công nghệ sinh học nói riêng đã giúp chúng em có nền tảng để thực hiện được
quá trình nghiên cứu này bằng các kiến thức ở môn đại cương và cơ sở.Cuối cùng, em
cũng xin cảm ơn các bạn đã góp ý, hỗ trợ em trong quá trình làm đồ án.
Tuy nhiên, đây là lần đầu làm đồ án nên còn nhiều bỡ ngỡ và còn nhiều hạn chế,
mặc dù em đã cố gắng hết mình nhưng không thể tránh khỏi những sai sót và nhiều chỗ
chưa chính xác, em rất mong nhận được những ý kiến đóng góp quý báu từ cô, để
những đồ án tiếp theo em có thể khắc phục và hoàn thành tốt hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
Đồ án công nghệ 1 này là quá trình nghiên cứu và tìm hiểu của bản thân em
dưới sự hướng dẫn của cô TS. Nguyễn Thị Minh Xuân.
Em xin cam đoan những kết quả có được trong đồ án này hoàn toàn không sao
chép từ đồ án của người khác dưới bất kì hình thức nào. Mọi sự tham khảo sử dụng
trong đồ án đều được trích dẫn từ các nguồn tài liệu nằm trong danh mục tài liệu tham
khảo.
Em xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về lời cam đoan của mình.
Trịnh Tú Sương
LỜI MỞ ĐẦU
***
Trong bối cảnh hiện nay, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của quá trình công nghiệp
hóa là sự khai thác quá mức những nguồn tài nguyên thiên nhiên, đặc biệt là nguồn
nhiên liệu hóa thạch, điều đó đã khiến cho nguồn năng lượng truyền thống (dầu mỏ,
than đá, khí thiên nhiên…) ngày càng cạn kiệt.
Trước tình hình đó, nhiên liệu sinh học được xem như một dạng năng lượng mới đầy
tiềm năng bởi khả năng tái tạo của nó và hơn hết đây là nguồn năng lượng “sạch”,
không độc hại và dễ dàng phân hủy trong tự nhiên. Hiện nay có 2 dạng năng lượng sinh
học chủ yếu là Ethanol sinh học và Diesel sinh học.
Ethanol được coi là một nhiên liệu sạch có khả năng tái tạo và trong tương lai có thể
thay thế một phần cho các nguồn nguyên liệu hóa thạch đang ngày càng cạn kiệt như
than đá và dầu mỏ. Nguồn nguyên liệu cellulose thực sự dồi dào, trong khi vấn đề
nghiên cứu sản xuất ethanol từ cellulose vẫn ít được khai thác.
Việt Nam là một quốc gia mà nông nghiệp có một vị trí rất quan trọng và luôn được
ưu tiên trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Hàng năm, sản xuất
nông nghiệp ở Việt Nam tạo ra một lượng lớn phế phẩm nông nghiệp, chủ yếu là
lignocellulose từ các mùa vụ. Phế phụ phẩm nông nghiệp có tiềm năng năng lượng lớn,
nhưng việc sử dụng phế phụ phẩm nông nghiệp dưới dạng nhiên liệu sinh học vẫn còn
hạn chế và đây được coi là một hướng nghiên cứu mới và cần thiết tại Việt Nam.
Trên thế giới đã có những công trình nghiên cứu ứng dụng khả năng sử dụng phụ
phẩm từ nông nghiệp (nguồn nguyên liệu có chứa hàm lượng Cellulose khá lớn) làm
nguyên liệu sản xuất Ethanol sinh học. Đây một loại nguyên liệu rẻ tiền, phổ biến và có
khả năng phát triển rất nhanh.
Vì vậy, em đã chọn đề tài: “XÂY DỰNG QUY TRÌNH CÔNG NGHỆ SẢN XUẤT
ETHANOL TỪ VỎ ĐẬU NÀNH”
MỤC LỤC
Ethanol là một hợp chất hữu cơ nằm trong dãy đồng đẳng của ancol. Ethanol có
rất nhiều tên gọi khác nhau như rượu etylic, ancol etylic, rượu ngũ cốc hay cồn công
nghiệp. Ethanol đang được sử dụng rộng rãi trên thế giới, nó sẽ là tương lai của nhiều
ngành công nghiệp và là nhiên liệu tiềm năng vô cùng lớn. Trong cuộc sống hằng ngày
ta vẫn hay gọi nó là rượu.
1.1.1 Ethanol
Ethanol là một chất lỏng, không màu, trong suốt, mùi thơm dễ chịu và đặc trưng,
vị cay, nhẹ hơn nước (khối lượng riêng 0.7936 g/ml ở 15⁰C), dễ bay hơi (sôi ở nhiệt
độ 78.39⁰C), hóa rắn ở -114.15⁰C, tan trong nước vô hạn, tan trong ete và clorofom,
hút ẩm, dễ cháy, khi cháy không có khói và ngọn lửa có màu xanh da trời. Sở dĩ rượu
etylic tan vô hạn trong nước và có nhiệt độ sôi cao hơn nhiều so
với este hay aldehyde có khối lượng phân tử xấp xỉ là do sự tạo thành liên kết
hydro giữa các phân tử rượu với nhau và với nước.
Ethanol được sản xuất bằng cả công nghiệp hóa dầu, thông qua công nghệ
hyđrat hóa etylen, và theo phương pháp sinh học bằng cách lên men đường hay ngũ
cốc với men rượu.
a. Ethanol được sản xuất bằng cả công nghiệp hóa dầu thông qua công nghệ
hyđrat hóa etylen
Ethanol được sản xuất từ các nguyên liệu dầu mỏ, chủ yếu là thông qua phương
pháp hydrat hóa ethylene bằng xúc tác acid. Cho ethylene hợp nước ở 300⁰C, áp suất
70-80 atm với chất xúc tác là acid wolframic hoặc acid phosphoric:
Trong công nghệ cũ, lần đầu tiên được tiến hành ở mức độ công nghiệp vào năm
1930 bởi Union Carbide, nhưng ngày nay gần như đã bị loại bỏ thì ethylen đầu tiên
được hyđrat hóa gián tiếp bằng phản ứng của nó với acid sulfric đậm đặc để tạo ra
ethyl sulfat, sau đó chất này được thủy phân để tạo thành Ethanol và tái tạo acid
sulfuric:
(chẳng hạn methanol) hay khó chịu (chẳng hạn denatonium- C 21H29N2O•C7H5O2-là một
chất rất đắng, gây tê).
Ethanol được sản xuất từ các nguyên liệu dầu mỏ thông qua phương pháp hydrat
hóa ethylene bằng xúc tác acid. Cho ethylene hợp nước ở 300⁰C, áp suất 70-80 atm với
chất xúc tác là acid wolframic hoặc acid phosphoric:
H2C=CH2+ H2O→CH3CH2OH
b. Ethanol được sản xuất theo phương pháp sinh học, bằng cách lên men đường
hay ngũ cốc với men rượu
Trong điều kiện không có oxy thì một số loại men rượu sẽ chuyển hóa đường
tạo ra Ethanol và Cacbon dioxit CO2.
Quá trình nuôi cấy men rượu theo các điều kiện để sản xuất rượu được gọi là ủ
rượu. Men rượu có thể phát triển trong sự hiện diện của khoảng 20% rượu, nhưng nồng
độ của rượu trong các sản phẩm cuối cùng có thể tăng lên nhờ chưng cất.
Để sản xuất dung môi Ethanol từ các nguyên liệu chứa tinh bột như hạt ngũ cốc
thì tinh bột đầu tiên phải được chuyển hóa thành đường. Trong việc ủ men bia, theo
truyền thống nó được tạo ra bằng cách cho hạt nảy mầm hay ủ mạch nha. Trong quá
trình nảy mầm, hạt tạo ra các enzym có chức năng phá vỡ tinh bột để tạo ra đường. Để
sản xuất ethanol làm nhiên liệu, quá trình thủy phân này của tinh bột thành glucoza
được thực hiện nhanh chóng hơn bằng cách xử lý hạt với acid sulfuric loãng, enzym
nấm amylas, hay là tổ hợp của cả hai phương pháp.
Ethanol cũng được sử dụng trong các sản phẩm chống đông lạnh vì điểm
đóng băng thấp của nó.
Ethanol dùng để điều chế một số hợp chất hữu cơ như axit axetic, dietyl
ete, etyl axetat…
Ethanol được dùng làm dung môi hoặc chất pha để pha vecni, dược
phẩm, nước hoa…
Ethanol dùng để pha chế xăng sinh học E5, E10, thường tỉ lệ xăng chiếm
trên 90%.
Ethanol dùng trong công nghiệp in, công nghiệp điện tử, dệt may.
Ethanol dùng trong ngành điện tử, lau vi mạch, bo mạch.
Ethanol ứng dụng vào ngành công nghiệp thực phẩm hay còn gọi là cồn
thực phẩm và có những ứng dụng sau đây:
Ethanol là một trong những nguyên liệu để tạo ra đồ uống có cồn mà
hằng ngày chúng ta vẫn hay sử dụng như bia, rượu, …
Ethanol còn được dùng như nước ướp gia vị.
Ethanol được dùng như một chất chống vi khuẩn, sát trùng
Ethanol được dùng để điều chế thuốc ngủ
Ethanol ở nồng độ nhất định còn là dung dịch dùng để tẩy rửa, vệ sinh các
dụng cụ y tế.
Ethanol có vai trò rất quan trọng trong cuộc sống của con người, để giải quyết
việc phụ phẩm nông nghiệp, người ta tận dụng để điều chế ethanol.
Vỏ đậu nành là lớp vỏ bao bọc phía bên ngoài hạt, chiếm khoảng 8% toàn bộ hạt
và chứa 86 % carbohydrate, 9% protein,4,3% tro, 1% lipid.
Cấu trúc hoá học của ligin rất dễ bị thay đổi ở nhiệt độ cao và pH thấp
như trong điều kiện tiền xử lý bằng hơi nước. Ở nhiệt độ phản ứng cao hơn 200 độ C,
ligin bị kết khối thành những phần riêng biệt và tách khỏi cellulose, …
lignocellulosic làm ẩm nguyên liệu. Dưới tác dụng của nhiệt độ, áp suất và hơi nước,
hemicellulose bị thủy phân. Sau đó một số sản phẩm của quá trình thủy phân
hemicellulose bị phân hủy thành các acid hữu cơ như acid acetic và acid uronic. Các
acid này lần lượt tham gia vào quá trình phân cắt mạch hemicellulose, giải phóng
xylose và một phần glucan. Các vùng vô định hình của cellulose cũng bị thủy phân một
phần. Nếu gia tăng điều kiện tiến hành khắc nghiệt hơn sẽ thúc đẩy quá trình phân hủy
xylose thành furfural kìm hãm sự phát triển của vi sinh vật.
+ Giảm áp đột ngột: Sau khi nguyên liệu được đưa vào thiết bị, gia nhiệt
và tăng áp đến nhiệt độ và áp suất nhất định để làm ẩm nguyên liệu, hỗn hợp được ép
đưa ra ngoài qua lỗ nhỏ. Ẩm trong biomass đang ở áp suất cao. Khi hỗn hợp đi ra khỏi
thiết bị, áp suất giảm đột ngột. Tại đây diễn ra quá trình phân cắt nguyên liệu. Quá
trình phân cắt nguyên liệu diển ra dưới tác dụng cơ học và hóa học. Nước trong nguyên
liệu đang ở nhiệt độ và áp suất cao. Áp suất giảm đột ngột làm giảm nhiệt độ bốc hơi
của nước xuống thấp hơn nhiệt độ hiện có của nguyên liệu. Nước có mặt trong cấu trúc
biomass bị bốc hơi. Sự giãn nở của hơi nước tạo ra lực cắt tác động lên khối nguyên
liệu. Nếu lực cắt này đủ lớn hơi nước sẽ phá hủy cấu trúc lignocellulosic.Trong quá
trình xử lí, lignin bị phá hủy do các liên kết β-O-4-ether và liên kết acid không bền bị
cắt tạo ra các dẫn xuất rượu cinnamyl và hỗn hợp các phụ phẩm khác. Chế độ xử lí
càng nghiêm ngặt tạo ra càng nhiều các hợp chất có phân tử thấp.
Nấm men là tên chung để chỉ những nhóm nấm có cấu tạo đơn bào, sống riêng
lẻ hoặc sống thành từng đám, không di động và sinh sản vô tính chủ yếu bằng hình
thức nảy chồi. Chúng phân bố rộng rãi trong thiên nhiên như trong đất, nước, lương
thực thực phẩm,... đặc biệt có nhiều trong các loại hoa quả chín, ngọt.
1.3.3 Đặc điểm hình thái của nấm men Saccharomyces cerevisiae
Nấm men là sinh vật đơn bào hiển vi, tế bào cơ bản giống như ở động, thực
vật. So sánh cấu tạo tế bào nấm men với vi khuẩn ta thấy có sự tiến hóa nhảy vọt từ
nhân sơ đến nhân chuẩn. Cùng với sự tiến hóa về nhân và cơ chế phân chia nhân (nhân
có màng, có các thể nhiễm sắc thể, phân bào có tơ,...) ở cơ thể nhân chuẩn xuất hiện
nhiều thể không thấy ở thể nhân sơ, như ti thể, lục lạp,..
Nấm men Sacchamyces cerevisiae thường có dạng hình trứng, hình bầu dục.
Hình dạng nấm men không ổn định, nó phụ thuộc vào tuổi, giống và điều kiện ngoại
cảnh. Ví dụ, trong môi trường nuôi cấy giàu dinh dưỡng có hình bầu dục. Trong điều
kiện yếm khí thường có hình tròn, trong điều kiện hiếu khí tế bào có hình dài hơn.
1.3.4 Đặc điểm sinh học của nấm men Saccharomyces cerevisiae
Kích thước tế bào nấm men thay đổi rất nhiều từng giai đoạn phát triển. Nhìn
chung, tế bào nấm men to hơn tế bào vi khuẩn một cách rõ rệt, đường kính khoảng 7
µm; chiều dài 8–12 µm.
Trọng lượng riêng của tế bào nấm men không khác mấy so với vi khuẩn (ở
nấm men chỉ số này là 1.055–1.060; ở vi khuẩn: 1.050–1.112)
Phát triển tối ưu ở 33–35⁰C trong môi trường chứa 10–30 % glucose. Nhiệt
độ tối thiểu là 4⁰C trong 10 % glucose và 13⁰C trong 50 % glucose, nhiệt độ tối da là
38–39⁰C.
Có khả năng phát triển ở pH= 1.6 trong HCl; pH= 1.7 trong H 3PO4 và pH=
1.8– 2 trong acid hữu cơ, phát triển mạnh nhất trong acid benzoic 100mg/kg ở pH=
2.5–4 và acid sorbic 200 mg/kg ở pH= 4.
1.3.5 Đặc điểm sinh hoá của nấm men Saccharomyces cerevisiae
Môi trường dinh dưỡng cần đáp ứng các nhu cầu của vi sinh vật về nguồn C,
nguồn N, nguồn muối khoáng, nguồn nhân tố sinh trưởng và nước.
Nguồn Cacbon: Hợp chất cacbon chiếm vị trí hàng đầu cho sự sống của nấm
men, C có trong tế bào chất, thành tế bào, trong tất cả các phản ứng enzyme và sản
phẩm trao đổi chất.Nguồn cacbon cung cấp chủ yếu cho nấm men Saccharomyces
cerevisiae được lấy chủ yếu từ các nguồn đường: glucose, saccharose, fructose.
Nguồn Nitơ vô cơ: Nitơ là thành phần cấu tạo nên tế bào. Nguồn nitơ dược
nấm men lấy từ các hợp chất vô cơ và hợp chất hữu cơ. Do vậy, khi nhân giống nấm
men người ta thường bổ sung thêm lyzin, arginin hoặc (NH4)2SO4 để tăng cường khả
năng sinh sản cho nấm men
Nguồn Photpho vô cơ: Có vai trò quan trọng đối với tế bào nấm men, là
nguyên liệu tổng hợp acid nucleic, các enzyme, các hợp chất cao năng ATP.
Nguồn Oxi: Oxi là thành phần quan trọng trong gian đoạn phát triển sinh
khối của tế bào nấm men. Tuy nhiên nó là nguyên nhân gây hư hỏng sản phẩm trong
các công đoạn kế tiếp. Vì lên men là quá trình yếm khí, nhưng lên men trong giai đoạn
đầu nhất thiết phải cho dịch lên men tiếp xúc với oxy để cho nấm men sinh trưởng và
phát triển, khi dịch lên men đã đạt số lượng tế bào nấm men, thì ngăn chặn dịch lên
men tiếp xúc với oxy để nấm men tiến hành quá trình chuyển hóa đường thành ethanol
và CO2.
Các nguyên tố khoáng: Trong môi trường dinh dưỡng cần có một lượng
khoáng để đảm bảo cho sự phát triển của tế bào nấm men. Lưu huỳnh tham gia vào
thành phần của một số acid amin, albumin, vitamin, và enzyme. Magie tham gia vào
nhiều phản ứng trung gian của sự lên men, sắt tham gia vào thành phần của enzyme, sự
hô hấp và quá trình khác. Kali chứa nhiều trong nấm men, thúc đẩy sự phát triển của
nấm men, tham gia vào quá trình lên men ethanol và góp phần phục hồi phosphoryl
hóa của axitpyruvic….
1.4.2 Nhiệt độ
Nhiệt độ có ảnh hưởng rõ rệt đến hoạt động của nấm men, nhiệt độ tối ưu là 28–
32⁰C, trên 50⁰C và dưới 0⁰C thì nấm men không hoạt động.
1.4.3 pH
Nồng độ ion H+ trong môi trường ảnh hưởng lớn đến hoạt động của nấm men.
Nấm men có thể phát triển trong môi trường pH= 2–8 nhưng khoảng 4–4.5 là
thích hợp nhất. Vi khuẩn bắt đầu phát triển ở pH= 4.2 và cao hơn, khi thấp hơn mức
này chỉ có nấm men phát triển được. Vì thế trong quá trình lên men điều chỉnh pH < 4,
thường là pH= 3.8 là thích hợp nhất, khi đó nấm men phát triển mạnh và hầu như vi
khuẩn không phát triển.
Ethanol và CO2 có tác dụng kìm hãm sự sinh trưởng và khả năng lên men của
nấm men. Nấm men có thể phát triển ở nồng độ cồn là 9 – 14%V. Trong quá trình
lên men nồng độ rượu tăng dần sẽ gây ức chế hoạt động sống của nấm men và
kìm hãm hoạt động của nhiều loại enzyme nên quá trình lên men tạo rượu bị
giảm hoặc dừng.
Số lượng tế bào nấm men cho vào dịch lên men ảnh hưởng rất lớn đến quá trình
lên men. Nếu số lượng tế bào nấm men cho vào thích hợp thì quá trình lên men diễn ra
tốt và hiệu suất thu hồi cao, chất lượng sản phẩm tốt hơn. Nếu số lượng nấm men quá ít
thì tốc độ lên men chậm. Sinh khối tế bào nấm men quá nhiều thì môi trường dịch lên
men không đủ để nấm men phát triển, tế bào nấm men chết dần, sản phẩm có mùi vị lạ,
phí một lượng nấm men đáng kể.
Thủy phân là quá trình chuyển đổi các thành phần cellulose và hemicellulose của
nguyên liệu thô thành đường cơ chất trước khi chúng lên men. Quá trình thủy phân có
thể dùng 2 phương pháp: phương pháp hoá học (acid) và phương pháp sinh học
(enzyme).
1.5.1 Thuỷ phân bằng acid
Thuỷ phân bằng acid thường dùng acid H2SO4 loãng hoặc đặc.
Sử dụng acid đặc thì quá trình thuỷ phân sẽ xảy ra trong điều kiện nhiệt độ thấp
và áp suất khí quyển nhưng phương pháp này đắt tiền vì tính ăn mòn cao nên sử dụng
thiết bị chống chịu tốt, khó thu hồi và tái sử dụng acid.
Sử dụng acid loãng xảy ra ở nhiệt độ cao và áp suất cao dẫn đến hình thành các
chất độc hại ảnh hưởng đến quá trình lên men.
1.5.2 Thuỷ phân bằng enzyme
Enzyme được sử dụng để thuỷ phân là enzyme Cellulase. Phương pháp này hiệu quả
và thu đượng lượng đường cao mà không có sự hình thành các chất độc cũng như thiết
bị ăn mòn. Nhưng vấn đề đặt ra, enzyme Cellulase phải có giá thành rẻ, hoạt tính đặc
hiệu cao, độ ổn định cao, chịu được pH và nhiệt độ.
Lên men liên tục: nguyên liệu được nhập và tháo liệu liên tục.
Lên men gián đoạn: được thực hiện trong các thiết bị gián đoạn. Cơ chất được
nhập vào một lần ngay từ đầu của quá rình lên men. Trong quá trình lên men không bổ
sung cơ chất mà cũng không tháo liệu. Sản phẩm chỉ được lấy ra khi kết thúc quá trình
lên men. Lên men gián đoạn có bổ sung cơ chất : thực hiện bằng thiết bị lên men bán
liên tục. Đây là thiết bị có cơ cấu nhập liệu theo chu kì. Ngoài lượng cơ chất ban đầu
còn có lượng cơ chất được bổ sung cơ chất mà cũng không tháo liệu. Sản phẩm chỉ
được lấy ra khi kết thúc quá trình lên men. Lên men gián đoạn có bổ sung cơ chất :
thực hiện bằng thiết bị lên men bán liên tục. Đây là thiết bị có cơ cấu nhập liệu theo
chu kì. Ngoài lượng cơ chất ban đầu còn có lượng cơ chất được bổ sung trong quá trình
lên men. Sản phẩm được tháo ra vào cuối giai đoạn lên men.
Đối với quy trình sản xuất ethanol này thì sử dụng phương pháp lên men liên
tục. Kết quả của việc sử dụng công nghệ như vậy sẽ giảm lao động , giảm lượng dung
dịch CIP( kết quả là giảm hóa chất , chi phí), công suất lên men tăng khoảng 130% so
với hệ thống lên men theomer và làm tăng sản lượng ethanol.
Vỏ đậu nành
Rửa sạch
Tạp chất
Nghiền nhỏ
Acid
sulfuric Tiền xử lí- nổ hơi
loãng nước Loại lignin
Lọc
Bã
Ly tâm
Ethanol
SVTH: Trịnh Tú Sương 18SH 21
Đồ án công nghệ 1
Chưng cất
2.1. Vỏ đậu nành
2.1.1. Nguồn gốc
Nguyên liệu thu từ lượng phế phẩm của nhà máy chế biến sữa đậu nành
Vinasoy
( vỏ đậu nành)
2.1.2. Yêu cầu
Nguyên liệu không bị dập, nát hay đang trong quá trình phân hủy, không bị
phơi khô hay để quá lâu. Nếu chưa sử dụng ngay nguyên liệu, cần phải tập trung ở kho
lạnh
Đặc tính: là lớp vỏ bao bọc phía bên ngoài hạt . Vỏ đậu nành chiếm khoảng
8% toàn bộ hạt và chứa 86 % carbohydrate, 9% protein,4.3% tro, 1% lipid.
Phân loại chất lượng nguyên liệu nhằm loại bỏ các nguyên liệu bị hỏng, bầm
dập do quá trình vận chuyển. Đồng thời loại bỏ một số loại vi sinh vật. Đảm bảo cho
nguyên liệu không còn các yếu tố làm giảm hiệu suất của quá trình sản xuất.
2.2.2. Phương pháp: 3 phương pháp : hóa học , nhiệt học, cơ học
Làm sạch bằng hóa chất (NAOH tinh sạch 95% trở lên, NA2CO3)
Làm sạch nguyên liệu bằng nhiệt
Làm sạch nguyên liệu bằng cơ học (tùy vào nguyên liệu để chọn loại máy
thích hợp)
Sử dụng máy rửa băng chuyền
Đa số các enzyme đều nằm ở trong các mô, tế bào nên không thể tự giải phóng.
Vì thế quá trình nghiền nhằm mục đích phá vỡ kết cấu mô và tế bào, giải phóng enzym.
Sau khi được giải phóng, enzyme được trộn lẫn trong hỗn hợp dịch lỏng.
2.3.2. Thiết bị sử dụng: Máy nghiền bi
Máy nghiền bi được cấu tạo bao gồm thùng quay chứa bi thép có kích thước
khác nhau ở bên trong thùng, hoạt động quay tròn thông qua truyền tải bánh răng
ngoài. Các vật liệu sẽ được đưa vào thùng nghiền hình trụ, thùng quay với tốc độ 4-20
vòng/phút, tốc độ quay nhanh chậm tùy thuộc vào đường kính thùng nghiền, với thùng
nghiền có đường kính lớn sẽ cho tốc độ chậm hơn so với thùng có đường kính nhỏ. Khi
thùng quay, lực ly tâm được tạo ra, vật liệu nghiền và bi trong thùng được đưa lên độ
nhất định, dưới tác động của trọng lực sẽ rơi xuống tự do, các bi rơi tự do va đập vào
vật liệu nghiền làm chúng bị vỡ vụn. Kết quả của quá trình xảy ra liên tục là vật liệu
được nghiền thành những mảnh nhỏ 2-3mm.
2.4. Tiền xử lý
2.4.1. Mục đích
Tiền xử lý bằng kiềm: so với acid, tiền xử lý lignocellulose bằng các dung dịch
kiềm giảm thiểu sự mất mát của cacbohydrat do quá trình thủy phân. Chất kiềm cũng
giúp loại bỏ các nhóm acetyl, thúc đẩy quá trình thủy phân sau này và ức chế sự hình
thành furfural.
c. Phương pháp xử lý nổ hơi nước
Ưu điểm:
+ Tăng sự kết tinh của cellulose bằng cách thúc đẩy sự kết tinh của vùng vô đinh hình
+ Hemicellulose bị thủy phân trong quá trình no hơi
+ Sự nổ hơi thúc đẩy việc khử lignin.
Nhược điểm:
+ Tốn chi phí, năng lượng vận hành.
+ Đòi hỏi thiết bị chịu được nhiệt độ và áp suất cao
+ Có thể làm phân hủy cellulose.
+ Mất đi đường từ Hemicellulose.
+ Làm sinh ra fufural và 5-hydroxymethyl fufural gây ức chế quá trình lên men
Chọn tiền xử lý cơ học bằng nổ hơi nước kết hợp với H2SO4 loãng để loại bỏ hoàn
toàn ligin.
2
2.1
2.2
2.3
2.4
2.4.1
2.4.2
2.4.3 Thiết bị sử dụng: StakeTech
cầu, có thể quay và mở đều đặn theo từng khoảng thời gian đặt trước theo tốc độ sản
xuất. Tùy vào điều kiện sản xuất mà van có thể định kì mở mỗi 2 – 8 giây. Do đó cần
phải chuẩn bị ống dẫn biomass đã xử lí sang quá trình kế tiếp.Thiết bị phản ứng
StakeTech đang được sử dụng ở các trường đại học và là một mặt hàng có giá trị
thương phẩm cao.
Quá trình tiền xử lí có thể được thực hiện bằng hệ thống thiết bị phản
ứng liên tục 2 cấp. Thiết bị được thiết kế dựa trên một trục vít nằm ngang và
một trục vít đặt thẳng đứng. Trục vít thứ nhất dòng hơi nước được dẫn vào ở
170-185ºC. Trục vít thứ hai sử dụng dòng acid loãng < 0.1 % ( tính theo
khối lượng) ở 205-225 ºC.
Mục đích của quá trình thuỷ phân nguyên liệu nhằm tạo ra đường cơ chất cho
quá trình lên men tạo ethanol.
Sử dụng enzyme Cellulase của Công ty CP XNK Tiên Phong Việt Nam quận Thủ Đức
thành phố HCM phân phối (Xuất xứ: Novozyme (Đan Mạch))
Quá trình thuỷ phân cần đạt được các yêu cầu:
Thuỷ phân hemicellulose, cellulose tạo ra lượng đường lên men cực đại
Hạn chế sự phân huỷ các carbohydrate đến mức tối đa
Giảm sự hình thành fufural và các hợp chất phenolic
2.6 Lọc bã
Lọc bã vỏ, thu dịch đường để đem lên men tạo ethanol
Sau khi thuỷ phân , người ta cho nước vào để trích ly. Cho nước vào theo tỷ lệ
thích hợp và tiến hành ép lọc để loại bỏ bã, và thu dịch đường.
Trộn đều môi trường dinh dưỡng cùng với dịch đường để tạo môi trường cho
quá trình lên men.
Vật liệu được cho vào thiết bị phối trộn bao gồm dịch đường, các loại muối dinh
dưỡng: (NH4)2SO4, K2HPO4, MgSO4, nước để tạo đổ ẩm.
Sau khi lọc loại bỏ bã, sản phẩm sẽ đi theo băng chuyền đến thiết bị phối trộn.
Ta tiến hành cho phối trộn tạo môi trường lên men theo tỉ lệ: Glucose 10g, dịch
chiết nấm men 2g, (NH4)2SO4 4, K2HPO4 10g, MgSO4 0.8g, 3 ml Huyền phù tế
bào nấm men (108 cfu/ml) trong huyết thanh sinh lý được thêm vào bình.
2.7.4 Thiết bị phối trộn: Chọn máy trộn dạng băng tải liên tục.
Máy trộn là hộp trộn kín có áo dạng hình máng, cuối máng là phòng tháo liệu.
Bênh trong buồng trộn có roto gồm trục nhiều cách đảo và vòi phun hơi nước để phun
mù vật liệu lỏng. Dẫn động máy trộn nhờ động cơ điện thông qua hộp giảm tốc và
truyền động bằng đai hình thang.
Đặc tính kỹ thuật của máy trộn bang tải liên tục:
Thể tích của phòng trộn là: Hoạt động: 1,25 m3.
Định mức: 2,5 m3.
Áp suất là: Trong tường thiết bị: 30 MPa.
Trong hốc phun: 50 MPa.
Trong áo ngoài: 143 MPa.
Năng suất là: 1200 kg/h hay 28800 kg/ngày.
Số vòng quay của rôto là: 31,5 vòng/phút.
Công suất của động cơ là: 10 Kw.
Kích thước cơ bản là: 5346 × 1480 × 1940 mm.
Khối lượng là: 4000 Kg.
vào các cánh. Trong phần hình nón của các thiết bị có các cánh khuấy trộn nhằm bảo
đảm việc tháo môi trường một cách tự do qua cửa kín. Cửa mở nhờ bộ dẫn động thuỷ
lực tự động. Thiết bị có áo hơi, các cửa quan sát, các phương tiện tự động hoá để điều
chỉnh nhiệt độ và áp suất hơi.
Nấm men giống được nuôi cấy ở môi trường thạch nghiêng. Khi đã có nấm
men giống và đã chuẩn bị môi trường xong, tiến hành cấy chuyền nấm men giống từ
môi trường thạch nghiêng sang môi trường dịch thể 10ml. Sau đó nuôi trong tủ ấm, duy
trì nhiệt độ 28÷320C và giữ trong thời gian 20÷24 giờ.
Sau thời gian đó thì tiến hành chuyển nấm men từ ống nghiệm 10ml sang bình
100ml, 1000ml cũng đã chứa môi trường dinh dưỡng đã được chuẩn bị trước, thời gian
nuôi cấy 12 giờ.
Tiếp tục, chuyển sang nuôi cấy ở bình 10L, sau 10÷12 giờ thì chuyển sang
nuôi cấy ở các thiết bị lớn hơn trong phân xưởng.
2.11 Ly tâm
2.11.1 Mục đích: Loại bỏ nấm men ra khỏi dung dịch có nồng độ cồn
2.11.2 Giai đoạn tiến hành: Sau khi lên men thì dung dịch cồn được đưa đến thiết
bị ly tâm để tách bỏ nấm men.
2.11.3 Yêu cầu đầu ra: Tách nấm men ra khỏi dung dịch cồn.
Hỗn hợp dịch (Ethanol, nước, các chất khác) sau khi kết tủa được đưa vào
phần giữa tháp. Những chất nặng như nước, tạp chất sẽ thu được ở đáy tháp. Đáy tháp
luôn được đun sôi để ethanol sẽ bay hơi dần lên đỉnh tháp. Sau khi được ngưng tụ, một
phần cồn sẽ được hồi lưu trở lại tháp. Phần còn lại là sản phẩm được lấy ra. Tùy thuộc
phương pháp chưng cất mà nồng độ cồn có thể đạt từ 95 - 99.5%.
Ethanol nhiên liệu cần phải được chứa trong những thiết bị được làm bằng thép
carbon, hoặc thép không gỉ, bồn chứa phải được trang bị hệ thống đảo bồn và thu hồi
hơi bốc để tránh hiện tượng giảm nồng độ ethanol.
[2] https://khotrithucso.com/doc/p/nghien-cuu-san-xuat-ethanol-tu-rom-
ra-243044
[3] https://www.slideshare.net/hanhhien77/sn-xut-ethanol-t-cellulose
[4] https://tailieu.vn/doc/nghien-cuu-san-xuat-ethanol-nhien-lieu-tu-rom-ra-
975700.html
[5] https://issuu.com/daykemquynhonofficial/docs/bcdasxbioethanoltvt
[6] https://hoachattekco.com/moi-truong-nuoi-cay-mo-te-bao-thuc-vat/