Professional Documents
Culture Documents
NGHIÊN CỨU KHẢ NĂNG LOẠI BỎ CÁC HỢP CHẤT CỦA NITƠ VÀ
PHỐTPHO TRONG NƯỚC THẢI ĐÔ THỊ BẰNG CHLORELLA SP.
TRÊN HỆ PHẢN ỨNG MỞ
Hà Nội – 06/2020
BỘ GIÁO DỤC VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC
VÀ ĐÀO TẠO VÀ CÔNG NGHỆ VIỆT NAM
NGHIÊN CỨU KHẢ NĂNG LOẠI BỎ CÁC HỢP CHẤT CỦA NITƠ VÀ
PHỐTPHO TRONG NƯỚC THẢI ĐÔ THỊ BẰNG CHLORELLA SP.
TRÊN HỆ PHẢN ỨNG MỞ
Hà Nội – 06/2020
Lời cam đoan
Luận văn của tôi có sử dụng và kế thừa số liệu của đề tài nghiên cứu
khoa học sau tiến sĩ với tên đề tài “Nghiên cứu tận dụng chất dinh dưỡng
trong nước thải đô thị nuôi vi tảo Chlorella sp. và ứng dụng sinh khối vi
tảo thông qua chiết xuất chất kích thích sinh trưởng và sản xuất phân
bón sinh học” với mã số GUST.STS.ĐT2017-ST03 chủ trì bởi Học viện Khoa
học và Công nghệ.
Tôi xin cam đoan những kết quả nghiên cứu của đề tài “Nghiên cứu
khả năng loại bỏ các hợp chất của nitơ và phốtpho trong nước thải đô thị
bằng Chlorella sp. trên hệ phản ứng mở” là công trình nghiên cứu của cá
nhân tôi. Các kết quả trình bày trong luận văn là trung thực, khách quan và
chưa được công bố trong các công trình khác. Mọi sự giúp đỡ cho việc thực
hiện luận văn này đã được cảm ơn, các thông tin trích dẫn đều được ghi rõ
nguồn gốc.
Hà Nội, ngày tháng năm 2020
Học viên
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 5
CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU ........................................................... 7
1.1. TỔNG QUAN VỀ NƯỚC THẢI ĐÔ THỊ.............................................. 7
1.1.1. Khái niệm, thành phần nước thải đô thị ............................................ 7
1.1.2. Đặc điểm nước thải đô thị ................................................................. 7
1.1.3. Hiện trạng nước thải đô thị ở Việt Nam ............................................ 8
1.2. CƠ CHẾ TIÊU THỤ CÁC CHẤT Ô NHIỄM TRONG NƯỚC THẢI
BỞI VI TẢO.................................................................................................... 10
1.3. TỔNG QUAN VỀ VI TẢO CHLORELLA ........................................... 12
1.3.1. Đặc điểm cấu tạo hình thái, sinh sản ............................................... 12
1.3.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến sự sinh trưởng và phát triển của
Chlorella...................................................................................................... 14
1.3.2.1. Nhiệt độ ..................................................................................... 14
1.3.2.2. Ánh sáng .................................................................................... 14
1.3.2.3. pH .............................................................................................. 15
1.3.2.4. Dinh dưỡng ............................................................................... 16
1.3.2.5. Kim loại ..................................................................................... 17
1.3.3. Ứng dụng của vi tảo Chlorella ........................................................ 18
1.3.3.1. Thức ăn cho người và động vật................................................. 18
1.3.3.2. Nhiên liệu sinh học .................................................................... 19
1.3.3.3. Sản xuất phân bón sinh học ...................................................... 19
1.3.3.4. Sản xuất mỹ phẩm, dược phẩm ................................................. 19
1.3.4. Một số ứng dụng của vi tảo Chlorella trong xử lý các nguồn nước
thải 20
1.3.4.1. Xử lý nước thải sinh hoạt, nước thải đô thị .............................. 20
1.3.4.2. Xử lý nước thải chăn nuôi, ao nuôi trồng thủy sản .................. 21
1.3.4.3. Xử lý nước thải công nghiệp ..................................................... 22
1.4. TỔNG QUAN CÁC CÔNG NGHỆ XỬ LÝ NƯỚC THẢI KẾT HỢP
NUÔI CẤY TẢO ............................................................................................ 23
CHƯƠNG 2. NGUYÊN VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 25
2
MỞ ĐẦU
Ngày nay các vấn đề ô nhiễm môi trường đang là mối quan tâm lớn của
xã hội. Quá trình gia tăng dân số nhanh chóng, cách mạng công nghiệp và đô
thị hóa dẫn đến các hình thức ô nhiễm môi trường khác nhau như ô nhiễm
nước, đất, không khí. Trong đó ô nhiễm nguồn nước đã và đang ngày càng trở
nên nghiêm trọng hơn. Nước thải không qua xử lý từ các hoạt động của con
người trong sinh hoạt hằng ngày và nước thải công nghiệp, dịch vụ từ các nhà
máy, khu sản xuất, nhà hàng đã đổ trực tiếp lượng lớn chất ô nhiễm vào các
nguồn tiếp nhận như sông, hồ, đại dương. Các chất ô nhiễm này bao gồm
cacbon vô cơ, hữu cơ, chất dinh dưỡng (N, P) và kim loại nặng gây suy giảm
chất lượng nước, ảnh hưởng tiêu cực đến hệ động, thực vật sống thủy sinh và
nguy cơ tiềm ẩn đối với sức khỏe của con người thông qua chuỗi thức ăn. Vì
vây, xử lý nước thải đang là nhiệm vụ quan trọng trong việc giảm thiểu ô
nhiễm, duy trì hệ sinh thái đáp ứng nhu cầu dân số ngày càng tăng về nước
sạch và các vấn đề môi trường tối thiểu. Các phương pháp xử lý hóa lý và
sinh học dùng vi sinh vật (bùn hoạt tính và/hoặc xử lý yếm khí) được sử dụng
trong xử lý nước thải có thể đạt được chất lượng nước trước khi xả vào môi
trường hoặc tái sử dụng. Tuy nhiên, phương pháp này tạo ra một lượng bùn
thải lớn và yêu cầu phải có diện tích phát sinh để tập kết và qui trình xử lý
bùn phù hợp nhằm tránh gây ra ô nhiễm thứ cấp (phát sinh mùi hôi thối). Do
vậy, hiện nay phương pháp xử lý nước thải dùng vi tảo được phát triển nhằm
khắc phục những hạn chế của các phương pháp xử lý nước thải truyền thống.
Các chất dinh dưỡng (các hợp chất của các bon, nitơ và phốtpho) trong
nước thải đô thị là nguồn dinh dưỡng cần thiết cho sự phát triển của vi tảo. Vì
vậy, sự loại bỏ các chất ô nhiễm thông qua quá trình tiêu thụ chúng bởi vi tảo
sẽ tạo ra sinh khối. Trong khi đó, sinh khối vi tảo thu được có hàm lượng cao
các hợp chất cao phân tử như chất béo, proteins, carbohydrate có giá trị tiềm
năng để sản xuất nhiên liệu sinh học, thức ăn chăn nuôi, phân bón cây trồng,
phụ gia thực phẩm, hoạt tính sinh học trong ngành công nghiệp mỹ phẩm và
dược phẩm. Vi tảo lục đơn bào Chlorella sp. là một trong những loại vi tảo
được áp dụng rộng rãi trên thế giới để xử lý nước thải do tốc độ tăng trưởng
6
nhanh, hàm lượng lipids cao và đã được chứng minh khả năng loại bỏ các
bon, nitơ và phốtpho. Vì vậy, nghiên cứu này được thực hiện để đánh giá hiệu
suất loại bỏ chất dinh dưỡng khi sử dụng vi tảo này trong nước thải đô thị khu
vực quận Cầu Giấy (Hà Nội) trên hệ phản ứng mở quy mô thử nghiệm (500
L) với tên đề tài “Nghiên cứu khả năng loại bỏ các hợp chất của nitơ,
phốtpho trong nước thải đô thị bằng vi tảo Chlorella sp. trên hệ phản ứng
mở”.
Mục tiêu nghiên cứu:
(1) Nghiên cứu đặc tính của nước thải đô thị Quận Cầu Giấy, Hà Nội;
(2) Nghiên cứu sự sinh trưởng và năng suất sinh khối của Chlorella sp.
nuôi trong nước thải đô thị Quận Cầu Giấy trên hệ phản ứng mở;
(3) Đánh giá về khả năng loại bỏ N, P trong nước thải đô thị Quận Cầu
Giấy bởi Chlorella sp. và các thông số nước thải sau xử lý theo QCVN
14:2008/BTNMT.
7
cũng như quy mô doanh nghiệp. Thành phần nước thải công nghiệp cũng rất
đa dạng, thậm chí ngay trong một ngành công nghiệp, số liệu có thể thay đổi
đáng kể do mức độ hoàn thiện của công nghệ sản xuất hoặc điều kiện môi
trường, vì vậy độ độc hại gây ô nhiễm cũng khác nhau [2, 4]. Trong nước thải
công nghiệp chứa hàm lượng cao các chất hữu cơ như protein, các dạng
cacbonhydrat, dầu mỡ (công nghiệp chế biến thực phẩm), hemuxenluloza,
lignin (công nghiệp sản xuất giấy). Ngoài ra nước thải từ các nhà máy thuộc
da thường chứa nhiều kim loại nặng và sulfua. Nước thải từ nhà máy sản xuất
acquy có nồng độ axit và chì cao. Nước thải của các cơ sở xi mạ chứa hàm
lượng kim loại nặng cao và pH thấp [1, 6].
Nước thải là nước mưa (hay nước thấm): là nước mưa chảy tràn trên
mặt đất và kéo theo các chất cặn bã, dầu mỡ…đi vào hệ thống thoát nước
(chiếm khoảng 14% nước thải đô thị) [3, 4]. Hiện nay, tại các quốc gia phát
triển đã sử dụng mạng lưới cống thoát riêng biệt giữa nước thải và nước mưa.
Do vậy, lượng nước thải đi về các nhà máy xử lý sẽ chỉ bao gồm: nước thải
sinh hoạt, nước thải sản xuất và nước ngầm thâm nhập. Tuy nhiên, hầu hết
các thị trấn, thị xã và thành phố ở nước ta thường sử dụng mạng lưới cống,
kênh mương chung cho thoát nước thải và nước mưa. Vì vậy, lượng nước
chảy về nhà máy gồm nước thải sinh hoạt, nước thải công nghiệp, nước ngầm
thâm nhập và một phần nhỏ là nước mưa.
1.1.3. Hiện trạng nước thải đô thị ở Việt Nam
Theo báo cáo đánh giá hoạt động quản lý nước thải đô thị Việt Nam
năm 2013 của ngân hàng thế giới, tình trạng ô nhiễm môi trường ở Việt Nam
ngày càng gia tăng đặc biệt ở các thành phố lớn như Hà Nội, Thành phố Hồ
Chí Minh, Hải Phòng, Đà Nẵng, Huế, Nam Định, Hải Dương…Một phần
nguyên nhân do tốc độ đô thị hóa ở nước ta diễn ra khá nhanh nhưng không
phát triển cân xứng với cơ sở hạ tầng kỹ thuật, đặc biệt là hệ thống xử lý nước
thải [2]. Hệ thống thoát nước thải đô thị dùng chung cho thoát nước mưa,
nước thải sinh hoạt, nước thải công nghiệp, nước thải y tế, rác thải nhưng
không có hệ thống xử lý nước thải tập trung và phân tán qua nhiều thời kỳ
khác nhau. Đa số các nguồn thải đều được xả thẳng xuống các kênh, mương,
9
sông, hồ. Bên cạnh đó, sự gia tăng dân số, các hoạt động phát triển kinh tế -
xã hội đã và đang làm phát sinh một lượng không nhỏ các loại nước thải gây
ảnh hưởng đến các nguồn tiếp nhận [6].
Theo số liệu của Bộ Xây dựng, tính đến năm 2017, trên cả nước đã có
39 nhà máy/trạm xử lý nước thải (XLNT) tập trung được xây dựng tại các đô
thị từ loại III trở lên đã đi vào hoạt động với công suất thiết kế 907.950
m3/ngày đêm. Tuy nhiên, do mạng lưới cấp thoát nước thiếu đồng bộ nên một
số nhà máy XLNT không hoạt động hết công suất do không đủ nước thải đầu
vào. Tại Hà Nội, khoảng 20,62% tổng lượng nước thải thành phố được xử lý,
trong khi tại Thành phố Hồ Chí Minh, tỷ lệ nước thải xử lý chỉ là 13% [7].
Theo thống kê, lượng nước thải công nghiệp phát sinh tại một số khu công
nghiệp lớn như thành phố Hồ Chí Minh là 278.000 m3/ngày đêm trong đó
82,5% nguồn thải trên 50 m3/ngày đêm có hệ thống xử lý, 69,5% nguồn nước
thải lưu lượng từ 30-50 m3/ngày đêm được xử lý, lưu lượng nước thải từ 10-
30 m3/ngày đêm khả năng xử lý đạt 60,5%; lượng nước thải công nghiệp ở
Bình Dương cũng tương đối lớn với lượng thải 136.700 m3/ngày đêm; tại Hà
Nội, trung bình mỗi ngày đêm, lượng nước thải công nghiệp mà thành phố
tiếp nhận là 75.000 m3 trong đó lượng nước thải được xử lý chỉ chiếm một
phần nhỏ [7]. Báo cáo của Sở Tài nguyên và Môi trường thành phố Đà Nẵng
năm 2015 có 37 cơ sở doanh nghiệp đang hoạt động sản xuất chế biến thủy
hải sản với tổng lượng nước thải đạt 3.000 m3/ngày đêm, cao điểm 4.000-
5.000 m3/ngày đêm. Tuy nhiên hiện nay hệ thống XLNT của khu công nghiệp
dịch vụ hải sản Đà Nẵng đã bị quá tải gây ô nhiễm môi trường khu vực xung
quanh [7].
Tại Hà Nội, thực tế các kênh mương, sông, hồ nội thành từ lâu đã trở
thành nơi chứa nước thải của thành phố. Sông Tô Lịch, sông Kim Ngưu, sông
Sét, sông Lừ là các con sông chính tiếp nhận lượng nước thải sinh hoạt chưa
qua xử lý khu vực nội đô Hà Nội. Tính đến năm 2013, lượng nước thải sinh
hoạt chưa qua xử lý mà sông Tô Lịch tiếp nhận chiếm tới 48,1% tổng lưu
lượng nước thải (lượng xả vào sông Kim Ngưu là 31,9%, sông Sét là 12,7%
và sông Lừ là 3,0%) [8, 9]. Hiện nay, nước ở các con sông này có màu đen và
10
mùi gây ảnh hưởng đến sức khỏe của người dân xung quanh và cảnh quan đô
thị [10]. Năm 2016 thành phố Hà Nội chỉ có 30/43 cụm công nghiệp tập trung
đi vào hoạt động không có trạm XLNT. Trung bình mỗi ngày đêm, lượng
nước thải công nghiệp chưa qua xử lý mà thành phố tiếp nhận là 45.000 m3.
Ngoài ra, vấn đề XLNT ở các cụm công nghiệp, khu công nghiệp và cơ sở sản
xuất nhỏ lẻ trong nội thành Hà Nội gặp nhiều khó khăn do nằm xen kẽ trong
các khu dân cư, khu đô thị. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ còn gặp nhiều vấn
đề trong việc thiếu hụt kinh phí xây dựng hệ thống XLNT đạt tiêu chuẩn cũng
như không tiếp cận được công nghệ xử lý chất thải mới [6, 7].
Hình 1.1: Nước thải đô thị chưa qua xử lý đổ trực tiếp vào sông Tô Lịch
(Nguồn: baotainguyenmoitruong)
1.2. CƠ CHẾ TIÊU THỤ CÁC CHẤT Ô NHIỄM TRONG NƯỚC THẢI
BỞI VI TẢO
Vi tảo được biết đến là vi sinh vật quang hợp có khả năng chuyển động,
kích thước nhỏ từ vài µm đến 100 µm phát triển nhanh chóng nhờ quá trình
quang hợp quang tự dưỡng hoặc dị dưỡng, hoặc cả hai hình thức. Mặt khác, vi
tảo có thể sống trong điều kiện khắc nghiệt do cấu trúc đơn bào hoặc đa bào
của chúng. Tảo gồm các ngành chính: Chlorophyta, Euglenophyta,
Dinophyta, Bacilariophyta, Cyanophyta. Khả năng phát triển của vi tảo phụ
thuộc vào nguồn dinh dưỡng (N, P), cơ chất (cacbon vô cơ, CO2, HCO3-,
cacbon hữu cơ như đường…), ánh sáng, nhiệt độ [11]. Vi tảo sinh trưởng và
phát triển trong nước thải thông qua ba quá trình: (1) quá trình quang tự
dưỡng: vi tảo tiệu thụ các chất gồm cacbon vô cơ (CO2, HCO3-), nitơ, phốtpho
11
và sử dụng sáng làm nguồn năng lượng; (2) quá trình dị dưỡng: vi tảo chỉ tiêu
thụ các chất cacbon hữu cơ (đường, acetate), nitơ và phốtpho; (3) quá trình
tạp dưỡng: vi tảo đồng thời tiêu thụ cacbon vô cơ và hữu cơ, nitơ và phốtpho
và sử dụng ánh sáng làm nguồn năng lượng [12]. Cacbon được tảo tiêu thụ để
hình thành các hợp chất cao phân tử như cacbonhydrate và lipids. Nitơ được
tiêu thụ để hình thành các phân tử protein và vật liệu di truyền
deoxyribonucleic acid (DNA) và axit ribonucleic (ARN), còn phốtpho được
tiêu thụ để hình thành các phân tử dự trữ năng lượng hóa học adenosine
triphosphate (ATP). Như vậy quá trình tiêu thụ các chất ô nhiễm của vi tảo để
xây dựng lên tế bào và phát triển sinh khối có hàm lượng protein trong vi tảo
khô có thể lên tới 50-60% (8-20% N) [11, 13].
Thực tế, trong nước thải tồn tại rất nhiều vi sinh vật và thực tế xử lý
nước thải với lượng thể tích lớn hoàn toàn không thể tiệt trùng để nuôi vi tảo.
Sự sinh trưởng của vi tảo chính là sự cộng sinh với hệ vi sinh vật có trong
nước thải. Trong hệ thống nuôi vi tảo sử dụng nước thải khuấy trộn, vi sinh
vật hiếu khí chiếm ưu thế và thực hiện vai trò phân hủy chất hữu cơ phức tạp
(quá trình ôxy hóa dùng O2) và tạo ra các chất đơn giản như NO3-, NO2-, PO43-
và CO2 và những chất này nhanh chóng được tiêu thụ bởi vi tảo để phát triển
sinh khối (Hình 1.2).
Hình 1.2: Mối quan hệ cộng sinh giữa vi tảo và vi khuẩn trong xử lý
nước thải
Nguồn: www.thepoultrysite.com
12
Chlorella là một chi của tảo đơn bào, nhân thực, thuộc ngành tảo Lục
(Chlorophyta). Tế bào có dạng hình cầu hoặc hình ovan (đường kính 2-10
µm). Màng tế bào mỏng, đôi khi phủ chất nhầy, có vách xenlulozo bao bọc và
chịu được các tác động cơ học nhẹ. Chlorella có thể sống ở môi trường cạn
hoặc nước, phát triển trong điều kiện nhiệt độ từ 15 đến 35oC. Chlorella có
các sắc tố quang hợp là chlorophyll a và b trong lục lạp; có khả năng lấy
nước, các khoáng chất thiết yếu và biến đổi năng lượng ánh sáng mặt trời
thành hợp chất hữu cơ đơn giản để sinh trưởng và phát triển. Chlorella có tốc
độ tăng trưởng nhanh, trong ba giờ có khả năng tăng gấp đôi mật độ, sinh sản
vô tính bằng tự bào tử. Tùy theo loài và điều kiện môi trường mà số lượng các
loại bào tử có thể là 2, 4, 8, 16, 32 (thậm chí có thể lên tới 64) tự bào tử bằng
cách đi qua lỗ nứt của màng tế bào mẹ. Những tế bào con mới hình thành có
vòng phát triển sau 4-6 tiếng đến giai đoạn trưởng thành, có khả năng sinh
13
trưởng, toàn bộ chu trình lặp lại từ đầu [12]. Chlorella được xem là nguồn
dinh dưỡng có giá trị cao với hàm lượng protein khoảng 60% (đối với sinh
khối khô), lipit 12-15%, polysacarit (10-15%) chứa hầu hết các axit amin thiết
yếu như lysin, ethionie, arginine, histidin…và các axit béo không no,
carotenoid (phần lớn là lutein). Chlorella có chứa hầu hết các vitamin: A, B1,
B2, B6, B12, C, D, K đặc biệt giàu vitamin C [14, 15].
Bảng 1.1: Thành phần hóa học của một số chủng Chlorella
Chlorella Chlorella
Chlorella regularis
(Đài Loan) (Yeayarna)
Thành phần chung (g trong 100g sinh khối khô)
Protein 63,5 67,5 61,8
Chất béo 14,5 13,4 12,1
Cacbohydrat 11,1 10,4 14,8
Axit amin (g trong 100 g sinh khối khô)
Arginine 3,54 3,9 6,35
Lysin 3,44 5,03 4,51
Histidin 1,26 1,33 1,11
Leuxin 5 5,27 4,46
Methionin 1,57 1,35 1,23
Valin 3,57 3,47 2,88
Alanin 4,78 4,75 4,06
Glyxin 3,52 3,51 2,83
Serin 2,41 2,4 1,98
Trytophan 1,19 1,23 9,95
Cystin 0,76 0,8 0,78
Các vitamin (mg trong 100g sinh khối khô)
Vitamin A 11,8 8,3 -
Vitamin B1 1,77 1,63 1,7
Vitamin B2 4,82 5,68 5,1
Vitamin B6 2,03 2,34 2,2
Bitamin B12 0,8 - -
Vitamin C - 49 26,1
Vitamin E - 22,6 23,2
Axit Folic 1,2 2,4 1,2
Sắc tố (mg trong 100g sinh khối khô)
Chlorophyll 2770 3710 3600
Caroten 77,9 113,2 112
Lutein 220 449 368
14
1.3.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến sự sinh trưởng và phát triển của
Chlorella
1.3.2.1. Nhiệt độ
Nhiệt độ là một trong những yếu tố môi trường ảnh hưởng đến tốc độ
tăng trưởng, kích thước tế bào, thành phần sinh hóa của vi tảo. Nhiệt độ có tác
động mạnh mẽ lên tất cả các quá trình enzyme của tế bào vi tảo, ảnh hưởng
đến quá trình trao đổi chất. Nhiệt độ cao gây ra sự thoái hóa protein do đó
giảm khả năng phát triển và gây chết tế bào vi tảo [15]. Khi nhiệt độ môi
trường thấp làm thay đổi cơ chế tế bào do đó giảm tính lưu động của màng tế
bào. Ngoài ra, nhiệt độ thấp còn hạn chế tốc độ tăng trưởng của tế bào dẫn
đến giảm năng suất sinh khối. Chlorella có thể phát triển tối ưu trong khoảng
nhiệt độ từ 25oC đến 35oC, khi nhiệt độ tăng cao (trên 38oC) có thể gây chết tế
bào [17].
1.3.2.2. Ánh sáng
Ánh sáng rất quan trọng đối với sự phát triển của các sinh vật quang
hợp. Vi tảo có thể hấp thụ ánh sáng tốt nhờ chất diệp lục có trong tế bào và
chuyển đổi năng lượng ánh sáng thành năng lượng hóa học (ATP), quá trình
này được gọi là quang hợp [18]. Trong quá trình này, vi tảo sử dụng năng
lượng ánh sáng để chuyển đổi CO2 thành các chất hữu cơ có trong tế bào như
cacbonhidrat, protein, giải phóng O2 và sử dụng như nguồn năng lượng chính
để xây dựng cấu trúc tế bào và sinh sản. Trong điều kiện chiếu sáng giới hạn,
vi tảo tiến hành tổng hợp các amino axit và các hợp chất cần thiết khác cho tế
bào. Khi điều kiện chiếu sáng bão hòa, sản xuất đường và tinh bột trong tế
15
bào tăng lên và tốc độ tăng trưởng tối đa của vi tảo được ổn định [17]. Cường
độ ánh sáng quá cao vượt qua mức độ bão hòa sẽ gây ra hiện tượng ức chế
quang (photoinhibition) và điều này có thể làm bất hoạt enzyme tham gia vào
quá trình cố định CO2. Ngoài cường độ ánh sáng, sự phát triển của vi tảo còn
phụ thuộc rất nhiều vào nguồn sáng, chu kỳ chiếu sáng và các thành phần
quang phổ [19]. Một số nghiên cứu đã chỉ ra rằng tốc độ tăng trưởng vẫn cao
khi không được chiếu sáng liên tục. Do sự phân chia tế bào trong nuôi cấy
quang hợp đơn bào thường xảy ra trong điều kiện tối [17]. Mặt khác, trong
điều kiện cường độ ánh sáng cao, hiệu quả sử dụng ánh sáng có thể được tối
ưu hóa bằng cách kéo dài thời gian tối. Điều này cho phép bộ máy quang hợp
trong tế bào tảo hấp thụ được hết các photon và chuyển chúng thành năng
lượng hóa học và tránh ảnh hưởng của photoinhibiton. Nếu thiếu ánh sáng
trong một khoảng thời gian dài, vi tảo sẽ thích nghi bằng cách tăng hàm lượng
chlorophyll trong tế bào. Đặc tính ánh sáng khác nhau sẽ tạo ra chlorophyll
khác nhau và ảnh hưởng đến quang hợp dẫn đến sự thay đổi về sinh trưởng
cũng như sinh khối của tảo [20]. Theo Daliry và cộng sự (2017), vi tảo có sự
phân chia tế bào ở cả pha sáng và pha tối, tuy nhiên sự phân chia tế bào nhiều
hơn sau khi dừng pha sáng. Nghiên cứu này cũng chỉ ra rằng, thời gian chiếu
sáng là 16:8 (sáng: tối) cùng với cường độ ánh sáng là 5000 lux thì đạt hiệu
quả tối đa về sinh khối vi tảo khi nuôi trong các bể lớn [17]. Vi tảo thường sử
dụng các bước sóng trong khoảng 400-700 nm cho quang hợp. Ánh sáng xanh
(430-465 nm) và ánh sáng đỏ (630-665 nm) có hiệu quả tốt nhất cho sự quang
hợp của Chlorella vulgaris. Nghiên cứu của Mathy và cộng sự (1997) cũng
chỉ ra rằng việc sử dụng ánh sáng đỏ làm tăng sắc tố diệp lục trong khi ánh
sáng xanh sẽ làm tăng trưởng các tế bào trong vi tảo Chlorella [17, 19, 21].
1.3.2.3. pH
pH đóng vai trò quan trọng trong nhiều quá trình của tế bào vi tảo, bao
gồm chuyển hóa năng lượng, tác động đến cấu trúc, chức năng của bào quan,
enzyme và protein. Đối với hầu hết các loài vi tảo, phạm vi pH trong môi
trường nuôi cấy dao động từ 7 đến 9. Khi pH quá cao có thể làm ức chế và
gây chết tế bào [18]. Nghiên cứu của Khalil và cộng sự (2010) đã chỉ ra rằng
16
Chlorella vulgaris có thể phát triển trong phạm vi pH rộng (4-10). Chlorella
vulgaris khi nuôi trong môi trường kiềm (giá trị pH từ 9 đến 10) sẽ cho hiệu
suất tăng trưởng tốt nhất [22]. Độ pH cũng tác động đến sự hấp thu các chất
dinh dưỡng. Theo Liang và cộng sự (2013) để loại bỏ amoniac thì giá trị pH
tối ưu nhất là 7, trong khi đó loại bỏ phốtpho thì tác động của pH là không
đáng kể [23]. Ngược lại, nồng độ chất dinh dưỡng cũng có thể bị ảnh hưởng
bởi pH. Giá trị pH cao có thể dẫn đến sự gia tăng nồng độ amoniac tự do và
gây kết tủa phốtpho ở dạng canxi phốtphát ảnh hưởng đến quang hợp ở vi tảo
cũng như làm suy giảm sự phát triển của chúng [22]. Ngược lại, khi pH giảm
cũng có tác dụng không mong muốn đến sự sinh tế bào [24, 25]. Theo nghiên
cứu của Kong và cộng sự (2011) ảnh hưởng của các nguồn nitơ khác nhau
trong môi trường nuôi cấy Chlorella vulgaris cũng dẫn tới sự thay đổi của
pH; giá trị pH giảm (pH=3) khi môi trường nuôi cấy có ammonium, ngược lại
giá trị pH sẽ tăng (pH=7,2) khi bổ sung kali nitrat và urê [26].
1.3.2.4. Dinh dưỡng
Cacbon, nitơ và phốtpho là nguồn dinh dưỡng cần thiết cho quá trình
phát triển của vi tảo. Trong đó nitơ, phốtpho là hai chất dinh dưỡng đa lượng
quan trọng cho sự tăng trưởng và trao đổi chất của các tế bào vi tảo [27].
Nitơ là một trong các yếu tố cơ bản để hình thành protein và axit
nucleic. Bên cạnh đó, nitơ còn là thành phần thiết yếu tạo nên các cấu trúc
protein và chức năng của tế bào vi tảo [20]. Hầu hết các loài vi tảo có khả
năng sử dụng nhiều nguồn nitơ khác nhau như nitơ hữu cơ (urê, glutamin,
glyxin…) và nitơ vô cơ (amoni, nitrat, nitrit). Nitơ vô cơ được vi tảo hấp thụ
nhanh chóng và đồng hóa thành các hợp chất sinh hóa trong cơ thể nhằm mục
đích đáp ứng các thay đổi nhu cầu sinh lý khi tế bào vi tảo sử dụng [28, 29].
Những ảnh hưởng chính của thiếu hụt nitơ làm thay đổi sự cân bằng enzyme
dẫn đến tăng cường tổng hợp, tích lũy lipid, triglyceride và giảm tổng hợp
chất diệp lục tạo nên lượng carotenoid dư thừa trong các tế bào tảo [30-32].
Phốtpho cũng là một thành phần thiết yếu trong quá trình quang hợp
của vi tảo [33]. Phốtpho là thành phần dinh dưỡng chính có vai trò quan trọng
trong quá trình trao đổi chất của tế bào cũng như chuyển giao năng lượng,
17
sinh tổng hợp phốtpho lipid, axit nucleic, DNA, RNA [27, 34]. Phốtpho
chiếm 1% trọng lượng khô của tế bào tảo [35]. Sự tích tụ lipid trong tế bào sẽ
xảy ra khi có sự hạn chế về nguồn dinh dưỡng phốtpho.
Cacbon, hydro, oxy là ba chất dinh dưỡng phi khoáng chất thiết yếu cần
cho sự tăng trưởng tế bào và trao đổi chất của vi tảo. Trong khi hydro, oxy
luôn có sẵn trong môi trường thì ngược lại cacbon là chất dinh dưỡng cần
phải cung cấp trong quá trình sinh trưởng của vi tảo [27]. Nguồn cacbon vô
cơ là cần thiết để thực hiện quá trình quang hợp do đó tác động đến sự phát
triển và sinh sản của vi tảo. Tốc độ tăng trưởng của vi tảo giảm khi cacbon
trong môi trường nuôi cấy giảm. Cacbon có thể được sử dụng ở dạng CO2,
cacbonat hoặc bicacbonat để tăng trưởng tự dưỡng và ở dạng acetate hoặc
glucose cho sự tăng trưởng dị dưỡng. Cacbon trong nước có thể có mặt ở bất
cứ hình thức nào tùy thuộc vào pH, nhiệt độ và hàm lượng dinh dưỡng. Khi
tăng pH, lượng cacbonat tăng trong khi CO2 và biocarbonate giảm. Các
nghiên cứu của Tsuzukiet và cộng sự (1990), Gordillo và cộng sự (1998) cho
thấy khi tăng nồng độ CO2 sẽ làm tăng lượng axit béo không bão hòa và hàm
lượng cacbonhydrate; tuy nhiên sẽ làm giảm nồng độ protein, sắc tố tế bào và
năng suất sinh khối vi tảo [36, 37].
1.3.2.5. Kim loại
Hàm lượng kim loại trong các tế bào vi tảo là cực nhỏ (<4 ppm) nhưng
là thành phần thiết yếu của quá trình sinh lý học. Sắt, mangan, coban, kẽm,
đồng và niken là sáu kim loại vi lượng quan trọng nhất trong vi tảo. Thiếu vi
lượng kim loại làm hạn chế sự phát triển của vi tảo; dư thừa kim loại gây ức
chế sự tăng trưởng, giảm quá trình quang hợp, cạn kiệt chất chống oxy hóa và
phá vỡ màng tế bào. Sắt là một vi lượng kim loại quan trọng cho sự tăng
trưởng bình thường và các hoạt động quang hợp hô hấp trong vi tảo. Sắt hoạt
động như chất xúc tác asredox trong quang hợp, đồng hóa nitơ và trung gian
vận chuyển điện tử của các sinh vật quang hợp [38]. Nghiên cứu của Liu và
cộng sự (2008) khi tăng nồng độ sắt cao trong môi trường nuôi cấy Chlorella
vulgaris nhằm mục đích tăng hàm lượng lipid trong tế bào [39]. Ngược lại
hàm lượng sắt giảm dẫn đến carotene giảm [40, 41]. Một lượng nhỏ các kim
18
loại không thiết yếu như Cadimi (Cd), chì (Pb) và Crom (Cr) có thể gây ức
chế quá trình trao đổi chất, sự hấp thụ phốtpho của tế bào [42]. Kim loại vi
lượng kẽm và đồng có thể gây độc tính khi vượt quá nồng độ cho phép [43].
1.3.3. Ứng dụng của vi tảo Chlorella
1.3.3.1. Thức ăn cho người và động vật
Thức ăn cho người
Vi tảo được biết đến như một nguồn giàu cacbonhidrat, protein,
vitamin, axit béo và lipid. Tại các nước như Trung Quốc, Nhật Bản, Châu Phi
và Mexico, vi tảo được sử dụng làm nguồn thức ăn cho con người [44]. Trong
đó, những thực phẩm từ vi tảo Chlorella và Spirulina thường phổ biến nhất.
Những sản phẩm từ những vi tảo này được sản xuất ở dạng viên nang hoặc
chất lỏng với nhiều công dụng như một nguồn vitamin dồi dào và chất chống
oxy hóa. Β-1,3 –gluca có trong sinh khối Chlorella được biết đến như là một
thành phần chính để kích thích hệ thống miễn dịch cũng như làm giảm lượng
lipid trong máu.
Thức ăn cho động vật
Việc sử dụng một số vi tảo như Chlorella, Scenedesmus, Spirulina,
Chaetoceros, Skeletonema…làm nguồn thức ăn cho cá và các động vật nuôi
(gà, bò, lợn) đã được phát triển nhanh chóng trong nhiều thập kỷ qua. Theo
nghiên cứu của Spolaore và cộng sự (2006), 30% sinh khối vi tảo sản xuất
trên toàn thế giới là nguồn thức ăn cho gia súc, gia cầm [45]. Nghiên cứu của
Kang và cộng sự (2013) cho thấy khi bổ sung 1% chất lỏng (sinh khối tươi)
Chlorella vào chế độ ăn của gà con giúp tăng hệ vi sinh trong đường ruột, cải
thiện chức năng của hệ thống miễn dịch và hiệu suất tăng trưởng cao [46].
Khi kết hợp 1 đến 2% sinh khối lên men Chlorella vulgaris vào thức ăn gia
cầm khác có tác dụng trong sản xuất trứng, chất lượng trứng được nâng cao
(tăng trọng lượng lòng đỏ trứng), ảnh hưởng tích cực đến hệ vi sinh vật đường
ruột, triglycerol gan của gà mái được cải thiện [47, 48].
19
về rối loạn, lão hóa và sắc tố da [44, 54, 55]. Các loài vi tảo thường được sử
dụng trong ngành công nghiệp mỹ phẩm như là Spirulina sp., Chlorella sp.,
Arthrospira sp. [44, 56]. Các chiết suất thu được từ sinh khối của Chlorella và
Spirulina đã được sử dụng trong sản xuất kem chống nắng, sữa dưỡng da và
dầu gội. Vi tảo được coi là một triển vọng lớn trong việc đáp ứng nhu cầu
ngày càng tăng của thị trường dược phẩm, đặc biệt là các thực phẩm chức
năng [57]. Các chất chuyển hóa sơ cấp và thứ cấp được sản xuất bởi vi tảo có
thể được sử dụng làm nguyên liệu cho ngành công nghiệp dược phẩm [58].
Chlorella, Dunaliella, Haematococcusand, Nostoc là những loài vi tảo phổ
biến nhất cho việc sản xuất các hợp chất hoạt tính sinh học trong dược phẩm.
Theo nghiên cứu của Santhosh và cộng sự (2016) sinh khối vi tảo Chlorella
được biết đến giàu vitamin B, đặc biệt là B12, α-carotene, lutein, axit ascorbic
và α-tocopherol [59]. Những hợp chất này có thể làm giảm sự xuất hiện của
một số loại ung thư và ngăn ngừa thoái hóa điểm vàng. Tuy nhiên, hoạt động
thương mại hóa các sản phẩm mỹ phẩm, dược phẩm từ vi tảo cần phải được
tiến hành nghiên cứu một cách cẩn thận về tính ổn định và độc tính để đảm
bảo an toàn và hiệu quả sử dụng [60].
1.3.4. Một số ứng dụng của vi tảo Chlorella trong xử lý các nguồn
nước thải
1.3.4.1. Xử lý nước thải sinh hoạt, nước thải đô thị
Theo nghiên cứu của He P.J. và cộng sự (2013) về việc sử dụng hỗn
hợp vi tảo Chlorella vulgaris và vi khuẩn để loại bỏ chất dinh dưỡng trong
nước thải đô thị, theo đó Chlorella vulgaris đóng vai trò chủ đạo trong việc
loại bỏ nitơ, phốtpho trong khi vi khuẩn loại bỏ hết các hợp chất hữu cơ. Kết
quả nghiên cứu đã cho thấy hiệu suất loại bỏ amoni là 97%, phốtpho là 98%
và COD là 26%. Ngoài ra, hơn 44% nitơ đã được tế bào vi tảo hấp thụ, điều
này cho thấy sự khả thi tái chế nitơ từ nước thải [61].
Choi H.J. và cộng sự (2015) cũng đã nghiên cứu về khả năng tăng
trưởng sinh khối Chlorella vulgaris, đồng thời loại bỏ chất dinh dưỡng trong
nước thải sinh hoạt sơ bộ được lấy tại bể lắng của một nhà máy xử lý thuộc
tỉnh Gangneung (Hàn Quốc). Hàm lượng T(P), T(N) đầu vào có giá trị dao
21
và 191 mg/L được pha loãng với nước máy và sử dụng để nuôi vi tảo ở nhiệt
độ 28oC, điều kiện ánh sáng 1000 lux. Kết quả sau 9 ngày nuôi, hàm lượng
COD giảm từ 65,8 đến 88,2%; BOD5 giảm từ 61,4 đến 84%; TN giảm từ
87,4% đến 90,18% và đạt tiêu chuẩn xả thải của Việt Nam. Trong khi đó hiệu
suất xử lý TP đạt 47,7 đến 56,15% nhưng hàm lượng vẫn còn cao (18,9-100
mg/L) chưa đạt tiêu chuẩn xả thải. Mẫu nước thải sau 9 ngày nuôi tảo tiếp tục
được sử dụng để nuôi Daphnia (0-24 giờ tuổi)/500 mL. Kết quả sau 16 ngày
thí nghiệm cho thấy đã lọc hoàn toàn lượng tảo trong mẫu và tốc độ sinh
trưởng của Daphnia đạt 0,18-0,23. Ngoài ra, hàm lượng TN, TP vẫn tiếp tục
giảm 94,15, 80% và đạt tiêu chuẩn xả thải [65].
Nghiên cứu của Trần Chấn Bắc và cộng sự (2015) về sử dụng nước thải
ao nuôi cá tra để nuôi sinh khối vi tảo Chlorella sp. quy mô 500L đã kết luận
rằng vi tảo phát triển tốt trong nước thải này (đối với cả nước thải không lọc
và lọc qua lưới để loại bỏ tạp chất). Đặc biệt, trong hai ngày đầu thí nghiệm,
mật độ vi tảo đã đạt giá trị cực đại lên tới 1,4 triệu tế bào/mL (đối với mẫu
nước thải không lọc, tăng 3,8 lần so với mật độ tảo ban đầu), và 1,56 triệu
tb/mL (đối với mẫu nước thải đã lọc, tăng 4,2 lần so với mật độ tảo ban đầu).
Bên cạnh đó, hàm lượng amoni, nitrat và phốtphát cũng giảm đáng kể, lần
lượt từ 88,36%, 81,15% và 87,98% (đối với mẫu nước thải không lọc);
88,35%, 81,65% và 88,17% (đối với mẫu nước thải đã lọc) [66].
1.3.4.3. Xử lý nước thải công nghiệp
Ngoài ra, vi tảo Chlorella vulgaris còn có tiềm năng trong xử lý sinh
học nước thải công nghiệp dệt nhuộm với khả năng loại bỏ màu dao động từ
41,8 đến 50%, hiệu suất loại bỏ một số chất ô nhiễm như NH4+-N đạt từ 44,4
đến 45,45%, PO43--P đạt từ 33,1% đến 33,3% và COD đạt từ 38,3% đến
62,3% trong 10 ngày thí nghiệm trên các ao mương nuôi tảo tốc độ cao
(HARP) [96]. Kết quả nghiên cứu của El-Kassas và cộng sự (2014) cũng đã
chứng minh khả năng loại bỏ màu và COD khi nuôi cấy Chlorella vulgaris
trong nước thải dệt nhuộm với hiệu quả xử lý lần lượt đạt trên 69,9% và
75,68% [67].
23
Nghiên cứu của Asadi và cộng sự (2019) khi sử dụng vi tảo Chlorella
sorokiniana pa.91 và Chlorella vulgaris để nuôi cấy, sản xuất sinh khối cũng
như loại bỏ chất dinh dưỡng trong nước thải nhà máy chế biến sữa ở tỉnh
Manzandaran (Iran). Theo kết quả nghiên cứu, lượng sinh khối của Chorella
vulgaris, Chlorella sorokinia pa.91 thu được lần lượt là 1,843 g/L và 1,766
g/L trong điều kiện lý tưởng nhất khi nhiệt độ ở mức 25oC và 28oC và cường
độ ánh sáng là 7500 lux; hiệu suất loại bỏ amoniac, nitrat, phốtphát và nhu
cầu oxy hóa hoá học đối với hai loài vi tảo này lần lượt là 91,28±3,36%,
94,46±1,94%, 96,97±4,55%, 90,91±9,09%, 89,68±3,575%, 84,92±2,38% và
91,61±2,055%, 89,34±1,135% [68].
1.4. TỔNG QUAN CÁC CÔNG NGHỆ XỬ LÝ NƯỚC THẢI KẾT HỢP
NUÔI CẤY TẢO
Hệ thống xử lý nước thải kết hợp nuôi cấy tảo thường được sử dụng
phổ biến nhất là ao ổn định chất thải (Waste stabilization pond systems –
WSP) và ao nuôi tảo tốc độ cao (HRAP).
WSP tương tự như ao oxy hóa thông thường có độ sâu từ 1-3m sử dụng
để xử lý nước thải chưa qua xử lý bằng việc kết hợp quá trình vi tảo và vi
khuẩn. Trong những ao oxy hóa này, chất thải rắn được lắng ở đáy – nơi có
các vi khuẩn kị khí hoạt động và giải phóng khí CO2. Các vi khuẩn hiếu khí
hoạt động gần bề mặt, phân hủy tạm thời các hợp chất hữu cơ phức tạp thành
các chất đơn giản sau đó đồng hóa và sử dụng chúng làm nguồn dinh dưỡng
cho sự phát triển tế bào. Vi tảo sử dụng nguồn CO2 mà vi khuẩn tạo ra cho sự
sinh trưởng và phát triển đồng thời cung cấp oxy cho các vi khuẩn hiếu khí.
Hoạt động của ao nuôi ổn định phụ thuộc nhiều vào điều kiện môi trường như
nhiệt độ, tốc độ gió, cường độ ánh sáng [69]. WSP thường được sử dụng rộng
rãi do sự đơn giản trong vận hành, thiết kế và chi phí hoạt động thấp [70, 71].
Ngoài ra, ao ổn định chất thải đặc biệt phù hợp với các nước ở khu vực nhiệt
đới và cận nhiệt đới, bởi vì lượng mặt trời lớn hơn và nhiệt độ cao hơn góp
phần loại bỏ chất thải hiệu quả hơn. Hiện nay, WSP là phương pháp chọn lựa
đầu tiên để xử lý nước thải ở nhiều nơi trên thế giới. Ở Châu Âu, WSP được
sử dụng rộng rãi cho các cộng đồng nông thôn nhỏ (những nơi có mật độ dân
24
số khoảng 2000 người dân). Nước thải từ các ao này thường được sử dụng
trong nông nghiệp [68]. Nhược điểm của WSP thường tạo ra bùn thải, một
phần sinh khối tảo thu được bị lắng xuống đáy và năng suất tảo thu được
không cao.
Hệ thống ao nuôi tảo tốc độ cao (High rate algal ponds – HRAPs)
thường được xây dựng theo dạng hình tròn, dạng đường đua và đặc trưng bởi
độ sâu nông từ 30-50 cm. Trong ao này, vi khuẩn dị dưỡng và vi tảo quang
hợp kết hợp cùng nhau để làm sạch nước thải mà còn tạo sinh khối tảo tối đa
dựa vào nguyên lý kéo dài pha quang hợp và rút ngắn pha hô hấp. Khi đó,
sinh khối vi tảo được tăng lên đáng kể đồng nghĩa với việc loại bỏ chất dinh
dưỡng (N, P) trong thời gian ngắn [71, 72]. Ao nông kết hợp sử dụng bánh
khuấy trộn của hệ thống nhằm mục đích cung cấp ánh sáng tốt hơn cho quá
trình quang hợp của vi tảo, do đó tối ưu hóa sự phát triển của chúng, ngăn
chặn sinh khối lắng. Trong quá trình quang hợp, vi tảo giải phóng oxi và được
vi khuẩn hiếu khí sử dụng để loại bỏ BOD trong nước thải [71]. Sản phẩm vi
tảo thu được từ phương pháp xử lý này có thể được sử dụng để làm thức ăn
cho gia súc, phân bón cây trồng hoặc nhiên liệu sinh học [73]. Bên cạnh đó,
so với ao nuôi tảo thông thường, hệ thống HARPs giúp loại bỏ mùi hôi và
sinh vật gây bệnh [71].
Ở khu vực Đông Nam Á, việc sản xuất vi tảo Chlorella spp. được thực
hiện trong các ao nuôi tảo tốc độ cao dạng hình tròn có trục trung tâm. Những
ao nuôi tảo này thường được xây dựng với độ sâu 25-30 cm, đường kính lên
đến 45 m và việc khuấy trộn được thực hiện bằng một trục quay. Ngoài ra, do
độ hòa tan thấp của CO2 trong khí quyển, CO2 được bổ sung vào trong nước
qua các hệ thống sục khí để làm tăng năng suất sinh khối tảo [70].
25
Hình 2.1: Chlorella phân lập từ hồ Ngọc Khánh, Hà Nội (Chlorella sp.)
(Nguồn: Phòng Thủy sinh học môi trường, Viện Công nghệ môi trường)
26
Độ tinh
STT Tên hóa chất Công thức phân tử Xuất xứ
khiết (%)
Trung
1 Sodium nitrate NaNO3 95
Quốc
Trung
2 Dipotassium phosphate K2HPO4 95
Quốc
Magnesium sulfate Trung
3 MgSO4·7H2O 95
heptahydrate Quốc
Trung
4 Calcium chloride dihydrate CaCl2·2H2O 95
Quốc
Trung
5 Citric acid C6H8O7 95
Quốc
Trung
6 Ferric ammonium citrate (NH4)5[Fe(C6H4O7)2] 95
Quốc
Disodium
Trung
7 ethylenediaminetetraacetate Na2EDTA·2H2O 95
Quốc
dihydrate
Trung
8 Sodium carbonate Na2CO3 95
Quốc
Trung
9 Boric acid H3BO3 98
Quốc
Manganese (II) chloride Trung
10 MnCl2·4H2O 98
tetrahydrate Quốc
Trung
11 Zinc sulfate heptahydrate ZnSO4·7H2O 98
Quốc
27
Trung
12 Sodium molybdate Na2MoO4·2H2O 98
Quốc
Trung
13 Copper sulfate pentahydrate CuSO4·5H2O 98
Quốc
Cobalt (II) nitrate Trung
14 Co(NO3)2·6H2O 98
hexahydrate Quốc
Mettler-Toledo, LLC,
2 Máy đo pH SG23
Thụy sỹ
Hình 2.2: Thực nghiệm lấy nước thải (A), nước thải đô thị được lọc bằng túi
lọc trước khi dùng nuôi vi tảo Chlorella sp. (B)
32
NaNO3 1,5
K2HPO4 0,04
MgSO4·7H2O 0,075
CaCl2·2H2O 0,036
Citric acid 0,006
Na2EDTA·2H2O 0,001
Na2CO3 0,02
sau khi nuôi cấy được chiếu sáng liên tục bằng đèn LED có cường độ 60
µmol/m2/s với nhiệt độ 25 – 27oC trong vòng một tuần đến khi đạt OD ≥ 0,4
(03/2019).
- Vi tảo Chlorella sp. trong bình 500 mL sau thời gian nuôi cấy nhất định
được chuyển sang bình nhựa trong suốt (loại 10 kg - Việt Nhật Plastics Co.,
Ltd) chứa 5 L nước thải đô thị đã lọc (không bổ sung dinh dưỡng) và tiến
hành nuôi sinh trưởng dưới ánh sáng 60 µmol/m 2/s (chu kỳ chiếu sáng 16
giờ/8 giờ, cấp bởi hệ đèn LED) ở nhiệt độ phòng, tốc độ sục khí là 0,2 vvm
với 1 đầu sục bằng máy sục khí bể cá (HP-400, Atman, Trung Quốc). Thí
nghiệm được tiến hành song song trên 2 hệ phản ứng từ 7 đến 10 ngày cho
đến khi mật độ quang (OD) ≥ 0,6 (Hình 2.4-B) (03/2019).
•Thí nghiệm 1: Đánh giá khả năng xử lý nước thải đô thị của vi tảo
Chlorella sp. quy mô 50L
- Tiếp theo, 5 L vi tảo nuôi cấy trong nước thải trên được cấy sang bể hình
chữ nhật (loại 55 L, dài × rộng × cao = 57,7 × 41,8 × 33 cm) chứa 45 L nước
thải và tiến hành sục khí ở tốc độ 0,2 vvm và với 2 đầu sục đặt ở 2 góc của bể
bằng máy sục khí bể cá (HP-400, Atman, Trung Quốc). Quá trình sinh trưởng
của vi tảo Chlorella sp. trong bể 50 L được thực hiện trong nhà kính ngoài
trời ở Viện Hóa học, Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam (Hình
2.4-C). Thí nghiệm được tiến hành trên 2 bể song song trong tháng 04/2019.
35
(B)
(C)
dinh dưỡng qua lớp biên xung quanh các tế bào. Quá trình nuôi được thực
hiện trong nhà kính ngoài trời ở Viện Hóa học. Thí nghiệm được tiến hành
trên 2 hệ thống song song trong tháng 05/2019.
Kích thước và các yếu tố vận hành hệ thống bao gồm (Hình 2.3):
• Tên: Hệ thống bể dài
• Kích thước: dài × rộng × cao = 4 m × 1 m × 0,5 m
• Thể tích làm việc tối đa: 1,0 m3
• Thành phần: Khung làm bằng inox 304 (loại ống xuông 20×20), bao
đáy và xung quanh là inox 304 dạng tấm có độ dày 1,8 mm, tấm phân
dòng cũng làm bằng khung inox 304 (loại ống vuông 20×20) hàn với
inox 304 dạng tấm dày 1,8 mm. Cánh khuấy trục quay bằng inox 304
dày 2 mm, gồm 6 cánh đường kính 0,9 m và rộng 0,45 m. Motor của
Panasonic loại 1/160 có công suất 60W và tốc độ quay 10 vòng/phút.
4m
3m
(B) (C)
Hình 2.5: Mô hình xử lý nước thải đô thị bằng vi tảo quy mô 500 L.
Mô hình 2D hệ thống mương mở nuôi vi tảo Chlorella sp. (A), Cấy tảo từ hệ
50 L sang hệ 500 L (B), Hệ thống thực 500 L nuôi vi tảo Chlorella sp. (C).
Ánh sáng được đo hàng ngày tại 3 thời điểm 8:00 -10:00h sáng, 12:00-
14:00h trưa và 16:00-17:00h chiều. Tại các khoảng thời gian tương tự trong
ngày tại các đợt thí nghiệm (12:00-14:00h, 02 ngày/lần), 300-500 mL hỗn hợp
vi tảo-nước thải được lấy ra; trong đó một lượng nhỏ thể tích (50 mL) sử dụng
để phân tích các chi tiêu OD, chlorophyll-a bởi máy đo quang phổ UV-Vis
2450 Shimadzu (Nhật Bản). Bên cạnh đó, hỗn hợp vi tảo-nước thải được lấy
vào ống effendorf (2 mL) có bổ sung các hóa chất bảo quản mẫu
(formandehyde 4%), mục đích xác định mật độ tế bào Chlorella sp. trên kính
hiển vi OLYMPUS BX51 (Nhật Bản). Hỗn hợp vi tảo-nước thải còn lại được
lọc chân không qua giấy lọc 0,45µm. Phần nước lọc được dùng để phân tích
các chỉ tiêu chất lượng nước bao gồm NO3-, NO2-, NH4+, PO43-, COD bởi máy
đo quang phổ U-2900/2910 (Hitachi, Tokyo, Nhật Bản). Các chỉ tiêu hiện
trường như nhiệt độ và pH được đo bằng máy Schott Lab 850 (Đức).
38
Trong đó:
M: Mật độ
A: Tổng số tế bào trong cả buồng đếm (hay tổng số tế bào trong 1
mL mẫu)
h: Hệ số pha loãng
Đối với một số loài vi tảo có khả năng chuyển động, trước khi đếm mẫu
cần được cố định bằng dung dịch formandehyde 4%.
39
Trong đó:
H: Hiệu suất xử lý dinh dưỡng
Co: Nồng độ chất ô nhiễm đo tại thời điểm t0 (ngày)
Ct: Nồng độ chất ô nhiễm đo tại thời điểm t (ngày)
Trong đó:
P là năng suất vi tảo tính theo diện tích bề mặt (g/m2/ngày)
m là sinh khối khô thu hoạch được (g)
S là diện tích bề mặt của thiết bị nuôi (m2)
t là thời gian nuôi vi tảo (ngày)
2.4.4.6. Phương pháp xử lý số liệu và trình bày kết quả
• Phương pháp xử lý số liệu: Phân tích được thực hiện 2 lần và giá trị
trình bày là giá trị trung bình ± độ lệch chuẩn;
• Phần mềm sử dụng xử lý số liệu: Ms Excel (2016).
43
Bảng 3.1: Đặc tính nước thải đầu vào sử dụng trong nghiên cứu
QCVN 14:2008
Thông số Đơn vị Giá trị /BTNMT
Cột B
pH - 7,12-8,30 5–9
BOD5 (20oC) mg/L - 50
COD mg/L 157,24-175,34 -
Amoni mg/L 18,59-23,70 10
Nitrat mg/L 0,053-0,088 50
Nitrit mg/L 0,021-0,594 -
Phốt phát mg/L 10,94-15,504 10
Tỉ lệ N/P - 2,86-5,22 -
QCVN 14:2008/BTNMT: Quy chuẩn Quốc gia về nước thải sinh hoạt; Cột B quy định giá
trị tối đa cho phép trong nước thải sinh hoạt khi thải vào các nguồn nước không dùng cho
mục đích cấp nước sinh hoạt.
ngày thứ 8 của thí nghiệm) đối với hệ 50 L và từ 8,30±0,21 đến 10,09±0,10
(đạt mức tối đa vào ngày thứ 6 của thí nghiệm) đối với hệ 500 L. Sử dụng vi
tảo để xử lý nước thải ngoài mục đích làm giảm chất ô nhiễm còn tạo nên
nguồn sinh khối có giá trị do quá trình sinh trưởng và phát triển của chúng
trong nước thải. Vì vậy, trong giai đoạn vi tảo phát triển và ổn định trong môi
trường, giá trị pH có sự thay đổi đáng kể, tăng từ 8,31±0,05 đến 9,64±0,16 (từ
ngày thí nghiệm thứ 2 đến ngày thứ 8 đối với hệ 50 L) và dao động trong
khoảng từ 9,11±0,14 đến 10,09±0,10 (tại các ngày thí nghiệm thứ 4 đến ngày
thứ 10 đối với hệ 500 L). Nguyên nhân pH tăng do trong quá trình tăng
trưởng, phát triển của vi tảo góp phần tăng tỷ lệ tiêu thụ CO2 và cacbon vô cơ;
sự thay đổi này trong hệ thống cân bằng hóa học của CO2, CO32-, OH-; trong
đó, CO2 kết hợp với nước tạo thành H2CO3 phân ly thành HCO3- và H+. Quá
trình tăng trưởng của vi tảo dẫn đến lượng CO32- tăng và CO2 giảm, dẫn đến
tăng OH- [82, 83]. Giá trị pH tăng được thể hiện qua phương trình cân bằng
hóa học sau:
2HCO3- CO32- + H2O + CO2
CO32- + H2O HCO3- + OH-
Sự bay hơi amoniac cũng như khả năng loại bỏ hoàn toàn phốtphát xảy
ra khi pH trên 9,5 [84]. Ngoài ra, khi pH tăng cao sẽ giúp tiêu diệt các mầm
bệnh của vi khuẩn [70].
Cường độ ánh sáng ở các hệ nuôi tảo 50 L và 500 L dao động khoảng
từ 1040±300 đến 12200±1670 lux trong khoảng thời gian từ 08:00-10:00h; từ
5970±280 đến 59050±2000 lux trong khoảng thời gian từ 12:00-14:00h và từ
992±236 đến 4520±230 lux trong khoảng thời gian từ 16:00-17:00h. Đối với
hệ nuôi tảo 50 L, cường độ ánh sáng đạt giá trị cao nhất là 59050±2000 lux
(12:00-14:00h) (ngày thứ 8 thí nghiệm) và đạt giá thấp nhất là 1500±210 lux
(16:00-17:00h) (ngày thứ 4 thí nghiệm). Tương tự đối với hệ 500 L, cường độ
ánh sáng đạt giá trị cao nhất là 54250±5350 lux (12:00-14:00h) (ngày thứ 2
thí nghiệm), đạt giá trị thấp nhất là 992±236 lux (16:00h-17:00h) (ngày thứ 12
thí nghiệm). Cường độ ánh sáng trung bình trong khoảng thời gian từ 8:00-
10:00h cao hơn khoảng thời gian 16:00-17:00h tại các hệ do thí nghiệm được
46
thực hiện vào mùa mưa (tháng 4, tháng 5); và đối với mùa này buổi chiều
thường có nhiều mây, xuất hiện mưa, do vậy ngăn cản ánh sáng chiếu xuống
[85].
47
Bảng 3.2: Diễn biến nhiệt độ nước, pH và cường độ ánh sáng đến sự sinh trưởng của Chlorella sp. nuôi trong hệ 50 L
và 500 L
0 30,7±0,1 31,0±0,2 7,12±0,22 8,30±0,21 7140±160 56400±1230 3680±290 11300±4700 48500±2510 4050±150
2 29,7±0,1 32,7±0,1 8,31±0,05 8,38±0,17 6730±230 49500±2100 2340±210 12200±1670 54250±5350 4520±230
4 26,0±0,5 30,7±0,5 7,25±0,08 9,69±0,23 5330±200 10430±1600 1500±210 3280±540 47900±2900 3750±120
6 28,3±0,2 30,2±0,7 8,09±0,16 10,09±0,10 2410±110 54300±3760 2080±160 4810±210 34000±2460 1150±190
8 30,6±0,5 26,4±0,4 9,64±0,16 9,11±0,14 7930±170 59050±2000 4040±190 3260±240 35600±3400 3550±360
10 30,8±0,2 28,2±0,1 8,30±0,20 9,34±0,22 7160±250 59000±1840 3560±350 1440±530 14830±3680 1330±90
1,08±0,17 mg/L), PO43- giảm đến 456 lần (từ 15,504 mg/L giảm xuống
0,034±0,016 mg/L). Ngoài ra hàm lượng COD cũng giảm 3,82 lần (từ 157,24
mg/L giảm xuống 41,12±6 mg/L) (Hình 3.1-A, B, E). Kết quả này phù hợp
với nghiên cứu của Wang và cộng sự (2012) khi cho rằng sự phát triển của vi
tảo Chlorella sp. phụ thuộc vào phần lớn các chất dinh dưỡng có trong nước
thải chủ yếu là các chất dinh dưỡng về amoni và phốtpho [34]. Trong đó,
phốtpho là chất dinh dưỡng chính và cần thiết nhất cho sự tăng trưởng của vi
tảo và được vi tảo sử dụng để tổng hợp axit nucleic, phốtpholipid và các phản
ứng liên quan đến phân chia tế bào [82]. Tuy nhiên, đối với hàm lượng các
hợp chất dinh dưỡng khác của nitơ như NO2- và NO3- vẫn đạt giá trị cao (NO2-
tăng 904 lần từ 0,021 mg/L lên đến 18,99±2,22 mg/L và NO3- tăng 13,9 lần từ
0,088 mg/L lên 1,231±0,108 mg/L và) sau 2 đến 6 ngày thí nghiệm. Nồng độ
nitrat đã bắt đầu giảm sau ngày thứ 6 cho đến khi kết thúc thí nghiệm, cụ thể
NO3- giảm 3,03 lần (từ 0,722±0,15 mg/L giảm xuống 0,238±0,077 mg/L).
Tương tự, nồng độ nitrit bắt đầu giảm sau ngày thứ 2 cho đến ngày thứ 10 của
thí nghiệm với hàm lượng NO2- từ 9,64±1,34 mg/L giảm xuống 1,526±0,23
mg/L (giảm 6,3 lần) (Hình 3.1-C, D). Điều này phù hợp với các nghiên cứu
của He J.P. và cộng sự (2013) khi chỉ ra rằng vi tảo dễ dàng sử dụng NH4+-N
hơn khi NH4+-N và NO3--N cùng tồn tại trong môi trường, do các enzyme cần
thiết cho khử nitrat bị vô hiệu hóa bởi sự đồng hóa amoni [61].
200 (A)
150
COD (mg/L)
100
50
0
0 2 4 6 8 10 12
Thời gian (ngày)
50
25 (B)
20
NH₄⁺-N (mg/L)
15
10
0
0 2 4 6 8 10 12
Thời gian (ngày)
25 (C)
20
NO₂¯-N (mg/L)
15
10
0
0 2 4 6 8 10 12
Thời gian (ngày)
1.6 (D)
NO₃¯-N (mg/L)
1.2
0.8
0.4
0
0 2 4 6 8 10 12
Thời gian (ngày)
Hình 3.1: Diễn biến thông số dinh dưỡng trong quá trình xử lý nước thải trên
hệ phản ứng quy mô 50 L (n=2)
COD (A); NH4+-N (B); NO2--N (C); NO3--N; (D); PO43--P (E).
51
Dựa trên các giá trị tính toán về mật độ cho thấy quá trình sinh trưởng
của vi tảo diễn ra theo 4 giai đoạn: thích nghi, tăng trưởng nhanh, cân bằng và
suy tàn. Giai đoạn thích nghi diễn ra trong 2 ngày đầu thí nghiệm, mật độ vi
tảo tăng từ 560.000±180 lên 600.000±240 tb/mL. So với quy mô 50L thì giai
đoạn thích nghi trong hệ này ngắn hơn do vi tảo được đưa vào sử dụng thuộc
giai đoạn đang phát triển, đồng thời Chlorella sp. có tốc độ sinh sản nhanh.
Giai đoạn tăng trưởng nhanh kéo dài từ ngày thứ 2 đến ngày thứ 6, ghi nhận
sự thay đổi đáng kể mật độ tế bào từ 600.000±240 lên đến 1.856.000±532
tb/mL (tăng 3,09 lần). Giai đoạn cân bằng diễn ra trong 4 ngày tiếp theo với
mật độ vi tảo không có sự thay đổi nhiều, dao động trong khoảng từ 1,8×106
đến 2,1×106 tb/mL. Sau ngày thứ 10 cho đến khi kết thúc thí nghiệm (ngày thứ
14) là giai đoạn suy tàn với mật độ vi tảo giảm từ 1,4 đến 2,8 lần so với mật
độ tại giá trị cực đại (ngày thứ 8), tuy nhiên vẫn cao hơn từ 1,37 đến 2,75 lần
so với mật độ ban đầu) (Bảng 3.4). Nguyên nhân dẫn đến mật độ giảm trong
các ngày cuối của thí nghiệm là do lượng các chất dinh dưỡng N, P cần cho
sự phát triển của vi tảo trong nước thải đô thị đã bị suy giảm dẫn đến hiện
tượng thiếu dinh dưỡng cục bộ gây chết tế bào.
Tương tự với quy mô 50 L, nồng độ chất dinh dưỡng N, P và nhu cầu
oxy hóa học (COD) cũng thay đổi đáng kể khi trong suốt quá trình thí
nghiệm, cụ thể: COD giảm 4,4 lần so với nồng độ ban đầu (từ 175,34 mg/L
giảm xuống 39,45±6,11 mg/L), NH4+ giảm 21,84 lần (từ 18,59 mg/L giảm
xuống 0,851±0,118 mg/L), PO43- gần như đã được tiêu thụ toàn bộ trong 14
ngày thí nghiệm (Hình 3.2-A, B, E). Trong khi đó, nồng độ nitrat, nitrit cũng
có xu hướng tăng lên trong một vài ngày đầu, cụ thể trong 2 ngày đầu tiên
hàm lượng NO3- tăng lên 8,3 lần (từ 0,053 mg/L lên 0,44±0,035 mg/L), NO2-
tăng lên 25,37 lần (từ 0,594 mg/L lên 15,068±1,28 mg/L) sau đó giảm dần
cho đến khi kết thúc thí nghiệm. Cụ thể, từ ngày thứ 4 cho đến ngày thứ 10,
nồng độ NO3- giảm 5,3 lần (từ 0,306±0,05 mg/L giảm xuống 0,057±0,027
mg/L) và nồng độ NO2- giảm 9,47 lần (từ ngày thứ 2 cho đến ngày thứ 10) (từ
8,236±1,281 mg/L giảm xuống 0,87±0,25 mg/L). Mặc dù nồng độ nitrat, nitrit
giảm đáng kể nhưng vẫn còn cao so với nồng độ đầu vào. Tuy nhiên, trong
hai ngày cuối của thí nghiệm, nồng độ NO3- và NO2- đã giảm từ 1,3 đến 66 lần
53
so với nồng độ ban đầu (từ 0,053±0,014 mg/L giảm xuống 0,04±0,025 mg/L
đối với NO3- và từ 0,594±0,127 mg/l giảm xuống 0,009±0,002 mg/L đối với
NO2-) (Hình 3.2-C, D).
200 (A)
150
COD (mg/L)
100
50
0
0 2 4 6 8 10 12 14 16
Thời gian (ngày)
20
(B)
NH₄⁺-N (mg/L)
15
10
0
0 2 4 6 8 10 12 14 16
Thời gian (ngày)
54
20
(C)
NO₂--N (mg/L)
15
10
0
0 2 4 6 8 10 12 14 16
Thời gian (ngày)
0.6
(D)
NO₃¯-N (mg/L)
0.4
0.2
0
0 2
6 4
8 10 12 14 16
Thời gian (ngày)
Hình 3.2: Diễn biến thông số dinh dưỡng trong quá trình xử lý nước thải trên
hệ phản ứng quy mô 500 L (n=2)
COD (A); NH4+-N (B); NO2--N (C); NO3--N (D); PO43--P (E).
3.5. HIỆU SUẤT LOẠI BỎ DINH DƯỠNG N, P VÀ CHẤT HỮU CƠ
TRONG NƯỚC THẢI ĐÔ THỊ BỞI CHLORELLA SP. NUÔI TRONG HAI
HỆ 50 L VÀ 500 L
Đối với hệ 50 L, hàm lượng NH4+ giảm dần theo các ngày thí nghiệm
và hiệu suất xử lý đạt 95,44±3,75% (Hình 3.3-A). Đối với hệ 500 L, mặc dù
thời gian xử lý dài hơn (14 ngày) nhưng giá trị NH4+ có xu hướng thay đổi
tương tự so với hệ 50 L. Cụ thể, hàm lượng NH4+ giảm từ 18,59 mg/L xuống
còn 0,851 mg/L, hiệu suất xử lý đạt 95,42±2,27% (Hình 3.3-B). Đáng lưu ý
55
là trong 4 ngày đầu thí nghiệm của cả 2 hệ nuôi, hiệu suất xử lý của NH4+ đều
trên 94% (94,21±2,39% đối với hệ 50 L; 95,08±2,50% đối với hệ 500 L) và
đạt QCVN 14:2008/BTNMT (cột B) (Hình 3.3, Bảng 3.5). Kết quả này phù
hợp với nghiên cứu của He và cộng sự (2013) về việc sử dụng vi tảo
Chlorella loại bỏ hơn 95% amoni trong nước thải đô thị sau 8 ngày xử lý và
một lần nữa khẳng định sự phát triển tốt của loài vi tảo này trong môi trường
có chứa nhiều NH4+ [61]. Theo kết quả nghiên cứu của Kim và cộng sự
(2014) về khả năng loại bỏ chất dinh dưỡng trong nước thải đô thị sử dụng
hỗn hợp tảo Chlorella sp.và Scenedesmus sp. bằng ao nuôi tảo tốc độ cao
(HRAP) quy mô 100L cho thấy hiệu suất xử lý amoniac là 100% (trong 8
ngày thí nghiệm), cao hơn từ 4,56 đến 4,58% đối với quy mô 50 L và 500 L
trong nghiên cứu này [86].
Hàm lượng PO43- cũng có xu hướng diễn biến tương đồng với NH4+.
Đối với hệ 50 L, đến ngày xử lý thứ 2, hàm lượng PO43- chỉ còn là 1,07 mg/L
so với ngày đầu là 15,50 mg/L (giảm 14,49 lần), hiệu suất xử lý đạt 93,09%
(Hình 3.1-E, 3.3-A). Tương tự, đối với hệ 500 L, hàm lượng PO43- trong nước
thải cũng được loại bỏ khá nhanh trong 2 ngày đầu từ 10,94 mg/L giảm xuống
còn 1,54±0,17 mg/L (giảm 7,1 lần) và hiệu suất xử lý đạt 85,94±4,30%. Như
vậy, trong 2 ngày đầu thí nghiệm, giá trị PO43- có được ở cả hai hệ xử lý đều
đạt QCVN 14:2008/BTNMT (cột B) (Bảng 3.5). Hiệu suất xử lý phốt phát
cho cả quá trình đạt đạt 99,78% (hệ 50 L) và 100% (hệ 500 L) (Hình 3.3).
Qua kết quả này có thể thấy vi tảo Chlorella sp. loại bỏ phốtphat rất tốt trong
nước thải đô thị. Kết quả này cũng phù hợp với nghiên cứu của Delgadillo-
Mirquez và cộng sự (2016) khi chỉ ra rằng phốtphát đã được loại bỏ hoàn toàn
khỏi môi trường sau 100-150 giờ nuôi cấy liên tục và đạt hiệu từ 70 đến 95%
trong điều kiện mùa hè. Quá trình loại bỏ phốtphát thông qua các cơ chế khác
nhau bắt đầu bằng sự hấp thụ lên bề mặt tế bào vi tảo, sau đó một phần là sự
đồng hóa sinh khối bởi các ion phốtphát và một phần là kết tủa hóa học [84].
Hàm lượng COD trong nước thải đô thị giảm mạnh từ 3,82 đến 4,44 lần
trong thời gian thí nghiệm của 2 hệ thống 50 L và 500 L. Đối với quy mô xử
lý nước thải hệ 50 L, trong 2 ngày đầu thí nghiệm, hàm lượng COD đã giảm
56
từ 157,24 mg/L xuống còn 118,20±18 mg/L (Hình 3.1-A). Hiệu suất xử lý
COD trong 2 ngày đầu tiên là 24,83±1,36%. Trong 4 ngày tiếp theo (từ ngày
thứ 4 đến ngày thứ 8), lượng COD tiếp tục giảm (88,22±10 mg/L xuống còn
57,35±9 mg/L) và hiệu suất xử lý COD đến cuối ngày thứ 8 là 63,53±3,18%.
Hiệu quả loại bỏ COD trong cả quá trình nuôi trong Chlorella sp. ngày đạt
73,85±3,69% (Hình 3.3-A) (tương ứng với ngày thứ 10 của thí nghiệm với
41,12±6 mg/L COD). Đối với quy mô xử lý 500 L nước thải, lượng COD
giảm từ 175,34 mg/L xuống còn 148,46±15 mg/L (giảm 1,118 lần) trong 2
ngày đầu của thí nghiệm, hiệu suất xử lý là 15,33±0,77% và đã đạt QCVN 14-
MT:2015/BTNMT (cột B1) (Hình 3.3-B, Bảng 3.5). Hiệu suất loại bỏ COD
trong cả quá trình đạt 77,50±3,88% với COD đầu ra sau 14 ngày xử lý là
39,45±5 mg/L (Hình 3.3-B). So sánh với kết quả nghiên cứu của Kim và
cộng sự (2014) khi sử dụng hỗn hợp vi tảo Chlorella sp.và Scenedesmus sp.
xử lý nước thải đô thị trong ao nuôi tảo tốc độ cao HRAP (quy mô 100 L) với
hiệu suất loại bỏ COD là 63,59±8,58%, thấp hơn từ 1,68-5,33% so với hiệu
suất loại bỏ COD trong nghiên cứu này [86].
57
Hình 3.1: Hiệu suất xử lý COD, NH4+-N và PO43--P bởi Chlorella sp. nuôi
trong hai hệ phản ứng 50 L (A) và 500 L (B) (n=2)
Nồng độ NO3-, NO2- không có sự thay đổi tương đồng với nồng độ
NH4+ và PO43-. Đối với hệ 50 L, tại ngày thứ 10 của thí nghiệm, nồng độ NO3-
có giá trị là 0,238±0,077 mg/L (tăng 2,7 lần so với nồng độ ban đầu). Tương
tự đối với hàm lượng NO2- có giá trị 1,526±0,23 mg/L vào ngày cuối của thí
nghiệm (tăng 72,67 lần so với nồng độ ban đầu). Như vậy, trong hệ xử lý quy
mô 50 L vẫn chưa xử lý được các muối NO3- và NO2- (Hình 3.1-C, D).
Tương tự đối với hệ 50 L, nồng độ NO3- và NO2- ở quy mô xử lý 500 L
tăng lên trong 4 ngày đầu thí nghiệm, tuy nhiên từ ngày thứ 6 cho đến khi kết
thúc thí nghiệm, nồng độ nitrat và nitrit bắt đầu giảm. Kết quả nồng độ NO3-
đo được trong nước thải ở ngày 14 (ngày kết thúc thí nghiệm) là 0,03±0,005
mg/L (giảm 1,8 lần so với nồng độ NO3- ban đầu). Tương tự, nồng độ NO2- tại
thứ 14 của thí nghiệm, nồng độ NO2- là 0,017±0,004 mg/L (giảm 34,94 lần so
với nồng độ NO2- ban đầu) (Hình 3.2-C, D). Hiệu suất xử lý NO3-, NO2- quy
mô 500 L nước thải lần lượt là 43,37±3,49 và 93,14±2,40%. Điều đó cho thấy
vi tảo Chlorella sp. đã xử lý được dinh dưỡng NO3-, NO2- ở quy mô 500 L.
Hàm lượng nitrat, nitrit trong các ngày đầu của thí nghiệm quy mô 50 L và
500 L đều tăng so với ban đầu là do trong quá trình oxy hóa hiếu khí, vi
58
khuẩn nitrat hóa chuyển đổi amoniac thành các ion nitrit và và oxy hóa nitrit
thành ion nitrat. Quá trình anoxic giúp loại bỏ nitrat dưới dạng khí nitơ thông
qua khử nitrat hóa được thể hiện qua 4 bước sau:
NO3- NO2- NO N2O N2 …
Do vậy, hàm lượng nitrat, nitrit cao hơn trong môi trường hiếu khí là kết quả
của việc loại bỏ amoniac [18, 86].
Bảng 3.5: So sánh hiện trạng nước thải đô thị sau xử lý bởi Chlorella sp. trên
hệ 50 L và 500 L theo QCVN 14: 2008/BTNMT
Giá trị cho phép của các QCVN 14: Nhận xét
Thông số thông số ô nhiễm sau xử lý 2008/BTNMT (Đạt/
50 L 500 L Cột B Không đạt)
NH4+-N
1,08 0,851 10 Đạt
(mg/L)
NO2--N
1,526 0,017 - -
(mg/L)
NO3--N
0,238 0,03 50 Đạt
(mg/L)
PO43--P
0,034 <0,001 10 Đạt
(mg/L)
Một số công trình nghiên cứu về sử dụng vi tảo Chlorella sp. trong xử
lý các loại nước thải khác nhau như nước thải công nghiệp, nước thải đô thị,
nước thải ao nuôi trồng thủy sản ở quy mô lớn được so sánh và tổng kết trong
Bảng 3.6. Đối với nước thải từ ao nuôi cá tra thâm canh trong các ô nuôi
500L, hiệu suất xử lý phốtpho dạng PO43- và nitơ dạng NH4+ và NO3- lần lượt
là 70 và 80% trong 11 ngày thí nghiệm [66]. Khi xử lý nước thải đô thị bởi
59
hỗn hợp vi tảo Chlorella sp.và Scenedesmus sp. bằng hệ thống ao mương mở
tốc độ cao HRAP (là thiết bị được dung phổ biến trong xử lý nước thải bằng
vi tảo) 100 L hiệu suất xử lý N, P và COD đã đạt tương ứng là 92,68%,
82,65% và 85,44% chỉ sau 2 ngày nuôi cấy [86]. Trong khi đó, hiệu suất loại
bỏ N, P, và COD từ nước thải dệt may bởi Chlorella sp.chỉ đạt 45,13%,
33,25% và 62,27% sau 12 ngày xử lý trên HRAP 40 L [87]. Kết quả này có
thể là do trong thành phần nước thải chứa nhiều hóa chất nhuộm độc hại gây
ức chế cho sự phát triển của vi tảo, khả năng đồng hóa, tiêu thụ các chất ô
nhiễm dạng N, P, và C. Tương tự, hiệu suất xử lý nước thải sau bể tự hoại bởi
Chlorella vulgaris chỉ đạt tương ứng 57,36% và 52,5% trong 10 ngày xử lý
trên HRAP 1200 L. Do trong nước thải bể tự hoại thường chứa N (NH 4-N:
33,065 mg/L) và P (PO43: 29,055 mg/L) khá cao, vì vậy để loại bỏ hai chất ô
nhiễm này cần tăng thời gian nuôi là cần thiết để tăng hiệu suất xử lý N, P
[72].
60
Bảng 3.6: So sánh khả năng loại bỏ chất dinh dưỡng N, P và COD bởi các loài vi tảo Chlorella sp. nuôi trong các
nguồn nước thải khác nhau
Nitơ Phốtpho COD
Thời Nồng Tài liệu
Nguồn nước Hệ thống Nồng độ Nồng độ Nồng độ Nồng độ Nồng độ
Giống tảo gian Hiệu suất Hiệu suất độ đầu Hiệu suất tham
thải xử lý đầu vào đầu ra đầu vào đầu ra đầu vào
xử lý xử lý (%) xử lý (%) ra xử lý (%) khảo
(mg/L) (mg/L) (mg/L) (mg/L) (mg/L)
(mg/L)
NH4-N: NH4-N:
Mương NH4-N: PO43-:
10 1,08±0,17 95,42±3,7 PO43-: 99,78±0,0 73,85±3,6 Nghiên
Chlorella sp. Nước thải đô thị mở 23,70 0,034±0,01 157,24 41,12±6
ngày 5 15,504 4 9 cứu này
(50 L) 6
NH4-N: NH4-N:
0,851 95,42±2,7
NH4-N:
NO3-N: 7
18,59
Mương 0,03 NO3-N:
14 NO3-N: PO43-: PO43-: Nghiên
Chlorella sp. Nước thải đô thị mở NO2-N: 43,39±3,4 100 175,34 39,45±5 77,5±3,88
ngày 0,053 10,94 <0,001 cứu này
(500 L) 0,017 9
NO2-N:
NO2-N:
0,594
97,14±2,4
0
Mương NH4+-N:
Nước thải ao mở 11 81,65 PO43-:
Chlorella sp. - - - - [66]
nuôi cá tra (500 L) ngày NO3--N: >70
>80
Mương T(N):
Chlorella sp.và Nước thải thành 2 T(N): T(P): T(P): 109,60 16,03
mở 44,79 92,68 82,65 85,44 [86]
Scenedesmus sp. phố ngày 3,28 ppm 4,69 0,79 ppm ppm
(100 L) ppm
Mương
Nước thải dệt 12 (NH4-N) (NH4-N) 45,13±0,4 PO43--P PO43--P 33,25±0,5 270,33±2,5 102±2,6 62,27±0,7
Chlorella sp. mở [87]
may ngày 6,50±0,10 3,57±0,06 5 7,14±0,04 4,76±0,02 3 2 5 1
(40 L)
Mương (NH4-N): PO43-:
Chlorella Nước thải sau bể 10 (NH4-N): PO43-:
mở 33,065±0, 57,36 29,055±1,3 52,5 252±4 - >90 [72]
vulgaris tự hoại ngày 14,1 13,8
(1200 L) 08 1
61
• Hỗn hợp vi tảo-nước thải sau quá trình xử lý được vào 2 thùng chứa
hình trụ (dung tích 250 L/thùng) đối với hệ xử lý nước thải dạng bể dài
500L (Hình 3.4A-B); hệ xử lý 50L được sử dụng trực tiếp để thu hoạch
tảo.
• Tiếp theo, cho PAC vào các thùng chứa và hệ xử lý (lượng PAC tối ưu
là 0,05g/L đối với Chlorella sp., do vậy với hỗn hợp vi tảo-nước thải có
thể tích là 50L và 500L thì lượng PAC cần cho vào là 2,5g và 25g
PAC).
• Sau đó, tiến hành khuấy trộn đều trong 5-10 phút để PAC tan hết và để
lắng từ 0,5 – 1 giờ (Hình 3.4C-D).
• Vi tảo sau khi lắng xuống đáy ta tiến hành dùng bơm để bơm phần
nước trong ở trên mặt thùng ra môi trường, phần vi tảo còn lại lọc qua
túi NMO (kích thước lỗ (pore size) 25 μm, Dong Chau Environmental
Construction Co., Ltd, Vietnam) để giữ lại sinh khối vi tảo trong túi
lọc.
• Sinh khối vi tảo sau khi thu hoạch được bảo quản bằng cách sấy khô
hoặc bảo quản lạnh tùy thuộc vào mục đích sử dụng (Hình 3.4E).
• Hiệu suất thu hoạch tảo thu được là 99,4%
63
(A) (B)
(C) (D)
(E)
Hình 3.4: Các bước thu hoạch sinh khối vi tảo-vi sinh vật
Nước thải sau khi đạt chỉ tiêu đầu ra được bơm vào thùng chứa (A); Hỗn hợp
vi tảo-nước thải khi chưa cho PAC (B); Hỗn hợp vi tảo-nước thải khi cho
PAC và để lắng (C); Nước trên mặt thùng được bơm ra ngoài (D); Vi tảo
thành phẩm sau khi lắng và lọc (E).
64
Bảng 3.7: Tổng hợp năng suất sinh khối của hỗn hợp vi tảo-vi sinh vật nuôi
trên hệ thống mương mở
Mương
Vi tảo-vi sinh Nước thải
mở tốc độ 4,4 - 11,5 [88]
vậta đô thị
cao
Hỗn hợp
nước thải
Mương
Hỗn hợp vi tảoa dệt nhuộm 5,9 [90]
mở
và nước thải
đô thị
Nước thải
sau quá
Mương trình phân
Scenedesmus sp.b 22,9 [92]
mở hủy yếm khí
của nước
thải đô thị
a
Không bổ sung CO2
b
Bổ sung CO2 từ nguồn ngoài
66
18. Jia, H. and Q. Yuan, 2016, Removal of nitrogen from wastewater using
microalgae and microalgae–bacteria consortia, Cogent Environmental
Science, 2 (1), p. 1275089.
19. Yeh, K.L., J.S. Chang, and W.m. chen, 2010, Effect of light supply and
carbon source on cell growth and cellular composition of a newly
isolated microalga Chlorella vulgaris ESP‐31, Engineering in Life
Sciences, 10 (3), p. 201-208.
20. Hu, Q., Environmental effects on cell composition in Handbook of
Microalgal Culture: Biotechnology and Applied Phycology (Richmond,
A., ed.). 2004, Oxford: Blackwell Science Ltd. p. 83-89.
21. Yeh, K.L. and J.S. Chang, 2011, Nitrogen starvation strategies and
photobioreactor design for enhancing lipid content and lipid production
of a newly isolated microalga Chlorella vulgaris ESP‐31: implications
for biofuels, Biotechnology Journal, 6 (11), p. 1358-1366.
22. Khalil, Z.I., et al., 2010, Effect of pH on growth and biochemical
responses of Dunaliella bardawil and Chlorella ellipsoidea, World
Journal of Microbiology and Biotechnology, 26 (7), p. 1225-1231.
23. Liang, Z., et al., 2013, Efficiency assessment and pH effect in removing
nitrogen and phosphorus by algae-bacteria combined system of
Chlorella vulgaris and Bacillus licheniformis, Chemosphere, 92 (10), p.
1383-1389.
24. Kumar, A., et al., 2010, Enhanced CO2 fixation and biofuel production
via microalgae: recent developments and future directions, Trends in
biotechnology, 28 (7), p. 371-380.
25. Yan, C., et al., 2013, Effects of various LED light wavelengths and
intensities on the performance of purifying synthetic domestic sewage
by microalgae at different influent C/N ratios, Ecological engineering,
51 p. 24-32.
26. Kong, W., et al., 2011, The characteristics of biomass production, lipid
accumulation and chlorophyll biosynthesis of Chlorella vulgaris under
mixotrophic cultivation, African Journal of Biotechnology, 10 (55), p.
11620-11630.
27. Juneja, A., R.M. Ceballos, and G.S. Murthy, 2013, Effects of
environmental factors and nutrient availability on the biochemical
composition of algae for biofuels production: a review, Energies, 6 (9),
p. 4607-4638.
28. Fujita, R.M., P.A. Wheeler, and R.L. Edwards, 1988, Metabolic
regulation of ammonium uptake by ulva rigida (Chlorophyta): a
compartmental analysis of the rate‐limiting step for uptake, Journal of
Phycology, 24 (4), p. 560-566.
70
29. Vergara, J.J., K.T. Bird, and F. Niell, 1995, Nitrogen assimilation
following NH4+ pulses in the red alga Gracilariopsis lemaneiformis:
effect on C metabolism, Marine Ecology Progress Series, 122 p. 253-
263.
30. Shifrin, N.S. and S.W. Chisholm, 1981, Phytoplankton lipids:
interspecific differences and effects of nitrate, silicate and light‐dark
cycles, Journal of phycology, 17 (4), p. 374-384.
31. Stephenson, A.L., et al., 2010, Influence of nitrogen-limitation regime
on the production by Chlorella vulgaris of lipids for biodiesel
feedstocks, Biofuels, 1 (1), p. 47-58.
32. Round, F.E., 1984, The ecology of algae, CUP Archive, p.
33. Chu, F.-F., et al., 2013, Phosphorus plays an important role in
enhancing biodiesel productivity of Chlorella vulgaris under nitrogen
deficiency, Bioresource technology, 134 p. 341-346.
34. Wang, C., et al., 2013, Nitrogen and phosphorus removal from
municipal wastewater by the green alga Chlorella sp, Journal of
Environmental Biology, 34 (2 suppl), p. 421.
35. Borchardt, J.A. and H.S. Azad, 1968, Biological extraction of nutrients,
Journal (Water Pollution Control Federation), p. 1739-1754.
36. Tsuzuki, M., et al., 1990, Effects of CO2 concentration during growth
on fatty acid composition in microalgae, Plant physiology, 93 (3), p.
851-856.
37. Gordillo, F.J., et al., 1998, Effects of increased atmospheric CO2 and N
supply on photosynthesis, growth and cell composition of the
cyanobacterium Spirulina platensis (Arthrospira), Journal of Applied
Phycology, 10 (5), p. 461.
38. Terry, N. and J. Abadía, 1986, Function of iron in chloroplasts, Journal
of Plant Nutrition, 9 (3-7), p. 609-646.
39. Liu, Z.-Y., G.-C. Wang, and B.-C. Zhou, 2008, Effect of iron on
growth and lipid accumulation in Chlorella vulgaris, Bioresource
technology, 99 (11), p. 4717-4722.
40. Kobayashi, M., T. Kakizono, and S. Nagai, 1993, Enhanced carotenoid
biosynthesis by oxidative stress in acetate-induced cyst cells of a green
unicellular alga, Haematococcus pluvialis, Appl. Environ. Microbiol.,
59 (3), p. 867-873.
41. Stefels, J. and M.A. van Leeuwe, 1998, Effects of iron and light stress
on the biochemical composition of Antarctic Phaeocystis
sp.(Prymnesiophyceae). I. Intracellular DMSP concentrations, Journal
of Phycology, 34 (3), p. 486-495.
42. Kennish, M., 1992, Ecology of Estuaries. Anthropogenic effects. CRC.
Press, Inc., Boca Raton F, 1 p.
71
43. Campanella, L., et al., 2001, An algal biosensor for the monitoring of
water toxicity in estuarine environments, Water Research, 35 (1), p. 69-
76.
44. Bhalamurugan, G.L., O. Valerie, and L. Mark, 2018, Valuable
bioproducts obtained from microalgal biomass and their commercial
applications: A review, Environmental Engineering Research, 23 (3),
p. 229-241.
45. Spolaore, P., et al., 2006, Commercial applications of microalgae,
Journal of bioscience and bioengineering, 101 (2), p. 87-96.
46. Kang, H., et al., 2013, Effect of various forms of dietary Chlorella
supplementation on growth performance, immune characteristics, and
intestinal microflora population of broiler chickens, Journal of Applied
Poultry Research, 22 (1), p. 100-108.
47. Zheng, L., et al., 2012, The dietary effects of fermented Chlorella
vulgaris (CBT®) on production performance, liver lipids and intestinal
microflora in laying hens, Asian-Australasian journal of animal
sciences, 25 (2), p. 261.
48. Kotrbáček, V., et al., 2013, Retention of carotenoids in egg yolks of
laying hens supplemented with heterotrophic Chlorella, Czech Journal
of Animal Science, 58 (5), p. 193-200.
49. Chader, S., et al., 2011, Biodiesel production using Chlorella
sorokiniana a green microalga, Revue des Energies Renouvelables, 14
(1), p. 21-26.
50. Mondal, M., et al., 2017, Production of biodiesel from microalgae
through biological carbon capture: a review, 3 Biotech, 7 (2), p. 99.
51. Anand, P., et al., 2015, Production of algae biofertilizers for rice crop
(Oryza sativa) to safe human health & environment as a supplement to
the chemical fertilizers, J. Sci, 5 p. 13-15.
52. Faheed, F.A. and Z. Abd-El Fattah, 2008, Effect of Chlorella vulgaris
as bio-fertilizer on growth parameters and metabolic aspects of lettuce
plant, J Agric Soc Sci, 4 p. 165-169.
53. Dineshkumar, R., et al., 2019, The impact of using microalgae as
biofertilizer in maize (Zea mays L.), Waste and Biomass Valorization,
10 (5), p. 1101-1110.
54. Arora, N., S. Agarwal, and R. Murthy, 2012, Latest technology
advances in cosmaceuticals, International Journal of Pharmaceutical
Sciences and Drug Research, 4 (3), p. 168-182.
55. Wang, H.-M.D., et al., 2015, Exploring the potential of using algae in
cosmetics, Bioresource technology, 184 p. 355-362.
72
56. Fabrowska, J., et al., 2015, Biomass and extracts of algae as material
for cosmetics, Marine Algae Extracts: Processes, Products, and
Applications, p. 681-706.
57. T, A., B. G, and M.E. G, 2016, The Role of algae in pharmaceutical
development, Journal of Pharmaceutics and Nanotechnology, 4 p. 82-
89.
58. Abedin, R.M. and H.M. Taha, 2008, Antibacterial and antifungal
activity of cyanobacteria and green microalgae. Evaluation of medium
components by Plackett-Burman design for antimicrobial activity of
Spirulina platensis, Global Journal of Biotechnology and Biochemistry,
3 (1), p. 22-31.
59. Santhosh, S., R. Dhandapani, and N. Hemalatha, 2016, Bioactive
compounds from Microalgae and its different applications-a review,
Advances in Applied Science Research, 7 (4), p. 153-158.
60. Ariede, M.B., et al., 2017, Cosmetic attributes of algae-A review, Algal
research, 25 p. 483-487.
61. He, P., et al., 2013, The combined effect of bacteria and Chlorella
vulgaris on the treatment of municipal wastewaters, Bioresource
technology, 146 p. 562-568.
62. Choi, H.J. and S.M. Lee, 2015, Effect of the N/P ratio on biomass
productivity and nutrient removal from municipal wastewater,
Bioprocess and biosystems engineering, 38 (4), p. 761-766.
63. Wang, L., et al., 2010, Cultivation of green algae Chlorella sp. in
different wastewaters from municipal wastewater treatment plant,
Applied biochemistry and biotechnology, 162 (4), p. 1174-1186.
64. Lv, J., et al., 2018, Nutrients removal from undiluted cattle farm
wastewater by the two-stage process of microalgae-based wastewater
treatment, Bioresource technology, 264 p. 311-318.
65. Võ Thị Kiều, T., et al., 2012, Ứng dụng tảo Chlorella sp.và Daphnia
sp. lọc chất thải hữu cơ trong nước thải từ quá trình chăn nuôi lợn sau
xử lý bằng UASB, p.
66. Bắc, T.C., et al., 2015, Sử dụng nước thải ao nuôi cá tra để nuôi sinh
khối tảo Chlorella sp, Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ, p.
90-96.
67. El-Kassas, H.Y. and L.A. Mohamed, 2014, Bioremediation of the
textile waste effluent by Chlorella vulgaris, The Egyptian Journal of
Aquatic Research, 40 (3), p. 301-308.
68. Asadi, P., H.A. Rad, and F. Qaderi, 2019, Comparison of Chlorella
vulgaris and Chlorella sorokiniana pa. 91 in post treatment of dairy
wastewater treatment plant effluents, Environmental Science and
Pollution Research, 26 (28), p. 29473-29489.
73
69. Al-Hashimi, M.A.I. and H.T. Hussain, 2013, Stabilization pond for
wastewater treatment, European Scientific Journal, 9 (14), p.
70. Molazadeh, M., et al., 2019, The use of microalgae for coupling
wastewater treatment with CO2 biofixation, Frontiers in bioengineering
and biotechnology, 7 p.
71. Mishra, N. and N. Mishra, 2017, Utilization of microalgae for
integrated biomass production and phycoremediation of wastewater,
Journal of Algal Biomass Utilization, 8 (4), p. 95-105.
72. Hoàng, T.M., Mô hình hóa mô phỏng hệ thống xử lý nước thải giàu
dinh dưỡng bằng tảo Chlorella vulgaris. 2016, Học viện Nông nghiệp
Việt Nam.
73. Santhanam, N., 2009, Oilgae guide to algae-based wastewater
treatment, Tamilnadu: Home of Algal Energy, p.
74. https://caugiay.hanoi.gov.vn/, p.
75. Andersen, R.A., 2005, Algal culturing techniques, Elsevier, p.
76. Ramaraj, R., D.D. Tsai, and P.H. Chen, 2013, Chlorophyll is not
accurate measurement for algal biomass, p.
77. Beuckels, A., E. Smolders, and K. Muylaert, 2015, Nitrogen
availability influences phosphorus removal in microalgae-based
wastewater treatment, Water research, 77 p. 98-106.
78. Cai, T., S.Y. Park, and Y. Li, 2013, Nutrient recovery from wastewater
streams by microalgae: status and prospects, Renewable and
Sustainable Energy Reviews, 19 p. 360-369.
79. Maestrini, S.Y., et al., 1986, Ammonium thresholds for simultaneous
uptake of ammonium and nitrate by oyster-pond algae, Journal of
experimental marine Biology and Ecology, 102 (1), p. 75-98.
80. Sheng, G.-P., H.-Q. Yu, and X.-Y. Li, 2010, Extracellular polymeric
substances (EPS) of microbial aggregates in biological wastewater
treatment systems: a review, Biotechnology advances, 28 (6), p. 882-
894.
81. Cassidy, K.O., Evaluating Alagal Growth at Different Temperatures.
2011, University of Kentucky.
82. Salgueiro, J., et al., 2016, Bioremediation of wastewater using
Chlorella vulgaris microalgae: Phosphorus and organic matter,
International Journal of Environmental Research, 10 (3), p. 465-470.
83. Zhao, Y., et al., 2016, Ability of different microalgae species in
synthetic high‐strength wastewater treatment and potential lipid
production, Journal of Chemical Technology & Biotechnology, 91 (11),
p. 2888-2895.
74