Professional Documents
Culture Documents
Thời kì cổ đại
- Bày người nguyên thủy: Con người vừa thoát thai khỏi động vật , họ đùm bọc nhau
trong một cộng đồng đầu tiên không khác mấy bày động vật, đó là cuộc sống du canh
du cư để tìm kiếm thức ăn sinh sống và chống chọi với tự nhiên. Con người thời kì
này chưa có lao động sản xuất, họ tồn tại nhờ hoạt động bản năng (thời kì con người
tối cổ) vì thế chưa có giáo dục.
- Công xã thị tộc: thời kì mà người nguyên thủy đã biết đùm bọc lẫn nhau trong một
cộng đồng theo dòng máu của người mẹ (thời kì mẫu hệ) và sống trên một địa bàn
thuận lợi cho việc canh tác (ven song, biển, rừng…). Con người từ tối cổ chuyển
thành con người tinh khôn. Họ đã biết trồng trọt, chăn nuôi vì thế quan hệ XH đa dạng
hơn và tri thức của con người nảy sinh rồi dần dần phong phú lên (đó là những kinh
nghiệm sản xuất, chống thiên nhiên và tập tục lễ nghi của công xã thị tộc). Trong quá
trình sống, con người có nhu cầu truyền thụ và lĩnh hội tri thức giữa các thành viên
trong công xã thị tộc- hiện tượng GD xuất hiện (thời kì này gọi là GD nguyên thủy
hay GD tự nhiên) với đặc điểm là:
+ GD bình đẳng cho mọi người.
+ Quá trình GD nảy sinh chính trong quá trình LĐ sản xuất và quan hệ XH mỗi người
lao động vừa là người dạy vừa là người học.
+ Nội dung GD chính là những tri thức cần thiết cho đời sống: kinh nghiệm sản xuất,
kinh nghiệm chống thiên nhiên, thú dữ, lề thói, tập tục công xã để duy trì con người và
công xã… có thể nói thời kì này tuy thấp kém về sản xuất nhưng có một nền GD bình
đẳng cho mọi người- đó là một chế độ GD tiến bộ, dân chủ và tốt đẹp nhất trong lịch
sử.
Về hình thức giáo dục
+ Hình thức GD: GD thông qua lao động và sinh hoạt. Họ cho rằng “cuộc đời là
trường học rộng mở và thực tiễn là người thầy vĩ đại nhất”. Sở dĩ nói như vậy bởi họ
GD bằng hình thức cá nhân, họ đề cao tầm quan trọng của trẻ em. Vì vậy với người
nguyên thủy, trẻ em là chung của toàn công xã, người lớn trong công xã sẽ dạy bảo,
truyền thụ sự hiểu biết của mình cho trẻ em một cách trực tiếp, hiệu quả nhất. Do thời
kỳ này là thời kỳ thấp kém nhất nên thời kỳ này chưa có trường học, lớp học nên chủ
yếu việc giáo dục thực hiện qua cuộc sống hàng ngày. Mọi người trong công xã đều
có nghĩa vụ lao động và có quyền bàn bạc để xây dựng công xã. Do đó, họ coi tri thức
là quan trọng và cần phải truyền thụ tri thức cho mọi người hiểu và biết đến. Mặc dù
người nguyên thủy chưa có sự phát triển vượt bậc nhưng nhu cầu GD của họ là chính
đáng, tự nhiên mang tính chất bình đẳng, không phân biệt trai gái, vị trí xã hội. Đây
chính là nền GD tiến bộ, nền GD hướng tới tất cả mọi người trong công xã.
+ Về phương pháp GD: Với sự xuất hiện của ngôn ngữ, người nguyên thủy đã truyền
thụ, dạy bảo nhau qua lời nói, trực quan và các hoạt động gắn với thực tiễn. Họ học
bằng cách quan sát, bắt chước; tự nhiên, bộc phát, thực tiễn, hành động. Ở thời kỳ này
do chữ viết chưa xuất hiện nên còn khó khăn trong việc giảng dạy.
- XH nguyên thủy ở giai đoạn cuối của công xã thị tộc:
Trên cơ sở phát triển của sức sản xuất mà thước đo của nó là công cụ sản xuất (XH ng
thủy chuyển từ thời đại đồ đá sang thời đại đồ đồng rồi sắt…) làm cho XH loài người
ngày một tiến bộ lên. Nhờ sự cải tiến của công cụ sản xuất mà của cải trong công xã
ngày càng dồi dào hơn (có của ăn, của để). Vì thế chỉ cần một số ít người dùng công
cụ lao động mới cũng có thể lao động đủ sống và tự vệ được bản thân trước tự nhiên
và XH. Lúc này công xã thị tộc có xu thế bị chia nhỏ rồi dẫn tới xuất hiện gia đình (vợ
chồng, con cái). Đây là một hiện tượng mới của công xã thị tộc. Hiện tượng này dẫn
đến trong công xã có gia đình giàu, gia đình nghèo tồi gia đình nghèo phụ thuộc gia
đình giàu. Hiện tượng gia cấp xuất hiện và cuộc đấu tranh chống áp bức, bóc lột, đòi
tự do bình đẳng cùng bắt đầu nảy sinh từ đây. GD từ đây mất tính bình đẳng mà nảy
sinh hiện tượng GD mới, GD mang tính giai cấp: GD là của riêng của những gia đình
giàu, các tầng lớp có của trong XH. Đó chính là đặc điểm XH và GD trong giai đoạn
cuối của công xã thị tộc (thời kì phụ hệ).
+ Gia đình giáo có dựng ra trường học là nơi để GD, chăm sóc, dạy dỗ cho con cái của
họ (nhà trường chuyên biệt ra đời).
+ Tầng lớp nhà giàu sử dụng một số người chuyên làm nhiệm vụ chăm sóc, nuôi, dạy
cho con cái của họ- đó là sự xuất hiện của đội ngũ những người GV chuyên nghiệp.
+ GD không còn là quyền lợi chung cho mọi người mà trở thành đặc quyền cho con
nhà giàu mới được hưởng (mất tính chất bình đẳng của GD ng thủy mà thay vào đó là
nền GD đẳng cấp và làm cho GD bắt đầu mang tính giai cấp).
+ Hiện tượng GD tách khỏi lao động sản xuất bắt đầu từ đây tạo nên sự mâu thuẫn
giữa lđ trí óc và lđ chân tay (kẻ thì lđ trí óc thuần túy, người thì chỉ có bổn phận lđ
chân tay để làm ra của cải vật chất phục vụ XH, phục vụ nhà giàu). Một quan niệm
mới về đạo đức được hình thành vì lợi ích bênh vực, bảo vệ tầng lớp nhà giàu trong
XH.
Tóm lại: Cuối thời kì công xã thị tộc, do xuất hiện giai cấp nên GD cũng mất tính
bình đẳng mà thay vào đó là một hiện tượng mới: GD mang tính giai cấp (tính giai cấp
của GD thể hiện ở mục đích, nội dung, phương pháp, hình thức, tính chất… của nền
GD, của các phạm trù GD).