You are on page 1of 39

CHƯƠNG 10

Bệnh nhiễm coronavirus ở mèo


(Feline Coronavirus Infections)
Để biết thêm thông tin, truy cập địa chỉ http://www.greeneinfectiousdiseases.com về các tài
liệu tham khảo, hình ảnh, bảng biểu và các phụ lục

TÁC NHÂN GÂY BỆNH


Feline coronavirus (FCoV) gây bệnh nhiễm khắp nơi ở mèo, mà thường dẫn đến bệnh viêm
mạch máu qua trung gian miễn dịch gây tử vong, có tên là bệnh viêm phúc mạc truyền nhiễm ở
mèo (feline infectious peritonitis – FIP). FCoV là alphacoronavirus cỡ lớn, hình cầu, có bao
ngoài, RNA kết sợi đơn chiều dương, thuộc họ Coronaviridae. Họ Coronaviridae, bao gồm giống
Coronavirus và Torovirus, là một phần của bộ Nidovirales, cũng bao gồm các toroviruses,
arteriviruses, và roniviruses.60 Người ta cho rằng FCoV, cùng với các coronaviruses ở heo và
chó, trở thành một phần của các loài mới. gọi là Geselavirus, theo tham chiếu với cấu trúc gen
điển hình của các virus “bảy gen cuối – gene seven last” (gsl).60 Các coronaviruses có gen di
truyền RNA kích thước lớn nhất hiện nay; gen di truyền của FCoV có kích thước 29 kb, mã hóa
đa protein chuỗi lặp (replicase polyprotein), có bốn protein cấu trúc (gai nhú – spike [S], sinh
chất – matrix [M], vỏ bao hạt nhân – nucleocapsid [N], và vỏ bao ngoài – envelope [E]), và có
chứa một số protein không cấu trúc (3a, 3b, 3c, 7a, và 7b), mà chức năng chưa được rõ.

Dù bản chất hiện diện khắp nơi của FCoVs và nhiễm đến mèo, chỉ một số mèo phát triển FIP
(Hình 10-1). Các giải thích khác nhau đã gây ra tranh luận và xem xét đến hai vấn đề: có hay
không cả virus có và không độc lực cùng lưu hành, hay các virus có độc lực nổi lên do kết quả
của biến dị mới xảy ra trong gen di truyền của FCoV đang gây nhiễm hay coronavirus gây bệnh
đường ruột ở mèo (feline enteric coronavirus – FECV) trước khi xảy ra FIP.45,244,254 Chang et al.
đã phát hiện thấy các đoạn bị xóa trong gen 3c từ bệnh nhiễm virus toàn thân, nhưng không thấy
ở nhiễm virus trong ruột, cho thấy là gen 3c nguyên vẹn là cốt yếu cho nhân sao của virus trong
ruột.45 Pedersen cũng thấy có các gen 3c nguyên vẹn trong các dòng phân lập được từ ruột.244
Ngược lại, các tác giả khác thấy có cả đoạn xóa lẫn đoạn biến dị và nhận diện được các gen này
trong mèo khỏe mạnh và mèo bị FIP, hay cả trong bệnh nhiễm virus toàn thân lẫn nhiễm ở ruột,
gây ra vấn đề cho giả thiết về nội biến dị (internal mutation theory).38,73,186

HÌNH. 10-1 Có bốn khả năng xảy ra khi nhiễm FCoV, và chỉ số ít bệnh nhiễm có hậu quả là FIP. Tỷ lệ mèo bị
ảnh hưởng theo từng hậu quả. (Chỉnh sửa từ Addie DD, Jarrett O. 2001. Vet Rec 148:649-653.)

Mặc dù chỉ có chung 30% gen tương đồng (genetic homology),254 gen 3c cho thấy giống với
gen 3a của hội chứng hô hấp cấp tính nặng nề (severe acute respiratory syndrome (SARSr) có
liên quan đến coronavirus (CoV) do giống nhau về cấu hình ngậm nước (hydrophilic
profile).45,223 Protein 3a của SARSr-CoV có liên quan đến thể hiện bề mặt; có điều chỉnh giảm
thụ thể của chất cản nhiễm dạng 1 (type 1 interferon (IFN) receptor), và có điều chỉnh tăng của
thể hiện fibrinogen.190,206,316 Có hay không đoạn xóa trong gen 3c chịu trách nhiệm cho phát triển
FIP thì chưa rõ – các đoạn gen 3c này có thể chỉ là sản phẩm phụ của quá trình nhân sao nhanh
chóng, và các biến dị có đoạn xóa ở gen 3c này là ứng cử sáng giá cho chế tạo vaccin.107

Các virus RNA có khuynh hướng rõ rệt về biến đổi gen, và có thể cho rằng trong điều kiện
nhân sao số lượng lớn virus, nhiều biến thể có thế phát hiện thấy trong cùng một ký chủ. Các
biến thể này không chỉ thấy trong các cơ quan,103,168 mà còn thấy có trong các tế bào khác ở cùng
một khối u hạt sinh mủ (pyogranuloma).262 Có hay không các biến thể là gây ra hay ảnh hưởng
đến tiến trình bệnh. Các dòng ở phòng thí nghiệm có độc lực khác nhau; các dòng này có độc lực
một cách khác thường, gây FIP trong hầu hết mèo được gây nhiễm (như dòng 79-1146 nổi
tiếng). Các dòng FCoV ít độc lực hơn, có các mức độ nhân sao khác nhau trong các bạch cầu
đơn nhân, và các bạch cầu đơn nhân cũng khác nhau về khả năng cho phép FCoV nhân sao.
Tương tác của hai yếu tố này xác định có hay không một cá thể mèo phát triển thành FIP.24 Thực
tế, những mèo được thử thách bằng liều virus thấp, kể cả với virus có độc lực, như virus gây FIP
(FIPV) 79-1146, có thể vượt qua được bệnh nhiễm, trong khi các liều lượng gia tăng dẫn đến
hầu hết mèo phát triển FIP.247,286
Các kết quả phân tích gen ở các dòng FCoV cho thấy các khác biệt giữa các virus phân lập
được từ 48 mèo khỏe mạnh về lâm sàng và 8 mèo bệnh với FIP.38 Các khác biệt rõ rệt không
liên tục này thể hiện ở các gen của màng bao (membrane), gai nhú (spike) và gen 7b của protein
không cấu trúc. Không may là các gen 3 c không được xem xét. Protein màng là dạng protein
cấu trúc thấy nhiều nhất ở các coronaviruses và có khả năng liên quan đến sinh bệnh học, do tạo
kết bám của virus. Quan trọng là có năm khác biệt về amino acid giữa các protein màng của các
FCoVs ở mèo khỏe mạnh về lâm sàng, so với mèo bị FIP. Tuy nhiên, có ba mèo khỏe mạnh có
chứa các virus có amino acid mang dấu hiệu gây FIP (YIVAL), cho thấy khả năng là có ít nhất
một mèo này có chứa một dòng FCoV có khả năng gây FIP.38 Các kiểu gen liên quan đến FIP
tương đồng nhiều hơn với kiểu gen tổ tiên và không phải do các biến dị mới.38 Phần lớn mèo
không bị nhiễm cùng lúc nhiều dòng của FCoVs, mà thường bị nhiễm bởi một dòng chính. Tuy
nhiên, trong hai trường hợp, mèo bị FIP đã bị nhiễm cả hai dòng phân lập khác nhau, cho thấy
có thể xảy ra siêu nhiễm (superinfection).

Một thành viên khác của Coronaviridae gây hội chứng hô hấp cấp tính nặng nề ở người
(severe acute respiratory syndrome – SARS). Dòng SARSr-CoV này được cho là có nguồn gốc
từ chồn mặt nạ ở cây cọ (masked palm civet cat: Paguma larvata). Mặc dù có tên gọi thông
thường là chồn, nhưng loài ăn thịt này không phải là loài mèo, mà là thành viên của họ chồn
mongoose (Viverridae). Tuy nhiên, mèo có thể bị nhiễm trong thực nghiệm và trong tự nhiên do
SARSr-CoV196. Một mèo nuôi trong gia đình có người bị nhiễm đã thấy có chuyển hóa huyết
thanh, mặc dù vẫn thể hiện lâm sàng khỏe mạnh. Các phân tích dữ liệu cho thấy SARSr-CoV ở
chồn civet có khả năng là một virus tái tổ hợp nổi lên từ các dòng của SARSr-CoV, có liên quan
gần gũi với các coronaviruses ở loài dơi có mũi hình móng ngựa (horseshoe bat: Rhinolophus
sinicus). Tần suất tái tổ hợp, kết hợp với tiến hóa nhanh chóng trong các thú vật này có thể góp
phần cho truyền lây liên loài và nổi lên của SARS.181

Các coronavirus ở mèo thuộc các chủng huyết thanh I và II (Feline


Coronavirus Serotypes I and II)
Có hai chủng của FCoVs, được phân loại theo kết chuỗi gen di truyền và khả năng của các
kháng thể đơn giá nhận biết ra chúng.127,248,316a Các FcoVs chủng I (type I FcoVs) được cho là
dòng duy nhất ở mèo. Các FcoVs chủng II (type II FcoVs) phát sinh từ tái tổ hợp giữa type I
FCoV với canine coronavirus (CCoV). Mặc dù type II FCoVs có nguồn gốc từ type I, nhưng có
các phần biến đổi ở các gen gai nhú và các gen kế bên của CCoV.118,317 Hầu hết các nghiên cứu
tập trung vào type II do có thể dễ dàng được cấy truyền ở ngoài môi trường; tuy nhiên, type I có
lưu hành cao hơn trên thế giới.* Cả hai type đều có thể gây FIP. Một số nhà nghiên cứu126 thấy
có lưu hành cao hơn của type II trong mèo bị FIP so với mèo khỏe mạnh tại Nhật Bản, và các
nhà nghiên cứu khác187 thấy có mối liên quan chặt chẽ giữa type II với FIP. Tuy nhiên, trong các
nghiên cứu khác, phân bố của các types I và II ở mèo bị FIP phản ánh phân bố rộng rãi của hai
type virus này trong những mèo bị nhiễm FCoV không thể hiện triệu chứng.31,178 Lin et al. cũng
thấy có tính đa dạng cao về gen di truyền trong FcoV thuộc type I, so với type II, một đặc trưng
góp phần cho FCoV thuộc type I có khả năng gây ra bệnh nhiễm dai dẳng, trong khi FCoV thuộc
type II có thể không có khả năng này.187 Mèo có thể nhiễm cùng lúc cả FCoV thuộc types I và
II.187

* Các tài liệu tham khảo 15, 31, 126, 178, 187, 268, 289
Thụ thể của FCoV thuộc type I chưa được biết rõ.73,123 Thụ thể của FCoV thuộc type II là một
enzyme, là aminopeptidase-N, thấy trong viền nhung mao ruột (intestinal brush border).** Tuy
nhiên, FCoV thuộc type II nhiễm đến được cả các bạch cầu đơn nhân (monocytes) và các đại
thực bào (macrophages), thụ thể là không cần thiết nếu có kháng thể kháng FCoV.313

** Các tài liệu tham khảo 29, 113, 174, 312, 319, 320

DỊCH TỄ HỌC
FIPV có khả năng gây chết ở mèo tương đương với virus gây bệnh giảm bạch cầu huyết toàn
thân (feline panleukopenia virus).42 Thể hiện gia tăng lưu hành của FIP có thể liên quan trực tiếp
với các thay đổi trong chăn nuôi mèo gia đình trong 30 năm qua, có nhiều mèo được nuôi ngoài
gia đình và nuôi với số lượng lớn, gây ra phơi nhiễm với các liều lượng cao của các mầm bệnh
trong phân, được mèo chôn vùi ngoài môi trường. Khả năng phổ biến và gia tăng lai giống mèo
đã dẫn đến giảm bảo hộ miễn dịch liên quan đến tính đa dạng về di truyền và lai ghép cưỡng
bức.188 Sự gia tăng số lượng mèo được nuôi một thời gian trong trại nuôi, phương cách chăn
nuôi, có thể dẫn đến phơi ra với liều lượng coronavirus cao hơn (từ ổ đẻ), gia tăng căng thẳng
trong cạnh tranh môi trường sống, và nhiễm cùng lúc nhiều mầm bệnh, đều làm giả khả năng
phòng vệ của mèo đối với mầm bệnh. Số lượng mèo gia tăng do bị cấm săn bắt và thường được
cho cung cấp thức ăn không tự nhiên, với tỷ lệ mất cân bằng acid béo omega 6:3 dietary, có khả
năng dẫn đến tình trạng viêm ban đầu mãn tính (chronic proinflammatory). Tất cả các yếu tố này
thích hợp cho phát tán và gia tăng các bệnh nhiễm FCoV và có liên quan đến FIP. Các yếu tố
nguy cơ chính có liên quan đến phát triển FIP được trình bày trong phần tiếp theo.

Lứa tuổi

Mặc dù mèo ở mọi lứa tuổi đều có thể phát triển FIP, nhưng mèo con dưới 2 năm tuổi có
nguy cơ cao nhất,2 15,244,274 với lứa tuổi thứ nhì có nguy cơ cao là mèo trên 10 năm tuổi.274 Đặc
biệt hơn, mèo con phát triển FIP sau khi cai sữa,42 và hầu hết mèo con ngã bệnh từ lúc 3 đến 16
tháng tuổi.244 Những mèo có nguy cơ cao hơn về phát triển FIP có thể do nhiễm vào số lượng
virus cao hơn, thường là ở mèo con, so với mèo trưởng thành,246 do hệ miễn dịch của chúng
chưa hoàn chỉnh, hay do nhiều yếu tố gây căng thẳng mà thường gặp ở mèo con, như chủng
ngừa vaccin, chuyển nhà mới, và bị thiến. Ngoài ra, mèo có khả năng phát triển FIP sau khi
nhiễm FCoV lần đầu, thường là mèo nuôi trại.18

Giống

Mèo nuôi trại có nguy cơ cao hơn về phát triển FIP so với mèo nuôi gia đình.* Điều này có
thể do giống lai của mèo có liên quan đến mất đi tính đa dạng về di truyền188 do vậy các hệ
thống miễn dịch của mèo giống lai có thể không mạnh mẽ bằng mèo giống thuần. Một nghiên
cứu về kháng nguyên bệnh bạch cầu mèo (feline leukocyte antigen – FLA, là dạng phức hợp
chính tương thích mô – major histocompatibility complex [MHC] ở mèo) đã cho thấy là giống
mèo Burmese có trung bình 2,8 FLA alleles (gen tương ứng với FLA), so với 6 FLA alleles ở
các giống khác.11 Hoặc do mèo làm giống thường sử dụng cho vài mèo khác và có khuynh
hướng nuôi nhốt – làm gia tăng liều lượng bị phơi nhiễm, bị căng thẳng và bị bệnh. Mèo giống ở
Mỹ344 và 8% mèo giống ở Thụy Điển có báo cáo là bị FIP.304
* Các tài liệu tham khảo 83, 259, 274, 287b, 287c, 297, 344

Các kết quả khác nhau giữa các nghiên cứu cho thấy khả năng mẫn cảm bẩm sinh đối với FIP
chứng minh được ở mèo Ba Tư (Persian cats).83 Trong một nghiên cứu khác, mèo Ba Tư, mèo
Burmese, mèo mun ngoại nhập (exotic shorthair), mèo Manxe, mèo Nga (Russian blue), và mèo
Thái (Siamese) không thể hiện nguy cơ phát triển FIP, trong khi mèo Abyssinian, Bengal,
Birman, Himalayan, ragdoll, và rex cats đã phát triển FIP.259 Trong một nghiên cứu kiểm chứng
về các rối loạn thần kinh, mèo Burmese đã thể hiện rất rõ là có FIP.36 Tuy nhiên, nghiên cứu này
chỉ được thực hiện liên quan đến mèo Burmese nuôi trại, mà có thể khác với thực tế.

Thú họ mèo (Nondomestic Felidae)

Nhiễm FCoV, bệnh, và FIP đã được báo cáo trong nhiều loài thú họ mèo: mèo hoang Châu
Âu (European wildcats: Felis silvestris),337 sư tử (lions: Pan- thera leo),122,151 cọp (tigers: P.
tigris), báo gấm (jaguars P. onca), báo (leopards: P. pardus), mèo cát (sand cats: Felis
margarita), sư tử núi/báo núi (mountain lions/panthers: F. concolor),234,273 linh miêu (caracals
Caracal caracal), và mèo rừng Châu Phi (servals: Felis serval)143; linh miêu (lynx: Lynx lynx) ở
Canada,33 nhưng không thấy có ở linh miêu Châu Âu tại Thụy Điển;282 ở một linh miêu Mỹ
(bobcat: Lynx rufus);270 và nhất là ở báo hoa (cheetahs: Acinonyx jubatus).** Giống như ở mèo
nhà, FCoV có cơ hội gây bệnh cao hơn ở các loài thú lớn nuôi nhốt hay trong triển lãm, so với
thú được chăn thả ngoài thiên nhiên.***

** Các tài liệu tham khảo 115, 155, 150, 151, 154, 217, 260

*** Các tài liệu tham khảo 78, 111, 143, 151, 217, 260

Các coronavirus ở các loài thú nuôi cảnh khác

Chồn ferrets có hai thể hiện của bệnh nhiễm coronavirus: viêm ruột nhày truyền nhiễm
(epizootic catarrhal enteritis)342,343 và viêm phúc mạc truyền nhiễm (infectious
peritonitis).88,144b,197,258 Mặc dù trong cùng nhóm (1) là FCoV, các coronavirus của chồn ferret là
khác với FCoV,343 do vậy ít có khả năng nhiễm chéo giữa chồn ferrets và mèo cats trong cùng
nhà nuôi; tuy nhiên, các vrus RNA có khuynh hướng tái tổ hợp, do vậy khả năng này cũng có
thể xảy ra.1

Chó thường đóng vai trò là nguồn chứa CCoV. Các coronaviruses thường truyền lây giữa chó
và mèo sống chung,30,268 tạo nên các virus biến thể từ tái tổ hợp.118,334 (xem phần Các chủng
huyết thanh I và II của coronavirus ở mèo – Feline Coronavirus Serotypes I and II, đã nêu ở
phần trên). Để biết thêm thông tin về CCoV, xem Chương 8.

SINH BỆNH HỌC


Thải tiết virus

Virus được thải tiết theo phân từ 2 ngày sau khi bị nhiễm.246 Người ta thấy rằng vị trí nhân
sao chính của virus là các tế bào biểu bì của ruột non,243 nhưng trong thải tiết virus lâu dài, virus
trú đóng ở vùng tiếp giáp hồi manh tràng (ileocecocolic junction).117 Có số lượng nhỏ mèo có đề
kháng với bệnh nhiễm FCoV.10,64,246 Có khả năng là thải tiết của các types I và II là khác nhau;
các dòng của phòng thí nghiệm, thường là type II, chỉ được thải tiết trong vòng 2 tuần,303 trong
khi ở bệnh nhiễm tự nhiên, virus type I thấy thải tiết ở 65% mèo trong thời gian 2 đến 3 tháng
hoặc lâu hơn.10,15 Một số mèo bị nhiễm cùng lúc với cả types I và II.187 Phần lớn mèo thải sạch
virus sau 2 đến 3 tháng, mặc dù ở một số mèo bị nhiễm (13%) virus thiết lập dạng bệnh nhiễm
dai dẳng.10,15,246 Thực nghiệm gây nhiễm cho mèo sạch bệnh (specific-pathogen free cats – SPF)
bằng FCoV không độc lực dẫn đến trú đóng dai dẳng của virus trong biểu bì kết tràng, trú đóng
với mức độ nhẹ hơn trong các đại thực bào ở gan và các hạch lâm ba màng treo ruột, có liên
quan đến thải tiết virus kéo dài theo phân.166a Một đặc điểm của mèo mang trùng suốt đới là
chúng chỉ thải tiết cùng dòng virus bị nhiễm suốt đời theo phân, cho đến khi chết;15 điều này rất
giống với tình trạng mang trùng mãn tính đối với feline calicivirus.52 Các con thú mang trùng
cho FCoV hiếm khi phát triển đến FIP.15 Mèo mang trùng mãn tính thường có sức khỏe không
tốt, thể hiện là phát triển tiêu chảy mãn tính và mèo già tuổi bị “ỉa đùn”.13 Việc phát hiện mèo
mang trùng cần áp dụng phản ứng chuỗi phân tử giải mã đảo ngược (reverse transcriptase (RT)-
polymerase chain reaction (PCR) đối với mẫu phân trong thời gian 9 tháng.10

Virus duy trì trong quần thể mèo nhờ các con mang trùng và qua tái nhiễm ở mèo bị bệnh tạm
thời.10,15,85 Căng thẳng do đưa vào trại nuôi làm gia tăng thải tiết virus từ 101 đến 106 lần.256 Tuy
nhiên, căng thẳng do mang thai và nuôi con không làm cho mèo mẹ đã bị nhiễm thải tiết nhiều
virus hơn.84 Ở mèo khỏe mạnh, virus chỉ được thải tiết qua nước bọt trong thời gian ngắn (hàng
giờ).10 Không phải tất cả mèo (đến 75%) bị FIP đều có thải tiết virus trong phân,17,45,254 và cũng
có khả năng thải tiết virus theo các chất tiết khác, như nước tiểu, nước bọt và nước mắt. Virus
được thải tiết theo phân thường có gen 3c còn nguyên vẹn.45,254

Mặc dù xét nghiệm huyết thanh học (kháng thể kháng FCoV) có hạn chế (xem phần sau),
nhưng ở đây thấy rõ là mèo với các kết quả huyết thanh học âm tính, theo xác định của xét
nghiệm chẩn đoán tin cậy, không thải tiết FCoV,7,10,84 trong khi có khoảng 1/3 mèo có kết quả
xét nghiệm dương tính thì có thải tiết virus.7 Những mèo có các hiệu giá kháng thể cao thường
có khả năng thải tiết virus cao hơn,10,84,246 mặc dù những mèo có các hiệu giá kháng thể huỳnh
quang gián tiếp (indirect fluorescent antibody – FA) tương đối thấp, từ 40 đến 80 thì có khả năng
thải tiết FCoV là 26% đến 39%.11,12,16

Bằng chứng về thải tiết virus không bao giờ là lý do tốt cho giết hủy nhân đạo đối với mèo,
do hầu hết mèo có thải tiết FCoV sẽ ngưng trong vòng vài tháng, và có ít hơn 10% mèo phát
triển FIP.8 Hơn nữa, nếu mèo sống sót sau khi phơi nhiễm với FCoV, chúng có thể sử dụng tốt
hơn cho làm giống, so với nhập về mèo mới mà có thể không có đề kháng, do thành phần gen di
truyền có thể có vai trò trong khả năng mẫn cảm đối với bệnh nhiễm FCoV infection.244

Truyền lây

Mèo bị nhiễm FCoV đường miệng, thường do tiếp xúc trực tiếp với chất độn chuồng nuôi bị
vấy nhiễm virus. FCoV là virus có khả năng truyền lây cao, trong trại nuôi nhiều mèo, trên 90%
mèo có chuyển hóa huyết thanh. FCoV có thể sống sót đến 7 tuần trong môi trường khô ráo.139
FCoV dễ dàng bị bất hoạt bởi hầu hết các chất tẩy rửa gia dụng và chất sát trùng; tuy nhiên, chất
tẩy không những được cho là có hiệu quả mà còn sử dụng an toàn cho mèo.13,139

FCoV đã phân lập được từ mèo con 1 ngày tuổi, cho thấy có khả năng truyền lây qua nhau
thai. Tuy nhiên, thực hành tách mèo con ra khỏi mèo mẹ bị nhiễm, kể cả mèo bị chết vì FIP, đã
tạo được bảo vệ cho mèo con khỏi bị nhiễm, mà không thấy có vấn đề truyền lây qua nhau
thai.7,139

Nhiễm ở bạch cầu đơn nhân và viêm mạch máu (vasculitis)

Ban đầu, phát triển của FIP được cho là thuộc tính của virus, chứ không phải do ký chủ: các
dòng kém độc lực hơn ở phòng thí nghiệm kém khả năng nhân sao trong các bạch cầu đơn nhân,
so với các dòng có độc lực cao hơn.64 Tuy nhiên, bạch cầu đơn nhân của mèo sẽ hỗ trợ nhân sao
của FCoV với các mức độ khác nhau64 và bạch cầu đơn nhân của một số mèo sẽ không hỗ trợ
nhân sao virus, là giải thích cho khả năng đề kháng với FCoV ở một số mèo này, như đã được
báo cáo.10 Một giải thích khác có thể là một số mèo không có thụ thể cho virus type I. Khám phá
về sinh bệnh học của FIP đã giúp hiểu được cách thức các dấu hiệu lâm sàng phát triển và giúp
thiết lập các chiến thuật trị liệu khác.

Áp dụng hóa miễn dịch mô bào (immunohistochemistry), Kipar et al.166 đã chứng minh có
FCoV trong các bạch cầu đơn nhân kết bám đến thành các mạch máu và thoát mạch (Hình Trang
mạng 10-1), đây là sự kiện chính trong phát triển FIP. Các đại thực bào bị nhiễm FCoV đã
phóng thích ra chất cản nhiễm interleukin (IL)-6,97 IL-1β matrix metalloproteinase (MMP)-9,166
và yếu tố gây viêm hoại tử (tumor necrosis factor – TNF)-α.166,311,312 Trong nhiễm ban đầu, IL-6
kích thích các tế bào gan phóng thích các protein giai đoạn cấp tính (như alpha-1 acid
glycoprotein [AGP]) và các tế bào lâm ba B (B lymphocytes) tăng sinh và phân hóa thành các tế
bào huyết tương.311 Ở đây có khả năng là các hàm lượng cao của IL-6 thấy ở mèo bị FIP là do
tăng gammaglobulin huyết (hypergammaglobulinemia).

TNF-α là yếu tố chính góp phần cho đáp ứng viêm và sinh bệnh học của FIP. TNF-α rất có
khả năng là nguyên nhân gây giảm bạch cầu huyết thấy ở FIP,311 nhất là trong bệnh FIP không
tràn dịch. Ở ngoại môi trường, các thể hiện bề mặt của các tế bào lâm ba (nhất là các tế bào lâm
ba CD8+) đã được kích thích bằng dịch acid, huyết tương và dịch phù nổi của môi trường nuôi
cấy tế bào phúc mạc mèo bị FIP, là có góp phần của TNF-α.311 Tuy nhiên, việc sử dụng chất
kháng TNF-α hay các kháng thể trung hòa TNF-α, đã không thể chặn đứng được thể hiện bề mặt
của tế bào lâm ba được kích thích bởi FIP.105 TNF-α điều chỉnh tăng fAPN (thụ thể của các
FCoV type II)312 và, cùng với yếu tố kích thích trú đóng trong đại thực bào-bạch cầu hạt và yếu
tố kích thích trú đóng trong bạch cầu hạt, là những yếu tố được sinh ra do các bạch cầu đơn nhân
bị nhiễm FCoV, tạo nên yếu tố giúp bạch cầu trung tính sống sót.312 Trong thời gian về sau của
bệnh nhiễm, việc sản sinh TNF được chuyển sang các đại thực bào và các tế bào lâm ba.55 Sự
sản sinh quá mức kéo dài của TNF-α cũng dẫn đến suy giảm thể trọng (cachexia).

IL-1 kích hoạt các tế bào B và T, là chất gây sốt, góp phần cho đáp ứng viêm. Các MMPs là
các nội peptidase phụ thuộc kẽm (zinc-dependent endopeptidases) có khả năng cắt đoạn các
protein sinh chất ngoại bào. Ở đây có khả năng là MMP-9 chịu trách nhiệm gây rò rỉ mạch máu
trong bệnh FIP tràn dịch.
Đáp ứng miễn dịch đối với bệnh nhiễm coronavirus ở mèo

Ngoài độc lực của dòng gây nhiễm của FCoV, tình trạng giảm miễn dịch cũng dẫn đến phát
triển bệnh nhiễm nặng nề ở mèo. Hầu hết mèo phát triển FIP thường có lịch sử về bị căng thẳng
trong những tháng trước đó. Căng thẳng có hai hiệu ứng làm gia tăng khả năng của mèo đối với
FIP: gây giảm hoạt động của hệ thống miễn dịch, và gây tăng thải tiết virus từ 101 đến 106 lần.256
Hơn nữa, ở đây có giả thiết là chủng loại và mức độ của đáp ứng miễn dịch quyết định hậu quả
của nhiễm FCoV: đáp ứng miễn dịch mạnh qua trung gian tế bào sẽ ngăn ngừa được FIP, đáp
ứng yếu hay không đáp ứng được miễn dịch qua trung gian tế bào, và đáp ứng miễn dịch dịch
thể mạnh, sẽ dẫn đến bùng nổ FIP, và các kết quả đáp ứng ở mức trung gian sẽ dẫn đến FIP
không bùng nổ.244 Các bệnh tích của FIP không bùng nổ chủ yếu là ở mắt và hệ thần kinh trung
ương, cả hai vị trí này đều được bảo vệ bởi hệ thống miễn dịch.

Bằng chứng từ gây nhiễm thực nghiệm cho thấy mèo sống sót sau thử thách có phát triển đáp
ứng miễn dịch qua trung gian tế bào mạnh hơn so với mèo ngã bệnh.62 Tuy nhiên, tình trạng
sạch virus trong bệnh nhiễm tự nhiên cũng có liên quan đến hiện diện của đáp ứng miễn dịch
dịch thể đối với protein gai nhú của FCoV,103 và cho thấy là mèo con có được bảo hộ từ kháng
thể mẹ truyền (MDA).7 Do đó, ở đây có khả năng là cũng có một số bảo hộ của kháng thể. Miễn
dịch dịch thể có liên quan đến xuất tiết IgA được cho là quan trọng trong ngăn ngừa bệnh nhiễm
ban đầu ở các tế bào biểu bì. Tuy nhiên, ở mèo bị phơi nhiễm, chuyển hóa huyết thanh xảy ra
trong vòng 18 đến 21 ngày sau khi cấy gây nhiễm,204 là lâu hơn so với hầu hết các bệnh nhiễm
virus, mà các kháng thể xuất hiện từ 7 đến 10 ngày sau khi cấy gây nhiễm. Mặc dù một số virus
tiếp tục biến dị như là phương cách lảng tránh đáp ứng miễn dịch của ký chủ, nhưng mèo bị
nhiễm dai dẳng bởi FCoV đã thải tiết cùng dòng virus đến hàng năm sau.15 Do đó, các FCoVs đã
phát triển các phương cách để ức chế đáp ứng miễn dịch của ký chủ. Tiến hóa này giúp ích cho
virus trì hoãn được đáp ứng miễn dịch theo một số phương cách, làm cho mèo trở nên bị nhiễm
dai dẳng và thải tiết virus trong thời gian dài hơn. Do mèo bị FIP sẽ chết đi và không còn thải
tiết virus, là một bước tiến hóa không có lợi cho virus, FIP thực sự được cho là “tai nạn về tiến
hóa”. Bằng chứng thêm vào trong ức chế miễn dịch liên quan đến virus và không quét sạch được
virus, cho thấy những mèo bị nhiễm FCoV mà bị ngã bệnh, thì có các hàm lượng virus cao hơn
so với mèo sống sót sau bệnh nhiễm.159

Các phương cách mà các FCoVs gây ức chế miễn dịch vẫn chưa được nghiên cứu sáng tỏ.
Như đã nêu, một phương cách mà FCoV tác động đến đáp ứng của ký chủ là các tế bào bị nhiễm
FCoV sẽ phóng thích ra một chất gây tác động thể hiện bề mặt của các tế bào lâm ba,105 và chất
này có khả năng là TNF-α.311 Một khi kháng thể xuất hiện, các kháng thể này sẽ làm cho các
protein của virus trên bề mặt của bạch cầu đơn nhân xâm nhập vào tế bào trong vòng vài phút.50
Lý do có thể của sự trì hoãn đến mức có thể của phát triển các kháng thể kháng S (anti-S
antibodies) là khả năng quét sạch virus.100

Gia tăng phụ thuộc kháng thể

Gia tăng phụ thuộc kháng thể (antibody-dependent enhancement – ADE) là một kiểu hình gợi
ra nhiều cố gắng tìm ra một vaccin FIP thành công và làm nản lòng những ai cố gắng phát triển
một vaccin bệnh SARS.272 Trong ADE, có tỷ lệ cao hơn của mèo đã được chủng ngừa vaccin
bằng các vaccin thực nghiệm đã phát triển thành FIP, so với nhóm đối chứng không chủng ngừa
vaccin cũng được gây phơi nhiễm với dòng FCoV ở phòng thí nghiệm, thường là dòng 79-1146
độc lực rất cao thuộc type II. Dòng này không phù hợp do độc lực quá cao. Lý do gây ADE vẫn
chưa được biết rõ, nhưng một giả thiết cho rằng ADE qua trung gian của các kháng thể phụ
trung hòa (subneutralizing antibodies) tạo dễ dàng cho virus đi vào tế bào mục tiêu, là đại thực
bào, qua cơ chế trung gian của thụ thể Fc (Fc-receptor-mediated mechanism).* Nghiên cứu cho
thấy kháng thể làm cho các đại thực bào bị protein virus từ mặt ngoài tế bào xâm nhập nhanh
hơn.50,65,66,325,326 Tầm quan trọng của điều này chưa được nghiên cứu đầy đủ, do ở đây không có
tình trạng xâm nhập phụ thuộc kháng thể gây dung giải tế bào qua trung gian bổ thể.51

* Các tài liệu tham khảo 48, 49, 125, 219, 221, 222, 314

Mèo phát triển bệnh ADE trong thời gian dưới 12 ngày, trong khi mèo đối chứng cần đến 28
ngày hay lâu hơn.285 Ngược lại, các nghiên cứu thực địa cho thấy mèo có huyết thanh dương tính
mà bị tái nhiễm tự nhiên bởi FCoV thì không thấy thể hiện ADE.15,18 Thực ra, nhiều mèo đã có
huyết thanh dương tính sau khi bị nhiễm tự nhiên, đã thể hiện có đề kháng với phát triển FIP (do
không bị tái nhiễm bởi cùng dòng hay dòng khác của FCoV).15,18 Tỷ lệ tử vong của mèo có tiếp
xúc vào thời điểm ban đầu nhiễm FCoV là 14%, so với khoảng 8% vào thời điểm tái nhiễm.18
Trên thực tế, mèo có huyết thanh âm tính được đưa vào trại có dịch FCoV sẽ có 1 trong 6 cơ hội
phát triển FIP, trong khi mèo có huyết thanh dương tính có 1 trong 12 cơ hội phát triển FIV.
Mèo có nguy cơ cao nhất về phát triển FIP trong vòng 6 đến 18 tháng sau khi bị nhiễm, và nguy
cơ này giảm đi còn khoảng 4% lúc 36 tháng sau khi bị nhiễm.18 Ở đây không có bằng chứng là
vaccin chủng ngừa FIP (Primucell, Pfizer) gây ADE (xem trình bày phần sau). Do ADE đã được
báo cáo trong thực nghiệm ở mèo được cấp các kháng thể kháng FCoV một cách thụ động,314 có
khả năng là máu của mèo cho có các kết quả huyết thanh âm tính đối với FCoV.

CÁC PHÁT HIỆN LÂM SÀNG


Nhiễm ban đầu

Hầu hết bệnh nhiễm FCoV là cận lâm sàng. Khi mèo bị nhiễm FCoV lần đầu, chúng có thể có
một giai đoạn ngắn các dấu hiệu ở đường hô hấp hay tiêu chảy; mặc dù các dấu hiệu này thường
không đủ nặng nề để được thú y viên chú y đến, nhưng tiêu chảy đôi khi có thể rất nặng nề.164
Mèo con bị nhiễm FCoV thường có bệnh sử tiêu chảy và đôi khi bị còi cọc và có các dấu hiệu ở
đường hô hấp trên.7

Viêm ruột do Coronavirus

Mèo sạch bệnh được gây nhiễm thực nghiệm đã bị tiêu chảy do FCoV và có thể thấy ở mèo bị
nhiễm ban đầu, mèo mang trùng dai dẳng, và mèo bị FIP không tràn dịch, gây ra những bệnh
tích ở trực tràng. Tiêu chảy, và đôi khi có ói mửa, xảy ra ở mèo con và một số mèo nhiễm FCoV
lần đầu, là tiêu chảy do ruột non, thường tự khỏi trong vòng vài tuần. Tuy nhiên, đôi khi virus có
thể gây ói mửa cấp tính hay mãn tính với giảm thể trọng, mà có thể không có đáp ứng đối với
điều trị, kéo dài đến hàng tháng, và đôi khi gây chết.164 Ở đây cũng có nhiều nguyên nhân khác
gây tiêu chảy ở mèo mà cần được lưu ý trước khi kết luận chẩn đoán là tiêu chảy do FCoV (như
nhiễm Tritrichomonas foetus, có khuynh hướng ảnh hưởng đến cùng nhóm mèo, mèo con nuôi
trong môi trường chật chội).101 Tiêu chảy do FCoV thường thấy nhiều nhất ở mèo con khoảng 5
tuần tuổi.

Tiêu chảy mãn tính, do bệnh ở ruột già, đã được ghi nhận ở mèo giả tuổi hơn, có mang trùng
FCoV dù thể hiện khỏe mạnh; tiêu chảy này có thể dẫn đến ra phân không kiềm chế được.3 Để
biết thêm chi tiết về tiêu chảy do FIP, xem phần sau về Trú đóng ở kết tràng hay trú đóng ở ruột
non.

Bệnh viêm mạch máu đa hệ thống (Multisystemic Inflammatory Vasculitis


Disease)

FIP là tên gọi sai, do nhiều mèo không bị viêm phúc mạc. Có hai dạng cơ bản của FIP, tràn
dịch (ướt) và không tràn dịch (khô). Tuy nhiên, sẽ chính xác hơn khi xem xét FIP là dạng bệnh
liên tục, do có các tiến triển theo cùng một quá trình, mà cơ bản là viêm mạch máu sinh mủ hạt
(pyogranulomatous vasculitis). Các dấu hiệu lâm sàng và sinh bệnh học xảy ra ở FIP là hậu quả
trực tiếp của viêm mạch máu và tổn thương cơ quan, hậu quả của tổn thương mạch máu cung
cấp đến. Trong FIP tràn dịch, nhiều mạch máu bị ảnh hưởng, do đó tiết xuất dịch và các protein
trong huyết tương vào các xoang cơ thể. Trong FIP không tràn dịch, thể hiện lâm sàng là tủy
thuộc vào cơ quan bị tổn thương do viêm mủ hạt ở FIP.

Hình Trang mạng 10-2 nêu chi tiết phương thức chẩn đoán FIP. Trong bước 1 của phương
pháp, mèo bị FIP có khuynh hướng còn nhỏ, trong những môi trường nuôi nhiều mèo (trại giống
hay triển lãm, khu cứu hộ, phòng mạch thú y), và đã có lịch sử bị căng thẳng trước đó; thời gian
nung bệnh của FIP thường kéo dài hàng tuần đến hàng tháng. Khoảng một nửa mèo bị FIP nhỏ
hơn 2 năm tuổi, nhưng mèo ở mọi lứa tuổi đều có thể bị ảnh hưởng.215,244,274 Đánh giá lịch sử của
mèo bị FIP một cách điển hình cho thấy chúng đã sống trong môi trường nhiều mèo trong năm
trước đó, thường trong trại giống hay trạm cứu hộ. Đôi khi chúng bị nhiễm từ triển lãm hay từ
phòng khám thú y. Tuy nhiên, thời gian nung bệnh, đặc biệt là dạng không tràn dịch của FIP, có
thể kéo dài đến hàng tháng hay hàng năm. Mèo bị FIP thường có lịch sử bị căng thẳng vài tháng
trước đó. Mèo bị FIP dạng tràn dịch thường được đưa đến khám bệnh ở phòng khám thú y lúc 4
đến 6 tuần sau khi chuyển đến nhà mới, sau khi bị phẫu thuật, hay bị tình trạng căng thẳng tương
tự, trong khi mèo bị FIP không tràn dịch thì phát bệnh chậm hơn nhiều. Những mèo đã nuôi
nhiều năm trong môi trường đơn độc thường rất ít khả năng bị FIP.

Bệnh dạng tràn dịch (Effusive Disease)

Mèo bị FIP dạng tràn dịch thấy bị báng bụng (ascites), mặc dù rất ít chủ nuôi lưu ý đến mức
độ to ra của bụng mèo (Hình 10-2), bị tràn dịch xoang ngực (Hình 10-3), hoặc cả hai. Mèo có thể
bị lờ đờ, kém ăn hay ăn uống bình thường. Sưng bất thường với sóng sánh dịch tràn, sốt nhẹ
(39°C đến 39,5°C [102,2°F đến 103,1°F]), giảm thể trọng, khó thở, tăng nhịp thở (tachypnea),
bìu dái sưng, âm thanh nhịp tim giảm (muffled heart sounds), và màng nhày nhạt màu hoặc
hoàng đản, là các dấu hiệu có thể thấy. Trong một khảo sát, FIP ở 14% mèo có tràn dịch ngoại
tâm mạc, biến chứng chỉ là lỗi tâm thu (congestive heart failure: 28%).281 Khối chất chứa trong
bụng có thể sờ nắn thấy, thể hiện viêm dính phúc mạc và phủ tạng, và hạch lâm ba màng treo
ruột có thể sưng to.
HÌNH. 10-2 Trương giãn bụng do FIP tràn dịch. (Hình chụp của Craig Greene © 2004 University of Georgia
Research Foundation Inc.)

HÌNH. 10-3 Hình chụp X quang mèo bị FIP và tràn dịch xoang ngực.

Bệnh dạng không tràn dịch (Noneffusive Disease)

FIP không tràn dịch là thể hiện mãn tính hơn của bệnh, xảy ra hàng tuần đến hàng tháng sau
khi bị nhiễm và khởi phát trong căng thẳng. Các dấu hiệu của FIP không tràn dịch thường mơ hồ
và bao gồm sốt nhẹ, giảm thể trọng, lờ đờ và giảm ăn. Mèo có thể bị hoàng đản. Hầu hết mèo bị
FIP không tràn dịch có các bệnh tích trong mắt. Sờ nắn vùng bụng thường phát hiện các hạch
lâm ba màng treo ruột sưng to162 và cũng có thể phát hiện thấy thận không bình thường hay các
nốt sưng không đều trong phủ tạng khác. Nếu phổi bị ảnh hưởng, mèo có thể khó thở, và chụp
hình xoang ngực có thể thấy nhiều đốm sậm màu ở phổi.322

Các dấu hiệu ở mắt. Mèo bị FIP không tràn dịch thường có bệnh tích ở mắt. Dấu hiệu
thường thấy nhất ở mắt là viêm mống mắt (iritis), thể hiện là biến đổi màu của mống mắt. Thông
thường, tất cả các phần của mống mắt biến đổi thành màu nâu (Hình 10-4), mặc dù đôi khi thấy
biến đổi thành màu xanh dương hay xanh lá. Viêm mống mắt cũng thể hiện ở phản quang của
dịch chất, với mờ đục ở buồng trước của mắt, một số trường hợp có chỉ có thể phát hiện được
trong phòng tối sử dụng ánh sáng huỳnh quang hội tụ (focal illumination). Số lượng lớn các tế
bào viêm trong buồng trước của mắt tích tụ ở phía sau của giác mạc và gây tích tụ chất sừng, mà
được che lấp bởi màng nháy của mắt (nictitating membrane: Hình 9-5). Một số mèo bị xuất
huyết vào buồng trước của mắt. Nếu mèo này không có dấu hiệu của viêm mống mắt, thì phải
kiểm tra võng mạc (retina), do FIP có thể gây cộm mạch máu võng mạc, thể hiện là các vệt nhạt
màu ở cả hai bên mạch máu (Hình 10-6). Đôi khi thấy có viêm mủ hạt ở võng mạc (xem Hình
10-6); một tình trạng khác có khả năng gây viêm mủ hạt ở võng mạc là nhiễm vi khuẩn.68 Màng
trập (vitreous) có thể thể hiện đục mờ. Xuất huyết hay bong tróc ở võng mạc cũng có thể xảy
ra306 nhưng thường thấy là dấu hiệu của xung huyết. Các dấu hiệu tương tự ở mắt cũng có thể do
nhiễm Toxoplasma, nhiễm virus gây lỗi hỏng miển dịch ở mèo (feline immunodeficiency virus –
FIV), nhiễm virus gây giảm bạch cầu huyết ở mèo (feline leukemia virus), hay ngộ độc nấm
(xem Chương 92).306

HÌNH. 10-4 Trong hầu hết các trường hợp FIP không tràn dịch, có thể phát hiện thấy các dấu hiệu ở mắt, dù các
dấu hiệu này có thể bị che khuất, cần phải bộc lộ, như mống mắt thấy ở phía trên bên trái của mắt mèo này. (Tài liệu
của Diane Addie, Feline Institute, Pyrenees, France.)
HÌNH. 10-5 Tích tụ chất sừng (keratic precipitates) ở giác mạc (mũi tên) trong FIP không tràn dịch. Màng nháy
(nictitating membrane – N) đã được vạch xuống để thấy các nốt tích tụ này. (Tài liệu của Diane Addie, University of
Glasgow, Glasgow, Scotland.)

HÌNH. 10-6 Võng mạc của mèo bị FIP không tràn dịch. Hình chụp bằng tia sáng mạnh, nhưng thể hiện mờ đục
do nhiều xuất dịch protein trong màng trập. Trương to của các mạch máu thể hiện là các đường màu nhạt giữa hai
bên là vùng sậm màu (mũi tên). Các mạch máu của võng mạc có thể bị che khuất trong lớp mủ hạt. (Tài liệu của
John Mould, Herefordshire, UK.)

Các dấu hiệu thần kinh. Ở mèo bị FIP không tràn dịch, có khoảng 25% đến 33% bị các bất
thường về thần kinh.81 Sự xuất hiện các triệu chứng thần kinh là thể hiện của tiên lượng xấu, và
thể hiện của giảm chi phối thần kinh đối với tư thế (decerebrate posture: co giật uốn ván –
opisthotonos, thẳng đơ chân trước – forelimb extension, xoặc chân sau – hindlimb flexion) là các
thể hiện kém hy vọng.172,174,257,293 Các dấu hiệu lâm sàng thường có biến thiên và phản ảnh vùng
của thần kinh trung ương bị ảnh hưởng; dấu hiệu lâm sàng thường thấy nhất là thay đổi tâm lý,
sau đó mất điều hòa vận động và co giật, cuối cùng là hôn mê.173 Có ghi chép kỹ càng về mất
điều hòa vận động ở mèo đã được Penderis ghi lại.257 Mất điều hòa vận động do FIP có thể do
tiểu não, do thần kinh cảm giác (thuộc tủy sống hay trung tâm kiểm soát trương lực cơ – general
proprioceptive), hay ở trung tâm tiền đình (central vestibular), mà thường không do ngoại biên
tiền đình (peripheral vestibular). 257 Để phân biệt tình trạng do trung tâm và ngoại biên của tiền
đình: thực hiện các phản ứng tư thế thông thường, phát hiện các bất thường của thần kinh sọ não
VII (ipsilateral cranial nerve VII) và hội chứng Horner, và thể hiện giật cầu mắt hướng ngang
(horizontal nystagmus) với hướng xa khỏi bên có bệnh tích, mà thấy có ở bệnh ở ngoại biên tiền
đình. Bệnh ở trung tâm tiền đình có thể có các dấu hiệu này; tuy nhiên, các lỗi khác thường thấy
nhiều hơn. Khó chịu khi bị mở miệng là một đặc điểm của bệnh ở ngoại biên tiền đình.257

Khi FIP gây viêm màng não u hạt không có mủ (nonsuppurative granulomatous meningitis),
các dấu hiệu phản ảnh tổn thương của mô thần kinh phía dưới: sốt không giải thích được, các
biến đổi tập tính, hôn mê, bại liệt, mất điều hòa vận động, run rẩy, mất định hướng khoảng cách
(hypermetria), tăng cảm giác (hyperesthesia), và các lỗi hỏng ở thần kinh sọ não. Khi bệnh tích
của FIP là viêm mủ hạt ở thần kinh ngoại biên hay ở tủy sống, có thể thấy què, mất điều hòa vận
động hay bại liệt (liệt bốn chân – tetraparesis, liệt bán thân – hemiparesis, hay liệt hai chân trước
hoặc sau – paraparesis).172,173,214,257 FIP là nguyên nhân thường thấy nhất gây ra các bệnh tích ở
tủy sống ở mèo đến 2 năm tuổi.194 Thần kinh sọ não có thể bị ảnh hưởng, gây ra các lỗi hỏng và
mất đáp ứng về tâm lý,172,173 tùy theo vùng thần kinh sọ não bị ảnh hưởng. Một xem xét kỹ càng
về chẩn đoán và điều trị hôn mê ở mèo đã được công bố bởi Smith Bailey và Dewey.293

Các nghiên cứu về chụp X quang cắt lớp (computed tomographic) và chụp hình cộng hưởng
từ (magnetic resonance imaging – MRI) là có giá trị trong chẩn đoán FIP ở thần kinh trung
ương. Tắc ngẽn của ống bạch huyết trong não (aqueduct), gây tích nước sọ não do tắc ngẽn ống
bạch huyết (obstructive hydrocephalus: hai bên bán cầu não phình rộng hơn 2 mm) là gợi ý cao
cho chẩn đoán FIP ở thần kinh.81,172,173,257,262 Trong một nghiên cứu ở 24 mèo bị FIP ở thần kinh,
75% mèo này bị tích nước sọ não, phát hiện thấy trong kiểm tra mô bào học sau khi chết.173 Các
bệnh khác như nhiễm nấm bào tử (cryptococcosis), toxoplasmosis, và ung thư lâm ba
(lymphoma) không thấy có báo cáo gây tích nước sọ não.173 Cũng đã có báo cáo về hóa kén ở
não thất thứ tư (isolated fourth ventricle) và hóa kén ở tủy sống (cervical syringomyelia).172,173
Sau khi tiêm chất phản quang (gadolinium, gadoteridol), nở rộng của các khoang não thất thứ tư,
của ống trục não (mesencephalic aqueduct), và ở hành não (brainstem) phát hiện thấy bằng chụp
MRI là gợi ý cao về FIP (Hình Trang mạng 10-3).81,172,257
HÌNH. 10-7 Lứa đẻ lớn không đều và còi cọc ở mèo con do nhiễm FCoV. Đây là dấu hiệu cảnh báo sớm về
FCoV phát dịch trong một trại giống.

Trú đóng trong kết tràng hay trú đóng trong ruột

Đôi khi, cơ quan chủ yếu hay cơ quan duy nhất bị ảnh hưởng bởi FIP dạng u viêm (FIP
granulomas) là ruột. Các bệnh tích thường thấy nhất trong kết tràng hay vùng tiếp giáp hồi tràng
manh tràng, nhưng cũng có thể thấy ở ruột non.110,327 Mèo có thể có nhiều dấu hiệu lâm sàng là
hậu quả của bệnh tích này – thường bị táo bón (constipation), tiêu chảy mãn tính, hay ói
mửa.110,327 Sờ nắn vùng bụng thường thấy ruột dày lên. Về huyết học có thể thấy gia tăng số
lượng các thể Heinz.

Bệnh tích ở da

Các bệnh tích đã được mô tả ở da, luôn kèm theo đến các dấu hiệu lâm sàng khác của FIP.40
Các bệnh tích da không sinh mủ này có đặc điểm là hơi sưng, có viền rõ rệt, nổi lên từ trong da,
đường kính khoáng 2 mm, ở cổ, chân trước và hai bên thành bụng.40,56 Tình trạng tổn thương da
này giống như ở hội chứng Ehlers-Danlos đã từng được báo cáo ở mèo bị FIP.321

Mèo con sơ sinh và trước khi sinh ra

FIP là bệnh truyền nhiễm phổ biến nhất gây tỷ lệ tử vong ở mèo con yếu ớt16,42 nhưng không
gây chết trong giai đoạn từ khi sinh ra đến khi cai sữa (“mèo con nhợt nhạt – fading kittens”).
Trong những năm 1970, FCoV có liên quan đến nhiều rối loạn sinh sản và hội chứng mèo con
nhợt nhạt (fading kitten syndrome),287 nhưng vấn đề này có thể do lỗi hỏng ở chuyển hóa
taurine, và FCoV đã không còn được coi là có liên quan.16,21 FCoV không gây ra vô sinh.16 Tuy
nhiên, bệnh nhiễm FCoV dẫn đến còi cọc ở mèo con (Hình 10-7) và làm gia tăng tỷ lệ tiêu chảy
và các dấu hiệu ở đường hô hấp trên.7
HÌNH. 10-8 Xét nghiệm Rivalta dương tính: một giọt acetic acid 98% được pha vào 5 mL nước cất và hòa đều,
một giọt huyền phù của mẫu được đặt cẩn thận trên bề mặt của dung dịch acid này. Nếu không có bệnh thì dung
dịch vẫn trong suốt, xét nghiệm là âm tính. Nếu giọt huyền phù vẫn còn nằm trên bề mặt dung dịch acid, vẫn còn
tiếp xúc với dung dịch acid, hay chảy từ từ xuống phía dưới ống nghiệm, thì xét nghiệm là dương tính. (Tài liệu của
Diane Addie, Feline Institute, Pyrenees, France.)

Các loài thú khác họ mèo (Nondomestic Felidae)

FCoV có thể là mầm bệnh quan trọng đối với thú họ mèo nội địa và ngoại lai. Bệnh nhiễm
coronavirus gây ra giảm thể trọng kéo dài, tiêu chảy và kém ăn. Trong một khảo sát đối với thú
săn bắt được, có trên 50% kết quả xét nghiệm dương tính bằng PCR đối với mẫu phân, và bằng
huyết thanh học với mẫu máu, cho thấy có dương tính với các coronavirus type I và type II.150
Tỷ lệ tử vong do FIP đã quan sát thấy ở thú họ mèo ngoại lai, trong đó báo gấm (cheetahs: A.
jubatus) có nguy cơ cao nhất về nhiễm bệnh.* Viêm kết tràng hoại tử (necrotizing colitis) do
FCoV là vấn đề chính đối với sức khỏe của báo gấm.150

* Các tài liệu tham khảo 115, 149, 150, 151, 155, 217, 260

CHẨN ĐOÁN
Viêm ruột do coronavirus (Coronavirus Enteritis)

Không có xét nghiệm chuyên dùng cho viêm ruột do coronavirus, và FCoV chỉ có thể ước
đoán gây tiêu chảy trong mèo có huyết thanh dương tính với FCoV hay mèo có kết quả RT-PCR
dương tính trong xét nghiệm phân, mà các nguyên nhân gây nhiễm, viêm hay dinh dưỡng khác
đã được loại trừ. Tuy nhiên, một kết quả âm tính với RT-PCR xét nghiệm phân sẽ cho khuynh
hướng loại trừ viêm ruột do coronavirus. Xét nghiệm mẫu sinh thiết bằng các phương pháp
nhuộm màu thông thường chỉ có giá trị giới hạn, do các đặc trưng về mô bệnh học của loét ở
chót nhung mao, xẹp nhung mao và tan chảy nhung mao, đều là không đặc trưng. Bệnh nhiễm
FCoV chỉ có thể xác nhận được nếu nhuộm màu hóa miễn dịch mô bào hay nhuộm màu miễn
dịch huỳnh quang cho mẫu sinh thiết.

Viêm phúc mạc truyền nhiễm ở mèo (Feline Infectious Peritonitis)

Một chẩn đoán xác nhận về FIP thường chỉ được lập ra sau khi mèo chết, với các phát hiện về
mô bệnh học gồm viêm mạch máu (phlebitis) hay viêm mủ hạt quanh mạch máu (perivascular
pyogranuloma).166,227,229,287a Chẩn đoán FIP ở ngoại môi trường là rất khó, kể cả với các kỹ thuật
viên có kinh nghiệm. Kể cả với sinh thiết chọc dò (tru-cut biopsy) và vi sinh thiết (fine- needle
aspirate – FNA) thì các kết quả đối với mẫu gan và thận chỉ có độ nhạy từ 11% đến 38% trong
chẩn đoán FIP.94

Ở hầu hết các giai đoạn của quá trình chẩn đoán, có thể kết luận về các tình trạng không phải
FIP dễ dàng hơn, so với kết luận về có FIP. Phần trình bày tiếp theo sẽ kết hợp với phương pháp
được nêu trong Hình Trang mạng 8-2. Bước đầu của một chẩn đoán về FIP là thu thập bệnh sử
của mèo; xem xét các dấu hiệu lâm sàng dẫn đến nghi ngờ về FIP (xem Hình Trang mạng 10-2,
khung 2a và 2b). Bước tiếp theo là phân tích huyễn dịch mẫu hay máu; tuy nhiên, nếu có được
dịch tràn ở xoang bụng hay xoang ngực, phân tích này sẽ giúp ích hơn và sẽ được trình bày trước
tiên (xem Hình Trang mạng 10-2, khung 3a).109 Các bất thường trong siêu âm xoang bụng có
theể bao gồm: tràn dịch xoang bụng và bệnh tích lâm ba trong xoang bụng (abdominal
lymphadenomegaly), thấy ở nhiều mèo, và ở một số mèo có cản âm dội của siêu âm
(hypoechogenicity) trong nhu mô của gan hay lách.185a

Xét nghiệm dịch tràn (Effusion Analysis)

Khoảng 50% mèo có FIP dạng tràn dịch.200 Dịch của FIP có thể trong, màu vàng rơm và nhớt,
do chứa nhiều protein, có thể nổi bọt khi lắc lên (Hình Trang mạng 10-4). Dịch tràn có thể đông
đặc khi làm lạnh. Nếu dịch tràn có màu máu, có lẫn mủ, có màu trắng đục hay có mùi hôi, thì
không có khả năng về FIP,275 tuy nhiên, trong các trường hợp hiếm, dịch tràn có thể có màu
hồng và trắng đục.283 Dịch tràn trong FIP được phân loại thành xuất dịch chuyển đổi (modified
transudate) trong đó hàm lượng protein thường rất cao (trên 3,5 g/dL), phản ánh thành phần của
huyết thanh, trong khi số lượng tế bào là tương đương với xuất dịch bình thường (dưới 5000 tế
bào có nhân/mL). Hàm lượng protein của dịch tràn gia tăng theo hàm lượng của các gamma
globulins; tuy nhiên tỷ lệ thấp của albumin/globulin (A/G) trong dịch tràn là gợi ý nhiều về FIP.
Một tỷ lệ A/G trên 0,8 thường chắc chắn loại trừ FIP,288 và các giá trị từ 0,45 đến 0,8 thì thường
có khả năng dương tính với FIP.295 Tỷ lệ A/G dưới 0,45296 trong dịch tràn, với tổng hàm lượng
protein trong dịch tràn cao hơn 3,5 g/dL, và có số lượng tế bào thấp, chủ yếu gồm các bạch cầu
trung tính và các đại thực bào, là gợi ý cao về FIP dạng tràn dịch.275 Các bệnh khác mà có các
phân tích dịch chất tương tự, là viêm túi mật dạng thấm nhập tế bào lâm ba (lymphocytic
cholangitis) và đôi khi bị các khối u, thường là u gan. Kiểm tra tế bào học của dịch tràn, cũng
như các kết quả của chụp X quang và siêu âm, có thể giúp phân biệt FIP với tân bào, bệnh tích ở
tim (cardiomyopathy), và bệnh ở gan với xung huyết tĩnh mạch cửa gan.121,288

Các xét nghiệm chẩn đoán thêm có thể được thực hiện với dịch tràn để giúp xác nhận chẩn
đoán về FIP. Xét nghiệm Rivalta là đơn giản, nhanh chóng và không tốn kém đối với FIP. Một
giọt acetic acid 8% được pha vào 5 mL nước cất và hòa đều, đặt cẩn thận một giọt dịch tràn lên
trên bề mặt dung dịch. Nếu giọt dịch tràn biến mất và dung dịch vẫn còn trong, thì kết quả xét
nghiệm là âm tính. Nếu giọt dịch tràn vẫn còn nguyên trên bề mặt dung dịch, hay trôi dần xuống
đáy ống nghiệm, thì kết quả xét nghiệm là dương tính (Hình 10-8). Với kết quả xét nghiệm
Rivalta, giá trị dương tính ước đoán là 0,86, và giá trị âm tính ước đoán là 0,97.284

Nhuộm màu miễn dịch huỳnh quang có kết quả dương tính cho thấy các đại thực bào bị
nhiễm FCoV có trong dịch tràn, là chẩn đoán xác nhận về FIP, nhưng một kết quả âm tính không
cho ra kết luận (Hình10-9).109,233 Vấn đề khó khăn của xét nghiệm này là dịch tràn thường có ít
đại thực bào.

HÌNH. 10-9 Nhuộm màu miễn dịch huỳnh quang trực tiếp (direct immunofluorescent staining) cho dịch tràn
xoang bụng, cho thấy coronavirus trong tế bào, của mèo bị FIP. (Hình chụp của Wayne Roberts © 2004 University
of Georgia Research Foundation Inc.)

Các phát hiện về huyết học và sinh hóa

Thay đổi điển hình về huyết học trong cả FIP tràn dịch lẫn không tràn dịch, là tình trạng giảm
tế bào lâm ba huyết (lymphopenia).230 Trpng FIP không tràn dịch, tình trạng thiếu máu không tái
sinh (nonregenerative anemia: chỉ số huyết sắc tố hematocrit [HCT] thấp hơn 30%) có liên quan
đến viêm mãn tính (xem Hình Trang mạng 10-2). Mèo bị táo bón do viêm kết tràng dạng u hạt
(granulomatous colitis) có gia tăng các thể Heinz trong hồng cầu của chúng. FIP là nguyên nhân
chính gây giảm tiểu cầu huyết (thrombocytopenia) ở mèo.175 Xét nghiệm γ- globulin trong huyết
thanh là phương pháp hữu hiệu hơn trong ước đoán FIP, so với tính toán tổng hàm lượng protein
hay tỷ lệ A/G (xem Hình Trang mạng 10-5).109,284,301 Tính đặc hiệu của xét nghiệm chẩn đoán
này gia tăng cùng với áp dụng một giá trị ngưỡng để so sánh sự gia tăng của các hàm lượng γ-
globulin; tuy nhiên độ nhạy tương quan bị giảm đi.109,284 Tỷ lệ A/G trong huyết thanh giảm ở FIP
do hàm lượng albumin vẫn giữ nguyên trong các giới hạn bình thường hay chỉ giảm nhẹ và hàm
lượng globulin gia tăng. Tổng hàm lượng protein trong huyết thanh thường cao. Sẽ có nghi ngờ
về FIP khi điện di protein huyết thanh cho thấy có gia tăng γ-globulin. Các khả năng khác gây
gia tăng bao gồm ung thư tế bào lâm ba B (B-cell lymphosarcoma), ung thư tủy xương (multiple
myeloma) hay các tình trạng rối loạn tế bào huyết tương (plasma cell dyscrasia), hay bệnh truyền
nhiễm mãn tính như FIV.173,193 Các biến đổi sinh hóa khác phản ánh tổn thương ở các cơ quan
chứa các bệnh tích của FIP và không đặc hiệu cho chẩn đoán về FIP. Tuy nhiên, các bệnh tích
này có thể giúp các thú y viên xác định có hay không điều trị là có hiệu quả. Tình trạng tăng sắc
tố mật trong máu (hyperbilirubinemia) có thể quan sát thấy và thường phản ánh hoại tử ở gan.
Dù vậy, các hoạt tính của alkaline phosphatase và alanine aminotransferase thường không gia
tăng rõ rệt như ở các rối loạn sắc tố mật, thí dụ trong viêm gan – viêm túi mật (cholangio-
hepatitis) và trong gan nhiễm mỡ (hepatic lipidosis).

Xét nghiệm dịch não tủy (Cerebrospinal Fluid)

Xét nghiệm dịch não tủy (CSF) thường hữu ích nhất cho xác định FIP dạng thần kinh, nhưng
có thể khó hay không thể thu thập được mẫu do độ nhớt cao của dịch là hậu quả của tích tụ
protein và các tế bào viêm.173 Nguy cơ về thoát vị não (brain herniation) gia tăng trong các
trường hợp này, do vậy cần cẩn thận khi thực hiện chọc dò dịch não tủy.215,257 Phân tích CSF từ
mèo có các dấu hiệu thần kinh có thể phát hiện sự gia tăng đáng kể các hàm lượng của
protein.81,173,215,257,300 Tuy nhiên, trong một nghiên cứu, tổng hàm lượng protein của CSF chỉ gia
tăng 25% ở mèo có FIP dạng thần kinh.173 Tổng hàm lượng protein trong CSF của mèo khỏe
mạnh là dưới 0,27 g/L; tuy nhiên, chọc dò tủy sống ở vùng thắt lưng (lumbar puncture) sẽ thấy
có các tổng hàm lượng protein cao hơn so với chọc dò ở sọ não (cisternal puncture).67 Sự gia
tăng tổng số tế bào (pleocytosis: 5 bạch cầu – leukocytes/μL hay 100 đến 10.000 tế bào có nhân
/μL, gồm các bạch cầu trung tính, các tế bào lâm ba và các đại thực bào) thấy có ở 67% mèo bị
FIP dạng thần kinh.*

* Các tài liệu tham khảo 81, 173, 215, 257, 293, 300.

Xét nghiệm kháng thể kháng coronavirus ở mèo

Người ta đã thấy là có nhiều mèo bị chết hơn do các kết quả xét nghiệm kháng thể kháng
FCoV, so với do FIP. Xét nghiệm huyết thanh học có thể giúp ích nếu phòng xét nghiệm có độ
tin cậy và các kết quả xét nghiệm được kết hợp một cách linh động với các phát hiện lâm sàng.
Trong thời điểm hiện tại, các thú y viên có sai lầm trong việc đánh giá một hiệu giá kháng thể
với một chẩn đoán về FIP, mà một phần là do lỗi của các phòng xét nghiệm thương mại, hay do
các nhà sản xuất bộ kit xét nghiệm thường đặt tên cho bộ kit của họ là “xét nghiệm FIP”, mà
thực ra xét nghiệm này thường chỉ phát hiện được sự hiện diện của FCoV hay các kháng thể
kháng FCoV. Các kết quả xét nghiệm âm tính sai có thể thấy nếu có nhiều hạt virus trong mẫu bị
kháng thể kết bám và không cho ra kháng nguyên cho xét nghiệm, hay khi xét nghiệm được thực
hiện quá sớm sau khi phơi nhiễm với virus. Các kháng thể kháng FCoV xuất hiện lúc 18 đến 21
ngày sau khi bị nhiễm.204 Kháng thể xuất hiện mà không có bệnh nhiễm, có thể thấy được từ
sớm sau khi sinh: kháng thể mẹ truyền sẽ không còn lúc 5 đến 6 tuần tuổi.

Khoảng 1/3 mèo có huyết thanh dương tính là đang bị nhiễm và đang thải tiết coronavirus.10
Các hiệu giá kháng thể kháng FCoV liên quan tương đối chặt chẽ với tình trạng thải tiết
virus.10,246 Tuy nhiên, ở đây có nhiều mào có các hiệu giá kháng thể cao mà không thải tiết virus,
và có nhiều mèo có các hiệu giá kháng thể thấp mà có thải tiết virus.

Việc phân tích các hiệu giá kháng thể đặc biệt hữu ích khi FCoV trong một quần thể mèo
được kiểm soát bằng cách ly, hay khi FCoV đã bị thanh toán. Khi có một xét nghiệm đủ nhạy,
một kết quả huyết thanh âm tính trong mèo khỏe mạnh cho ý nghĩa là mèo này không bị nhiễm.
Phương pháp kết luận và các kết quả về hiệu giá kháng thể thường khác nhau giữa các phòng xét
nghiệm, nhưng từng phòng xét nghiệm phải báo cáo hai mức độ hiệu giá kháng thể. Thứ nhất là
mức độ hiệu giá thấp về hoạt tính (hay giá trị hiệu giá dương tính thấp – low positive titer value)
và thứ nhì là giá trị hiệu giá kháng thể cao (high antibody titer value). Các hiệu giá cao có liên
quan đến cơ hội cao hơn phát hiện thải tiết FCoV hay có FIP, như đã chứng minh bằng các kết
quả sinh thiết hay khám tử.10,246 Các hiệu giá kháng thể rõ rệt được nêu trong chương này là các
hiệu giá được thiết lập bởi các phòng xét nghiệm của các tác giả và chỉ được áp dụng là các tham
khảo. Khi tìm kiếm một phòng xét nghiệm tin cậy, mẫu phải được chia ra, bảo quản ở -20°C, và
gởi đi, mà không tiết lộ mục đích, đến phòng xét nghiệm cần kiểm tra, và đến phòng xét nghiệm
tham chiếu về FCoV, để so sánh. Xem Phụ lục Trang mạng 5 về danh sách một số phòng xét
nghiệm đã thiết lập xét nghiệm kháng thể huỳnh quang. Một nhầm lẫn khác là về các hiệu giá
kháng thể. Sự gia tăng các hiệu giá kháng thể không cho thấy là mèo đang phát triển FIP, phần
lớn mèo có gia tăng các hiệu giá kháng thể kháng FCoV sau đó đã quét sạch virus và trở lại
huyết thanh âm tính.

Các xét nghiệm kháng thể kháng FCoV dựa vào protein 7b đã có trong thương mại, dựa vào
dữ liệu cho thấy là dòng virus kém độc lực, là FECV 70-1683 của phòng thí nghiệm, bị thiếu
gen 7b gene, trong khi dòng độc lực cao hơn của phòng thí nghiệm, là dòng FIPV 79-1146 vẫn
còn nguyên vẹn gen 7b.332 Phát hiện này cho thấy dòng virus là thuộc phòng xét nghiệm, do các
FCoVs trong tế bào nuôi thường phát triển các biến dị xóa ở gen 7b.119 Gen này không là cốt
yếu cho nhân sao của virus và được cho là dư thừa khi không có ký chủ. Cả mèo bị FIP lẫn mèo
khỏe mạnh đều có các kháng thể kháng với protein 7b.152 Một nghiên cứu cho thấy các khác
biệt rõ rệt trong các gen tạo protein 7b của màng và protein 7b không tham gia cấu trúc, giữa
các dòng FCoV ở mèo, có hay không bị FIP.38 Các khảo sát khác đã phát hiện thấy các biến dị
xóa thực chất trong gen 3c ở các chủng sinh học (biotypes) của FIPV.45,254 Protein được mã hóa
bởi gen 3c không biết rõ về chức năng, nhưng thể hiện là cốt yếu cho nhân sao của virus trong
ruột.45 Có hay không các phát hiện về gen di truyền này có thể khám phá được để phát triển
được xét nghiệm chẩn đoán tin cậy đối với FIP là vấn đề còn đang được xem xét.

Có 10 chỉ số chính cho xét nghiệm kháng thể kháng FCoV được nêu trong Khung 10-1 và
Bảng 10-1. Phần trình bày tiếp theo nêu các dạng và các ứng dụng khác nhau của các xét
nghiệm kháng thể.

Xét nghiệm miễn dịch huỳnh quang gián tiếp (Indirect Immunofluorescence). Xét
nghiệm FA gián tiếp là tiêu chuẩn vàng cho phát hiện các kháng thể kháng FCoV; xét nghiệm
là hữu ích do các hiệu giá kháng thể FA gián tiếp sinh ra có liên quan đến thải tiết virus.10,246 Ở
đây thấy rõ là những mèo có huyết thanh âm tính, như được xác định bởi một xét nghiệm chẩn
đoán tin cậy, sẽ không thải tiết FCoV,7,10,84 trong khi khoảng 1/3 mèo có huyết thanh dương
tính với FCoV thì có thải tiết virus.86 Những mèo có các hiệu giá kháng thể cao hơn thường có
khả năng hơn về thải tiết virus, 10,84,110,246 mặc dù những mèo có các hiệu giá kháng thể FA gián
tiếp là tương đối thấp, từ 40 đến 80 thì có 26% đến 39% khả năng có thải tiết FCoV.7,8,106

FCoV thuộc các types I và II, và virus gây viêm dạ dày ruột truyền nhiễm ở heo
(transmissible gastroenteritis virus) có thể sử dụng được trong xét nghiệm này.178 Cần cẩn thận
phân biệt huỳnh quang liên quan đến các kháng thể kháng FCoV với huỳnh quang do các
nguyên nhân không đặc hiệu, như do các kháng thể kháng nhân virus (antinuclear antibodies).
Các kháng thể này có thể có mặt do các yếu tố khác như bệnh nhiễm cùng lúc (như nhiễm FIV,
ngộ độc nấm), bệnh tự miễn dịch (autoimmune disease), mới chủng ngừa vaccin, hay một số
điều trị bằng các chất cường giáp (hyperthyroidism: như thiamazole, felimazole, methimazole).
Do đó, cần bao gồm đối chứng âm tính của các tế bào không gây nhiễm cho từng xét nghiệm
huyết thanh hay huyết tương.

Xét nghiệm hấp phụ miễn dịch kết hợp enzyme (Enzyme-Linked Immunosorbent
Assay). Xét nghiệm ELISA trên phiến lỗ (plate) hay các ELISA linh động (kinetics-based
ELISAs) được áp dụng trong các phòng xét nghiệm thương mại và nghiên cứu. Ở đây không có
các đánh giá tham chiếu của thú y về độ nhạy và tính đặc hiệu của các xét nghiệm này, ngoài
ELISA linh động (kinetics-based ELISA).25 Xem thêm Phụ lục Trang mạng 5 để biết về xét
nghiệm này trong thương mại.

KHUNG 10-1
Các chỉ số cho thực hiện xét nghiệm kháng thể kháng coronavirus ở mèoa
1. Chẩn đoán về FIP hay viêm ruột do coronavirus
2. Theo dõi điều trị cho mèo bị FIP
3. Tiếp xúc với trường hợp bị FIP hay với mèo có nghi ngờ hoặc biết có thải tiết coronavirus
4. Theo dõi mèo trước khi phối giống
5. Theo dõi đàn mèo về hiện diện của FCoV
6. Kiểm tra mèo nhập vào chuồng trại sạch FCoV
7. Kiểm tra mèo trước khi giải phẫu hay gây các căng thẳng khác
8. Kiểm tra mèo trước khi cấp các thuốc gây ức chế miễn dịch
FCoV: coronavirus nhiễm ở mèo (feline coronavirus); FIP: bệnh viêm phúc mạc truyền nhiễm ở mèo (feline
infectious peritonitis).
a
Diễn giải về huyết thanh học đối với FCoV trong các hoàn cảnh được nêu ở Bảng 10-1

BẢNG 10-1
Diễn giải các kết quả huyết thanh học của nhiễm coronavirus ở mèo
Các kết quả xét nghiệm kháng thể kháng FCoV
Lý do xét nghiệm Dương tính Âm tính
Chẩn đoán về FIP Các dấu hiệu lâm sàng có thể liên quan đến Với điều kiện là xét nghiệm đủ nhạy, sẽ
hay viêm ruột do nhiễm FCoV, nhưng do nhiều mèo có bệnh không có khả nhiễm FCov hay FIP, tuy
coronavirus khác ngoài FIP hay viêm ruột do nhiên đôi khi các tình trạng FIP tràn dịch
coronavirus cũng sẽ có huyết thanh dương có nhiều virus trong dịch tràn đã kết nối
tính, nên các thông số khác phải được xác với kháng thể, làm cho không phát hiện
định và thực hiện cẩn thận các chẩn đoán được virus ở một số xét nghiệm.
phân biệt.
Theo dõi việc điều Tái xét nghiệm trong 2 – 3 tháng sau. Với điều kiện các dấu hiệu lâm sàng và
trị mèo bị FIP các thông số khác đã trở lại bình thường,
thì sẽ an toàn khi ngưng điều trị. Các liều
cao của các thuốc glucocorticoids có thể
gây giảm hiệu giá kháng thể kháng
FCoV.
Có tiếp xúc với Mèo trong trường hợp này phải được cho là An toàn để nuôi chung với mèo khác
trường hợp bị FIP có huyết thanh dương tính. Theo dõi các
hay với mèo có hiệu giá kháng thể cách nhau 2 – 3 tháng
nghi ngờ hoặc đã cho đến khi mèo có huyết thanh âm tính.
biết có thải tiết
coronavirus
Kiểm tra mèo Hoặc là trì hoãn phối giống cho đến khi có An toàn để tiến hành phối giống
trước khi phối huyết thanh âm tính (xét nghiệm lại cách 2
giống – 3 tháng), hay áp dụng phối giống có kiểm
soát và thường xuyên xét nghiệm phân mèo
mẹ bằng RT-PCR từ 4 đến 6 lần; nếu mèo
mẹ có thải tiết virus, cai sữa sớm và cách ly
với mèo con.
Theo dõi trại nuôi Thường xuyên xét nghiệm huyết thanh Nếu tất cả mèo đều có huyết thanh âm
về hiện diện của cách nhau 2 tháng, cách ly mèo dương tính tính, thì không có FCoV trong trại nuôi.
FCoV với âm tính.120 Cũng áp dụng RT-PCR xét
nghiệm phân, nếu có thể.
Kiểm tra mèo khi Trì hoãn nhập mới và xét nghiệm lại cách 2 An toàn để nhập vào trại nuôi sạch FCoV
nhập vào trại nuôi – 3 tháng sau.
sạch FCoV
Kiểm tra mèo Nếu có thể, trì hoãn gây căng thẳng cho đến An toàn để tiến hành
trước khi giải phẫu khi có huyết thanh âm tính. Tái xét nghiệm
hay gây căng thẳng lúc 2 – 3 tháng sau.
khác
Kiểm tra mèo Kiểm tra phân bằng RT-PCR để xác định An toàn để tiến hành
trước khi cấp các có hay không mèo hiện tại đang bị nhiễm.
thuốc gây ức chế Thuốc gây ức chế miễn dịch có thể thúc
miễn dịch đẩy FIP, xem xét sử dụng thuốc khác.
FCoV, Feline coronavirus – coronavirus nhiễm ở mèo; FIP, feline infectious peritonitis – viêm phúc mạc truyền
nhiễm ở mèo; RT-PCR, reverse transcriptase-polymerase chain reaction – phản ứng chuỗi phân tử giải mã đảo
ngược.

Xét nghiệm kháng thể tại chỗ (Point-of Care Antibody Tests). Ở đây có ít nhất hai bộ kit
xét nghiệm kháng thể kháng FCoV: một bộ ELISA, bộ lược miễn dịch (immunocomb) phát hiện
FCoV hay FIP (Biogal Galed Laboratories Kibbutz Galed, M.P. Megiddo, Israel), và một bộ
thấm hút nhanh miễn dịch (rapid immunomigration: của Speed F-Corona, Bioveto, France; xem
Hình Trang mạng 10-6). Bộ lược miễn dịch của FCoV so sánh phù hợp với tiêu chuẩn vàng của
xét nghiệm kháng thể huỳnh quang gián tiếp (gold standard indirect FA test).12

Diễn giải các kết quả xét nghiệm hiệu giá kháng thể. Dù có nhiều phê phán, các xét
nghiệm huyết thanh học rất hữu ích cho nhận diện mèo có nghi ngờ FIP, nhưng các thú y viên
phải lưu ý về các hạn chế của các xét nghiệm này. Trước hết, nhiều mèo khỏe mạnh (nhất là khi
chúng được tại giống thuần) và những mèo bị các tình trạng khác ngoài FIP cũng có thể có các
kết quả huyết thanh học dương tính. Thứ nhì, một số mèo bị FIP tràn dịch có các hiệu giá kháng
thể thấp hay có huyết thanh âm tính, do lượng lớn virus đã kết nối với kháng thể, làm cho kháng
thể không còn kết nối được với kháng nguyên trong xét nghiệm huyết thanh học. Mặc dù đã có
báo cáo về các ngoại lệ,173,298 nhưng mèo bị FIP không tràn dịch thường có hiệu giá kháng thể
cao kháng FCoV và hiếm khi có các kết quả huyết thanh học âm tính; do đó, huyết thanh học đối
với coronavirus có thể chỉ áp dụng cho kết luận một chẩn đoán trong trường hợp nghi ngờ về FIP
không tràn dịch. Hiệu giá cao của kháng thể kháng FCoV trong mèo bệnh ở trại nuôi có nguy cơ
thấp, trong gia đình nuôi một đến hai mèo, cũng là bất thường; ở đây có một chỉ số cao hơn về
chẩn đoán FIP so với cùng hiệu giá kháng thể trong mèo nuôi tại trại đông đúc, mà có dịch do
FCoV.

Xét nghiệm huyết thanh học không thể áp dụng được để chẩn đoán FIP, và phải xem xét các
thông số đã liệt kê trong Hình Trang mạng 10-2. Một số nhầm lẫn phổ biến trong diễn giải các
hiệu giá kháng thể phải được xem xét. Đầu tiên, những mèo có lâm sàng bình thường mà có
kháng thể kháng FCoV thì không bị FIP dạng tràn dịch. Thứ nhì, những mèo có FIP dạng thần
kinh có các hiệu giá kháng thể cao hơn, nhưng có số lượng FCoV thấp hơn so với những mèo bị
FIP thông thường.86 Cuối cùng, những mèo có huyết thanh âm tính mà bị tiêu chảy thì không kết
luận được là do FCoV; tuy nhiên, FCoV có thể có hay không gây tiêu chảy ở mèo có các kết quả
huyết thanh dương tính.

Dịch tràn (Effusion). Các xét nghiệm huyết thanh học được thực hiện với mẫu dịch tràn của
báng bụng hay tích nước xoang ngực thường cho ra kết quả giống như thực hiện với các mẫu
máu, cho thấy dịch tràn có các hàm lượng protein cao tương đương với ở máu. Các hiệu giá
kháng thể cao kháng FCoV trong dịch tràn có mức độ đặc hiệu 85% và có độ nhạy 86% đối với
ước đoán về FIP.109 Giống như ở máu, dịch tràn ở FIP có thể có các hiệu giá thấp hay có âm tính
về huyết thanh học, do có lượng lớn virus trong dịch tràn có thể đã kết nối với kháng thể, làm
cho kháng thể không thể kết nối được với kháng nguyên trong xét nghiệm huyết thanh học. Một
phương cách để giải quyết vấn đề này là xét nghiệm đối với các phức hợp miễn dịch.109 Cách
khác, các mẫu dịch tràn có thể được kiểm tra thêm về hiện diện của virus, bằng RT-PCR định
lượng (quantitative RT-PCR). Thông thường, mèo có số lượng rất lớn virus trong dịch tràn.

Dịch não tủy (Cerebrospinal Fluid). Trong các nghiên cứu sơ bộ, việc đo lường các kháng
thể kháng FCoV trong CSF đã được báo cáo là để hỗ trợ cho các chẩn đoán về FIP dạng thần
kinh.81 Các tỷ lệ của protein trong huyết thanh so với protein trong dịch não tủy, và tỷ lệ kháng
thể kháng FCoV trong huyết thanh so với kháng thể kháng FCoV trong dịch não tủy luôn bằng
hay cao hơn 1. Không có mèo đối chứng nào với FIP không phải dạng thần kinh, mà có các
kháng thể kháng FCoV trong dịch não tủy. Không may là, các mèo đối chứng này đã được gây
nhiễm thực nghiệm và có các hiệu giá kháng thể trong huyết thanh tương đối thấp kháng FCoV.
Tình trạng rò rỉ không đặc hiệu của các protein trong huyết thanh vào dịch não tủy là không có
phương cách nào ngăn chặn được: phải lưu ý nếu có gia tăng protein trong dịch não tủy cho thấy
có rò rỉ không đặc hiệu. Việc điều chỉnh rò rỉ có thể thực hiện được bằng so sánh tỷ lệ của các
hiệu giá trong dịch não tủy/huyết thanh với các tỷ lệ từ các tác nhân gây bệnh khác (lập chỉ số
kháng thể – antibody indexing). Trong một nghiên cứu lớn về dữ liệu bệnh nhiễm, với dữ liệu từ
mèo đối chứng bị phơi nhiễm tự nhiên, việc phát thiện IgG kháng coronavirus trong dịch não tủy
có độ nhạy 60% và có tính đặc hiệu đến 90%, nhưng ít có ứng dụng trong lâm sàng.34 Do mọi
tình trạng xuất huyết trong sọ não đều dẫn đến có các kháng thể trong dịch não tủy, các kháng
thể kháng FCoV có thể xuất hiện ở các tình trạng khác ngoài FIP.

Theo dõi huyết thanh học trong điều trị. Ở đây có rất ít thông tin được công bố về những
mèo đã được tái đánh giá bằng theo dõi huyết thanh học trong điều trị FIP. Xét nghiệm kháng
thể kháng FCoV giúp ích trong các chẩn đoán ban đầu, nhưng ít có tác dụng trong theo dõi các
hiệu giá kháng thể thường xuyên hơn cách nhau 1 đến 2 tháng, khi diễn ra điểu trị, do các hiệu
giá kháng thể biến thiên chậm. Các điều trị bằng glucocorticoid hay các thuốc độc tính tế bào
cao hơn có thể làm giảm hiệu giá kháng thể. Tuy nhiên, việc xét nghiệm kháng thể kháng FCoV
là hữu ích, cùng với các xét nghiệm khác như α-1 AGP, globulin, HCT, đếm số tế bào lâm ba
(lymphocyte count), và xét nghiệm RT-PCR đối với FCoV, để biết được khi nào ngưng điều trị.
Nếu một mèo đã hồi phục hoàn toàn, thì nó sẽ có các kết quả huyết thanh âm tính; tuy nhiên, nếu
mèo chỉ thuyên giảm bệnh, thì hiệu giá kháng thể có khả năng vẫn còn cao.

Theo dõi mèo sau khi tiếp xúc với virus. Những mèo đã tiếp xúc với mèo khác có thải tiết
FCoVs thì rất có khả năng có các kết quả huyết thanh dương tính, do FCoV có khả năng truyền
lây cao. Tuy nhiên, việc xét nghiệm có thể áp dụng để so sánh hiệu giá kháng thể ban đầu với
hiệu giá kháng thể lúc 2 đến 3 tháng sau, để xác định có hay không hiệu giá kháng thể đã cạn
kiệt. Nếu kết quả hiệu giá kháng thể tiếp theo của mèo là âm tính (áp dụng xét nghiệm tin cậy,
nhạy), thì mèo sẽ không phát triển FIP, tức là không thải tiết FCoV, và mèo này an toàn để nhập
đàn với những mèo khác. Việc biết được một mèo có các kết quả dương tính đối với kháng thể
kháng FCoV có thể giúp các chủ nuôi tránh hay giảm gây căng thẳng cho mèo, nhằm ngăn ngừa
FIP.

Kiểm tra mèo trước khi phối giống. Nếu mèo đực và mèo cái có các kết quả âm tính về
kháng thể kháng FCoV, thì an toàn trong việc tiếp tục phối giống (xem phần trình bày về phối
giống có kiểm soát, trong phần Các biện pháp chăn nuôi). Nếu cả mèo đực lẫn mèo cái có các
kết quả huyết thanh dương tính, thì việc truyền lây virus trong giao phối không là vấn đề (mặc
dù mèo này có thể truyền virus sang mèo kia, sự căng thẳng do kết cặp cũng có thể dẫn đến FIP).
Nếu chỉ một mèo có các kết qua dương tính và mèo kia có kết quả âm tính, thì có khả năng mầm
bệnh truyền lây đến mèo chưa bị nhiễm, nếu mèo có kết quả hiệu giá dươgn tính có thải tiết
virus. Khi mà mèo cáo có các kết quả dương tính, nguy cơ gây nhiễm cho mèo con là cao hơn,
nếu mèo cái thải tiết virus. Do đó, phải xét nghiệm phân mèo cái bằng RT-PCR trong bốn đến
sáu lần. Nếu mèo cái có thải tiết virus, mèo con của nó phải được cai sữa và được cách ly không
chậm hơn quá 5 tuần tuổi (Bảng 10-2).

BẢNG 10-2
Phương thức phòng ngừa bệnh nhiễm coronavirus ở mèo con
Bước Mô tả
Chuẩn bị buồng nuôi mèo 1. Để trống buồng nuôi ít nhất 1 tuần trước khi đưa mèo mới vào đẻ.
con. 2. Sát trùng buồng nuôi bằng dung dịch sodium hypochloride (chất tẩy) 1:32
3. Dùng riêng các khay ăn và uống cho từng buồng nuôi, và sát trùng các vật
dụng bằng dung dịch sodium hypochlorite.
4. Đưa mèo mẹ vào nuôi trước khi đẻ 1 – 2 tuần.
Thực hiện an toàn dịch trong 1. Làm việc với buồng nuôi mèo con trước khi làm việc với các khu vực nuôi
chăm sóc. mèo khác.
2. Sát trùng tay trước khi bắt đầu làm việc tại buồng nuôi mèo con.
3. Dùng giày ủng và quần áo riêng cho buồng nuôi mèo con.
Cai sữa và cách ly sớm cho 1. Xét nghiệm mèo mẹ về kháng thể kháng FCoV cả trước và sau khi đẻ con.
mèo con. 2. Nếu mèo mẹ có dương tính, thì phải đưa ra khỏi buồng nuôi mèo con, khi mèo
con đã được 5 – 6 tuần tuổi.
3. Nếu mèo mẹ có huyết thanh âm tính, thì để lại nuôi con đến khi mèo con cai
sữa.
Xét nghiệm mèo con. 1. Xét nghiệm mèo con về kháng thể kháng FCoV sau 10 tuần tuổi.
FCoV, Feline coronavirus.

Khi chỉ có một đôi mèo có kết quả dương tính, phân của chúng có thể được xét nghiệm bằng
RT-PCR để xác định có hay không bệnh đang diễn ra hay các kháng thể là tồn dư của bệnh
nhiễm trước đó. Nếu chỉ một mèo bị nhiễm, có thể trì hoãn phối giống đến khi mèo này đã
ngưng thải tiết virus, thường trong vài tháng sau.10 Nếu muốn tiếp tục phối giống, thì có thể thực
hiện phối giống có kiểm soát, bằng cách chỉ cho mèo thực hiện phối giống rồi tách riêng. Mèo
này không được nuôi chung, và quan trọng nhất là mèo không bị nhiễm sẽ không được cho tiếp
xúc với phân mèo bị nhiễm, bằng cách không cho tiếp xúc với buồng nuôi mèo bệnh. Nếu mèo
có lông dài, có thể cắt xén xung quanh bộ phận sinh dục để tránh tiếp xúc với chất liệu phân vấy
nhiễm. Nếu mèo cái bị nhiễm, thì áp dụng các hướng dẫn cai sữa sớm nêu ở Bảng 10-2.

Theo dõi trại nuôi. Ở đây không cần phải xét nghiệm tất cả mèo nuôi trong trại lớn, do
FCoV có khả năng truyền lây mạnh. Trong một trại có dịch, có đến 90% mèo sẽ cho ra các kết
quả huyết thanh dương tính. Tuy nhiên, khi mèo được nuôi thành từng nhóm cách ly, cần theo
dõi từ hai đến ba mèo trong mỗi nhóm.

Kiểm tra mèo nhập mới vào trại nuôi sạch FCoV. Mèo có huyết thanh âm tính có thể nhập
mới một cách an toàn. Mèo có huyết thanh dương tính không được nhập vào, phải nuôi cách ly
và xét nghiệm lúc 2 đến 3 tháng sau.

Kiểm tra mèo trước khi giải phẫu hay gây căng thẳng khác. Nếu mèo có huyết thanh âm
tính, thì an toàn cho thực hiện các công việc này. Tuy nhiên, nếu mèo có huyết thanh dương tính,
mèo có thể có nguy cơ phát triển FIP. Do chỉ có mèo huyết thanh dương tính là đang bị nhiễm,
phân có thể được xét nghiệm bằng RT-PCR để xác định có hay không đang bị bệnh. Nếu mèo
đang bị nhiễm và có thể trì hoãn gây căng thẳng, thì nên xét nghiệm lại lúc 2 đến 3 tháng sau,
cho đến khi mèo đã khỏi bệnh. Nguy cơ bị FIP cao nhất trong 18 tháng đầu sau khi bị nhiễm,18
do vậy chỉ cần trì hoãn gây căng thẳng thì nguy cơ phát triển FIP có thể giảm xuống. Tuy nhiên,
nếu cần phải thực hiện giải phẫu, cần áp dụng các biện pháp làm giảm căng thẳng đến mức có
thể (thí dụ, lập lịch trình cho mèo được giải phẫu khi không còn đông người, hay sử dụng các
pheromones để giúp mèo bình tĩnh trong quá trình giải phẫu).

Kiểm tra mèo trước khi điều trị bằng thuốc gây ức chế miễn dịch. Người ta cho rằng
miễn dịch qua trung gian tế bào (CMI) ngăn ngừa phát triển FIP ở mèo bị nhiễm FCoV.13 Các
thuốc gây ức chế miễn dịch (immunosuppressive drugs) như cyclophosphamide, vincristine, hay
ciclosporin A sẽ ức chế CMI. Nếu mèo có huyết thanh âm tính, thì an toàn khi dùng thuốc. Tuy
nhiên, nếu mèo có huyết thanh dương tính, mèo có thể có nguy cơ phát triển FIP. Do đó, ức chế
miễn dịch có thể dẫn đến FIP, và nếu có thể thì có thể cân nhắc đến các điều trị khác. Do chỉ 1/3
mèo có các kết quả huyết thanh dương tính là đang bị bệnh, một số mẫu phân có thể thực hiện
cách nhau hàng tuần bằng xét nghiệm RT-PCR để xác định có hay không bệnh đang diễn ra.

Kiểm tra mèo cho máu. Nếu mèo có các kết quả huyết thanh âm tính, thì an toàn khi lấy
máu. Nếu mèo có các kết quả dương tính, thích hợp là chọn mèo khác, ngoại trừ mèo nhận máu
không có khả năng bị nhiễm FCoV về sau.

Xét nghiệm Phản ứng chuỗi phân tử giải mã đảo ngược (Reverse Transcriptase –
Polymerase Chain Reaction Testing)

PCR là kỹ thuật có độ nhạy cao cho khuyếch đại và phát hiện các lượng nhỏ DNA (xem
Chương 1 và Hình 1-3). Do FCoV là virus RNA, trước tiên phải tạo một bản sao DNA bằng sử
dụng enzyme giải mã đảo ngược (enzyme RT). Các kết quả âm tính sai cũng có thể sinh ra trong
phòng xét nghiệm do hiện diện của các enzymes phá hủy RNA (như ribonucleases). Các xét
nghiệm RT-PCR thời gian thực (real-time) hay định lượng (quantitative) đã được thiết lập để cho
ra các kết quả nhanh chóng hơn và giúp định lượng virus. Việc định lượng virus có thể có giá trị
trong phân biệt bệnh nhiễm toàn thân với bệnh nhiễm đường ruột, do số lượng virus sẽ cao hơn
trong mèo bị nhiễm toàn thân. Việc phát hiện virus giúp ích cho lâm sàng để xác nhận hiện diện
của FCoV trong mèo thể hiện FIP nhưng có huyết thanh âm tính, và cho phát hiện thải tiết virus
để đánh giá về dịch tễ. Việc phân biệt FECV đường ruột (enteric FECV) với FIPV toàn thân
(systemic FIPV) bằng các phương pháp phân tích gen đã được làm rõ. Như đã nêu trên, có các
khác biệt giữa các gen 7b và 3c.18,45,244 Các biến dị xóa ở các gen này là khác nhau giữa các dòng
phân lập, cần phát hiện bằng phân tích kết chuỗi gen. Ngoài ra, có các khác biệt ở virus từ những
vùng địa lý khác nhau, làm phức tạp thêm cho việc phát triển xét nghiệm dựa vào gen di truyền.

Máu. Hầu hết mèo bị FIP có các kết quả âm tính của RT-PCR đối với mẫu máu. Việc phát
hiện virus trong máu không là chỉ thị tiên đoán hữu hiệu trong mèo khỏe mạnh, do FCoV đã phát
hiện thấy trong máu của mèo khỏe mạnh có huyết thanh dương tính với FCoV.41,116,291 Hơn nữa,
việc không có FCoV trong máu không có nghĩa là mèo không phát triển đến FIP.

Dịch tràn (Effusions). Phát hiện virus trong dịch tràn là hữu ích khi được áp dụng cùng với
các xét nghiệm chẩn đoán khác. Một kết quả dương tính là gợi ý cao về FIP, nhưng một kết quả
âm tính không giúp loại trừ được FIP vì có nhiều kết quả xét nghiệm trong FIP dạng tràn dịch là
âm tính. Có thể cần phải ly tâm các tế bào trong dịch tràn và sử dụng các tế bào này để cải thiện
độ nhạy của xét nghiệm.

Dịch não tủy (Cerebrospinal Fluid). Xét nghiệm RT-PCR phát hiện FCoV trong dịch não
tủy thường không hữu ích. Trong khi kết quả dương tính mạnh của RT-PCR ở mèo có các dấu
hiệu thần kinh có thể cho thấy có FIP, thì những mèo âm tính thường có FIP dạng thần kinh
FIP.81,86 FCoV đã phát hiện thấy trong dịch não tủy hay não của hai mèo có mang FCoV, đã
bịchết do các tình trạng khác ngoài FIP, và đã phát hiện thấy trong một mèo sống có huyết thanh
âm tính, mà không thể hiện lâm sàng cho thấy có FIP.3 Một kết quả RT-PCR âm tính không cho
ra kết luận về FIP dạng thần kinh.81,87

Các mẫu dịch hay sinh thiết khác. Xét nghiệm RT-PCR với mẫu dịch thể có tính đặc hiệu
tốt để phát hiện FIP trong buồng trước của mắt.35 Xét nghiệm RT-PCR cho mẫu nước bọt là
không hữu hiệu trên thực tế, do các kết quả thường là âm tính, kể cả ở mèo có FIP. Một kết quả
dương tính của RT-PCR với mẫu quét tăm bông ở màng tiếp hợp hay màng nháy mắt lấy ra các
tế bào và dịch nước mắt sẽ là gợi ý cao về FIP, nhưng kết quả âm tính không loại trừ được FIP.
FCoV đã phát hiện được bằng RT-PCR trong màng tiếp hợp của 4/48 trường hợp FIP.187

Phát hiện virus trong mẫu dịch thấm hút (FNA) của các hạch lâm ba màng treo ruột bị sưng
của mèo là một phương pháp rất hữu ích cho chẩn đoán về FIP, do mô bệnh học của một hạch
lâm ba bị sưng thường mơ hồ, chỉ mô tả được viêm mủ hạt (pyogranulomatous inflammation).
Tuy nhiên, nếu xét nghiệm RT-PCR với mẫu FNA hay cả với mẫu sinh thiết chọc dò (tru-cut
biopsy) được thực hiện với gan hay thận, sẽ là cốt yếu cho biết được mẫu sinh thiết lấy từ bệnh
tích trong các cơ quan này. Ở đây thường khó đạt được nếu các kỹ thuật này thực hiện bằng
phương pháp xuyên da (percutaneously), trong khi các bệnh tích này thường nhìn thấy trực tiếp
được bằng siêu âm, so với trực tiếp quan sát bằng mở ổ bụng (laparotomy). Với các phương
pháp xuyên da, có khả năng là kết quả sẽ là âm tính, nhất là ở mèo bị FIP không tràn dịch với ít
bệnh tích. Một vấn đề khác là một số mèo bị nhiễm FCoV với các bệnh khác ngoài FIP sẽ có
FCoV tuần hoàn trong máu, và do vậy máu trong cơ quan được sinh thiết có thể cho ra kết quả
dương tính sai. Tuy nhiên, khi áp dụng PCR định lượng, hàm lượng virus sẽ cao hơn ở mèo bị
FIP, so với mèo bị bệnh khác.159

Phân. Việc phát hiện có hay không FCoV trong phân thì không giúp ích cho chẩn đoán hay
tiên lượng về FIP, nhưng hữu ích trong nghiên cứu và cho trại nuôi có chương trình thanh toàn
bệnh nhiễm FCoV. Những mèo thải tiết FCoV mãn tính không có nguy cơ về phát triển FIP,15
nhưng nguồn cung cấp liên tục virus gây khó khăn cho vệ sinh khử trùng thường xuyên ở trại
nuôi. Tuy nhiên, những mèo thải tiết FCoV suốt đời chỉ có thể nhận diện được bằng các xét
nghiệm phân dương tính liên tục trong 9 tháng bằng RT-PCR.10 RT-PCR không thể đo lường
khả năng sống của virus phát hiện thấy; do đó, khả năng gây nhiễm của virus không thể xác định
được một cách chắc chắn. Tuy nhiên, có mối liên quan giữa các kết quả RT-PCR mạnh và khả
năng gây bệnh.84 Ở đây không cần phải vận chuyển phân đến phòng xét nghiệm trong làm lạnh.
FCoV vẫn phát hiện được bằng RT-PCR định lượng trong mẫu phân sau 1 tháng ở nhiệt độ
phòng và dù cho có phát triển của nấm trên mẫu phân này.13

RT-PCR xét nghiệm RNA thông tin (messenger RNA). Một xét nghiệm PCR đã được phát
triển để phát hiện nhân sao của coronavirus bằng cách nhắm đến RNA thông tin (mRNA).291
Phát hiện mRNA trong các bạch cầu đơn nhân của tuần hoàn máu cho thấy bằng chứng là virus
nhiễm toàn thân ở mèo và đang nhân sao. Xét nghiệm RT-PCR đầu tiên được xây dựng cho phát
hiện mRNA đã cho ra các kết quả dương tính trong 94% của 49 trường hợp đã được xác nhận bị
FIP và không cho kết quả dương tính trong 12 mèo đã được xác nhận theo lịch sử bệnh là không
bị FIP.291 Tuy nhiên, trong nghiên cứu này, 6% của 326 mèo lâm sàng khỏe mạnh có các kết quả
xét nghiệm dương tính. Trong một nghiên cứu thứ nhì, 54% mèo khỏe mạnh có các kết quả xét
nghiệm dương tính.41 Các đoạn mồi cho xét nghiệm này là DNA của người, làm gia tăng khả
năng gây ra các kết quả dương tính sai. Thú y viên lâm sàng sử dụng bao tay khi lấy mẫu máu và
sử dụng DNases trong môi trường thu gom mẫu sẽ giảm được nguy cơ của các kết quả dương
tính sai. Một xét nghiệm RT-PCR phát hiện mRNA của FCoV hiện sẵn có ở Mỹ; tuy nhiên,
phương pháp và các kết quả của xét nghiệm này không được công bố. Ở đây cốt yếu là có được
môi trường vận chuyển đặc trưng để tối ưu độ nhạy của xét nghiệm (xem Phụ lục Trang mạng
5).

Phát hiện kháng nguyên trong mô

Phát hiện virus bằng kháng thể huỳnh quang trực tiếp (direct FA) và hóa miễn dịch mô bào
(immunohistochemistry) có thể áp dụng cho các mẫu dịch tràn, mẫu tế bào hay mẫu sinh thiết
mô, nhưng các phương pháp này phải được thực hiện bởi phòng xét nghiệm chuyên môn.

Nhuộm hóa miễn dịch mô bào, được áp dụng để chứng minh hiện diện của virus trong các
bệnh tích, là tiêu chuẩn vàng bắt buộc trong chẩn đoán FIP và là xét nghiệm xác nhận trong các
trường hợp mà các phát hiện của mô bào học không điển hình với FIP.115,337 Tuy nhiên, ở đây
cốt yếu là phải có các đối chứng thích hợp (tức là, một kháng thể không kháng FCoV sẽ được sử
dụng làm đối chứng, do mô của mèo có tính bám dính và thường kết nối không đặc hiệu với các
kháng thể không liên quan, như dạng kết hợp kháng thể được sử dụng cho phát hiện kháng thể
kháng với coronavirus – xem Hình Trang mạng 10-7). Không có các đối chứng này sẽ dẫn đến
chẩn đoán dương tính sai về FIP, và các phòng xét nghiệm phải được tham vấn áp dụng đối
chứng này. Nhuộm màu hóa miễn dịch mô bào cho các mô để phát hiện các đại thực bào bị
nhiễm là một xét nghiệm sẵn có trong thương mại (xem Phụ lục Trang mạng 6).

Trong một nghiên cứu thực nghiệm gây FIP, RNA của virus đã phát hiện thấy trong 76% mẫu
mô được kiểm tra (gồm hạch lâm ba màng treo ruột, lách, hạch lâm ba màng trung thất), so với
27% mẫu mô ngoại biên (hạch lâm ba bẹn cạn – popliteal, hạch lâm ba vùng cổ – cervical, tủy
xương đùi – femoral bone marrow).55

Kháng nguyên của FCoV đã phát hiện thấy trong các mẫu quét tăm bông lấy từ mí nháy của
mắt (nictitating membranes) ở mèo bị FIP;132 tuy nhiên, các kết quả này không được xác nhận
bởi các phòng xét nghiệm khác.315

Alpha-1 Acid Glycoprotein và các Protein khác của giai đoạn cấp tính (Acute-
Phase Proteins)

Trong FIP, IL-6 kích thích các tế bào gan phóng thích ra các protein giai đoạn cấp tính. Các
protein giai đoạn cấp tính từ lâu đã được kiểm tra trong FIP là AGP, amyloid A trong huyết
thanh, và haptoglobin. Amyloid A trong huyết thanh không được áp dụng làm thủ tục trong chẩn
đoán FIP. Các hàm lượng cao của AGP rất hữu ích cho chẩn đoán FIP70,226 và cho theo dõi điều
trị FIP, do các hàm lượng AGP giảm xuống nhanh chóng trong điều trị. Giới hạn tham chiếu của
hàm lượng AGP là 0,1 đến 0,48 g/L.70 Sự gia tăng các hàm lượng AGP không chỉ xảy ra ở mèo
phát triển FIP, mà còn gia tăng tạm thời trong mèo khỏe mạnh bị nhiễm FCoV, do tiếp xúc với
mèo bệnh,92,228 dẫn đến suy đoán rằng đáp ứng sớm của AGP có thể, trên thực tế, là tạo bảo hộ
đối với phát triển của FIP.1 Các khảo sát về sau đã cho thấy AGP ở mèo bị FIP là kém phản ứng
với sialic acid (sialylated) so với mèo sống sót sau khi nhiễm FCoV.44 Tổng hàm lượng sialic
acid có thể giúp giảm tác động của FCoV trong máu, nhưng việc đo lường tổng hàm lượng sialic
acid là không hữu ích trong chẩn đoán FIP.278

Trong áp dụng các hàm lượng AGP để chẩn đoán FIP, cần luôn lưu ý rằng các quá trình gây
viêm khác, như phẫu thuật mở ổ bụng (laparotomy) hay phẫu thuật thiến khác (neutering
surgery),146 và các bệnh nhiễm khác, như các khối u hay ổ mủ xoang ngực (pyothorax) hay hoại
tử mô mỡ (fat necrosis),224 đều gây gia tăng các hàm lượng AGP.

Tóm lại, sự gia tăng các hàm lượng AGP không thể áp dụng đơn lẻ trong chẩn đoán FIP mà
phải được áp dụng cùng với các thông số khác và với xem xét về bệnh sử và các dấu hiệu lâm
sàng của mèo.

CÁC PHÁT HIỆN BỆNH TÍCH


Bệnh tích chủ yếu của FIP là viêm mủ hạt (pyogranuloma). Ở FIP tràn dịch, tất cả các bề mặt
của xoang bụng hay chất chứa trong xoang ngực, hay cả hai, có thể bị bao phủ bởi các mảng
trắng nhỏ (kích thước 1 đến 2 mm: xem Hình Trang mạng 10-8, các Hình 10-10 và 10-11). Một
số bệnh khác có các bệnh tích tương tự, mặc dù đôi khi các khối u li ti hay nhiễm nấm toàn thân
có thể có thể hiện tương tự. Trong FIP không tràn dịch, các bệnh tích đại thể thường biến thiên;
tuy nhiên, thận thường bị ảnh hưởng và phải được kiểm tra cẩn thận phát hiện u mủ hạt
(pyogranulomata) trong vùng vỏ thận (Hình 10-12). Trong FIP ở kết tràng (colonic FIP), kết
tràng có thể dày lên và có thể hiện đại thể giống như ung thư biểu bì lâm ba đường tiêu hóa
(alimentary lymphosarcoma). Ở một số mèo, các bất thường thể hiện tối thiểu, và chẩn đoán chỉ
có thể lập được bằng kiểm tra mô bào học. Ở màng não, các biến đổi đại thể thường tối thiểu
hoặc gồm xung huyết các bề mặt; tuy nhiên, các bệnh tích mô bào học có đặc tính là u viêm mủ
hạt xâm nhập tràn lan ở màng não (Hình 10-13).

HÌNH. 10-10 Màng mỡ chài (omentum) của mèo bị FIP tràn dịch (effusive FIP). Lưu ý thấy thể hiện dạng thạch
gelatin và đốm u mủ hạt (perivascular pyogranulomata) màu trắng, nhỏ (mũi tên), điển hình của FIP tràn dịch trong
đại thể của khám tử.

HÌNH. 10-11 Khám tử mèo có xoang ngực bị FIP tràn dịch, cho thấy dịch tràn màu vàng trong (mũi tên), sợi
viêm fibrin và u mủ hạt trong phổi. (Tài liệu của Richard Irvine, University of Glasgow, UK.)
HÌNH. 10-12 Thận bổ dọc của mèo bị FIP không tràn dịch, có u mủ hạt (mũi tên).

HÌNH. 10-13 Mẫu mô bào học của bề mặt vỏ não ở mèo bị viêm màng não do FIP dạng khô (dry FIP: nhuộm
màu H&E, x100). (Hình chụp của Craig Greene © 2004 University of Georgia Research Foundation Inc.)

Viêm mạch máu (vasculitis) phải được chứng minh để chẩn đoán FIP với chứng cứ hợp lý.
Bệnh tích này gồm động mạch hay mao mạch được bao bọc bởi một vùng tập trung của các hoại
tử, được bao quanh bởi thấm nhập ngoại biên các bạch cầu đơn nhân, tăng sinh các đại thực bào
và các tế bào lâm ba, các tế bào huyết tương và các bạch cầu hạt. Nhuộm hóa miễn dịch mô bào
được áp dụng để chứng minh hiện diện của virus trong các bệnh tích (xem đoạn mới nêu trên), là
xét nghiệm xác nhận bệnh tích cho các bệnh tích có nghi ngờ (xem Hình Trang mạng 10-7).

Ở mèo bị tiêu chảy do coronavirus, FCoV có thể nhiễm đến biểu bì hình trụ của chót các
nhung mao đường tiêu hóa, dẫn đến nhũn bở các chót nhung mao. FCoV có thể chứng minh
được trong các tế bào biểu bì bằng nhuộm hóa miễn dịch mô bào9 hay nhuộm miễn dịch huỳnh
quang (immunofluorescence). Teo xẹp các nhung mao mức độ nhẹ đến trung bình có thể thấy,
và nhung mao có thể bị tan chảy.

ĐIỀU TRỊ
Mèo khỏe mạnh có dương tính với Feline Coronavirus

Có các lý do hợp lý cho xem xét điều trị mèo khỏe mạnh về lâm sàng mà có các kết quả
dương tính với FCoV. Trong trường hợp đầu tiên, mèo có thể được chẩn đoán sai là bị FIP
không tràn dịch, do kết quả “xét nghiệm FIP” dương tính sai. Trước khi xem xét bất kỳ điều trị
nào, cần xét nghiệm thêm như đã nêu trên để xác nhận kết quả xét nghiệm. Trong trường hợp
thứ nhì, việc điều trị sẽ được cân nhắc để tránh phát triển FIP ở mèo đã có tiếp xúc với mèo đã bị
nhiễm. Ở đây không có bằng chứng là việc điều trị mèo lâm sàng khỏe mạnh với các kết quả
huyết thanh dương tính sẽ phát triển FIP. Mặc dù có khả năng là chất kích thích miễn dịch
polyprenyl (polyprenyl immunostimulant) sẽ cho được phòng ngừa,184 nhưng cần có các nghiên
cứu thêm. Do căng thẳng là một yếu tố thường thấy trong phát triển FIP ở mèo bị nhiễm,275 tránh
gây căng thẳng không cần thiết như chuyển nhà, phẫu thuật giới tính, hay thay đàn... có thể giúp
giảm phát triển FIP. Các thuốc gây ức chế miễn dịch sẽ không sử dụng, do ức chế miện dịch có
thể dẫn đến phát triển lâm sàng của FIP. Trong trường hợp thứ ba, điều trị sẽ được cân nhắc để
chặn đứng thải tiết virus ở mèo khỏe mạnh đã bị nhiễm FCoV. Tuy nhiên, không có điều trị nào
hiện nay có thể chặn đứng thải tiết virus. Có nhiều loại thuốc có tác dụng tốt đối với FCoV ở
ngoại môi trường, như ribavirin; tuy nhiên, các thuốc này không có tác dụng ở nội môi trường,
có khi còn gây độc cho mèo.244

Ammonium chloride là thành phần thường được kết hợp vào thức ăn điều trị trong thú y nhắm
đến thay đổi độ pH của nước tiểu. Đây cũng là chất hướng đến tiêu thể (lysosomotropic agent),
ức chế xâm nhập của FIPV vào đại thực bào, ở ngoại môi trường.313 Có hay không một khẩu
phần chứa ammonium chloride sẽ cho ra tác dụng bảo hộ đối với phát triển FIP thì vẫn chưa
được rõ.

Viêm ruột do coronavirus (Coronavirus Enteritis)

Ở đây có ba thể hiện của tiêu chảy ở mèo do FCoV: trong thời gian đầu; ở mèo bị nhiễm dai
dẳng (mang trùng); hay khi FIP không tràn dịch đã gây ra các bệnh tích trong kết tràng. Tiêu
chảy này xảy ra ở một số mèo bị nhiễm FCoV lần đầu, là tiêu chảy do ruột non, thường tự khỏi
trong vài tuần. Các nguyên nhân khác của tiêu chảy, như do Tritrichomonas foetus, là thuộc về
ruột già, sẽ được xem xét trước khi kết luận tiêu chảy do nhiễm FCoV. Điển hình là bệnh nhiễm
FCoV gây ói mửa ở mèo còn nhỏ tuổi nuôi trong môi trường chật chội nhiều mèo, mà đã có các
kết quả huyết thanh dương tính với FCoV, hay ở mèo mà đã phát hiện được FCoV trong phân,
thì chỉ có thể điều trị hỗ trợ. Tiêu chảy do nhiễm FCoV ở mèo bị nhiễm dai dẳng là tiêu chảy do
ruột già, đôi khi dẫn đến thải phân không kiềm chế được. Áp dụng bù dịch điện giải và giới hạn
năng lượng khẩu phần, với sử dụng sữa chua tự nhiên (living natural yogurt), hay với các vi sinh
có ích (probiotics) có thể là thích hợp. Không có điều trị kháng virus nào được chứng minh là
chữa khỏi tình trạng này. Một số mèo bị nhiễm mang trùng kéo dài với tiêu chảy có đáp ứng với
các liều thấp của prednisolone (0,5 đến 1 mg/day).

Mèo bị viêm phúc mạc thể hiện lâm sàng (Clinical Feline Infectious Peritonitis)

Thông thường, FIP được cho là không thể chữa khỏi, và chẩn đoán tình trạng này sẽ dẫn đến
quyết định là phải giết hủy nhân đạo. Các hiểu biết tiến bộ về sinh bệnh học của FIP và các xét
nghiệm chẩn đoán mới giúp chẩn đoán sớm và chính xác hơn về FIP, giúp cho điều trị sớm để có
cơ hội nhiều hơn cho thay đổi tiến trình bệnh.

FIP không phải chỉ do độc tính tế bào của virus, mà còn do đáp ứng viêm và đáp ứng miễn
dịch qua trung gian của mèo đối với FCoV. Do đó, việc điều trị là nhắm đến ức chế các đáp ứng
viêm và miễn dịch qua trung gian, thường là bằng các glucocorticoids. Một vấn đề với điều trị
bằng glucocorticoid là chất này ảnh hưởng đến đáp ứng miễn dịch không chọn lọc (immune
response nonselectively) bằng cách ức chế cả đáp ứng miễn dịch Th1 và Th2. Lý tưởng là điều
trị phải hỗ trợ đáp ứng Th1, trong khi ức chế đáp ứng Th2, do ở đây có giả thiết rằng một đáp
ứng miễn dịch qua trung gian tế bào (CMI) là có ích, trong khi đáp ứng miễn dịch qua trung gian
dịch thể thì gây tác hại.244

Một danh sách của các điều trị cho FIP đã được áp dụng trước kia và các điều trị mới có khả
năng được nêu tiếp theo. Mặc dù FIP có tràn dịch và không tràn dịch không phải là các bệnh
riêng biệt, mà đúng hơn là các giai đoạn của tiến trình bệnh, nhưng người ta có khuynnh hướng
phân biệt để điều trị, do phản ứng miễn dịch có hơi khác nhau. Xem Bảng 10-3 về các phương
thức điều trị được gợi ý cho từng tình trạng này. Không may là, không phải tất cả các chế phẩm
được liệt kê này đều có sẵn. Điều này có thể ảnh hưởng đến chọn lựa phương thức điều trị.

BẢNG 10-3
Các phương thức điều trị bệnh viêm ruột truyền nhiễm ở mèo (feline infectious peritonitis- FIP) dạng tràn
dịch và không tràn dịch
FIP tràn dịch FIP không tràn dịch
Các Glucocorticoid: Chất kích thích miễn dịch polyprenyl: 3mg/kg, tiêm
Dexamethasone: 1 mg/kg, tiêm vào xoang ngực hay cách ngày.
xoang bụng, một lần/ngày, VÀ: Nếu không sẵn có chất kích thích miễn dịch
Prednisolone theo liều giảm dần (sliding dose): 4 polyprenyl: Sử dụng các Glucocorticoid:
mg/kg/ngày, đường miệng (PO), trong 10 – 14 ngày; sau Prednisolone liều giảm dần: Như ở FIP tràn dịch, với
đó giảm xuống còn 2 mg/kg/ngày, trong 10 – 14 ngày; FIP liên quan đến viêm mống mắt (uveitis), sẽ sử dụng
sau đó giảm xuống 0,5 mg/kg/ngày, trong 10 – 14 ngày; các glucocorticoid bôi ngoài (topical).
sau đó giảm xuống 0,25 mg/kg/ngày, cho uống cách Feline interferon-ω: 50.000 U/mèo/24 giờ cho đến khi
ngày, và tiếp tục... ngưng thuốc sau khi các dấu hiệu lâm AGP, globulin, huyết sắc tố (hematocrit – HCT), tổng số
sàng đã giảm. Ở bất kỳ giai đoạn nào, nếu mèo thể hiện bạch cầu, và các dấu hiệu lâm sàng trở về bình thưởng.
các dấu hiệu lâm sàng nặng thêm, thì trở lại liều lượng Feline interferon-ω pha loãng: Feline interferon-ω
trước đó. (Vibragen Omega, của Virbac) dạng đóng chai 10 triệu
Feline interferon-ω: 1 MU/kg, tiêm vào vị trí tràn dịch, đơn vị (1 MU mỗi chai), có thể pha trong các xy lanh
là xoang ngực hay xoang bụng, hoặc nếu không thể tiêm insulin. Từ 9 đến 10 xy lanh này được đông lạnh
được thì tiêm dưới da (SC), tiêm cách ngày, giảm tần (có thể bảo quản đến 6 tháng). Xy lanh thứ 10 được pha
suất còn 1 lần mỗi tuần nếu dấu hiệu bệnh giảm. với 9,9 mL dung dịch muối đẳng trương 0,9% để có
Chất kích thích miễn dịch polyprenyl (polyprenyl được 10 mL dung dịch chứa tổng cộng 1 MU (100.000
immunostimulant): Không khuyên sử dụng U/mL) của feline interferon-ω. Xy lanh này được bảo
quản ở +4oCđến 3 tuần3a (không đông lạnh feline
interferon-ω đã pha, vì dung dịch không bền). Liều
lượng: 0,5 – 1 mL dung dịch đã pha này (chứa 50.000 –
100.000 units), cho uống hàng ngày, sử dụng xy lanh
không gắn kim.
AGP, Alpha-1 acid glycoprotein; FIP, feline infectious peritonitis; HCT, hematocrit; MU, million units; PO, by
mouth; SC, subcutaneous.

Các Glucocorticoids

Các glucocorticoids có sẵn khắp nơi và không đắt tiền. Prednisolone là chất ức chế miễn dịch
chính được sử dụng trong điều trị FIP. Chất này tương đối an toàn và có tính kháng viêm đối với
các liều lượng ức chế miễn dịch và có khuynh hướng tạo cho mèo có cảm giác khỏe hơn, kích
thích ngon miệng. Prednisolone ức chế đáp ứng miễn dịch dịch thể và miễn dịch qua trung gian
tế bào. Một con mèo bị FIP không tràn dịch chỉ được điều trị bằng prednisolone đã sống đến 10
tháng. Prednisolone cũng có ưu điểm cho điều trị viêm túi mật thấm tế bào lâm ba (lymphocytic
cholangitis), mà có thể bị nhầm lẫn với FIP. Khi chẩn đoán nhầm và cấp prednisolone, một mèo
bị viêm túi mật thấm tế bào lâm ba đã có cơ hội hồi phục tốt, trong khi một mèo khác bị FIP
không thể hiện hồi phục.

Prednisolone không được sử dụng cho mèo bị viêm phúc mạc hay viêm màng phổi nhiễm
trùng. Kiểm tra về tế bào học đối với dịch tràn là quan trọng để phân biệt dịch tràn do FIP với
dịch tràn do nhiễm vi khuẩn hay nhiễm nấm. Dịch tràn do bại huyết (septic effusion) có chứa
nhiều bạch cầu hơn, và một xét nghiệm tế bào học cẩn thận có thể phát hiện được vi khuẩn hay
nấm. Liều lượng từ 2 đến 4 mg/kg/ngày, cấp đường uống, liều lượng giảm dần sau 10 đến 14
ngày, cho đến khi có được liều lượng tối ưu cho mèo thấy được là tiếp tục có đáp ứng với điều
trị này. Mèo sử dụng các thuốc ức chế miễn dịch cũng phải được cấp các chất kháng sinh phổ
rộng nếu phát sinh phụ nhiễm vi khuẩn và có thể cung cấp L-lysine (xem các Chương 2, 14 và
92) để ngăn ngừa tái phát của herpesvirus tiềm ẩn.

Chất kích thích miễn dịch polyprenyl (Polyprenyl Immunostimulant)

Chất kích thích miễn dịch polyprenyl (Sass & Sass, Inc, Oak Ridge, TN) là hỗn hợp của các
isoprenol sợi thẳng, đã tạo phosphate hóa, có tác dụng điều chỉnh tăng các mRNA tạo tăng chất
tiết tế bào Th-1 (upregulate biosynthesis of Th-1 cytokine mRNAs).184 Chất này đã được sử
dụng thành công ở ba con mèo bị FIP không tràn dịch, sống sót được 14, trên 26, và 27 tháng,
nhưng không có tác dụng ở mèo bị FIP tràn dịch.184 Liều lượng 3 mg/kg cấp đường uống, hai
đến ba lần một tuần, cho đến khi hồi phục bệnh (xem phần Công thức thuốc trong Phụ lục).

Chất cản nhiễm (Interferon)

Một đáp ứng tốt của IFN-γ là cho ra đề kháng với FIP.171 Không may là IFN-γ không sẵn có
cho điều trị mèo, do vậy điều trị này phải sử dụng tổ hợp của IFN-α của người và IFN-ω của
mèo. Xem thêm Chương 2 và phần Công thức thuốc trong Phụ lục, để biết thêm thông tin về các
chất tiết tế bào này (cytokines).

Interferon-α của người. Các IFNs là đặc hiệu theo loài. Tổ hợp IFN (alpha) của người, là
rHuIFN-α, có một số hoạt tính đối với mèo,340 và các liều cao (106 U/kg thể trọng) có tác dụng
tạm thời ức chế các dấu hiệu bệnh và kéo dài thời gian sống của mèo được gây nhiễm thực
nghiệm tạo FIP.340 Tuy nhiên, nếu mèo vẫn còn sống sau 6 đến 7 tuần trong điều trị, thì IFN sẽ
không còn tác dụng do mèo sẽ sản sinh các kháng thể kháng IFN.

Interferon-ω ở mèo. IFN-ω là một glycoprotein đơn phân tử (monomeric glycoprotein) có


liên quan đến IFN-α và IFN-β, nhưng không liên quan đến IFN-γ. Chất cản nhiễm này được tiết
ra bởi các bạch cầu bị nhiễm virus và có các đặc tính kháng virus và kháng viêm. IFN-ω kích
thích hoạt tính của các tế bào sát thủ tự nhiên (natural killer cell) và làm gia tăng thể hiện của các
kháng nguyên MHC class I nhưng không tác động đến kháng nguyên MHC class II. MHC ở mèo
được biết là FLA; kháng nguyên class I có liên quan đến miễn dịch tế bào, trong khi kháng
nguyên class II thể hiện có liên quan đến miễn dịch dịch thể. IFN-ω không cho phản ứng chéo
với IFN-α, do vậy những mèo được điều trị bằng IFN-α và có các kháng thể kháng IFN-α sẽ
không trung hòa được IFN-ω. IFN-ω có đề kháng với acid, do vậy có thể cấp được đường miệng.
Giống như với IFN khác, IFN-ω có hiệu quả nhất khi áp dụng tại vị trí viêm.

Trong báo cáo đầu tiên về tổ hợp IFN-ω của mèo (rFeIFN-ω, Virbagen Omega, Virbac,
France) và điều trị bằng prednisolone cho FIP, 4/12 mèo đã hoàn toàn khỏi bệnh và 2 mèo khác
sống sót được 4 đến 5 tháng.142 Tuy nhiên, một nghiên cứu về sau với đối chứng giả thuốc
(placebo-controlled) ở 37 mèo cho thấy không có tác dụng nào của IFN-ω.271 Tác dụng có ích
của IFN-ω trong điều trị mèo bị FIP vẫn còn là vấn đề. Mặc dù FIP có hay không tràn dịch
không phải là hai bệnh khác nhau, mà đúng hơn là mức độ của cùng một quá trình, ở đây có hai
phương thức được gợi ý cho điều trị FIP, sử dụng IFN-ω (xem Bảng 10-3).

Các điều trị khả thi khác

Thalidomide có các đặc tính kháng viêm và chuyển đổi đáp ứng miễn dịch từ Th2 thành Th1,
do vậy theo lý thuyết thì thích hợp dùng làm các glucocorticoids trong điều trị FIP. Thalidomide
không gây độc cho mèo, mặc dù có độc tính phôi thai (fetotoxicity) ở phụ nữ mang thai. Không
may là thuốc này không sẵn có ở một số quốc gia. Thuốc này không sử dụng cho mèo mang thai.
Liều lượng là 50 đến 100 mg một lần mỗi ngày vào buổi chiều.

Các chất ức chế TNF-α (TNF-α inhibitors) được sử dụng để kiểm soát các hàm lượng của
TNF-α đã gia tăng trong FIP và góp phần cho phản ứng viêm. Quá liều lâu dài đối với TNF-α
dẫn đến gầy yếu (cachexia); do đó có khả năng là các chất ức chế TNF-α có thể sử dụng được để
điều trị FIP có hay không tràn dịch. Tuy nhiên, một chất ức chế TNF-α, là pentoxyfilline, đã
được báo cáo là không có tác dụng.244 Các kháng thể đơn giá trực tiếp kháng TNF-α (infliximab)
được sử dụng ở người bị thấp khớp (rheumatoid arthritis) và bệnh Crohn. Nhưng không có TNF-
α đơn giá nào được thử nghiệm ở mèo.

Các chất ức chế sinh tổng hợp thromboxane (ozagrel hydrochloride, sử dụng cho người bị
suyễn), với prednisolone, đã chữa khỏi cho một mèo và cho ra thuyên giảm đến 8 tháng ở một
mèo khác bị FIP tràn dịch.336 Tuy nhiên, kết quả này không thể tái tạo được.308

Chất ức chế MMP-9 (salvianolic acid B) được tiết ra bởi các bạch cầu đơn nhân trong FIP.166
Các chất ức chế MMP-9 là các endopeptidase phụ thuộc kẽm, có khả năng bẻ gãy các protein
sinh chất ngoài tế bào. MMP-9 có khả năng gây ra rò rỉ của các mạch máu trong FIP tràn dịch.
Các chất ức chế MMP-9 có thể có ích trong lúc đầu bị FIP tràn dịch, nhưng có thể không giúp
ích trong FIP không tràn dịch. Mặc dù các hợp chất này chưa từng thử sử dụng cho mèo bị FIP,
nhưng liều lượng gợi ý là 10 mg/kg, một lần mỗi ngày.

Chất đối kháng thụ thể (receptor antaginist) là 5-Hydroxytryptamine (tropisetron) làm giảm
các hàm lượng của TNF, IL-1P, IL-6, và prostaglandins.212 Mặc dù điều trị này chưa từng áp
dụng cho mèo bị FIP, nhưng liều lượng gợi ý là 300 μg/kg, một lần mỗi ngày.

Các hợp chất có đặc tính kháng virus đối với các coronaviruses đã được xem xét đến kể từ khi
có phát triển của bệnh SARS. Các kết quả của khảo sát ở ngoại môi trường cho thấy có hoạt tính
kháng virus ở nhiều hợp chất, bao gồm một số chất kháng sinh và các lectin của thực vật.23,156,324
Các chất lectin của thực vật là chất gây ngưng kết (agglutinin) của Galanthus nivalis, chất gây
ngưng kết lai ghép (hybrid agglutinin) của Hippeastrum, và chất gây ngưng kết của Urtica
dioica và chất pradimicin A có tính kháng sinh kết hợp với mannose không peptide, đã cho thấy
khả năng hứa hẹn ở ngoại môi trường.324 Protein griffithsin có tính kháng virus đặc biệt kết nối
với glycoprotein gai nhú của SARSr-CoV và ức chế virus xâm nhập, có tác động tích cực đến tỷ
lệ mắc bệnh và tỷ lệ tử vong trong thử nghiệm gây chết sử dụng một loại SARSr-CoV đã làm
thích nghi với chuột, và cũng ức chế đặc trưng đến khả năng hủy hoại trong đáp ứng miễn dịch
của ký chủ đối với bệnh nhiễm SARS ở thú có vú.218 Tuy nhiên, ở đây không có các nghiên cứu
lâm sàng nào thành công cho bất kỳ các thuốc này ở mèo. Xem Chương 2 để biết thêm thông tin
về các thuốc kháng virus và các thuốc kết nối miễn dịch.

Vai trò của dinh dưỡng

Người ta đã nhận thấy rằng khẩu phần hiện tại của con người, với omega 6:3 chiếm tỷ lệ
khoảng 16:1 các khẩu phần, là khác biệt lớn với tỷ lệ 1:1 mà có khả năng ảnh hưởng đến
người.292 Ở đây có khả năng là mèo hàng ngày được cung cấp các thực phẩm làm từ các loại hạt
mà chứa quá nhiều omega 6, cũng có các tỷ lệ cao giống như ở người. Đôi khi sự gia tăng tỷ lệ
béo phì và tiểu đường ở cả người và mèo là phản ánh của dinh dưỡng mất cân bằng. Một tỷ lệ
cao của omega 6:3 làm gia tăng chất tiết tế bào cytokine trước khi viêm ở các bạch cầu đơn nhân
và gia tăng khuynh hướng các bạch cầu đơn nhân bám đến và xâm nhập vào trong nội mạc biểu
bì.199 Việc giảm hàm lượng các chất béo không no và giảm tỷ lệ của omega 6:3 trong khẩu phần
của chuột đã làm giảm thoát mạch.195 Mặc dù không được thử trong các nghiên cứu có đối
chứng, việc cấp cho mèo bị FIP dưỡng chất chứa hàm lượng omega 3 cao sẽ là có ích, giúp ngăn
ngừa phát triển FIP ở mèo bị tiếp xúc.

Ammonium chloride đã làm giảm nhân sao của FCoV ở ngoại môi trường.313 Ammonium
chloride đã được pha vào khẩu phần của mèo bị toan niệu (acidify urine); có hay không các khẩu
phần này có thể giúp chữa trị hay ngăn ngừa FIP ở mèo là điều chưa được khảo sát.

Theo dõi điều trị và tiên lượng

Bất kể điều trị nào được chọn, ở đây quan trọng là theo dõi tiến triển của mèo. Thường xuyên
kiểm tra cách nhau từ 7 đến 14 ngày các chỉ tiêu về HCT, globulins, A/G, AGP, tổng tế bào lâm
ba, và trọng lượng của mèo, sẽ cho ra các chỉ số tiến triển trong tháng đầu. Các đánh giá về sau
có thể được thực hiện cách nhau hàng tháng nếu mèo có cải thiện. Không vô ích khi đo lường
hiệu giá kháng thể kháng FCoV nhiều hơn một lần mỗi tháng, hoặc lâu hơn, do không thể phát
hiện được khác biệt rõ rệt trong thời gian ngắn. Các hàm lượng AGP sẽ giảm đầu tiên nếu điều
trị có tác động tích cực, vì AGP là một đo lường về phản ứng viêm. Các dấu hiệu tích cực cũng
bao gồm tái hấp thụ dịch tràn; giảm các hàm lượng globulin; gia tăng tỷ lệ A/G, HCT, và các tế
bào lâm ba; xuất hiện các tế bào lưới nội mô trong các mẫu máu; và tăng trọng, trong khi các
biến đổi ngược lại sẽ là ghi nhận về đáp ứng tiêu cực. Nếu HCT giảm xuống dưới 20% và thiếu
máu là không tái sinh (tức là không có các tế bào lưới nội mô – reticulocytes trong các mẫu
máu), thì mèo có thể phải xử lý giết hủy nhân đạo, khi chất lượng sống của nó không cải thiện
được. Rõ ràng là, nếu mèo bị kiệt sức ở bất kỳ thời điểm nào trong điều trị, thì nên cân nhắc đến
giết hủy nhân đạo. Mèo bị FIP không tràn dịch có thể sống sót đến hàng tuần hoặc hàng tháng,184
tuy nhiên khi bắt đầu có các dấu hiệu thần kinh, mèo sẽ chết rất nhanh.

PHÒNG NGỪA
Chủng ngừa vaccin đối với FIP

Có nhiều thực nghiệm đã bị thất bại trong cố gắng phát triển vaccin đối với FIP.144 Hiện nay
chỉ có một vaccin sẵn có đối với FIP (Primucell, Pfizer Animal Health, New York) kết hợp một
biến dị nhạy nhiệt của một dòng FCoV là DF2-FIPV, với nhân sao trong lớp tế bào nuôi lạnh của
đường hô hấp trên, chứ không nhân sao ở nhiệt độ cao hơn thân nhiệt.22,44,45,46 Vaccin này, được
chủng theo đường mũi, tạo được miễn dịch cục bộ tại nơi FCoV xâm nhập vào cơ thể (đường
mũi họng), và cũng kích thích đáp ứng miễn dịch qua trung gian tế bào kéo dài. Vaccin này sẵn
có ở Mỹ từ năm 1991 và đã được đưa vào một số quốc gia ở Châu Âu. Có hai vấn đề của vaccin
này là tính an toàn và tính hiệu quả.

Vấn đề về tính an toàn bao gồm có hay không vaccin này có thể gây ADE. Mặc dù một số thử
nghiệm vaccin đã ghi nhận được có ADE, nhưng bằng chứng tổng quát trong các nghiên cứu
thực địa cho thấy Primucell là an toàn. Không mèo nào trong 582 mèo được chủng ngừa và sau
trung bình 541 mà có bất kỳ thể hiện bệnh.266 Trong hai thử nghiệm mù cả hai bên (double-blind
trials: một thử nghiệm gồm 609 mèo79 và một thử nghiệm gồm 500 mèo264), những mèo này
được chủng ngừa vaccin bằng hoặc là Primucell hoặc là giả thuốc, thì trong cả hai thử nghiệm
đều có ít mèo bị chết liên quan đến FIP hơn, trong nhóm được chủng ngừa vaccin Primucell, so
với mèo trong nhóm giả thuốc. Rõ ràng là vaccin đã cho ra bảo hộ với FIP và không gây ra
ADE. Hơn nữa, các tác động phụ xảy ra ở nhóm có chủng ngừa vaccin là hắt hơi, ói mửa hay
tiêu chảy là không khác biệt về thống kê so với nhóm sử dụng giả thuốc.

Chủng ngừa vaccin bằng Primucell tạo chuyển hóa huyết thanh, và mặc dù có thể ở mức độ
thấp hơn so với bệnh nhiễm tự nhiên, nhưng có thể vẫn tạo được các hiệu giá kháng thể thấp.
Mèo thải tiết virus của vaccin qua đường mũi trong 4 ngày. Khuyến cáo trong chủng ngừa
vaccin là cấp cho mèo hai liều cách nhau 3 tuần từ lứa tuổi 16 tuần trở đi. Dù có khuyến cáo này,
vaccin cũng đã được cấp cho mèo con 9 tuần tuổi và thấy là an toàn.141 Trong những mèo con
này, vaccin không ngăn ngừa được nhiễm bệnh; tuy nhiên, hàm lượng của FCoV phân lập được
từ ruột và các hạch lâm ba màng treo ruột đã giảm xuống rõ rệt. Vaccin này được cho là an toàn
khi cấp cho mèo mang thai và không ảnh hưởng đến tỷ lệ tử vong của mèo con hay khả năng
sinh sản trong các quần thể mèo giống. Vaccin này cũng an toàn để cấp cùng lúc với các vaccin
khác hay cho mèo đã bị nhiễm virus gây giảm bạch cầu mèo (feline leukemia virus). Khuyên
hàng năm chủng ngừa nhắc lại. Do có liên quan đến miễn dịch ở màng nhày, thời gian bảo hộ
qua trung gian của IgA sau khi phơi nhiễm tự nhiên hay sau khi chủng ngừa vaccin là ngắn ở hầu
hết mèo, sau khi virus đã bị quét sạch, và có khả năng táinhiễm. Vaccin này phải được cấp định
kỳ để duy trì miễn dịch.

BẢNG 10-4
Phương thức giảm thiểu du nhập hay phát tán của coronavirus ở mèo trong một trại nuôi
Phương thức Mô tả
Giảm vấy nhiễm Tạo đủ số lượng khay độn chuồng (litter tray: một khay cho một hay hai mèo).
phân ở môi Sử dụng chất độn chuồng không gây vương vãi có một số đặc tính kháng virus (pha thêm chất
trường mùn vào chất độn chuồng). Loại thải cục vón hàng ngày.
Loại bỏ tất cả chất độn chuồng, và sát trùng các khay chứa ít nhất hàng tuần.
Đặt các khay chất độn chuồng cách xa khu vực cho ăn. Thường xuyên hút bụi quanh khay chứa
chất độn chuồng.
Xén lông quanh chân ở mèo có lông dài.
Số lượng mèo Thông thường mỗi chuồng nuôi, nhà nuôi không quá 8 – 10 mèo.
Mèo có thể nuôi thành một nhóm cố định hay chia thành ba hay bốn nhóm.
Trong các khu vực an toàn (cách ly), mỗi mèo phải được nuôi trong khu vực riêng và không có
tiếp xúc với những mèo khác.
Trong một chương trình thanh toán FCoV, mèo phải được chia thành các nhóm nhỏ theo tình
trạng kháng thể hay thải tiết virus của chúng: những mèo có huyết thanh âm tính hay không thải
tiết virus sẽ nhóm chung với nhau và những mèo có huyết thanh dương tính hay có thải tiết
virus sẽ được nhóm chung với nhau.
xét nghiệm Mèo giống phải được xét nghiệm trước khi nhập mới hay làm giống.
kháng thể hay Chỉ mèo có huyết thanh âm tính hay âm tính với virus mới được cho nhập vào các trại sạch
virus FCoV.
Sẽ an toàn khi nhập những mèo có huyết thanh dương tính vào các trại đã bị nhiễm, so với nhập
mèo có huyết thanh âm tính, nhưng mèo mới nhập và mèo làm giống vẫn có nguy cơ phát triển
FIP.
Cách ly và cai Mèo làm giống và mèo dùng để sinh sản phải tuân theo phương thức được nêu trong Bảng 10-1.
sữa sớm
Chủng ngừa Nếu cần nhập mèo mới vào trại nuôi đã bị dịch, thì chúng phải được chủng ngừa bằng vaccin
bằng vaccin Primucell (Pfizer Animal Health, New York) trước khi nhập vào.
Primucell
FCoV, Feline coronavirus; FIP, feline infectious peritonitis.

Tính hiệu quả của vaccin có vấn đề do dòng virus của vaccin là coronavirus chủng huyết
thanh II (serotype II coronavirus), và serotype I coronavirus thì lưu hành cao hơn trong các dòng
thực địa phân lập được. Một thử nghiệm mù cả hai bên với 609 mèo từ 16 đến 53 tuần tuổi, đã
được thực hiện ở Thụy Sĩ.79,191 Lúc bắt đầu thử nghiệm, có 358 mèo có huyết thanh dương tính.
Đến 150 ngày sau khi chủng ngừa, số lượng mèo phát triển FIP không khác biệt rõ rệt. Tuy
nhiên, sau 150 ngày, chỉ một mèo chết do FIP trong nhóm được chủng ngừa vaccin (0,4%), so
với 7 mèo chết ở nhóm giả thuốc (2,7%).79 Xét nghiệm RT-PCR cho máu của tất cả mèo được
chủng ngừa vaccin bị phát triển FIP, cho thấy virus đã có trong mèo trước khi chủng ngừa
vaccin.80 Do đó, nhiều mèo có thể hiện không hiệu quả trong chủng ngừa vaccin Primucell do
đang nung bệnh FIP trước khi chúng được chủng ngừa. Do vaccin có tác dụng tạo miễn dịch cục
bộ, nêu kém hiệu quả nếu virus đã xâm nhập qua các màng nhày. Rõ ràng là, vaccin Primucell
có hiệu quả hơn ở mèo chưa bị phơi nhiễm với FCoV (hay có huyết thanh âm tính), so với mèo
có huyết thanh dương tính. Vì vậy, cần cố gắng tránh cho mèo con bị nhiễm FCoV trước khi
chúng được chủng ngừa vaccin.

Hiệu quả của vaccin Primucell là dựa vào khả năng tránh phân mảnh (preventable fraction:
xem phần Thời gian miễn dịch và Đo lường kháng thể, Chương 100) đã được báo cáo là từ 50%
đến 75%. Trong một nghiên cứu ở 138 mèo từ 15 trại giống, trong đó hầu hết mèo đều có huyết
thanh dương tính, không thấy có khác biệt về tử vong liên quan đến FIP giữa nhóm được chủng
ngừa vaccin và nhóm sử dụng giả thuốc.79 Các nhà sản xuất không chỉ ra rằng phải xét nghiệm
kháng thể kháng FCoV trước khi chủng ngừa vaccin. Tuy nhiên, do vaccin không có tác dụng
trong mèo đang ủ bệnh, việc xét nghiệm kháng thể kháng FCoV giúp giảm tốn kém. Hơn nữa,
vaccin này gây ra chuyển hóa huyết thanh và có các hiệu giá kháng thể thấp; do đó, nên xét
nghiệm kháng thể trước khi chủng ngừa vaccin. Vaccin Primucell được cho là không bắt buộc
(noncore) bởi Hiệp hội thú y viên chăm sóc mèo của Mỹ (American Association of Feline
Practitioners – AAFP) và Văn phòng Tư vấn Bệnh Mèo (Advisory Board on Cat Diseases –
ABCD).4,269 Mặc dù chủng ngừa vaccin không có khả năng ngăn ngừa FIP ở mèo đang lớn, nếu
chúng chưa được chủng ngừa trước khi phơi nhiễm, nhưng việc chủng ngừa vaccin chỉ là một
tùy chọn để làm giảm lưu hành của FIP trong mèo nhập mới vào trại đã bị dịch hay các trung
tâm cứu hộ.

Thế hệ mới của các vaccin FIP có thể gồm FCoV có gen đã làm biến đổi. Các vaccin thực
nghiệm, trong đó các gen đi kèm là 3abc và 7ab đã bị xóa, cho ra bảo hộ đối với mèo trong
phòng thí nghiệm.107 Có điều lạ là biến dị xóa của gen 3abc cho ra bảo hộ tốt, và biến dị xóa của
7ab cho ra một số bảo hộ, nhưng biến dị xóa của cả hai gen này không cho ra được bảo hộ.

Phòng bệnh viêm phúc mạc truyền nhiễm (FIP) ở mèo giống

Mèo giống thuần có nguy cơ cao hơn về phát triển FIP, so với mèo không thuần
giống.13,259,274,297,344 Kể cả ở các trại nuôi không có vấn đề về FIP, các vấn đề kháng vẫn xảy ra ở
mèo con, như tiêu chảy và các dấu hiệu ở đường hô hấp trên.7 Còi cọc và lứa đẻ lớn không đều
(xem Hình 10-7) vào thời điểm chủng ngừa vaccin là các cảnh báo cho thấy FCoV đang hiện
diện và cho thấy cần có can thiệp trước khi thảm họa xảy ra.

Việc thanh toán FCoV đối với mèo làm giống có thể bị cản trở bởi tình trạng được gọi là “hội
chứng đà điểu – ostrich syndrome” trong mèo giống. Hội chứng này một trở ngại không liên
quan đến tình hình FCoV của mèo.344 Tuy nhiên, việc thanh toán FIP trong mèo giống phải là
một mục tiêu của các nhà chọn giống có lương tâm. Vệ sinh và thiết kế tốt của trại nuôi là cốt
yếu cho giảm thiểu mức độ và phát tán của FCoV. Một phương thức áp dụng trong các trại nuôi
được trình bày trong Bảng 10-4.

Các phương thức chăn nuôi

Mèo không bị nhiễm phải được cách ly với mèo đã bị nhiễm FCoV, và mèo mới phải được
cách ly trước khi cho phép nuôi chung với mèo trong trại. Bệnh nhiễm FCoV được duy trì trong
trại nuôi theo các chu kỳ của nhiễm và tái nhiễm.15,84,85 Ở đây có các xét nghiệm RT-PCR phổ
biến có thể phát hiện được FCoV trong phân, do vậy có khả năng phân biệt giữa mèo có thải tiết
FCoV với mèo không thải tiết FCoV. Thải tiết virus thường liên tục 2 đến 3 tháng hay lâu hơn,10
do vậy việc xét nghiệm phân một lần mỗi tháng là đủ. Những mèo có thải tiết FCoV kéo dài đến
9 tháng hay lâu hơn thường có khả năng mang trùng suốt đời, mặc dù có một mèo được biết tự
động ngưng thải tiết virus sau 5 năm. Bằng cách xét nghiệm liên tục và tách riêng mèo có thải
tiết virus, sẽ có khả năng thanh toán được FCoV trong trại chăn nuôi mèo.120 Nuôi cách ly và xét
nghiệm mèo nhập mới sẽ ngăn ngừa được FCoV du nhập vào các trại.

Phối giống có kiểm soát có thể áp dụng khi một mèo bị nhiễm FCoV và mèo kia không bị
nhiễm, do truyền lây trực tiếp của FCoV không là vấn đề đối với mèo khỏe mạnh.3 Trong phối
giống có kiểm soát, hai mèo chỉ được nhốt chung để giao phối; chúng sẽ không sử dụng chung
khay chứa chất độn chuồng (xem phần trình bày trước đây về theo dõi mèo trước khi phối giống,
trong phần Chẩn đoán).

Cai sữa sớm và cách ly mèo con, xác định có hay không chúng bị nhiễm FCoV, ngoài những
yếu tố khác.6,7 Mèo con mèo mẹ có thải tiết FCoV phải có được bảo hộ đối với bệnh nhiễm bằng
kháng thể mẹ truyền cho đến khi đạt ít nhất 5 đến 6 tuần tuổi. Một phương thức cho ngăn ngừa
nhiễm FCoV được nêu trong Bảng 10-2. Khi sẵn có các xét nghiệm huyết thanh học, mèo con sẽ
được xét nghiệm khi trên 10 tuần tuổi, để đảm bảo cách ly và cai sữa sớm là có hiệu quả. Mèo
con bị nhiễm mà nhỏ hơn 10 tuần tuổi có thể không có chuyển hóa huyết thanh.7 Một số phương
thức ngăn ngừa nhiễm ở mèo con là quá khó khăn,244 chỉ áp dụng thành công ở các trại giống
khoảng 12 ổ trong các trại nuôi thông thường, mà không có các khu vực chuyên biệt.7 Kể cả việc
cách ly từng ổ theo mèo mẹ cũng làm giảm đáng kể các cơ hội bị nhiễm, so với để cho mèo con
tiếp cận khắp nơi trong trại nuôi.6,7

Phòng ngừa bệnh Viêm ruột truyền nhiễm ở mèo (FIP) trong các trại cứu hộ

Một kết hợp chủng ngừa cho mèo bằng vaccin Primucell trước khi chúng đưa vào trại, hay
ngay trước khi chúng được đưa vào,264 với vệ sinh tốt, với các thực hành chăm sóc theo khu vực,
và giảm gây căng thẳng, là cần thiết cho ngăn ngừa FIP trong các điều kiện cứu hộ. Mèo phải
được nuôi cach biệt với chó, không chỉ để giảm căng thẳng, mà còn ngăn ngừa phơi nhiễm với
các CCoVs.268

MỐI QUAN TÂM ĐẾN SỨC KHỎE CỘNG ĐỒNG


Người không bị nhiễm FCoV hay phát triển FIP. Các coronaviruses ở người thuộc chủng
229E và OC43, có lưu hành rộng rãi trong cộng đồng người, gây bệnh “cúm thông thường –
common cold”, và không gây nguy cơ cho mèo. SARSr-CoV đã cấy gây nhiễm thực nghiệm cho
mèo trong phòng thí nghiệm và đã gây viêm ở các mô khí quản phế quản và có ảnh hưởng đến
các hạch lâm ba.323 Các bệnh nhiễm trong tự nhiên do virus SARSr đã được báo cáo ở vượn cáo
(civet cat), nhưng là loài ăn thịt không phải mèo.

You might also like