Professional Documents
Culture Documents
GDCD
GDCD
1. Khái niệm
2. Hiến pháp
_ Tự do ngôn luận được công nhận là quyền con người theo điều 19 của
Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền (UDHR) và được công nhận trong
luật nhân quyền quốc tế tại Công ước Quốc tế về các Quyền Dân sự và
Chính trị.
Eleanor Roosevelt và Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền (1949)— Điều 19 quy
định rằng "Ai cũng có quyền tự do quan niệm và tự do phát biểu quan điểm; quyền
này bao gồm quyền không bị ai can thiệp vì những quan niệm của mình, và quyền
tìm kiếm, tiếp nhận cũng như phổ biến tin tức và ý kiến bằng mọi phương tiện truyền
thông không kể biên giới quốc gia"
_ Ở Việt Nam, “quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin,
hội họp, lập hội, biểu tình” đã được quy định trong Hiến pháp Nước
Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa (XHCN) Việt Nam (2013) điều 25 và
được cụ thể hóa trong nhiều luật, nghị định như: Luật Báo chí (2016),
Luật Tiếp cận thông tin (2016), Nghị định số 72/2013/NĐ-CP, ngày
15/07/2013 của Chính phủ về Quản lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ internet
và thông tin trên mạng… Các quy định trên được thực thi nghiêm túc, tạo
không khí dân chủ trong xã hội.
3. Nội dung
4. Ý nghĩa
_ Quyền này có ý nghĩa và vị trí quan trọng trong hệ thống các
quyền công dân, là cơ sở, điều kiện để công dân tham gia chủ
động và tích cực vào các hoạt động của Nhà nước và xã hội.
Từ đó cho thấy sức ảnh hưởng lớn của quyền tự do ngôn luận đến
cuộc sống của chúng ta. Tuy là quyền tự do ngôn luận nhưng mỗi
người cần quan tâm và chú trọng về lời nói của mình trước khi phát
biểu vì nó có thể ảnh hưởng đến cả một mạng người .
Bị cáo Lê Đình Lượng nghe bản án luận tội tại phiên tòa
Qua quá trình xét xử tại phiên sơ thẩm, nhận thấy đây là đối tượng phản động đặc biệt nguy
hiểm thuộc tổ chức khủng bố Việt Tân. Thủ đoạn là thông qua hoạt động sử dụng Fb “Lỗ
Ngọc (Lê Đình Lượng)”, kết nối mạng, like hoặc phản hồi, chia sẻ với các tài khoản
Facebook khác với nội dung là nhằm lật đổ chính quyền nhân dân, từ đó tìm cách tiếp xúc,
dụ dỗ, lôi kéo nhiều người vào tổ chức Việt Tân.
Quá trình sử dụng Facebook, Lê Đình Lượng đã thể hiện rõ tình cảm, ý chí đồng lòng cùng tổ
chức Việt Tân, tích cực theo dõi, đăng tải, chia sẻ nhiều bài viết tuyên truyền cổ súy cho Việt Tân,
trong đó có nhiều bài viết bình luận, ca ngợi Việt Tân, cổ vũ cho đường lối của tổ chức khủng bố
Việt Tân, xuyên tạc về tình hình Việt Nam, nói xấu Đảng Cộng sản Việt Nam, lợi dụng các sự
kiện chính trị, xã hội, phát triển kinh tế, an sinh xã hội, môi trường để xuyên tạc, bóp méo sự thật
nhằm gây tâm lý hoài nghi, hoang mang trong quần chúng nhân dân.
Qua sự việc trên khuyên nhủ chúng ta không nên lạm dụng quyền
tự do ngôn luận để phát biểu cũng như lan truyền những thông tin
sai lệch làm ảnh hưởng đến xã hội và Tổ quốc.
Những thông tin này, Nguyễn Ngọc Ánh và các đối tượng khác đã phát
tán đến hơn 2,4 triệu lượt người xem, hơn 45.000 lượt ng ười thích và
133.000 bình luận. Các cơ quan chức năng đã truy xu ất, t ạm gi ữ nhi ều t ư
liệu (bài viết, hình ảnh, clip) làm vật chứng ch ứng minh hành vi ph ạm
pháp của Nguyễn Ngọc Ánh.
Tại phiên xử sơ thẩm, bị cáo Nguyễn Ngọc Ánh đã nhìn nh ận nh ững thông
tin, tài liệu chống phá Nhà nước phát tán trên mạng xã hội là do tự bịa
đặt, vu khống, vi phạm pháp luật và tỏ ra ăn năn hối cải.