Professional Documents
Culture Documents
Tailieunhanh TT Lephuongthao 2615
Tailieunhanh TT Lephuongthao 2615
LÊ PHƯƠNG THẢO
HÀ NỘI - 2018
Công trình được hoàn thành tại:
Luận án được bảo vệ tại Hội đồng chấm luận án cấp Học viện,
họp tại Học viện Khoa học xã hội, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt
Nam, 477 Nguyễn Trãi, Thanh Xuân, Hà Nội. Vào hồi… giờ…
ngày… tháng … năm 2018.
2
5. Đóng góp mới về khoa học của luận án
Luận án là công trình nghiên cứu có hệ thống và chuyên sâu về từ
ngữ chỉ màu sắc trong tiếng Anh và tiếng Việt dưới góc nhìn của ngữ
nghĩa học.
6. Ý nghĩa lí luận và thực tiễn của luận án
6.1. Ý nghĩa lí luận
Luận án đóng góp những cơ sở lí luận về việc nghiên cứu từ ngữ
chỉ màu sắc trong tiếng Anh và tiếng Việt, chỉ ra những nét tương đồng
và khác biệt về khả năng tạo từ và ngữ nghĩa của 11 từ chỉ màu sắc cơ
bản trong tiếng Anh và 9 từ chỉ màu sắc cơ bản trong tiếng Việt, đồng
thời rút ra một số đặc trưng văn hóa dân tộc được thể hiện qua khả năng
tao từ và ngữ nghĩa của các từ ngữ chỉ màu sắc trong tiếng Anh và tiếng
Việt dưới góc nhìn của ngữ nghĩa học.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Kết quả nghiên cứu của luận án đóng góp cho công tác nghiên cứu
ngôn ngữ, công tác giảng dạy, học tập và nghiên cứu của giáo viên và
học viên, đồng thời phục vụ cho công tác dịch thuật của các nhà biên,
phiên dịch cũng như công tác biên soạn từ điển Anh- Việt, Việt- Anh.
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÍ LUẬN
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu
1.1.1. Tình hình nghiên cứu về từ ngữ chỉ màu sắc trong tiếng Anh
Lịch sử nghiên cứu về các từ chỉ màu sắc đã phát triển qua ba giai
đoạn chính: giai đoạn đối đầu của hai trường phái Tương đối (Sapir-
Whorf,1921-1956) và Phổ niệm (Berlin & Kay,1969). Giai đoạn hậu
Berlin & Kay với những tranh luận phê phán Berlin & Kay và ủng hộ
Berlin & Kay. Giai đoạn hiện nay là những hướng nghiên cứu từ ngữ chỉ
màu sắc theo tri nhận luận, kinh nghiệm luận và văn hóa luận. Từ trước
đến nay, các từ chỉ màu sắc được xem là đối tượng nghiên cứu của rất
nhiều ngành khoa học như Vật lí học, Tâm lí học và đặc biệt là Ngôn
ngữ học.
3
Các nghiên cứu về màu sắc trên phương diện Tâm lí học: nội
dung cơ bản của các nghiên cứu về các từ chỉ màu sắc là đưa ra những
giả thuyết tâm sinh lí học về sự khác biệt trong văn hóa qua việc nhìn
thấy và gọi tên màu sắc và xem xét những khía cạnh phổ quát trong việc
tìm hiểu việc mã hóa các màu sắc…
Tác giả Hardin (2005) trong bài báo Explaining basic color
catergories (giải thích các loại từ chỉ màu sắc cơ bản) in trong tạp chí
Nghiên cứu đa văn hóa đã khảo sát một số nhóm minh chứng cho thấy
sự gắn kết chặt chẽ giữa các cơ chế cảm nhận màu sắc, các màu cơ bản
theo cảm quan và việc đặt tên các màu cơ bản. Tuy nhiên, những câu hỏi
quan trọng vẫn tồn tại liên quan đến các thuộc tính chung của con người
về nhận thức màu sắc và sự phát triển và cấu trúc của các loại màu cơ
bản đa văn hóa.
Nghiên cứu về màu sắc trên phương diện Vật lý học: Trong bài
viết Colour categories are not universal: Replications and new evidence
from a stone-age culture, các tác giả Roberson, Davies, and Davidoff
(2000) đã tìm cách tái tạo và mở rộng công trình của Heider (1972) với
việc so sánh người Papua, New Guinea, những người nói tiếng Berinmo
mà ngôn ngữ của họ chỉ có 5 thuật ngữ cơ bản chỉ màu. Việc xác định
tên và bộ nhớ cho các kích thích vật lí và phi vật lí với độ bão hòa thấp
đã được khảo sát. Họ đã tìm ra việc các màu đã bão hòa bị ảnh hưởng
bởi nhóm từ vựng màu. Các hiệu ứng nhận thức phân loại đối với cả
tiếng Anh và Berinmo đã được tìm thấy, nhưng chỉ ở ranh giới của các
thể loại ngôn ngữ hiện có.
Nghiên cứu về màu sắc dưới góc độ Văn hóa học: Trong công
trình đồ sộ Dictionnaire des symboles: mythes, rêves, coutumes, gestes,
formes, figures, couleurs, nombres (Từ điển biểu tượng văn hóa thế
giới), với phụ đề “Các huyền thoại, chiêm mộng, phong tục, cử chỉ, dạng
thể, các hình, màu sắc, con số” Chevalier và Gheerbrant (1997) đã trình
bày khá chi tiết về biểu tượng màu sắc của các nước trên thế giới. Các từ
chỉ màu sắc trong cuốn từ điển này đã được các tác giả miêu tả bao quát
được nhiều khu vực văn hóa trên thế giới liên quan đến các phương tiện
Dân tộc học, Xã hội học, Tâm lí học, Thần thoại học, Tôn giáo học.
Nghiên cứu về màu sắc dưới góc độ Ngôn ngữ học: từ năm
1969, hai nhà nghiên cứu Berlin & Kay của Trường đại học California ở
Berkerly đã tiến hành nghiên cứu tổng kết toàn bộ tư liệu, kinh nghiệm
về từ ngữ chỉ màu sắc của các dân tộc khác nhau trên thế giới. Berlin &
Kay đã xác lập “phương pháp giai đoạn tiến hóa đối với sự xuất hiện
những từ ngữ chỉ màu sắc”. Công trình của Lakoff (1987) cũng ủng hộ
quan điểm của Berlin & Kay với tiêu đề “Women, fire and dangerous
things” (Đàn bà, lửa và những thứ nguy hiểm). Cùng quan điểm với
4
Berlin & Kay, Kovecses (1986) đã khẳng định: Trong miền ngữ nghĩa
của các từ chỉ màu sắc có những điểm trung tâm hơn và các thuật ngữ
chỉ các điểm trung tâm này được gọi là các từ chỉ màu cơ sở. Năm 1978,
Kay và Chad đã đặt vấn đề và nghiên cứu khả năng tri nhận sắc thái về
màu sắc.
Tiếp theo hướng này, tác giả Quinion (1996 đã nghiên cứu từ ngữ
chỉ màu sắc tiếng Anh bằng phương pháp từ nguyên học. Nghiên cứu
của hai tác giả Soriano và Valenzuela (2009 đã khám phá ra các lí do tại
sao các từ màu sắc và từ biểu đạt cảm xúc thường liên quan đến các
ngôn ngữ khác nhau trên thế giới.
Sau giai đoạn này, một số các công trình nghiên cứu dưới góc độ
ngôn ngữ học tri nhận hoặc liên ngành ngôn ngữ học tâm lí đã đưa ra các
hướng giải quyết vấn đề về những đặc điểm chung trong việc gọi tên
màu sắc như công trình của Kay và Regier (1997), hoặc những điểm
phổ quát trong tri nhận màu sắc của Wierzbicka (1989), Lucy (1997),
Lindsey, & Brown (2004).
1.1.2. Tình hình nghiên cứu về từ ngữ chỉ màu sắc trong tiếng Việt
Các nghiên cứu về từ chỉ màu sắc trong tiếng Việt chủ yếu tập trung
trên phương diện ngôn ngữ học. Các nghiên cứu về từ chỉ màu sắc tập
trung nhiều ở bình diện cấu trúc luận, chủ yếu tiếp cận về cấu trúc
nghĩa, đặc điểm cấu tạo, đặc điểm ngữ nghĩa của từ chỉ màu sắc trong
tiếng Việt như công trình của Đào Thản (1993), Biện Minh Điền (2000),
Nguyễn Thị Thành Thắng (2001), Phạm Văn Tình (2004), Lê Thị Vy
(2006); Hà Thị Thu Hoài (2006), Trịnh Thị Thu Hiền (2015)…
Cũng có một số công trình (các luận án, luận văn thạc sĩ) đi sâu
nghiên cứu kĩ hơn về về các từ ngữ chỉ màu sắc trong tiếng Việt như
luận án của Chu Bích Thu (1996); Nguyễn Khánh Hà (1995); Trịnh Thị
Minh Hương (1999).
Các nghiên cứu về từ chỉ màu sắc theo hướng tiếp cận so sánh, đối
chiếu giữa hai ngôn ngữ, có thể kể đến một số công trình của các tác giả
như: Hoàng Văn Hành (1982); Trần Thị Thu Huyền (2001); Bùi Thị
Thùy Phương (2004).
1.2. Cơ sở lí luận
1.2.1. Khái niệm về từ
1.2.1.1. Định nghĩa về từ
Các nhà ngôn ngữ học người Anh và người Việt có các quan điểm
khác nhau về định nghĩa của từ. Tuy nhiên, trong tiếng Anh, chúng tôi
sử dụng quan điểm của A. S. Hornby làm cơ sở cho luận án. “Từ là một
đơn vị của ngôn ngữ có nghĩa và có thể được sử dụng để nói hoặc viết”.
(Hornby A. S., 2005, tr.1695). Trong tiếng Việt, chúng tôi sử dụng quan
điểm của Đỗ Hữu Châu. Theo ông, “Từ của tiếng Việt là một hoặc một
5
số âm tiết cố định, bất biến, mang những đặc điểm ngữ pháp nhất định,
nằm trong những kiểu cấu tạo nhất định, tất cả ứng với một kiểu ý nghĩa
nhất định, lớn nhất trong tiếng Việt.” (Đỗ Hữu Châu, 2005, tr.471).
1.2.1.2. Phương thức cấu tạo từ
Khi nghiên cứu đặc điểm cấu tạo tiếng Anh và tiếng Việt, một
điểm đáng chú ý đó là tiếng Anh là một ngôn ngữ phi đơn lập còn tiếng
Việt là ngôn ngữ đơn lập. Sự khác biệt này đã khiến cho tiếng Anh và
tiếng Việt có những cách cấu tạo từ không giống nhau. Nói cách khác
tiếng Anh có phương thức tạo từ mà tiếng Việt, một ngôn ngữ đơn lập,
không có, ngược lại tiếng Việt có một số cách cấu tạo từ mà tiếng Anh
không thể nào có được.
1.2.2. Nghĩa của từ
1.2.2.1. Khái niệm về nghĩa từ vựng của từ
Theo tác giả Goddard C. và Wierzbicka A. (2014), ngữ nghĩa
cũng được xem như một thành phần của ngôn ngữ học hơn là một quan
điểm về ngôn ngữ và ngôn ngữ học. Tuy nhiên, ý nghĩa chính là tất cả
những gì ngôn ngữ diễn đạt. Đối với hầu hết người dùng ngôn ngữ,
người nói và người nghe, nhà văn và người đọc - từ là luôn luôn “sống”
(alive) và "xanh" (green), trong khi các hình thức, biểu tượng và các
công thức trừu tượng có thể dần dần mất đi hoặc không được dùng nữa.
Các nhà Việt ngữ học có nhiều quan điểm và định nghĩa khác
nhau về nghĩa của từ. Tuy nhiên, có thể chia thành 3 nhóm như sau:
(i) Quan niệm thứ nhất coi nghĩa của từ là một bản thể nào đó.
(ii) Quan niệm thứ hai coi nghĩa của từ là một quan hệ nào đó.
(iii) Quan niệm thứ ba coi nghĩa của từ là một thực thể tinh thần.
1.2.2.2. Các thành phần nghĩa của từ
Khi đưa ra hình tháp nghĩa hình học không gian, Đỗ Hữu Châu
(2005) đã chỉ ra mối quan hệ giữa từ và các nhân tố góp phần hình thành
ý nghĩa. Tác giả nhấn mạnh từ mối quan hệ giữa từ và sự vật hình thành
ý nghĩa biểu vật, từ mối quan hệ của từ với khái niệm sẽ hình thành các
ý nghĩa biểu niệm, từ mối quan hệ với nhân tố người dùng hình thành
các ý nghĩa phong cách và liên hội, từ mối quan hệ với cấu trúc của ngôn
ngữ với các từ khác sẽ hình thành các ý nghĩa, cấu trúc và quan hệ giữa
ý nghĩa với các thành phần hình thức mà hình thành các ý nghĩa cấu tạo
từ, các ý nghĩa ngữ pháp. Từ sự phân định trên của tác giả Đỗ Hữu
Châu, ta thấy có hai thành phần nghĩa lớn là ý nghĩa từ vựng và ý nghĩa
ngữ pháp. Trong đó, ý nghĩa từ vựng là ý nghĩa của riêng từng từ, còn ý
nghĩa ngữ pháp là ý nghĩa mang tính đồng loạt chung cho nhiều từ.
1.2.2.3. Cấu trúc nghĩa của từ
6
Ngữ nghĩa học hiện đại coi ý nghĩa của từ lập thành một cấu trúc,
bao gồm một số nét nghĩa (nghĩa vị) được kết hợp với nhau theo quy tắc
nhất định, chi phối và quyết định lẫn nhau.
1.2.2.4. Hiện tượng chuyển nghĩa của từ
Nguyễn Thiện Giáp cho rằng: Để có thể phản ánh được cái vô hạn
và không ngừng phát triển của các sự vật trong đời sống cũng như sự
phát triển của nhận thức con người, ngoài việc xuất hiện các từ mới với
nội dung và hình thức hoàn toàn mới, sự xuất hiện các nghĩa chuyển là
cách tiết kiệm nhất của ngôn ngữ để phản ánh sự phát triển không ngừng
của thế giới khách quan, đời sống và nhận thức của con người. Theo
nghĩa hẹp, chuyển nghĩa là kết quả của hiện tượng sử dụng từ theo ẩn dụ
và hoán dụ (Nguyễn Thiện Giáp, 2010, tr.139).
1.2.3. Từ chỉ màu sắc trong tiếng Anh và tiếng Việt
1.2.3.1. Khái niệm về từ chỉ màu sắc
Từ điển Bách khoa toàn thư Oxford Learner’s Advanced
Encyclopedic định nghĩa: Màu sắc là đặc tính có thể nhìn thấy của các
sự vật được tạo ra bởi các tia sáng hoặc các bước sóng khác nhau bị
phản xạ lại. Đào Thản coi “Màu sắc là một thuộc tính của vật thể, tồn tại
một cách khách quan trong thế giới vật chất, mà thị giác con người có
thể nhận biết được” (Đào Thản, 1993, tr.11-15).
1.2.3.2. Phân loại từ chỉ màu sắc
Từ chỉ màu sắc được chia thành 3 nhóm: Nhóm từ chỉ màu cơ
bản, nhóm từ chỉ màu phái sinh và nhóm từ chỉ màu cụ thể.
1.2.4. Văn hóa và mối quan hệ giữa văn hóa, ngôn ngữ và tư duy
1.2.4.1. Khái niệm về văn hóa
Trần Ngọc Thêm cho rằng văn hóa là một hệ thống hữu cơ các giá
trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo và tích lũy qua quá trình
hoạt động thực tiễn, trong sự tương tác giữa con người với môi trường tự
nhiên và xã hội của mình (Trần Ngọc Thêm, 2000, tr.25).
1.2.4.2. Mối quan hệ giữa ngôn ngữ và văn hóa
Hầu hết các nhà khoa học đều thừa nhận rằng có một mối quan hệ
chặt chẽ giữa ngôn ngữ và văn hóa, giữa ngôn ngữ dân tộc và văn hóa
dân tộc. Các phạm vi của văn hóa và ngôn ngữ gắn bó với nhau. Là một
bộ phận của văn hóa dân tộc nhưng ngôn ngữ lại phục vụ cho tất cả mọi
tầng lớp, mọi giai cấp khác nhau trong xã hội.
1.2.5. Nghiên cứu đối chiếu từ vựng, ngữ nghĩa
1.2.5.1. Khái niệm về ngôn ngữ học đối chiếu
Ngôn ngữ học đối chiếu là một trong những phân ngành ngôn ngữ
học có tính ứng dụng cao nhất, thể hiện trên nhiều phương diện. Nó vừa
liên quan mật thiết đến những vấn đề lí thuyết quan trọng, vừa gắn chặt
với những ứng dụng thực tiễn, rất gần gũi với đời sống hàng ngày.
7
1.2.5.2. Nguyên tắc đối chiếu
Theo Bùi Mạnh Hùng (2008, tr.131-136), trong quá trình nghiên
cứu đối chiếu các ngôn ngữ cần tuân thủ các nguyên tắc cơ bản sau:
(i) Đảm bảo các phương tiện trong hai ngôn ngữ đối chiếu phải được
miêu tả một cách đầy đủ, chính xác và sâu sắc; (ii) Việc nghiên cứu đối
chiếu không thể chỉ chú ý đến các phương tiện ngôn ngữ một cách tách
biệt mà phải đặt trong hệ thống; (iii) Phải xem xét các phương tiện đối
chiếu không chỉ trong hệ thống ngôn ngữ mà còn trong hoạt động giao
tiếp; (iv) Phải đảm bảo tính nhất quán trong việc vận dụng các khái niệm
và mô hình lí thuyết để miêu tả các ngôn ngữ được đối chiếu. (v) Phải
tính đến mức độ gần gũi về loại hình giữa các ngôn ngữ cần đối chiếu.
1.2.5.3. Phạm vi đối chiếu
Về mặt lí thuyết, theo Bùi Mạnh Hùng (2008, tr.150), căn cứ vào
phạm vi đối chiếu người ta phân biệt đối chiếu hệ thống và đối chiếu bộ
phận. Đối chiếu hệ thống là đối chiếu tổng thể hai ngôn ngữ với nhau.
Còn đối chiếu bộ phận là đối chiếu các đơn vị, phạm trù, hiện tượng cụ
thể của hai ngôn ngữ.
Chương 2
ĐỐI CHIẾU KHẢ NĂNG TẠO TỪ VÀ NGỮ NGHĨA CỦA TỪ
CHỈ MÀU SẮC CƠ BẢN TRONG TIẾNG ANH VÀ TIẾNG VIỆT
2.1. Khảo sát tần số xuất hiện của các từ chỉ màu sắc tiếng Anh và
tiếng Việt trong tác phẩm văn học Anh và văn học Việt Nam
Luận án sử dụng 8 tác phẩm văn học Anh và 11 tác phẩm văn học
Việt Nam qua các thời kì và thống kê được 950 đơn vị có chứa 1065
lượt từ chỉ màu sắc cơ bản trong tiếng Anh và 925 đơn vị có chứa 1189
lượt từ chỉ màu sắc cơ bản trong tiếng Việt. Sau khi thống kê, chúng tôi
có các bảng số liệu và tần số xuất hiện của các từ theo tỉ lệ phần trăm
được thể hiện ở bảng 2.1 dưới đây (tỷ lệ đã được làm tròn, đến hàng đơn
vị).
Bảng 2.1. Tần số xuất hiện của các từ chỉ màu sắc cơ bản trong các
tác phẩm văn học Anh
Stt Từ chỉ màu Số lượng Tỉ lệ
1 White (trắng) 241/1065 23%
2 Black (đen) 222/1065 21%
3 Red (đỏ) 137/1065 13%
4 Green (xanh lá cây) 103/1065 10%
5 Yellow (vàng) 59/1065 5%
6 Blue (xanh lam) 88/1065 8%
7 Brown (nâu) 74/1065 7%
8 Purple (tím) 26/1065 2%
8
9 Pink (hồng) 58/1065 5%
10 Orange (cam) 18/1065 2%
11 Grey/gray (xám) 39/1065 4%
Bảng 2.1. cho thấy trong tiếng Anh, trong tổng số 11 màu cơ bản,
màu trắng là màu được sử dụng nhiều nhất, chiếm tới 23%, đứng thứ hai
là màu đen 21% và sau đó là màu đỏ 13%, ba màu này có tần số sử dụng
nhiều nhất chiếm tới 57%. Trong khi đó cả 3 màu tím, cam và xám mới
đạt được 8% tần số sử dụng.
Bảng 2.2. Tần số xuất hiện của các từ chỉ màu sắc cơ bản trong các
tác phẩm văn học Việt Nam
Stt Từ chỉ màu Số lượng Tỉ lệ
1 Trắng 189/1189 16%
2 Đen 215/1189 18%
3 Đỏ 223/1189 22%
4 Xanh 190/1189 16%
5 Vàng 177/1189 15%
6 Nâu 33/1189 3%
7 Tím 30/1189 3%
8 Hồng 57/1189 5%
9 Xám 28/1189 2%
Bảng 2.2 cho thấy trong tiếng Việt, trong tổng số 9 màu cơ bản,
màu đen và đỏ là màu được sử dụng nhiều nhất, chiếm tới 40%, đứng
thứ hai là màu trắng và xanh chiếm 32%, màu vàng đứng thứ 3 chiếm
15%. Cả 4 màu nâu, tím, hồng và xám chỉ chiếm 13% tần số sử dụng
trong các tác phẩm văn học Việt Nam đã được thống kê.
Trong luận án, chúng tôi không tính đến các từ Hán-Việt đồng nghĩa
với các từ chỉ màu sắc cơ bản trong tiếng Việt như “bạch”, “hắc”,
“thanh”, “hoàng”…
Qua thống kê 1.065 lượt từ chỉ màu sắc cơ bản trong tiếng Anh và
1.189 lượt từ trong tiếng Việt xuất hiện trong các tác phẩm văn học, có
thể nhận thấy rằng: màu trắng, đen, đỏ là các màu xuất hiện nhiều nhất,
các màu nâu, tím, hồng, xám là các màu được sử dụng ít nhất trong cả
hai ngôn ngữ.
2.2. Khả năng tạo từ của từ chỉ màu sắc trong tiếng Anh và tiếng
Việt
2.2.1. Khả năng tạo từ của từ chỉ màu sắc trong tiếng Anh
Tiếng Anh mang những đặc điểm của một ngôn ngữ biến hình và
có các phương thức tạo từ như phương thức thêm phụ tố (affixation), ví
dụ: white → whitish; phương thức chuyển loại (conversion), ví dụ: to
drink → a drink, phương thức ghép (compounding), ví dụ: schoolgirl và
một số phương thức khác như phương thức viết tắt (shortening), phương
9
thức rút ngắn (clipping), phương thức viết tắt (acronym)... Tiếng Anh
cũng sử dụng phương thức láy âm (alliteration) như ping pong (bóng
bàn) và láy vần (rhyme) như drain brain (chảy máu chất xám), hurry-
scurry (hối hả, bận rộn)… nhưng để tạo nên các từ chỉ màu sắc, theo
nghiên cứu của chúng tôi, tiếng Anh sử dụng các 2 phương thức: phương
thức phụ tố (tiền tố) và phương thức ghép nên luận án chỉ miêu tả và
phân tích các phương thức này làm cơ sở lí luận cho luận án.
2.2.2. Khả năng tạo từ của từ chỉ màu sắc trong tiếng Việt
Hai phương thức cấu tạo từ trong tiếng Việt là phương thức láy và
phương thức ghép. Luận án đã miêu tả phân tích khả năng tạo từ của
từng màu sắc cơ bản trong tiếng Việt.
2.2.3. Đối chiếu khả năng tạo từ của từ chỉ màu sắc cơ bản trong
tiếng Anh và tiếng Việt
Bảng 2.3. Từ chỉ màu phái sinh được tạo ra theo các phương thức
Stt Màu Tiếng Anh Tiếng Việt
Láy toàn bộ
và biến Láy âm
Phương thức thêm đổi/giữ hoặc láy
hậu tố nguyên vần
thanh điệu
1 White/ trắng Whitish (hơi trắng), Trăng trắng Trắng
whiten (làm trắng, sơn trẻo
trắng), whiteness (sắc
trắng, màu trắng)
2 Black/đen Blackish (hơi đen, đen Đen đen Đen đúa,
đen), blacken (làm đen, đen đủi
bôi đen), blackness
(bóng tối, màu đen)
3 Red/ đỏ Reddish (hơi đỏ, đo Đo đỏ Đỏ đắn,
đỏ), redden (làm cho đỏ đọc
đỏ), redness (sắc đỏ,
màu đỏ)
4 Green/xanh Greenish, greeny (hơi Xanh xanh Xanh
xanh), greenness (màu xao
xanh, màu lục)
5 Yellow/vàng Yellowish, yellowy Vàng vàng Vàng vọt
(hơi vàng), yellowness
(màu vàng)
6 Brown/nâu Brownish, browny (hơi Nâu nâu
nâu), browness (màu
10
nâu)
7 Blue/ xanh Bluish (hơi xanh, xanh
lam xanh), blueness (sắc
xanh, màu xanh)
8 Purple/tím Purplish, purply (hơi Tim tím Tím lịm
tím), purpleness (sắc
tím, màu tím)
9 Pink/hồng Pinkish (hơi hồng, Hồng hồng Hồng
hồng hồng), pinkness hào
(sắc hồng, màu hồng)
10 Cam -
11 Grey/xám Greyish (hơi xám, xam Xam xám Xám xịt
xám), greyness (màu
xám)
Bảng 2.4. Các nhóm từ ngữ chỉ màu sắc được tạo ra theo phương thức
ghép trong tiếng Anh và tiếng Việt
Stt Tiếng Anh Tiếng Việt
từ chỉ màu cơ bản + từ chỉ từ chỉ màu cơ bản + từ chỉ màu cơ
màu cơ bản, ví dụ: green bản, ví dụ: xanh đen, tím đỏ…
1 blue (màu xanh lục đậm),
green yellow (màu vàng
lục)…
từ chỉ màu cơ bản + hậu tố y
hoặc ish + từ chỉ màu cơ bản,
2
ví dụ: yellowy red (đỏ hơi
vàng)…
từ chỉ sắc độ + từ chỉ màu cơ
bản, ví dụ: ví dụ: light blue từ chỉ màu cơ bản + từ chỉ sắc độ,
3
(xanh lam sáng), dark blue ví dụ: hồng nhạt, đỏ đậm...
(xanh lam sẫm)…
từ chỉ vật đại diện + từ chỉ
màu cơ bản, ví dụ: grass từ chỉ màu cơ bản + từ chỉ vật đại
4
green (màu cỏ), moss green diện, ví dụ: đỏ cờ, trắng ngà…
(xanh rêu)...
từ chỉ vật đại diện +“colour”/
“coloured” , ví dụ: peach “Màu” + vật đại diện, ví dụ: Màu
5
colour (màu hoa đào), peach nõn chuối, màu cánh sen…
coloured (màu hoa đào)…
từ chỉ đặc tính, tính chất, tình từ chỉ màu cơ bản + từ chỉ đặc
6 trạng, hiện tượng, …+ từ chỉ tính, tính chất, tình trạng, hiện
màu cơ bản, ví dụ: dead tượng,… ,eg. tím chết, vàng
11
white (trắng chết)… cháy…
Chương 3
ĐỐI CHIẾU THÀNH NGỮ CÓ TỪ CHỈ MÀU SẮC CƠ BẢN
TRONG TIẾNG ANH VÀ TIẾNG VIỆT
3.1. Khái niệm về thành ngữ
3.1.1. Quan niệm về thành ngữ trong tiếng Anh
Quan điểm định nghĩa về thành ngữ trong tiếng Anh được nhiều
học giả Anh chấp nhận và chúng tôi cũng chọn làm tiêu chí định nghĩa
tác nghiệp đó là: (i) thành ngữ thường mang nghĩa bóng hoặc bán nghĩa
đen, khó suy đoán từ nghĩa thành phần; (ii) chúng thường cố định về
mặt cấu trúc; và (iii) thành ngữ là cụm từ bao gồm ít nhất hai từ.
3.1.2. Quan niệm về thành ngữ trong tiếng Việt
Từ điển tiếng Việt định nghĩa thành ngữ là “tập hợp từ cố định đã quen
dùng mà nghĩa thường không thể giải thích được một cách đơn giản
bằng nghĩa của các từ tạo nên nó”. (Hoàng Phê, 2010, tr.1171). Chúng
tôi chấp nhận cách hiểu như trên để khảo sát.
3.2. Ngữ nghĩa của các thành ngữ có từ chỉ màu sắc cơ bản trong
tiếng Anh và tiếng Việt
3.2.1. Ngữ nghĩa của các thành ngữ có từ chỉ màu sắc cơ bản trong
tiếng Anh
Luận án đã miêu tả và phân tích từng nét nghĩa của các thành ngữ
tiếng Anh có từ chỉ màu sắc cơ bản.
3.2.1. Ngữ nghĩa của các thành ngữ có từ chỉ màu sắc cơ bản trong
tiếng Việt
Luận án đã miêu tả phân tích từng nét nghĩa của các thành ngữ
tiếng Việt có từ chỉ màu sắc cơ bản.
3.3. Đối chiếu ngữ nghĩa của từ chỉ màu sắc cơ bản trong thành ngữ
tiếng Anh và tiếng Việt
15
Bảng 3.2. Các hướng nghĩa biểu trưng xuất hiện trong thành ngữ có từ
chỉ màu cơ bản trong tiếng Anh và tiếng Việt
TT Thành ngữ có từ Các nghĩa biểu trưng xuất hiện Tiếng Tiếng
chỉ màu cơ bản trong thành ngữ có từ chỉ màu sắc Anh Việt
1. Sự tươi sáng, sự tốt lành x x
1 White/trắng 2. Sự trong sáng, tinh khiết x x
3. Sự trong trắng, cao quý x x
4. Sự rõ ràng, minh bạch x x
5. Cái thiện, điều thiện x -
6. Cảm xúc tiêu cực (sợ hãi, giận dữ…) x -
7. Tính cách âm tính (nhút nhát, hèn x -
nhát…)
8. Sự che dấu (khiếm khuyết, khuyết x -
điểm)
9. Sự đầu hàng, thua cuộc x -
10. Thói đạo đức giả x -
11. Thứ vô dụng x -
12. Sự kết thúc x -
13. Phẩm hạnh, tiết hạnh của người phụ - x
nữ
14. Cái đẹp, nhan sắc của người phụ nữ - x
15. Số phận, hoàn cảnh éo le, vùi dập - x
người phụ nữ
16. Sự chênh lệch, không tương đồng - x
17. Sự trống không, không gì cả - x
18. Sự tráo trở, lật lọng - x
1. Không trong sạch, bẩn thỉu, mờ ám x -
2. Sự che dấu, không công khai, bất hợp x x
pháp
3. Điềm xấu, sự rủi ro, không may mắn x x
4. Các thế lực xấu xa, bất hợp pháp x -
5. Sự bí ẩn x -
6. Nhân cách âm tính của con người x x
2 Black/đen (xấu xa, đê tiện, bạo lực, đố kị, ganh
ghét, đơm đặt, độc ác, tráo trở, lật
lọng…)
7. Thói hư tật xấu của con người x x
8. Cảm xúc tiêu cực của con người x -
9. Sự nguy hiểm x -
10. Chỉ chủng tộc, phân tầng xã hội x x
11. Phe phái đối lập trong chính trị x -
16
12. Điều phi lí, góc tối (của con người, x -
xã hội)
13. Sự minh bạch, rõ ràng x x
14. Cái chết, tang tóc x -
1. Tín hiệu, sự cảnh báo, báo hiệu về x x
một sự nguy hiểm hay tình trạng nguy
cấp nào đó
2. Sự hi sinh x -
3. Tội ác x -
4. Trạng thái cảm xúc âm tính của con x x
người (giận dữ, bực tức, xấu hổ…)
5. Hành vi khiêu khích, kích động x
6. Niềm vui, niềm hạnh phúc, sự tốt đẹp x x
7. Sự hấp dẫn, nồng nhiệt x -
8. Tình yêu x -
9. Dục vọng, ham muốn bản năng x -
10. Sự quan liêu x -
3 Red/đỏ
11. Kẻ tiểu nhân, loại bần tiện, nhân x -
cách xấu xa, tráo trở, bội bạc
12. Sự trang trọng, tôn kính x -
13. Giai cấp x x
14. Thói xấu của con người (gièm pha, - x
đố kị, tinh quái, nanh nọc, khoe mẽ…)
15. Tình trạng sức khỏe tốt - x
16. Vận may, sự may mắn, hanh thông - x
17. Sự bàng quan - x
18. Sự yếu đuối, hèn nhát - x
19. Thứ quý giá, có giá trị - x
20. Hoàn cảnh, điều kiện sống khắc - x
nghiệt
1. Sức trẻ, tuổi trẻ x x
2. Sự vui vẻ, an hưởng x -
3. Sự trường tồn x -
4. Môi trường sinh thái x -
5. Sự non nớt, thiếu kinh nghiệm x -
4 Green/ xanh 6. Tín hiệu đồng ý cho phép thực hiện, x x
thông qua
7. Tính cách âm tính của con người x x
(ghen ghét, đố kị, ghen ăn tức ở, giả dối,
cơ hội, tráo trở…)
8. Sự vinh hiển, quyền quý - x
17
9. Sự khó khăn, cách trở - x
10. Sự biến đổi thăng trầm của cuộc đời - x
11. Kinh nghiệm thu hoạch hoa lợi, - x
nông sản
1. Sự nhút nhát, thiếu can đảm, hèn nhát x -
2. Tính cách xấu của con người (đê tiện, x x
hèn hạ, tham lam, cay nghiệt, bội bạc,
phản trắc, bất nghĩa…)
3. Sự che dấu, không công khai x -
4. Tín hiệu báo hiệu sự sẵn sàng, chuẩn x -
bị
5. Điều tốt đẹp, thứ quý giá x x
6. Sự vinh hiển, đỗ đạt của con người - x
5 Yellow/vàng 7. Sự giàu sang, phú quý - x
8. Dòng dõi quý tộc - x
9. Phẩm cách cao quý, chân giá trị của - x
con người
10. Sự thủy chung, tình nghĩa - x
11. Chí hướng, sự kiên định, gan dạ - x
12. Chuẩn mực, thước đo chân giá trị - x
13. Sự phù phiếm, phù vân - x
14. Thứ có giá trị, có khả năng cám dỗ, - x
tha hóa con người
1. Một tầng lớp, một giai cấp trong xã x 0
hội
2. Một ngành nghề trong xã hội x 0
3. Cảm xúc âm tính của con người (sợ x 0
hãi, đau đớn, buồn chán, thất vọng…)
4. Sự tục tĩu, khiêu dâm, xấu xa x 0
5. Tình trạng tồi tệ x 0
6 Blue/xanh lam 6. Sự liên tục, kéo dài x 0
7. Sự trung thành x 0
8. Tình thế xảy ra đột ngột, ngoài sức x 0
suy đoán
9. Điều hiếm xảy ra x 0
10. Những gì không thể với tới, đạt tới x 0
11. Một trường phái (màu sắc chính trị) x 0
12. Sự đáng yêu x 0
1. Cảm xúc âm tính của con người (suy x -
7 Brown/nâu tư, buồn tẻ, chán nản…)
2. Sự lừa bịp, đánh lừa x -
18
3. Tiết kiệm điện x -
1. Sự cao quý và danh giá x -
19
Xét về mặt ngữ nghĩa, nhóm thành ngữ có từ chỉ màu cơ bản trắng,
đen, đỏ ở cả hai ngôn ngữ Anh và Việt đều có số lượng nghĩa biểu trưng
cao nhất so với các thành ngữ có các màu cơ bản khác. Bản thân các tính
từ này có sự chuyển nghĩa, vận động nghĩa mạnh nhất và mang nhiều
hướng nghĩa biểu trưng phong phú (màu trắng trong tiếng Anh mang 10
nghĩa biểu trưng, trong tiếng Việt là 8; đen trong tiếng Anh mang 15
nghĩa biểu trưng, trong tiếng Việt là 6; đỏ trong tiếng Anh mang 15
nghĩa biểu trưng, trong tiếng Việt là 12). Các thành ngữ có từ chỉ màu
nâu, tím, xám ở cả hai ngôn ngữ đều có số lượng nghĩa biểu trưng thấp
nhất (màu nâu trong tiếng Anh có 3 hướng nghĩa biểu trưng, tiếng Việt
là không có nghĩa có nghĩa biểu trưng; tím trong tiếng Anh có 02 nghĩa
biểu trưng, trong tiếng Việt là 01; xám trong tiếng Anh có 5 nghĩa biểu
trưng, trong tiếng Việt là 01). Về cơ bản, có thể nhận thấy, thành ngữ có
từ chỉ màu cơ bản trong tiếng Anh vận động nghĩa mạnh hơn và mang
nghĩa biểu trưng phong phú hơn trong tiếng Việt, điều này được thể hiện
ở tất cả các màu cơ bản.
Về những nghĩa biểu trưng tương đồng, trong tất cả các thành ngữ
có chứa từ chỉ màu cơ bản tiếng Anh và tiếng Việt đều xuất hiện các
nghĩa biểu trưng tương đồng, riêng 3 màu nâu, tím, hồng không xuất
hiện nghĩa biểu trưng tương đồng trong thành ngữ giữa hai ngôn ngữ. Sự
tương đồng về ngữ nghĩa trong thành ngữ Anh – Việt cao nhất được thể
hiện ở màu đen với 6 nghĩa tương đồng; màu trắng với 4 nghĩa tương
đồng, và màu đỏ với 2 nghĩa tương đồng.
Thành ngữ có từ chỉ màu vàng trong tiếng Việt có số lượng xuất
hiện nhiều (99/339 thành ngữ), thành ngữ có từ chỉ màu vàng có hướng
vận động nghĩa biểu trưng mạnh mẽ và mang nhiều nghĩa biểu trưng
phong phú mà trong tiếng Anh không có như: chỉ sự giàu sang, phú quý;
chỉ sự đỗ đạt, hiển vinh của con người; sự thủy chung, tình nghĩa; sự
kiên định, gan dạ; phẩm cách cao quý; hay thước đo chân giá trị của
con người.
Ở màu xám, thành ngữ tiếng Anh và tiếng Việt có một nghĩa biểu
trưng tương đồng là chỉ sự thông minh, trí tuệ của con người. Các màu nâu,
hồng và tím không xuất hiện nghĩa biểu trưng tương đồng mà chỉ có nghĩa
biểu trưng khác biệt giữa hai ngôn ngữ. Sự tương đồng trong các nghĩa biểu
trưng này cho thấy màu sắc trên thế giới mang tính phổ quát, (nó chỉ khác
biệt ở các cộng đồng ngôn ngữ ở sự phân chia dải màu và số lượng khác
nhau về màu sắc quang phổ, đó là do đặc điểm tri nhận, cũng như đặc điểm
văn hóa, tư duy của cộng đồng bản ngữ quy định). Sự phổ quát về nhận thức
dải màu quang phổ này cũng chi phối phần nào đến sự phổ quát trong tri
nhận ngôn ngữ giữa các cộng đồng người khác nhau.
20
3.3.2. Những điểm dị biệt về ngữ nghĩa của các thành ngữ có từ chỉ
màu sắc trong tiếng Anh và tiếng Việt
Sự khác biệt cơ bản trong ngữ nghĩa của thành ngữ có từ chỉ màu
cơ bản trong tiếng Anh và tiếng Việt là số lượng nghĩa biểu trưng của
thành ngữ chứa từ chỉ màu giữa hai ngôn ngữ. Qua bảng 3.2 ta thấy, các
nghĩa biểu trưng của thành ngữ có từ chỉ màu cơ bản trong tiếng Anh
luôn nhiều hơn số nghĩa biểu trưng của thành ngữ chứa từ chỉ màu cơ
bản trong tiếng Việt, mặc dù tổng số lượng các thành ngữ có từ chỉ màu
cơ bản trong tiếng Việt nhiều hơn trong tiếng Anh (tiếng Việt: 339, tiếng
Anh: 295). Điều này được thể hiện ở tất cả các màu cơ bản, trừ màu
vàng, số lượng nghĩa biểu trưng có từ chỉ màu vàng trong thành ngữ
tiếng Việt cao hơn trong tiếng Anh.
Các nghĩa biểu trưng của thành ngữ có từ chỉ màu cơ bản trong hai
ngôn ngữ Anh – Việt ngoài một số nghĩa biểu trưng tương đồng như đã
chỉ ra thì còn chứa nhiều điểm dị biệt. Các nghĩa biểu trưng khác nhau
này có số lượng nhiều hơn các nghĩa tương đồng.
Với màu đen, thành ngữ tiếng Anh có từ chỉ màu đen mang những
hướng nghĩa biểu trưng khác biệt hoàn toàn với thành ngữ tiếng Việt. Với
màu đỏ, trừ 2 nghĩa biểu trưng tương đồng trong thành ngữ Anh – Việt đã
chỉ ra, có 11 hướng nghĩa biểu trưng trong thành ngữ có từ chỉ màu đỏ chỉ
xuất hiện trong tiếng Anh mà không xuất hiện trong tiếng Việt.
Với màu xanh (tiếng Việt) và green (tiếng Anh), thành ngữ có từ
chỉ màu xanh (green) trong tiếng Anh mang một số hướng nghĩa biểu
trưng khác biệt hoàn toàn với thành ngữ tiếng Việt.
Với màu vàng, đây là màu đặc biệt, xuất hiện với số lượng lớn trong
thành ngữ tiếng Việt (99 thành ngữ có từ chỉ màu vàng), và mang nhiều
nghĩa biểu trưng vô cùng phong phú, chủ yếu là tích cực, trong khi đó, ở
thành ngữ tiếng Anh, thành ngữ có từ chỉ màu vàng chỉ xuất hiện ở 10
thành ngữ và chủ yếu mang những hướng nghĩa biểu trưng tiêu cực.
Màu nâu, tím, hồng trong thành ngữ Anh – Việt chỉ xuất hiện nghĩa
biểu trưng dị biệt chứ không có nghĩa tương đồng.
Thành ngữ tiếng Anh chứa từ chỉ màu xám có các nghĩa biểu trưng
không xuất hiện trong thành ngữ tiếng Việt.
Có thể nhận thấy rằng, trong mối quan hệ giữa ngôn ngữ và thực
tại khách quan, ngôn ngữ được coi như một công cụ để cấu trúc hóa, mô
hình hóa thực tại khách quan. Cùng với một hiện tượng thiên nhiên như
hệ quang phổ mặt trời, cùng một khả năng cảm thụ thị giác ở mỗi cộng
đồng người, mỗi ngôn ngữ có một số lượng những từ chỉ màu sắc khác
nhau. Sự khác nhau này là do sự khác biệt về những điều kiện, những
nhu cầu về văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần của mỗi cộng đồng
người. Sự khác biệt trong xu hướng vận động hướng nghĩa biểu trưng
21
của thành ngữ chứa từ chỉ màu cơ bản trong tiếng Anh và tiếng Việt có
thể được lí giải dựa vào sự khác biệt về tư duy ngôn ngữ và văn hóa của
hai cộng đồng ngôn ngữ. Các nhà nghiên cứu ngôn ngữ cũng đã chỉ ra
rằng, đặc trưng văn hóa dân tộc được thể hiện rõ nét trong việc chọn ý
nghĩa biểu trưng của các màu sắc trong từng nền văn hóa. Ở các quốc gia
khác nhau, các nền văn hóa khác nhau, màu sắc cũng thể hiện những ý
nghĩa khác nhau.
Cộng đồng người Việt sống trong điều kiện nhiệt đới, gió mùa,
mưa nhiều, độ ẩm cao, với nghề nông là nghề chủ đạo, tạo nên những
với nhiều vùng đồng bằng châu thổ. Người Việt với kĩ thuật canh tác lạc
hậu nên sống phụ thuộc nhiều vào thiên nhiên và có xu hướng tôn trọng,
hòa hợp với thiên nhiên. Vì phụ thuộc nhiều vào thiên nhiên nên trong
thành ngữ chỉ màu sắc của người Việt, có nhiều thành ngữ mang hướng
nghĩa biểu trưng cho sự hi vọng về vận may, vận hạn hay chỉ điều kiện,
hoàn cảnh sống của con người (xuất hiện nhiều ở thành ngữ chứa từ chỉ
màu đỏ, đen); biểu trưng cho những khó khăn, cách trở, hay sự biến đổi
thăng trầm của cuộc đời (thành ngữ chứa từ chỉ màu xanh).
Ngược lại, văn hóa Anh mang đậm những nét đặc trưng của nền văn
hóa phương Tây trọng động, là một nền văn hóa đa sắc tộc do sự pha trộn
của các dân tộc có nguồn gốc khác nhau. Người Celts đến từ vùng Tây –
Bắc châu Âu, người Scotland với tổ tiên là người Pict từng sống ở Bắc
nước Anh, người Welsh sống ở Tây Nam nước Anh, người Irish ở bắc
Ireland và người Anh, tộc người đại diện cho nền văn hóa Anh. Xu hướng
tôn trọng tự do cá nhân, tự do chính trị và ngôn luận, tôn trọng quyền con
người đã ảnh hưởng đến đặc trưng tư duy ngôn ngữ của người Anh.
KẾT LUẬN
Qua nghiên cứu, đối chiếu các từ chỉ màu sắc trong tiếng Anh và
tiếng Việt, luận án rút ra một số kết luận như sau:
1. Về khả năng tạo từ của từ chỉ màu sắc cơ bản: Do những ảnh
hưởng và tác động của xã hội, lớp từ vựng trong mỗi ngôn ngữ luôn vận
động, sản sinh và tự làm giàu vốn từ vựng của ngôn ngữ mình để phục
vụ những nhu cầu về mặt diễn đạt mới, những nhu cầu giao tiếp mà xã
hội đặt ra. Xét về mặt loại hình, tiếng Anh thuộc ngôn ngữ biến hình còn
tiếng Việt thuộc loại hình ngôn ngữ đơn lập. Sự khác biệt này đã khiến
cho tiếng Anh và tiếng Việt có những phương thức tạo từ không giống
nhau. Để tạo nên các từ chỉ màu với các sắc thái khác nhau, tiếng Anh
ngoài phương thức ghép giống như tiếng Việt còn sử dụng phương thức
biến hình (thêm hậu tố), còn tiếng Việt sử dụng phương thức láy, tạo nên
những từ chỉ màu phái sinh với mức độ khu biệt về sắc và phạm vi biểu
vật riêng biệt.
22
2. Về mặt ngữ nghĩa: Dựa trên cơ sở phân tích các nét nghĩa, luận
án nghiên cứu từ nghĩa gốc đến nghĩa chuyển của các từ ngữ chỉ màu sắc
cơ bản trong tiếng Anh và tiếng Việt. Từ đó, đối chiếu những điểm
tương đồng và khác biệt của nhóm từ này, thể hiện trên các phương diện
số lượng nét nghĩa và xu hướng chuyển nghĩa. Trong 11 từ chỉ màu sắc
cơ bản trong từ điển tiếng Anh, từ chỉ màu đen mang nhiều nghĩa nhất (9
nghĩa), kế đến là từ chỉ màu xám (7 nghĩa), màu xanh lá cây (6 nghĩa),
thấp nhất là từ chỉ màu nâu và cam (2 nghĩa). Trong 9 từ chỉ màu sắc cơ
bản trong từ điển tiếng Việt, từ đen mang nhiều nét nghĩa nhất (6 nghĩa),
kế đến là từ trắng (5 nghĩa), ít nhất là từ xám và nâu (1 nghĩa). Theo
nguyên tắc, những từ chỉ màu cơ bản nào càng mang nhiều nét nghĩa thì
sự vận động nghĩa, chuyển nghĩa càng mạnh và theo xu hướng xa dần
với nghĩa gốc. Từ chỉ màu đen, xám và xanh lá cây trong tiếng Anh và
đen, trắng trong tiếng Việt có nét nghĩa đa dạng và xu hướng vận động
nghĩa mạnh nhất khi đi vào ngữ cảnh sử dụng.
3. Về nghĩa biểu trưng: Luận án khảo sát các thành ngữ có chứa từ
chỉ màu sắc cơ bản trong tiếng Anh và tiếng Việt và tìm được 295 thành
ngữ tiếng Anh, 339 thành ngữ tiếng Việt có chứa từ chỉ màu sắc cơ bản.
Kết quả khảo sát cho thấy các thành ngữ chứa từ chỉ màu cơ bản trắng,
đen, đỏ ở cả hai ngôn ngữ Anh và Việt đều có tần số xuất hiện cao nhất,
các thành ngữ chứa từ chỉ màu cơ bản nâu, tím, xám ở cả hai ngôn ngữ
đều có tần số xuất hiện thấp nhất, điều đó chứng tỏ việc tri nhận các
màu sắc cơ bản ở hai cộng đồng ngôn ngữ cũng có nhiều nét tương
đồng. Cả hai cộng đồng ngôn ngữ đều chú trọng và tập trung vào một số
màu cơ bản khi đưa vào các ngữ cảnh ngôn ngữ và văn hóa nhất định.
Xét về mặt ngữ nghĩa, nhóm thành ngữ chứa từ chỉ màu cơ bản trắng,
đen, đỏ ở cả hai ngôn ngữ Anh và Việt đều có số lượng nghĩa biểu trưng
cao nhất so với các thành ngữ chứa các màu cơ bản khác. Bản thân các
tính từ này có sự chuyển nghĩa, vận động nghĩa mạnh nhất và mang
nhiều hướng nghĩa biểu trưng phong phú, song thành ngữ chứa từ chỉ
màu cơ bản trong tiếng Anh vận động nghĩa mạnh hơn và mang hướng
nghĩa biểu trưng phong phú hơn trong tiếng Việt, điều này được thể
hiện ở tất cả các màu cơ bản.
4. Về khả năng ứng dụng: (i) khả năng ứng dụng vào thực tiễn
giảng dạy: luận án đề xuất có thể tiến hành theo một số hướng mở sau:
khả năng tạo từ và đặc điểm ngữ nghĩa của các từ chỉ màu sắc cơ bản đã
được chắt lọc và tổng hợp trong luận án này có thể được dùng làm tài
liệu cho giáo viên khi khai thác và tìm hiểu những nội dung ngữ nghĩa
phong phú và đa dạng của nhóm từ chỉ màu sắc cơ bản trong tiếng Anh và
tiếng Viêt để truyền đạt cho người học. Trong một chừng mực nhất định,
nhờ chỗ người dạy đã nắm vững được tri thức toàn diện, đa chiều về từ
23
ngữ chỉ màu sắc cơ bản, người dạy sẽ thuận lợi hơn trong việc giúp cho
người học xuyên suốt quá trình thụ đắc tiếng Anh, có thể cảm thụ và nhận
biết được nét đặc trưng trong cách sử dụng các từ chỉ màu sắc cơ bản, đặc
biệt là xét từ góc độ văn hóa và tư duy của hai dân tộc Anh- Việt; (ii) khả
năng ứng dụng vào việc biên soạn từ điển và giáo trình: Các nội dung
được phân tích-miêu tả trong luận án sẽ có thể là nguồn cung cấp thêm tư
liệu hữu ích cho việc biên soạn từ điển đối chiếu Anh-Việt/Việt-Anh,
hoặc có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho giảng viên khi viết giáo
trình giảng dạy tiếng Anh ở Việt Nam.
5. Về hướng nghiên cứu tiếp theo: Với yêu cầu hạn chế về số lượng
trang của luận án, chúng tôi chỉ có thể tập trung nghiên cứu được nghĩa
gốc, nghĩa phái sinh, nghĩa chuyển và nghĩa biểu trưng của từ ngữ chỉ
màu sắc cơ bản trong hai ngôn ngữ. Luận án cũng chưa đi vào nghiên
cứu sâu ngữ nghĩa của lớp từ chỉ màu phái sinh và lớp từ chỉ màu cụ thể
trong tiếng Anh và tiếng Việt. Chúng tôi mong muốn có được cơ hội tiếp
tục nghiên cứu thêm lớp từ này để có được bức tranh toàn cảnh về hệ
thống từ ngữ chỉ màu sắc trong hai ngôn ngữ Anh- Việt.
24
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CÓ NỘI DUNG
LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN