Professional Documents
Culture Documents
TỔNG HỢP CPQT - PHÂN ĐỊNH BIÊN GIỚI GIỮA VN - LÀO
TỔNG HỢP CPQT - PHÂN ĐỊNH BIÊN GIỚI GIỮA VN - LÀO
Vào ngày 5/9/1962, Việt Nam và Lào chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao.
Ðây là sự kiện lịch sử trọng đại, đánh dấu một trang mới trong quan hệ hai
nước, khẳng định sự gắn bó vận mệnh của hai dân tộc trong cuộc đấu tranh giải
phóng dân tộc, thống nhất đất nước. Nhằm đưa quan hệ đôi bên phát triển toàn
diện và đi vào chiều sâu, ngày 18/7/1977, Việt Nam-Lào đã ký Hiệp ước Hữu
nghị và Hợp tác. Hiệp ước đã trở thành cơ sở chính trị, pháp lý quan trọng, giúp
Việt Nam và Lào không ngừng củng cố và phát triển quan hệ song phương,
đồng thời xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của mỗi nước.
Năm 2022 là một năm quan trọng có ý nghĩa lịch sử đối với Đảng, Nhà nước và
nhân dân hai nước Lào - Việt Nam anh em, kỷ niệm 60 năm Ngày thiết lập quan
hệ ngoại giao (1962 - 2022) và 45 năm Ngày ký kết Hiệp ước Hữu nghị và Hợp
tác Lào - Việt Nam (1977 - 2022).
2.1.2. Mối quan hệ của hai nước tác động như thế nào đến quá trình phân
định biển giới?
Mối quan hệ hợp tác toàn diện giữa hai quốc gia đã giúp quá trình phân định
biên giới có những thuận lợi nhất định như:
- Mối quan hệ đối tác toàn diện: Mối quan hệ đối tác toàn diện giữa Việt
Nam và Lào đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc giải quyết các vấn đề
biên giới. Sự tin tưởng và tương trợ giữa hai nước đã tạo ra một môi
trường hợp tác tích cực trong quá trình đàm phán và thỏa thuận.
- Lịch sử hợp tác: Việt Nam và Lào đã có một quan hệ hợp tác chặt chẽ
từ lâu đời, không chỉ trong lĩnh vực chính trị mà còn trong kinh tế, xã
hội và văn hóa.
- Ý thức giữa hai bên: Cả Việt Nam và Lào đều có ý thức cao về việc duy
trì một biên giới ổn định và hòa bình để thúc đẩy hợp tác và phát triển
chung.
=> Mối quan hệ đối tác toàn diện giữa Việt Nam và Lào có ảnh hưởng lớn đến
quá trình phân định biên giới, đóng góp vào việc duy trì và tạo ra một biên
giới ổn định và hòa bình giữa hai quốc gia.
2.2.3. Sau 1978: Hoàn thiện đường biên giới Việt Nam - Lào
Thực hiện Hiệp ước hoạch định, từ năm 1978, hai bên đã tiến hành phân giới,
cắm mốc và cơ bản hoàn thành công tác này vào năm 1987. Tuy nhiên, do một
số nguyên nhân khách quan và chủ quan, biên giới giữa Việt Nam và Lào vẫn
còn tồn tại ba vấn đề và được giải quyết trong giai đoạn sau này.
3. Tác động
Năm 2015 hai bên đã chính thức ký Hiệp định thương mại biên giới Việt Nam -
Lào, hệ thống chợ biên giới tạo điều kiện cho giao thương giữa các địa phương
biên giới, mở ra những cơ hội hợp tác, khai thác thế mạnh của nhau.
Thứ nhất, hệ thống kết cấu hạ tầng tại khu vực cửa khẩu được quan tâm đầu tư,
công tác quản lý cửa khẩu được tăng cường. Trên toàn tuyến biên giới Việt
Nam - Lào có 8 cửa khẩu quốc tế, 7 cửa khẩu chính, 18 cửa khẩu phụ cùng 27
lối mở và 9 khu kinh tế cửa khẩu, góp phần tăng cường các hoạt động thương
mại, dịch vụ giữa hai nước Việt Nam - Lào, nhất là tại các tỉnh biên giới. Nhìn
chung, hoạt động mua bán, trao đổi hàng hóa qua biên giới Việt Nam - Lào chủ
yếu diễn ra qua đường cửa khẩu, hệ thống đường mòn, lối mở và nhất là tại các
chợ biên giới, kho hàng hóa, cửa hàng bán lẻ. Hai bên cũng đã tăng cường đầu
tư, nâng cấp các cơ sở kinh doanh trên toàn tuyến biên giới Việt Nam - Lào.
Thứ hai, hoạt động xúc tiến thương mại, đầu tư và quản lý cửa khẩu tiếp tục
được hai bên phối hợp triển khai hiệu quả. Trong giai đoạn 2018 - 2021, để thúc
đẩy thương mại Việt Nam - Lào, Việt Nam đã phê duyệt thực hiện 12 đề án về
xúc tiến thương mại thuộc Chương trình cấp quốc gia đối với thị trường Lào.
Thứ ba, công tác chống buôn lậu và gian lận thương mại được Chính phủ hai
nước quan tâm và quản lý triệt để, tạo niềm tin cho doanh nghiệp và người dân
hai nước yên tâm buôn bán, hợp tác làm ăn.
Thứ tư, về hoạt động đầu tư, chỉ tính 10 tỉnh biên giới của CHDCND Lào hiện
có 110 dự án đầu tư trực tiếp của doanh nghiệp Việt Nam, trị giá trên 2.7 tỷ
USD, các dự án này đóng góp vào nguồn thu ngân sách nhà nước, đồng thời
mang lại lợi ích cho kinh tế-xã hội, góp phần vào công cuộc giảm nghèo của
Lào.
Theo KPL (trang thông tấn xã Lào) cũng nhấn mạnh phối hợp nhanh chóng giữa
hai bên trong việc bổ sung, tôn tạo các cột mốc biên giới đã tạo điều kiện thuận
lợi cho thương mại song phương
*) Di sản
Đặc biệt trong lĩnh vực di sản văn hóa, Hai nước đã phối hợp trưng bày các chủ
đề triển lãm giới thiệu về lịch sử văn hóa, đất nước, con người và nhiều tư liệu
quý đã được hai bên hợp tác sưu tầm, nghiên cứu..
Hiện nay, có 3 di sản là múa Tân tung da dá, nói lý hát lý của dân tộc Cơ Tu,
nghề dệt thổ cẩm của 2 dân tộc Cơ Tu và Tà Ôi đã được công nhận là Di sản
văn hóa phi vật thể quốc gia.
Có thể nói sự giao thoa văn hóa Việt - Lào đang ngày càng góp thêm sắc màu
cho vườn hoa đầy hương sắc của cộng đồng các dân tộc Việt Nam và các bộ tộc
Lào, xứng với câu nói của Chủ tịch CHDCND Lào: “Núi có thể mòn, sông có
thể cạn, song tình nghĩa Lào - Việt sẽ vững bền mãi mãi hơn núi, hơn sông”.