You are on page 1of 13

ĐỀ 1

Cảm nhận 9 câu đầu đoạn trích “Đất Nước”:


Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa” mẹ thường hay kể.
Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc
Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Cái kèo, cái cột thành tên
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng
Đất Nước có từ ngày đó…
Bài viết
Tổ quốc là nguồn cảm hứng vô tận của thơ ca và nghệ thuật. Mỗi thi sĩ đều có những cảm nhận
rất riêng về Đất Nước, do vậy Đất Nước, Tổ quốc hiện lên muôn màu muôn vẻ. Nếu như các thi sĩ
cùng thời thường chọn điểm nhìn về Đất Nước bằng những hình ảnh kỳ vĩ, mỹ lệ hay cảm hứng về
lịch sử qua các triều đại thì Nguyễn Khoa Điềm lại chọn điểm nhìn gần gũi, thân thuộc, bình dị để
mô tả về Đất Nước. Tới với đoạn trích “Đất Nước” của Nguyễn Khoa Điềm ta như đứng trước
muôn màu văn hóa, truyền thống, phong tục tươi đẹp vô ngần của dân tộc.
Khác với các thi sĩ cùng thế hệ – thường tạo một khoảng cách khá xa để chiêm ngưỡng và ngợi
ca đất nước với các từ ngữ, hình ảnh kì vĩ, mỹ lệ có tính chất biểu tượng. Nguyễn Khoa Điềm đã
chọn điểm nhìn thân thiện để mô tả đất nước tự nhiên, bình dị nhưng ko kém phần thiêng liêng,
tươi đẹp. Hình ảnh đất nước hiện lên muôn màu muôn vẻ, sinh động lạ thường, lắng đọng trong
tâm tưởng ta qua những nét đẹp về phong tục tập quán, văn hóa, truyền thống mang đậm dấu ấn
con người Việt.
Với Nguyễn Khoa Điềm, Đất Nước ở ngay trong cuộc sống của mỗi gia đình chúng ta, từ câu
chuyện của mẹ, miếng trầu của bà, các phong tục tập quán thân thuộc cho tới tình nghĩa thủy
chung của cha mẹ, hạt gạo ta ăn hàng ngày, cái kèo, cái cột trong nhà,…tất cả những nhiều đó làm
cho Đất Nước trở nên thiêng liêng, quen thuộc và bình dị trong cuộc sống hàng ngày của con
người. Điều đó được thể hiện rõ qua 9 câu đầu của đoạn trích:
Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa” mẹ thường hay kể.
Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc
Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Cái kèo, cái cột thành tên
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng

1
Đất Nước có từ ngày đó…
Câu thơ mở đầu được viết theo thể câu khẳng định:
“Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi”
Với cách vào đầu rất tự nhiên ấy, nhà thơ khẳng định: Đất Nước đã có từ rất lâu, có trước khi ta
sinh ra vì thế khi ta lớn lên, ta đã thấy Đất Nước. Bốn chữ cuối của câu thơ vang lên đầy tự hào
“Đất Nước đã có rồi”. Đó là lời khẳng định chắc nịch về sự trường tồn của đất nước qua mấy ngàn
năm lịch sử dựng nước và giữ nước.
Hai câu thơ tiếp theo nhà thơ diễn tả cụ thể về sự ra đời của đất nước.
Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa” mẹ thường hay kể
Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Câu thơ thứ nhất, tác giả cho rằng Đất Nước có trong cái “ngày xửa ngày xưa”. Nghĩa là Đất
Nước có từ rất lâu đời, có tự ngày xưa. Đất Nước có từ trước khi những câu truyện cổ ra đời rồi khi
những câu truyện cổ có mặt trong đời sống tinh thần của ta, ta lại thấy Đất Nước hiện diện trong
truyện cổ. Đó là Đất Nước của một nền văn học dân gian đặc sắc với những câu chuyện cổ tích,
thần thoại, truyền thuyết. Chính những câu chuyện cổ và những bài hát ru thuở ta còn nằm nôi là
nguồn sữa ngọt lành chăm bẵm cho ta cái chân thiện mĩ và lớn lên ta biết yêu đất nước con người.
Về ý nghĩa của truyện cổ với đời sống tinh thần con người, nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ đã xúc động
mà viết nên:
Tôi yêu truyện cổ nước tôi
Vừa nhân hậu lại tuyệt vời sâu xa
Thương người rồi mới thương ta
Yêu nhau dù mấy cách xa cũng gần
(Truyện cổ nước mình)
Câu thơ thứ hai, nhà thơ diễn tả Đất Nước có trong “miếng trầu bây giờ bà ăn”. Gợi nhắc phong
tục ăn trầu của người Việt. Câu thơ gợi nhớ về câu truyện cổ tích “Sự tích trầu cau” được xem là
xưa nhất trong những câu truyện cổ. Tục ăn trầu cũng từ câu truyện này mà nên. Như vậy là thẩm
thấu vào trong miếng trầu dung dị ấy là 4000 năm phong tục, 4000 năm dân ta gìn giữ phong tục
ăn trầu. Miếng trầu là biểu tượng của tình yêu, vật chứng cho lứa đôi cũng là biểu tượng tâm linh
của người Việt. Từ phong tục ăn trầu, tục nhuộm răng đen cũng ra đời:
Những cô hàng xén răng đen
Cười như mùa thu tỏa nắng
(Hoàng Cầm)
Câu thơ thứ tư, nhà thơ diễn tả sự trưởng thành của Đất Nước. Đó là sự trưởng thành từ truyền
thống đánh giặc giữ nước qua hình tượng Thánh Gióng và cây tre:
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc
Câu thơ gợi nhắc cho ta nhớ đến truyền thuyết Thánh Gióng, chàng trai Phù Đổng Thiên Vương
nhổ tre làng Ngà đánh giặc, gợi lên vẻ đẹp khỏe khoắn của tuổi trẻ Việt Nam kiên cường, bất
khuất:

2
Ta như thuở xưa thần Phù Đổng
Vụt lớn lên đánh đuổi giặc Ân
Sức nhân dân khoẻ như ngựa sắt
Chí căm thù ta rèn thép thành roi
Lửa chiến đấu ta phun vào mặt
Lũ sát nhân cướp nước hại nòi
(Tố Hữu)
Truyền thống vẻ vang ấy đã theo suốt chặng đường dài của lịch sử dân tộc mãi đến hôm nay
trong thời đại chống Mỹ bao tấm gương tuổi trẻ đã anh dũng chiến đấu bảo vệ giống nòi. Phải
chăng, đó chính là vẻ đẹp của các chị, các anh đã tạc vào lịch sử Việt Nam dáng đứng kiêu hùng
bất khuất: Võ Thị Sáu, Trần Văn Ơn, Nguyễn Văn Trỗi… Vẻ đẹp ấy song hành với hình ảnh cây
tre Việt Nam. Cây tre hiền hậu trên mỗi làng quê. Nó như là sự đồng hiện những phẩm chất trong
cốt cách con người Việt Nam: thật thà chất phác, đôn hậu thuỷ chung, yêu chuộng hoà bình nhưng
cũng kiên cường bất khuất trong tranh đấu. Tre đứng thẳng hiên ngang bất khuất cùng chia lửa với
dân tộc “Một cây chông cũng tiến công giặc Mỹ”, bởi:
Nòi tre đâu chịu mọc cong
Chưa lên đã nhọn như chông lạ thường
Bốn câu thơ tiếp theo nhà thơ mang đến cho người đọc vẻ đẹp thuần phong mỹ tục của con
người Việt:
Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Cái kèo, cái cột thành tên
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng
Đó là vẻ đẹp giản dị của người phụ nữ Việt Nam. Không ai khác là những người mẹ với phong
tục “búi tóc sau đầu” (tóc cuộn thành búi sau gáy tạo cho người phụ nữ một vẻ đẹp nữ tính, thuần
hậu rất riêng). Nét đẹp ấy gơi nhớ ca dao:
Tóc ngang lưng vừa chừng em bới
Để chi dài cho rối lòng anh
Nguyễn Khoa Điềm tiếp tục gắn dòng suy tưởng đến con người ngàn đời cư trú, lao động, chiến
đấu trên mảnh đất Việt để giữ gìn tôn tạo mảnh đất thân yêu. Ở đó đạo lí ân nghĩa thủy chung đã
trở thành truyền thống ngàn đời của dân tộc: “Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn”. Ý
thơ được toát lên từ những câu ca dao đẹp:
Tay bưng đĩa muối chén gừng
Gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau
Thành ngữ “gừng cay muối mặn” được vận dụng một cách đặc sắc trong câu thơ nhẹ nhàng mà
thấm đượm biết bao ân tình. Nó gợi lên được ân nghĩa thủy chung ở đời: gừng càng già càng cay,
muối càng lâu năm càng mặn, con người sống với nhau lâu năm thì tình nghĩa càng đong đầy. Có

3
lẽ chính vì vậy mà Đất Nước còn ghi dấu ấn của cha của mẹ bằng Hòn trống mái, núi Vọng Phu,
Hòn Trống Mái… đi vào năm tháng.
Câu thơ “Cái kèo cái cột thành tên”, gợi nhắc cho người đọc nhớ đến tục làm nhà cổ của người
Việt. Đó là tục làm nhà sử dụng kèo cột giằng giữ vào nhau làm cho nhà vững chãi, bền chặt tránh
được mưa gió, thú dữ. Đó cũng là ngôi nhà tổ ấm cho mọi gia đình đoàn tụ bên nhau; siêng năng
tích góp mỡ màu dồn thành sự sống. Từ đó, tục đặt tên con “cái Kèo, cái Cột” cũng ra đời. Đâu chỉ
có những vẻ đẹp trên, dân tộc ta còn có truyền thống lao động cần cù, chịu thương chịu khó “Hạt
gạo phải một nắng hai sương xay giã dần sàng”.
Thành ngữ “Một nắng hai sương” gợi nên sự cần cù chăm chỉ của cha ông ta những ngày long
đong, lận đận trong đời sống nông nghiệp lạc hậu. Đó là truyền thống lao động cần cù, chịu thương
chịu khó. Các động từ “Xay – giã – dần – sàng” là quy trình sản xuất ra hạt gạo. Để làm ra hạt gạo
ta ăn hằng ngày, người nông dân phải trải qua bao nắng sương vất vả gieo cấy, xay giã, giần sàng.
Thấm vào trong hạt gạo bé nhỏ ấy là mồ hôi vị mặn nhọc nhằn của giai cấp nông dân. Bởi vậy, ăn
hạt gạo dẻo thơm ta phải nhớ công ơn người đã làm ra nó:
Ai ơi bưng bát cơm đầy
Dẻo thơm một hạt đắng cay muôn phần
Câu thơ cuối cùng khép lại một câu khẳng định với niềm tự hào:
Đất Nước có từ ngày đó
“Ngày đó” là ngày nào ta không rõ nhưng chắc chắn “ngày đó” là ngày ta có truyền thống, có
phong tục tập quán, có văn hóa mà có văn hóa nghĩa là có đất nước. Đúng như lời Bác dặn trước
lúc đi xa “Rằng muốn yêu tổ quốc mình, phải yêu những câu hát dân ca”. Dân ca, ca dao là đặc
trưng văn hóa của Việt Nam, muốn yêu Đất Nước trước hết phải yêu và quý trọng văn hóa nước
nhà. Bởi văn hóa chính là Đất Nước. Thật đáng yêu đáng quý, đáng tự hào biết bao lời thơ dung dị,
ngọt ngào của Nguyễn Khoa Điềm.
Thành công của đoạn thơ trên là nhờ vào việc vận dụng khéo léo chất liệu văn hóa dân gian như
phong tục ăn trầu, tục búi tóc, truyền thống đánh giặc, truyền thống nông nghiệp. Nhà thơ sáng tạo
thành ngữ dân gian, ca dao tục ngữ, thành ngữ… Điệp ngữ “Đất Nước” được nhắc lại nhiều lần.
Nhà thơ luôn viết hoa hai từ Đất Nước tạo nên sự thành kính, thiêng liêng… Tất cả làm nên một
đoạn thơ đậm đà không gian văn hóa người Việt. Ngôn ngữ mộc mạc, giản dị, lời thơ nhẹ nhàng
đúng giọng thủ thỉ tâm tình nhưng vẫn mang đậm hồn thơ triết lí. Đoạn thơ có thể được xem là
đoạn thơ hay nhất trong đoạn trích Đất Nước. Qua đoạn thơ, nhà thơ đã mang đến cho người đọc
vẻ đẹp của một Đất Nước giàu văn hóa cổ truyền. Đất Nước của truyền thống, phong tục tươi đẹp
mang đậm dấu ấn của tư tưởng Đất Nước của nhân dân.
Kết lại đoạn thơ, Nguyễn Khoa Điềm khẳng định: Tổ quốc hiện thời là “Tổ quốc có từ ngày đó”.
Có thể nói 9 câu thơ là những phát hiện mới mẻ của Nguyễn Khoa Điềm về Tổ quốc. Những câu
thơ ko tạo hình màu sắc nhưng lại có sức gợi liên tưởng mạnh mẽ, dẫn người đọc từ hiện nay trở
về với quá khứ, từ quá khứ tới hiện nay, từ cái tưởng như kì vĩ xa lạ nhưng lại rất thân thiện thân
quen, từ cái vô hình trở thành hữu hình… Tất cả đều toát lên một ý thức “Tổ quốc của Nhân dân”
thật rực rỡ, lôi cuốn và thuyết phục người đọc.

4
ĐỀ 2
Cảm nhận về đoạn thơ:
Trong anh và em hôm nay
Đều có một phần Đất Nước
Khi hai đứa cầm tay
Đất Nước trong chúng mình hài hòa nồng thắm
Khi chúng ta cầm tay mọi người
Đất nước vẹn tròn, to lớn
Mai này con ta lớn lên
Con sẽ mang đất nước đi xa
Đến những tháng ngày mơ mộng
Em ơi em Đất Nước là máu xương của mình
Phải biết gắn bó san sẻ
Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở
Làm nên Đất Nước muôn đời…
Bài viết
“Lật thuyền mới biết dân như nước” là cái nhìn về quan hệ giữa nhân dân và đất nước của nhà
chính trị kiệt xuất thế kỷ XV – Nguyễn Trãi. Càng về sau, quan niệm nhân dân làm ra đất nước và
đất nước này là đất nước của nhân dân càng thể hiện rõ. Đặc biệt là trong hai cuộc kháng chiến
chống ngoại xâm, tinh thần quật cường của toàn thể nhân dân trỗi dậy tạo thành một làn sóng dữ
dội thì niềm tin về nhân dân càng được củng cố. Một nhà thơ đồng thời cũng là người làm công tác
chính trị như Nguyễn Khoa Điềm hiểu rõ về vai trò của nhân dân đối với đất nước. Trong Trường
ca mặt đường khát vọng, ông đã định nghĩa Đất Nước theo góc nhìn của nhân dân. Đặc biệt là
chương Đất Nước sau khi lý giải nguồn cội, cắt nghĩa về Đất Nước, nhà thơ tiếp tục chỉ ra mối
quan hệ sâu sắc này đồng thời nhắn nhủ trách nhiệm của thế hệ trẻ đối với Đất Nước trong 13 câu
từ câu 30 đến câu 42.
Trong anh và em hôm nay
Đều có một phần Đất Nước
Khi hai đứa cầm tay
Đất Nước trong chúng mình hài hòa nồng thắm
Khi chúng ta cầm tay mọi người
Đất nước vẹn tròn, to lớn
Mai này con ta lớn lên
Con sẽ mang đất nước đi xa
Đến những tháng ngày mơ mộng
Em ơi em Đất Nước là máu xương của mình
Phải biết gắn bó san sẻ
5
Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở
Làm nên Đất Nước muôn đời…
Nguyễn Khoa Điềm là nhà thơ cùng thời với thế hệ nhà thơ trẻ trưởng thành trong giai đoạn
chống Mỹ ác liệt: Lê Anh Xuân, Phạm Tiến Duật, Lâm Thị Mỹ Dạ…Thơ Nguyễn Khoa Điềm có
cái nồng nàn, lãng mạn của người người nghệ sĩ, có cái sắc sảo của trí tuệ được tôi luyện từ đời
sống và có cả tính chính luận của người làm chính trị. Thế nên đọc thơ ông, ta luôn được dẫn
đường bằng cảm xúc dồi dào và vỡ oà khi khám phá một ý tưởng nào đó sâu sắc.
Thơ của Nguyễn Khoa Điềm chuyển mình trong sự vận động từ cái gần gũi, bình thường đến cái
lớn lao, trừu tượng. Nhưng dù là nói về vấn đề lớn lao, tầm vóc, nhà thơ vẫn lấy cái đời thường,
bình dị làm nền tảng. Ở một trường ca có dung lượng lớn, nói về vấn đề mang tính thời đại nhưng
Mặt đường khát vọng vẫn là khúc hát của nhân dân. Đặc biệt ở đoạn trích Đất Nước thuộc chương
5 trong trường ca có khả năng lay động con người về cả tình cảm lẫn lý trí khi nhà thơ nói đến mối
quan hệ bản chất giữa nhân dân và Đất Nước cũng như ý thức trách nhiệm mà mỗi người dân cần
phát huy.
Sử dụng lối hoá thân vào hai nhân vật “anh”, “em”, nhà thơ đã bộc lộ mối quan hệ hữu cơ giữa
người với người cũng như giữa con người với Đất Nước. Đó là một mối quan hệ gắn kết, san sẻ
không thể tách rời của cá thể và tổng thể.
Trong anh và em hôm nay
Đều có một phần Đất Nước
Khi hai đứa cầm tay
Đất Nước trong chúng mình hài hòa nồng thắm
Khi chúng ta cầm tay mọi người
Đất nước vẹn tròn, to lớn
Mai này con ta lớn lên
Con sẽ mang đất nước đi xa
Đến những tháng ngày mơ mộng
Đoạn thơ có cấu trúc vận động từ hôm nay đến tương lai, từ mỗi cá nhân đến tập thể, cộng đồng,
từ thế hệ người đi trước đến thế hệ mai sau. Trong lời đồng vọng ấy, nhà thơ tiếp tục đặt hình
tượng Đất Nước thành một phép điệp xuất hiện với tần suất cao, thêm vào đấy là hai chủ thể “anh”,
“em” có lúc tách rời có lúc hoà vào “chúng ta”, “hai đứa”, đã tạo nên điệp khúc dồn dập theo sự
tăng tiến của cảm xúc. Vì Đất Nước là ca dao, cổ tích là nơi hò hẹn, nơi anh đến trường, nơi em
tắm…nên Đất Nước đã hiện hữu trong cả anh và em.
Trong anh và em hôm nay
Đều có một phần Đất Nước
Hãy nhớ rằng Đất Nước không tồn tại trong “anh” hoặc trong “em” riêng lẻ mà chỉ có trong cả
“hai ta”, “chúng ta”. Và điều đáng nói hơn nữa là chúng ta không phải có hoàn toàn Đất Nước với
nguyên vẹn hình hài mà là “một phần”. Có phải nhà thơ muốn nói rằng Đất Nước đâu của riêng ai
và cũng chẳng ai có thể tự mình làm ra Đất Nước. Đất Nước là kết quả của sự hy sinh biết bao thế
hệ, là tình yêu, đoàn kết, niềm hy vọng của triệu con người.
6
Đoạn thơ nổi bật với điệp từ “khi” chỉ thời điểm không xác định ở thời gian tuyến tính nhưng rất
rõ ràng ở thời gian cảm tính. “Khi” chính là lúc “anh” và “em” cầm tay nhau và “khi” cũng là lúc
hai đứa cầm tay mọi người. Vậy “khi” còn có ý nghĩa như con đường kết nối quy luật tất yếu của
sự vận động này. Từ cá nhân “anh”và “em” kết hợp lại trong cái nắm tay đầy tình thương. Từ tình
thương cá nhân, “hai đứa” phát triển thành tình thương yêu, gắn kết với mọi người. Vòng tay lớn
mở rộng ra là lúc Đất Nước “vẹn tròn, to lớn”.
“Rừng núi dang tay nối lại biển xa
Ta đi vòng tay lớn mãi để nối sơn hà”
(Nối vòng tay lớn – Trịnh Công Sơn)
Cái tài tình của Nguyễn Khoa Điềm là từ hình ảnh “cầm tay” cụ thể nhà thơ đã khái quát về một
giai đoạn lịch sử hào hùng khi mà nhân dân cả nước cùng đồng lòng chung sức hướng hướng về
miền Nam máu thịt, cùng kề vai sát cánh để giành lấy hòa bình. Hình tượng thơ mang chiều sâu tư
tưởng, cái nắm tay đâu chỉ của chúng ta ở thời điểm hiện tại mà còn là sự kết nối giữa các thời đại
trên cùng mảnh đất quê hương. Để từ đó chiến thắng hôm nay còn mang âm vang kiêu hùng của
ông cha hô to dưới lá cờ Sát Thát.
“Anh” và “em”, “mọi người” đều là nhân dân. Nhân dân là người làm ra Đất Nước. Nhìn sâu
trong Đất Nước sẽ thấy dáng hình của nhân dân và nhìn sâu vào đời sống tâm thức của nhân dân
mình sẽ nhận ra hình hài non sông, gấm vóc. Từ sự khẳng định ấy, nhà thơ gửi vào “chúng ta”
những con người của thế hệ này một ước mơ, một tương lai hạnh phúc.
“Mai này con ta lớn lên
Con sẽ mang đất nước đi xa
Đến những tháng ngày mơ mộng”
Nhà thơ dùng cách nói quen thuộc của dân gian “mai này” cũng là cách nói tượng trưng cho
tương mai mai sau. Câu thơ với giọng điệu tha thiết của một niềm tin vững chắc vào thế hệ sau.
“Con ta” có thể hiểu là những đứa con được ra đời trong tình yêu giữa anh và em trong sự kỳ vọng
lớn lao của người đi trước. “Con ta” cũng là cách nói ẩn dụ cho niềm tin, khát vọng, cho những mơ
ước ngày một lớn hơn và cũng là đứa con tinh thần sinh ra từ tình yêu Đất Nước. Nếu hiểu như vậy
thì đoạn thơ muốn khẳng định một chân lý khi chúng ta rời khỏi vỏ bọc cá nhân để cùng nhau san
sẻ, yêu thương thì tình thương sẽ tạo nên sức mạnh ngày càng to lớn, ngày càng vững chãi. Chính
sức mạnh được ươm mầm từ tình yêu và trách nhiệm với Tổ quốc sẽ là động lực lớn lao để Đất
Nước mình vươn tầm thế giới. Thế nên “tháng ngày mơ mộng” là cách nói tượng trưng cho kỷ
nguyên độc lập, tự do, cho nguyện ước ông cha đã chờ đợi bấy lâu.
Để có được tháng ngày mơ mộng ấy, để Đất Nước ngày càng đi tới những vì sao thì mỗi chúng
ta cần có trách nhiệm gánh vác trên vai Đất Nước mình.
“Em ơi em Đất Nước là máu xương của mình
Phải biết gắn bó san sẻ
Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở
Làm nên Đất Nước muôn đời…”

7
Đi từ những định nghĩa về Đất Nước để từ đấy nhà thơ làm sống dậy hình ảnh Đất Nước
hiện hữu trong mỗi con người. Như tiềm thức như ký ức và cũng là như tâm hồn con người, Đất
Nước còn như một phần máu thịt không thể tách rời. “Em ơi em Đất Nước mà máu xương của
mình”. Cách so sánh này cụ thể hoá tình cảm mà nhân dân dành cho Đất Nước, cũng như tầm quan
trọng của Đất Nước trong sự sống nhân dân. Hình ảnh này làm ta nhớ đến nhà thơ Giang Nam đã
từng bộc lộ tình yêu quê hương bắt nguồn từ tình yêu đối với sự hy sinh của những người thân
thuộc.
“Nay yêu quê hương vì trong từng nắm đất
Có một phần xương thịt của em tôi”
Mảnh đất này, con đường này là dấu chân ông cha đi mở cõi, là mồ hôi đã rơi, máu đã chảy. Là
nơi chôn nhau cắt rốn cũng là nơi giữ lại nắm tro tàn còn sót của một đời lam lũ. “Máu xương” của
đồng bào mình đã đổ xuống nơi đây cũng là “máu xương” của thế hệ mình. Từ ý thức bảo vệ cuộc
sống, bảo vệ chính mình, “anh” và “em” sẽ có nghĩa vụ bảo vệ Đất Nước bằng những việc làm
thiết thực “gắn bó và san sẻ”, “hóa thân cho dáng hình xứ sở”.
“Phải biết” lặp lại hai lần ở đầu mỗi câu thơ như một mệnh lệnh xuất phát từ tình yêu Tổ
quốc từ tấm lòng nhiệt thành dành cho dân tộc mình. Lời hiệu triệu ấy sẽ hoà vào tiếng trống thúc
quân, tiếng súng lệnh cho một cuộc trỗi dậy có ý thức của thế hệ thanh niên thành thị. “Gắn bó, san
sẻ” là những điều chúng ta có thể thực hiện. Chỉ cần dẹp bỏ lớp vỏ bọc cá nhân mang tính tiểu tư
sản hướng đến cái ta, cái chung để mà đoàn kết, yêu thương sẽ nhìn ra sức mạnh vốn có của bản
thân. Cũng nhờ sự gắn bó và san sẻ ấy mới có được một Đất Nước vẹn tròn, mới có thể làm nên
sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc.
Đâu chỉ “gắn bó và san sẻ”, chúng ta còn phải biết “hoá thân”. Có thể nói quan niệm “hoá thân”
mà Nguyễn Khoa Điềm đề cập đến là thái độ sống tích cực được thừa hưởng từ truyền thống ngàn
đời của dân tộc Việt Nam. Ấy cũng là kết tinh trong tư tưởng Đất Nước của nhân dân. “Hoá thân”
là sự hy sinh của mỗi cá nhân vì cộng đồng vì lợi ích chung của Đất Nước. Sự “hoá thân” này dựa
trên tinh thần tự nguyện, trên tình yêu tha thiết với non sông và thái độ sống trách nhiệm, nung nấu
từ lý tưởng sống tuyệt vời. Cô gái mở đường trong những năm bom đạn đã đem tuổi thanh xuân
cứu con đường, mở lối xe ra trận. Dù cô đã hy sinh nhưng gương mặt cô đã hoá vào gương mặt
quê hương.
“Chuyện kể rằng: em, cô gái mở đường
Ðể cứu con đường đêm ấy khỏi bị thương
Cho đoàn xe kịp giờ ra trận
Em đã lấy tình yêu Tổ quốc của mình thắp lên ngọn lửa
Ðánh lạc hướng thù. Hứng lấy luồng bom…”
(Khoảng trời – hố bom- Lâm Thị Mỹ Dạ)
Và bao thế hệ con người cũng đã chọn hy sinh để được sống trọn vẹn với nhiệt huyết tuổi đôi
mươi, sống ngẩng đầu khi đã hoàn thành trọng trách mà lịch sử đặt trên vai.
Cụm từ “dáng hình xứ sở” giàu sức gợi tả về mọi miền Đất Nước ta. Nhà thơ đã dùng con chữ
để vẽ tấm bản đồ Đất Nước. Trên tấm bản đồ ấy Đất Nước ta có hình chữ S bắt đầu cho sức sống,

8
san sẻ, sinh sôi. Và trong tâm tưởng của mỗi con người, Đất Nước chính là tổng thể của hàng triệu
mảnh ghép nhân dân. Chính vì Đất Nước của chúng ta, vì chúng ta, do chúng ta nên Đất Nước sẽ
muôn đời, trường tồn như sự sống cứ sinh sôi, niềm hy vọng cứ ngày một lớn. Câu thơ đặc biệt khi
kết thúc bằng một dấu ba chấm như lời của nhà thơ còn chưa thể nói hết, tình cảm mà nhà thơ dành
cho Đất Nước mình cũng đâu dễ diễn tả bằng lời. Câu thơ tạo dư âm, dư ba trong tâm hồn mỗi
chúng ta. Khi mà đôi mắt chúng ta còn nhìn Đất Nước của hiện tại thì trái tim mình đã đập những
nhịp hy vọng về một Đất Nước ở tương lai, Đất Nước của “muôn đời”.
Đoạn thơ lấy cảm hứng từ cuộc tâm tình của “anh” và “em” cùng nhiều phép điệp và hình ảnh
tượng trưng giàu suy tưởng, Nguyễn Khoa Điềm đã đi từ tình cảm riêng tư thành tình yêu rộng lớn
đối với Đất Nước. Qua đó nhà thơ trải lòng với những suy ngẫm về trách nhiệm đối với Đất Nước
mình. Hơn hết, đoạn thơ đã bộc lộ được khát vọng và mơ ước mãnh liệt là được cống hiến, được
hoá thân để làm nên Đất Nước trường tồn. Tình cảm ấy, thái độ sống ấy mới đáng trân trọng.
Nhân dân và Đất Nước được đặt trong một vòng tròn ấn tượng. Vòng tròn ấy được nhà thơ nhắc
đến trong cái nắm tay trong tình yêu thương, đoàn kết. Vòng tròn không điểm đầu, điểm cuối cũng
như sự tồn tại hiển nhiên của Đất Nước trong tâm thức mỗi con người. Đoạn trích Đất Nước nói
chung và đoạn thơ này nói riêng đã nhắc nhở thế hệ hôm nay cần chìa tay ra với lòng chân thành
nhất để nối thêm vào những vòng tròn hy vọng.

9
ĐỀ 3
Cảm nhận 13 câu thơ giữa/;
“Đất là nơi anh đến trường
Nước là nơi em tắm
Đất Nước là nơi ta hò hẹn
Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm
Đất là nơi “con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc”
Nước là nơi “con cá ngư ông móng nước biển khơi”
Thời gian đằng đẵng
Không gian mênh mông
Đất Nước là nơi dân mình đoàn tụ
Đất là nơi Chim về
Nước là nơi Rồng ở
Lạc Long Quân và Âu Cơ
Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng”
Đoạn trích Đất Nước (Trường ca Mặt đường khát vọng – Nguyễn Khoa Điềm)
Bài viết
Vừa là một người làm nghệ thuật vừa công tác nhiều chức vụ quan trọng trong bộ máy nhà
nước, Nguyễn Khoa Điềm đã mang chất chính luận, nhiều suy tưởng của thời đại để dẫn đường
cho cảm xúc nồng nhiệt trữ tình. Thế nên những sáng tác của ông tuy không quá nhiều về số lượng
nhưng lại có sức nổi bật về chất lượng. Chính sự tinh tế, nhạy cảm cần có của một nhà thơ và chất
trí tuệ ẩn mình đã làm nên sức sống bền bỉ của thơ ông nói chung và trường ca Mặt đường khát
vọng nói riêng.
Trường ca Mặt đường khát vọng được nhà thơ viết trong một hoàn cảnh đặc biệt năm 1971.
Thời gian này cả nước đang gồng mình chống lại sự bắn phá từ mọi phía của Mỹ. Và trong giai
đoạn nước rút của cuộc chiến, chúng ta cần nhiều hơn tinh thần yêu nước, sức trẻ sục sôi để xuống
đường, tham gia vào các phong trào đấu tranh đòi quyền tự do, dân chủ. Chính lúc này tiếng nói
của giới văn nghệ sĩ cần hơn bao giờ hết và cũng vang vọng hơn bao giờ hết. Bài ca chim Chơ Rao
của Thu Bồn réo rắt về một vùng đất Tây Nguyên anh hùng. Đường tới thành phố của Hữu Thỉnh
âm vang trong đoàn quân giải phóng tiến đến ngày độc lập. Trường ca Mặt đường khát vọng của
Nguyễn Khoa Điềm đã gửi một lời chào, một tiếng nói báo động đến tuổi trẻ không thể cứ ngồi
yên mà phải sục sôi dũng khí, phải để tình yêu tổ quốc dẫn đường mà biết sống xa nhau khi tổ
quốc cần. Đoạn trích Đất Nước thuộc chương 5 của bản trường ca, mượn cuộc trò chuyện giữa
“anh” và “em” để bàn về những bình diện khác nhau có mặt của Đất Nước.
Khi đã luận giải về cội nguồn hình thành Đất Nước, nhà thơ cho chúng ta khám phá nhiều hơn
về định nghĩa Đất Nước mà trước hết Đất Nước được nhìn từ bình diện không gian địa lý.
“Đất là nơi anh đến trường
Nước là nơi em tắm
10
Đất Nước là nơi ta hò hẹn
Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm”
Nghệ thuật chiết tự vận dụng linh hoạt trong câu thơ mở đầu. Hai thành tố “Đất” và “Nước”
tách ra. Mỗi thành tố được cảm nhận ở nét riêng sau đó lại hợp thành “Đất Nước”. Cách chiết tự
này giúp ta có cái nhìn khái quát về nguồn cội, mọi gắn kết hiện tại cũng bắt đầu từ những yếu tố
đơn lẻ. Quy luật tất yếu của cuộc sống chính là kết hợp những gì hài hoà lại với nhau tạo thành một
thể thống nhất lâu dài. Đất là nơi anh học từng con chữ, tìm đến tương lai. Nước là nơi em để tuổi
thơ mình thấm đẫm giọt phù sa nặng trĩu. Hai câu thơ mở ra một khoảng trời bình yên nhiều mơ
mộng. Hoá ra Đất Nước có từ những điều giản dị, tưởng bình thường mà lại phi thường. Đất Nước
ngọt ngào qua ánh nhìn của đôi trẻ yêu nhau. Không khô khan, trừu tượng, tình yêu Đất Nước đặt
cạnh tình yêu đôi lứa để thấy rằng Đất Nước trong quan niệm của nhà thơ là nơi bắt đầu hạnh
phúc, là nơi ươm mầm sự sống.
Điệp ngữ “Đất Nước” đứng đầu mỗi câu thơ nhấn mạnh Đất Nước chính là cảm hứng khởi
nguồn cho mạch thơ dâng trào trên đầu ngọn bút. Mỗi lần xuất hiện là hình tượng Đất Nước thêm
một khám phá mới mẻ. “Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm”. Chất liệu
dân gian xuất hiện không ít trong đoạn thơ làm nền cho tư tưởng chủ đạo lấy nhân dân làm trung
tâm. Đất Nước này là Đất Nước của nhân dân. Chiếc khăn thương nhớ năm nào trong bài ca dao đã
biến hóa thành chiếc khăn mà “em” đã đánh rơi trong nỗi nhớ âm thầm. Vẫn chiếc khăn kỷ niệm
nhưng không phải để lau nước mắt u sầu cho một mối tình câm lặng mà để chứng kiến cái e ấp, dịu
dàng của người con gái đang hạnh phúc với tình yêu. Điều mà nhà thơ muốn nói là mối quan hệ
máu thịt giữa tình yêu đôi lứa với tình yêu quê hương, Đất Nước, giữa khái niệm về những điều
bình dị hằng ngày với định nghĩa về Đất Nước vẹn tròn.
Một lần nữa, thi nhân tách yếu tố “Đất Nước” thành “Đất” và “Nước” mà mỗi thành tố như thế
gắn với hai đối tượng thiêng liêng của Tổ quốc là rừng và biển.
“Đất là nơi “con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc”
Nước là nơi “con cá ngư ông móng nước biển khơi”
Câu hò Bình – Trị – Thiên vang lên dìu dặt nhớ đến những tâm tình sâu nặng của con người đất
kinh kì:
“Con chim phượng hoàng bay ngang hòn núi bạc
Con cá ngư ông móng nước biển khơi
Gặp nhau đây xin phân tỏ đôi lời
Kẻo mai kia con cá về sông Vịnh, con chim nọ đổi dời về non xanh”
Phải yêu quê hương và am hiểu mỗi ngõ ngách tâm hồn của người lao động thì nhà thơ mới có
thể chắt lọc cái tinh tế nhất của hình ảnh ca dao mà tái hiện ở diện mạo mới nhưng vẫn giữ được
linh hồn cũ. Con chim phượng hoàng là huyền thoại, hòn núi bạc là ước mơ sung túc, an bình cũng
là chốn trở về. Huyền thoại, ước mơ làm nên văn hoá dân gian, mà văn hoá dân gian làm nên Đất
Nước. Hình tượng con cá ngư ông sống trong hò và trường tồn trong tâm thức của dân gian về một
vị thánh thần phù trợ cho biển yên, sóng lặng, cho cuộc sống ấm no, hạnh phúc. Chim về rừng, cá
ra khơi, Đất Nước từ đây mở ra với hai hình ảnh to lớn, thiêng liêng. Kết hợp với những miền
không gian sinh hoạt, không gian lao động từ con đường đến trường, dòng sông, cây đa, bến nước
11
hẹn hò đến núi rừng đại ngàn và biển cả bao la, cái nhìn của nhà thơ đi từ cụ thể đến bao quát, từ
gần đến xa, không gian Đất Nước cũng liên tục mở rộng ra trước mắt.
Những câu thơ tiếp theo, Đất Nước được định nghĩa trên bình diện của thời gian lịch sử mà ở đó
có sự chuyển tiếp của bình diện không gian.
“Thời gian đằng đẵng
Không gian mênh mông”
Hai câu thơ giàu tính hình tượng với từ láy tượng hình “đằng đẵng”, “mênh mông” gắn với
phạm trù thời gian và không gian Đất Nước. Ở đó “đằng đẵng” vừa có nghĩa chiều dài thời gian vô
tận vừa tạo cảm giác cho người nghe về sự triền miên, xuyên suốt. “Mênh mông” tạo hình ảnh Đất
Nước rộng lớn không biên giới. Với cách nói này, nhà thơ khắc hoạ được quá trình phát triển của
Đất Nước vừa mở rộng ra theo chiều ngang, chiều cao địa lý vừa vươn mình theo chiều sâu của
thời gian. Câu thơ cũng là khát vọng bất tử, trường tồn của Đất Nước được vĩnh cửu hóa trong
dòng chảy của thời gian không gian.
Theo thời gian, nhà thơ cắt nghĩa Đất Nước trong bản chất gần gũi, đời thường và cả bản sắc
nồng nàn, bình dị mang trong ấy là hơi thở của huyền thoại dân gian.
“Đất Nước là nơi dân mình đoàn tụ
Đất là nơi Chim về
Nước là nơi Rồng ở
Lạc Long Quân và Âu Cơ
Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng”
Cũng phép điệp “Đất là”, “Nước là”, “Đất Nước là”, nhà thơ đã gắn kết muôn triệu tấm lòng
thành một tấm lòng. Hai tiếng “dân mình” nghe trìu mến như tiếng gọi thiêng liêng của những
người có chung một bào thai “đồng bào”. Thế nên Đất Nước chính là nơi dân mình “đoàn tụ”.
“Đoàn tụ” thông thường dùng để chỉ những người gặp gỡ lại nhau sau bao ngày xa cách. Nhưng
“đoàn tụ” mà nhà thơ muốn nói đến nghiêng về ý nghĩa sự hội tụ, gặp gỡ của nhân dân trên môt
không gian địa lý. Hiểu như thế mới thấy được tình đoàn kết, gắn bó, san sẻ của nhân dân ta khắp
mọi miền.
Hình ảnh “Chim” và “Rồng” cũng như “Đất Nước” được nhà thơ dùng lối viết hoa để từ một
danh từ chung cụ thể hóa thành tên riêng của hai nhân vật huyền thoại Lạc Long Quân, Âu Cơ.
Cách viết hoa này cũng được xem là một thủ pháp nghệ thuật làm nổi bật hình tượng được nói đến
và thái độ trân trọng của nhà thơ dành cho Đất Nước, cho tổ tiên, giống nòi mình. “Chim về” gợi
nhớ mẹ Âu Cơ đưa 50 con lên núi, “Rồng ở” ngụ ý chỉ Lạc Long Quân đem 50 con về biển cả.
Định nghĩa Đất Nước dựa trên truyền thuyết giải thích dòng máu “con rồng cháu tiên” không phải
là điều mới mẻ. Tuy nhiên cái thú vị của thơ Nguyễn Khoa Điềm là từ chỗ chất liệu cũ mà tìm ra
cách thể hiện mới. Lối chiết tự “Đất là”, “Nước là” kết hợp với phép liệt kê “nơi Chim về”, “nơi
Rồng ở” để chúng ta cùng hoài niệm về Long Quân, Âu Cơ và hình ảnh trăm con trong bọc trứng.
Cũng từ đất, Đất Nước ra đời theo bước chân của vị vua Hùng mở cõi.
Hàng loạt những hình ảnh thiêng liêng, cao quý “Chim”, “Rồng”, “Lạc Long Quân”, “Âu Cơ”,
“bọc trứng” trong khổ thơ cũng là hình ảnh đã đi sâu vào tiềm thức dân gian làm nên bản sắc dân

12
tộc. Bản sắc ấy không gì khác ngoài tình đoàn kết, yêu thương, san sẻ gói gọn trong hai tiềng gọi
“đồng bào”. Bản sắc Đất Nước còn nằm ở chim lạc, giống rồng tiên dựa trên sự lý giải của nhân
dân về cội nguồn Đất Nước. Vậy nói cách khác bản sắc Đất Nước đã hòa cùng bản sắc nhân dân.
Sự chuyển hóa lẫn nhau giữa dân và nước, giữa những điều bình thường, dung dị và những điều
thiêng liêng, cao quý sẽ hài hoà làm một. Đó không gì khác là nhân dân đã tạo ra Đất Nước.
Cũng mạch cảm xúc tâm tình giữa “anh” và “em” kết hợp hình ảnh thơ gần gũi, bình dị, giọng
điệu thơ giàu chất trữ tình, suy tưởng, Nguyễn Khoa Điềm đã có sự cắt nghĩa mới mẻ về Đất Nước
trên nhiều phương diện không gian, thời gian và cả trong tâm thức dân gian. Nhiều phép liệt kê,
chiết tự tạo sự đồng vọng nhiều chiều để từ đó đánh thức tình cảm và cả lý trí con người về một
Đất Nước vẹn toàn, to lớn, có cả chiều sâu văn hoá, chiều rộng không gian địa lý và chiều dài lịch
sử.
Câu thơ vang lên giữa tiếng đạn bom và tiếng động cơ phản lực mà vẫn giữ được sự trong trẻo
của tình yêu Đất Nước và niềm tự hào chất chứa qua mỗi dấu câu. Nguyễn Khoa Điềm đã thực sự
hoàn thành trọng trách của một người nghệ sĩ dùng ngòi bút của mình đấu tranh. Chẳng cường
điệu, phô trương, chẳng hô hào, kêu gọi, nhà thơ chọn con đường đánh vào tình cảm để sợi dây
rung động vang lên trong lòng thế hệ trẻ về một Đất Nước đã có trong tiềm thức. Chắc hẳn con
đường tình cảm này sẽ khơi gợi ý thức hệ và tác động mạnh mẽ đến tư tưởng của thanh niên, học
sinh trong giai đoạn ác liệt của cuộc chiến. Đâu chỉ thế, sợi dây rung cảm mà nhà thơ dày công kết
nối đã dẻo dai bám vào đời sống hôm nay, nhắc nhở thế hệ sau này trọng trách với Đất Nước mình
cũng là trách nhiệm gánh vác tương lai dân tộc.
“Khi đất nước Việt Nam mang hình tia chớp
Rạch chân trời một lối đến tương lai”
(Trích trường ca Đất nước hình tia chớp – Trần Mạnh Hảo)

13

You might also like